Thứ Hai, 19 tháng 9, 2016

Xuân Từ Chiều - Một tiếng lòng cảm thương cho những kiếp đàn bà

Xuân Từ Chiều - Một tiếng lòng 
cảm thương cho những kiếp đàn bà
Đọc xong cuốn tiểu thuyết "Xuân Từ Chiều" của Y Ban - NXB Phụ nữ - 2008, tôi thực sự xúc động và ám ảnh. Xúc động bởi cái tình chất chứa, khắc khoải, day dứt mà tác giả đã nén chặt trong những trang viết chật cứng những con chữ- hơn 250 trang viết không xuống dòng. Ám ảnh bởi số phận nghiệt ngã của ba nhân vật nữ Xuân, Từ, Chiều- những số phận đáng thương của kiếp đàn bà muôn thưở.
Bằng giọng văn trần thuật với lối kể tưng tửng như lạnh lùng, vô cảm, tác giả đã đưa người đọc về thăm một cái "chợ quê" với ba người phụ nữ "ba người đàn bà ấy không bán mà họ muốn mua, họ muốn mua cái nhân tình. Cái nhân tình thì không ai bán cả". Vậy rốt cuộc, trong cái chợ đời ấy, ba người đàn bà nọ đã mua cho mình được những gì và thân phận của họ ra sao? tác giả đã khéo léo giúp người đọc lần lần vén cái bức màn hiện thực để cùng chứng kiến những bi kịch cuộc đời của họ- Những bi kịch do xã hội và do chính gia đình họ đem lại cho họ.
Vâng! Câu chuyện về những người phụ nữ muôn thưở vẫn không vượt ra ngoài những nỗi lo toan rất đàn bà: cơm áo, chồng con, sinh đẻ, chuyện nhà, chuyện người.
Xuân, Từ, Chiều- ba thân phận đều có chung một mong muốn, một quan niệm giản dị về hạnh phúc nhưng bất hạnh lại ập đến với họ mỗi người một kiểu.
Xuân vốn là một cô nuôi dạy trẻ, con gái nhà quê, lấy chồng ra phố. Bằng sự chịu thương chịu khó của mình, cô đã phấn đấu trở thành trưởng khoa của một trường Đại học. Chồng của cô là Tuấn- một người có tài và yêu cô hết lòng. Những tưởng hạnh phúc sẽ mỉm cười chào đón họ nhưng thật trớ trêu thay, số phận họ đã bị tạo hóa trêu ngươi, ông trời cay nghiệt không cho tình yêu đó được đơm hoa kết trái.
Gia đình Xuân nhìn bề ngoài thì ngỡ như hạnh phúc tràn đầy, viên mãn nhưng nội tình lại lắm nỗi éo le, ngang trái. Người mang lại nỗi bất hạnh cho Xuân không phải là ai khác mà chính là Tuấn- người chồng hết lòng thương yêu cô và cũng là người mà cô yêu thương hết mực.
Sự không trung thực, giấu giếm sự thật của Tuấn đã đem lại bao nỗi khổ đau, bất hạnh cho người vợ hiền thục của mình. Xuân đã phải chịu đựng bao lời chì chiết, bóng gió của bố mẹ chồng, rằng: "Thôi bà đừng có ước này, ước nọ cứ nói trắng phớ ra cho thiên hạ biết là nhà này vô phúc cưới phải con vợ như vậy", rằng:"Cái chính là đàn bà phải biết đẻ con. Đàn bà không biết đẻ thì vứt đi". Đã bao lần Xuân phải tủi nhục nghe những điều ong tiếng ve: "mẹ chồng cô Xuân đấm ngực thùm thụp tuyên bố với con trai nếu không vâng lời cha mẹ đi lấy vợ khác thì bà sẽ cắn lưỡi mà chết".
Vì sự không trung thực của Tuấn cùng với cái đạo mà anh ban ra: "Vật linh thiêng là để làm ra con người chứ không phải là vật để chơi nên không bao giờ được mó vào nó"khiến cho cô phải kìm nén cảm xúc của mình để rồi cô phải đeo đẳng nỗi hoài nghi suốt một đời làm vợ. nguồn gốc bi kịch được giấu kín cho tới lúc Tuấn chết. Khi đau đớn giã biệt chồng, Xuân đã phát hiện cái vật mà Tuấn cho là thiêng liêng ấy là đồ giả. Xuân đau đớn bàng hoàng, xót xa tự hỏi: tại sao đến bây giờ mình mới biết được sự thật đó? Phải chăng Xuân đang sống trong một thời kỳ mà xã hội dạy dỗ rằng: kẻ nào biết che giấu cảm xúc thật của mình thì kẻ đó là anh hùng. Còn người nào đói lại gào lên tôi đói, yêu lại gào lên tôi yêu... thì là những kẻ hèn nhát, là những kẻ bỏ đi. Vì vậy bao nhiêu oan trái của việc không có con một mình Xuân gánh chịu. "Bây giờ trong bóng đêm bao phủ, không còn chồng nữa thì cứ khóc đi cho vợi nỗi oan ức, tủi thân của người đàn bà. Xuân tự nhủ như vậy và khóc tu lên". Nước mắt khổ đau, oan ức của Xuân hay chính là nước mắt của tác giả khóc thương cho nhân vật đàn bà bất hạnh của mình? Còn gì đau đớn hơn khi người đàn bà bị tước đi cái quyền được làm vợ, làm mẹ? Mấu chốt bi kịch cuộc đời Xuân chính là sự không trung thực của người thân trong gia đình đem lại. Giá như Tuấn cứ thành thật chia sẻ với vợ nỗi bất hạnh của mình trong chiến tranh thì đâu đến nông nỗi này! Có lẽ vì quá yêu thương vợ và lo sợ tình cảm vợ chồng rạn nứt nên tuấn cố tình giấu giếm. Xuân là nạn nhân của sự ích kỷ trong tình cảm đời sống vợ chồng. Rõ ràng có một nghịch lý trong xã hội một thời: người chân chính, người có đạo đức là người không dám và không được nói sự thật. Vậy ra ở đời có những thứ tình yêu khiến cho con người ta không sống nổi!
Với cách kể đan xen để cho các nhân vật đồng hiện, tác giả đã đan cài rất có duyên các mối quan hệ giữa các nhân vật theo trật tự thời gian. Trong cái chợ đời ấy bên cạnh nhân vật Xuân, nhân vật Chiều xuất hiện thật đậm nét để lại sự ám ảnh xót xa trong lòng người đọc. Chiều là người đàn bà trực Bình, trực Bình là nước ở hồ tiên, là lẫm là kho chứa bạc tiền, gái giỏi tề gia ích phu tử. Chị thông minh, giỏi giang, vẫn thường giải Toán giúp chồng để anh từng bước học hành và leo dần lên những nấc thang danh vọng. Trong cuộc sống gia đình, Chiều là người phụ nữ giầu đức hy sinh, giầu tình thương. Tình thương nơi chị như một thứ hương hoa thuần khiết luôn lan tỏa về phía người khác.
Chiều thương chồng, yêu con, tận tụy, chi chút, hy sinh tất cả cho chồng con mong sao có một gia đình hạnh phúc. Nhưng bất hạnh thay, hạnh phúc gia đình quay lưng lại với chị. Giỏi giang, tảo tần nhưng khổ nỗi chị nói ngọng, quê mùa nên khi hết cảnh bần hàn chị trở nên lạc lõng cô đơn trong chính nơi biệt thự sang trọng của mình. Chị đã bị lạc lối ngay trong ngôi nhà của chính mình, giữa những con người mình rất mực yêu thương khi chồng con phụ bạc, không cần đến chị nữa.
Thật đau lòng khi chứng kiến cảnh Chiều- vợ của ông Tổng giám đốc một doanh nghiệp lớn mà khi muốn cho con của bạn chút tiền mua hộp sữa, chị phải mở tủ lạnh moi cái gói ở trên ngăn đá, giở ra trong đó có những tờ tiền lẻ. Chị đếm và xếp vào thành hai mươi ngàn đưa cho bạn: "Tiền này cô đi chợ dôi ra ấy mà. Cô chẳng tiêu gì nên cũng không xin chú tiền". Rõ khổ, nhà là nhà của mình, chồng là chồng của mình, của chồng công vợ ấy vậy mà Chiều không hề được nắm giữ kinh tế, không có chút quyền hành gì trong gia đình của mình. Thân phận chị không được bằng đứa con ở bởi chính Chiện- chồng chị đã khẳng định: "Nuôi người làm việc nhà bây giờ tốn hơn nuôi bà đấy". Và chính chị, khi tâm sự với Xuân cũng đã từng than thở: "Chị cứ như bị giam lỏng ấy. Chả được đi đâu sất!"
Trong cái ngôi biệt thự sang trọng ấy, Chiều như một cái bóng âm thầm trong sự ghẻ lạnh của chồng con. Đến cả cái việc chơi với cháu Chiều cũng không có quyền vì chồng con chị sợ nó "học theo giọng nói của bà thì quê mùa", đến cả nấu cơm Chiều cũng không được nấu vì chồng con chị bảo "nấu kiểu quê không ăn được".
Cả ngày, Chiều sống lủi thủi, không được một câu hỏi thăm của chồng, của con trai, con dâu, về đến nhà là “ai về buồng nấy’’.
Lạc lõng, cô đơn, buồn tủi. Rồi một ngày kia, Chiều đã thắt cổ tự tử- chị  tìm đến cái chết để tự giải thoát cho cuộc đời tủi cực của mình.
Bên thi hài của Chiều, một người đàn ông khóc ồ ồ, vừa khóc vừa nói: “Chị ơi, em còn nhớ như in những bữa cơm em được ăn ở nhà chị, cái lúc thiếu đói ấy mà bữa cơm nhà chị lúc nào cũng tươm tất cho chồng, cho con, cho cả bạn của chồng, chị lúc nào cùng vui vẻ thế mà sao giờ lại đến nông nỗi này hả chị, chị sống khôn chết thiêng chị bắt chết cái lũ ăn ở bạc ác ấy đi’’...
Tiếng khóc gào xé ruột xé lòng  người đọc hay là tiếng lòng xót thương, phẫn uất của tác giả đang lặng thầm nhỏ xuống bên thi hài người đàn bà bạc mệnh? Phải hoá thân vào nhân vật để cùng đau, cùng buồn với họ thì tác giả mới viết nên được những trang văn có hồn vía như vậy!
Cái chết của Chiều, cái chết của một con người cô đơn được rất đông người viếng. Người ta đến viếng vì người sống- những kẻ lạnh lòng trước một tâm hồn đã từng ấm nóng thương chồng, yêu con. Giá như Chiều biết sống cho mình một chút, giá như Chiều đừng quá tận tuỵ, hy sinh tất cả cho chồng con, giá như Chiện- chồng của Chiều đừng quên rằng người vợ ấy đã từng miệt mài giải toán cho chồng để giúp anh từng bước hoàn thành việc học hành, người vợ ấy đã  từng tảo tần, chi chút, chăm lo cho bố con anh trong từng bữa cơm, giấc ngủ, người vợ ấy chính là nền móng vững chắc để anh leo lên từng nấc thang danh vọng, giá như Chiện đừng ghẻ lạnh, phụ bạc đến phũ phàng như thế thì Chiều đâu phải chịu một thảm cảnh, một sự kết thúc bi đát đến như vậy? Ta như đọc được nỗi đau trong trái tim  của Y Ban- nhà văn của những nỗi đau rất đàn bà. Hãy lắng nghe lời tâm sự của chị "Quả là tôi không tìm được cách nào để cho nhân vật Chiều khỏi chết. Bảo Chiều đói khổ ư, tôi sẽ mang gạo tiền đến cho Chiều. Bảo Chiều bị chồng con ngược đãi ư, tôi sẽ gọi những nhà chức trách đến giúp...Chiều chỉ cô đơn trong chính ngôi nhà của mình, giữa những người mình yêu thương. Giá như Chiều không còn yêu họ. Tôi sẽ cứu Chiều ra khỏi căn nhà ấy.”
Qua cái chết của Chiều, tác giả đã gióng lên một tiếng chuôngcảnh tỉnh mọi người: Trong cái xã hội buổi giao thời này có những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam như tình nghĩa vợ chồng, cha con đang có nguy cơ rạn nứt, đổ vỡ!
Như vậy, nếu như Xuân bất hạnh vì tình yêu thái quá, vì sự không trung thực của một mẫu người chồng (như Tuấn) thì ngược lại, Chiều bất hạnh vì sự ghẻ lạnh, phụ bạc phũ phàng của một mẫu người chồng (như Chiện). Cả hai người phụ nữ ấy đều tận tuỵ hi sinh, nhẫn nhục chịu đựng, luôn phấn đấu để có một gia đình hạnh phúc nhưng kết cục họ cùng chung một số phận bất hạnh, oan nghiệt từ chính người chồng, người thân yêu nhất của  họ mang lại.
Người đàn bà thứ ba xuất hiện trong cái chợ đời ấy là Từ. Nhân vật này có cuộc sống gia đình tạm gọi là hạnh phúc. Trong gian nhà nhỏ ấy luôn đầy ắp tình thân ái của các thành viên trong gia đình: bố mẹ chồng, nàng dâu, chồng và con. Những tưởng như thế là Từ được sống một cuộc đời tròn trịa, êm ả. Nhưng không, cũng như Xuân và Chiều, cô cũng không thoát ra ngoài sự nổi nênh của kiếp đàn bà.
Từ tốt nghiệp hai trường đại học, năng lực có thừa, nhưng không xin được việc làm. Cuộc sống xô đẩy, cô đành phải trở thành công chức vỉa hè, bán xôi chim.
Xoay xở, vật lộn, bươn chải với cơm áo, chật vật giằng co níu giữ tình yêu và gia đình nhỏ bé của mình, Từ nếm trải mọi sóng gió đời thường của người phụ nữ, cô đã bao phen dở khóc, dở cười trong cuộc mưu sinh. Cuối cùng, Từ cũng xin được vào làm việc ở một trung tâm nghiên cứu xã hội. Cô đã miệt mài, nghiên cứu làm đề tài: về đám đông, về sự vô cảm, về xã hội xe máy...Nhưng khốn khổ thay, đề tài nào của cô cũng không được cấp trên xét duyệt, thông qua.
Không chỉ khổ do sự xô đẩy của cuộc sống đời thường mà Từ còn khổ bởi cô luôn khát khao đem sự hiểu biết, tài năng của mình cống hiến cho xã hội nhưng không được xã hội cho phép và chấp nhận. Còn gì khổ tâm hơn, bất công hơn khi tài năng của con người bị xã hội kìm hãm và trở nên ế ẩm!
Mệt mỏi, thất vọng Từ đã bàn với Xuân về quê mua đất trồng cam... Nhưng bất chợt, Từ lại nghĩ ra một đề tài mới: Cam. Cô định bụng sẽ viết  đề cương và cô tin rằng đề cương này của mình sẽ được thông qua.
Vâng, trong cái xã hội đầy cạm bẫy mà Từ đang sống, có lẽ chỉ có đề tài "Cam” là hay hơn cả mà thôi. Thật là khốn khổ cho số phận của một trí thức. Tài năng đã bị xã hội lãng quên, vùi dập!
Ba mảnh đời, ba số phận, ba bi kịch của ba người phụ nữ đã được tác giả khéo léo đan cài trong cách viết liền một mạch không chương hồi, không xuống dòng cùng với sự sắc sảo trong cách dẫn dắt để lồng chuyện nhân sinh lớn lao vào những câu chuyện vun vặt kiểu ‘‘Ngồi lê đôi mách” của đàn  bà”. Ngôn ngữ bình dân, mộc mạc, không trau chuốt, gọt đẽo nhưng được đặt đúng chỗ nên nó có sức mạnh làm nên bão giông, khuấy lên sóng gió và có sức công phá lớn để rồi ‘‘Chân lý được khám phá, những cạm bẫy cuộc sống được cảnh tỉnh, từ đó người đọc sẽ tự suy nghĩ, cảm nhận cuộc sống”. Với nhiều góc độ khác nhau. Sự việc nối tiếp sự việc, ‘‘Các mâu thuẫn xung đột không lớn, không lắt léo ly kỳ mà hút hồn người đọc”. Sự mới lạ đến táo bạo trong cách viết cứ ngỡ như vớ đâu viết đấy, thấy gì kể nấy, triền miên trong những con chữ... nhưng thực chất tác giả đã rất chủ động bày đặt một trận đồ bát quái rất tài tình đã thực sự chinh phục người đọc. Đến với tác phẩm, ta xót xa cho thân phận của ba người phụ nữ: Xuân, Từ, Chiều- ba người đàn bà giỏi giang nhưng đều chung số phận bất hạnh do gia đình và xã hội đem lại cho họ. Phải chăng câu thơ "Đau đớn thay phận đàn bà..." của Nguyễn Du vẫn còn nguyên giá trị?
Gấp trang sách lại rồi, giữa thanh thiên bạch nhật mà sao ta như nghe đâu đây tiếng kêu cứu thảm thương của những kiếp đàn bà muôn thuở vọng về hay đó chính là tiếng lòng khắc khoải, day dứt, cảm thương khôn nguôi cho kiếp đàn bà của tác giả Xuân Từ Chiều?. 
Tạ Thị Sự
Theo http://vannghenamdinh.com.vn/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...