Thứ Ba, 15 tháng 12, 2020

Những nét tiêu biểu của thi ca Việt Nam tiền chiến và hậu chiến

Những nét tiêu biểu của thi ca 
Việt Nam tiền chiến và hậu chiến

Thi ca Việt Nam từ thập niên 1930, qua các thời kỳ, có mức độ tiến triển không ngừng. Trong khoảng 15 năm, từ 1930-45, một nền thơ mới xuất hiện rực rỡ mà người ta thường gọi là thi ca tiền chiến. Và trong vòng 15 năm sau, từ 19760-75 một nền thi ca khác được khai sinh ở Miền Nam, có thể gọi là thi ca hậu chiến. Giữa đó, từ 1945-60, cũng 15 năm, là thời kỳ thi ca kháng chiến ở Miền Bắc và thi ca giao thời ở Miền Nam.
Sự phân định các thời kỳ thi ca ở Việt Nam như trên, chỉ là tương đối, để nhận định tính chất biểu trưng của thi ca Việt Nam về lịch trình tiến triển của nó trong suốt nửa chiều dài của thế kỷ 20. Sau năm 1975, một phần ở quốc nội, một phần ở hải ngoại, thi ca Việt Nam có tính phức tạp, chưa định hình hẳn và đó là vấn đề khác, người viết chưa đề cập ở đây.
Năm 1942, hai tác giả Hoài Thanh và Hoài Chân xuất bản cuốn "Thi nhân Việt Nam", giới thiệu 45 nhà thơ tiêu biểu cho thi ca Việt Nam từ thập niên 1930. Tác giả đã chia các nhà thơ này theo ba khuynh hướng hay ba dòng (theo chữ của tác giả): dòng Pháp, dòng Đường, dòng Việt. cũng theo tác giả Thi nhân Việt Nam, các nhà thơ thuộc dòng Pháp là: Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận; thuộc dòng Đường có: Đông Hồ, Thái Can, J. Leiba, Quách Tấn; dòng Việt có: Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Nguyễn Đình Thư.
Chịu ảnh hưởng Pháp, có các nhà thơ có khuynh hướng lãng mạn (như Xuân Diệu, Huy Cận), một số có khuynh hướng tượng trưng (như Chế Lan Viên, Bích Khê).
Điểm nổi bật nhất trong nền thi ca tiền chiến là khuynh hướng lãng mạn. Lãng mạn là trường phái văn học Âu tây, xuất hiện vào thế kỷ 19. Trường phái này chủ trương biểu hiện tình cảm tự do đối với thiên nhiên và con người, không theo ước thúc, qui định nào, cả nội dung lẫn hình thức.
Thế Lữ, với "Cây đàn muôn điệu" đã cất lời ca:
Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp của muôn hình muôn thể
Mượn lấy bút nàng Ly tao tôi vẽ
Và mượn cây đàn ngàn phiếm tôi ca
Vẻ đẹp u trầm, đắm đuối hay ngây thơ
Cũng như vẻ đẹp cao siêu hùng tráng
Của non nước của thi văn tư tưởng
Dáng yêu kiều tha thướt khách giai nhân...
Và thi nhân đi tìm bóng giai nhân ở cảnh thiên nhiên xa lạ, ở cảnh tiên:
Hôm qua đi hái mấy vần thơ
Ở mãi vườn tiên gần Lạc hồ
Cảnh tĩnh trong hoa chim mách lẻo
Gió đào mơn trớn liễu buông tơ...
(Vẻ đẹp thoáng qua)
Tình yêu thiên nhiên của Thế Lữ đưa con người đi xa đến lạc cõi trần gian. Huy Cận không vậy, thi nhân đưa người đọc về ngắm cảnh quanh mình, phảng phất bóng hình xưa:
Ngập ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo quán dựng mưa lò mái ngang
Vi vu gió hút nẻo vàng
Một trời thu rộng mấy hành mây nao...
(Đẹp xưa)
Hay cảnh sông nước ở xứ đẹp và thơ:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền suôi mái nước song song...
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vẫn chợ chiều
Nắng xuống đời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu...
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa...
(Tràng giang)
Cảnh đêm mưa:
Đêm nay mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la...
Gió về lòng rộng không che
Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư
(Buồn đêm mưa)
Cảnh vườn chiều:
Nắng chia nửa bãi chiều rồi
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu...
(Ngậm ngùi)
Cảnh hương thôn:
Đường trong làng hoa dại với mùi rơm
Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm
(Đi giữa đường thơm)
Cảnh thiên nhiên ở đây đã được con người gởi vào ít nhiều tình cảm vương vấn, không phải đượm vẻ ngậm ngùi, thiết tha. Đứng trước thiên nhiên, thấy cảnh sinh tình, người ta thường biểu lộ bằng những ý tưởng, những cảm xúc vui buồn. Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu thì khác. Ở đây thiên nhiên đã được thi vị hóa bằng cảm giác để trở nên một thiên nhiên lung linh, huyền diệu, gần như hư ảo:
Trong vườn đêm ấy có nhiều trăng quá
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi
Tôi với người yêu qua nhè nhẹ
Im lìm không dám nói năng chi
Bâng khuâng chân tiếc dậm lên vàng
Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang
Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá
Và làm sai lỡ nhịp trăng đang
Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh
Cho gió du dương điệu múa cành
Cho gió đượm buồn thôi náo động
Linh hồn yểu điệu của đêm thanh...
(Trăng)
Nhưng sự phong phú của thi ca tiền chiến là thơ tình. Đa số nhà thơ ở thời kỳ này đều có làm thơ tình, một thứ tình yêu lãng mạn khá trong sáng, thơ mộng, nhưng không đến mức lý tưởng như tình yêu trong thi ca lãng mạn Tây phương. Và thơ tình của mỗi nhà thơ biểu hiện một sắc thái riêng.
Thế Lữ, nhà thơ thuộc nhóm Tự Lực Văn Đoàn, xúc động trước cuộc chia tay của đôi tình nhân:
Anh đi vui cảnh lạ đường xa
Đêm chí bình sinh dãi nắng mưa
Thân đã hiến cho đời gió bụi
Đâu còn lư luyến chút duyên tơ
Rồi có khi nào ngắm bóng mây
Chiều thu đưa lạnh gió heo may
Dừng chân trên bến sông xa vắng
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây...
(Giây phút chạnh lòng)
Ta liên tưởng cuộc tình này là của nhân vật trong "Tiêu sơn tráng sĩ", tập tiểu thuyết của Khái Hưng.
Lan Sơn, với mối tình thuở học trò, có những giây phút đứng chờ thư của bạn gái:
Thư bạn thôi không có buổi nay
Người phát thư vừa ra khỏi cửa
Lòng anh như dại lại như ngây
Tình học trò đẹp và thơ mộng ở những lá thư trao gởi cho nhau, dù lá thư ấy được đón nhận hay không:
Anh chỉ có một tình yêu thứ; nhất
Anh cho em kèm với một lá thư
Em không lấy và tình anh đã mất
Tình đã cho không lấy lại bao giờ
(Xuân Diệu)
Huy cận cũng có một thuở học trò rung cảm với thứ tình yêu đầu đời cùng những nàng nữ sinh áo trắng:
Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa em đến mắt như lòng
Nở bừng ánh sáng em đi đến
Gót ngọc dồn hương bước tỏa hồng
(Áo Trắng)
Hay một tình yêu khá chín muồi nhưng không kém vẻ thơ mộng:
Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây
Lòng anh mở với quạt này
Trăm con chim mộng về bay đầu giường
Ngủ đi em mộng bình thường
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ
(Ngậm ngùi)
Với Lưu Trọng Lư, thì không còn đơn thuần là tình yêu giữa hai người nam nữ, mà là tình yêu trong mộng và thơ:
Vừng trăng từ độ lên ngôi
Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ
Để tóc vướng vần thơ sầu rụng
Mái tóc buồn thơ cũng buồn theo
(Thơ sầu rụng)
Em là gái trong song cửa
Anh là mây bốn phương trời
Anh theo cánh gió chơi vơi
Em vần nằm trong nhung lụa
Em chỉ là người em gái thôi
Người em sầu mộng của muôn đời
Tình em như tuyết giăng đầu núi
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời
(Một mùa đông)
Đến Xuân Diệu thì tình yêu lãng mạn tới mức độ cao với mối tình sôi nổi của tuổi thanh xuân:
Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều mà nhận chẳng được bao nhiêu...
Mau với chứ vội vàng lên với chứ
Em em ơi tình non sắp già rồi
Con chim hồng trái tim nhỏ của tôi
Mau với chứ thời gian không đứng đợi
Tình thổi gió mầu yêu lên phất phới
Nhưng đôi ngày tình mới đã thành xưa
(Giục giã)
Xuân Diệu sống với tình yêu, luôn luôn thắc mắc, tìm hiểu tính chất bí ẩn, phức tạp của tình yêu:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu
(Vì sao)
Thi nhân gửi tình yêu mình đến những tấm lòng thông cảm, tương ứng, như hoa gởi hương cho gió:
Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm
Đem gởi hương cho gió phụ phàng
Mất một đời thơm trong kẽ núi
Không người du tử đến nhằm hang
Hoa tưởng đem hương gởi gió kiều
là truyền tin thắm gọi tình yêu
Song le hoa đẹp càng thêm tủi
Gió mặc hồn hương nhạt với chiều
(Gửi hương cho gió)
Và thi nhân đau khổ với tình yêu không được đáp ứng bằng lá thư tình bị xé bỏ:
Em đã xé lòng non cùng giấy mới
Mây đầy trời hôm ấy phủ sơn khê
(Tình thứ nhất)
Dù thất bại với mối tình đầu, nhưng Xuân Diệu không chán nản, thất vọng, thi nhân vẫn giục giã một tình yêu thiết tha, vội vã:
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
(Vội vàng)
Có lúc thi nhân là người tình chỉ biết yêu để hò hẹn và khi hò hẹn thì không muốn người yêu đáp lại lời hẹn:
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
Để lòng buồn anh dạo khắp trong sân
Và trên tay điếu thuốc cháy lui dần
Anh tự bảo: gớm sao mà nhớ thế!
Vì họ thích mối tình lãng mạn:
Tình chỉ đẹp những lúc còn dang dở
Thư viết đừng xong thuyền trôi chớ đỗ
Để ngàn sau lơ lửng với ngàn xưa
(Hồ Dzếnh)
Hay như Nguyễn Đình Thư, đối với thi nhân, tình yêu không cần đắn đo, tính toán:
Tôi yêu là bởi tôi yêu
Cầm tay cô hỏi, hỏi nhiều làm chi
Khi yêu không đắn đo gì
Phân phô chừ biết nói vì cớ sao
(Đến chiều) 
Tuy ở vào thời đại mới nhưng Nguyễn Bính vẫn ưa mô tả một thứ tình yêu chân thành mộc mạc như của những đôi tình nhân ở thôn quê:
Lòng anh giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt biển chiều trong xanh
Lòng em như bụi kinh thành
Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe
(Hai Lòng)
Hoa chanh nở ở vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều
(Chân Quê)
Nhà em có một giàn trầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn đoài thì nhớ thôn đông
Cau thôn đoài nhớ trầu không thôn nào
(Tương Tư)
Tuy nhiên, ngoài số thi ca lãng mạn có tính cách trong sáng thì cũng có những nhà thơ tìm đến nguồn thơ không lành mạnh ở vũ trường, như Vũ Hoàng Chương:
Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng
Một trời phấn hương
Đôi người gió sương...
Âm ba gờn gợn nhỏ
Ánh sáng phai phai dần
Bốn tường điên đảo bóng giai nhân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
(Say Đi Em)
Ở quán rượu như Lưu Trọng Lư:
Mời anh cạn hết chén này
Trăng vàng ở cuốn non tây ngậm buồn...
Giờ này còn của đôi ta
Giang hồ rượu ấy còn pha lệ người
(Rượu Giang Hồ)
Hay ở chốn yên hoa, như Xuân Diệu:
Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa
Vội vàng chi trăng sáng quá khách ơi...
Khách ngồi lại cùng em đây gối lả
Tay em đây mời khách ngả đầu say
Đây rượu hồng và hồn của em đây
Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử
(Lời Kỹ Nữ)
Một số ít nhà thơ đi theo con đường tượng trưng để đưa tình yêu từ bày tỏ đến kín đáo, từ dung dị đến khuất khúc, ngầm ẩn, như Đoàn Phú Tứ với bài "Màu Thời Gian":
Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình
Ngàn xưa không lạnh nữa tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian...
Tóc mây một món chiếc dao vàng
Ngàn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Hay từ tình yêu thể chất đến tinh thần, như trong thơ Bích Khê:
Dáng tầm xuân uốn trong trăng Tố nữ
Ô tiên nương! Nàng lại ngự nơi nầy?
Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường
Lệ tích lại lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi
(Tranh Lõa Thể)
Có khi tình yêu là sự hòa hợp giữa họa, nhạc và thơ, như của Nguyễn Xuân Sanh:
Quỳnh Hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y
Như đầu bài viết đã trình bày, thời kỳ 1945-60, thi ca Việt Nam tiến triển ở hai Miền Bắc và Nam. Ở Miền Bắc, các nhà thơ đã khơi dậy một nguồn thơ sống động với cuộc kháng chiến chống Pháp và tồn tại trong khoảng mười năm từ 1945 đến 1954 (năm ký hiệp định Geneve). Thơ kháng chiến khởi đầu từ năm 1949 ở chiến khu Bình trị Thiên, rồi ra đến Miền Bắc. Ngoài những bài thơ có tính cách đấu tranh, thì những bài được yêu thích vẫn là thơ tình. Bài thơ được nhắc nhở nhiều là bài "Mầu tím hoa sim" của Hữu Loan, bài "Năm xưa em nữ sinh" của Yên Thao, "Đôi mắt người Sơn Tây", "Đôi bờ" của Quang Dũng, "Tình Cầm" của Hoàng Cầm.
Xuân Diệu ở miền Bắc có lúc làm thơ tình "chui", đến sau năm 1975 mới được in ra, như bài "Biển" chẳng hạn.
Ở Miền Nam, thì từ 1950-60 là giai đoạn giao thời của thi ca ở vùng quốc gia. Tuy các nhà thơ trong thời kỳ này có quan niệm sai lầm về lý tưởng và vọng hướng về phe kháng chiến Miền Bắc nhưng họ đã có một số sáng tác được độc giả ưa thích như thi phẩm "Chiến sĩ hàn" của Vũ Anh Khanh, cùng những bài thơ của ông đang trên các tuyển tập đương thời như "Hận Tha La", "Phấn son"; bài "Chữ thập hồng" của Bân Bân Nữ Sĩ, và một số bài thơ khác trong tập "Thơ mùa giải phóng" xuất bản ở Sài Gòn vào khoảng thập niên 1950. 
Từ 1960-75, là thời kỳ của thi ca hậu chiến Miền Nam Việt Nam. Miền Nam vào lúc này ở trong tình trạng vừa chiến tranh vừa hòa bình. Chiến tranh ở các vùng xa, tiếp cận hoặc ngay ở đô thị, có lúc đến mức khốc liệt. Và hòa bình cũng chỉ là một nền hòa bình ở các tỉnh lỵ, không ra đến các vùng nông thôn. Trong hoàn cảnh này dù sao ở Miền Nam vẫn có những sinh hoạt văn nghệ phong phú, cũng như các trào lưu tư tưởng trên thế giới đã ảnh hưởng ít nhiều đến xã hội Miền Nam.
Cuộc sống của người Miền Nam, với sự tự do tương đối và những điều kiện kinh tế khả quan, đã có những nhu cầu vật chất và tinh thần cần thiết do văn minh cung cấp như máy truyền thanh, truyền hình, máy thâu băng, nghe nhạc, báo chí, sách truyện, nhạc phẩm, phim ảnh v.v... Trong một xã hội dồi dào về phương diện vật chất thì sự hưởng thụ tinh thần càng cao. Văn nghệ có đà tiến triển mạnh theo thị hiếu của quần chúng. Có người nhận định xã hội Miền Nam lúc bấy giờ là một xã hội tiêu thụ, do đó đời sống con người có chiều phóng túng, thác loạn.
Những tác phẩm tiểu thuyết của Chu Tử như "Yêu", "Ghen", "Tiền", "Loạn", những truyện táo bạo của các nhà văn nữ như Hoàng Đông Phương, Túy Hồng, Trùng Dương, Thụy Vũ, mô tả những nhân vật đầy dục tính và ảnh hưởng của phim ảnh Âu Mỹ phản ảnh nếp sống thời đại của xã hội Miền Nam.
Riêng về thi ca, không được sáng tác và được thưởng thức nhiều như tiểu thuyết, nhạc hay phim ảnh, trong giai đoạn này, có thể nói là vắng vẻ, đìu hiu hơn thời tiền chiến. Tuy nhiên nó cũng có những đóng góp đáng kể cho nền văn học Miền Nam và đặc sắc vẫn là thơ tình.  
Các nhà thơ tình có thể xếp làm ba nhóm: thơ tình lãng mạn đượm mầu sắc tiền chiến, thơ tình mang cá tính thời đại, thơ tình tìm tới suối nguồn tôn giáo.
Sau cuộc di cư 1954, các nhà thơ tiền chiến như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng định cư ở Miền Nam, đã có những thi phẩm đáng chú ý như "Rừng phong" (Vũ Hoàng Chương), "Đường vào tình sử", "Mê hồn ca" (Đinh Hùng). Sáng tác của các nhà thơ này chưa cởi được lớp áo khoác của thi ca lãng mạn tiền chiến. Vũ Hoàng Chương còn viết những lời thơ say, thấp thoáng xiêm y của các nàng tiên trong động Thiên Thai và hình ảnh của một nàng Kiều luân lạc:
Trở gót quê say ngược suối Điều
Nét hoa mờ tỏ sóng phiêu diêu
Lên tiên về tục thương Từ Thức
Lấy ảo làm chân học Thúy Kiều
(Ngẫu cảm)
Đinh Hùng cũng còn luyến tiếc một thời mơ mộng cũ:
Chưa gặp em tôi đã biết rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Tóc xanh là bóng dừa hoang dại
Tha thiết nhìn tôi không nói năng
(Mộng dưới hoa)
Nguyên Sa, một Xuân Diệu hậu chiến, có những câu thơ tình thật diễm lệ, trong sáng:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
(Áo lụa Hà Đông) 
Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh anh mến lá sân trường
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Anh pha mực cho vừa mầu áo tím
(Tuổi 13)
Nhưng trong thời đại mới, con người có cảm xúc mới với những sáng tác mang âm hưởng của nếp sống hiện đại.
Cung Trầm Tưởng đưa người đọc đến một chân trời lạ với cuộc tình buồn:
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia ly
(Chưa bao giờ buồn thế)
Có thể nói đặc tính của thơ tình Miền Nam thời hậu chiến là thơ tình buồn:
Năm năm rồi không gặp
Từ khi em lấy chồng
Anh dặm trường mê mãi
Đời chia như nhánh sông
(Hoài Hy Thanh)
Tình không chỉ buồn mà còn mang một nỗi đau sâu sắc, đến tận nghìn sau như Minh Đức Hoài Trinh than thở:
Người đã quên ta rồi
Quên ta rồi hẳn chứ
Trăng mùa thu gẫy đôi
Chim nào bay về xứ...
Kiếp nào có yêu nhau
Nhớ tìm khi chưa nở
Hoa xanh tận nghìn sau
Tình xanh không lo sợ
(Kiếp nào có yêu nhau)
Tình yêu thời hậu chiến không dịu dàng thơ mộng như thời tiền chiến, mà là một thứ tình bộc lộ, nói lên niềm cô đơn, khắc khoải, khô cứng như đá mà tâm hồn thì đau đớn, rũ rượi:
Ôi những người khóc lẻ loi một mình
đau đớn lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi
(Lệ đá xanh - Thanh tâm Tuyền)
Cũng có khi tình buồn được che dấu, một cuộc tình mù lòa, vì yêu thương lầm lỡ:
- Ơn em hơi thoảng chỗ nằm
Giấu quanh quẩn giấu nồi buồn một nơi...
Ơn em tình những mù lòa
Như con sâu nhỏ bò qua giấc mùi
Ơn em hồn sớm ngậm ngùi
Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau
(Giữ đời cho nhau - Du Tử Lê)
Thật vậy, thơ tình hậu chiến Miền Nam ít khi biểu lộ niềm vui, chỉ là những tiếng thở dài, niềm tâm sự u uất, về những cuộc tình tan vỡ, về tuổi xuân đã mất:
Không ai về trong chiều nay
Cho tôi chết giữa vòng tay một người
Nụ hôn che lấp môi cười
Gối chăn buông lạnh rã rời thấu xương
(Nguyễn Thị Hoàng)
Rồi lá mùa Xanh cũng đỏ lần
Còn đây niềm hối tiếc thanh xuân
Giấc mơ choàng dậy tan hình bóng
Và nỗi tàn phai gõ một lần
Kỷ niệm sầu như tiếng thở dài
Khuya chìm trong tiếng khóc tương lai
Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối
Tôi mất thời gian lỡ nụ cười
(Thanh xuân - Nhã Ca)
Bùi Giáng là một hiện tượng trong làng thơ thời hậu chiến. Tình yêu trong thơ thi sĩ được biểu hiện khác thường, một uẩn ức tâm lý ngầm ẩn dục tính, pha lẫn tinh thần hài ước của một triết gia. Bùi Giáng xem tình yêu, hơn nữa, dục tình là một nhu cầu tự nhiên của con người. Người thơ có thể vừa cười cợt vừa ngỏ lời tình hay kể chuyện tình của mình với người khác. Có lúc Bùi Giáng muốn làm như nữ sĩ Hồ Xuân Hương với những câu thơ tự trào và ngụ ý về cái giống:
Ông tên là Giáng phải không
Quảng Noam - Đòa Noẽng chính tông tộc Buồi?
Và những tiếng nói lá, những ám chỉ:
- Quá khứ liên tồn vô ngấn tích
Sàng tiền minh nguyệt chiếu hoàng mao
Hai hàng cỏ mọc sương thu ngậm
Vành vạnh lê hoa chước chước chào
- Mở môi ngôn ngữ hồ đồ
Vén xiêm em lội xuống hồ nước kia
- Tuy nhiên em có mặc quần
Mà không ắt hẳn là quần thật xinh
Nếu như em chẳng mặc quần
Thì ông trời ắt càng mừng rỡ hơn
- Tháng theo ngày dậy rằm xanh nguyệt
Ba góc càn khôn lộn bốn trời
Và với Nguyễn Đức Sơn, tình yêu không còn tính chất thanh nhã của thơ mà chỉ như những câu kể chuyện tiếu lâm:
- Ôi một đêm bụi cỏ dáng thu người
Em chưa... mà hồn anh đã ướt
- Hai đứa nhìn nhau bảo phải im ru
Em sắp... mà hồn anh đã cứng
Qua những vần thơ "loạn" như trên, các nhà thơ hầu như bất kể người đời, họ làm thơ chỉ để giải tỏa tâm hồn, để đạt đến tự do tinh thần tuyệt đối, vượt qua những quy ước của xã hội, trong sự thưởng ngoạn văn chương, nghệ thuật.
Một số nhà thơ phục vụ trong quân ngũ, sau những cuộc hành quân về nghỉ ở hậu phương, đã gặp những cuộc tình bất ngờ đem lại cho họ niềm vui, như là một sự thư dãn:
Em Pleiku má đỏ môi hồng
Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
nên tóc em ướt
và mắt em ướt...
Xin cảm ơn thành phố có em
Xin cảm ơn một mái tóc mềm
(Còn chút gì để nhớ - Vũ Hữu Định)
Ngay trong lúc hành quân ở giới tuyến Bắc, nhà thơ cũng để lòng nhớ về người tình ở phương Nam: 
Chiều trên phá Tam Giang rộn ràng chiến trận...
Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em nhớ bất bất tận...
Giờ này có thể trời đang nắng
Em rời thư viện đi rong chơi...
Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em nhớ bất tận
Giờ này thành phố chợt bùng lên
Để rồi tắt nghỉ sớm
Sài Gòn nới rộng giờ giới nghiêm
Sài Gòn không còn buổi tối nữa
(Chiều trên phá Tam giang - Tô Thùy Yên)
Chiếc cuộc đã phân cách những người tình đang gánh vác nhiệm vụ. Những người còn lại, không vướng bận gì với đời lính, thì vẫn sống bình thường trong hoàn cảnh an lạc của đô thị. Họ vẫn nuôi giấc mộng yêu đương với những "Cô Bắc kỳ nho nhỏ", với "Em hiền như ma soeur", để rồi lận đận với tình, như thơ Nguyễn Tất Nhiên:
Hai năm tình lận đận
Hai đứa cùng xanh xao
Và chỉ biết cầu nguyện Chúa:
Con quỳ lạy Chúa trên trời
Sao cho con lấy được người con yêu
Đời con đau khổ đã nhiều
Từ khi thơ dại đủ điều đắng cay
Số nghèo hai chục năm nay
Xây bao nhiêu mộng trắng tay vẫn nghèo
Mối tình đầu đã trót bọt bèo
Vì người ta đã chạy theo bạc tiền
(Nhất Tuấn)
Tôn giáo vẫn là nguồn an ủi cho những cuộc tình không trọn, nhất là đối với những người tìm về nguồn đạo, biết "tình" là "dây oan", cuộc đời như mây nổi:
- Thôi thì em chẳng yêu tôi
Leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng
- Thì thôi tóc ấy phù vân
Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương
Thì thôi mù phố xe đường
Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi
- Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu
(Phạm Thiên Thư)
Nét tiêu biểu của thi ca tiền chiến và hậu chiến là tính chất trữ tình lãng mạn. Thơ tiền chiến gần gũi với thiên nhiên và dìu dắt tình yêu đi trên con đường bằng phẳng, thơ mộng; trái lại, thơ hậu chiến rời bỏ thiên nhiên, đi gai góc trong cuộc sống bất định của con người. Thơ của thời kỳ này mang tính chất thời đại, một thời đại bán chiến tranh, bán hòa bình, chịu ít nhiều ảnh hưởng văn hóa Âu Mỹ, biểu hiện nhiều ý tưởng tân kỳ và đa diện.
Linh Thảo
Theo http://www.daiviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Tâm Tình Với Ý Nghĩ “Mình với ta tuy hai mà một Ta với mình chỉ một chứ ai đâu Lý lẽ, luận bàn phân hơn thiệt Giải quyết bao n...