Bản giao hưởng số 5 - Tiếng gõ cửa Bản Giao hưởng Số 5 cung Đô thứ Op. 67 “Định mệnh” được
Beethoven sáng tác vào giai đoạn 1804-1808, là một trong những bản giao hưởng nổi
tiếng và phổ biến nhất lịch sử âm nhạc cổ điển.
Quá trình sáng tác
Bản giao hưởng Số 5 có một quá trình thai nghén lâu dài. Những
phác thảo đầu tiên cho nó được Beethoven bắt tay vào thực hiện vào năm 1804
ngay sau khi ông hoàn thành Bản Giao hưởng số 3. Tuy nhiên, quá trình sáng tác
tác phẩm này bị gián đoạn bởi việc chuẩn bị cho những tác phẩm khác như vở
opera Fidelio, bản piano sonata Appassionata, ba bản Razumovsky cho tứ tấu bộ
dây, Concerto cho Violin, bản Giao hưởng số 4 và Mass cung Đô trưởng. Mãi cho đến
năm 1807 Beethoven mới có thể quay lại với việc sáng tác bản giao hưởng số 5 và
hoàn thành vào năm 1808. Nó được thực hiện song song với bản giao hưởng số 6 và
cả hai bản giao hưởng này được công diễn vào cùng một ngày.
Beethoven hoàn thành bản Giao hưởng Số 5 ở giữa những năm ba
mươi tuổi khi cuộc sống của ông gặp nhiều rắc rối bởi căn bệnh điếc ngày càng
trầm trọng. Bối cảnh lịch sử thế giới khi đó được đánh dấu bởi những cuộc chiến
của Napoléon, bạo loạn chính trị ở Áo, và sự chiếm đóng kinh đô Viên của binh
đoàn Napoléon vào năm 1805.
Chương 1: Allegro con brio
Chương đầu mở màn với mô típ 4 nốt, một trong những mô tip nổi
tiếng nhất của âm nhạc phương Tây. Có khá nhiều tranh cãi giữa các nhạc trưởng
về nhịp điệu để chơi bốn nốt mở màn này. Một số nhạc trưởng tuân thủ chặt chẽ
theo nhịp allegro (nhịp nhanh khoảng 120-168 nhịp trên phút); một số khác nhằm
nhấn mạnh sự nặng nề của tiếng gõ cửa định mệnh lại chơi bốn nốt mở đầu với nhịp
điệu rất chậm và trang nghiêm; một số khác thì chơi theo nhịp molto ritardando
(chơi mỗi nhịp bốn nốt chậm dần), cho rằng dấu lặng trên nốt thứ tư đóng vai
trò cân bằng. Một số nhà phê bình nhấn mạnh điều quan trọng là phải thể hiện được
tinh thần của nhịp hai-một và cho rằng nhịp một-hai-ba-bốn thường bị chơi sai.
Chương đầu được viết theo hình thức sonata truyền thống mà
Beethoven thừa hưởng từ những nhà soạn nhạc cổ điển tiền bối Haydn và Mozart
(trong đó ý tưởng chính được thể hiện ngay từ những trang đầu tiên và được tiếp
tục đưa đẩy và phát triển lên qua rất nhiều nốt nhạc, với sự lặp lại kịch tính
của đoạn mở đầu - dấu tóm tắt - ở quãng ba phần tư của toàn bộ chương). Nó bắt
đầu với hai đoạn kịch tính cực mạnh, một mô tip nổi tiếng nhằm thu hút sự chú ý
của thính giả. Tiếp theo bốn nhịp đầu Beethoven sử dụng biện pháp lặp và tiếp nối
để phát triển chủ đề. Bốn nốt lặp lại ngắn gọn như xô đầy lên nhau với nhịp độ
đều đặn tạo nên một giai điệu đơn nhất liên tục trôi chảy. Ngay sau đó, một đoạn
nối được chơi bằng kèn cor với âm hưởng nhanh mạnh thế chỗ trước khi chủ đề thứ
hai được giới thiệu. Chủ đề thứ hai này được chơ ở cung Mi giáng, giọng trưởng
tương đương, và nó trữ tình hơn, được viết cho piano và với bốn nốt mô típ được
chơi phụ hoạ bởi bộ vỹ. Phần tái hiện một lần nữa lại dựa trên bốn nốt mô típ.
Sự phát triển của phân đoạn tiếp tục sử dụng biện pháp chuyển giọng, tiếp nối
và lặp lại và đoạn nối. Trong đoạn lặp lại này, có một phần độc tấu ngắn dành
cho oboe theo phong cách gần như ngẫu hứng, và toàn bộ chương đầu kết thúc với
coda (đoạn kết của một chương nhạc) mãnh liệt.
Chương 2: Adante con moto
Chương 2 chơi ở cung La trưởng mang đậm tính trữ tình với
hình thức chủ đề kép biến tấu, tức là hai chủ đề cùng xuất hiện và biến đổi
luân phiên nhau. Tiếp theo những đoạn biến tấu là một phần coda dài.
Chương này mở đầu với sự lên tiếng của chủ đề thứ nhất, một
giai điều được đồng tấu bằng viola và cello với double bass phụ hoạ. Chủ đề thứ
hai ngay lập tức theo sau bằng hòa âm tạo ra bởi clarinet, basson, violin, với
giải âm ba nốt cho viola và bass. Ở đoạn biến tấu tiếp theo chủ để thứ nhất lại
xuất hiện và tiếp nối nó là chủ để thứ ba, 32 nốt chơi bằng viola và cello với
một đoạn đối chọi chơi bởi sáo, oboe và basson. Tiếp theo một khúc chuyển tiếp
toàn bộ dàn nhạc cùng hoà tấu với nhịp điệu cực mạnh, dẫn tới một đoạn cao trào
mạnh dần, và đoạn coda để kết thúc chương.
Chương 3: Scherzo. Allegro
Chương 3 có cấu trúc ba lớp, bao gồm scherzo và trio được viết
theo khuôn mẫu của chương ba trong nhạc giao hưởng thời kỳ Cổ điển, trong đó đoạn
scherzo chính được chơi liên hoàn, rồi đến một phần trio đối lập, và đoạn
scherzo sẽ lặp lại, và đến coda kết thúc. Tuy nhiên trong khi nhạc giao hưởng
thời kỳ Cổ điển thông thường sử dụng minuet và trio cho chương ba thì Beethoven
lại có cách tân bằng cách sử dụng cấu trúc scherzo và trio.
Chương 3 này lại quay lại chơi ở cung Đô thứ ở đoạn mở đầu và
bắt đầu với chủ đề được chơi bằng cello và double
Chủ đề mở màn được đáp lại bằng một chủ để tương phản chơi bằng
nhạc cụ bộ hơi, và đoạn này được lặp lại. Sau đó kèn cor lên tiếng mạnh mẽ để
tuyên bố chủ để chính của chương và phần nhạc phát triển từ đây.
Phần trio chơi ở cung Đô trưởng và được viết theo lối đối âm.
Khi đoạn scherzo trở lại lần cuối cùng, nó được chơi bằng bộ dây hết sức nhẹ
nhàng với kỹ thuật pizzicato.
“Phần scherzo tạo sự đối lập tương tự như những giai điệu chậm
trong đó chúng phát triển từ những đặc điểm cực kỳ khác biệt giữa scherzo và
trio… Scherzo đối lập hình ảnh này với mô tip (3+1) nổi tiếng của chương đầu,
cái có tính quyết định xuyên suốt toàn bộ chương”.
Chương 4: Allegro
Âm điệu hân hoan và hồ hởi của chương kết ngay lập tức theo
sau scherzo mà không hề bị ngắt quãng. Nó được viết theo hính thức sonata biến
thể khác lạ: ở phần cuối của đoạn phát triển chủ đề, các nhạc cụ tạm ngưng ở
phách át, chơi cực mạnh, và âm nhạc được tiếp tục chơi sau đoạn ngừng với điệp
khúc nhẹ nhàng của “chủ đề kèn cor” trong điệu scherzo. Phần tóm tắt sau đó được
giới thiệu bằng nhịp điệu mạnh dần phát ra từ những nhịp cuối cùng của phần
scherzo thêm vào, giống hệt nhạc của phần mở đầu chương. Đưa phần tạm ngưng vào
chương cuối với chất liệu từ ‘vũ điệu’ thứ ba này lần đầu tiên được Haydn sử dụng
trong tác phẩm Giao hưởng số 46 cung Si của ông vào năm 1977. Không ai biết liệu
có phải Beethoven học tập từ tác phần này hay không.
Chương cuối Bản giao hưởng Số 5 kết thúc bằng một coda rất
dài, trong đó những chủ đề chính của chương được chơi theo hình thức cô đọng về
nhịp điệu. Càng tới cuối nhịp điệu chuyển dần về presto (rất nhanh). Bản giao
hưởng kết thúc bằng 29 nhịp ở hợp âm Đô trưởng, chơi cực mạnh. Charles Rosen
trong The Classical Style [18] cho rằng kết thúc này thể hiện cảm nhận Beethoven
về tính thương quan trong nhạc thời kỳ Cổ điển: đoạn “kết dài đến khó tin” hoàn
toàn ở cung đô trưởng là cần thiết “để kết lại sự căng thẳng tột độ của tác phẩm
đồ sộ này”.
Ludwig van Beethoven (17 tháng 12 năm 1770 - 26 tháng 3 năm
1827) là một nhà soạn nhạc cổ điển người Đức. Phần lớn thời gian ông sống ở
Viên, Áo. Ông là một hình tượng âm nhạc quan trọng trong giai đoạn giao thời
từ thời kỳ âm nhạc cổ điển sang thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Ông có thể được coi
là người dọn đường (Wegbereiter) cho thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Beethoven được
khắp nơi công nhận là nhà soạn nhạc vĩ đại nhất, nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng
tới rất nhiều những nhà soạn nhạc, nhạc sĩ, và khán giả về sau. |
16/9/2020
Nguồn: NGƯỜI YÊU NHẠC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét