Tuổi học trò của tôi
Phần 1: Trước tuổi mười chín
CHƯƠNG I: 1956 - 1969
Thân tặng Nguyễn Giỏ, Nguyễn Phụng, Nguyễn Lập, Nguyễn Nu,
Nguyễn Chữ, Đoàn Như Chỉnh, Lê Hòa, Trần Trữ, Nguyễn Ngự, Nguyễn Lương Trí, Dương Quang Gạt...
1.
Tôi là Trần Xuân An, dĩ nhiên rồi. Và cho dù đây là hồi ký,
tùy bút tự thuật hay tự truyện, tôi cũng viết về tôi một cách chân thực. Quả thật
là thế. Nhưng tôi cảm thấy cần tách mình ra khỏi chính mình, như một khách thể.
Vì vậy, tôi để nhân vật khách thể ở ngôi thứ ba trong bảng đại từ nhân xưng, với
tên họ là bút hiệu ít dùng của tôi: Trần Nguyễn Phan, gồm hai họ nội (Trần Xuân
và Nguyễn Văn) của ba tôi cùng với họ Phan của mẹ tôi.
Câu chuyện bắt đầu từ sự hiện hữu ban sơ của tôi trên cõi đời
này với một câu hỏi...
"Mạ ơi, con được mạ sinh ra vào ngày mô, giờ mô, hở mạ?". Một
vài lần trong thời thơ ấu và niên thiếu, Phan đã hỏi mẹ như thế. Phan đã được mẹ
trả lời với ngữ điệu bình thản của lòng tự tin - chắc chắn mẹ không thể nhớ lầm.
Đã nhiều lần Phan đọc thấy ngày tháng năm sinh trên giấy khai sinh của mình,
nhiều lần điền vào phần lý lịch sơ lược ở mặt thứ tư của những tấm bìa đôi học
bạ cũng của mình, nhưng phải đến năm Phan mười sáu tuổi, Phan mới tình cờ phát
hiện ra cuốn sổ tay nhỏ bé chỉ bằng hộp diêm, nhưng mỏng hơn, của ba Phan,
trong đó có ghi rõ ngày giờ Phan lọt lòng mẹ: "Sinh vào giờ chợ đông
(giờ Thìn), buổi sáng ngày mùng 8 tháng 10 năm Bính Thân, tức ngày 10 tháng 11
năm 1956. Tên tạm đặt là Dụng". Lúc đó, Phan vẫn không thể không có chút bâng
khuâng trong niềm tin đinh ninh vào ngày giờ mình được sinh ra đời, với cái tên
ban đầu. Đồng thời cũng cảm thấy ngộ nghĩnh thật! Chắc hẳn do Phan có một người
anh cùng mẹ đã được ba mẹ đặt tên là một từ thường đứng trước từ Dụng để thành
từ ghép! Tất nhiên, từ ấy không phải là Vô!
Mặc dù không quan tâm gì đến tử vi đẩu số ("vì sao"
không là ngôi sao chiếu mệnh, mà là "tại sao"), cũng chẳng mấy khi
làm tiệc mừng sinh nhật (chỉ dăm ba lần có thêm một ngón ăn ngon trong bữa ăn
gia đình), nhưng mãi đến sau này, Phan vẫn rất thương cái lúc, cái ngày mình được
chào đời. Đó là buổi sáng một ngày gần cuối thượng tuần tháng sơ đông - đầu mùa
đông! Thậm chí, Phan còn tỉ mẩn tính thử xem, ngày Phan thực sự hiện hữu trong
lòng mẹ dưới dạng một hạt trứng hồng đã được bẩm thụ, một phôi thai. Và Phan cảm
thấy vui, vì cộng thêm chín tháng mười ngày trong lòng mẹ, thì ngày Phan bắt đầu
tượng hình là cuối tháng giêng, tháng đầu xuân. Hóa ra, cả "tuổi mụ" (tuổi
trong bụng mẹ), tuổi ta (tuổi nguyệt lịch) cùng với ngày chào đời theo tuổi tây
(tuổi dương lịch) của Phan đều nằm trong năm Bính Thân hay 1956. Đây là một điều
kể ra cũng thú vị. Phan cũng mỉm cười tự trách mình đa đoan, vì chẳng mấy ai tỉ
mẩn như vậy, nên cách tính tuổi nói chung là chỉ tính theo công thức chung mà
thôi: tuổi ta, tính cả năm sinh, tuổi tây, lại không tính năm sinh, do đó đều
chênh nhau một tuổi tất, bất kể sinh vào tháng nào (trừ những người được sinh
vào khoảng cuối tháng chạp nguyệt lịch, lúc năm mới dương lịch đã đến nhưng năm
nguyệt lịch song hành chưa hết, phải chịu chênh đến hai tuổi).
Cũng theo lời mẹ kể, và cũng đúng như trong giấy khai sinh, học
bạ: Phan được ra đời tại Kinh thành nội (nói tắt là Thành Nội), Huế. Lại cũng
đúng như trong cuốn sổ tay nhỏ xíu của ba, nhưng chi tiết hơn: "Sinh
tại Nhà thương Bác sĩ Phước, gần cửa Đông Ba, Kinh thành nội Huế". Vì thế,
Huế đối với Phan cũng vô vàn thương mến. Nơi mình cất tiếng khóc chào đời, đáng
nhớ lắm chứ! Nhưng đó chỉ là sinh quán (quê sinh). Nguyên quán hay chánh quán
(quê gốc) của Phan vẫn là Quảng Trị.
Tuy nhiên, chuyện của Trần Nguyễn Phan (họ tên chính thức
trong hồ sơ hộ tịch là Trần Xuân An, như đã thưa ngỏ) được ông thân sinh ghi bằng
thủ bút trong sổ tay của ông chỉ có thế. Giấy khai sinh có lưu tại toà án (theo
thủ tục hồi đó) vẫn còn. Thẻ căn cước đầu đời, làm năm mười lăm tuổi, vẫn còn.
Học bạ của Phan thời tiểu học có những lời phê rất đẹp, với bằng khen "danh
dự toàn trường" năm cuối cấp lại bị cháy vì nhà cháy, do chiến tranh.
Học bạ sáu năm trung học cũng rất đẹp (trừ một vài cột điểm năm lớp mười hai, tấm
học bạ thứ bảy) thì chính Phan lại đốt mất, trong một cơn giận... phẫn chí! May
là cũng còn bằng đại học với hạng khá (thuở đó khoa ngữ văn chắc không có hạng
giỏi). Bằng đại học sở dĩ vẫn còn là do được chính thức cấp sau mười bốn năm, kể
từ ngày tốt nghiệp (thời đi dạy học chỉ dùng "chứng chỉ mãn khoá đào
tạo giáo viên cấp 3 hệ bốn năm")! Có lẽ Trường Đại học Sư phạm Huế và Sở
Giáo dục Lâm Đồng vẫn còn lưu hồ sơ của Phan. Mấy năm đi dạy học, hầu hết đều
là lao động tiên tiến và lao động tiên tiến xuất sắc, kèm với tiền thưởng là
hai đồng hoặc hơn hai đồng mỗi năm, giá khoảng bốn ly cà phê pha bắp rang hồi
đó! Hồ sơ lí lịch thường trú thì chắc chắn còn được lưu rồi. Và các giấy tờ
khác nữa, như những giấy chủ quyền nhà và xe máy, giấy bản quyền tác phẩm. Tất
thảy đều ghi đúng ngày tháng năm sinh, nơi sinh, nguyên quán với họ tên chính
thức của Phan. Giấy tờ nào có ảnh thì cũng khuôn mặt Phan (Trần Xuân An) rành
rành trong ảnh.
Như vậy, cũng như rất nhiều người khác. Ngoài ra, chuyện của
Phan hầu hết chỉ là những gì còn lưu lại trong trí nhớ của Phan, do chính Phan
viết ra.
2.
Trí nhớ thời thơ ấu của Phan còn lưu giữ lại được những gì?
Có thể như nhiều người khác, Phan nhớ những điều do người lớn kể lại, chẳng hạn
như hồi nhỏ, chừng một vài tuổi, Phan thế này, Phan thế nọ. Nhưng liệu loại kí ức
Phan tự ghi nhận được ở độ tuổi quá bé ấy có nhiều không? Hẳn là không.
Nhưng chùm chữ số 1960 được đắp nổi và được sơn bằng các màu
vôi nổi bật của nhà Phan, như thường thấy ở ngay phía trên trán mặt tiền nhà trệt,
nhà gác hay lầu một của các ngôi nhà ở nhiều nơi, Phan vẫn còn nhớ như khắc vào
trí nhớ. Đó là năm ba mẹ Phan mua lại một căn nhà xây gạch, gác gỗ ở phố huyện
Diên Sanh thuộc tỉnh nguyên quán Phan - tỉnh Quảng Trị (dĩ nhiên là nguyên quán
ba Phan) và tỉnh đó cũng là nguyên quán mẹ Phan nữa. Chính năm ấy, căn nhà đã
được ba mẹ Phan tu bổ, chỉnh trang lại. Chắc hẳn đó cũng là năm mẹ Phan từ Huế
trở ra Quảng Trị để sinh sống. Năm ấy, Phan đã lên bốn.
Hình như 1960 cũng là năm khởi nghiệp buôn bán của mẹ. Phan vẫn
còn nhớ mẹ Phan đăng kí tiểu bài (môn bài kinh doanh nhỏ) về gạo, gồm gạo tẻ và
nếp. Bấy giờ, Phan vẫn thường nghịch ngợm leo lên những chồng bao gạo để chơi
đùa, khiến mẹ rất sợ Phan bị các bao nửa tạ, một tạ ngã xuống, đè lên người
Phan, nên dặn dò người giúp chất lên cho khéo, cho thật vững. Và mẹ vẫn tiếp tục
nghề buôn bán gạo cho đến khi Phan vào lớp mẫu giáo (lúc đó gọi là lớp vỡ lòng
hay lớp sáu), tại một ngôi trường phía sau nhà, cách nhà khoảng độ một trăm
mét. Đó là Tiểu học tư thục Mai Khôi, do các ma xơ (ma soeurs, cũng
được gọi bằng tiếng Việt là "các chị"), nữ tu Thiên Chúa giáo, phụ
trách. Lớp mẫu giáo Phan học do chính "chị bề trên", nổi tiếng
"dữ dằn" vì nghiêm khắc, khó tính trực tiếp coi sóc. Có lẽ vì chị bề
trên đã khá lớn tuổi, nghiêm khắc nhất, và cũng bởi quan niệm phải uốn nắn học
trò ngay từ lớp mẫu giáo!
Tất cả các lớp, từ lớp mẫu giáo cho đến lớp cuối cấp tiểu học
(lớp năm, bấy giờ gọi là lớp nhất) đều khởi đầu bằng mục đọc tập thể bài
kinh "Lạy Cha chúng tôi ở trên Trời...". Ở các lớp lớn, sau đó
là đọc tập thể bảng cửu chương, rồi mới chính thức đi vào buổi học các môn văn
hoá. Trong các môn học chính khoá, có cả môn giáo lí Thiên Chúa giáo! Cuối buổi,
tất cả lại đọc tập thể bài kinh "Sáng danh Đức Chúa Cha...", trước
khi sắp hàng ra về. Và tan hàng ngay ở cổng trường.
Lớp mẫu giáo Phan theo học phần lớn chỉ học hát, nghe kể chuyện
và tập viết, nhưng về tập viết, chủ yếu dùng bút chì để gạch sổ dọc theo ô li.
Hầu như cả cuốn vở trang nào cũng vậy, mở ra cứ như nhìn thấy những thửa ruộng
mới cấy.
Có một điều Phan nhớ hình như là vào giữa học kì một (đệ nhất
lục cá nguyệt), Phan được chị bề trên "cử" đi nhà thờ vào sáng chủ nhật
sắp tới để chịu "phép rửa tội", cùng với dăm đứa bạn khác! Về nhà,
Phan xin ý kiến mẹ. Mẹ không đồng ý, nhưng lại sợ chị bề trên không cho tiếp tục
học nữa, mặc dù mẹ biết không phải đứa nhỏ nào học ở trường Mai Khôi cũng đều bị
buộc theo Thiên Chúa giáo. Mẹ phân vân. Nhưng mãi cho đến vài tháng sau, khi mấy
người anh khác mẹ ở Huế gửi thư ra nài nỉ, mẹ mới đồng ý. Thế là vào một buổi
sáng chủ nhật, Phan được các chị nữ tu dẫn đến nhà thờ Chúa để chịu phép rửa tội,
với gáo nước nhỏ tượng trưng dội trên tóc. Từ đó, Phan có tên thánh là Mi-ca-e
(Michel).
- Được mang tên Thánh Mi-ca-e là oai lắm đó. Con có nhớ Thánh
Mi-ca-e là ai không? - chị bề trên hỏi Phan.
Phan sực nhớ trong giờ giáo lí, chị có kể chuyện theo Kinh
Thánh, Mi-ca-e là vị thiên thần quản lí tất cả mọi thiên thần trên trời, đối lập
với Sa-tăng (Satan), tên ma quỷ cai quản tất cả mọi tên ma quỷ ở địa ngục, nên
trả lời ngay:
- Dạ, con nhớ. Thánh Mi-ca-e là Tổng lãnh Thiên thần.
Chị bề trên xoa đầu Phan với tiếng "Giỏi" kèm theo.
Phan cảm thấy sung sướng và hãnh diện một cách ngây ngô.
Từ đó, Phan phải thường xuyên đi nhà thờ Chúa vào mỗi sáng chủ
nhật để dự lễ mi-sa, theo sự dẫn dắt của các nữ tu. Phan còn nhỏ quá, mới năm
tuổi, nên được miễn đi đọc kinh tối tại nhà thờ vào mỗi hoàng hôn, khoảng từ 18
đến 19 giờ!
Tuy là thế, nhưng hầu như không có gì thay đổi trong nhà mẹ
Phan. Mẹ Phan vẫn thờ cúng tổ tiên ông bà, Đức Phật Thích Ca, vẫn thắp hương
trên bàn thờ trong nhà, lư nhang ngoài cửa vào mỗi tối.
3.
Nhưng Phan không làm tín đồ Thiên Chúa giáo được lâu, mà chỉ
vài tháng. Bấy giờ, nhà Phan đóng cửa lại, nhờ người láng giềng và một ông thợ
may coi sóc giúp, vì Phan với mẹ cùng chị gái phải vào Nam Bộ. Cả nhà vào Huế,
lên máy bay vào Sài Gòn. Người anh thứ ở Sài Gòn đi đón tại Tân Sơn Nhất. Sau
đó, anh ấy đưa về Huệ Đức, An Giang, nơi ba Phan đang làm công việc ở một khu
trù mật (xây dựng vùng kinh tế nông thôn phát triển, thịnh vượng). Cùng về Huệ
Đức, còn có một đứa bé gái, lớn hơn chị em Phan khoảng dăm tuổi. Đó là Quỳnh, một
người chị họ bên ngoại của Phan. Chị Quỳnh từ Huế đã vào Sài Gòn khoảng năm
tháng trước. Ngày đó, Phan cũng chẳng hiểu sao chị Quỳnh lại từ Sài Gòn theo ba
mẹ con Phan về một vùng quê heo hút là Huệ Đức như thế, chỉ mơ hồ đoán chừng là
để phụ giúp việc nhà, cùng đi học với chị em Phan.
Nhà ba Phan ở cũng chính là nơi đặt văn phòng làm việc. Cả
văn phòng, vỏn vẹn chỉ có ba Phan và một viên thư kí kiêm nhân viên đánh máy chữ,
không kể một nhân viên tạp vụ, cấp dưỡng! Thế mà cũng được gọi là "Văn
phòng Khu trù mật, quận Huệ Đức"! Nếu không có tấm bản đồ to tướng áp sát
vào vách trong văn phòng và một sa bàn đắp nổi bằng xi măng, được chú trọng làm
nổi bật những lô ruộng, những con kênh thuỷ lợi, trong căn nhà rộng khác, người
ta mới nhìn chỉ tưởng là nhà ở đơn thuần. Trong căn nhà sa bàn này, có một
phòng dành cho gia đình chú Quân, nhân viên cấp dưỡng, trú ngụ.
Chợ Huệ Đức cũng xa nhà Phan ở. Chú Quân cấp dưỡng mỗi lần đi
chợ, phải đạp xe từ sáng sớm, đến gần trưa mới về đến nơi. Đối với mẹ, phụ nữ
người Miền Trung, việc phải để chú Quân đi chợ, khiến mẹ rất áy náy! Đúng là
vào đây, xem ra còn kém thua hồi còn ở phố huyện ngoài Quảng Trị. Nhà Phan ở
ngoài ấy, chợ ngay trước mặt nhà, chỉ cách một con đường huyện lộ. Nhưng bù lại,
Huệ Đức thoáng đãng hơn, thơ mộng hơn rất nhiều.
Ở Huệ Đức, Phan được sắp xếp vào học lớp năm (lớp đầu cấp,
bây giờ gọi là lớp một). Chị Linh, chị ruột của Phan, vào lớp tư (lớp hai). Chị
Quỳnh, lớp ba (bây giờ cũng gọi là lớp ba).
Đó là một ngôi trường cách ngôi nhà gia đình Phan trú ngụ một
khoảng đất trống, phẳng và rộng, phủ cỏ xanh, như nhiều sân banh gộp lại. Cuối
trảng cỏ, một ngọn núi mọc lên. Người ta gọi là núi Ba Thê. Và trên trảng cỏ,
hiện rõ một lối mòn cắt chéo, từ giao điểm các ngả đường ở phía trái khu vực
nhà Phan, dẫn đến một làng có cư dân khá đông vui. Trường ba chị em Phan học được
xây dựng ngay đầu làng, bên cạnh lối mòn ấy. Mỗi lần đi học, cả ba chị em đều
phải cắt ngang con đường đất khá rộng trước khu vực và băng ngang trảng cỏ như
sân banh rộng. Nhưng chỉ với dấu chân ba chị em, bước chân tuổi thơ lại ít chịu
cố định, nên không thể làm thành một lối mòn như lối mòn kia.
Đó là năm học Phan có một số bạn trai thân thiết chính gốc Huệ
Đức. Và tự bao giờ chẳng rõ, Phan đã nói chuyện và học bài bằng giọng Nam Bộ.
Đến giữa lục cá nguyệt (học kì) đầu, theo đài bán dẫn
(radio), cả nhà Phan đều biết tin ở Sài Gòn, chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm
đã bị lật đổ. Tin đó cũng theo các tờ báo về đến tận Huệ Đức. Phan còn nhớ, một
buổi chiều, trước sân nhà, ba Phan bảo Phan đọc báo cho cả nhà nghe, như một
cách tập đọc. Vừa nghe, ba Phan vừa cười khà khà, có lẽ tức cười cho "sân
khấu chính trị Sài Gòn". Và những mẩu tin, mẩu truyện kí về gia đình họ
Ngô, về "cuộc cách mạng" ấy đã thành ấn tượng in sâu trong óc Phan.
Tuổi lên sáu, lên bảy của Phan như thế đó. Mỗi lần nhớ lại, đều
dấy lên trong lòng Phan một cảm giác heo hút, nhưng bát ngát và xanh ngắt màu
cây cỏ, núi đồi, ruộng lúa, vườn tược hoa trái. Đặc biệt, hình ảnh loài cây thốt
nốt được trồng quanh nhà, quanh làng dân cư kia, với chất nước ngòn ngọt có mùi
khói, như mãi chạm nổi trong tâm trí Phan, mãi đậm đà trong cuống họng Phan.
Thế rồi, gia đình Phan lại chuyển lên tỉnh lị Long Xuyên. Đó
là một chuyến chuyển nhà bằng ca-nô, có đầu máy thường gắn trên các con thuyền
chạy quanh năm trên sông rạch, được gọi là máy đuôi tôm. Cảm giác ngồi trên chiếc
ca-nô xé nước phía đầu mũi và tạo ra những lượn sóng tung bọt trắng xoá phía
đuôi, thật thú vị. Dọc đường kênh, Phan còn nhớ có một ngọn núi đang được khai
thác đá, khiến núi bị sạt lở một bên, trơ ra màu đá, tuy vẫn còn màu xanh cây cỏ
ở những phần núi mà bàn tay cùng chất nổ do con người chế tạo chưa chạm đến. Đó
là núi Sập. Thật đáng tiếc! Trên dòng kênh, hình như ven bờ đều tim tím, đo đỏ
màu lá hoa súng và màu hoa súng nở. Ven kênh, bạt ngàn, ngút ngát ruộng.
4.
Nhà gia đình Phan ở Long Xuyên có hai hộ ở ghép. Tầng trên,
gia đình một viên chức nào đó trú ngụ. Lối lên là chiếc cầu thang mở ra phía
hông đằng sau. Ba Phan được ưu ái dành cho tầng trệt. Nhà nhìn ra một công
viên, bên kia công viên là sông Hậu bát ngát, đục ngầu phù sa quanh năm.
Hình như trong khi chuẩn bị để vào Trường nam Tiểu học cộng đồng,
Phan được học thêm ở nhà của một thầy giáo, để bổ túc cho những tuần nghỉ học
do chuyển nhà.
Ở lớp học thêm ấy, có một kỷ niệm đậm chất "đảo
chánh", "cách mạng", "dân chủ hóa" mà Phan ảnh hưởng từ
đài báo và từ những lá thư của hai ông anh ở Sài Gòn gửi về, kể cả mấy đoạn
băng do ông anh thứ hai đọc trong máy ghi âm (magnétéphone). Đó là những trang
của cuốn "Tâm hồn cao thượng" của Edmond de Amicis, do Hà
Mai Anh dịch. Kỷ niệm ấy, thật buồn cười: Phan dám đứng lên trong lớp, một cách
"dân chủ", nói lời "phản kháng" thầy giáo, theo cung cách
và thái độ của chú bé, nhân vật trong sách, đã dõng dạc nói một câu làm xúc động
lòng người: "Tôi không nhận tiền từ những kẻ đã làm nhục Tổ quốc
tôi!", nhưng lại vận dụng một cách cảm tính, với trực giác trẻ thơ, sang vấn
đề có đúng hay không nội dung câu hát "Xổ số kiến thiết quốc gia giúp đồng
bào ta nên cửa nên nhà, giàu sang mấy hồi". Đó là vấn đề giá trị lao động
và đồng tiền may rủi trong lĩnh vực xây dựng Đất nước. Cố nhiên, ngôn ngữ thể
hiện cũng rất trẻ thơ.
Không biết có phải vì kỷ niệm "dân chủ", "phản
kháng" ấy hay không, Phan được ba Phan ưu ái cho người đưa lên Sài Gòn để
đi học tiếp, thay vì học ở Long Xuyên. Gia đình ông anh cả đã khá đông con, nay
lại có thêm Phan.
Trường Phan học là Tư thục Quốc Anh, gần một cổng xe lửa và
toạ lạc ngay bên đường Ngô Đình Khôi, sau 1-11-1963, được đổi thành đường Cách
Mạng.
Mới đầu, Phan được vào học lớp hai (thuở đó gọi là lớp tư)
theo chương trình song ngữ Pháp - Việt, có lẽ theo kì vọng của người thân là để
Phan dễ mở rộng kiến văn sau này, và để vượt thắng ngoại quốc, thì phải học ngoại
quốc (trong điều kiện lúc đó, cũng có nguy cơ phản tác dụng, dẫn đến vong bản).
Nhưng Phan chưa biết gì về tiếng Pháp cả, trong khi các bạn cùng lớp đã trải
qua hơn một niên học rưỡi rồi, chưa kể lớp mẫu giáo, vốn cũng theo chương trình
song ngữ. Vì thế, Phan đành phải thưa với ông anh cả, xin học chương trình Việt
đơn thuần, cũng tại trường Quốc Anh.
Đây là một năm học thật khó khăn, trắc trở đối với Phan, do
phải chuyển nhà, chuyển nơi ở, chuyển trường, chuyển chương trình học, khá dồn
dập, việc học phải gián đoạn, chắp vá, nhất là lần đầu tiên xa mẹ, xa chị gái,
sống trong nhà ông anh cả, vốn ít dịp gần gũi, kể từ trước đó đến bấy giờ. Tuy
thế, Phan vẫn vượt qua được.
Nhưng rồi cũng không học trọn năm lớp hai ở Sài Gòn! Phan lại
cùng mẹ, chị Linh lên máy bay về lại Huế. Còn chị Quỳnh, chị ấy cũng đành ngậm
ngùi trở lại sống ở nhà người bà con trước đấy, tại Sài Gòn. Nghe đâu, chị phải
bỏ học luôn, để phụ việc may mặc theo gia đình người bà con đó. Hồi mẹ mới vào,
những tưởng giúp chị Quỳnh theo đuổi việc học. Ngờ đâu, chị Quỳnh chỉ học thêm
được mỗi lớp ba và gần nửa niên khóa lớp nhì (lớp bốn bây giờ)!
Chuyến bay về phi trường Phú Bài thật buồn, vì mẹ và chị Linh
cứ mải khóc.
5.
Căn nhà ở phố huyện Diên Sanh vắng chủ suốt hơn hai năm trời.
Chìa khoá được trao cho một người thợ may trong làng. Sáng sớm, ông thợ ra mở cửa,
đặt lại đầu máy may vào bàn chân, dọn hàng may mặc. Xế chiều, ông dẹp hàng, dỡ
đầu máy để mang vào nhà, đóng cửa lại. Nhưng trong nhà cũng chẳng mất mát gì.
Hai cái tủ gỗ thì cồng kềnh quá, không ai dám khiêng trộm. Trong nhà, chỉ có
gian thờ Phật và tổ tiên, ông bà trên gác là có giá trị, dễ bị trộm cắp nhất.
Tuy thế, những đồ tế khí như đèn đồng, lư đồng, ảnh Phật Thích Ca được vẽ âm bản
bằng sơn phía sau tấm kính trong suốt, với những nét cách điệu đơn sơ, trang
nhã, đặt trong khung gỗ chạm trổ gọn nhẹ, chẳng hạn, thì nghe đâu, ông thợ may
có một thủ thuật để giữ, là tung tin có một con rắn hổ, hẳn tu luyện thành Rắn
Ngài, thường leo lên đó. Có lẽ vì thế, bọn trẻ ranh hay ăn cắp vặt không dám dở
trò.
Và nghe kể lại, căn gác nhà Phan còn là nơi được Thanh niên
Gia đình Phật tử tạm mượn để đặt loa phóng thanh, phát những bản tin của Phật
giáo, trong những ngày tháng đấu tranh chống chế độ Diệm - Nhu. Nhà Phan là một
trong dăm nhà có gác tại phố huyện, có cửa sổ ngay trên tầng gác, lại vắng chủ,
rất tiện để đặt làm "trung tâm thông tin - báo chí" của Gia đình Phật
tử. Loa đặt ở nhà Phan, có thể vang khắp cả chợ phía trước và vang đến tận nhà
thờ Thiên Chúa giáo phía sau, chếch về bên phải, cách ngôi đình làng không bao
xa, chỉ khoảng một trăm mét.
Cuộc đấu tranh diễn ra ở Diên Sanh chừng như chỉ dăm bảy
tháng, thì "Đệ nhất Cộng hòa" ở Sài Gòn bị lật đổ. Căn nhà lại chỉ một
mình ông thợ may vào ban ngày.
Sau khi ba mẹ con Phan trở về, ông thợ may lại gánh bàn máy
ra nhà lồng chợ như trước.
Việc trước tiên là mẹ Phan đặt thợ mộc làm một tủ gỗ với những
khung cửa lùa gắn kính, dùng để bán hàng tạp hoá. Như thế là mẹ đã tính toán cả
rồi, mẹ không tiếp tục buôn bán chuyên về gạo tẻ và nếp như trước khi vào Nam Bộ.
Trong khi chờ thợ mộc hoàn thành chiếc tủ như yêu cầu, mẹ có những người bà
con, anh em từ làng ngoại vào giúp việc quét dọn, tẩy rửa nhà, rồi thuê thợ
quét lại vôi, sơn lại cửa. Mái nhà được lợp bằng ngói liệt dày cả tấc với rui
mè gỗ tốt, nên không hề hấn gì. Nhà khá trống, nên xem ra việc sơn quét cũng
không phải lúng túng vì đồ đạc.
Chị em Phan cũng bắt đầu đi học lại. Phan được mẹ xin vào học
lớp ba (nay cũng gọi là lớp ba) Trường Tiểu học cộng đồng Hải Thọ, ở cuối làng,
giáp với làng Câu Hoan, xã Hải Thiện. Từ nhà đến trường cũng gần một cây số, đi
trên đường huyện lộ khá rộng, trải bằng đất đỏ. Khi Phan vào học, trời cũng đã
chuyển sang cuối thu, những cơn mưa đông đã bắt đầu. Mặt đường nhão nhoẹt bùn đỏ,
nếu có xe bốn bánh chạy. Những tuần đầu, Phan được thầy giáo khen ngợi, cho điểm
số cao. Nhưng điều đó cũng khiến những đứa bạn học thuộc nhóm nhỏ "nhãi
ranh" thích gây gỗ nhắm Phan làm đối tượng quậy phá. Một lẽ khác, vì Phan
còn nói giọng Nam Bộ, nên chúng xếp Phan vào loại "mất gốc", đáng
ghét, theo thành ngữ "chửi cha không bằng pha tiếng" (dù là tiếng Việt,
chứ không phải tiếng Tây!). Theo chúng, nếu đúng là dân Nam Bộ, nói giọng Nam Bộ,
thì đó là chuyện bình thường, nghe cũng hay, nhưng người gốc Quảng Trị mà
"học đòi" nói giọng Nam Bộ, chúng không chịu nổi! Đúng là rất trẻ
con, buồn cười. Chúng không hiểu là ở tuổi nhỏ, lai giọng, đổi giọng nói, mau
thuộc những tiếng địa phương khác là bất giác, rất bình thường. Do đó, - một phần
vì đi học xa, mưa ướt, bùn lấm, lại thường bị bọn "nhãi" chọc phá, bản
tính Phan lại không dễ cam chịu khuất phục chúng, khiến Phan vừa rất căng thẳng,
vừa mất tinh thần học tập -, nên mẹ quyết định cho Phan qua học tại Tiểu học tư
thục Mai Khôi, nơi Phan đã trải qua lớp mẫu giáo. Chị Linh của Phan lại khác,
nhờ chỉ chơi với bọn con gái, con gái vốn hiền lành hơn, nên không có gì xảy
ra.
Mới vào học tại Mai Khôi, trong trạng thái tinh thần đó, Phan
không thể giải nổi bài toán đố lớp ba, nên ma xơ thường được gọi là
"chị lớp ba" đưa Phan xuống học lại lớp tư (tức lớp hai)! Đây cũng là
một đòn trời giáng đối với Phan. Nhưng chỉ trong vài tháng cam chịu ngồi lớp
tư, Phan lấy lại được tinh thần, và quá xuất sắc, đến mức sau hai buổi kiểm tra
của các ma xơ, gồm "chị lớp tư", "chị lớp ba",
"chị lớp nhì" (lớp bốn) và "chị bề trên" (hiệu trưởng),
Phan cùng với hai người bạn được chuyển thẳng lên học lớp nhì, khỏi phải học lớp
ba! Thật là cả một sự kiện đáng vui mừng đối với Phan và mẹ Phan. Học trọn hai
năm lớp nhì, lớp nhất (lớp năm, cuối cấp), bài làm văn của Phan thường được ma
xơ đọc trước lớp, với lời xuýt xoa khen ngợi. Cuối năm, được lãnh phần thưởng
cao nhất. Tốt nghiệp, ngoài phần thưởng lại được kèm với bằng danh dự toàn trường,
với ý nghĩa toàn trường chỉ được một học sinh duy nhất được vinh danh như vậy.
Đó là chưa kể, có một thời gian Phan cùng người bạn kề sát
bên nhà được xin vào học nội trú tại Mai Khôi, mặc dù trường ở ngay phía sau
nhà, cách nhà chỉ một con đường làng và với quãng cách chỉ năm, bảy mươi mét.
Nhưng rồi cũng chỉ vài tháng, cả hai đều lại là học sinh ngoại trú, vì về nhà với
mẹ vẫn thoải mái hơn.
Suốt hai niên học này, cũng là thời gian Phan phải trở lại đi
nhà thờ, xem lễ mi-sa vào mỗi sáng chủ nhật, còn thêm mỗi chiều tối phải đến đọc
kinh khoảng hơn nửa tiếng đồng hồ theo đám Thiếu niên Thánh thể. Phan còn phải
học lớp giáo lí để chịu phép xưng tội, rước Mình Thánh Chúa và sau đó chịu phép
thêm sức nữa. Lần chịu phép thêm sức, Phan có thêm một "ông bọ (bố) đỡ đầu",
mang tên thánh của ông "bọ" này, là Phê-rô (Pière). Chị bề trên lại
nói:
- Đã Mi-ca-e, tên của vị Tổng lãnh Thiên Thần, lại còn được cả
Phê-rô, tên của vị Thánh xây dựng Giáo hội và giữ chìa khoá Thiên đàng nữa! Con
như rứa là rất diễm phúc, được hưởng hồng ân Chúa. Con phải đến nhà thờ đọc mười
lần kinh "Lạy Cha", mười lần kinh "Kính mừng", mười
lần kinh "Sáng danh" để tạ ơn nghe!
Phan đáp "Dạ", cúi đầu biết ơn Chúa và chị bề trên.
Cuối năm lớp nhất, Phan được công nhận, cấp bằng tiểu học,
nhưng lại chuẩn bị thi vào Trường Trung học công lập Hải Lăng, chứ không học
Trung học tư thục Minh Đức do linh mục Thiên Chúa giáo làm hiệu trưởng. Chính cậu
của Phan, em của mẹ, từ làng ngoại vào, đi nộp đơn dự thi cho Phan, sau khi bàn
với mẹ:
- Cho cháu dự cuộc hạch vào trường công lập. Học sinh công lập
oai hơn học sinh tư thục một trời một vực, lại được miễn phí nữa, tội gì học
"trường Cha"!
Tất nhiên cũng như mọi người, mẹ đồng ý ngay.
Đó là vào mùa hè năm 1967. Mùa hè ấy, Phan đỗ vào Trường
Trung học công lập quận Hải Lăng với vị thứ 5/100. Trong kì thi, ở bài làm văn,
Phan kể lại một câu chuyện vốn được in trên một xấp lịch tường được treo trong
nhà, có tranh vẽ minh hoạ, do Tỉnh hội Phật giáo ấn hành, đúng theo yêu cầu của
đề bài, truyện phải có thông điệp ngụ ý "ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ",
còn toán đố thì không thể giải sai được, tuy có một vài sơ sót. Các ma xơ khi
nghe Phan đỗ vào trường công lập, cũng vô tư ghé nhà chúc mừng.
Thời điểm này, chiến tranh cũng đã diễn ra ngày càng khốc liệt
hơn. Ngay tại Chi khu Hải Lăng, cũng đã có năm ba lần quân đội Giải phóng tấn
công. Xen vào đó, là những cuộc chạm súng giữa phe lính chế độ cũ đi phục kích
trong đêm khuya với quân du kích cách mạng, thường là trên rú cát. Hầu như nhà
nào cũng đều làm hầm trú ẩn, tránh đạn, tránh pháo ngay trong nhà. Thỉnh thoảng,
cũng có nhiều cuộc chạm súng ở các làng miệt dưới, tiếng súng đạn vang vọng lên
đến tận phố huyện Diên Sanh, ngay vào buổi chiều. Những trận đó, đứng ở cuối chợ
Diên Sanh, nhìn xuống, qua một cách đồng rộng, có thể thấy đạn bay đỏ lừ, mỗi cột
khói như một chiếc nấm đen đỏ không lồ.
Trường Trung học Hải Lăng và Bệnh viện Hải Lăng kề nhau, toạ
lạc trên trảng cát trắng đối diện với Chi khu quận Hải Lăng. Vì thế, lần tấn
công nào của quân Giải phóng, trường và bệnh viện đều lãnh nhiều vết đạn của
hai bên. Vách tường, bàn ghế, bảng đen và giường bệnh đều mang thương tích. Mái
thì thủng hay sụt tôn xi măng ép thớ (fibro-ciment). Đặc biệt, có lần, một anh
lính Giải phóng không kịp theo lệnh rút quân, kẹt lại ngay trong một lớp học.
Anh ấy cầm cự chiến đấu, không chịu đầu hàng, suốt cả một ngày trời.
Vì chiến tranh mỗi ngày một diễn ra khốc liệt, trường của
Phan lại đứng ngay trước họng súng từ chi khu chĩa ra, có khi cả sân trường cát
trắng trở thành trận địa pháo 105 li do đơn vị pháo binh chế độ cũ từ thị xã Quảng
Trị hay đâu đó kéo vào, rót về các làng phía dưới, đinh tai nhức óc, nên trường
phải chuyển xuống cơ sở mới xây dựng, gần nhà Phan hơn, ở khoảng giữa nhà Phan
với Trường Tiểu học cộng đồng xã Hải Thọ.
Đó cũng là quãng thời gian Phan đã mười, mười một tuổi. Phan
cũng thường theo các người anh, người em bên ngoại hay theo cậu dì ra Thượng
Xá, làng ngoại, cách Diên Sanh khoảng 5 cây số đường đi bộ, để thăm, chủ yếu là
để chơi đùa, ăn trái trong vườn, tắm sông. Ở làng ngoại, có con sông Nhùng chảy
qua. Phan rất thích tắm sông, và nhờ thế, biết bơi lội nhờ con sông Nhùng ấy.
Có những lần như thế, Phan đã gặp các đơn vị quân Giải phóng, nói giọng ngoài
Miền Bắc, đang đóng tại làng. Trong nhà cậu của Phan, có khi cả tiểu đội treo
võng nằm đung đưa. Phan cũng đã chuyện trò với các anh ấy.
Sống giữa cuộc chiến tranh, nhất là trong vùng "xôi - đậu",
biết chiến tranh tuy thảm khốc, máu đổ xương rơi thật, nhưng riết rồi cũng thấy
bình thường. Người bên này, người bên kia đều là bà con, ruột thịt, đồng bào cả,
nên mặc nhiên Phan cùng bạn bè Phan và nhiều người dân khác, có cảm giác như
xem các cuộc đá bóng hay thi đấu bóng chuyền, thậm chí như ngồi chầu rìa xem đấu
cớ tướng, nhưng không hào hứng, vui vẻ gì, mà lắm khi chảy ròng nước mắt.
6.
Mấy tháng đầu niên khoá ở bậc trung học, Phan và bạn bè vẫn
phải học ở cơ sở cũ, đối diện với Chi khu quận Hải Lăng. Đó cũng là thời điểm
Phan bắt đầu nhạt dần với nhà thờ Thiên Chúa giáo. Rồi từ đó đến hết hai năm học
cuối ở Diên Sanh cũng vậy, cho dù đã xuống học ở cơ sở mới.
Từ những năm trước, Phan rất say mê đọc tiểu thuyết. Các loại
tiểu thuyết, từ võ hiệp đến trinh thám, phong tục, tâm lí - xã hội, Phan đều
tìm mượn. Những người mê đọc tiểu thuyết hồi đó không hiếm. Chú thợ
"cúp" gần nhà Phan hầu như chỉ rời khỏi những bộ kiếm hiệp khi có
khách vào quán để hớt tóc. Những người bạn lớn tuổi hơn Phan, như anh Trần Hữu
Thoan, đã ra học ở Trường Trung học đệ nhị cấp Nguyễn Hoàng tại tỉnh lỵ Quảng
Trị, khi vào thăm nhà vào mỗi chiều thứ bảy, đều mang theo các cuốn truyện
trinh thám hoặc tâm lý - xã hội. Cô giáo dạy phụ thêm cho các ma xơ ở
trường Mai Khôi cũng mê "tiểu thuyết ái tình". Đó là những nguồn sách
Phan mượn để ngấu nghiến, say mê, mặc dù hầu hết chưa phù hợp với lứa tuổi mới
lên chín, lên mười và mới hơn mười tuổi của Phan. Ngoài ra, Phan còn có một số
cuốn sách riêng, mua tại nhà sách Tao Đàn ở Quảng Trị hay Ưng Hạ ở Huế, những
khi có dịp ra hay vào hai nơi ấy. Cũng có nhiều cuốn xin từ tủ sách của ông
anh, từ lâu học tại cố đô. Trên căn bản tạp nhạp, dở hay lẫn lộn đó, Phan lại
có một người thầy giáo dạy thêm, - anh Lê Văn Ba, vốn là sinh viên Văn khoa Sài
Gòn -, cảm thụ văn chương cao cấp khá sâu, vừa làm bổn phận ở lớp hè, vừa có
lưu tâm riêng, thích chơi với Phan và anh Thoan, vô hình trung bồi dưỡng cho
Phan. Do đó, năng khiếu văn chương của Phan được nẩy nở, nhưng "kiến thức
sách vở" già giặn hơi sớm. Dẫu vậy, nhờ thế, mức độ hiểu văn thêm tinh nhạy,
và kĩ năng diễn đạt của Phan cũng nhờ đó mà khá lưu loát. Trong lớp học, Phan
giỏi đều các môn, gồm môn toán, nhất là toán hình học, nhưng đặc biệt vẫn trội
lên môn quốc văn.
Những năm tiểu học ở Diên Sanh, không kể "sự cố" với
nhóm "nhãi ranh" khiến Phan phải chuyển trường từ Tiểu học Hải Thọ về
Mai Khôi, cùng những tháng ngày khởi đầu bậc trung học này, đối với Phan, nhìn
chung, là khá tự hào và tự tin. Cái sự cố "chửi cha không bằng pha tiếng"
ấy, thật ra, nào có đáng kể gì so với những tháng năm tốt đẹp khác.
Tết Mậu Thân 1968 đối với nhà Phan cùng một số không ít các
nhà ở Diên Sanh đúng là một biến cố.
Hình như vào đêm giao thừa, súng nổ vang rền ở phía Chi khu
quận Hải Lăng, trên rú cát. Cả nhà Phan, ba mẹ con cùng chị giúp việc đều chui
vào hầm trú ẩn vốn được chất bằng những lớp bao cát, gác hai tấm phản ngựa lên
trên, lại phủ bằng những lớp bao cát khác, ngay trong nhà, từ mấy năm trước.
Sáng sớm, nghe ngoài đường có lệnh phải tản cư vào phe giáp Tư, phía trong.
Ngoài đường, đã có những đoàn người tay xách nách bồng. Không thể khác được,
nhà Phan cũng phải tản cư. Phan chỉ mang theo chiếc đài bán dẫn, mẹ và chị Linh
cùng chị giúp việc lễ mễ xách áo quần và các đồ cần dùng. Đây là lần đầu tiên
chiến trận kéo dài từ khuya hôm trước đến gần sáng ngày hôm sau, và nghe đâu
còn tiếp diễn nhiều ngày nữa.
Đêm mùng một Tết, ở phe giáp Tư, Phan vẫn ngủ say như mọi
đêm. Nghe đâu đêm ấy cũng không có gì ngoài vài loạt đạn. Đêm kế tiếp, người
láng giềng vì sợ nhà bị trộm cướp, nên đánh bạo lẻn về. Và ông còn bắt vào một
con heo cỡ vừa, bị bỏ đói đã hai hôm, gầy nhách. Thế là có một bữa ăn Tết tiếp
tục tại nơi tản cư! Như vậy, chiến sự vẫn không có gì. Nhưng đến đêm mùng ba,
mùng bốn gì đó, hay muộn hơn vài hôm, nghe đâu lính Mỹ đã thực sự hành quân,
tái chiếm nơi này, lùng soát ở nơi kia. Tiếng súng ở phố huyện Diên Sanh có rộ
lên dữ dội nhưng không lâu. Có cả tiếng máy bay lên thẳng quần đảo. Và đau đớn
thay, những ánh lửa cháy nhà, cháy chợ đã bùng lên!
Khi được lệnh hồi cư, về đến ngã ba Bến Xe, Phan thấy xác một
người du kích cháy nám, với dấu vết chiếc khăn dù nguỵ trang và đôi dép râu còn
lại, nằm phơi giữa đất. Người lớn cùng đi khẽ dặn nhau và bảo bọn con nít như
Phan đừng đứng lại nhìn, kẻo mang hoạ. Về đến nhà, đứng trước căn nhà đã cháy rụi,
mái ngói đổ xuống, ván và đà gỗ đã thành tro, chỉ còn trơ hai bức vách xây bằng
gạch vồ đôi, bỗng trở nên cao vút. Phần mặt tiền căn gác với chùm chữ số 1960 vẫn
còn, nhưng nám đen, nứt nẻ, đe doạ sụp xuống. Trên nền nhà, hàng hoá còn âm ỉ
cháy, bốc khói khét lẹt. Điều khiến Phan tiếc nhất, tiếc và thương đến rưng nước
mắt là con chó xi của Phan đã hoàn toàn mất tích hay đã chết cháy đâu đó trên nền
kia! Khi tản cư, Phan đã dẫn nó theo, nhưng người lớn cùng tản cư không cho.
Phan đành phải quay trở lại, mở cửa, nhốt nó trong nhà, không quên mở sẵn vài
bao bánh bích quy và đổ đầy nước vào chiếc thau nhỏ cho nó!
Với mẹ, thế là cơ ngơi tài sản không còn gì nữa, ngoài một nền
nhà cháy và hai bức vách cùng phần mặt tiền chực đổ kia! Mẹ khóc ngất. Gia đình
người láng giềng khóc ngất. Nhiều tiểu thương ở các nhà lồng chợ cũng khóc ngất
trước cảnh hoang tàn, tro than của chợ.
Khi một số bà con ở làng ngoại vào tìm mẹ, chị Linh và Phan,
họ cũng hơi buồn tiếc nhưng rất mừng rỡ khi thấy ba mẹ con Phan vẫn còn sống và
khoẻ mạnh. Thế là gia đình Phan phải ra làng ngoại tá túc trong khi chờ dọn dẹp,
sửa chữa, dựng lại mái nhà. Bà con không đưa mẹ, chị em Phan về phe giáp Hạ, vốn
là nơi có nhà ông bà ngoại Phan, hiện là nhà của các cậu dì Phan, mà ra phe
giáp Thượng, nơi người chị đầu của mẹ lấy chồng, sinh sống. Nhà dì cả ấy của
Phan cũng ở ven con sông Nhùng, phía đi lên thượng nguồn, cũng thuộc đất làng
Thượng Xá.
Gia đình mẹ Phan trải qua gần trọn một tháng giêng ở phe giáp
Thượng làng ngoại. Trời còn lạnh rét, lại thêm mưa dầm. Đó là những ngày Phan
có dịp cùng hai người anh con bà dì cỡi trâu lên những vạt cỏ quanh những rìa rú
cát, nhìn chúng lặng lẽ nhai cỏ ướt mưa, hay cùng cầm nơm, cầm oi đi đánh cá dọc
những khe nước, ruộng lúa. Có lần, anh em Phan hoảng hồn, nằm bẹp xuống cát hay
núp vào những gò đống, bụi cây nào đó, vì bị máy bay lên thẳng do Mỹ lái, bắn bằng
súng đại liên. Đạn cày trên cát ướt thành rảnh, thành lối. Khi chúng bay khỏi,
ba anh em mới thật sự hoàn hồn, bảo nhau rằng bọn xạ thủ Mỹ chỉ bắn doạ, chứ giữa
ban ngày, giữa rú cát trắng, nếu chúng cố tình bắn chết, thì đâu khó gì!
Trong những ngày đó, thỉnh thoảng cũng có dăm người học sinh
trung học thuộc trường Minh Đức hay trường Hải Lăng ghé thăm mẹ Phan và chị em
Phan. Khác với những năm trước, khi họ còn vào học tại Diên Sanh, nay họ đã trở
thành du kích, với trang phục mới nhìn qua, biết ngay là họ đứng trong hàng ngũ
đó đã mấy mùa rồi. Họ cũng không có ý định giấu giếm hoạt động của mình, vì đây
là Thượng Xá, một làng quê hầu như nhà nào cũng là cơ sở cách mạng, có người
thân đang trực tiếp tham gia cách mạng.
Trong những ngày đó, Phan đã nhìn thấy những người chị con của
bà dì đêm đêm xuất hiện, súng AK quàng trước ngực, sau lưng là gùi hàng tiếp tế,
mũ tai bèo hay mũ cối với tấm vải dù nguỵ trang. Đó là những người chị mà Phan
nhiều lần gặp, khi họ vào Diên Sanh đi chợ, bán rau quả, mua hàng công nghệ phẩm,
tân dược. Và Phan còn biết rằng, nhà dì Phan là cả một kho hàng, được chôn giấu
rất kín đáo, là một trạm tiếp tế cho quân chính quy trên rừng sâu.
Có một đêm, chắc khuya lắm rồi, Phan nằm ngủ, chợt thức giấc,
mở mắt ra, thấy trong nhà có cả hàng chục lính du kích, trang bị súng đạn đầy đủ,
và người nào cũng có ba lô gùi hàng trên lưng hay đặt sẵn dưới chân. Bỗng dưng,
tất cả đột nhiên im lặng, nhẹ nhàng rút. Hình như theo hiệu lệnh nào đó. Không
lâu sau, một khuôn mặt sơn xanh với chiếc mũi nhọn xuất hiện ở cửa sổ, khiến
Phan suýt hét lên vì sợ, nhưng không hiểu nhờ đâu, Phan vẫn cố nín lặng nằm im.
Có lẽ, tuy còn nhỏ tuổi, nhưng Phan đã kịp hiểu, đó là khuôn mặt của một trong
những tên lính Mỹ, thuộc loại biệt kích, đã sơn phết để nguỵ trang. Trong tình
huống đó, nín lặng nằm im là tốt nhất. Sáng mai ra, Phan hỏi khẽ, mới biết đó
là lính Mỹ ở đồn cầu Nhùng. Trinh sát của du kích đã phát hiện Mỹ đi dò tìm để
tập kích (có lẽ theo chiến thuật "Tìm và diệt" của chúng), nên đã báo
cho toán du kích trong nhà lặng lẽ rút trước.
Đến hôm cả ba mẹ con Phan cùng chị giúp việc vào lại nhà cũ tại
Diên Sanh, thì chính người chị con bà dì, vốn là du kích từ lâu, cũng cùng vào,
dọn dẹp, kéo đổ phần mặt tiền căn gác và hai đầu hồi phía trên hai bức vách gạch
vồ, rồi kéo tôn thủng đầy vết miểng lỗ đạn, méo mó thuộc nhà sau ra khỏi nền
nhà, để dựng kèo tre, đòn tay tre, lợp mái bằng những tấm tôn mới toanh, to và
rộng bản, được gọi là "tôn giấy", vì nhẹ như giấy, do Mỹ viện trợ,
"tạm bồi thường" cho những nơi xảy ra chiến sự. Thế là căn nhà gác của
Phan, mái ngói liệt vốn đổ nước mưa ra máng treo phía mặt đường và máng nối giữa
nhà trên với nhà phía sau, nay hai đầu hồi phải kéo đổ để tránh nguy cơ ngã xuống,
thành ra hai mái tôn đổ nước mưa ra hai bên vách. Vách phía nhà láng giềng phải
treo máng nước. Vách phía sân đình làng, nước từ mái đổ hẳn xuống đất. Như thế,
có một đầu hồi trông ra phía chợ. Trong những ngày người chị con bà dì giúp mẹ
dọn dẹp, dựng lợp lại nhà ở, không một ai biết chị vốn là du kích và chị cũng rất
thản nhiên, không hề tỏ ra dấu hiệu nào là sợ sệt hay lo âu bị phát hiện. Có lẽ
kinh nghiệm, trực giác nhạy bén và sự dạn dày trong nhiệm vụ đã tôi luyện bản
lĩnh cho chị.
Và bấy giờ, Phan mới thực sự nhận ra, một cách hết sức rõ rệt,
cả mẹ Phan, bản thân chị em Phan từ lâu đều mặc nhiên, vô hình trung, một cách
không ý thức, đã hợp tác với lực lượng du kích ở làng ngoại. Họ tin vào gia
đình Phan, nói cho đúng, như một nơi buôn bán với lực lượng du kích đáng tin cậy,
chứ không phải như một cơ sở nằm vùng của cách mạng. Ngay với hai người anh con
bà dì, trạc tuổi Phan, chênh nhau vài tuổi, hiện còn đi học ở Minh Đức, cũng thế.
Ngày ngày đều ghé vào nhà Phan ăn trưa, nghỉ trưa, chiều đi học về, lại chở
theo ra nhà, trong bao ni lông đựng sách vở, hoặc là pin, hoặc là vị tinh (bột
ngọt, mì chính) hoặc là những lọ thuốc kháng sinh... Chính mẹ Phan hay Phan đã
gói ghém cho mấy người anh ấy.
Điều chắc chắn hơn nữa, lực lượng du kích trong đó có những
người bà con ở làng ngoại, biết gia cảnh của gia đình ba mẹ con Phan (ba Phan
đang là sĩ quan của chế độ Sài Gòn), nên không phải thuộc đối tượng đáng ngờ của
an ninh quân đội ở Chi khu quận Hải Lăng. Có thể họ cũng có lần khuyến khích mẹ
Phan trong việc buôn bán với lính tráng, nghĩa quân, địa phương quân, cán bộ
xây dựng nông thôn, thậm chí với cả những cô gái chuyên bán bia lon, cô-ca lon
ướp đá cho binh lính Mỹ ở những điểm chúng đóng quân trong địa bàn huyện như Hội
Yên, Trường Phước, để không bị nghi ngờ một chút gì cả. Vả lại, mẹ Phan từng là
cán bộ Việt Minh, cũng đáng tin hơn đối với Cách mạng. Thật ra, Phan nghĩ, mẹ
Phan chỉ là người buôn bán tạp hoá bình thường, kiếm chút tiền lãi để nuôi con
ăn học, và bất kì ai đến quán để mua, mẹ đều bán cả. Có điều, tuyệt đối không
bao giờ dám làm hại một ai, cho dù bên này hay bên kia, cách mạng hay nguỵ,
cũng như thể người đứng ngoài, vô tư xem đá bóng, đấu bóng chuyền hay đọ cờ tướng,
nhưng lòng chẳng hào hứng, vui vẻ gì, thậm chí nhiều lúc giật mình, lạnh người
âu lo (có thể bị bắt bớ, truy tố về tội gián tiếp hay trực tiếp tiếp tay cho Việt
cộng).
Sau Tết Mậu Thân 1968 cho đến lúc Phan học xong lớp đệ lục (lớp
bảy) vào mùa hè năm 1969, lính Mỹ xuất hiện ngày càng nhiều ở Quảng Trị và khắp
cả Miền Nam. Ngày nào cũng mù mịt bụi do nhiều đoàn xe công voa (convoi) quân đội
Mỹ và Đại Hàn chạy trên đường quốc lộ, đoạn quốc lộ cũ từ ngã ba Long Hưng chạy
qua cầu Nhùng và qua bến xe Diên Sanh vào tận cầu Mỹ Chánh (khác với đoạn đường
mới phía trên rú cát, sau mùa hè đỏ lửa 1972, được gọi là "Đại lộ
kinh hoàng"). Thậm chí, huyện lộ từ bến xe Diên Sanh chạy về Mỹ Thủy, dẫu
còn là đường đất đỏ, chưa đổ đá dăm, tráng nhựa, vẫn có các đoàn xe quân sự chạy
qua. Vì thế, mẹ mong Phan thoát được hoàn cảnh chiến tranh và sự dày dặc lính
tráng ngoại quốc tại quê xứ Quảng Trị này. Phan cũng vậy. Những mẩu chuyện
trong cuốn "Tâm hồn cao thượng", nhất là những mẩu lịch sử dân tộc
Việt mình đã giúp Phan đủ sức mạnh vượt thoát khỏi gấu áo mẹ, vượt thoát khỏi
Quảng Trị, một Quảng Trị thuở đó như thế, giúp Phan chịu đựng nỗi khổ xa mẹ, chấp
nhận cảnh phải tự đi chợ nấu ăn hằng ngày cho cả hai anh em đang đi học tại Huế.
Huế đối với Phan đã rất quen thuộc vì những năm còn học ở Diên Sanh, Phan thường
một mình lên xe khách vào Huế thăm anh và để mua sách báo hoặc chỉ đi xem chiếu
bóng! Năm lớp tám (từ năm này, không còn gọi theo thứ bậc là đệ ngũ nữa), Phan
thực sự gắn bó với Huế.
Huế chỉ sống trong vô thức, tiềm thức của Phan từ lúc sơ sinh
cho đến năm Phan lên bốn. Huế của Phan những chiều thứ bảy, sáng chủ nhật và những
mùa hè từ Quảng Trị vào thăm... Và riêng năm học 1969 - 1970 này, Huế càng rất
máu thịt với Phan. Dẫu sao, Huế cũng là quê sinh của Phan, nơi Phan được chôn
nhau cắt rốn.
Huế còn là đất thánh của hương sen và thơ ca.
CHƯƠNG II: 1969 - 1973
yêu quá dáng người nết đất
nơi nơi xa thành thiên thai
(Quê quán,
trong tập thơ "Lặng lẽ ở phố", 1995)
nơi nơi xa thành thiên thai
(Quê quán,
trong tập thơ "Lặng lẽ ở phố", 1995)
Kính tặng cha tôi, một người yêu quê hương, Đất nước, theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, được miễn học tập cải tạo sau
Ngày Thống nhất 30.04.1975.
Thân tặng: Nguyễn Đăng Chín, Cao Văn Phi,
Nguyễn Tấn Sĩ, Hoàng
Thị Nhụy, Phạm Dương Nam,
Võ Công Thảo, Nguyễn Ngọc Khôi, và cộng tác viên
thân thiết của nhóm bút: Huỳnh
Ngọc Chiến, Trần Ngọc Thọ.
1/
Học xong lớp đệ lục ở Quảng Trị, mười hai tuổi rưỡi, Phan lần
đầu đến Tam Kỳ và có một mùa hè phố thị. Nhưng mãi đến mùa hè năm sau, khi từ
giã ngôi nhà mà Phan được chào đời, từ giã Hàm Nghi - Quốc tử giám, mái trường
cổ kính nhất Huế, cổ hơn cả Quốc Học, chú bé này mới thật sự sống với mảnh đất
trung tâm chia đều đường sắt xuyên Việt.
Một năm học ở Huế với nỗi lẻ loi, chất thơ của xứ sở trầm mặc
đã ngấm vào, gọi dậy những rung cảm mơ hồ, nhưng có khi da diết đến tức tưởi,
dù rất vô cớ.
Những con đường xanh. Những khu vườn xanh. Những rêu xanh
trên thành quách và vàng son cũ với những vết thương lở loét do bom đạn...
Huế của chú bé Phan không chỉ thế, Huế còn sinh động với nhiều
nơi chốn khác.
Những lần lang thang đến nhạc viện, trường kịch nghệ, những
phòng tranh, rạp chiếu bóng. Những lần có giờ trống, cùng bạn bè qua tòa thượng
thẩm xem xử án, bị mê hoặc bởi giọng điệu hùng hồn của luật sư. Và những lần
bãi khóa, mít tinh, biểu tình, Phan sửng sốt, khâm phục trước tiếng hát, lời
cáo trạng chế độ từ lồng ngực sinh viên, rồi ngỡ ngàng trước sự thăm hỏi của
dân biểu quốc hội ngụy...
Huế của tuổi mới lớn trong Phan như vậy. Huế ấy đã cùng anh
vào Tam Kỳ.
Tam Kỳ nhỏ bé với một đường phố sầm uất duy nhất mang vẻ khô
khốc.
Nhưng chính ở nơi đây, chất thơ tiềm tàng đâu đó trong nắng gắt
và đất cằn đã tạo ra một quê hương của nhiều thi sĩ và chí sĩ.
Bấy giờ, với một cảm thức non nớt, Phan mơ hồ nhận được một
điều gì đó không còn sương khói đến mềm ướt hoặc ngỡ như bùng lửa trong không
gian quanh mình.
2/
Nhớ mãi một gò đất hoang chỉ có một túp lều xiêu vẹo và một
ngôi miếu cổ bên gốc cây thấp bốn mùa xanh mướt. Đó là nơi tụ tập của lũ trẻ
trong xóm. Đứa lớn nhất cũng là đàn anh của nhóm. Anh ấy mồ côi, thuộc nhiều
câu thơ bi thảm, u uất, và cả thơ đầy hào khí nữa. Anh say truyện Kiều với rất
nhiều bài thơ luận chiến về Kiều.
Dưới bóng cây trưa, lũ trẻ ngồi nghe anh đọc thơ, bình giảng.
Mắt anh mờ đi, có khi gần như khóc, thỉnh thoảng lại chói lên, gần như tóe lửa.
Em về điểm phấn tô son lại
Ngạo với nhân gian một nụ cười!
Ngạo với nhân gian một nụ cười!
Dù là chàng trai quá nhiều mặc cảm nhưng anh vẫn rất cảm khái
với từ ''Ngạo'' của Thái Can. Giọng Quảng của anh đọc thành ''Ngộ''. Lúc đầu,
Phan cứ đinh ninh là anh đã ngộ một chân lí, một triết lí sống để có thể sống
được.
Anh là ''người thầy'' của Phan bên ngoài lớp học.
Anh không phải là người đầu tiên dẫn Phan đến cửa ngõ của văn
triết. Tuổi ấu thơ Phan đã có những hai ''người thầy'' bên ngoài lớp học như vậy.
Nhưng anh vẫn là người đã đánh thức cảm quan vần điệu thống thiết lẫn hùng
tráng trong tâm hồn Phan.
Và Phan sau này mới biết gò đất hoang ấy chỉ là một góc nhỏ của
Tam Kỳ. Phan còn có ở tỉnh lỵ này những ''người thầy'' là bạn học cùng lớp,
cùng trang lứa nữa.
3/
Thầy giáo hướng dẫn năm lớp chín của Phan là một tu sĩ dạy
công dân giáo dục kiêm cả hai môn sử địa. Tấm áo chùng trắng toát của Thầy với
gương mặt khắc khổ của người ăn uống theo lối tân dưỡng sinh, quanh năm gạo lứt
muối mè, như mãi khắc vào trí nhớ Phan. Ấn tượng đậm nhất về Thầy còn đọng mãi
trong Phan là cái nhếch môi cay đắng gần như cay cú. Có phải nơi Thầy có một tuổi
trẻ bừng sôi máu nóng nhưng thời cuộc đã dập tắt, nên Thầy tìm đến kinh kệ và
trường chay để nguôi quên hơn là tìm đường siêu thoát?
Những bài giảng về các thể chế chính trị, về kinh tế với các
hình thái, về lịch sử và các vùng địa lí, hầu như bao giờ cũng đượm lẫn một tâm
trạng u uẩn.
Khi Thầy đã nhập hồn vào bài giảng, không ai còn nhớ đến tấm
áo chùng trắng toát tu sĩ nữa. Thầy cực kì cay đắng với lịch sử cận hiện đại và
thời cuộc (1858 - 1973). Đặc biệt, khi giảng về Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng, hai nhà chí sĩ kiên cường của quê hương Thầy, Thầy như bị thôi miên bởi
chính mình. Ngữ điệu, hình ảnh trong lời văn giảng bài của Thầy vừa cường điệu
tạo ấn tượng mạnh, vừa biếm lộng đến chua chát, cay độc, khi chĩa thẳng vào chế
độ ngụy Miền Nam Việt Nam đương thời.
Lớp Phan vào dịp Tết năm ấy, có một tờ báo tường rực rỡ dựng
ngay trước cửa lớp. Lúc ấy Phan và bạn bè nào biết, tâm trạng của Thầy đã phả
vào những bài báo non nớt ấy.
Cảm thức thời cuộc đã được khơi dậy.
Và một ngày hội cổ truyền, cây nêu dựng lên, học sinh mặc áo
dài khăn đóng, bộ quốc phục ngàn năm, được tổ chức riêng ở lớp Phan, như đánh
thức một tình tự dân tộc bị ngủ vùi trong nếp sống phảng phất chút híp-pi
(hippy) hiện sinh của tỉnh lị. Thầy cũng ngạc nhiên, vì Thầy không đề xướng
cách tổ chức buổi tất niên như vậy. Đấy là lớp tự động bàn với nhau. Khi lớp
bàn bạc, Phan có kể lại một ngày hội của trường Nguyễn Du ở Huế do nhà giáo
cũng là dịch giả thơ Đường, người Tiên Phước, Tam Kỳ, tổ chức. Và lớp hưởng ứng
như một mạch ngầm bùng dậy.
Lớp chín ấy đã tự hình thành một bút nhóm từ bao giờ chẳng
rõ. Những say mê toán học, ngoại ngữ đã bị văn chương, báo chí lấn lướt.
Đặc san mùa hè năm đó có bìa in ty-pô (typo), ruột rô-nê-ô
(ronéo) trên giấy tốt. Những bài văn, thơ chứa chan tình quê hương dân tộc. Người
mẹ Việt Nam là hình tượng khơi nhiều cảm xúc nhất. Phan viết về Mẹ mình vì Phan
xa Mẹ. Phan viết về Mẹ Việt Nam vì Phan mơ hồ cảm nhận Mẹ đang đau xót trong cảnh
đàn con xâu xé nhau giữa một thế cuộc đau lòng trên chính Tổ quốc mình, mà căn
nguyên là bởi thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mỹ và ''tả đạo''...
Ban báo chí lớp chín năm ấy gồm những tấm lòng, những nỗi niềm
thao thức. Và trường tìm trường giao lưu, ''nối vòng tay lớn''.
Bạn bè cũ còn đó, và mãi còn trong tâm hồn nhau cả những năm
tháng sau này:
Tam Kỳ, trời rất thơ ca
thoáng mưa non hạt cho già nắng non
phố phường gió rất trẻ con
reo mai ríu rít hát giòn tan đêm
thoáng mưa non hạt cho già nắng non
phố phường gió rất trẻ con
reo mai ríu rít hát giòn tan đêm
Cây Tam Kỳ rất anh em
chìa trăm nhánh biếc bao thềm nhà thân
nghe bối rối trước ân cần
như có lỗi giữa vô ngần mến thương
chìa trăm nhánh biếc bao thềm nhà thân
nghe bối rối trước ân cần
như có lỗi giữa vô ngần mến thương
Mắt Tam Kỳ rất thật gương
tôi soi thấy thuở đến trường, bâng khuâng
bạn bè trẻ lại, quây quần
ngỡ đang mới lớn, lớn dần trong nhau!...
tôi soi thấy thuở đến trường, bâng khuâng
bạn bè trẻ lại, quây quần
ngỡ đang mới lớn, lớn dần trong nhau!...
Bạn bè cũ còn đó, chắc chắn mãi còn đó một mùa hè dẫu bình
thường trong một thời buổi đã xa.
Những nhận thức tuổi ấy còn non nớt biết bao, nhưng những nhiệt
tình dễ gì tìm gặp lại trong tâm hồn mình, bởi cuộc sống hôm nay đã khác...
Có một thời, tuổi mới lớn như thế...
Dẫu sao, không thể quên được người tu sĩ với tấm áo chùng trắng
toát, trường chay khắc khổ, mang một tâm trạng thường xuyên chua chát, nặng nợ
với Đất nước, xã hội hơn là đạo pháp, đạo hữu.
4/
Tam Kỳ đã thật sự dẫn dắt Phan và bạn bè chí cốt của mình đến
với văn chương.
Ban C (văn chương - ngoại ngữ) năm trước đã có một lớp và đã
xuất hiện hai người thơ trẻ trên tập san văn học lớn của cả Miền Nam (Nguyễn Nhật
Ánh, và Nguyễn Văn Dũng, tức Luân Vũ, về sau đổi là Ngữ Luân). Năm nay, lớp mười
cấp trung học phân ban, ban văn chương - ngoại ngữ có một bút nhóm gần như đông
đủ từ lớp chín. Đây là bút nhóm của khuynh hướng trữ tình phê phán với tâm nguyện
vì tình tự dân tộc.
Tên của bút nhóm nẩy sinh một cách tình cờ nhưng không tình cờ
chút nào từ bài dân ca xứ Quảng. Bắt đầu là rung cảm trước vẻ đẹp của từ ngữ giản
dị và làn điệu dân ca lạc quan đùa nghịch. Khi tách riêng ra, thành một cái
tên, lại đượm những tâm trạng với nhiều ý nghĩa khác hẳn. Đó là Đất Mẹ, là Màu
Da - biểu tượng của Cao Quý Thiêng Liêng.
Bài dân ca ấy từ trong dĩ vãng, trong tiềm thức của quê hương
ruộng rẫy đã cất vang lên giữa sân trường trung học một đêm mưa lạnh, bập bùng
tiếng đàn ghi ta thùng và bập bùng ánh lửa. Nhóm sinh viên cứu trợ nạn nhân bão
lụt Quảng Đà đang tìm về với quê nhà, hong ấm lại tình quê, tình nước trong cơn
đói rét. Suốt một tuần lễ, tay kìm, tay búa, cuốc và rựa, học sinh, sinh viên
tìm về với dân tộc. Chỉ ở nông thôn, với lũy tre xơ xác, mái rạ xiêu vẹo, với
bao người mẹ, người cha khốn khó, bao đứa trẻ bụng ỏng da chì, tình đồng bào ruột
thịt, tình tự dân tộc mới thực sự được giữ gìn và còn mãi ấm nóng. Đó là một
ngoại khóa mà không bài giảng nào có thể mang lại một chất lửa như thế.
Trong trái tim Phan và bạn bè, chừng vang lên hành khúc, tiếng
gọi, để trong những đêm sau đó, còn vọng lên từ đáy lòng mình lời đáp: ''Tổ
Quốc ơi, con đã nghe!'', còn văng vẳng lời bài hát do Thầy hướng dẫn lớp sáng
tác: Hành khúc Trần Cao Vân.
Bút nhóm thực sự hình thành, đi vào hoạt động. Có một người bạn
gái cùng lớp xin gia nhập nữa. Không ai bảo ban, chỉ vẽ. Như một cụm cây tự mọc,
tự đâm rễ, bật chồi. Chỉ là một cụm cây bình thường giữa những phong trào gây
sóng gió trong lòng đất một cách cũng bình thường lúc bấy giờ. Phong trào du ca
sinh hoạt ở các chùa chiền. Phong trào viễn mơ như khát vọng trốn thoát thực tại.
''Đất Vàng'' (Đất nước - dân tộc da vàng) lại nhìn thẳng vào sự thật của thời
mình sống, nhìn thẳng vào thao thức của chính tuổi học trò đam mê văn chương của
mình...
Có một thời, tuổi mới lớn như thế...
Những trưa rất thơ ca cùng nhau lang thang trên đường đê ngợp
bóng hoa vàng, bên con sông lấp lóa cát và nước.
Những chiều làm thơ trong vườn ổi An Thổ xanh ngát, thơm lừng
mùi mật mía từ các lò đường, mùi dầu phụng từ các xưởng thủ công, tưởng chừng
làm đôi khoảng không gian ven đường làng đặc lại.
Những tứ thơ bất ngờ bật ra dưới bóng rừng dương liễu nhìn ra
chiếc cầu đường sắt han gỉ, trong những chiều hôm sau ngày sinh hoạt hướng đạo.
Những đêm thức trắng bên bàn viết.
Nhà Nguyễn Tấn Sĩ như một trại sáng tác. Ông cụ của Nguyễn Tấn
Sĩ lại thấy tuổi học trò đam mê văn chương của mình.
Những đêm đầy ắp hương thị vàng thơm và tiếng lá xạc xào sau
nhà...
Bài vở nộp lại, tìm đến căn gác thầy Nguyễn Văn Bổn (Tần Hoài
Dạ Vũ) - một nhà thơ phản chiến, chống Mỹ, yêu nước, nổi tiếng trên báo chí
công khai lúc ấy. Có lẽ thầy Bổn ngạc nhiên nhưng biết đó là tất nhiên, vì bài
giảng và thơ của thầy đọc trong lớp luôn có lửa.
Có một thời, ngọn lửa dân tộc được truyền đi như thế. Truyền,
và biết chắc lửa sẽ được nối tiếp truyền đi. Bởi từ lâu lắm rồi bối cảnh xã hội
đã chuẩn bị cho những tấm lòng...
Có một thời, tuổi mới lớn như thế...
''Tổ Quốc ơi, con đã nghe!'', một bản nhạc của phong trào và
những bài viết đã được in rô-nê-ô, bìa ty-pô. Cảm ơn ông chủ nhà in, anh ruột của
một người trong nhóm. Cảm ơn nhà văn Xuân Tùng không kiểm duyệt dù chức năng bắt
buộc như vậy.
- Khỏi. Cứ in đi!
Những bích chương với nhiều câu hỏi xoáy vào lòng người do thầy
Bổn viết đã được dán đầy ở các cổng trường trung học trong thị xã.
Báo được treo bán ở các quầy sách.
Những chuyến đi xa đến các trường trung học ở các quận. Những
phút hùng hồn đầy tình tự dân tộc và thao thức xã hội trước các lớp bạn ở các
trường.
Báo với gần 200 bản bán hết vèo trong vài ngày.
Và số 2 là khát vọng ''Xuân thanh bình''.
Lại những đêm thức trắng, viết, đánh máy trên giấy sáp.
Đâu đó có những lời hăm dọa bóng gió, ở các quầy sách, ở quán
cà phê chị Được. Báo vẫn ra, số lượng bản nhiều hơn, bài vở khá hơn (dù bây giờ
có dịp đọc lại, chắc sẽ thấy quá chừng thô vụng).
Và đột ngột Phan bị chặn đường, xúc lên xe GMC., đưa vào trại
tạm giam. Đêm đó, Phan cứ tin mình chỉ bị bắt vì lí do vi cảnh. Chẳng hiểu sao,
một thủ lĩnh học sinh rõ ràng có màu sắc Việt Cộng lại ra nằm ở trại tạm giam,
bên cạnh Phan.
Anh ta ngỡ Phan là Việt Cộng! Phan chỉ trao đổi vu vơ rồi yên
tâm ngủ. Vì lúc ấy, đối lập là chuyện bình thường. Tính chất đối lập, đối trọng
đã thành một nếp sống, ngay trong các trường trung học tỉnh lẻ.
Có phải cảnh sát dàn cảnh để tìm đường dây móc nối chăng?
5/
Nhiệt huyết bùng lên rồi tự lịm tắt, không ai cấm, không ai
trừng trị, dù ngay cả trong gia đình mỗi thành viên của nhóm. Cái chính là sự bế
tắc về tư tưởng...
Tuổi mới lớn của một thời như thế...
Và ngọn gió tình yêu đầu đời, năm mười bảy tuổi, lớp mười một,
đã thổi dịu những ray rứt, trăn trở.
Dù trước đó, Phan rất ghét ''viễn mơ'', nhưng khi yêu, Phan lại
''viễn mơ'' như một người không bước trên mặt đất. Thì ra, người ta không thể
vượt quá lứa tuổi của mình!
Phan lênh đênh trong mộng tưởng như sương và khói.
Những bài thơ tình của Phan thậm chí không phải viết cho người
mình đang thật yêu kia nữa. Chừng như Phan có một tiền kiếp nào đó với một người
yêu trong tiền kiếp ấy. Thì hiện tại được chia về thì quá khứ xa xăm.
Trong những tháng năm trước, Phan đã biết rung động với một
tình cảm ''hình như là tình yêu''. Mơ hồ. Mong manh. Dễ vỡ.
Chừng như mỗi người đều có một dáng dung vô thức hình thành
khi còn tấm bé từ những huyền tượng trong cổ tích, từ những hình tượng trong
văn chương, phim ảnh. Có phải đấy là người trong mộng mà không mấy ai có thể gặp
trên đời? Và đời người là một hành trình ngược vào sâu thẳm từng tầng lớp thời
gian để nhận diện một gương mặt mơ hồ đã kết tinh từ nhiều nguồn đâu đó, và
cũng là hành trình phóng tới tương lai để tìm kiếm không nguôi?
Người yêu đầu đời của Phan chỉ là cái cớ cho tình yêu ấy có một
hình dáng thật. Tình yêu ấy được đan dệt bằng hàng trăm bức thư, mỗi bức như một
tùy bút huyền ảo, có khi gần như một loại tân truyện bay bổng không có một chút
cơ sở hiện thực nào trong đời sống.
Cây mộng tưởng ấy không thể sống vì nó làm gì có đất thực tế!
Tình yêu ấy như một giấc mộng dài gần suốt cả năm học. Phan
như một kẻ mộng du trong tình yêu, một tình yêu chỉ làm nẩy nở trí tưởng tượng
và làm đẹp câu thơ.
Đừng trách gì, hỡi niềm yêu dấu cũ, vì ai có thể sống hoài
trong giấc mộng, cho dù là giấc mộng ngọt ngào!
Và tình yêu viễn mơ đến sớm vào tuổi học trò trung học ấy,
mãi đến sau này, khi đã trưởng thành, Phan mới biết đó là một sai lầm, không
nên có.
6/
Chừng như tuổi mới lớn nào cũng có những cơn địa chấn. Phan
còn có một trận bão lũ khỏa ngập cả đất trời. Cơn đau của mối tình tuyệt vọng
tưởng dìm anh vào cái chết. Phan đã quằn người trong niềm đau.
Cũng mảnh đất Tam Kỳ đó!
Và may mắn thay, ở Phan chừng như có sẵn tự bao giờ một sức bền
chịu đựng. Phan không học kém đi. Học và viết vẫn là phương châm được khắc lên
bàn học.
Với một cách học ''tài tử'', Phan tìm đọc rất nhiều sách, vì
học trình ban C đối với Phan tự bao giờ đã quá hẫng nhẹ. Từ lúc bùng dậy đam mê
văn triết, trừ ngoại ngữ, Phan thường ít học lại những gì đã nghe được ở lớp, kể
cả môn toán.
Trong những cuốn sách tìm đọc, có một cuốn tình cờ Phan mua
được vì rất mỏng nên giá rẻ:
''Kẻ tuẫn đạo'' của Unamuno (1).
Hôm đó như một lạ thường, Phan từ nhà Sĩ đi lên, bỗng dưng
đâm thẳng qua đường đến tiệm tân dược Ngọc Lan, quặt trái, chứ không quẹo phải
như thường lệ. Tiệm sách này không địa lợi lắm và hơi chật chội nên ít người
vào.
Tần ngần trước nhiều cuốn sách nhưng không thể mua vì một lí
do dễ hiểu, học sinh có bao giờ đầy túi.
Sau khi trả tiền cho cuốn sách mỏng và rẻ ấy, Phan về nhà
chúi mũi đọc.
Bàng hoàng như vỡ ra một lẽ thật. Nhưng lạ lùng sao, không có
thất vọng đau đớn nào xảy ra trong tâm hồn. Chỉ một địa chấn nhỏ. Có rất nhiều
điều người ta đã cảm nhận được nhưng vô thức xua đi, quán tính vẫn ngự trị, và
một tác phẩm nào đó chỉ nói lên điều mà vô thức và quán tính bảo phải im lặng
như mặc nhiên thừa nhận. Từ mâu thuẫn thăm thẳm không thể nhận biết ấy, người
ta vẫn say sưa tìm tòi khám phá khoa học, không chấp nhận một giả thuyết nào
chưa được thực nghiệm chứng minh và lô-gích học bảo là hợp luận lý, nhưng vẫn
sùng tín những huyền tượng như một thói quen hoặc như một nhu cầu. Và cơ hồ mỗi
người đều có riêng một hình ảnh về huyền tượng từ sự tiếp nhận, tái tạo theo lý tưởng thẩm mỹ, lý tưởng sống riêng của mình một cách biện chứng tâm linh, có
khi khác xa với nguyên thủy đến không ngờ. Hầu như con người tôn thờ chính khát
vọng thăng hoa của mình từ bi kịch của đời sống. Tôn giáo và văn chương nghệ
thuật phải chăng có chung cội rễ là Nỗi Đau và ước vọng Giải Thoát, Cảm Thông.
Sách xác tín giúp Phan một điều còn mơ hồ chưa dám nói và
cũng không nên nói làm gì, dù sau này, sách vẫn luôn luôn gợi cho anh sự tự tra
vấn để tự giải đáp, như một nỗi niềm hoài nghi khoa học không nguôi, cho đến
khi anh gặp Spinoza (2).
Nhưng quả thực, từ lúc ấy, Phan đủ can đảm để sống khác đi.
Tâm hồn anh vẫn khát vọng chân lý và sự thật. Ở đời, có ai thích dối trá, cho dẫu
là dối trá lương thiện hoặc ''lẽ thật'' qua ngàn năm đã thành dối trá! Đâu riêng
gì Phan.
Phan thân với một tu sĩ Phật giáo. Nhờ là bạn bè cùng lớp,
Phan mạnh dạn trao đổi với người bạn tu sĩ ấy. Thì ra, từ rất lâu, Phật giáo đã
biết thế nào là huyền thoại và thế nào là ''thực nghiệm tâm linh'', như kết quả
của sự tương tác xa xưa giữa Lão học và Thích học (3).
Vâng, tôn giáo, là một hình thái ý thức chưa thể thay thế, và
nó không thể chính trị hóa. Cũng không thể tôn giáo hóa chính trị để thay thế
tôn giáo.
Không có tôn giáo chắc chắn loài người không đạt đến mức nhân
đạo như ngày hôm nay. Nhưng cũng không có cái gì trưởng thành mà không có tuổi ấu
thơ của nó, và ấu thơ thì dĩ nhiên, rất hay huyền thoại hóa!
Cơn địa chấn, trận bão lũ nào rồi cũng qua đi.
Có điều, phải chăng vì căn cơ (tạng chất), Phan đau niềm đau
tình yêu quá chừng đau đớn, mà sự khám phá qua khải thị của Unamuno về ''Đạo'',
dù mang lại sự choáng váng thất vọng, vẫn chỉ là niềm đau xen lẫn với một nỗi
niềm không hẳn là buồn!
Phan lại tự tin hơn trong nhận thức, với một nhận thức nhân
sinh, một vũ trụ quan không tôn giáo.
Có những vùng đất mà ở đó, diễn ra những bước ngoặt của nhận
thức, tâm hồn mình, làm thay đổi cuộc đời mình, ngỡ chừng như sống một cuộc sống
khác, thì làm sao quên được!
Hầu như mỗi người có nhiều mảnh đất chôn nhau cắt rốn khác
nhau. Những lần sau không phải nhờ cha mẹ, chỉ do chính mình tự sinh nở và cắt
chôn.
Con người tự làm nên chính mình trong điều kiện bất kì nào của
hoàn cảnh. Con người phải có tự do, độc lập của riêng nó, để trở thành Con Người.
Anh học được điều này từ thể nghiệm bản thân và cuộc sống bạn bè.
Phan vẫn xem Tam Kỳ là nơi anh đã từng chết đi và tự tái
sinh. Đó là Đất Thánh của riêng trái tim anh, là Quê Hương của riêng tâm hồn
anh.
7/
Tình yêu như cơn gió thoảng suốt năm. Tình yêu như trận bão
làm gãy đổ hết thân cành của một đam mê gần như cơn say thơ ca ngây ngất, mãnh
liệt và đắm đuối. Nhưng thân cành còn non và bộ rễ còn khỏe, cây lại đâm chồi nẩy
lộc.
Bên cạnh tình yêu, một sự kiện chính trị lớn xảy ra trên Đất
nước: những ngày tháng trước và sau hiệp định Paris 1973.
Sân trường được tổ chức như một diễn đàn.
Cuộc đối thoại nẩy lửa giữa học sinh và sinh viên sĩ quan Đà
Lạt, khiến sự đơn điệu buồn tẻ trong nghiêm trang nhường chỗ cho không khí sôi
động, cởi mở.
Cũng vô thức, không hề chuẩn bị trước, Phan đã ứng khẩu một
bài phê phán kịch liệt chế độ với những câu hỏi nhức nhối. Những điều này chưa
ai nói cho anh: Nhà tù cưỡng bức và thực chất chính quyền bù nhìn (4).
Nhóm sinh viên sĩ quan Đà Lạt cực kỳ trí thức và nghiêm túc đến
khô cứng, dẫu đã được huấn luyện để đối phó trước mọi tình huống bất ngờ, vẫn
không che giấu xúc động. Những trí thức mặc đồ lính ngụy ấy không bối rối mà
xúc động, và lạ thay, lại đồng cảm, chia sẻ cùng Phan những băn khoăn! Phan
không thể chấp nhận sự phi nhân và Phan không thể chấp nhận một tầng lớp lãnh đạo
Miền Nam của Đất nước từng là sĩ quan của thực dân! Hầu như sinh viên sĩ quan
Đà Lạt cũng vậy. Bởi đó là một sự thật lịch sử không ai không thấy. Và mọi người
đành chấp nhận! Lịch sử bày ra một ván cờ trớ trêu. Giai đoạn lịch sử này là một
kẻ có đầu óc điên rồ, nếu có thể ví von như vậy.
Hai mươi năm ấy phải chăng như một sự thật oái oăm và một tấn
tuồng bi hài, mà Phan, bạn bè Phan và cả nhóm sinh viên sĩ quan ngụy kia chỉ là
nạn nhân, lại là nạn nhân bi đát ''vì ý thức được tính bi kịch'' (5) trong hoàn
cảnh lịch sử mình đang sống. Phải chăng, tận đáy lòng, ai cũng có những khổ tâm
riêng?
Lúc bấy giờ, tưởng chừng như vô thức lên tiếng nói và cũng vô
thức đồng cảm trong mấy trăm học sinh trước sân trường.
Những tràng pháo tay biểu lộ sự đồng cảm ấy.
Không chỉ Phan. Lên diễn đàn còn có người bạn tu sĩ và một
vài bạn khác với nhiều vấn đề buốt bỏng khác.
Phan quả là ''gã nghệ sĩ'' trẻ tuổi liều lĩnh một cách chân
thành. Quả thực, anh chỉ là gã con trai mới lớn đa tình (với nhiều loại tình cảm)
đến mê đắm, và không ngớt băn khoăn trước những vấn nạn của cuộc sống tâm linh
và xã hội. Phan vừa đam mê vừa tỉnh táo, vừa nhút nhát vừa táo bạo, vừa sai lầm
vừa sáng suốt.
Dẫu mang một gương mặt trầm buồn, trong anh vẫn sống động một
người nghệ sĩ dám dấn thân, trải nghiệm đến giới hạn của đức lý, với đôi mắt mở
to luôn ngạc nhiên, hiếu kỳ một cách hồn nhiên. Anh muốn dấn thân trên con đường
sống thật để sáng tạo.
Dẫu sao, anh vẫn chỉ là gã con trai mới lớn!
8/
Có một kỷ niệm không thể quên được. Chẳng biết bây giờ người
học trò rất nông dân mang dép cao su như ''Việt Cộng'' thuở ấy còn sống hay đã
chết. Còn sống, anh ta đã leo lên đến bậc ghế nào và cống hiến những gì.
Từ hôm đối thoại giữa sân trường bốc lửa, có người học trò ở
một lớp lớn hơn bỗng mang dép cao su lốp xe tìm cách làm quen cùng Phan.
Anh ta chỉ vào đôi dép đang mang và nhìn Phan mỉm cười.
Phan cũng chuyện trò vu vơ.
Những ám hiệu không cùng tần số như chớp lóe rồi tắt lịm
trong cuộc đời.
Mãi sau này, Phan có dịp ngẫm lại, cái tính chất bồng bột đến
khờ khạo một cách chân tình ở tuổi thanh niên thật dễ thương và cũng quá dễ để
gặp tai họa. Tại sao anh học trò Việt Cộng ấy dám bật tín hiệu với Phan trong
khi quá biết Phan sống trong một gia đình không có ai dính líu gì với tổ chức của
họ, thậm chí, dù muốn dù không, cũng là đối phương của họ?
Sau lần ấy, thỉnh thoảng anh ta vẫn cười với Phan mỗi khi
thoáng gặp ở sân trường hay trước hiên nhà. Như một kỉ niệm của tuổi trẻ, lắm
khi nhớ lại, những lần gặp gỡ ấy gợi lên chút cảm động nhẹ nhàng. Có phải nhờ vậy,
sau này Phan đã ''bị'' thuyết phục (đúng hơn, là được thuyết phục)?
Phan vẫn tin ở tấm lòng tuổi trẻ. Khi còn tuổi trẻ, dù với
chính kiến, hàng ngũ nào, người ta vẫn còn nơi tâm hồn mình cả một trời trong
sáng. Vòm trời giữa tâm hồn tuổi trẻ không hề có biên giới và rào gai. Và một
khi sự thật lịch sử đã sáng rõ, chỉ một ''địa chấn'', họ dễ dàng tiếp cận chân
lý xã hội chủ nghĩa, nhất là liên lập trong liên minh quốc tế (một vấn đề khắc
khoải nhất!) (6), nếu nhận thức được tính tương đối của chân lý! Không hề có một
thứ chân lý bất biến và tuyệt đối trên đời, nữa là chân lý chính trị - xã hội,
vốn là một thứ chân lý phải luôn linh hoạt co giãn theo thực tiễn!
9/
Rồi Phan lại xa Tam Kỳ. Chỉ ba niên học ở tỉnh lỵ nhỏ bé ấy
nhưng chất chứa biết bao nhiêu kỷ niệm. Những năm đầu bước vào lứa tuổi thanh
niên là những năm xáo động dữ dội và, phải chăng gần như có tính chất quyết định
cho mỗi đời người?
Tam Kỳ - một tỉnh lỵ chia đều đường sắt xuyên Việt, bé nhỏ,
duy nhất một đường phố sầm uất, khô khốc - lại là nơi chất thơ tiềm ẩn giàu có
trong hồn người.
Tam Kỳ, nơi ấy, có những nhà thơ lãng mạn và hiện thực tên tuổi,
có những tu sĩ, thầy giáo trăn trở, day dứt không nguôi. Nơi ấy, thật sự đã có
một khí hậu tinh thần riêng để lớp trẻ nối nhau vươn dậy trong khát vọng ngấm
ngầm mà cháy bỏng về chân lý nghệ thuật và chân lý cuộc sống. Nơi ấy, cuộc sống
ngỡ chừng đơn điệu, buồn tẻ nhưng vô cùng sôi sục, với những tiếng nói vô thanh
xao xuyến tự mỗi trái tim thành khẩn, không giống nhau.
Nhà thơ Huy Tưởng lớn lên ở đó, với rất nhiều đêm gục đầu trầm
tư về thân phận con người trong niềm cô độc cùng cực, đã ra đi, làm nên nhiều
bài thơ tuyệt vời cho Nỗi Đau, thỉnh thoảng trở về. Trong một đêm thơ nhạc do
nhóm Đất Hứa tổ chức, anh đã chống nạng quay mặt ra cửa sổ lập lòe đom đóm như
ma trơi oan khuất, như bao nhiêu vì sao trên đất tối, không thèm nhìn vào ánh
đèn sáng, đọc trầm thống bài ''Hồ trường'' (7) khắc khoải. Hình như
anh muốn đọc cho đất trời nghe.
kẻ trượng phu
không hay [ai?] mổ gan bẻ cật
phù cương thường
hà tất tiêu dao lưu lạc tha phương
trời Nam ngàn dặm thẳm!
non nước một màu sương!
chí chưa thành danh chưa đạt
trai trẻ bao năm mà đầu bạc
trăm năm thân thế bóng tà dương!
không hay [ai?] mổ gan bẻ cật
phù cương thường
hà tất tiêu dao lưu lạc tha phương
trời Nam ngàn dặm thẳm!
non nước một màu sương!
chí chưa thành danh chưa đạt
trai trẻ bao năm mà đầu bạc
trăm năm thân thế bóng tà dương!
vỗ gươm mà hát
giốc bầu mà hỏi
thiên hạ mang mang ai người tri kỷ
lại đây cùng ta cạn một hồ trường!
giốc bầu mà hỏi
thiên hạ mang mang ai người tri kỷ
lại đây cùng ta cạn một hồ trường!
hồ trường!
hồ trường!
ta biết rót về đâu?
rót về phương đông,
nước biển đông sinh cuồng loạn
rót về phương tây,
mưa tây sơn từng trận chứa chan
rót về bắc phương,
ngọn bắc phong vi vút, đá chạy cát bươn
rót về nam phương,
trời nam mù mịt thẳm
có người quá chén như điên như cuồng!
hồ trường!
ta biết rót về đâu?
rót về phương đông,
nước biển đông sinh cuồng loạn
rót về phương tây,
mưa tây sơn từng trận chứa chan
rót về bắc phương,
ngọn bắc phong vi vút, đá chạy cát bươn
rót về nam phương,
trời nam mù mịt thẳm
có người quá chén như điên như cuồng!
nào ai tỉnh nào ai say
chí ta ta biết, lòng ta ta hay
nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ
hà tất tương phùng [cùng sầu?] với cỏ cây!
chí ta ta biết, lòng ta ta hay
nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ
hà tất tương phùng [cùng sầu?] với cỏ cây!
Nhà thơ Thành Tôn thành danh trên báo chí cả Miền Nam vẫn âm
thầm trong bộ quân phục. Anh sống và làm việc với phận sự một người lính ngụy lặng
lẽ. Anh đâu biết rằng chính sự hiện hữu một cách câm nín của anh ở tỉnh lỵ, quá
đỗi câm nín, vẫn vang vọng những làn sóng đến những trái tim trẻ về thơ ca.
Và nhà văn Xuân Tùng, thầy Nguyễn Văn Bổn (nhà thơ Tần Hoài Dạ
Vũ), thầy Trương Sư Xuyên và anh Nguyễn Hữu Thâu...
(Xin được thắp ở đây một nén nhang tưởng tiếc Ngữ Luân, một
người thơ tài hoa còn quá trẻ).
Những trí thức ấy, những tấm lòng ấy, ở một nơi như Tam Kỳ
thân yêu, chính họ, đã tạo ra một khí hậu cho tuổi trẻ. Họ tạo ra một trường ảnh
hưởng mà họ không hề hay biết.
Phan và bạn bè anh cũng không hề hay biết về khí hậu ấy, dù
đã thực sự sống trong tiếng động tương tác thầm lặng của vùng khí hậu rất riêng
ở tỉnh lỵ của một thời đã xa kia.
Cuộc sống cứ mãi hoài trôi đi một cách vô thức. ''Người ta sống
là để sống'', chứ không thể cứ mãi chiêm nghiệm về cuộc sống, phần lớn là mảnh
vụn thường ngày. Muốn chiêm nghiệm phải cần một độ lắng cần thiết của thời
gian.
Phan đang ngoảnh lại đời mình những năm mới lớn và ngỡ ngàng
bâng khuâng cho những vụng dại, những say mê quá đỗi vô tư. Đúng hơn, là cả một
đam mê cháy bỏng khát vọng sáng tạo (đến mức chỉ với bức xúc vặt, Phan xin rời
bỏ gia đình để về ở chung với bạn, những tháng cuối của năm học lớp mười một!).
Nỗi đam mê cháy bỏng về khám phá, sáng tạo thơ ca dễ khiến
người ta đến với tình yêu hơi sớm (để làm thơ tình cho người lớn!), dễ xúi dại
người ta tự trở thành đứa con hoang (chứ không phải thoát ly gia đình để làm
công tác cách mạng!)! Từ khí hậu kia hay từ trái tim Phan, vang vọng lên tiếng
gọi, bàng bạc mà tha thiết, hướng tới chân trời là trang giấy trắng, lóng lánh nét
chữ ghi lại những câu thơ của lòng mình, chút lòng mình gửi đến cuộc đời.
Mỗi người đều có một tuổi mới lớn của riêng mình, và chắc chắn
đều có lắm thú vị. Cuộc sống mãi mãi thú vị, cho dù bi kịch đến mức nào, nếu ta
thoát được và có dịp ngoảnh nhìn lại bi kịch ấy. Vượt qua bi kịch, mắt sẽ sáng
hơn, chân sẽ vững hơn trên đất đai Tổ quốc. Phan cũng vậy. Xin được mỉm một nụ
cười về những năm tháng đã trở thành xa xưa. Tam Kỳ Xa Xưa ấy đang
không ngừng chảy trong máu anh và trong máu bạn bè.
Ước chi kỷ niệm thuở đó mãi là một hạt sương bé nhỏ được lóng
lánh khát vọng rất thơ ca và không chỉ cho riêng mình - Phan và mỗi bạn bè Phan
có lẽ đều khiêm tốn nghĩ thế.
Viết ngày 28.10.1993
Sửa chữa, bổ sung ngày 4.7.1995; tháng 10.1996 và tháng 5.2003 tại TP.HCM.
(Bài đã đăng trong Kỷ yếu Bốn mươi năm thành lập Trường Trần Cao Vân, Tam Kỳ, Quảng Nam, 1955 - 1995).
Sửa chữa, bổ sung ngày 4.7.1995; tháng 10.1996 và tháng 5.2003 tại TP.HCM.
(Bài đã đăng trong Kỷ yếu Bốn mươi năm thành lập Trường Trần Cao Vân, Tam Kỳ, Quảng Nam, 1955 - 1995).
Chú thích:
(1) Unamuno, "Kẻ tuẫn đạo", Trần Xuân Kiêm dịch,
Quế Sơn - Võ Tánh xb., Sài Gòn, 1971.
(2) Spinoza: Vượt qua hoàn cảnh bi kịch bằng óc phân tích và
thái độ dũng cảm.
(3) Nhất Hạnh, "Đạo Phật đi vào cuộc đời", Lá
Bối xb., Sài Gòn, 1966.
(4) ''Không có thì đánh cho có, có thì đánh cho chừa'' (''khẩu
hiệu'' nhà tù Mỹ - ngụy).
(5) Vận dụng một nhận định văn chương.
(6) "Hữu nghị" với Trung Quốc (nước xâm lược Hoàng
Sa, và về sau là Trường Sa và Biển Đông) hay bị sáp nhập vào liên bang như Liên
bang Xô-viết vẫn là điều không thể và không bao giờ có thể chấp nhận được. Liên
lập đúng nghĩa là các nước độc lập, bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, sự toàn vẹn
lãnh thổ của mỗi nước, cùng liền vai sát cánh với nhau.
(7) Có thông tin cho rằng bài "Hồ trường" của
Nguyễn Bá Trác (1881 - 1945).
CHƯƠNG III: 1973-1975
Thân tặng Nguyễn Quang Thự, Võ Ngọc Bích,
Phạm Hồng Thắng,
Đoàn Ngọc Tri,
Phạm Văn Hoàng, Trần Xuân Bình và Thịnh Huế
cùng Ngô Vưu, Nguyễn Chiến, Phạm Bá
Thịnh,
Tôn Thất Dụng, Võ Văn Tám (Võ Nguyên),
Lê Phước Sinh (Lê Phước Dạ Đăng),
Trương Đặng Nguyệt Thanh, Tăng Lý Thị Tuyết
và Nguyễn Thị Thu Nguyệt...
1.
Cũng không phải đến cuối năm lớp mười một, Phan mới xách áo
quần cùng hai bao sách gồm những cuốn thuộc loại "nặng ký" Phan xem
là quý nhất ra Đà Nẵng, với dự định sẽ tiếp tục học, mà ngay trong mùa hè cuối
năm lớp mười, Phan đã từng làm thế. Có điều, bấy giờ, hoàn cảnh thật khó khăn.
Mẹ Phan cùng với phần lớn đồng bào Quảng Trị đã phải tản cư vào Đà Nẵng, trong
khi đó, một số lượng không ít, gồm cả làng ngoại của Phan, đã sơ tán ra phía Bắc.
Bấy giờ, sau khi ghé thăm nhà ba ông anh, thấy các anh con cái đông đúc, nên
Phan đã rất ngần ngại. Lại ngần ngại đến xót xa khi qua Non Nước, bên kia sông
Hàn, nơi có đến vài ba trại tiếp cư dân tị nạn chiến tranh Quảng Trị, để tìm
thăm mẹ. Mẹ đang cùng với một đứa cháu gái (gần như là con nuôi) ở đấy, trong một
túp nhà nhỏ bằng một căn phòng độc thân, vách ván ép, gỗ thùng đạn ca-nông ghép
lại, mái lợp tôn thấp tè, nóng hực. Nhìn hình dung mẹ tiều tuỵ với mái tóc đã bạc
gần nửa, Phan ứa nước mắt. Phan không hỏi, vì sợ hỏi là nhắc lại, khiến mẹ thêm
buồn, và cũng vì Phan biết chắc căn nhà mới sửa lại ở phố huyện Diên Sanh, Quảng
Trị ngoài kia đang bỏ hoang như hàng trăm, hàng nghìn nếp nhà khác ngoài đó.
Cũng có thể, đạn bom đã làm tan nát cả rồi! Thế là thêm một lần nữa, mẹ trắng
tay, trong hoàn cảnh chung của đồng hương Quảng Trị. Bởi thế, nên Phan chỉ ở lại
an ủi mẹ ít hôm. Sau đó, Phan đành ngậm ngùi vào lại Tam Kỳ chuẩn bị học tiếp lớp
mười một. Nỗi khổ đau chiến tranh không chừa một ai. Và còn hoàn cảnh riêng nữa,
đâu phải ai cũng may mắn!
Nhưng đến cuối năm lớp mười một, Phan cảm thấy không còn chọn
lựa nào khác. Lần này, sau khi xem thông báo ở văn phòng Trường Trung học Phan
Châu Trinh Đà Nẵng về việc chuyển trường, nhận thấy mình đủ điều kiện, nên Phan
quay vào Tam Kỳ, rút tất cả hồ sơ học bạ, ra nộp. Với mức điểm cao trong sáu tấm
bìa đôi học bạ cùng những lời phê sáng giá, Phan được nhận hồ sơ vào trường
ngay. Và không lâu sau, có ngay tên Phan trong danh sách được chấp thuận. Lúc
này, mẹ Phan và đứa cháu gái cũng đã hồi cư cùng với đồng hương tị nạn chiến
tranh Quảng Trị. Ba Phan đã về hưu từ hai năm trước. Ông cùng với một ông anh
khác của Phan, cũng cùng mẹ, ra ngoài ấy, tu sửa lại nhà cửa. Phan cảm thấy
mình đáng trách vì không giúp được gì cho mẹ. Nhưng biết làm thế nào được!
Trong những tháng đầu niên khóa 1973 - 1974 ở Đà Nẵng, Phan sống
khá quạnh quẽ trong một căn hầm trú ẩn, cạnh nhà ông anh. Đó là hầm trú ẩn nổi
trên mặt đất. Bên ngoài là bao cát chất chung quanh và chất dày trên nóc, nhưng
bên trong là một thùng Cô-néc (Conex), vốn để chứa hàng đông lạnh, được sơn trắng,
rất sạch sẽ với một chiếc giường sắt cá nhân, một bàn viết và một kệ đựng sách.
Đèn ống trắng (néon) đủ sáng sủa. Thế là chỗ ở, chỗ học đã yên. Ông anh thứ còn
có một tủ sách rất đáng kể, Phan có thể sử dụng thoả thích. Áo quần Phan cũ rách
và quê kệch, thì mặc tạm áo quần đứa cháu trai vậy, cũng không có gì quan trọng!
Gần suốt nửa năm học, Phan sống và học tập trong quạnh quẽ.
Người thường xuyên đến chơi với Phan lại là đứa cháu trai ấy. Tuy là cháu,
nhưng cùng tuổi, cùng khối lớp và cùng trường, chỉ khác ban.
Đó là thời gian việc học tập của Phan có phần giảm sút hơn so
với ba năm học ở Tam Kỳ. Tuy thế, bên cạnh việc học tập, nhức nhối với những
trang sử (trong sách giáo khoa và "Việt Nam sử lược" của Trần
Trọng Kim), Phan vẫn sáng tác thơ và viết cảm nhận văn chương, mặc dù với một
tâm trạng u ám, nặng nề, bế tắc trước thực trạng chiến tranh và tương lai đất
nước, theo nhãn quan của Phan và bạn bè lúc đó. Thậm chí, vì bế tắc trước hiện
tại và tương lai chung, nên Phan đâm ra hoài cổ xa xăm, lại bâng quơ nhớ thương
mùa sen ngát hương nữ sinh Thành Nội, hay chìm đắm trong tình yêu đương mộng tưởng,
để trí tưởng tượng bay cao, bay xa đến những vùng đất lạ, như cao nguyên chập
chùng mây sương, phảng phất bóng dáng nhân vật thi sĩ trong một truyện ngắn
(cũng là một vở kịch) của William Saroyan...
2.
Có một sự kiện thật ra không có gì ghê gớm nhưng báo chí đăng
tải ầm ĩ.
Một buổi sáng, nhà trường cho phép một số lớp học sinh Phan
Châu Trinh sang sân trường Hồng Đức (Nữ Trung học) để xem cuộc trình diễn dân
ca của hai nhạc sĩ du ca Mỹ - Việt. Phạm Duy là tên tuổi lớn của âm nhạc Việt
Nam. James Dusk hình như cũng rất nổi tiếng ở Mỹ. Vì tên tuổi của hai nghệ sĩ
là như thế, nên hai ban giám hiệu hai trường mới ưu ái đến vậy.
Tuy nhiên, trong giới học sinh, trí thức Đà Nẵng, nhiều người
vẫn thích cuốn sách "Phạm Duy đã chết như thế nào" của Nguyễn
Trọng Văn, vì Nguyễn Trọng Văn chỉ trích việc Phạm Duy sửa đổi ca từ trong số
kháng chiến ca hồi chống Pháp... Vả lại, James Dusk lại hát một bản nhạc, hình
như thuộc loại nhạc đồng quê (country music), do anh ta sáng tác, có lời ca là
một chuỗi nói vòng nói vèo rất chướng tai, Phạm Duy hát lời Việt xen kẽ. Vì thế,
từ đám đông học sinh trên sân trường, vài quả trứng liền được ném vào hai nhạc
sĩ. Trứng vỡ ra vàng choé. Không biết có phải là trứng thối đúng nghĩa không,
nhưng hành vi ấy rõ ràng là đúng cung cách và ý nghĩa Mỹ: Hát thối lắm, hãy dẹp
ngay! James Dusk tái mặt, buông đàn, im bặt... Phạm Duy cũng thế.
Thế là cuộc trình diễn đành phải chấm dứt. Hai nhạc sĩ cụp mặt,
quay bước đi vào phía trong. Học sinh, thầy cô giáo bỏ ra về. Phan cũng như nhiều
người cảm thấy bạn nào đó đã thực hiện hành vi bày tỏ thái độ rất đích đáng.
Hôm sau vào lớp, giáo sư triết Nguyễn Lương Hiền nói ngay với
cả lớp 12C của Phan: "Hai nhạc sĩ ấy hát như vậy, thật là làm loạn bại
luân lý. Không thể chấp nhận được!".
Báo chí Sài Gòn và Đà Nẵng đều giật tít lớn trên trang nhất:
Học sinh, trí thức Đà Nẵng đã ném trứng thối vào Phạm Duy, James Dusk.
Cũng vụ này, mãi đến bao nhiêu năm sau, Võ Nguyên (Võ Văn Tám
của lớp 12C Phan Châu Trinh năm ấy) còn viết thành một truyện ngắn.
3.
Một sự kiện lớn gây chấn động cả Miền Nam, cả nước và khắp thế
giới cũng xảy ra vào cuối học kỳ một của niên khoá ấy: Trung Quốc (bấy giờ báo
chí gọi là Trung Cộng) đã đưa quân xâm chiếm tất cả những đảo còn lại thuộc quần
đảo Hoàng Sa (Paracel), sau khi đánh bại một số tàu hải quân của chế độ Sài
Gòn.
Trong lớp Phan và trong những quán cà phê tại Đà Nẵng cũng
như trên báo chí, mọi người đều không ngớt bàn luận với niềm đau đớn, phẫn nộ.
Người này nói: "Bây giờ mới khẳng định đích xác là Cộng sản xâm lược thật
sự". Người kia bảo: "Trung Quốc, tức là Hoa Lục, xâm lược, chứ đâu phải
cả khối cộng sản trên thế giới!". Một người khác nữa, diễn đạt rõ hơn:
"Trung Cộng có dã tâm từ lâu rồi và đã xâm lược một ít đảo thuộc Hoàng Sa
từ năm 1956 kia! Rất nhiều người đi lính "Quốc gia" cũng chỉ vì Trung
Cộng xâm lược".
Luồng ý kiến thứ ba ấy, không phải lần đầu tiên Phan nghe và
đọc được. Từ lâu, những người thân của Phan cũng đã biết rõ điều ấy, và xem
Trung Cộng cũng y như Pháp, Nhật về phương diện thực dân cũ, lại cũng y như Mỹ
về phương diện thực dân mới. Khái niệm "chiến tranh giữa hai khối trên thế
toàn thế giới" cũng bao hàm cả hai loại thực dân cũ và thực dân mới, vừa kiểu
cũ đồng thời vừa kiểu mới này.
Có lẽ nhiều nơi khác cũng như tại Đà Nẵng, liên tục những cuộc
mít tinh, biểu tình được tổ chức với nhiều tấm băng rôn, bích chương, biểu ngữ,
khẩu hiệu, lớn, nhỏ, đủ kích cỡ.
Phan thật sự đắng nghẹn trước sự kiện này. Mặc dù sự xâm chiếm
của Trung Quốc đối với một phần phía Bắc quần đảo Hoàng Sa đã diễn ra từ năm
Phan mới được sinh ra đời, nhưng đây vẫn là một sự kiện phơi bày rõ ràng, không
thể che đậy về lòng dạ tham lam, nham hiểm của Trung Quốc. Phan cảm thấy cả hai
phe, Miền Nam - Miền Bắc, đều bị siết chặt vào hai gọng kìm lịch sử trên bình
diện toàn cầu, và đều bi kịch (*).
Phan thực sự không còn hướng ngọn bút sáng tác văn chương của
mình vào hiện tình Đất nước và Dân tộc như thuở ở Tam Kỳ với bút nhóm, tập san
Đất Vàng. Đất Vàng, năm tháng ấy, là theo thành ngữ "tấc đất tấc
vàng" (quý trọng sự toàn vẹn Đất - Nước trước mọi thế lực xâm lược). Đất
Vàng, năm tháng ấy, là lãnh thổ của dân tộc Việt Nam da vàng (khẳng định da vàng
để đối kháng với da trắng Âu Mỹ, như tên một tập nhạc, một ca khúc của Trịnh
Công Sơn). Lúc này, ngẫu nhiên nhưng không phải ngẫu nhiên, lại được cụ thể hoá
thành Hoàng Sa (Cát Vàng), Hoàng Sa Thổ (Vùng Đất Cát Vàng). Tuy thế, Phan thật
sự đã rơi vào bế tắc. Cuộc chiến tranh đang diễn ra trở nên vô nghĩa. Cũng có
thể cả hai bên đều phi nghĩa hay đều chính nghĩa, vì vậy, theo đó, thì tiếp tục
chống đánh nhau cũng đều vô nghĩa. Bấy giờ, mức độ nhận thức của Phan chỉ đến vậy.
Tuy thế Phan không thể không băn khoăn, trăn trở. Những câu hỏi
lại nẩy bật trong lòng, xoáy buốt. Thực trạng và tình huống không giúp Phan làm
nổi rõ ý thức cân nhắc xem bên nào có công nhiều hơn, bên nào có tội nhiều hơn.
Bấy giờ, chỉ biết là đành rằng, Cách mạng có công rất lớn, nhưng đồng thời lại
kết tình hữu nghị thắm thiết với một nước anh em đang xâm lược Đất Nước mình,
thì liệu Cách mạng còn giữ được công lao thắng Pháp, góp phần thắng Nhật của
Cách mạng hay không? Nếu Cách mạng giải phóng được cả Miền Nam như mục tiêu đề
ra, thì liệu cả nước có trở thành thuộc địa của Trung Cộng không?
Đâu phải riêng Phan, bạn bè Phan hẳn đều vướng mắc, khắc khoải,
bế tắc như vậy. Một giả định bỗng chói sáng: Lực lượng nào chống Pháp, chống Nhật,
chống "tả đạo" Thiên Chúa giáo và chống Mỹ, lại chống cả Trung Cộng,
giành lại Hoàng Sa, thì lực lượng ấy mới thật sự trở thành điểm tựa cho mọi người
Việt Nam trao đặt niềm tin và xả thân vì Đất Nước mà không hối tiếc đã chọn lầm
điểm tựa. Nhưng giả định chỉ là giả định mà thôi.
Những người sống trong hoàn cảnh đó, hay đặt mình vào hoàn cảnh
đó, mới có thể thấu hiểu và cảm thông với Phan, với bạn bè Phan thuở ấy. Những
ai chưa sống ở Miền Nam trong giai đoạn bấy giờ, lại tư duy theo kiểu máy móc,
hẳn rất khó hình dung, chia sẻ.
Thuở ấy, một khi đã nhận thức và sống với tâm trạng như thế,
Phan chỉ sáng tác thơ theo đề tài muôn thuở, chìm đắm trong yêu đương, xem yêu
đương như một thứ tôn giáo. Rồi cũng đến lúc Phan không thể mãi làm thơ yêu
đương tưởng tượng được nữa. Phan đọc sách, viết cảm nhận. Và sau Tết Nguyên
đán, kì thi tú tài cuối học kì hai sắp đến cũng buộc Phan phải chúi mũi học,
cho dù Hoàng Sa vẫn còn là một nỗi đau nhức nhối. Quần đảo ấy vừa là những vết
thương lịch sử lở lói vừa là chùm bóng đèn sáng soi sự thật lịch sử.
4.
Trước Tết Nguyên đán, Phan đã lên nhà của ông anh cả, cha của
đứa cháu trai cùng tuổi, cùng khối lớp, cùng trường, để tiện việc ăn ở và học tập.
Đó là một căn hộ trong một khu cư xá.
Nếu thời còn học ở Huế và Tam Kỳ, rất hiếm hoạ Phan đi nhà thờ
Chúa để xem lễ, thì trong những tháng tại đây, mặc dù nào có ai nói gì, Phan vẫn
cảm thấy khó từ chối việc ấy. Thôi thì cũng đi cho vui cả nhà, Phan tự nhủ thế,
nhưng thực lòng, Phan không còn một mảy may đức tin.
Đứa cháu trai ấy có đến bảy đứa em. Buổi sáng, buổi chiều thì
tất cả chú cháu hầu như đều đi học ở trường. Buổi tối lũ nhỏ học bài inh ỏi.
Mãi đến gần khuya mới có được chút yên tĩnh. Vì thế, phải học rất khuya, có khi
suốt đến sáng.
Khoảng tháng ba dương lịch, Sở Học chánh Đà Nẵng có tổ chức
cuộc thi học sinh xuất sắc từng môn thuộc khối lớp 12. Phan và một người bạn
khác, Trần Thiếu Duy, được giáo sư triết Nguyễn Lương Hiền cử đi dự thi, với
hình thức làm bài luận viết. Kết quả, Duy lãnh giải nhất và Phan chiếm giải nhì
toàn thị xã (cấp tương đương với thành phố trực thuộc trung ương hiện nay).
Phan cũng tự biết bài luận viết của Phan có phần sút kém so với năng lực vốn có
do thức quá khuya những hôm trước. Và oái oăm là trong kỳ thi học kỳ hai, thi
trắc nghiệm, Phan bị bệnh đến liệt giường mấy hôm, lại nhằm hôm thi môn triết!
Thành ra, mặc dù là học sinh chiếm được giải nhì kỳ thi diện xuất sắc ấy nhưng
phải chịu nhận điểm thấp nhất của một bạn nào đó trong lớp, ở cột điểm triết thứ
hai trong học bạ. Nghe đâu Đoàn Ngọc Tri lại đạt điểm cao nhất. Hóa ra, Trần
Thiếu Duy trội lên nhờ kỹ năng viết, chứ đi vào thi trắc nghiệm, Duy cũng còn
kém thua Tri.
Cuối năm, lại xảy ra một vụ đứng tim vì kỳ thi tú tài IBM... Thi xong, Phan tin chắc là mình đủ điểm để đậu, mặc dù đã phòng xa, "trừ
hao" khá nhiều, nghĩa là "tệ nhất" cũng đậu hạng thứ hay bình thứ.
Không ngờ, khi báo ở Sài Gòn đăng tải danh sách thí sinh trúng tuyển, lại không
có tên Phan, trong khi đó các thí sinh cùng phòng thi, cùng trung tâm thi đạt
điểm đậu không ít, danh sách ghi tên họ, thứ hạng rành rành! Phan tột cùng đau
khổ. Mãi đến vài ba hôm sau, báo lại đăng tin sẽ có danh sách bổ túc, vì có nhiều
bài do máy IBM hơi cổ lỗ đã loại ra, phải triệu tập giám khảo chấm bằng tay, với
bộ chìa khoá là những tấm bìa đục lỗ. Hú hồn, Phan vui mừng đến sững sờ khi đọc
thấy số ký danh, họ tên mình và hạng đỗ trên báo! Đến Sở Học chánh xem lại,
Phan biết thêm, mình đạt điểm triết khá cao, và tổng cộng số điểm các môn, vượt
khỏi hạng bình thứ, đứng ở hạng bình! Thế là chỉ thua hạng ưu mà thôi. Đây là
kỳ thi tú tài toàn phần đầu tiên và duy nhất được tổ chức thi với hình thức trắc
nghiệm và chấm bằng máy tính điện tử IBM như vậy.
Thế là Phan hí hửng ra Huế nộp đơn thi vào ban Việt - Hán
Khoa Sư phạm thuộc Viện Đại học Huế, hệ đào tạo giáo sư đệ nhị cấp (giáo viên cấp
III, phổ thông trung học). Năm nay, ban tuyển sinh chỉ nhận những hồ sơ có bằng
tú tài từ hạng bình thứ trở lên. Nếu thi tú tài, có thể bị những môn phụ, làm
Phan bị chi phối, ít nhiều phải lo âu, thì ở kỳ thi mỗi một môn chuyên ban này,
Phan rất tự tin. Tất cả đều ở trong máu Phan rồi, khỏi cần ôn thi, luyện thi gì
cả. Thi viết, Phan đạt điểm hình như cao nhất, nhờ kỹ năng diễn đạt bằng giấy
bút. Thi vấn đáp, bị vướng đôi chút. Thành ra, chỉ đứng ở vị thứ 5/40 trong
danh sách trúng tuyển. Khác với sau này, thời đó, chỉ có Đại học Sư phạm là
khoa "đắt giá" vì sau khi tốt nghiệp, chỉ số lương cao, lại không phải
bị bắt vào quân đội. Bác sĩ ư? Sĩ quan quân y. Kỹ sư ư? Sĩ quan công binh hay
các ngành kĩ thuật quân sự khác. Văn khoa, Luật khoa cũng phải bị bắt vào lính!
Chỉ giáo sư suốt đời vẫn cứ dân sự. Là một người tuổi trẻ phản chiến, sự chọn lựa
của Phan vào Đại học Sư phạm có nguyên do là thế.
Thế là Phan từ giã Đà Nẵng để ra lại Huế, sinh quán của Phan.
Ra học ở Huế, Phan được tự do "nhạt đạo", "bỏ đạo", tuyệt đối
không đi nhà thờ Chúa nữa. Và như thế cũng chẳng làm mất lòng ai.
5.
Phan trở lại ngôi nhà nơi Phan được sống những ngày đầu tiên
trong đời, cách đó đã mười tám năm. Ngôi nhà lớn cũ kỹ, một gia đình viên chức
thuê nhiều năm nay đã chuyển đi nơi khác, thay vào đó là gia đình một lương y mộ
Đạo Phật, người Quảng Trị. Chỉ còn một phòng phía trước nhà ngang, nơi Phan và
ông anh ở, năm Phan học lớp tám, đang vắng người thuê. Hai phòng trên căn gác
nhà ngang, người chị đang học Luật khoa năm cuối của Phan ở một phòng, và phòng
còn lại, thuộc về Phan và Cao Hùng Phi, một người bạn lớp 12C Phan Châu Trinh,
nay ghi danh vào Đại học Văn khoa, cũng thuộc Viện Đại học Huế. Nhưng rất tiếc
là Cao Hùng Phi không lâu sau đó đã vào Đà Lạt. Tiếp đến là Hùng Huế. Hùng Huế
cũng vốn là học sinh Phan Châu Trinh Đà Nẵng, nhưng khác ban với Phan.
Khoa Sư phạm thuộc Viện Đại học Huế hình như được khai giảng
khá muộn. Mãi đến tháng 10 dương lịch mới nhập học. Lớp Việt - Hán năm thứ nhất
của Phan chưa đến 40 sinh viên.
Mùa đông 1974 ở Huế cũng thật lạnh, và mưa dầm lê thê. Những
buổi sáng đi bộ từ nhà trong Thành Nội, qua cầu Trường Tiền, để đến trường, có
khi rét cóng cả người.
Có một điều rất buồn cười, thuở còn trẻ kể lại hẳn ngượng
chín người, nhưng khi đã trải đời, thấy cũng chỉ ở mức khôi hài thôi. Trong những
năm trung học, trừ năm chuẩn bị thi tú tài, Phan vốn chú trọng đến nội tâm, nên
không quan tâm nhiều đến trang phục bên ngoài. Chính cái năm ở Đà Nẵng, một
thành thị khá chuộng thời trang, không kém gì Sài Gòn, Phan bỗng dưng nhận ra mình
hơi quê kệch trong cách ăn mặc. Vả lại, áo quần hầu hết đều mặc nhờ của đứa
cháu trai, nên hơi kỳ cục. Tiền trong túi không có một xu. Thành ra, khi mẹ
Phan đã tương đối ổn định việc buôn bán, Phan được mẹ cho tiền để may sắm,
ngoài số tiền cơm tháng đều đặn. Như một cực đoan, từ cực đoan này nhảy sang cực
đoan khác, ở tâm lý lứa tuổi mới bước vào độ tuổi thanh niên, Phan lại có vẻ
"diện". Nhưng thực chất cũng tự cảm thấy khó chịu vì cách mặc thời
thượng bấy giờ. Áo chẽn, rất chật chội. Quần lưng cao, ngồi hơi ngạt ở bụng. Guốc
da, được gọi là sa-bô (sabot), cũng không tự nhiên, thoải mái. Nhưng dẫu thế,
Phan vẫn chính là Phan của đam mê văn chương, triết học và sử học... Tuy bỗng
chốc có vẻ như "công tử bột" đỏm dáng, Phan vẫn đạt điểm cao nhất về
môn hành văn. Môn tâm lí giáo dục cũng thế.
Ở Đà Nẵng, Phan viết một bài khá tâm đắc về "Chinh
phụ ngâm": "Tôi và nàng chinh phụ xa xưa". Tại Huế, Phan đọc
và phê bình cuốn tiểu thuyết "Ngựa chứng trong sân trường" của
Duyên Anh (Vũ Mộng Long), một tác giả trước đó chuyên viết về du đãng, kế đến
là về tuổi ngọc. Nhà văn này đang thách tranh luận về tính sư phạm trong tiểu
thuyết của mình với một nhà giáo trung học, tại Khoa Sư phạm thuộc Viện Đại học
Sài Gòn, làm ầm ĩ trên báo chí. Bài viết của Phan có nhan đề: "Chút
mê sảng hồn nhiên". Bài kia, Phạm Hồng Thắng, một bạn học rất trân trọng kỷ niệm học trò, vẫn còn giữ được. Còn bài này, không biết đã thất lạc về đâu? Có
bạn bè nào còn lưu giữ như Phạm Hồng Thắng?
Huế của học kỳ một niên học 1974-1975 không có sự kiện gì nổi
bật. Phong trào sinh viên học sinh vốn rất vang dội trong nhiều năm trước nay lại
chìm lắng. Phan nghĩ, Huế cũng bế tắc. Chắc sự kiện Trung Quốc xâm chiếm Hoàng
Sa một cách trắng trợn đã là một nguyên nhân? Trước đây, Mỹ và Trung Quốc, hai
gọng kìm lịch sử đã siết lại một cách thô bạo, bất chấp dư luận thế giới! Nay
Trung Quốc càng bộc lộ dã tâm, và Mỹ đã rút quân... Phan tự nhìn vào tâm tư của
mình để tìm câu trả lời đúng đắn, xác đáng. Và cũng bế tắc.
Có một anh chàng tàng tàng, được gọi là sinh viên "liên
khoa" vì không học ở một khoa nào cả nhưng xuất hiện ở mọi giảng đường, từ
Y đến Luật, từ Khoa học đến Văn khoa và cả Sư phạm, luôn tìm cách cướp máy vi
âm, phát biểu một câu: "Thà chấp nhận khiêu vũ (đồi truỵ), còn hơn chấp
nhận chiến tranh (đổ máu)". Có phải anh ta muốn nói, thà chấp nhận đồi truỵ
như Mỹ đi, chứ đừng tham gia Mặt trận Giải phóng nữa? Đó là đầu đề gây cười chảy
nước mắt trong các quán cà phê sinh viên, như Tổng Hội, Chị Lợi, Góp Gió... Thật
ra, ngẫm nghĩ cho kỹ, câu nói khùng khùng ấy cũng ít nhiều phản ánh tạng chất
Huế. Huế chống Pháp, chống Mỹ bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên
nhân là về văn hóa. Huế bấy giờ không chấp nhận văn hóa lai căng, mất gốc.
Sau Tết Nguyên đán, bước sang năm 1975 được ít lâu, chiến
tranh đã bùng nổ dữ dội hơn ở đâu đó trên Tây Nguyên. Quảng Trị cũng bắt đầu
vang tiếng súng.
Dưới trời mưa dầm, mặc dù đã giêng hai, sinh viên lớp Phan
cùng nhiều lớp khác đã tự nguyện đi cứu trợ đồng bào Quảng Trị tản cư vào Huế.
Nhân dân Huế và sinh viên Huế mơ hồ suy đoán là sẽ có một mùa hè đỏ lửa nữa,
như năm 1972?
Ở Quảng Trị, mẹ Phan và bà con ruột thịt của Phan vẫn còn
đang ở đó. Phan rất nóng ruột, ra bến xe hỏi thăm, mới biết Diên Sanh và cả quận
Hải Lăng chưa được lệnh tản cư! Phan chỉ biết ngẩng mặt nhìn trời mưa xám xịt.
Mẹ Phan đã bị cháy nhà năm 1968. Sau khi xây được phần nhà sau khang trang, sạch
sẽ hơn, đến năm 1972, lại bị sập đổ. 1973, hồi cư, đến nay, vẫn chỉ là ba vì
kèo, loại kèo một mái tôn, vốn là cọc sắt hàng rào quân sự được hàn lại, từ nhà
trước nối mái bằng gỗ, bằng tre và cũng lợp tôn lui tận nhà bếp, nên nhà bếp thấp
tè, gần đụng đầu. Phên nhà là những tấm tôn đã bị đạn và miểng đại bác, miểng
bom đâm thủng, xé rách, ghép lại. Nền gạch và xi măng đã thành nền đất. Đến lúc
này, không biết rồi sẽ ra sao? Phan thầm nghĩ, phe nào chống Pháp, chống
Nhật, chống Mỹ và chống cả Trung Cộng, giành lại được Hoàng Sa, hãy chiến thắng
hẳn đi! Không thể cứ chiến tranh mãi như thế này được. Nhưng đó chỉ là giả định
và mơ ước!
6.
Khi Phan đi học về, trên căn gác đã có cả ba Phan lẫn mẹ
Phan. Hoá ra, ba Phan khi hay tin chiến sự nổ ra ở Quảng Trị, đã tức tốc ra
ngay ngoài đó, và cũng đúng lúc phố huyện Diên Sanh lục tục tản cư, theo lệnh của
chính quyền cũ. Bấy giờ, khoảng đầu tháng 3-1975.
Gặp mẹ, trong cảnh này, Phan vừa mừng vừa muốn khóc. Cả nhà,
gồm ba mẹ Phan, Phan và chị Việt Quất - người chị gái đang học Luật -, chuẩn bị
vào Đà Nẵng, vì dân ở Huế có nhiều người cũng đã nhanh chân tản cư vào đó. Anh
Dõng, người yêu của chị Việt Quất, cũng cùng gia đình anh ấy sắp rời Huế, đến
chia tay với chị. Nhiều người chua chát, buồn lo cho gia đình, cơ ngơi, bảo
nhau, "Đã 'rút lui chiến thuật' ở Tây Nguyên, thì chắc cũng phải
'rút lui chiến thuật' ở Quảng Trị, Thừa Thiên", hay "Năm 1972, giới
tuyến từ sông Bến Hải dời vào sông Thạch Hãn, thì năm 1975 này, giới tuyến sẽ dời
vào tận đèo Hải Vân". Đối với phần lớn nhân dân, chiến tranh là thảm họa,
và thảm họa, thế thôi.
Cũng bay giạt theo bão táp chiến tranh, Phan đành theo gia
đình một người bạn có xe khách chạy tuyến Huế - Đà Nẵng. Khi ba mẹ Phan và chị
Phan lên xe vào đó, thì cũng là lúc Phan đu theo xe khách nhà bạn. Hoá ra, trên
các quãng đường đèo, vô số xe đã kẹt cứng. Có xe phải bị xô xuống vực vì chết
máy dọc đường, để trống đường cho đoàn xe phía sau. Đêm xuống, tất cả những
cung đèo Hải Vân đều sáng đèn xe cộ đủ loại, và những bóng đèn xe ấy di chuyển
rất chậm chạp, tưởng chừng như bất động.
Cuối cùng, chiếc xe cho Phan đi nhờ cũng đến Hòa Khánh. Từ
Hòa Khánh vào đến Đà Nẵng, vô số trạm gác mọc lên. Quân cảnh và cảnh sát, phối
hợp cùng lính tráng, lục soát, kiểm tra rất ngặt.
Hôm sau, Phan được gặp một số bạn cùng lớp, cùng trường ở Huế.
Tất cả đều bảo Viện Đại học Huế đã di chuyển vào Sài Gòn. Thế thì trường đi
đâu, mình chạy theo đó hay sao? Có bạn nào ở lại đây không? Chỉ những câu hỏi
trao đổi với nhau như thế.
Thế là phải di tản vào Sài Gòn nữa!
Ông anh của Phan liên lạc được với một chủ tàu buôn có xà lan
chuyên dùng để chở nước mắm. Cả nhà chạy qua Tiên Sa trong bóng đêm. Xà lan đã
đầy cứng người, bốc mùi nước nắm nồng nặc.
Thế rồi tàu kéo xà lan cũng ra được vùng hải phận xa bờ.
Dưới nền trời hừng đông xám mờ, Phan nhìn mẹ hốc hác, nước mắt
còn rưng rưng trong tròng mắt đỏ hoe, vì chị Linh - người chị cùng mẹ của Phan
- mới sinh đứa con đầu lòng, chồng chị ấy sợ cháu nhỏ chết trên xà lan, nên hai
vợ chồng đã ở lại Đà Nẵng. Phan tự bảo, khi nhìn ra mặt biển hãy còn xám đen, lấp
loáng dợn sóng: Phe nào chống Pháp, chống Nhật, chống Mỹ và chống cả Trung
Cộng, giành lại được Hoàng Sa, hãy chiến thắng hẳn đi! Không thể cứ chiến tranh
mãi như thế này được. Nhưng đó chỉ là giả định và mơ ước!
Vào đến Sài Gòn, trong hơn một tháng sau, mặc dù đã liên lạc
được với Viện Đại học Huế di tản, và nghe phong thanh là sẽ sáp nhập vào Viện Đại
học Sài Gòn, Phan vẫn luôn tự nhủ thế. Phan cũng chua chát nghĩ, đó chỉ là giả
định, là mơ ước, cho đến khi, cuộc chiến tranh ngay tức thì sau 30-4-1975, nổ
ra ở biên giới Việt Nam - Căm-pu-chia, cho Phan biết, bằng hiện thực máu xương
chiến trận có thật, rằng, Trung Cộng là kẻ thù, đứng sau lưng bọn diệt chủng
Pôn-pốt - Iêng Xa-ry. Phan thở phào như trút được tảng đá nô lệ trên ngực. Lòng
bỗng nhẹ tênh.
Phan không ngạc nhiên tuy hơi bất ngờ khi nghe tin, trong vài
năm sau, người bạn thời học sinh ở Tam Kỳ, Phan đến ở chung trong vài tuần kề
sát với ngày 30-4-1975 tại Sài Gòn, và cùng Phan nghiêm trang đứng bên lề đường
trong ngày lịch sử ấy, đã rời bỏ bục giảng ở một trường trung học cơ sở, để trở
thành anh bộ đội Cụ Hồ chiến đấu tại Căm-pu-chia, chống lại tập đoàn lãnh đạo Bắc
Kinh.
Nhưng câu chuyện của Phan - Trần Nguyễn Phan, chính là chuyện
của bản thân tôi (Trần Xuân An), như đã thưa ngỏ, xin tạm dừng lại ở thời điểm
tháng 5 năm 1975.
Thuở đó, còn sáu tháng nữa, tôi mới tròn mười chín tuổi. Mười
chín tuổi, thơ tôi bắt đầu tươi sáng lên ở chân trời hừng đông...
TP.HCM, 16:57, 29-01 HB12 (2012).
(*) Sau này, chính "Bị vong lục" và "Sách
trắng" do Bộ Ngoại giao nước ta công bố năm 1979 đã tố cáo tham vọng
bành trướng, bá quyền của Trung Quốc một cách cụ thể, sâu sắc và mạnh mẽ.
Phần 2: Thuở giao thời bên sông Hương
CHƯƠNG IV: 1975-1978
Thân tặng các bạn thuộc lớp ngữ văn (1974-1978), Đại học Sư
phạm Huế.
1.
Trở về Huế và Quảng Trị, trong tháng 5-1975
Trở về Huế và Quảng Trị, trong tháng 5-1975
Để câu chuyện về chính mình được tự nhiên, tôi lại tiếp tục tự
hoá thân vào hình tượng nhân vật mang họ tên là bút hiệu ít dùng của tôi: Trần
Nguyễn Phan. Vâng, chuyện của Phan còn tiếp diễn thế này...
Khi xe bắt đầu lăn bánh, gió luồn vào, thổi bạt đi không khí ở
tầng sàn dưới và tầng gỗ lướt ván phía trên, Phan mới cảm thấy nhẹ bớt mùi vịt.
Cũng như mắt của sáu, bảy chục hành khách, trước đây mấy phút, cứ mải hướng ra
ngoài xe, nơi có những người thân, bạn bè còn ở lại, bịn rịn chia tay, bây giờ
Phan mới nhìn lại những người đồng hành và chiếc xe mình đang đi.
Đây là chiếc xe tải chuyên dùng để chở gia súc, gia cầm và có
lẽ những chuyến cuối là chở vịt, nên mùi vịt còn nặng đến thế. Các cấp thuộc Uỷ
ban Quân quản Cách mạng đã kêu gọi những ai có phương tiện chuyên chở đường xa
phải góp phần vào việc đưa hàng trăm ngàn dân di tản trở về quê, và xe tải này
là một trong những chiếc xe thuộc diện ấy. Hành khách là khoảng mươi gia đình
di tản đã mua được vé để hồi cư, từ Sài Gòn ra đến Đà Nẵng. Trong đó, có lẽ gia
đình Phan là ít người nhất, chỉ còn có ba, mẹ, đứa cháu nuôi và Phan. Số gia
đình còn lại, có không ít trẻ con và người già. Tầng trên cũng như tầng dưới, tất
cả đều ngồi bệt trên sàn. Tầng trên cũng nhếch nhác, tiều tuỵ. Tầng dưới cũng
xơ rơ, xác rác. Phan mỉm cười, khi nghĩ, di tản vào bằng xà lan chuyên dùng để
chở nước mắm, hồi cư ra lại bằng xe tải còn nặng mùi vịt!
Dọc đường quốc lộ Một, thỉnh thoảng lại thấy những đoàn xe bộ
đội từ Trường Sơn chạy xuống hay từ Miền Bắc chạy vào. Phần lớn các đoàn xe này
đều chạy ngay giữa tim đường, chiếc này nối theo chiếc kia, cứ như thể những
toa tàu lửa trên hai đường sắt song song, nhưng với cự ly giãn cách hơn, khoảng
chừng dăm mét, và may là với tốc độ vừa phải. Phan nghe ông tài xế phía trước
buồng lái càu nhàu, than phiền, thậm chí có khi cáu gắt: "Mấy cha nội bộ đội
này không biết lái xe!". Một hành khách nói: "Mấy ổng chạy trên rừng
quen rồi, không biết tránh đường cho xe ngược chiều". Nhưng cũng có người
phỏng đoán, chắc các anh tài xế bộ đội chạy kiểu đó để tránh mìn, hoặc chạy
theo tiêu chuẩn ưu tiên vốn dành cho xe quân sự.
Trên suốt hành trình dài từ Sài Gòn ra đến Đà Nẵng, đã có nhiều
trạm gác, do dân quân du kích mang băng đỏ, khoác súng AK đảm trách. Không thấy
gặp khó khăn gì, mỗi khi qua các trạm gác như thế. Càng đi ra, càng thấy nhiều
cổng khải hoàn, hai bên ảnh Bác Hồ là cờ Mặt trận Giải phóng và cả cờ đỏ sao
vàng bay phấp phới. Điều đó chứng tỏ những tỉnh gần Đà Nẵng hơn, được giải
phóng sớm hơn, nên càng đủ thì giờ để ổn định, trang hoàng như thế.
Xe chạy suốt ngày đêm, chỉ dừng lại cho hành khách ăn uống,
đi vệ sinh. Chừng hai hôm, xe cũng đến Đà Nẵng an toàn.
Ba, mẹ, đứa cháu nuôi và Phan đều về căn phòng vợ chồng chị
Linh thuê để ở tạm. Mẹ vui mừng khôn xiết, cứ ngồi nựng đứa cháu ngoại mới dăm
tháng tuổi, quên tất cả mọi mệt mỏi, bàng hoàng. Sau đó, về một căn nhà của ông
anh thứ đang xây cất dở dang. Tại nơi ấy, dì ba cùng hai đứa em di tản theo cầu
không vận vào Nha Trang cũng đã hồi cư từ tháng trước.
Phan đạp xe đi quanh thành phố Đà Nẵng, xem thế nào, với hi vọng
gặp người bạn cùng trường nào đó để hỏi thăm và để mua vé xe cho ba, mẹ, đứa
cháu nuôi cùng Phan ra lại Huế. Hoá ra, những người bạn học cùng trường vốn là
dân Đà Nẵng, đã ra lại Huế để tiếp tục học rồi.
Thế là hôm sau, Phan có mặt ở Huế. Sau khi đưa ba, mẹ và đứa
cháu nuôi tiếp tục lên xe ra Quảng Trị, Phan chạy đến trường ngay. Phan tin chắc
ở Diên Sanh, mẹ sẽ còn được sự giúp đỡ của xóm giềng, của bà con từ làng ngoại
vào. Tuy tin chắc như vậy, nhưng hình dung nhà cửa ngoài kia không biết đổ nát
thế nào, nên đến trường, ghi danh tiếp tục học lại xong, Phan cũng tức khắc nhảy
xe ra Diên Sanh để giúp mẹ.
Nhà cửa tại Diên Sanh không bị sập đổ, nhưng mái nhà phía sau
không còn tấm tôn nào. Phần nhà trước cũng trống toang hoác, chỉ còn trang thờ
với bức sáo tre. Chẳng qua, cũng đã mấy tháng rồi, nhà vắng chủ. Những ai di tản
gần đều hồi cư sớm, và nhiều người nghĩ rằng mẹ Phan cũng như không ít nhà
khác, đã đi luôn theo những tàu thuyền di tản ra hải ngoại (trong tình huống dù
muốn hay không muốn cũng phải đi, không thể riêng người nào, gia đình nào nhảy
xuống biển bơi vào!). Vì thế, tôn nhà sau bị dỡ ít nhiều. Trong đó, có một phần
do các cậu của Phan, vốn sơ tán ra phía Bắc, nay trở vào, cũng đoán thế, nên tiếp
tục dỡ số tôn còn lại, cũng chỉ chừa tôn ở nhà trước, ý chừng để xem ra sao, biết
đâu mẹ sẽ trở về. Vả lại, nhà trước còn có trang thờ, không ai nỡ (và hẳn cũng
chẳng ai dám) để lư nhang, bài vị tổ tiên, ông bà cùng tấm tranh Phật Thích Ca
giữa mưa nắng. Số tôn ấy, các cậu tháo dỡ, cũng là một cách giữ cho mẹ, chứ chẳng
lẽ bới cơm vào đây giữ nhà! Lúc này, nghe tin mẹ đã về thật rồi, các cậu tức tốc
chở vào, dựng lợp lại nhà cho mẹ. Thật là vui mừng quá đỗi. Các cậu, các dì đã
xa làng ngoại, xa mẹ từ năm 1972 đến nay!
Thế là lần thứ ba, trên nền đất nhà cũ, mẹ phải làm lại nhà.
Dẫu sao, tan hoang, tạm bợ thế nào cũng còn có chỗ ở. Và Phan cũng chuẩn bị vào
lại Huế, tiếp tục đến trường. Có lẽ những đổ nát do chiến tranh, trận này nối
tiếp trận kia, quá dồn dập, đồng thời trải qua cũng nhiều lần tản cư, hồi cư,
nên người dân Quảng Trị thấy cũng thường, cảm xúc về khổ đau chừng như đã sắt lại.
Không buồn. Không vui. Chấp nhận. Chịu đựng. Lần này, còn có thêm niềm hi vọng
hoà bình. Ba mẹ Phan và cả Phan cũng thế.
Phan lại lên xe Quảng Trị - Huế.
Đi dọc đường vào lại nhà trong Thành Nội, Phan chợt nhìn thấy
có nhiều hố và hào trú ẩn, mới được đào. Chắc đó là những chuẩn bị trước khi
Sài Gòn được giải phóng, phòng khi có sự phản công nào đó từ phía quân đội Sài
Gòn.
Nhà của Phan ở Huế trống trơn, vắng hoe, không một người. Gia
đình ông thầy thuốc bắc người Quảng Trị, trước đây vào Huế thuê nhà ở để tránh
chiến sự, nay biết đã hoà bình thật rồi (chiến tranh có còn tiếp diễn thì cũng
tận Cam-pu-chia xa xôi), nên cũng đã trở về quê quán, với tất thảy đồ đạc, giường
chiếu vốn có.
Đến trường, gặp lại bạn bè lớp cũ, Phan mới biết vẫn còn một
số bạn chưa kịp hồi cư, đi học lại. Các giảng viên cũng thế. Thật ra, trường
cũng chưa kịp tổ chức lại để dạy và học. Thế là Phan phải sống những ngày trống,
nhưng không thể rỗng, mà trĩu những suy tư, chất chứa bao cảm nhận mới, lại âu
lo về những bữa ăn, giữa thành phố Huế vẫn còn nhớn nhác, chưa thật ổn định,
cho dù Huế đã được giải phóng từ 26-3, cách bấy giờ đã hai tháng.
2.
Làm thơ trong thuở giao thời và thống nhất, 1975-1978
Làm thơ trong thuở giao thời và thống nhất, 1975-1978
Trong những giờ khắc thả bước lang thang, loanh quanh vô định
cùng bạn bè, trong những giấc ngủ về khuya trên căn gác nhà cũ, Phan nghe tự
lòng mình: Hoà bình! Hoà bình! Và âm vang tiếng súng từ mặt trận mới! Cách mạng
buộc phải nổ súng, trước sự đánh phá của Khmer Đỏ, tại các đảo Phú Quốc, Thổ
Chu và dọc biên giới Tây Nam. Ở mặt trận ấy, sự lộ mặt của Trung Quốc, nước xâm
lược quần đảo Hoàng Sa, đã quá rõ! Phan có cảm giác, như từ đầu tháng Năm vừa rồi,
tại Sài Gòn: trên lồng ngực, tảng đá nô lệ đã được trút bỏ. Lòng bỗng nhẹ tênh.
Những mất mát, xiêu lạc tứ tán bởi chiến tranh lắm súng đạn vô tình, đối với
gia đình mình, thật ra cũng như hàng vạn, hàng triệu gia đình Việt Nam khác,
còn có nghĩa gì đâu, khi tất cả mọi người hầu như đã thoát được sự siết cứng của
hai gọng kìm lịch sử, khi cả Miền Nam lẫn Miền Bắc chỉ còn thực sự một kẻ thù
là Bắc Kinh (Khmer Đỏ chỉ là tay sai không đáng kể!). Lòng bỗng nhẹ tênh, và có
cả vui mừng, khi biết rõ điều đó, nhất là khi biết chắc khía cạnh nội chiến,
người Việt bắn giết người Việt, không còn nữa! Và lạ thay, những câu thơ nẩy bật
trong tâm hồn Phan, như một khởi đầu mới.
Không chỉ khung cảnh Huế Phan nhìn thấy hằng ngày, mà cả ấn
tượng hồi cư từ lần ra Diên Sanh gần đây nhất, lại gồm cả cảnh hồi cư sau ba
năm sơ tán ra phía Bắc, tại làng ngoại Thượng Xá, khiến Phan vô cùng xúc động...
Bài thơ "Ruộng đất yêu dấu" khởi đầu từ đó, nhưng chỉ mới
là những hình ảnh, ý tưởng sơ khai.
Thế rồi, chỉ mươi hôm sau, kể từ ngày Phan về lại với Huế,
các hình thức sinh hoạt tập thể được triển khai để bước đầu ổn định trường lớp,
có cả việc phát động sáng tác và ấn hành một tuyển tập thơ văn ca ngợi lao động.
Tiếp đến, một đợt học tập chính trị khá dài. Kế đó nữa, xen kẽ với những tuần học
chuyên môn do những giảng viên, trí thức tại chỗ ít nhiều có tham gia cách mạng
giảng dạy, là những đợt lao động công ích: làm vệ sinh ở những khu dân cư như tại
cống Thanh Long, trồng cây trên các ngọn đồi như Thiên Thai, và có cả những đợt
lao động phục vụ nông nghiệp: đào vét kênh mương như Lợi Nông, Đồng Đưng...
Cũng không thể không kính nhớ đến bà mợ già của Ngô Vưu. Bà
là cả một kho ca dao tục ngữ và đồng thời là "ngân hàng của những hàn
sĩ", như Phan và bạn bè sinh viên trọ học. Bà chính là hình ảnh làng quê
ngay giữa thành phố Huế.
Bài thơ "Ruộng đất yêu dấu" cùng một loạt
bài thơ khác, rồi liên khúc "Cánh tay học trò vươn tới", Phan viết
trong niềm cảm xúc hoà trộn mà trầm lắng, hay sôi nổi mà cũng nhiều suy tưởng
đó. "Ruộng đất yêu dấu" đã đăng ngay vào tháng sinh nhật
Phan, tháng 11 (1975), và sau đó, được tặng thưởng "Một trong mười bài thơ
hay nhất trong năm", nhân dịp kỷ niệm 15 năm ấn hành tuần báo Văn nghệ Giải
phóng.
Cũng trong thời gian này, Phan cảm thấy không thể sống lẻ loi
trong ngôi nhà vắng, nên cũng đã qua tận Cầu Lò Rèn ở chung với Nguyễn Chiến, bạn
cùng lớp bấy giờ, rồi qua Bến Ngự trọ học với Nguyễn Văn Bá, bạn từ thời tiểu học.
Rồi lại kéo Nguyễn Chiến về ở chung tại nhà cũ, ăn cơm tháng ở hai nhà bên cạnh,
từ nhà o Thạnh cho đến nhà ông Nước. Rồi về sau nữa, Phan cùng với Thái Quang Hồng,
mặc dù ăn cơm tập thể, khi mọi sinh viên đều có tiêu chuẩn trợ cấp hằng tháng,
nhưng về nhà Phan để học và ngủ vì ở nhà vẫn yên tĩnh hơn ký túc xá. Ở đâu,
trong Phan cũng mải xao động, trăn trở bởi những tứ thơ, thôi thúc được thể hiện
ra trên giấy.
Từ giữa niên khóa 1975-1976, sau Tết Nguyên đán, giữa năm thứ
hai đại học của Phan, trường lớp ổn định hẳn để thật sự đi sâu vào chuyên môn của
từng khoa. Đó là lúc Phan viết "Bài thơ tháng giêng", về hình ảnh
mẹ mình chan hòa trong nhiều hình ảnh về các bà mẹ Việt Nam khác, tình cờ lại
trùng vào dịp chào mừng Hiệp thương Thống nhất...
Tuy đã chuyển hẳn sang khuynh hướng sáng tác mới, nhưng Phan
vẫn không thể không nhớ đến tập thơ đầu tay của mình, hầu hết được viết từ hồi
1973, cuối năm lớp mười một và một ít bài trong đầu năm lớp mười hai: "Những
tình thơ mùa thu", những tình cảm thơ ca và thơ dại trong mùa thu bao giờ
cũng đượm buồn. "Tiếng chuông xưa" và "Tóc bay
sương trắng" là hai bài thơ Phan thấy đẹp và xúc động nhất. Nhưng phần
lớn trong tập thơ đó cũng là những bài Phan đã tự chọn lọc. Phan đã chép tay lại
thành bốn bản, giấy được gấp theo cách xếp các tay sách của một ấn phẩm, tuy
còn chép dở dang! Và tiếc nhất là cả bốn bản ấy Phan đều để lại tại tủ sách của
mình ở Tam Kỳ, sợ mang theo ra Đà Nẵng, nơi ăn chốn ở chưa ổn định, không khéo
lại bị thất lạc, nhưng sau cuộc di tản 1975, thì đã thất lạc cả rồi! Tiếc như
tiếc một kỉ niệm của tâm hồn mình đồng thời là kỷ niệm văn chương. Thật ra, với
trí nhớ thuở ấy, Phan cũng có thể phục hồi lại nguyên vẹn cả mấy chục bài thơ,
nhưng Phan cảm thấy trong niềm luyến tiếc còn có gì đó như là ngần ngại, không
muốn xem lại những gì hầu hết là niềm bâng khuâng, thương mến, u hoài cùng những
nỗi đau và bao nỗi niềm khác thuộc về lĩnh vực cá nhân trong tâm tư mình, không
muốn bị những tháng ngày cũ, tuy thơ mộng nhưng cũng buồn bã, xót xa, mục rã
níu kéo. Đúng ra, tất thảy đều là những niềm thơ ca cao quý, tốt đẹp nhưng được
viết dưới ánh sáng ảm đạm của nỗi buồn.
Phan muốn bước tới phía tương lai, hơn là ngoảnh lại quá khứ.
Mãi đến mùa hè năm 1977, người bạn láng giềng ở Tam Kỳ, Lê
Văn Thanh (thường gọi là Chanh), ra Huế thi vào đại học, ghé nhà Phan ở lại,
cho biết là Chanh còn giữ được cả bốn bản chép tay tập thơ "Những
tình thơ mùa thu" ấy, sau khi ngôi nhà của ba dì Phan bị chính quyền
hay ông cán bộ nào đó đến dọn dẹp để quản lí, ném tập thơ ra bên lề đường. Phan
rất mừng và cảm động. Nhiều lần, Phan khẽ dặn lui dặn tới rằng Chanh cố gắng giữ,
để có dịp Thái Quang Hồng vào thăm nhà, Phan sẽ nhờ Hồng mang ra. Cuối mùa hè ấy,
hình như trong dịp nghỉ phép hè, Hồng đến nhà Thanh, và mang tập thơ ấy ra cho
Phan. Lại một lần nữa, Phan cảm động đến muốn khóc, nhưng cố nín câm, im lặng.
Thậm chí, Phan giấu tập thơ dưới chồng sách báo, như muốn quên đi.
Tuy thế, sau Đổi mới (1986), trong các tập thơ đã
xuất bản của Trần Xuân An (tức là nhân vật Trần Nguyễn Phan trong hồi ký - tự
truyện này), từ 1991 đến gần đây, số thơ từ bản thảo chép tay đó đã được rải
rác in lại, đặc biệt là in hẳn một phần riêng gồm mười mấy bài vào cuối tập "Thơ
những mùa hương" (Nxb. Thanh Niên, 2011). Nhưng đó là chuyện về sau,
sau Đổi mới, chứ không phải là thuở đó!
Chuyện thuở đó, Phan vẫn còn nhớ, trong một lần viết trả lời
vào phiếu điều tra văn học do thầy Phan Trọng Luận phát ra cho sinh viên trong
lớp, Phan đã liệt kê những tác giả Phan đã đọc, nghiền ngẫm: Jean Paul Sartre,
Albert Camus, Nikos Kasanzakis, Nietzsche, Kalil Gibran, Dostoievsky, Hermann
Hesse, William Faulkner... Phan đã bày tỏ đôi nét cảm nhận của mình về tác phẩm
của họ. Phan cũng nhận định chính bài thơ "Tiếng chuông xưa" của
Phan. Nhưng không chỉ riêng Phan, mà cả vài bạn trong lớp, như Nguyễn Nhu chẳng
hạn, cũng như muốn rũ bỏ những khía cạnh bi luỵ, không còn nghị lực sống, trong
văn chương. Những dòng chữ sinh viên giữa thời hơi quá "tả" ấy,
không ngờ thầy Phan Trọng Luận lại đưa vào cuốn sách của thầy: "Con
đường nâng cao hiệu quả dạy văn". Dẫu sao, đó cũng là một kỉ niệm,
trên quan điểm chung của một thời, đã được lưu giữ ở một cuốn sách lưu hành khá
rộng trong giới giáo viên ngữ văn, lại khá nhiều lần tái bản!
Trong buổi hừng đông kéo dài vài ba năm của giai đoạn lịch sử
lớn thuở ấy, nơi mỗi người như Phan hình như đều tồn tại hai loại tình cảm, tuy
thống nhất với nhau về quan điểm nhưng hướng đến hai loại đối tượng vốn trái
ngược nhau. Nếu ở "Ruộng đất yêu dấu", Phan viết thay cho những
người thân bên ngoại, ít nhiều có tham gia cách mạng, trong lúc hồi cư năm 1975
và đồng thời cho bao người khác cùng hoàn cảnh, tâm tư như thế trên khắp cả đất
nước, kể cả ở Nam bộ, thì cũng có bài Phan cũng viết thay, thể hiện sự thông cảm
sâu xa với những ai đã lỡ lầm về chính trị đến nỗi phải chịu học tập cải tạo,
thậm chí muốn sống hết cả quãng đời dài còn lại trên rừng sâu, chẳng hạn
như "Khúc hát tìm rừng" (tặng Lê Phước Dạ Đăng, tức Lê Phước
Sanh, bạn học cùng lớp). Bài "Về thăm, mai mốt mình lên..." cũng
là viết cho một người lính nguỵ thương mến đã đi khai hoang, lập nghiệp ở vùng
kinh tế mới... Ngoài những bài thơ mà hình tượng cái tôi trữ tình và chính Phan
là một, Phan cũng có một ít bài thơ Phan viết thay cho bao người khác như thế.
Thơ Phan đăng trên báo chí, và Phan được những văn nghệ sĩ,
nhà báo ở Huế biết đến. Từ quen biết, dần dà đã trở nên thân tình với một số
anh chị, qua những cuộc gặp mặt, phổ biến thông tin, trao đổi biên tập hay gửi
bài, nhận nhuận bút, tại 26 Lê Lợi, Huế. Có một chuyến đi thực tế rất có ý
nghĩa, đó là lần Ban Vận động thành lập Hội Liên hiệp Văn học - Nghệ thuật Bình
Trị Thiên tổ chức trong dịp thông đường sắt Bắc - Nam, mà cầu Tiên An trên sông
Bến Hải là điểm nối cuối cùng, điểm nối thể hiện sự thống nhất Đất nước.
Tất nhiên việc làm thơ và học tập cùng song hành trên một trục
thời gian. Nhưng càng đi sâu vào việc học, thời khoá biểu trong các năm tháng
cuối học trình đại học càng kín mít, thậm chí có nhiều học trình phải học cả ba
buổi, sáng - chiều - tối. Khối lượng tiết học nặng trĩu như thế cộng với thời
gian đọc sách tham khảo ở thư viện, khiến Phan chỉ còn có thể làm thơ vào những
tuần lễ nghỉ phép hè. Đó là chưa kể có đợt nghỉ phép hè như hồi 1976, phải về
tham gia lao động thuỷ lợi ở địa phương...
Khởi đầu con đường mới về thơ ca và suốt cả ba niên khoá rưỡi
ở đại học sau Ngày Thống nhất là thế. Rồi cũng như thế suốt mấy năm Phan đi dạy
học ở Lâm Đồng.
3.
Sách và học tập
Sách và học tập
Trong ba năm tuy dài nhưng cũng rất ngắn ngủi, sau Ngày Thống
nhất, mỗi cuốn sách đều có số lượng bản in rất lớn, có thể gấp ba mươi lần hoặc
hơn thế nữa, so với mỗi đầu sách hiện nay (trong khi dân số đã tăng gấp đôi!).
Và giá sách cũng khá rẻ, so với các vật giá khác. Sách từ Hà Nội, chở vào. Sách
Miền Bắc in lại từ các nhà in trong Sài Gòn, chở ra. Mỗi đợt có sách mới, các
hiệu sách đầy đặc người mua. Đây là một hiện tượng khá đặc biệt, nguyên nhân
trước hết là dân Huế vốn ham mê đọc sách, và nguyên nhân khác nữa là trong thời
đoạn này, họ muốn đọc xem thử sách Miền Bắc như thế nào.
Phan thường ghé vào các hiệu sách để chọn mua, nhằm xây dựng
lại tủ sách của chính mình. Không kể thời ở phố huyện Diên Sanh với các loại
sách khá tạp nham, hay dở lẫn lộn, từ năm học lớp tám ở Huế và đặc biệt là từ lớp
chín ở Tam Kỳ, Phan có ý thức xây dựng cho mình một tủ sách báo thật bõ công đọc,
không những thơ, truyện có giá trị mà cả sách phê bình, biên khảo của những tác
giả uy tín, những tạp chí sáng giá. Năm lớp mười hai, tủ sách của Phan nửa ở
Tam Kỳ, nửa ở Đà Nẵng, thường được bổ sung thêm. Nhưng tất cả đều đã mất, không
còn cuốn nào! Vì thế, Phan thèm khát sách hơn bao giờ hết, một phần cũng với
các nguyên nhân như dân Huế lúc này, một phần là do Phan không chỉ học để đi dạy,
mà còn ôm mộng lớn về văn chương, học thuật, gồm cả lĩnh vực sử học. Có nhiều lần
Phan phải đi bộ khá xa hoặc đi xe đạp đến nhà các o dì bạn hàng của mẹ, những
người thường buôn hàng sỉ từ Huế ra Diên Sanh, để mượn tiền mua sách.
Việc học của Phan cũng bị chi phối bởi chí nguyện của Phan.
Trong khi các bạn khác chỉ chuyên chú vào giáo trình, sách tham khảo cần thiết,
thì Phan để tâm hồn và trí óc mình mở rộng ra sách báo văn chương học thuật hiện
thời. Không những các hiệu sách, mà cả các sạp báo, cũng là nơi Phan thường lui
tới, đặc biệt là ki-ốt báo chí bên hông Đài Phát thanh Huế. Sự thể đó có lẽ
cũng như những ai cùng chí nguyện với Phan.
Nếu học "gạo", Phan hẳn không thua bạn nào, kể cả
những bạn gái chăm chỉ nhất. Nhưng nếu vừa học một cách rất chuyên cần ở lớp, ở
giảng đường, vừa thường xuyên đọc để "làm văn nghệ" như Phan, có lẽ hầu
như không bạn nào cần mẫn, chí thú đến mức đam mê như thế cả, cho dù sau này Võ
Nguyên cũng là nhà văn, chuyên viết truyện ngắn, Phạm Bá Thịnh là nghệ sĩ nhiếp
ảnh được phong đẳng cấp quốc tế, Nguyễn Chiến cũng mới xuất bản chung một tập
thơ.
Khóa của Phan cũng có cái may mắn là được học với những cán bộ
giảng dạy đại học ưu tú nhất của Miền Bắc, chủ yếu là từ Hà Nội và Vinh (bấy giờ
ở nước ta chưa có quy chế phong học hàm giáo sư, phó giáo sư). Đã mời thỉnh giảng,
dĩ nhiên Đại học Sư phạm Huế phải mời những vị mà Ban Giám hiệu quý trọng nhất,
là một lẽ. Lẽ khác, các trường ở Hà Nội và Vinh cũng cử vào các vị dày công phu
nghiên cứu, giảng dạy nhất để thể hiện lòng ưu ái đối với sinh viên vùng mới giải
phóng.
Đối với Phan và bạn bè trong lớp, kiến thức cũ một phần phải
xếp vào một nơi nào đó trong óc, một phần lại được soi sáng bởi ánh sáng mới.
Đó cũng là một may mắn đối với người thật sự coi trọng chiều sâu của việc học.
Phan và bạn bè, mặc nhiên cũng có, có ý thức cũng có, đều tự phản biện, đối chiếu,
lật qua lật lại vấn đề, trong óc và cả trong tâm hồn, cho dù trong các lần làm
bài tập nhỏ tại lớp, bài tập lớn tại nhà hay các buổi thảo luận tại trường,
không có những đề bài đòi hỏi sinh viên phải phản biện, bác bỏ, đại để như đề
bài mà Phan đã gặp trong kỳ thi học sinh xuất sắc về môn triết tại Đà Nẵng: "Anh
(chị) hãy chọn một tác phẩm mang đậm chất bi kịch trong văn học cổ điển nước
ta, để phân tích quan điểm của tác giả về tính bi kịch ấy, trước khi anh (chị)
dùng quan điểm riêng của chính anh (chị) để đánh đổ quan điểm của tác giả".
Tuy nhiên, nói chung là bài giảng của các thầy giáo, cô giáo đại học thuở đó,
phần lớn là có sức thuyết phục đối với lớp ngữ văn của Phan và bạn bè.
Vì phải truyền đạt và tiếp thu một khối lượng kiến thức
chuyên sâu khá lớn, nên cả thầy và trò đều phải đến lớp, lên giảng đường thường
xuyên. Do đó, cũng không có thì giờ để kiến tập sư phạm trong suốt ba năm học
sau Ngày Thống nhất. Vả lại, Khoa Sư phạm thuộc Viện Đại học Huế nay đã thành
Trường Đại học Sư phạm Huế với số lượng sinh viên tuyển vào gấp bội, nên Trường
Trung học Kiểu Mẫu, vốn là một bộ phận trực thuộc Khoa Sư phạm cũ, là nơi thực
hành sư phạm (như Bệnh viện trung ương Huế đối với Đại học Y khoa Huế), phải giải
thể, phân tán học sinh về các trường trung học khác, để dành phòng học, giảng
đường cho sinh viên học tập. Do đó, chỉ duy trì thực tập sư phạm vào năm cuối, ở
các trường trong và ngoài thành phố Huế.
Đợt thực tập sư phạm ở Trường Cấp 3 Đông Hà, Quảng Trị cũng
là kỉ niệm rất đáng nhớ của Phan. Phan là giáo sinh nhưng cũng là tác giả thơ.
Phan vừa soạn giáo án, lên lớp giảng văn, nhưng cũng vừa mê mải làm thơ. Nếu
bài thơ Phan giảng là "Nhàn", lánh đục về trong, của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, thì sáng tác của Phan vào dịp ấy là "Bài thơ Đông Hà", dấn
thân vào công cuộc xây dựng đất nước, quê hương. Từ dịp này, Phan được thầy
Nguyễn Tiến Hùng, giảng viên lí luận dạy văn, quý mến.
Trước khi đi thực tập ở Đông Hà, từ đầu năm học thứ tư, một số
sinh viên trong lớp, trong đó có Phan, đã được chọn để làm khoá luận tốt nghiệp.
Đề tài Phan chọn là "Shakespeare và những bi kịch tiêu biểu của
ông", mặc dù Phan chuyên tâm về thơ. Có lẽ Phan chọn Shakespeare là bởi
ông vừa là một tác kịch gia vừa là thi sĩ với những bài son-nê (sonet) rất tuyệt
vời. Vả lại, kịch của Shakespeare cũng xen lẫn những câu đối thoại là thơ, chứ
không đơn thuần kịch nói (cho nên khi dịch ra thành văn xuôi tiếng Việt, vẫn
còn mang đậm chất thơ). Cũng có lẽ vì Phan vốn được phân công làm phó lớp phụ
trách văn thể mĩ, kiêm phó ban kịch nói của lớp. Nhưng lí do chính là vì tính
mâu thuẫn, xung đột ở thể kịch rất cao, có thể phản ánh được hiện thực thời
Phan sống, nên ngoài thơ, Phan lưu tâm đến kịch. Một lẽ khác nữa, Phan còn ôm mộng
lớn là sẽ viết tiểu thuyết, mà tiểu thuyết lại gần với kịch hơn là với thơ.
Những vở kịch, tập và diễn với Ngô Vưu và Trương Đặng Nguyệt
Thanh ("Chứng chỉ sức khoẻ" của Nguyễn Vũ, "Hãy đặt
tên con là ..." của một tác giả Liên-xô), đã đẫn Phan đến với đề tài
bài tập lớn (bài nghiên cứu), với sự cộng tác của Thái Quang Hồng trong công đoạn
tìm tư liệu, về kịch của Kor-nây-truc (trong đó có nhân vật bị phê phán là một ủy viên trung ương!), rồi cuối cùng là dẫn đến đề tài khoá luận tốt nghiệp: "Shakespeare
và những bi kịch tiêu biểu của ông", gồm ba vở Hamlet, Othello và Macbeth.
Đi học sư phạm, cái chính vẫn là việc học tập để giảng dạy.
Nhưng với Phan bao giờ cũng vì mục đích văn chương học thuật, đồng thời vẫn tự
nhủ rằng sẽ làm trọn chức năng của một nhà giáo, mặc dù biết rằng môi trường
giáo dục với những quy phạm của nó sẽ hạn chế tính sáng tạo vượt lên quy phạm.
Những sáng tạo của văn nghệ sĩ ẩn chứa sự mới mẻ có giá trị nhưng cũng có thể
sai lầm, mà ngành giáo dục bậc trung học phổ thông không thể là nơi chấp nhận
những sáng tạo chưa được thời gian kiểm nghiệm, đãi lọc. Biết thế, nhưng Phan
chỉ có thể chọn lựa trong điều kiện của mình.
4.
Tình yêu đương
Tình yêu đương
Phan cũng có một mối tình yêu đương thời sinh viên. Nhưng đó
vừa không phải là tình đầu, vừa chính là mối tình đầu tiên nồng cháy môi hôn.
Thực ra, thời trung học Phan đã biết thế nào là tâm trạng của
một học sinh áo trắng quần xanh biết yêu bạn gái thướt tha tà áo trắng. Nhưng với
một nàng thơ, chỉ là hương sen tinh khiết mùa hạ và đầu thu, để rồi bảng lảng
suốt năm và nhiều năm sau, mặc dù mỗi một mình biết lấy tình yêu đó. Và một
nàng thơ khác, thì chưa từng một lần cầm tay. Với một nàng thơ khác nữa, cũng
chỉ duy nhất một lần cầm tay, đúng hơn tay tay mình áp vào tay nàng thơ mình
yêu say đắm.
Chắc chắn một điều là trong tuổi trung học, tuổi đại học,
Phan đã trải nghiệm rất nhiều ngày tháng yêu đương từ một phía - yêu đơn
phương. Yêu thầm. Và có cả yêu thất tình, trong sự khước từ của cô gái mình ngỏ
lời. Mãi đến về sau này, Phan vẫn nghĩ rằng, chính như thế mới là tình yêu
đương da diết, khổ đau, thấm thía nhất. Và trong lĩnh vực tình yêu đương, Phan
hiểu mình chỉ có thể yêu người mà mình thật lòng yêu, chứ Phan không thể gắng
gượng yêu người chỉ nặng lòng yêu mình, nhưng mình không thể yêu lại.
Phan cũng không hiểu nổi tình yêu đương thời sinh viên của
mình: Không biết hương sen này có phải đã thay thế cho hương sen kia, hương sen
kia phải chăng đã bị nhạt phai theo năm tháng nên hiện hữu hương sen này? Thế rồi,
cũng không biết Phan tự rời bỏ hay hương sen tự rời bỏ tình yêu đương ấy, để
cho hương sen được tinh khiết, mãi mãi là hương sen, và cũng để cho Phan cảm thấy
mình không ân hận vì mình đã không làm hương sen bị vấy bẩn.
5.
Rời xa Huế, tháng 8-1978
Rời xa Huế, tháng 8-1978
Tháng Năm 1975 Phan từ Sài Gòn hồi cư về Huế. Cũng khoảng
trong tháng Tám ba năm sau, 1978, Phan lại cùng một nhóm bạn khác khoa nhưng
cùng Trường Đại học Sư phạm Huế, có chung địa chỉ nhiệm sở, lên xe vào Lâm Đồng.
Khi được thông báo từ trưởng lớp là mỗi sinh viên đều có thể
chọn ba nhiệm sở, Phan cứ thỉnh thoảng lại nhìn bản đồ Đất nước treo trên vách
phòng nhà mình, chú mục vào những tỉnh phía Nam, vì giới hạn được chọn là các tỉnh
ấy, những tỉnh còn thiếu giáo viên ngữ văn Việt. Phan chọn Tiền Giang, Hậu
Giang và Lâm Đồng. Cuối cùng, Phan quyết chọn Lâm Đồng, theo tinh thần xung
phong lên miền núi. Hơn nữa, tuy đó là tỉnh miền núi, nhưng lại có tỉnh lỵ là
Đà Lạt, nơi Phan và nhiều người làm thơ thường mơ mộng. Phan cũng đã gửi thư,
nhờ o Vinh, bạn hàng của mẹ, mang ra, thưa với mẹ Phan đã chọn xong nhiệm sở.
Nhận được quyết định bổ nhiệm, Phan liền ra phố huyện Diên
Sanh và làng ngoại Thượng Xá để từ giã mẹ và các cậu dì. Phan rất cảm động khi
thấy mẹ đã sắm áo ấm và chăn mền cho Phan, cùng với một chiếc xe đạp, một cái đồng
hồ đeo tay.
Nhà của mẹ vẫn vậy, một mái tôn từ trước nối dài ra sau. Mái
tôn nhà bếp gần đụng đầu, nóng hừng hực dưới ánh nắng hè dữ dội. Nền nhà chủ yếu
vẫn là nền đất, có khoảnh còn một lớp xi măng nền cũ, còn sót lại sau những lần
bị bom đạn cày xới. Phan cảm thấy hơi cay cay vì nước mắt.
Vào lại Huế, Phan với nhóm bạn cùng nhiệm sở Lâm Đồng chuẩn bị
lên đường. Trong sương sớm ở bến xe An Cựu, Phan tình cờ gặp lại thầy Hà Thúc
Hoan, thầy giáo môn làm văn, vốn là giảng viên tại Huế, nhưng hiện nay đã vào
TP.HCM. để học chính trị, triết học Mác - Lê-nin. Có lẽ thầy đang trong những
ngày nghỉ, về phép thăm nhà. Khi xe chuyển bánh, thầy nói theo cho cả nhóm sinh
viên: "Nhớ sống và giảng dạy thế nào để khi về có chuyện mà kể
nghe!", thay lời chúc cố gắng sống tốt, dạy tốt.
Lần đi nhận nhiệm sở ấy cuối cùng đã đưa Phan về một ngôi trường,
không phải là trung học phổ thông (cấp 3) theo hệ đào tạo, mà lại là phổ thông
cơ sở (cấp 2)! Ngôi trường ở vùng kinh tế mới Lộc Ngãi ấy, Phan gọi là "Ngôi
trường tháng giêng", nhan đề một bài thơ Phan viết, khi tất cả đài báo đều
vang lên lời kêu gọi kháng chiến, chống Trung Quốc xâm lược ở các tỉnh biên giới
phía Bắc. Đó là bài Hịch mới, nối tiếp và cùng âm hưởng với những thiên cổ hùng
văn trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc.
Ngày Thống nhất Đất nước, 30-4-1975, mọi người đã thấy lộ mặt
tập đoàn bành trướng, bá quyền Bắc Kinh ở phía sau Khmer Đỏ. Đó là thời điểm
Phan cảm thấy như trút được tảng đá nộ lệ khỏi lồng ngực, lòng nhẹ tênh. Lúc
này, ba năm sau, nhất là đến tháng 12-1978 và đầu năm 1979, Trung Quốc càng
ngang nhiên lộ mặt là kẻ thù, từ biên giới phía Bắc. Và quần đảo Hoàng Sa, đau
đớn thay, vẫn còn đó vết thương xâm lược, đồng thời là chùm bóng đèn sáng soi sự
thật lịch sử.
Viết sau khi dạy học được vài tháng, bài "Ngôi trường
tháng giêng" là cả một quyết tâm của Phan.
Hai mươi năm sau, đến năm 1998, Phan (Trần Xuân An) lại viết
tiểu thuyết cũng có tên là "Ngôi trường tháng giêng". Trong đó,
Phan đã tự phân thân thành Nam, Khoai, Lộc Biếc và Huyện. Trong và quanh bốn
hình tượng hư cấu ấy, chính là bối cảnh và tâm trạng Phan, lúc vào Ty Giáo dục
Lâm Đồng, nhận giấy giới thiệu về Bảo Lộc, cuối cùng vào đến vùng khai hoang lập
ấp Lộc Ngãi này. Trọn năm học 1978-1979 đã được gói gọn trong tiểu thuyết "Ngôi
trường tháng giêng" (Nxb. Thanh Niên, 2003).
Như thế, Trần Nguyễn Phan - như đã thưa ngỏ, chính là tôi (Trần
Xuân An) - còn biết viết thêm gì nữa, về kỷ niệm những ngày sắp cầm phấn bảng
làm thầy giáo? Là tác giả, xin trân trọng mời người đọc đi vào tiểu thuyết "Ngôi
trường tháng giêng" ấy. Hồi ký - tự truyện "Tuổi học trò của
tôi" xin chấm dứt ở dòng chữ này, với lời mời đọc chân thành như thế.
TP.HCM. 10-2-2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét