Định dạng hiện thực trong Số đỏ là sự kết hợp nhuần nhuyễn đáng kinh ngạc giữa thực
và hư, giữa hợp lý và phi lý, giữa cái bình thường và cái dị thường… Người đọc
có cảm tưởng rằng, câu chuyện hài hước khó tin này được thôi ra từ đời sống thường
ngày, từ một thực tại mà họ đang trải nghiệm từng giây, từng phút và đồng thời
cũng có lúc ngờ ngợ nó tràn ngập “bịa đặt, dựng chuyện”.
Năm 1997, trong một bài trả lời phỏng vấn, nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp đã từng nhận định về Số đỏ: “Số đỏ, đấy là một tác phẩm tuyệt vời.
Nó chứng minh khả năng tưởng tượng rất phong phú của nhà văn mà là nhà văn trẻ.
Sở dĩ Vũ Trọng Phụng có được trí tưởng tượng ghê gớm như vậy là do ông viết Số
đỏ khi còn rất trẻ. Trí tưởng tượng là ưu thế của tuổi trẻ. Khi đã sống quá dày
dạn thì trí tưởng tượng sẽ mất dần đi, tôi cũng thế. Tôi chắc chắn là không viết
được cái gì như Vũ Trọng Phụng. Vũ khí của ông là trí tưởng tượng và cũng là tuổi
trẻ, còn vũ khí của tôi có lẽ là… một phong cách đa dạng bao gồm nhiều yếu tố
khác nhau” (1). Có lẽ, Nguyễn Huy Thiệp là một trong số ít bạn đọc không bị “mắc
lừa” tác giả của Số đỏ. Ông nhận ra tuyệt tác trào phúng này mang đầy màu
sắc “bịa đặt”, “dựng chuyện”, đó là sản phẩm của một trí tưởng tượng đặc biệt
phong phú.
Số đỏ được xếp vào dòng văn học hiện thực phê phán,
nhưng nội dung của nó thật khác biệt so với những tác phẩm Nguyễn Công Hoan,
Nam Cao, Ngô Tất Tố… Cả tính hiện thực cũng như phê phán của Số đỏ xem
chừng mong manh hơn so với những tác phẩm hiện thực phê phán cùng thời. Thực
ra, kể cả khi xếp Số đỏ vào bên cạnh những tác phẩm hiện thực cổ điển
thì tính hiện thực của nó dường như cũng mong manh. Khai thác tính hiện thực của Số
đỏ là một thách thức đối với những nhà nghiên cứu phê bình. Liệu có phải
nó được viết ra với mục đích lên án xã hội thượng lưu thuộc địa nửa phong kiến
hay không? Nếu có, tại sao những nhân vật “nhố nhăng” của tác giả lại không khiến
người ta ác cảm. Phải chăng, tiếng cười đặc sắc xuyên suốt tác phẩm đã góp phần
xóa nhòa ranh giới giữa thiện – ác, chánh – tà?
Có thể thấy rằng, hiện thực trong Số đỏ là một ẩn số.
Nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu đã từng có nhận xét tinh tường về Số đỏ, ông
cho rằng “ngôn từ của Vũ Trọng Phụng vẽ ra trước mặt mọi người một vùng hoang
tưởng khủng khiếp” (2). Dường như đây là một thế giới bịa đặt được tạo dựng
khéo léo đến mức hầu hết bạn đọc nhầm lẫn, họ sẵn lòng tin rằng có thể dễ dàng
tìm thấy mẫu hình của Xuân tóc đỏ, bà Phó đoan hay ngài Tyfn ở ngoài đời cùng với
những tình huống tức cười do những nhân vật này gây ra. Sau này, những bạn văn
cùng thời kể lại rằng rất có thể nguyên mẫu của bà Phó đoan là bà me tây Bé Tý ở
Hàng Bạc, nhà thiết kế Tyfn là họa sĩ Nguyễn Cát Tường, người cũng sáng chế ra
kiểu quần áo tân thời Lamur (Tiếng Pháp Le Mur là Tường), còn Tăng Phú, chủ báo
Gõ mõ là “quan sư” Nguyễn Năng Quốc, vừa là Tổng đốc vừa làm chủ nhiệm tờ báo
Đuốc Tuệ… Nhưng khi trở thành những nhân vật trong Số đỏ, họ đã liên tục tạo
ra những tình huống tức cười và phi lý. Thực ra, những hành vi, lời nói khác lạ
giống như họ có thể đã từng xảy ra trong cuộc sống nhưng được tích hợp tài tình
ở mức dày đặc và được duy trì suốt từ đầu đến cuối thì chỉ có trong Số đỏ.
Bản thân một tác phẩm văn học trào phúng, tính hiện thực không thể đậm nét như
những cuốn tiểu thuyết hiện thực thông thường khác, vì bản thân cuộc sống bao
giờ cũng có cả bi lẫn hài mà bi nhiều hơn thậm chí lấn át hài. Ngoài ra, còn có
vô số tâm trạng phức tạp khác con người phải trải nghiệm hàng ngày. Hơn thế nữa,
trong một tác phẩm trào phúng, các nhân vật thường được phóng đại, chính vì vậy,
mối quan hệ với hiện thực bị đứt gẫy. Có thể thấy rằng, tìm cách rút ra những
bài học luân lý mang tính đạo đức xã hội ở những tác phẩm như Số đỏ là
rất khó. Nó được viết ra để tác giả bộc lộ một năng lực uymua đầy đẳng cấp, thậm
chí đỉnh cao, từ đó cho thấy một nhãn quan hết sức độc đáo mà từ trước đến nay
chưa từng có. Tuy nhiên, có một thực tế là tiểu thuyết trào phúng Số đỏ thường
được nhìn nhận như một tác phẩm đậm nét hiện thực. Điều này liên quan mật thiết
đến khả năng bố cục bậc thầy của tác giả. Nhờ nó mà các nhân vật của ông luôn
có sự phát triển hợp logic nội tại. Trường hợp của Số đỏ có một chút
tương đồng với những dị truyện của Edgar Allan Poe. Đó là những truyện ngắn hết
sức kỳ quái nhưng không một chi tiết nào vượt ra ngoài giới hạn của hiện thực.
Chính Poe cũng từng nhấn mạnh kinh nghiệm sáng tác này trong bài tiểu luận Triết
lý về soạn tác. Ông luôn nỗ lực tiết chế các chi tiết để từ đầu đến cuối câu
chuyện “mọi tình tiết đều nằm trong những giới hạn có thể lý giải được – những
giới hạn của hiện thực” (3). Chính vì vậy, rất nhiều độc giả “không cưỡng nổi
cái ảo tưởng đầy vẻ hiện thực và biểu hiện” (4), đã tin rằng Poe đi chu du và kể
lại những câu chuyện kỳ quái của đời mình. Sau này, Baudelaire đã dùng một từ
chính xác để nhận định về hiện thực của Poe – những “ngoại lệ”. Còn Dostoyevski
thì cho rằng Poe gần như luôn chọn hiện thực hiếm hoi nhất và đặt nhân vật của
mình vào trong tình huống khách quan tâm lý khó gặp nhất” (5).
Trở lại với Số đỏ, ta cũng nhận thấy tuyệt tác trào
phúng này tràn ngập những chi tiết ngoại lệ và tác giả của Số đỏ cũng
luôn chọn những tình huống hiện thực hiếm hoi và đặt nhân vật của mình vào
trong những tình huống khách quan tâm lý rất khác thường. Đó là giây phút bà
Phó Đoan gật gù vì mình đã hư hỏng một cách khoa học, là cuộc tranh cãi của
lang Tỳ và lang Phế, là cái ham muốn được người khác đấm vào mặt của cố Hồng…
Tóm lại là những hành động và ý nghĩ bất thường của hầu như tất cả các nhân vật
trong Số đỏ. Rõ ràng là thế giới trong Số đỏ mang sắc thái phi
lý. Vậy thì lý do gì độc giả của Số đỏ luôn có những “ảo tưởng” về
tính hiện thực đậm nét của nó?
Lý do quan trọng nhất, như đã được đề cập ở phần trên, đó là
sự tích hợp, bố cục tài tình những tình tiết “ngoại lệ” dày đặc. Nó đã phần nào
làm mờ đi sắc thái phi lý của Số đỏ. Có thể thấy, Vũ Trọng Phụng là một
nhà văn bậc thầy về bố cục. Chỉ cần đọc một loạt những tên chương của ông cũng
có thể nhận ra. Từ chương I đến chương XX, các tên chương gồm có 3 tiêu đề
không ăn nhập với nhau. Chẳng hạn tên của chương V:
Bài học tiến bộ của Xuân tóc đỏ
Quan điểm về gia đình và xã hội
Vâng, tôi là một người chồng mọc sừng
Hay là chương XIX:
Ôi nhân tình thế thái
Người bạn gái trung thành
Chết, quan đốc Xuân nổi giận
Nếu đọc liền một mạch tên của hai mươi chương chúng ta có thể
thấy rõ dụng ý của tác giả. Từ những tiêu đề khác thường này độc giả có thể
hình dung ra ngay đây là một tác phẩm trào phúng. Chúng tạo nên một mạch ngầm
xuyên suốt cuốn tiểu thuyết. Mạch ngầm này giống như một cái trục mà toàn bộ cấu
trúc của tác phẩm có thể xoay trên đó. Nó góp phần quan trọng để Số đỏ có
một bố cục chặt chẽ. Đương nhiên, ở đây bố cục không chỉ ở cấp độ vĩ mô, mà ở từng
cấp độ nhỏ hơn ông cũng xử lý rất chắc tay. Nếu để ý kỹ, ta sẽ nhận thấy những
câu văn lộn xộn của mỗi tên chương tuy không ăn nhập với nhau về nội dung nhưng
khi đọc lên nghe rất thuận tai, thậm chí là giòn giã. Diễn ngôn trực tiếp đan
xen diễn ngôn gián tiếp và gián tiếp tự do tạo nên một lối hành ngôn khấp khểnh
nhưng rất khơi gợi và cuốn hút. Những sắp đặt này không thể do vô tình, nói một
cách khác, đó là dụng ý của của tác giả. Trên đây, chúng tôi chỉ phân tích tên
các chương trong Số đỏ như là một ví dụ về năng lực bố cục. Còn rất
nhiều yếu tố khác bộc lộ tính bố cục chặt chẽ, hoàn hảo trong tác phẩm: phát
triển nội dung cốt truyện, tần suất xuất hiện hợp lý của các nhân vật chính, phụ,
sự phát triển hợp logic nội tại ở mỗi nhân vật… và đặc biệt là ở giọng kể đặc
biệt của Số đỏ. Giọng kể này được tạo dựng bằng lối hành ngôn bình dân, suồng
sã đậm chất uymua. Đây cũng là một lý do quan trọng khiến cho bạn đọc có “ảo tưởng”
về tính hiện thực đậm nét của Số đỏ…
Thực ra xét đến cùng, sử dụng ngôn ngữ cũng không nằm ngoài
thao tác bố cục: sắp xếp các từ trong một câu, sắp xếp các câu trong một đoạn
văn, sắp xếp các đoạn văn trong một chương… Nhưng vì ngôn ngữ trong Số đỏ là
một hiện tượng đặc biệt nên chúng tôi xin dành riêng một phần để bàn luận. Nhà
nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu có lý khi cho rằng “ngôn từ của Vũ Trọng Phụng vẽ ra trước
mặt mọi người một vùng hoang tưởng khủng khiếp”, nhưng cũng cần phải nói thêm rằng,
chính nghệ thuật sử dụng ngôn từ của tác giả đã khoác cho Số đỏ một lớp
áo hiện thực tuy mong manh nhưng cũng đủ làm cho thế giới phi lý của nó mờ nhạt
đi phần nào. Sau đây, chúng ta sẽ khảo sát một đoạn đối thoại giữa lang Tỳ và
lang Phế. Tất cả có 17 lời thoại bắt đầu từ câu “Cụ lang Phế cũng nói ra ý bóng
gió” đến “sao anh không cho sạch mấy nốt ghẻ ở mình cô Tuyết đi”. Trong đó,
trong 9 lời là của lang Phế và 8 lời của lang Tỳ. Tác giả đã thực sự tạo ra được
một cuộc tranh cãi tương tài tương sức giữa hai ông lang bất tài và ngoa ngoắt.
Ý đối ý chan chát, nếu bớt đi lời dẫn chuyện của tác giả xen vào kiểu như: “Cụ
Phế giơ hai tay phân bua với mọi người” hay “Nhưng cụ Tỳ thản nhiên ngồi xuống
ghế, đủng đỉnh nói” thì đoạn đối thoại giống hệt đối thoại trong kịch. Chỉ cần
thêm tên của nhân vật ở đầu câu chúng ta sẽ có đoạn đối thoại đạt tiêu chuẩn đối
thoại trong kịch bản.
Lang Tỳ: Lang băm? Có lẽ! Nhưng không làm đọa thai người nào
thì thôi.
Lang Phế: À! Anh to gan nhỉ? Nói nữa ? Nói nữa đi xem nào?
Lang Tỳ: Chứ lại sợ à? Nói tại Sở Liêm phóng cho mà xem!
Lang Phế: Này không phải dọa! Chưa chắc đâu! Hỏi cái đứa nào
đánh mộng mà đến nỗi lòi con ngươi người ta ra, nó đây kia! Nó đây kia!
Lang Tỳ: Số nó mù thì anh bảo sao? Anh muốn tôi nhắc đến cái thằng
bé sài suyễn mà anh chữa bằng lá ô nhĩ mãi không?
Lang Phế: Sao không nói đến bệnh chẩn kinh của Phó Đoan mà
anh cứ kêu là có chửa?
Lang Tỳ: Anh là thằng khốn nạn nhé! Thế cô Nga đây kia hôi
nách mà anh chữa bằng dầu bạc hà trong sáu tháng giời không khỏi thì sao?
Lang Phế: Sáu tháng? Thế trong ba năm giời sao anh không cho
sạch mấy nốt ghẻ ở mình cô Tuyết kia đi?
Chỉ cần đọc một phần trong cuộc tranh cãi của lang Tỳ, lang
Phế ta đã thấy đoạn đối thoại này đầy ắp hành động (full of action). Ở đây, từ hành
động được dùng như một thuật ngữ sân khấu. Có thể hiểu rộng ra đó là cơ hội để
diễn xuất (một trong những nghĩa chính của động từ act trong tiếng Anh là diễn
xuất). Có thể thấy lời nói – diễn ngôn trực tiếp của hai thầy lang trên tạo ra
rất nhiều đất diễn cho diễn viên nếu như cuốn tiểu thuyết này được chuyển thể
thành kịch. Một vở kịch full of action là một vở kịch diễn viên có thể diễn xuất
thuận lợi từ đầu đến cuối. Nó liên tục tạo ra xung đột (conflict) khiến cho vở
kịch có một sức lôi cuốn rất đặc trưng của sân khấu. Từ conflict ở đây không
nên hiểu theo ý độ căng của cốt truyện, cái mà định hình hay thúc đẩy sự vận động
của cốt truyện. Nó đơn giản chỉ là sự bất đồng, va chạm giữa các ý kiến. Tóm lại,
có thể hiểu vắn tắt, xung đột ở đây chính là sự va đập liên tục giữa những phát
ngôn của các nhân vật. Phát ngôn của nhân vật thứ nhất phải là cái cớ để phát
ngôn của nhân vật thứ hai ra đời, rồi sau đó phát ngôn của nhân vật thứ hai phải
được tạo ra sao cho trở thành cái cớ để nhân vật thứ nhất bật lại tiếp. Sự bật
qua bật lại này là không thể thiếu được trong đối thoại kịch bản. Như vậy là đoạn
đối thoại giữa lang Tỳ và lang Phế không chỉ là những lời cãi cọ đốp chát điêu
ngoa. Xem xét kỹ hơn, ta thấy nó đã được kịch hóa. Trong Số đỏ có nhiều
đoạn đối thoại được kịch hóa như thế này, chẳng hạn giữa Xuân và Tăng Phú, Xuân
và cô hàng mía… nhưng có lẽ dài hơi nhất vẫn là cuộc tranh cãi về “y thuật” của
hai thầy lang vườn. Nếu Số đỏ được dựng thành kịch theo tinh thần bám
sát nguyên tác, khả năng đoạn tranh cãi này sẽ tạo được nhiều sự hứng thú cho
khán giả nhất. Bên cạnh tiểu thuyết và truyện ngắn, Vũ Trọng Phụng có viết một
số kịch bản như Không một tiếng vang, Phân bua, Cái chết bí mật của người
trúng số độc đắc… Kịch bản là một lĩnh vực sáng tác có nhiều khác biệt so với
tiểu thuyết. Tính bố cục được đặt lên hàng đầu vì đặc trưng của kịch là chỉ
trình diễn một lần, sau đó khán giả sẽ ra về, còn tiểu thuyết thì có thể đọc đi
đọc nhiều lần. Nếu kịch bản bố cục yếu thì khi dựng thành kịch sẽ gây khó hiểu
hoặc hiểu nhầm cho người xem. Vũ Trọng Phụng đã từng thử sức ở lĩnh vực kịch bản
nên không có gì khó hiểu khi Số đỏ được ông viết chắc tay đến như vậy.
Trong quãng thời gian làm báo Vũ Trọng Phụng đã từng cho ra mắt một bài viết có
nhan đề Cái đặc tính của kịch lãng mạn. Trong đó, ông so sánh sự giống
và khác nhau giữa kịch lãng mạn và cổ điển (6). Bài viết chứng tỏ ông yêu thích
kịch và có am hiểu về lĩnh vực này. Ngay từ tiểu thuyết đầu tay Dứt tình ta
cũng thấy những đoạn đối thoại dài hơi mang hơi hướng kịch rất rõ. Việc xuất hiện
liên tục những đoạn đối thoại được kịch hóa trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng
cho thấy ông có tiềm năng của một kịch gia lớn. Nếu được sống lâu hơn rất có thể
ông sẽ cho ra đời những vở hài kịch đi vào lịch sử sân khấu Việt Nam. Trong Số
đỏ, những đoạn đối thoại kịch hóa được cài đặt rải rác từ đầu đến cuối tác phẩm
khiến cho giọng kể của Số đỏ thêm phần đa dạng. Như vậy, giọng kể
trong Số đỏ không chỉ có sự hòa trộn nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ tiểu
thuyết và báo chí, tác phẩm này còn xuất hiện cả ngôn ngữ kịch đan xen. Đây có
thể là một trong những lý do quan trọng khiến Số đỏ mang một phong
cách hiện đại vô cùng sống động. Nó khiến cho thế giới hiện thực của Số đỏ trở
nên rất khó định dạng, thậm chí là một ẩn số đầy tính khơi gợi.
Để tìm hiểu kỹ hơn về giọng kể trong Số đỏ, chúng ta
cũng nên lưu ý tới thái độ khó chịu, xem thường của Vũ Trọng Phụng với nhóm Tự
lực văn đoàn. Rất có thể khi viết Số đỏ ông muốn tạo ra một tác phẩm
hoàn toàn khác biệt với họ. Tinh thần Âu hóa, Văn minh hóa của họ đương nhiên
là bị đem ra chế giễu, nhưng có lẽ ông còn muốn tạo ra một lối viết hoàn toàn
khác biệt, thậm chí chưa từng xuất hiện trước đó. Vũ Trọng Phụng đã sử dụng một
loạt diễn ngôn đậm đặc khẩu ngữ của đủ hạng người trong xã hội để tạo nên một
thế giới nhốn nháo, lộn xộn và tức cười. Nếu cách đặt vấn đề trong tiểu thuyết
Tự lực văn đoàn đậm nét chính kịch (drama) thì Số đỏ lại đậm nét hài
kịch (comedy). Thậm chí, nếu như không có sự thách thức với nhóm Tự lực văn
đoàn thì ông vẫn sẽ là một nhà văn luôn ý thức về sự độc đáo trong sáng tạo.
Theo như lời kể của Lan Khai, ông từng nói rằng trên đời này ghét nhất là cái tủ
chè. Cái cách ông “chì chiết, đay nghiến” cái tủ chè khiến không ít người Việt
chạnh lòng: “Thực tế dân An Nam này đã khổ sở và sẽ còn khổ sở vì cái tủ chè ấy
không biết đến bao giờ. Mày thử xem, trong mỗi nhà An Nam, cái chỗ tốt đẹp nhất
đáng lẽ phải để tủ sách hoặc treo những tác phẩm của họa sĩ hoặc để máy truyền
thanh, người mình đã chỉ dùng để kê tủ chè. Anh em ruột thịt lìa nhau, bạn bè
khinh nhau cũng chỉ vì cái tủ chè. Đến nỗi chạy loạn chúng nó cũng chỉ nghĩ đến
cái tủ chè trước rồi mới nghĩ đến sinh mạng. Thực là một nghiệp chướng cho một
thứ dân chỉ thiết làm cu li cũng được miễn là có chút hư danh thì thôi” (7).
Câu nói này bộc lộ rõ tư chất của Vũ Trọng Phụng: khinh ghét những thói thường,
khinh ghét sự a dua mang tính bày đàn. Một giọng kể như Số đỏ không hẳn
chỉ do ảnh hưởng của nghề làm báo (giọng kể trong các phóng sự của Vũ Trọng Phụng
có thể nói cũng rất đặc sắc. Cho đến nay vẫn chưa ai vượt được ông trong thể loại
này). Chính vì vậy, có thể thấy rằng, giọng kể khác biệt của Số đỏ cũng
như những thiên phóng sự kỳ tài là do ý thức về một giọng kể độc đáo của tác giả,
thậm chí chúng còn là sản phẩm của cả một quá trình tìm tòi cá nhân. Nếu tham
khảo cuốn Dứt tình, một trong những cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông ta sẽ
thấy sự khác biệt lớn:
Ánh trời tà đã hết nhuộm vàng bãi bể. Bên trên dãy núi tím,
vàng, xanh, xám mấy màu pha lộn nhau như nét bay miết dài của nhà họa sĩ, mây lồng
thành hình vạn vật, cỏ cây. Giữa khoảng vô cùng, đó là một đàn voi… dần dần dồn
nhau lên một cái cánh phượng, rồi, sau hết, lại bị gió dãi ra tản mạn thành chỗ
này thì eo bể, vịnh, bán đảo, chỗ kia, cù lao, sông, núi – một bức tranh họa đồ
(8)!
Có thể thấy rõ, từ Dứt tình tới Số đỏ giọng
kể đã hoàn toàn thay đổi. Trong Số đỏ, ngôn ngữ kể chuyện cũng như ngôn ngữ
nhân vật đậm chất khẩu ngữ (Khẩu ngữ tự nhiên là một hiện tượng ngôn ngữ luôn
trở đi trở lại trong ngôn ngữ thường ngày). Bằng việc sử dụng điêu luyện khẩu
ngữ tự nhiên, Vũ Trọng Phụng đã khiến Số đỏ “tươi rói một thứ ngôn ngữ
của đời sống” (9). Điều này khiến cho thế giới phi lý của Số đỏ có vẻ
mang bóng dáng đời thường hợp lý.
Như vậy, có thể thấy rằng với trí tưởng tượng đặc sắc và năng
lực bố cục bậc thầy ở mọi cấp độ, Vũ Trọng Phụng đã khiến nhiều bạn đọc dao động
giữa các chiều kích của hiện thực. Số đỏ là sự kết hợp nhuần nhuyễn
đáng kinh ngạc giữa thực và hư, giữa hợp lý và phi lý, giữa cái bình thường và
cái dị thường… Người đọc có cảm tưởng rằng, câu chuyện hài hước khó tin này được
thôi ra từ đời sống thường ngày, từ một thực tại mà họ đang trải nghiệm từng
giây, từng phút và đồng thời cũng có lúc ngờ ngợ nó tràn ngập “bịa đặt, dựng
chuyện”. Xem ra, định dạng hiện thực trong Số đỏ không hề đơn giản.
Sau gần một thế kỷ, hiện thực trong tác phẩm trào phúng này vẫn là một thách thức
đối với bạn đọc cũng như các nhà nghiên cứu phê bình.
18/9/2020
Hoàng Tố Mai
Nguồn: VĂN HỌC QUÊ NHÀ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét