Nhà soạn nhạc thiên tài người Áo Wolfgang Amadeus Mozart nói
rằng: “Lặng cũng là âm nhạc”. Còn theo quan niệm của môn “Lý thuyết âm nhạc cơ
bản”: “Lặng là sự ngừng vang”.
Lẽ đương nhiên, lặng khó thể là “sự” khi mà nó không hề hiện
hữu. Chúng ta có thể nhận biết lặng thông qua mối quan hệ tương tác với hiệu quả
vang của âm thanh. Còn suy xét một cách biệt lập, thính giác của chúng ta tuyệt
nhiên không thể cảm nhận được lặng! Nói cách khác, lặng thuộc phạm trù khả niệm
(có thể quan niệm), chứ không phải khả giác (có thể nhận biết bằng giác quan).
Nhận thức luôn thuộc về kết quả của tiến trình tương tác giữa chủ thể và đối tượng.
Vì vậy, lý thuyết âm nhạc khác với nghệ thuật âm nhạc. Quá trình phát triển của
nghệ thuật cho thấy sự sáng tạo không ngừng những giá trị văn hóa mới, những chặng
đường chinh phục khả năng siêu việt của con người. Bởi vậy, với phẩm chất của một
nhạc sĩ thiên tài, Mozart đã rất minh triết khi cho rằng “lặng cũng là âm nhạc”,
chứ không thuần túy là sự ngừng vang hay ngừng nghỉ.
Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta dễ thường coi dấu lặng là
những chỗ để nghỉ! Trên thực tế, chưa từng có nghệ sĩ nào làm việc riêng, hay
“đào ngũ” trong khi đàn khoảng lặng. Từ người mới chập chững bước chân vào ngôi
đền âm nhạc cho đến các nhạc sĩ vĩ đại ngự trên tượng đài vinh quang bất tử đều
có chung thái độ thành kính trước dấu lặng.
Tham chiếu nhiều tác phẩm cận đại, ta thấy càng ngày càng có
hiện tượng chia nhỏ các khoảng lặng đến mức rối rắm khiến cho người đàn không
khỏi cảm thấy mệt mỏi (hơn cả lúc đàn). Vậy, khó thể coi lặng là “nghỉ” theo
quan niệm thường nghiệm. Trong nghệ thuật âm nhạc, lặng đă vượt khỏi ranh giới
thường nghiệm, lọt vào thế giới siêu nghiệm. Ta chỉ biết có sự tồn tại của lặng,
còn trước sau vẫn không thể cảm nhận được lặng bằng giác quan (đặc biệt là cơ
quan thính giác).
Vào khoảng đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, nhạc sĩ, tiến
sĩ Philipe người Mỹ tới Nhạc viện Hà Nội giới thiệu một số trào lưu âm nhạc cận
đại thế giới lúc bấy giờ có nhắc đến tác phẩm “4 phút 33 giây” còn có tên
“Silence”của nhạc sĩ Jonh Cage. Tiến sĩ Philipe mô tả việc trình bày tác phẩm
này khá độc đáo, đặc biệt trong suốt khoảng thời gian trình diễn tác phẩm kéo
dài 4 phút 33 giây, người nghệ sĩ chỉ ngồi tĩnh lặng, tuyệt nhiên không hề đàn
một nốt nào. Khi được hỏi: “Qua tác phẩm này, người nghệ sĩ đă mang lại điều gì
cho khán thính giả?”. Tiến sĩ Philipe trả lời rằng: “Tôi không biết”. Một câu
trả lời hết sức chân thành, đồng thời đầy ngụ ý, mà thực chất là Thiền ý. Vì
sao vậy? Bởi, bản chất của Thiền là vô ngôn, còn bản chất của lặng là vô thanh.
Vô ngôn và vô thanh gặp nhau ở thuộc tính “lặng”. Nói như vậy, có nghĩa lặng là
nơi mà người nhạc sĩ (sáng tác) trao toàn quyền sáng tạo cho người biểu diễn và
người nghe. Có thể nói, chủ thể sáng tạo và đối tượng tiếp nhận đều gặp nhau ở
những chỗ lặng, một kết quả liên chủ thể tuyệt diệu trong nghệ thuật sắp xếp âm
thanh.
Trong tất cả các phương tiện biểu hiện của âm nhạc, lặng chiếm
vị trí khá khiêm tốn. Người mới học đàn hiểu lặng là sự ngừng nghỉ (rest). Đơn giản
có vậy, nhưng lặng có giá trị cực kỳ to lớn. Không có lặng, tác phẩm âm nhạc chỉ
bao gồm tổng thể âm thanh miên trường, mệt mỏi… Chúng ta thật khó thể tưởng tượng
thứ âm nhạc không có lặng. Vì, nghệ thuật sắp đặt âm thanh luôn nằm trong mối
tương quan giữa hiệu quả vang của âm thanh và những khoảng lặng. Một tác phẩm
vang suốt từ đầu tới cuối, đến mức không còn chỗ cho người đàn “ngừng”, người
nghe “nghỉ”, chắc hẳn chúng ta phải ngợp “thở”. Chưa kể, không có lặng, đối với
những hình thái nghệ thuật phụ thuộc vào sự hữu hạn của cơ quan sinh lý con người
không thể thực hiện được, như thanh nhạc, kèn (tất nhiên, có những nghệ sĩ kèn
có khả năng kích âm – tạo âm bằng cả hai cách thổi ra và hít vào). Song, lặng
trước hết và sau cùng xuất hiện với tư cách của một phương tiện biểu hiện trong
âm nhạc như nhà soạn nhạc thiên tài Mozart quan niệm, chứ đừng hiểu lặng đơn giản
là sự ngừng nghỉ hay ngừng vang.
Lặng giống như khoảng trống trong các công trình kiến trúc. Bất
kỳ công trình kiến trúc nào, từ kết cấu đồ sộ, quy mô hùng vĩ như quảng trường,
nhà hát, nhà thờ, đền đài, đình miếu… cho tới kiến trúc dân dụng, trường học, bệnh
viện… đều vô ý, hữu ý tạo ra những khoảng trống nhằm tạo tựu cho sự hiện hữu của
ngôn ngữ kiến trúc hình khối. Một công trình kiến trúc hoàn hảo luôn vươn tới vẻ
đẹp của sự quân bình giữa khoảng trống và hình khối. Kết cấu hài hòa làm nên
tính chất đồng đẳng giữa hai hình thái tồn tại, hư không và hiện hữu. Do vậy
cũng đừng hiểu khoảng trống là chỗ trống, nơi mà ta có thể đặt bất cứ vật gì vào
khi cần thiết. Nói cho rốt ráo, trạng thái cân bằng giữa khoảng trống và không
gian bố trí sự vật luôn nằm trong mối tương tác của công trình kiến trúc tựa
như lặng trong tác phẩm âm nhạc nhằm vươn tới tinh thần, trạng thái hài hòa,
bình đẳng giữa các phương tiện biểu hiện. Trong tác phẩm âm nhạc, âm thanh vang
tựa như phần nổi, còn lặng chìm sâu dưới lòng giá trị biểu hiện. Lý lẽ phổ biến
này nằm trong mọi sự tồn tại. Nó chính là Đạo, là vô vi, là cái không làm,
nhưng làm với sự hồn nhiên, vô tư tuyệt đối. Và ở đây, chúng ta mơ hồ nhận ra rằng,
lặng chính là chỗ khó đàn nhất. Lặng không những khó đàn, mà còn khó nghe nữa,
Vì, bản chất vô thanh, không hiện hữu… Khác với âm thanh vang, tác động trực tiếp
vào cơ quan thính giác của chúng ta tạo nên các hiện tượng tâm lư khác nhau.
Còn lặng hướng vào chiều sâu nội giới, chúng ta tiếp xúc với lặng bằng cuộc
“hành hương” tìm về cội nguồn của bản thân mình.
Đa số các nhà nghiên cứu âm nhạc đều không chấp nhận thứ âm
nhạc không phát ra âm thanh, thậm chí kể cả thứ âm nhạc Thiên lại Địa lại (nhạc
trời) từng làm xao xuyến nhiều bậc hiền triết thời kỳ cổ đại như Trang Tử, Lão
Tử… thứ âm nhạc của Thân và Tâm như quan niệm trong Thiền… Bởi, trước khi âm nhạc
được xem xét với tư cách làm đối tượng của khoa Tâm lư học (tâm lý tiếp nhận âm
thanh), nó phải được nhìn nhận dưới góc độ vật lư (nguyên lý tạo thanh) của
ngành Vật lý học.
Tuy nhiên, như đã đề cập, khoa học về âm nhạc bản thân nó
không phải nghệ thuật âm nhạc. Nghệ thuật với bản chất không ngừng sáng tạo ra
những giá trị mới luôn đồng hành với tiến trình mở rộng phạm vi và liên tục
thâu tóm những phương thức biểu hiện mới. Lặng dù rằng vẫn được coi như một
phương thức biểu hiện cũ, nhưng mỗi người đều có sự nhìn nhận khác nhau. Và quả
thực, nghệ thuật không giống như vạn vật trong vũ trụ chịu chi phối bởi luật
nhân quả, mang giá trị tất yếu, phổ quát mà được sáng tạo bởi quy luật của cái
đẹp, mang giá trị tự do, độc đáo… Ở lĩnh vực nghệ thuật, chẳng có gì hiển nhiên
cả! Nhận thức về nghệ thuật dưới nhiều trắc diện khác nhau vẫn có thể đem lại
những kết quả mới mẻ, thậm chí khiến ta ngỡ ngàng. Lặng là một đối tượng như thế.
Nếu rọi vào tác phẩm “4 phút 33 giây”, ta có thể coi nó như một dấu
lặng dài hay nhiều dấu lặng trong suốt quá trình diễn tiến của tác phẩm. Có điều,
khi lặng đứng một mình, không nằm trong sự đối sánh với âm thanh vang, ta không
thể nhận ra sự hiện diện của nó. Trong tác phẩm âm nhạc, ta cảm nhận lặng bằng
tương quan với hiệu quả vang, còn trong khoảnh khắc của những dấu lặng, ta chỉ
có thể tiếp thu với tư cách của một phương tiện tự thân? Tự thân hiểu là tồn tại
riêng biệt, không phụ thuộc vào yếu tố ngoại tại. Từ đó, sự tiếp nhận của mỗi
chủ thể không đem tới kết quả tương đồng. Thế giới siêu hình của lặng vốn đã
không hiện hữu, lại còn tùy thuộc vào khả năng siêu nghiệm của chủ thể tiếp nhận,
nên ý nghĩa của lặng được quyết định bởi “căn duyên”, “tài phẩm” của từng người.
Trong yên lặng, ta gặp giá trị đích thực của lặng, tựa như mạch
nước ngầm thấm sâu dưới lòng tác phẩm và nằm mơ hồ giữa tri giác cá nhân ta.
19/6/2020
Lê Hải Đăng
Nguồn: VNMUSIC.COM.VN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét