Mùa
xa nhà 1
Chương
1: Mở Đầu
Tân,
Tôi nhớ những ngày mùa đông năm 1985, tụi mình cùng nhau lặn
lội bắt cá suốt ngày ở suối Phum Pô. Tôi đeo cái rộng cá lội bì bõm trong dòng
nước mấp mé vai, nhũng nhẵng bám sau lưng Tân, chỉ để Tân bỏ vào đó những con
cá lóc, cá lăng vừa mò được. Tôi nhớ những đêm cuối năm trời lạnh căm căm, tôi
trùm thêm một chiếc áo lên vai, ngồi co gối bên ánh đèn đốt từ mỡ lon thịt hộp,
trên đầu gối là một miếng gỗ ván dùng để lót trong thùng đạn, trong tay là một
cây bút chì ngắn củn. Tôi vẽ Tchiete. Không biết tôi đã vẽ nàng lên bao nhiêu mảnh
ván. Nhưng chỉ nhớ là cùng với những nét vẽ vụng dại, đơn sơ đó, tim tôi đã ấm
áp lạ thường, máu tôi đã chảy rộn ràng, nóng bỏng trong từng huyết mạch. Tôi đã
quên đi cái lạnh của khí trời và cái lạnh của sự cô đơn trong những đêm đông ấy.
Tôi không ngủ vì đang yêu. Ðó là điều dễ hiểu, và là chuyện thường tình. Nhưng
cả Tân cũng không ngủ được. Tân nằm trăn trở trên chiếc võng, im lặng nhìn tôi,
nhìn ngọn lửa nhỏ xíu, lù mù của chiếc đèn dã chiến, thao thức cùng tôi. Thương
tôi, hiểu tôi trong những ngày tháng đó, còn ai hơn Tân nữa.
Tôi nhớ sau khi chuyển xuống đại đội, có một lần Tân ghé tôi
chơi. Tân có vẻ buồn khi trông thấy tôi mặc một chiếc áo cũ. Vai áo sờn rách,
chằng chịt những đường chỉ vụng về. Thật ra lúc ấy chúng ta đâu còn đến nỗi phải
mặc rách, phải không Tân? Nhưng áo mới của tôi, tôi cũng đã cho người khác, một
người anh kết nghĩa Khmer. Sau đó vài ngày, Tân đã gửi lên cho tôi chiếc áo mới
của mình.
Rồi không bao lâu sau lần gặp cuối cùng đó, Tân đã rời xa
vĩnh viễn. Không chỉ một mình Tân, tôi đã mất biết bao nhiêu đồng đội, người rất
là thân thiết, người vừa quen mặt mà chưa kịp biết tên, trong những tháng ngày
xa quê đó.
Tân ơi! Những đồng đội của tôi ơi! Mồ của các bạn đã được phủ
lên bao nhiêu lớp cỏ úa mùa thu. Tên tuổi, hình ảnh của các bạn chỉ còn trong nỗi
nhớ - những nỗi nhớ ngắn ngủi, bất chợt hiện ra trong giây lát, rồi lại chìm
khuất dưới bao âu lo, suy tư của thực tế mỗi ngày. Ðiều quan trọng là tôi không
được quyền quên! Trái tim con người còn đập trong lồng ngực chúng ta không được
quyền quên !
Tân! Ðã sắp đến ngày giỗ lần thứ mười một của Tân rồi đó. Tôi
viết những dòng này, thắp một nén hương trong tâm tưởng, hoài niệm hương hồn
Tân và tất cả những anh em khác. Cầu mong hương hồn các bạn sẽ tìm được an
bình.
TP.HCM, 11-1997
Sanly thân mến,
Khi đặt bút viết những dòng đầu tiên cho quyển truyện này,
tôi đã nhớ tới cô. Tôi nhớ lại ngày chúng ta tình cờ gặp gỡ nhau ở một phòng
triển lãm tranh tại Sài Gòn; và những gì chúng ta đã trao đổi với nhau. Truyện
được viết nên, phần nào đó cũng bắt nguồn từ cuộc chuyện trò giữa chúng ta hôm ấy.
Tôi hy vọng là sau khi đã đọc qua, cô sẽ tìm thấy những gì mà trong lần trao đổi
đó tôi chưa thể nói hết được với cô. Tôi cũng hy vọng rằng cô, và cả những bạn
bè của cô - những người trí thức trẻ, những người sau này sẽ đứng mũi chịu sào
lèo lái con thuyền đất nước Campuchia - sẽ có một cái nhìn mới, hiểu biết và đồng
cảm hơn với chúng tôi, những người lính tình nguyện Việt Nam.
Tôi muốn nhắc lại với cô ngày hôm ấy. Chắc hẳn cô vẫn còn nhớ,
một buổi chiều cuối năm 1995, tại phòng triển lãm, trước một bức tranh dầu, cô
đã đứng yên lặng giờ lâu?
Bức tranh vẽ một người lính Việt Nam đang một tay bưng bát sữa,
tay kia cầm chiếc muỗng nhỏ bón sữa cho một bé gái Khmer, vây quanh hai nhân vật
đó là vài người lính khác. Hậu cảnh bức tranh là một phum làng đổ nát, tan
hoang, một vài túp nhà sàn cháy dở dang còn nghi ngút khói, và đó đây trên mặt
đất rải rác một vài xác chết. Tác giả bức tranh này, và một số tranh khác trong
cuộc triển lãm, là một người bạn của tôi. Ðó là lý do giải thích sự có mặt của
tôi hôm ấy. Dạo đó, tôi chưa hiểu biết gì nhiều, nhưng đã rất yêu thích hội họa.
Và tôi, khi ấy, đã dừng lại khá lâu, sau lưng cô để ngắm nhìn bức tranh.
Bức tranh gợi cho tôi một nỗi niềm, mà có lẽ giờ đây tôi sẽ
không thể nhớ lại, và diễn đạt được chính xác, nếu không có cuộc trò chuyện với
cô. Ðó là một nỗi buồn sâu thẳm. Nó không quá mãnh liệt đến làm cho ta đau đớn,
nhưng cũng không hời hợt thoáng qua. Một nỗi buồn đã kinh qua nhiều năm tháng,
đã gắn chặt, chìm lặng xuống đáy tim, đã trở thành ký ức không thể phai nhòa.
Ðó là nỗi buồn trước một điều bi thảm nhất, một điều xấu xa, gây nhức nhối nhất
cho con người. Ðó là nỗi buồn và cảm giác bất lực trước hậu quả của chiến
tranh. Tôi đã cảm nhận bức tranh như vậy. Nhưng cô, Sanly thân mến, cô chỉ thấy
ở đó một sự ca ngợi tầm thường và hơi có phần cường điệu cái gọi là tình cảm
quân dân, tình đoàn kết Campuchia - Việt Nam, và lòng nhân đạo chung chung.
Lúc đó, cô đã lẩm bẩm, bằng tiếng Khmer: "Giả tạo, dối
trá...!" Tôi thoáng nghe những lời ấy. Tôi biết lõm bõm tiếng Khmer, nhưng
cũng đã quên đi khá nhiều, nên không hiểu hết những lời cô nói. Tôi chỉ có cảm
giác cô đang bực dọc, bất bình. Tôi đã bước lên, đứng đối diện với cô, mỉm cười
chào và hỏi: "Cô có biết tiếng Việt không?"
Cô lắc đầu, rồi lại gật đầu, "Chỉ chút chút thôi!"
"Cô có thể ra bên ngoài uống một ly cà phê với tôi
không? Tôi có chuyện muốn nói với cô."
"Dạ được", cô đáp thật ngọt ngào, và mỉm cười, nói
tiếp bằng tiếng Khmer, "Tôi không nói được nhiều tiếng Việt đâu. Anh có thể
nói chuyện với tôi bằng tiếng Khmer không?"
"Tiếng Khmer của tôi cũng như tiếng Việt của cô vậy!", tôi cười, "Tôi đã quên nhiều. Chắc cô nói được tiếng Anh?"
"Vâng, khá hơn tiếng Việt, tôi mới sang Việt Nam hai
tháng.", cô đáp.
Rồi chúng ta đã ngồi nói chuyện với nhau khá lâu, lúc thì nói
tiếng Việt pha lẫn tiếng Khmer, lúc nói tiếng Anh, rồi có lúc dùng cả điệu bộ,
nét mặt kết hợp với ba thứ ngôn ngữ đó để cố làm cho nhau hiểu. Dù sao, hôm đó
chúng ta đã hiểu người kia muốn nói gì, và cũng đã diễn tả ý nghĩ của mình
tương đối tốt, phải không, Sanly?
Cô cho biết tên cô là Sanly, hiện là du học sinh ở Hà Nội,
nhân nghỉ Tết, cô ghé vào Sài Gòn thăm vài người đồng hương học ở đây trước khi
về Campuchia. Cô chỉ mới mười chín tuổi, rất yêu thích các bộ môn nghệ thuật.
Tôi cũng nói sơ cho cô biết về tôi, một người lính xuất ngũ, đã có mấy năm ở
Campuchia. Sau đó, tôi hỏi cô về những lời nhận xét cô bất giác thốt ra lúc nãy
khi xem tranh.
(Cuộc trò chuyện, như tôi nói trên, khá là phức tạp. Ðể bạn đọc
dễ dàng theo dõi, tôi xin kể lại theo diễn biến nội dung câu chuyện, bỏ qua những
chỗ khó khăn, ngắc ngứ vì lớp rào ngôn ngữ).
Cô đã nói ngay, dường như đã ấp ủ sẵn những ý nghĩ đó trong đầu
từ lâu:
"Tôi nói là giả dối, là vì người lính Việt Nam trong bức
tranh tượng trưng cho một sự cứu vớt, tượng trưng cho một vị anh hùng cứu khổn
phò nguy cho dân tộc Campuchia. Ðó là một sự tự đề cao quá đáng, lố bịch, xúc
phạm tới lòng tự hào dân tộc của chúng tôi. Tôi sẽ nói cho anh biết vì sao như
vậy. Quân đội Việt Nam đã chen quá sâu vào cuộc đấu tranh nội bộ của đất nước
tôi, làm cho những mâu thuẫn đó thêm trầm trọng, khó hàn gắn lại. Nếu như Việt
Nam thật sự vì tình đoàn kết, vì sự giúp đỡ vô tư, họ đã rút về nước sau khi
Campuchia có một quân đội riêng hùng mạnh. Thế nhưng, mãi cho đến những năm đầu
thập kỷ 90, Campuchia mới thật sự vắng bóng những bộ quân phục Việt Nam. Và
theo như tôi biết, qua lời kể của họ hàng, bè bạn, cũng như qua những gì chính
tôi mục kích, người lính Việt Nam có nhiều hành vi trái hẳn với sự tuyên truyền
đầy chính nghĩa. Vậy thì anh giải thích động cơ, ý nghĩa của những hành vi đó
ra sao?"
Tôi cố sắp xếp những ý tưởng để có thể diễn đạt sao cho cô dễ
hiểu. Rồi tôi đáp:
"Ðiều cô nói, cũng chính là điều đã làm ray rứt đa số những
người lính chúng tôi. Nhưng trước hết, tôi tạm gác lại những chuyện đó, để nói
với cô ý nghĩa thật sự của bức tranh. Cô đã hiểu sai, cảm nhận sai về nó. Tôi
biết đích xác là cô đã cảm nhận sai, vì tôi là bạn thân của tác giả bức tranh.
Tôi đã nhiều lần trò chuyện với anh ấy trong khi anh đang vẽ nó, mặt khác, vì
tôi cũng là một người lính. Nó không đề cao người lính Việt Nam như cô nói đâu.
Lúc nãy, cô có chú ý đến ánh mắt của các nhân vật trong tranh không? Ánh mắt của
đứa bé Campuchia có vẻ sợ hãi, kinh hoàng, dù đôi môi nó đang hé mở một cách hồn
nhiên để đón nhận muỗng sữa. Rồi ánh mắt của người lính đang đút cho đứa bé.
Anh ta không nhìn vào nó, anh ta đang nhìn mông lung vào một điểm nào đó ở phía
trước một cách lo âu. Ðứa bé mồ côi rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc nó, nuôi nấng
nó trong những tháng ngày sau? Liệu nó có còn sống đến lúc trưởng thành không?
- Không ai biết!...Ánh mắt của người lính mang những nỗi niềm như vậy... Và ánh
mắt, vẻ mặt của những người lính còn lại. Họ đang nhìn quanh, người thì về phía
hai nhân vật chính, người thì về phía những túp nhà ngún cháy. Họ như bàng
hoàng, ngơ ngác vì những tác hại của súng đạn, của chiến tranh. Họ như không biết
vì sao lại đến nông nỗi thế này. Họ còn có vẻ đau đớn và bất lực, với những bàn
tay buông thỏng, xòe ra bỡ ngỡ. Họ vẫn không quen được với những đau thương, mất
mát, và có lẽ không bao giờ quen được với chúng, dù chiếc áo của họ đã bạc phếch
sau nhiều tháng năm cầm súng. Không, bức tranh không đề cao một cá nhân hay một
dân tộc nào riêng biệt. Nó chỉ đề cao tình người nói chung, và chủ yếu là nó cố
làm người xem nhận ra sự đau thương, khủng khiếp của chiến tranh thôi, Sanly ạ!..."
Tôi dừng lại, dõi nhìn phản ứng trên nét mặt của cô.
Gương mặt cô vẫn còn những nét hồn nhiên của tuổi thơ, đôi mắt
đen to có vẻ rất thông minh, nhạy bén. Mái tóc cô không quăn như đa số phụ nữ
Khmer. Nó đen, dày, mềm mại trùm xuống vai cô.
Ðôi mắt và mái tóc cô gợi cho tôi nhớ tới một người con gái
khác... Tôi cố nén một hơi thở dài, buộc ý nghĩ của mình quay về hiện tại.
Cô gật gật đầu, có vẻ hơi đồng ý, nhưng rồi đôi mày lại nhướng
lên như muốn nói điều gì. Tôi giơ tay ngăn cô, nói tiếp:
"Xin để cho tôi nói hết, Sanly. Bây giờ, tôi nói về cách
nhìn của cô đối với người lính Việt Nam chúng tôi đây... Tôi không biết có nhiều
thanh niên nam nữ Campuchia cùng chia sẻ quan điểm đó của cô hay không, nhưng nếu
có nhiều người cũng nghĩ như cô, thì thật là đáng buồn, và thật là nguy hiểm.
Có lẽ tôi sẽ cố gắng để nói với cô, nhưng tôi e rằng chỉ trong một vài câu nói,
hay thậm chí trọn cả một buổi trò chuyện chiều nay, tôi cũng không sao nói hết
được, diễn tả đầy đủ được những gì tôi đã băn khoăn, một số bạn bè tôi đã băn
khoăn trong suốt những năm sống xa quê, những năm cầm súng trên đất người...
Chúng tôi từng tự hỏi: chúng tôi đang bắn giết, đánh nhau, và có thể sẽ chết vì
ai, vì cái gì. Và không phải lúc nào chúng tôi cũng tự trả lời được những câu hỏi
đó. Có đôi lúc, chúng tôi cảm thấy sự lý giải của mình là có lý, rồi đôi lúc, lại
cảm thấy nó vô cùng phi lý. Như cô nói lúc nãy, nếu chúng tôi hoàn toàn bất vụ
lợi, lẽ ra chúng tôi đã rút quân về từ lâu trước đó. Nhưng cô đâu hiểu rằng cuộc
chiến trên đất nước cô vào thời điểm ấy không còn đơn thuần là một cuộc nội chiến
giữa các phe phái Campuchia có chính kiến khác nhau. Campuchia lúc ấy là một
con cờ trên bàn cờ chiến lược giữa hai thế lực, hai chủ nghĩa đang giành quyền
thống soái vũ đài thế giới. Thật ra, điều tôi vừa nói với cô, tôi cũng mới hiểu
được về sau này. Còn lúc đó, chúng tôi chỉ rất mơ hồ. Chúng tôi không như những
người lính Việt Nam thời chống Mỹ, họ cầm súng để giải phóng quê hương, thống
nhất đất nước. Chúng tôi thậm chí cũng không như những người lính Việt Nam giai
đoạn 1978-1980. Lúc đó, họ chiến đấu đánh đuổi quân đội Polpot tàn ác đang đốt
phá, tàn sát những người dân vô tội ở vùng biên giới Việt Nam, và kế tiếp sau
đó, họ giúp quân đội cách mạng Campuchia giải phóng đất nước. Họ biết rõ ý
nghĩa, mục đích và có một niềm tin trọn vẹn vào công việc họ làm. Họ xứng đáng
với cái tên quân tình nguyện. Ðối với chúng tôi, những người lính từ sau 1980,
mọi sự không đơn giản và rõ ràng như vậy. Nói cho cùng thì chúng tôi phải chấp
nhận tham dự vào cuộc chiến ở Campuchia như là một điều không thể nào tránh khỏi.
Chúng tôi lớn lên, đủ mười tám tuổi, thực hiện nghĩa vụ quân sự. Rồi được đưa
sang Campuchia, dù muốn dù không. Chúng tôi đâu phải là những người chọn việc
binh đao như một cái nghề sinh sống. Chúng tôi chỉ thực hiện nghĩa vụ của một
công dân đối với Tổ quốc của mình. Và chúng tôi, khi đã biết thế nào là chiến
tranh, chết chóc, đều mong cho nó mau kết thúc, đều mong cho sớm tới ngày yên
lành trở lại quê nhà..."
"... Tôi quay trở lại điểm xuất phát, tại sao tôi lại nói
thật là điều đáng buồn và nguy hiểm nếu cô và nhiều người trẻ tuổi như cô đánh
giá về chúng tôi một cách phiến diện, chủ quan như vậy. Thanh niên trí thức các
cô sẽ là những người đảm nhiệm gánh nặng đất nước Campuchia trong một tương lai
không xa. Trong đó rồi sẽ có những người nắm giữ những chức vụ, cương vị lớn
lao quan trọng. Nếu đa số những người này lại có một cách nhìn đầy định kiến,
thiếu cảm thông, thì cái họa chiến tranh chẳng khác nào một hòn than cháy cứ âm
ỉ mãi. Nhưng tôi mong là không có nhiều người như vậy. Tôi biết có nhiều người
khác - những bà mẹ già, những người con trai con gái, những đứa trẻ con ở những
phum làng hẻo lánh miền tây bắc Batđomboong không nghĩ như cô. Họ thương yêu
chúng tôi. Họ cảm thông với những chàng trai trẻ mới lớn đã phải sống xa nhà,
xa quê, chịu nhiều hy sinh, mất mát. Họ thật sự xem chúng tôi là con cháu, anh
em của họ..."
Tôi ngưng lời, cảm thấy càng nói càng bất lực, không tài nào
diễn đạt hết được những ý nghĩ đang dồn dập xô về. Cô đăm đăm nhìn tôi, trầm
ngâm rất lâu mới cất tiếng:
"Anh nói nghe rất hay, và có vẻ hợp lý nữa, nhưng tôi vẫn
thấy có điều không ổn. Tôi có cảm giác như anh đã đánh tráo khái niệm ở đây.
Như tôi đã nói, quân tình nguyện Việt Nam các anh khoác lên mình cái vòng hoa vẻ
vang của người hiệp sĩ, nhưng các anh đã làm nhiều chuyện tồi tệ. Nếu như mọi
người lính Việt Nam đều có những ý thức, những trăn trở như anh nói, tại sao họ
lại có thể có những hành động đó. Có những vụ cưỡng dâm, cướp bóc, hà hiếp dân,
hà hiếp bộ đội Campuchia, anh không thể phủ nhận những sự kiện đó. Ðiều buồn cười
nhất là những hành vi đó lại nằm dưới một lớp áo choàng đầy cao cả."
"Sanly ơi! Cô còn trẻ quá, cô chưa hiểu con người phức tạp,
tự mâu thuẫn đến độ nào đâu. Và chiến tranh, với biết bao tình cảm trái ngược
nhau : yêu thương, hờn oán, căm thù, điên cuồng, phẫn nộ... có thể gây nên mọi
chuyện, có thể trong một lúc nhất thời biến đổi hoàn toàn một cá nhân bé nhỏ bất
kỳ nào đó. Mặt khác, những chuyện cô nói đúng là có thật, nhưng nó chỉ là những
sự kiện hiếm hoi, cá biệt. Những chuyện như vậy không thể coi là cơ sở để đánh
giá bản chất của những người lính chúng tôi. Tôi sẽ kể cho cô nghe một câu chuyện,
hoàn toàn có thật..."
Tôi ngừng lời, hồi nhớ lại những sự kiện dường như đã quá xa
xăm. Cô vẫn ngồi lặng lẽ, chăm chú nhìn tôi một cách nhẫn nại, cô hiểu tâm trạng
của tôi. Rồi tôi kể.
"Ðầu mùa đông năm ấy, một tiểu đoàn quân tình nguyện Việt
Nam về tạm đóng ở phum X, một phum nhỏ nghèo nàn nằm ở phía đông bắc huyện
Th'mo Puoc, tỉnh Batđomboong. Ðơn vị ở đó để tiến hành kế hoạch truy quét mùa
khô các vùng lân cận. Tiểu đoàn trưởng vào ở tạm trong một căn nhà đầu phum,
các trung đội trực thuộc nằm bao quanh ở vòng ngoài. Trung đội súng máy 12mm 7
nằm ở hướng bắc phum, nơi có một con suối nhỏ chảy qua. Trung đội phó trung đội
này là một anh chàng trẻ tuổi, có hơi lãng mạn. Anh ta rất yêu mến những người
dân Khmer hiền lành chất phác, và đang cố học thêm tiếng Khmer để nói chuyện
nhiều với họ. Buổi sáng hôm ấy, trời còn mù sương, anh tới chỗ ở của tiểu đoàn
trưởng để xin ý kiến ông về một công vụ. Cô biết không, năm ấy trời rất lạnh, lạnh
nhất trong những mùa đông tôi đã trải qua ở Campuchia. Vì vậy, chàng trung đội
phó vừa đi thật nhanh vừa xoa hai tay lên má cho đỡ rét. Anh còn cách căn nhà
vài mươi mét thì bắt gặp một cô gái nhỏ, khoảng mười sáu, mười bảy tuổi đang đứng
giã gạo trước sân, dưới gốc một cây vông cổ thụ với những chùm hoa muộn cuối
mùa đỏ rực. Cô bé mặc một chiếc áo vải trắng thô dày, quanh cổ quàng một chiếc
khăn croma tím thẫm. Mái tóc đen nhánh mềm mại trùm xuống bờ vai, đôi má ửng hồng
vì trời rét và vì làm việc nặng. Trông cô thật là dễ thương, xinh xắn. Anh bước
tới gần hơn, rồi cứ đứng im nhìn cô mãi. Chợt cô bé ngưng giã gạo, ngẩng lên, bắt
gặp một đôi mắt đang nhìn mình chăm chú. Cô cũng đứng im, nhìn thẳng vào đôi mắt
đó. Hai bên nhìn nhau như vậy không biết đến bao lâu, rồi cô bé như sực tỉnh,
luống cuống quay mặt đi, e thẹn. Chàng trai cất lời hỏi cô bé về người chỉ huy
tiểu đoàn. Cô không đáp mà chỉ đưa tay chỉ lên nhà, rồi quay lưng đi ra phía vườn
sau. Chàng trai vừa kịp thoáng thấy hình như trên khuôn mặt đỏ bừng xinh xắn xuất
hiện một nụ cười..."
Cô mỉm cười, nhận xét:
"Câu chuyện có vẻ lãng mạn quá, hệt như trong tiểu thuyết!"
"Vâng", tôi đáp, "nhưng là một cuốn tiểu thuyết
có kết thúc buồn... Tôi xin kể tiếp... Ðơn vị đóng ở phum ba tháng. Những ngày
không hành quân tác chiến, chàng trai vẫn thường hay ngồi bên bờ suối mỗi chiều
chờ gặp cô gái nhỏ ra gánh nước. Và đôi ba ngày, lại vào phum, đến nhà cô chơi,
trò chuyện với bà và mẹ của cô. Ba tháng trôi qua thật nhanh, họ vừa kịp quen
nhau, cảm thấy mến thương nhau thì đơn vị rút đi...Khoảng nửa năm sau, đơn vị lại
quay về vùng đó, nhưng lần này thì dựng cứ dưới chân núi S'vai So, cách Phum X
khoảng bốn cây số. Chàng trẻ tuổi vẫn thường qua Phum X tìm cô bạn. Tình cảm
hai bên đã rất đậm đà, nhưng vẫn còn sự ngượng ngùng e ấp về phía cô gái nhỏ. Gặp
nhau, cô chỉ mỉm cười, ngồi nghe chàng trai bập bẹ nói những lời thương nhớ bằng
tiếng Khmer. Thấm thoắt lại sắp đến mùa đông. Nhưng không khí năm ấy thật khác
thường. Từ anh em lính trong đơn vị đến những người dân ở các phum lân cận đều
căng thẳng, bất an. Quân đội của ba phái Khmer phản động đã sống dậy sau một
năm im hơi lặng tiếng. Từ những căn cứ huấn luyện quân sự trên đất Thái, hàng
chục trung đoàn, tiểu đoàn địch bắt đầu tung ra hoạt động dọc theo tuyến hành
lang biên giới. Các đại đội quân tình nguyện Việt Nam đóng chốt riêng lẻ lần lượt
bị bao vây, tấn công dữ dội. Cả những người dân hiền lành cũng chịu vạ lây. Ðã
có một số dân khi vào rừng, ra suối đã bị thương, bị chết vì mìn. Một hôm, cô
gái nhỏ đi vào rừng hái nấm một mình. Cô bị vướng mìn, và đã chết ở ven bờ một
con suối cạn cách phum khoảng ba cây số. Dân làng bắt gặp xác cô chiều hôm đó,
thân hình đẫm máu nằm bên chiếc giỏ tung tóe những chiếc nấm rừng..."
Tôi phải tạm dừng vì chợt thấy cổ họng nghẹn ngào, đắng ngắt.
Giọng nói tôi đã trở nên run rẩy đến mức cô nhận ra một cách dễ dàng. Cô nhìn
tôi kinh ngạc. Tôi ngước đầu lên, hít thật sâu mấy hơi liền, cố lấy lại bình
tĩnh, rồi kể tiếp.
"... Chàng trai đau đớn xé lòng khi biết được tin. Anh
như người mất hồn, thẫn thờ suốt cả tháng trời. Ðến một hôm, đơn vị vừa có phụ
cấp nên mua rượu thịt về tổ chức liên hoan. Ðang giữa cuộc vui, anh bỏ ra
ngoài. Anh nhớ người yêu, và đau đớn quá, anh bỗng muốn tự sát theo cô. Anh
mang theo một quả lựu đạn, lần về Phum X, dự tính sẽ tìm đến nhà cô, nhìn lại lần
cuối nơi đã tình cờ gặp gỡ. Về tới căn nhà xưa nơi từng đã có nàng, anh ngồi dưới
gốc cây vông già khóc nức nở, dưới ánh mắt thương cảm của bà và mẹ của cô gái.
Rồi anh bước lên nhà, nhìn lại cây đèn dầu làm bằng chiếc lọ thủy tinh đựng thuốc
cảm mà một năm trước anh đã làm tặng cho cô. Anh ngồi dựa vào vách, cầm chiếc
đèn trong tay, ve vuốt nó, mơ lại những ngày dĩ vãng, rồi thiếp ngủ lúc nào
không biết.
Anh giật mình thức giấc lúc trời đã ngả về chiều. Anh sờ tay
lên hông, nơi dắt quả lựu đạn, nó đã biến mất. Anh bước ra ngoài, trông thấy X,
một đồng đội, đang đứng trò chuyện với bà mẹ. Các đồng đội của anh thấy thái độ
anh có vẻ khả nghi, đã cử X và Y theo dõi, ngăn cản, bảo vệ anh nếu cần. Lúc
anh tỉnh dậy thì Y đã mang theo quả lựu đạn về trước. Anh bước tới gần X, hỏi mấy
câu với vẻ thản nhiên, rồi chợt kẹp cổ X, cố giằng lấy khẩu AK. Hai bên đang giằng
co quyết liệt thì vị trưởng phum chạy tới cầm lấy khẩu súng mang đi giấu, sợ
anh sẽ làm liều. X vẫn cố chịu đau ôm ghì anh lại. Anh lúc này đã nổi điên,
không còn biết gì là phải trái. Anh đấm đá X, vùng ra, chạy tới nhà vị phum trưởng,
đòi khẩu súng. Vị phum trưởng ôm anh cố can ngăn, nhưng anh vẫn hung hăng đấm
đá. Cuối cùng, một số thanh niên trong phum phải nhào tới, kẻ ôm tay, người ôm
chân anh ghì xuống đất, lấy dây trói lại. Anh vùng vẫy điên cuồng cho đến lúc
kiệt sức ngất đi. Khi tỉnh dậy, anh đã nằm trên chiếc chõng tre trong căn nhà của
mình. Vị phum trưởng đã cho xe bò chở anh về doanh trại. Anh nằm yên trong bóng
tối, nhớ lại những chuyện vừa mới xảy ra, tưởng như đã trải qua một giấc mơ khủng
khiếp. Suýt nữa anh đã chết một cái chết vô nghĩa lý, làm buồn lòng những người
thân, thương mến của mình...Anh không hiểu vì sao mình lại điên lên như vậy... Vì
say rượu thì không, vì anh chỉ uống một ít, chưa đến mức bị say mèm... Nhưng tại
sao, anh vẫn thầm tự hỏi suốt những ngày sau đó..."
"Chàng trai đó chính là anh, phải không?", cô buột
miệng hỏi sau một lúc lặng im.
"Phải, chính là tôi" , tôi đáp, "Cho đến bây
giờ, Sanly à, tôi cũng không biết mình đã thật sự hiểu được nguyên do của những
hành động đó hay chăng. Cô thấy không, có những chuyện như vậy đã xảy ra. Thật
khó tin nhưng đã xảy ra..."
Rồi sau đó, tôi im lặng. Cô cũng im lặng. Tôi nghĩ có lẽ cô đã
phần nào đó cảm thông được với tôi. Nắng đã tắt từ lúc nào. Ðêm đã buông. Phòng
triển lãm cũng đã đóng cửa từ lâu. Trong quán, những bóng đèn tròn xanh đỏ tí
hon treo trên những chậu cây nhấp nháy. Ngồi thêm lúc nữa, chúng ta chia tay
nhau. Cô chúc tôi mạnh khỏe. Và tôi chúc lại cô lời chúc tương tự.
Sanly thân mến!
Lá thư này, tôi gửi tới cô, và tới tất cả những bạn bè cô, với
ý nghĩa là một phần không thể tách rời của quyển truyện này. Nói rõ hơn, nó như
là một dạo khúc mở đầu cho câu chuyện về những ngày tôi đã sống. Tôi viết câu
chuyện này là để trả phần nào món nợ tinh thần mà tôi đã tự nguyện gánh vác đối
với bạn bè, đồng đội của tôi. Trong số đó có kẻ đang còn sống, đang tiếp tục
không ngừng cuộc đấu tranh kiếm tìm hạnh phúc, cũng có kẻ đã ngủ yên trong lòng
đất.
Mong cô đọc nó với lòng thông cảm. Vốn dĩ, tôi không phải là
một nhà văn gì cả. Tôi chỉ là một người bình thường, bằng những lời đơn giản kể
lại một câu chuyện mà nhiều người đã biết.
Chúc Sanly những ngày tuổi trẻ bình an, nhiều hạnh phúc.
Một người bạn của cô.
Chương
2
Những ngày cận Tết ở rừng trôi qua chậm chạp. Buổi sáng kéo
dài. Buổi trưa lê thê. Buổi chiều đến uể oải, đi dùng dằng. Và đêm như không
bao giờ hết.
Rừng thật vắng và yên tĩnh, ra khỏi khu vực đơn vị dừng chân
tập kết vài trăm mét, chỉ còn tiếng gió âm u. Ngự trị toàn bộ không gian là lặng
im tuyệt đối. Chỉ đôi khi, tiếng AK điểm xạ hai vọng về từ đâu đó rất xa. Mùa
xuân, nhưng cánh rừng quá lặng lẽ buồn rầu. Dường như những chồi non vẫn còn
thiếp ngủ đâu đó trong những nách lá già nua. Dường như chim chóc đã rủ nhau đi
chơi xa đâu đó chưa về kịp. Những thân cổ thụ nâu sẫm, xanh mốc rêu, xam xám...
kiên nhẫn khoác lớp áo lá úa vàng không sinh khí. Chúng đứng kề bên nhau trong
lặng lẽ. Thỉnh thoảng, ở cây này, cây khác, một cành khô chết từ lâu chợt răng
rắc vặn người, rồi tức tưởi lìa thân trong cơn gió xoáy. Những cành lá trên tầng
cao của rừng chợt lao xao một lúc, như thể cất tiếng thở than tiễn biệt một người
bạn mới qua đời.
Ðôi khi, trong đêm khuya, chợt một hồi sấm rền rền vọng lại,
mưa đã rơi ở đâu đó xa xôi, một cơn mưa giông trái mùa thỉnh thoảng xuất hiện
trong những khu rừng nhiệt đới. Ban ngày, không khí oi nồng và khô hạn, cả những
cơn gió cũng nóng rãy như hơi nước tỏa ra từ một nồi nước sôi khổng lồ. Chập tối
trở đi, nhiệt độ giảm dần. Rồi từ khoảng chín giờ đêm cho tới sáng, cái lạnh đột
ngột ùa đến - một cái lạnh tê buốt đến xương. Thời tiết ở đây thay đổi bất thường,
nghiệt ngã. Xuân ấm áp, khoan hòa và dịu dàng chưa đến. Nhưng dường như vẫn có
một cái gì không rõ đang âm thầm cựa quậy, đang rạo rực chuyển mình trong từng
tảng đá, thân cây, hay bên dưới lòng đất ấm. Dường như mọi sự vật đang chuẩn bị
để chờ ngày ùa ra, nở rộ, khoe bày sức sống, cất lên tiếng hát không lời bất
khuất, ngợi ca cuộc sống tươi đẹp vĩnh hằng.
Ðại đội dựng lều dã chiến rải rác ở một góc khu rừng. Những
chiếc lều làm cho bức tranh phong cảnh buồn thiu tẻ nhạt nơi đây chợt có một
chút gì ngộ nghĩnh, vui vui. Chúng như những nét cọ ngẫu hứng, phá tung bố cục
đơn điệu của những cụm cây xanh lướt buồn rầu và bãi cỏ vàng khô cháy. Lều, hay
nói đúng hơn, chỉ là những cái chòi nhỏ, được dựng rất giản dị xuề xòa. Cột lều
là bốn thân cây rừng cỡ bắp tay, hai dài hai ngắn, tạo thành một mái xuôi. Bốn
phía lều trống trơn. Mái lều là mấy tấm tăng ghép nối nằm bên dưới, bên trên phủ
những cành lá, những túm cỏ tranh. Nhìn xa, trông chúng như những chiếc nhà
chòi của trẻ con làng quê dựng lên để chơi trò bán mua, cưới hỏi... Ðôi khi,
vài con sẻ rừng lông xám hiếm hoi rong ruổi lang thang qua góc rừng, chợt sững
lại ngạc nhiên, tròn xoe đôi mắt. Chúng đậu trên một cành cây rậm rạp, nép thân
người sau đám lá um tùm và kêu lên chí chóe. Như thể chúng hỏi han nhau: "Dưới
kia, ở giữa đám cỏ tranh vừa xuất hiện cái gì lạ thế?" Chúng xôn xao bàn
tán, âu lo không biết giống chim khổng lồ quái dị nào đã tới đây xây những cái
tổ kỳ khôi và xấu xí thế kia. Rồi cuối cùng, sau một tràng tiếng kêu rít cao hốt
hoảng, chúng bay vù mất, bỏ lại những chiếc lá đung đưa rất khẽ vì giận dỗi và
luyến tiếc những người bạn sao quá đỗi vội vàng.
Những túp lều của Trung đội hai nằm dưới một khóm ba gốc dầu
già cỗi mọc gần nhau. Khi gió nổi lên, hoa dầu lại từ trên cao xoay xoay bay xuống,
rắc đầy trên lớp cỏ úa vàng những đôi cánh chuồn nâu. Huy ngồi phía ngoài lều,
hí hoáy ghi ghi chép chép. Lâu lâu, một cánh hoa dầu lại tình cờ đáp xuống vai
anh.
Chí phèo, trung đội phó, ngồi cách đấy không xa, anh đang mài
dao trên một phiến đá hình bán nguyệt. Chí liếc nhát cuối cùng qua phiến đá,
đưa ngón tay trỏ gãy khẽ lưỡi dao, gật đầu tỏ vẻ hài lòng. Anh cất tiếng bâng
quơ:
- Vậy là sắp tới cái tết xa nhà lần thứ bốn... Mẹ kiếp! Tết với
nhất gì ở cái rừng khô này!
Huy ngẩng đầu nhìn Chí phèo. Câu nói của Chí làm anh chợt nao
nao. Ngày mai đã là Tết rồi. Huy đưa mắt lướt qua những khóm cây mọc lưa thưa,
qua trảng cỏ trống, hướng tới cụm rừng dày âm u xanh thẫm phía xa. Chẳng có gì
báo hiệu cho mùa xuân cả! Mùa xuân ắt là đã lạc đường không tới được nơi đây.
Dạo mới sang, Huy đã từ trạm chỉ huy tiền phương của mặt trận
đi thẳng lên tuyến trước theo ngõ Sàm-rông, băng qua một cánh rừng nằm chếch hướng
Tây, cách Sàm-rông chừng một buổi hành quân. Quanh bìa rừng mọc đầy những cội
mai núi già cỗi, bấy giờ trời lại đang vào tiết lập xuân, hoa mai bừng nở chi
chít trên cành, vàng rực lên trong nắng. Màu vàng hoa mai lúc nào cũng nhắc những
người con đi xa nhớ những ngày cận tết ở quê hương.
Huy nhét cây viết vào túi áo, ngồi ngẩn người, trong đầu anh
một chuỗi ý nghĩ, hình ảnh lướt nhanh qua.
Mùa này, trong những khu vườn ngoại ô, mai đã được bứng lên
cho vào chậu, được tỉa tót, uốn sửa lại và chở vào bày bán trên những vỉa hè
hay khu chợ trung tâm thành phố. Chợ tết chắc cũng đang vào lúc tưng bừng, nhộn
nhịp, với đủ hoa trái, sắc màu.
Nào những bông cúc đại đóa trắng, vàng, tim tím, xanh lơ nằm
chen vai bên thược dược đỏ, hồng. Nào những đóa hồng kiêu sa rung rinh trong nắng
sớm kề bên những cụm vạn thọ bình dị, thân quen; và hoa đào đỏ thắm; và mẫu
đơn, lay-ơn muôn sắc muôn màu; và huệ trắng, huệ lam...Có đến trăm loài hoa đua
nhau khoe sắc khoe hương. Rồi còn bao nhiêu là bánh mứt, bao nhiêu là thứ trái
cây đua nhau phô vẻ hấp dẫn, ngon lành...
Ôi, quê nhà! Nhớ làm sao những con đường, những khu chợ hoa
chợ tết tràn ngập người qua kẻ lại, hội tụ biết bao nhiêu nàng thiếu nữ mắt
sáng môi hồng, đẹp như tranh vẽ; những ngọn gió đầu xuân nhẹ vờn trên tà áo mỏng,
trên những lá non, lộc biếc lao xao; hương thơm của muôn hoa, hương vị ngọt
ngào của trái cây, bánh mứt, hương tóc của một ai đó vừa đi qua thoảng lại.
Nhớ làm sao Sài Gòn những ngày cuối năm náo nức rộn ràng; những
con người quen lạ với mắt sáng môi cười ánh lên niềm vui, hy vọng vào một năm mới
nhiều may mắn, phúc lành hơn...
Hôm qua, Huy đã đi ngược xuống hướng đông mấy cây số, mong
tìm được một cành mai mang về mừng đón giao thừa. Anh đi mãi, lùng đỏ mắt,
nhưng chỉ thấy có mỗi màu vàng héo úa của lá khô. Rừng phía trên này không có
mai, thật lạ, rừng mai mà anh đã đi qua chỉ cách đây khoảng ba mươi cây số. Huy
tự nhủ: Chả lẽ bây giờ cuốc bộ sáu mươi cây cả đi lẫn về chỉ để kiếm một cành
hoa? Vả lại, đại đội trưởng Thái đã có lệnh không được đi xa nơi tập kết quá
năm cây. Cuối cùng, Huy đành phải quay về, thất vọng. Anh nghĩ, không có hoa,
không có làn khói mỏng manh, thoang thoảng mùi thơm của những nén nhang thắp
lên, không khí của giây phút chuyển tiếp từ năm cũ sang năm mới sẽ kém phần ấm
áp, thiêng liêng. Nhưng biết làm sao, lính mà, lại ở tận trong rừng, đang trong
thời điểm chuẩn bị cho đợt hành quân cơ động mới, đành phải chấp nhận những cái
đang có mà thôi.
Tuy nhiên, đêm giao thừa này, đêm giao thừa đầu tiên xa nhà của
Huy, cũng hứa hẹn những điều cực kỳ hấp dẫn. Toàn trung đoàn đều có rượu, không
biết mấy tay lính cũ đã xoay xở cách nào hay vậy! Tiểu đội nào cũng có ít nhất
là một can vàng bốn lít. Ðêm nay, Huy sẽ được thưởng thức cái thú vui đầy nam
tính, hào sảng như những vị anh hùng hảo hán trong truyện Tàu xưa, sẽ được hai
tay bưng cái bát B52 1 đưa lên miệng, ngửa cổ uống một hơi dài, để rồi nghe người
mình lâng lâng, ngây ngất.
Huy chưa từng uống rượu. Anh chỉ nghe nói về cái cảm giác kỳ
lạ do nó gây ra, và thấy cũng hay hay. Ðêm nay, đêm nay mình sẽ như người xưa,
vừa bưng bát rượu, vừa đọc bài thơ bi tráng, hào hùng của Vương Hàn:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
(Tạm dịch: Rượu đào chung ngọc dạ quang
Chưa vơi đã rộn tiếng đàn xuất quân
Say lăn lóc giữa sa trường
Bạn đừng cất tiếng cười khan lắc đầu
Xưa nay ra chốn binh đao
Mấy ai biết được ngày sau có về)
Lại còn có một cái khác, vô cùng thú vị, mà toàn bộ các tay
súng của ba tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị trực thuộc trung đoàn đã bí mật
giao kết với nhau: đốt pháo hoa đón giao thừa. Pháo hoa ở đây, nơi trận địa
này, sẽ được tạo ra bởi các loại đạn lửa khác nhau. Ðạn lửa sẽ đan kết thành những
bông hoa trên bầu trời chiến địa. Và những người lính sẽ không còn cảm giác xa
cách quê hương. Ðạn tiểu liên, đạn đại liên K.57, 12,7 là những tràng pháo chuột,
pháo trung, và đạn cối 60, cối 82...sẽ là những tiếng pháo đại điểm nhịp cực kỳ
ấn tượng! Ðây là một sự vụ khá là nghiêm trọng, vì quân lệnh nghiêm cấm bắn
súng bừa bãi. Nhưng vừa rồi đánh chiếm Ampil, quân ta thu được rất nhiều đạn dược
các thứ. Lính chiến mà, đôi khi cũng phải chơi cho ra trò như vậy chứ.
Ðại đội tải của trung đoàn có quân số tổng cộng lên đến xấp xỉ
sáu mươi người. Con số này lớn hơn nhiều so với thực lực của các đại đội chiến
đấu, nhất là đang trong mùa chiến dịch. Một phần vì quân số của nó ít biến động.
Thêm nữa, đại đội đã được bổ sung quân số hồi cuối năm để đảm bảo thực hiện thật
tốt công tác tải đạn cáng thương phục vụ cho các đơn vị trực tiếp tác chiến.
Hôm mới về trung đoàn nhận nhiệm vụ, Huy đã được phân công về
đại đội này. Ðại đội trưởng Thái vui vẻ tiếp nhận Huy. Anh tạm thời bổ nhiệm
Huy làm tiểu đội phó tiểu đội ba, trung đội hai. Anh cũng nói sơ qua về nhiệm vụ
vai trò của đại đội trước nét mặt ỉu xìu thất vọng của Huy. Huy chán nản khi biết
mình không về một đơn vị trực tiếp chiến đấu, mà là đơn vị phục vụ, trong một
trận đánh lớn lao như vậy. Trên đường sang đây, lúc nằm ở quân trạm thị xã
Batđomboong, Huy gặp một sĩ quan người Thanh Hóa đi phép ngược về. Khi nghe Huy
nói sẽ về Sư đoàn X, anh bảo đây là một sư đoàn đã hai lần được phong anh hùng,
anh cũng nói thêm: "Về đó khá là vất đấy! Tôi từng ở dưới bộ binh tiểu
đoàn của sư đó mấy năm..." Huy đã hình dung ra những trận đánh vô cùng kịch
liệt hào hùng, tương tự như trong những bộ phim lịch sử nổi tiếng anh từng xem
ngày trước. Những trận đánh kinh thiên động địa, đầy máu và hoa, đầy tính anh
hùng ca lãng mạn. Huy tưởng tượng, gần như ao ước, mình sẽ lập được một chiến
công gì đó, nho nhỏ thôi, và cũng sẽ bị thương qua quýt gì đó, bị thương nhưng
vừa phải thôi, đừng mất đứt một chân hay một tay, một mắt... để sau này về còn
có vài cái sẹo làm kỷ niệm! Vậy mà bây giờ... Thái đoán được ngay những ý nghĩ
của Huy, anh động viên:
- Cậu đừng tưởng đây là công việc nhẹ nhàng đơn giản. Nó cũng
khá căng, vất vả và nguy hiểm đấy, và cũng là một công tác vô cùng quan trọng cần
thiết. Nếu không có chúng ta, các đơn vị lấy đâu ra đạn dược để chiến đấu, ai
là người chuyển các thương binh, tử sĩ về tuyến sau? Thực tình thì nó cũng hơi
buồn tẻ hơn là trực tiếp cầm súng, nhưng là lính, chúng ta phải hiểu dù ở bất cứ
cương vị, chỗ đứng nào, thì cái đánh giá chúng ta là tinh thần công tác, chứ
không phải là hình thức. Với lại, cậu vừa mới sang đây, chưa có kinh nghiệm gì,
chưa quen với điều kiện chiến trường, nên trên mới đưa cậu về đây để thử thách,
làm quen. Cậu cứ yên chí, sớm muộn gì, cậu cũng sẽ về đơn vị chiến đấu. Lúc đó
chỉ sợ cậu lại không đủ can đảm, ý chí mà đứng vững thôi!
Thế là Huy vác ba lô về trung đội hai. Và đã nếm trải trận
đánh đầu tiên của đời lính ở đại đội này.
Ở lều bên cạnh, Trường, trung đội trưởng, vừa lên xong kế hoạch
cho ba ngày Tết. Anh đã sắp xếp, phân bố lại toàn bộ các thức ăn hiện có: vài
chục lon cá hộp Thái trung đoàn cấp lại sau khi thu được ở Ampil, thịt heo đóng
hộp của ta, khô cá lóc bông, ruốc cá, bánh kẹo, thuốc lá hậu phương gửi sang...
để mỗi ngày Tết đều vừa đủ thức ăn thết đãi khách khứa, đồng hương, vừa dành lại
một phần nhỏ cho những ngày sau đó. Anh bước ra khỏi lều, cất tiếng gọi Nhu,
anh nuôi trung đội, đang ngồi nhặt thóc phía bên kia lại, giao cho Nhu tờ giấy
anh đã liệt kê chi tiết. Chí phèo gọi giật Nhu tới, cầm lấy tờ giấy đọc qua, rồi
nói như quát với Trường:
- Sao mày lo xa thế. Lính là phải chơi xả láng, hết mình,
chơi cho đã rồi mai có chết cũng không còn phải tiếc gì! Thằng Nhu đừng có nghe
nó, cứ việc đem ra nấu hết trong ba ngày Tết cho tao!
Nhu nhìn Trường, rồi lại nhìn Chí phèo, không biết phải nghe
ai. Anh nghĩ bụng, có phần thiên về phía Chí phèo: "Ông nào cũng có lý.
Thôi cứ tới ngày nào tính ngày đó, hơi đâu mà nghĩ ngợi cho lắm."
Chí phèo càu nhàu thêm vài câu, rồi gọi to:
- Mấy thằng được phân công lấy củi hôm qua đâu, theo tao!
Theo hội ý hôm qua, bữa nay tới phiên Hòa, Huy, Phước, Danh
đi lấy củi để đốt lửa trại đón giao thừa. Mọi người lấy dao rựa rồi tập họp lại
trước cửa lều. Chí phèo lại hét:
- Lên đường!
Trường nhìn theo cười khẽ, không có vẻ gì bực tức. Trường đã
quá hiểu Chí phèo, ngay cái biệt danh cũng đã nói lên tính cách của anh. Chí
phèo nói đó rồi quên đó, ruột để ngoài da, cứ hùng hổ làm như sắp nhảy xổ vào
người khác vậy chứ thật ra lại rất đa sầu đa cảm và tốt bụng.
Dạo mới về Phnom S'rok, có một lần Trường và Chí phèo đi xắn
măng rừng, chợt Trường bị một viên đạn mồ côi ở đâu rơi xuống xuyên qua bắp
chân trái. Vết thương chỉ ở phần mềm, không nguy hiểm, nhưng máu ra khá nhiều.
Chí cuống quýt bứt vội mấy cọng dây rừng quanh đó, rồi móc cái khăn tay của người
yêu tặng ra, đè lên vết đạn băng bó lại cho anh. Cái khăn này Chí phèo rất quý,
chỉ cất trong túi áo chứ không khi nào đem ra lau mặt. Nhưng cái khăn quá mỏng,
máu vẫn ứa ra đẫm ướt ống quần. Lúc đó hai người cách trại khoảng ba cây số,
Chí phèo dìu anh đi một đoạn khoảng hai trăm mét, rồi thấy máu cứ rỉ ra, Chí
nói: "Thôi để tao cõng mày. Mày đi, động vết thương mất máu nhiều nguy lắm."
Rồi Chí xốc anh lên vai, hì hụi cõng anh từ đó về đơn vị.
Một lần khác, Phước lên cơn sốt ác tính, người cứ co giật thấy
thương quá chừng, Chí vừa nằm ôm lấy nó đè xuống, vừa nước mắt nước mũi chèm
nhèm. Phải nói trong trung đội, Chí phèo thương nhất là Phước. Cả hai đều mồ côi
cha mẹ từ nhỏ, đều chịu nhiều vất vả, nên dễ đồng cảm với nhau. Có những đêm,
hai người nằm rì rầm nói chuyện suốt, làm Trường phát bực, phải quát lên:
"Hai thằng mày còn sống với nhau dài dài, có phải là một ngày một bữa mà
nói cho lắm thế! Ngủ đi, cho người khác ngủ!"
Trường nghĩ tới đó chợt thấy buồn buồn, nhớ những chuyện xa
xôi. Ðã hai năm rồi anh không biết chút tin gì ở quê nhà. Bố mẹ anh đều đã qua
đời. Hai ông anh, người thì lên mạn Cao Bắc Lạng làm rừng, người thì vào tận
Tây Nguyên khai khẩn đất hoang, chẳng biết giờ làm ăn, sinh sống ra sao. Còn
An, người con gái vùng Thanh có cặp mắt đen lay láy, đôi má cứ ửng hồng lên mỗi
lúc gặp anh dạo mới quen nhau, từ sau lá thư cuối cùng, với những câu úp mở,
quanh co, ngụ ý khuyên anh hãy quên đi những chuyện ngày xưa cũng đã im lặng,
không hồi đáp những lá thư đầy âu lo, ray rứt của anh.
Giờ cô ấy ở nơi đâu, sống ra sao? Có khi nào cô nhìn ra cánh
đồng chiêm trổ đòng vàng óng mà nhớ tới buổi chiều cùng anh thề sẽ sống bên
nhau mãi mãi?...
Thật ra, Trường không hề giận trách gì An. Cô hẳn phải có những
lý do để làm như vậy. Vả chăng, chính Trường cũng có nhiều lúc định nói lời
chia tay với cô, ngay trước khi nhận được lá thư đau xót ấy. Ðó là những giây
phút bàng hoàng, trống vắng sau một trận đánh căng, có người đổ máu và có người
ra đi mãi mãi. Những lúc ấy Trường chợt nghĩ biết đâu lần kế đó sẽ là chính
mình. Và anh mường tượng tới sự đau đớn tột cùng của An khi nhận được một tin dữ
từ đồng đội của anh. Thế là anh viết những lá thư ngắn, với những câu khô khan,
phi lý, có khi còn nặng nề xúc phạm cô, để mong cô sẽ giận, và sẽ quên anh.
Nhưng rồi sau đó bình tỉnh lại, Trường xé nát những lá thư
này. An đã trở thành một phần không thể tách rời với vui buồn, với thương yêu
tràn ngập trong anh. Anh không thể, không có đủ can đảm để làm cô buồn phiền,
đau đớn chỉ vì một điều chưa xảy đến, một điều biết đâu sẽ không bao giờ xảy đến...Trường
chỉ thấy lòng đau nhói, và buồn vì An không nói rõ nguyên do, để anh khỏi phải
thắc mắc suy diễn lung tung. Anh hiểu cô có những điều khó nói, anh hiểu không
nên thắc mắc mà chỉ nên chấp nhận một sự thật vô cùng đơn giản, là đã mất An,
và tốt nhất là hãy quên đi mọi chuyện. Nhưng sự mâu thuẫn của tim anh, cũng như
sự mâu thuẫn đời đời trong trái tim của loài người, là biết rất rõ cách tốt nhất
để chữa trị vết thương lòng, nhưng vẫn cứ hành xử những điều ngược lại, cứ tự
mình khoét sâu, chọc mãi vết thương.
Trường thở một hơi dài, lắc mạnh đầu như để xua đi những ý
nghĩ nặng nề. Anh vào lều xách con dao bản to để chặt cây rừng ra, bước tới đống
cây khô làm củi. Anh vung dao lia lịa, phạt đôi những thân cây khô, cho đến lúc
đống cây đã vợi hẳn đi, và mồ hôi đã ròng ròng ướt đẫm chiếc áo xanh bạc phếch.
Cả bọn đã chặt được khá nhiều củi khô, toàn là những cành dầu,
sao chắc nịch. Họ bó phần của mỗi người lại thành hai bó, cột ràng thật chặt, rồi
chọn một cành thẳng làm đòn gánh xỏ qua, gánh về.
Huy đi chân nam đá chân chiêu như người say rượu. Chí phèo cứ
nhìn dáng bộ của Huy mà cười thầm trong bụng. Anh tự hỏi tại sao người ta lại
tuyển mộ một tên nhỏ con ốm yếu, thư sinh trói gà không chặt như Huy vào quân đội.
Lại còn là khẩu đội trưởng hỏa lực nữa chứ! Bộ thằng này mà xiết chừng nửa
thùng 12 ly bảy chắc mặt không còn chút máu! Anh cất giọng chế nhạo Huy:
- Tao không hiểu sao họ lại chọn một thằng thư sinh trói gà
không chặt như mày cho học hỏa lực đó Huy. Chưa hết, tướng mày đâu phải tướng
con nhà lính. Tướng mày chỉ có nước ngồi bàn cạo giấy mà thôi!
Huy trả đũa:
- Ðừng trông mặt bắt hình dong anh Chí ơi. Chứ như anh cũng
đâu phải là tướng lính. Nom mặt mày của anh, chỉ có về làng Vũ Ðại vạch mặt ăn
vạ là hợp thời trang nhất đó!
Hòa chợt cười khe khé như ngựa hí, quay qua hỏi Chí phèo:
- Ông Chí phèo, ông còn nhớ vị nước trà thằng Huy pha hôm nó
mới về không... hí hí... Cái đó người ta kêu bằng pha trà kiểu "tướng sĩ một
lòng phụ tử" 2 đó nghe!
Huy bật cười. Cả bọn cũng cười theo hô hố. Hôm đó, Chí phèo
đưa cho Huy một gói trà, bảo đem pha. Huy ra bếp nấu một nồi nước to, rồi trút
hết gói trà vào. Trên kia đã nghe tiếng Chí la oai oái:
- Huy đâu rồi, có ấm trà mà mày làm gì lâu thế!
Khi thấy Huy lễ mễ bê nồi nước lên, Chí phèo giật mình kinh
ngạc:
- Mày bưng nồi nước lên làm gì vậy Huy?
- Thì anh kêu em pha trà mà - Huy thản nhiên đáp.
- Có chút xíu trà mà pha nguyên nồi nước vậy sao! - Chí phèo
trợn mắt - Trời ơi, đúng là ngu không chịu nổi!
- Vậy chứ làm sao? - Huy nổi cáu.
- Nè, Hòa, mày về huấn luyện lại lính mày cách pha trà nghe.
Lần sau mà còn thế này là tao không tha mày đâu. Hừ! Toi mất gói trà rồi - Chí
nhăn mặt - Ðâu đem cái nồi lại tao xem!
Thì ra, pha trà ở đây khác với ở nhà! Ở đây, lính tráng quen
uống thứ "trà quạu" pha thật đặc. Như gói trà của Chí, chỉ pha độ một
phần ba bi đông nước. Thế mà Huy tống vào cái nồi cả hai lít nước sôi.
Rõ ràng, trong cuộc sống lính chiến ở đây có biết bao điều mới
lạ Huy chưa từng biết đến. Anh ngơ ngác với mấy từ lạ tai cánh lính cũ dùng.
Trong đó, có những từ nghiêm chỉnh, cũng có từ lóng mà mấy tay ma cũ hay lấy nó
để trêu mấy con ma mới tò te. Khi Huy mới vừa chân ướt chân ráo về tới nhà
trung đội, chưa kịp khô mồ hôi, cả đám lính cũ đã nhao nhao bu lại. Người này
nhìn anh như người ta nhìn một con gà giò trong lồng tre ngoài chợ, đánh giá
xem nó có dễ bị toi không, có thể thành một con gà trống hiên ngang, đủ tài
chăn dắt lãnh đạo cả bầy gà mái hay không. Người khác đưa tay nắn nắn bắp tay,
bắp chân Huy rồi bĩu môi lắc đầu khi dễ. Tự ái Huy nổi lên đùng đùng. Dù gì,
người ta cũng qua hết chín tháng quân trường, rèn ngày rèn đêm đến da đen cháy
như than, thịt săn cứng như củi, chứ đâu là loại bở. Chỉ có cái Huy nhỏ con và
hơi ốm thôi mà! Rồi một tay mặt mày bậm trợn, râu tóc bờm xờm, sau này mới biết
là anh Chí nhà ta, vừa cười nhe trọn hai hàm răng ám đen khói thuốc lào, vừa
ranh mảnh nháy mắt với Huy:
- Trung đoàn có cấp tiền "xốc lọ" cho mày chưa vậy?
- Tiền xốc lọ là tiền gì? - Huy thực sự ngơ ngác.
Tay bậm trợn giải thích một cách đáng ngờ:
- Ðó là một loại trợ cấp cho lính mới sang. Mai mày lên tài vụ
trung đoàn hỏi đi nghe - Anh ta vờ vịt - Sao kỳ vậy cà! Lẽ ra họ phải cấp cho
mày rồi mới đúng chứ!
Cả bọn cười ầm lên. Huy nhìn họ, hai mắt tròn xoe như một con
nai vàng chính hiệu. Huy hỏi mãi nhưng chẳng ai chịu nói rõ ràng, chỉ hàm hồ ú ớ
đó là một món tiền rất ư hấp dẫn, không lấy là uổng cả nửa cuộc đời! Mấy bữa
sau, Danh mới chịu cười nắc nẻ giải thích cho Huy. (Xin độc giả thứ lỗi vì lời
giải thích đưa ra đây có phần hơi bất tiện!) Chiều hôm đó hội ý, Huy lại thêm một
phen ngạc nhiên khi Trường nhắc nhở:
- Các đồng chí nhớ giao ca cho đúng giờ giấc. Ðừng có ăn gian
nhau dăm mười phút mà anh em xích mích...
Huy nhìn quanh một lượt, chẳng thấy ai có đồng hồ cả. Anh hỏi:
- Ở đây không có đồng hồ, làm sao biết giờ cho đúng?
Trường giải thích:
- Chúng ta sẽ nhìn sao để đoán giờ. Từ từ rồi Huy sẽ quen
thôi. Ví dụ như chập tối là sáu giờ rưởi, thì sao Hôm mọc. Rồi ta sẽ xác định một
điểm mốc so với ngôi sao, một ngọn cây chẳng hạn. Một tiếng đồng hồ, thì ngôi
sao sẽ di chuyển so với vị trí lúc đầu khoảng một gang tay...
- Một gang tay?
- Tức là em sẽ duỗi thẳng tay ra, rồi xòe tay trước mắt để ướm
khoảng cách đó.
- Ạ, ạ.... - Huy gật gù thú vị.
Lần khác, vài hôm sau đó, Huy cảm thấy trong người tự dưng lừ
đừ khó chịu, buồn ngủ lạ lùng. Khi đó, đang ém quân chờ đến ngày tấn công, nên
cũng không có công tác gì, Huy nằm ngủ li bì. Chí phèo vội đánh thức Huy, anh bảo:
- Mày không nên ngủ nhiều lúc ban ngày. Nếu thấy khó chịu thì
kiếm chuyện làm cho đổ mồ hôi. Ngủ ngày nhiều trong rừng dễ bị sốt lắm đó...
Ðại loại những tri thức nhỏ nhoi, đơn giản như vậy làm Huy
luôn cảm thấy bất ngờ và thích thú. Mỗi ngày Huy lại học được thêm vài điều mới
lạ...
Vừa đi, vừa chuyện trò đùa cợt, chẳng mấy chốc họ đã về tới
nơi đóng quân. Mọi người xách mấy cái bi đông ra tắm, chuẩn bị thân người sạch
sẽ thoải mái để chào đón giao thừa. Nước này phải tải về từ một nơi khá xa. Do
đó, họ tiết kiệm bằng cách tắm "một bi đông". Nghĩa là chỉ tắm trong
phạm vi giới hạn bao nhiêu đó nước. Trước tiên, họ đặt sát cái bi đông lên đầu,
dốc ngược, để cho nước chảy rỉ rả vừa đủ ướt toàn thân. Rồi kỳ cọ. Rồi lấy khăn
lau. Rồi lại cho nước rỉ rả qua thêm lần cuối, trở mặt còn sạch của khăn lau lại.
Nói cho đúng thì cũng chả khác gì nhúng nước chiếc khăn rồi lau người. Nhưng
làm kiểu này khoái hơn và dễ chịu hơn. Sau đó, mọi người trở về tiểu đội ăn cơm
tối. Ðêm đã bắt đầu buông xuống.
Huy bàn giao ca gác cho Vũ rồi quay trở về lều. Sao Cày đã ló
ra sau ngọn cây dầu độc mộc, tức là khoảng chín giờ đêm. Trời lành lạnh, một thứ
lạnh nao nao khó tả. Bầu trời đêm xanh đen thăm thẳm trên đầu chi chít những
sao. Ðêm giao thừa xa nhà xa quê đầu tiên của Huy đang chầm chậm trôi qua, vô
tình không biết nó đã mang về cho Huy biết bao suy nghĩ, biết bao cảm xúc vui
buồn, nhớ thương lẫn lộn.
Lúc nãy ngồi một mình trong ụ gác, anh đã điểm lại trong đầu
bao nhiêu hình ảnh...
Buổi chiều cuối cùng trước lúc đi xa, má Huy đã đứng lặng bên
đường khi anh nhảy vội lên chiếc xe đò để quay về đơn vị. Khi xe lăn bánh, anh
chồm người ngó ra, vừa kịp thấy người đang giơ tay lên quẹt vội dòng nước mắt.
Má đã cố kềm nén tiếng nấc, kềm nén dòng lệ để anh khỏi phải nao lòng, nhưng rồi
lúc ấy anh cũng đã nhận ra người buồn đau đến mức nào khi phải xa anh, không biết
đến bao giờ...
Huy nhớ bé út với đôi mắt tròn xoe. Ngày anh đi nó vừa tròn bốn
tuổi. Có một lần Tường Vân, cô lớp trưởng, tới nhà anh chơi, bắt gặp anh đang bế
bé út đùa giỡn đã khen nức nở: "Trời, con bé có đôi mắt ngộ ghê! Sau này
chắc làm khối anh chết mệt!..."
Huy nhớ con đường đến trường có mấy cây phượng đỏ nở hoa rất
sớm. Những buổi chiều đi học về anh đã thả bước thật chậm để ngắm nhìn những
cánh phượng đỏ liêu xiêu rơi xuống...Rồi những lần anh và bọn bạn trốn học sang
La-san Mai thôn, Thanh Ða để tắm sông. Tụi anh lội qua phía bờ bên kia, nơi có
một cái cù lao nhỏ giữa dòng mọc toàn những cây dừa nước để bắt còng. Hồi đó, tụi
anh hay uống cà phê buổi tối. Thằng Hà xách túi còng bắt được về nhà nó rang, rồi
mang ra quán, tụi anh vừa tán dóc, vừa nhâm nhi còng rang với nước trà...
Huy nhớ những đêm giao thừa, khi bầu trời khuya trở nên xanh
nhạt, và những vì sao xa tít tắp hẳn đi, lư hương trên bàn thờ tổ tiên được đốt
lên, mùi trầm hương ngan ngát. Má anh sẽ bày thêm một mâm trái cây để mang ra
cúng trời đất trước hiên nhà. Nồi bánh tét kê ở góc sân cũng bắt đầu reo lên
vui vẻ, báo tin bánh đã sắp chín mềm. Ánh lửa bếp sáng bập bùng, soi lên mặt đất
những bóng người to đen sẫm đang cử động lao xao. Bọn trẻ con tụ tập ngồi quanh
dây pháo đỏ, khe khẽ tán chuyện, hồi hộp chờ tới lúc những chùm pháo nỗ tạch
đùng, văng tung tóe. Trong đêm mênh mang, một cái gì ấm áp, linh thiêng đang
lan tỏa. Nó bay đến, ghé qua khắp mọi ngôi nhà, nối một sợi chỉ mong manh vô
hình nhưng bền chặt giữa mọi tâm hồn lại với nhau. Có phải người ta gọi đó là hồn
thiêng đất nước?...
Những hình ảnh cứ lần lượt theo dòng liên tưởng ập về, xâm
chiếm toàn bộ trí não của Huy, dẫn anh về với những ngày qua, dù Huy vẫn mở mắt
trừng trừng nhìn ra cánh trảng trước mặt.
Huy chui vào lều, mở ba lô lấy cuốn sổ nhật ký, định ghi vội
vài dòng ý tưởng còn đọng lại sau ca gác. Nhưng rồi không biết nghĩ sao, anh lại
cất nó vào. Anh bước ra, đi về phía nhà trung đội.
Khắp các đơn vị, lửa đã đốt lên từ khi chập tối. Những đốm lửa
trại cháy chập chờn hắt sáng cả một góc rừng. Tiếng ca hát, la lối, reo hò, tiếng
gõ đập vào can nước, vào xoong nồi đánh nhịp theo lời hát văng vẳng khi xa khi
gần theo hướng gió. Cả trung đội đang ngồi vây quanh đống lửa, trừ những người
trực gác. Trường đang cầm cái can rượu đã vơi phân nửa rót vào bát, chợt ngước
lên trông thấy Huy. Anh kêu lên:
- A, vào ngồi đi đồng chí tân A phó A3. Mày đến sau, phải làm
luôn ba bát đấy.
Huy len vào ngồi xuống giữa Phước và Chí Phèo. Anh đưa tay đỡ
lấy bát rượu, mỉm cười nhìn quanh khắp mọi người, nói to:
- Xin mấy anh thông cảm, tôi chưa từng uống rượu bao giờ.
Nhưng cũng xin uống cạn một chén này chung vui với các anh.
Nói đoạn, Huy ngửa cổ từ từ trút bát rượu vào miệng. Hơi rượu
cay nồng bốc lên mũi làm anh muốn sặc. Hôm qua, anh đã nghe mấy tay bợm nói,
khi uống phải nín thở làm một hơi mới không bị sặc, nên đã chuẩn bị tinh thần
làm theo thật đúng. Vậy mà suýt chút nữa cũng không tránh khỏi. Tuy nhiên, Huy
cũng đã uống hết bát rượu thật ngọt. Xong, anh giao trả cái bát lại cho Trường,
chủ xị. Anh nhăn mặt, cảm nhận một luồng hơi nóng đang lan tỏa rừng rực từ bụng
ngược trở lên cổ, da thịt chợt nóng ran lên đến muốn toát mồ hôi, dù khí trời
khá lạnh. Hòa, A trưởng A3, đang ôm đàn hát những câu do một người lính nào đó
của trung đoàn cải biên từ bài Mùa xuân lá khô:
"Tôi trở lại vùng Sầm Bua, vùng xa xôi đóng gần núi Cườm.
Sau những ngày lo xây dựng, có những đêm đi phục chốt, tôi lại đi chiến dịch
K.5. Ngồi xe ra đến Xi phôn, an dưỡng ba ngày ăn nhậu thật là vui. Trong lúc
say, ai có đâu ngờ, quê hương từng giờ mẹ mong chờ tin con..."
Huy đưa mắt nhìn quanh. Dưới ánh lửa chập chờn khi mờ khi tỏ,
gương mặt ai cũng có một vẻ buồn buồn sâu kín, dù là đang cười nói xôn xao hay
ngồi im lặng lẽ. Hòa đã hát xong bài hát. Toàn bộ im lắng trong giây lát. Chỉ
còn nghe tiếng lửa reo, tiếng nổ tí tách của những chỗ thân gỗ bị ẩm mục. Những
lời hát này thật đơn sơ mộc mạc, nhưng nó như thuật lại cho bọn anh nghe về thời
gian vừa mới trôi qua, về cuộc sống, tình cảm, nghĩ suy chân thật của những
tháng ngày này.
Những người lính Việt Nam đang ngồi đây, hay đang ngồi trong
một khu trại nằm bên một cánh rừng, bên một bờ sông, con suối, trên một sườn
núi, đỉnh đồi chon von heo hút nào đó, trên khắp đất nước Campuchia này, hầu hết
đều còn rất trẻ. Những gương mặt xạm đen nắng gió vẫn còn lưu lại chút nét gì
đó trẻ con thơ dại trên nét cong vành môi tinh nghịch, lại cũng vừa già giặn ưu
tư trong những cặp mắt long lanh. Có người tuổi quân chưa tròn một năm, ngay
trước lúc khoác chiếc áo xanh vẫn còn nghịch ngợm giành quà bánh với em mình, vẫn
còn vô tư hò reo trong một cuộc đá dế, đá cá lia thia. Vậy mà, trong trận chiến
vừa qua, đã có một số người nằm xuống, mãi mãi ra đi; đã có những người khi ngã
xuống vẫn còn mở mắt trừng trừng kinh ngạc, như không tin mình lại có thể chết
vào lúc tuổi còn xanh, mộng còn đầy, còn chưa biết thế nào là nụ hôn lên má một
người con gái.
Hòa quay qua Huy:
- Huy này, mày hát một bài đi. Ở đây ai cũng đã hát rồi.
- Anh đưa cây đàn cho em. - Huy đáp.
Huy ôm cây đàn ghi ta cũ, lớp ván phần lưng thùng đàn đã bị
bong ra, còn phía trước thì nứt nẻ loang lổ, anh gảy khẽ vài nốt rồi ngước lên:
- Tôi xin hát một bài hát của Trần Tiến để tưởng niệm tới những
đồng đội đã hy sinh của chúng ta.
Trường chuyền bát rượu sang bảo Huy:
- Làm thêm một chén cho có hứng.
Huy uống cạn bát rượu rồi cất tiếng hát. Men rượu ngây ngất,
không khí nồng ấm gắn bó thương yêu và những niềm riêng canh cánh, thoáng chốc
cùng trộn lẫn vào nhau bay lên thành tiếng hát. Huy thấy lòng mình cũng tan
loãng ra trong những ý tình câu nhạc gần gũi và chân thật.
Bài hát kể về tâm tình của một người lính nào đó; mà cũng là
của thật nhiều người lính; trước cái chết của đồng đội thân thương. Bài hát kể
về nụ hôn đầu đời của một chàng lính trẻ. Nụ hôn đó không dành cho một cô gái dịu
dàng xinh đẹp. Nó không đặt lên bờ môi trinh nữ ngọt thơm như cỏ non, như hoa sứ
hoa quỳnh. Nó đặt lên trên đôi mắt khép hờ còn đầy tiếc nuối ngỡ ngàng của một
người bạn vừa ngã xuống. Nụ hôn đầu của người lính không dành cho tình yêu đôi
lứa; Nụ hôn đầu của người lính dành cho tình đồng đội. Và người lính hát khúc
tình ca bằng những "lời lửa cháy". Ðây không là lời tình hát tặng em
đâu, người yêu nhỏ. Ðây là khúc hành ca tôi dành tặng bạn tôi. Dành ru bạn tôi
giấc ngủ cuối cùng... và mãi mãi...
Trong khoảnh khắc này của đêm giao thừa, bài hát nghe ra có một
cái gì thật là kỳ dị. Nó không thích hợp chút nào với những giây phút cuối cùng
của năm - lúc mà theo lẽ thường mọi người đang náo nức xôn xao, với những hy vọng,
niềm tin vào một năm mới nhiều may mắn, với những dự tính ước mơ, những kế hoạch
đầy triển vọng. Nhưng nó thật sự gây xúc động. Những người lính của đại đội tải
này khi nghe bài hát, thấy nó như nói về chính bản thân mình. Và đôi mắt họ
long lanh trong ánh lửa. Có phải là nước mắt? Hay chỉ là do một hạt bụi vô tình
theo gió bay vào làm khóe mắt xốn xang?...
Huy đã hát tới khúc cuối của bài hát... "Hãy hát lời lửa
cháy bằng trái tim tình yêu. Hãy hát lời tình yêu bằng trái tim lửa cháy. Hãy
hát lời lửa cháy bằng trái tim yêu thương. Hãy hát lời yêu thương bằng lửa cháy
trong ta..." Lòng Huy cũng đang bừng bừng bốc cháy. Ngọn lửa thương yêu,
tiếc nuối và đau đớn sôi lên thiêu đốt trái tim anh.
Sau đó, tới lượt Minh, lính cuối 84, người Thành phố. Anh ôm
đàn la lên:
- Thôi, không hát mấy bài buồn nữa nghe, muốn đứt gan đứt ruột
rồi. Nhảy đi các bạn! Soul nghe! Giật soul dễ ẹt, cứ tán loạn lên là được.
Tiếng đàn vang lên thôi thúc, tưng bừng. Một vài tay bước ra
giữa vòng tròn khơi mào cuộc nhảy múa. Những bước chân quay cuồng bên ánh lửa bập
bùng. Rồi cả bọn đều đứng lên vào cuộc. Có người ôm theo cái can hoặc cái xoong
vừa nhảy vừa gõ đập. Ðêm rung lên trong những âm thanh khuấy động. Trên bầu trời
mênh mông thăm thẳm, những vì sao lóng lánh xa xăm dường như cũng đang nối nhau
trong một khúc luân vũ yểu điệu nhịp nhàng.
Ðêm đã rất sâu. Có lẽ chỉ còn dăm chục phút nữa là tới thời
điểm giao thừa. Trường hí húi lắp lại pin vào chiếc máy thu thanh nhỏ xíu hiệu
National của anh. Chiếc máy chỉ được nghe mỗi ngày một tiếng, ở những giờ có
chương trình ngâm thơ và kể chuyện đêm khuya. Bầu không khí cũng trầm lắng xuống
không biết tự lúc nào. Toàn bộ doanh trại khối Trung đoàn bộ lặng im. Mọi người
chỉ trò chuyện, tâm sự với nhau một cách khẽ khàng như không dám làm rạn vỡ những
giây phút thiêng liêng. Huy ngồi bó gối, gục đầu xuống, cảm thấy thân thể anh
đang xoay tròn, rơi rơi mãi xuống một vực sâu mà không tới đáy. Anh đã uống khá
nhiều rượu nặng, đã nôn mửa mấy lần từ khi nãy cho tới khi chỉ còn nôn ra được
một chút chất lỏng lầy nhầy, đắng nghét. Chí Phèo lay lay vai Huy:
- Huy, Huy, mày cố uống tí nước trà cho giã rượu nè.
Huy lúc lắc đầu, rồi ngã vật ra, nằm co người lại. Anh vẫn
nghe thấy những tiếng nói lao xao, văng vẳng, nhưng chân tay thì rã rời, mềm
như bún. Anh nằm mơ màng, nửa tỉnh nửa mê như vậy không biết bao lâu. Bỗng anh
nghe một tràng AK chát chúa. Rồi một tràng nữa. Rồi tiếng súng, tiếng cối pháo
nỗ rền rền khắp mọi nơi. Huy mở mắt ra, cố gượng chống tay ngồi dậy. Trên trời,
màn đêm mênh mông bị rạch nát bởi những đường vạch đỏ rực đan chéo vào nhau như
những cánh sao. Khói súng tỏa mù như sương và hăng nồng trùm lên bầu không khí.
Ở góc chân trời, đạn cầu vồng phát hỏa bùng lên thành những cụm sáng đủ màu, những
giải sáng vàng chanh pha đỏ, những giải màu cam tươi, xanh lá thẫm chuyển sang
lam, và phía ngoài cùng là màu tím ngát chìm hẳn vào màn đêm thẳm. Âm thanh, sắc
màu như cùng cất tiếng hát và đang nhảy múa. Ðêm đẹp rực rỡ. Một cái đẹp hoang
sơ man dại. Những tràng pháo hoa đón giao thừa Xuân 1985 đã òa vỡ, vang lên ở một
góc rừng tây bắc Campuchia như vậy đó.
Chú thích:
1. Cách gọi hình tượng của lính chỉ loại chén quân dụng to bằng
sắt.
2. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi: "... tướng sĩ một
lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào".
Những ngày cận Tết ở rừng trôi qua chậm chạp. Buổi sáng kéo
dài. Buổi trưa lê thê. Buổi chiều đến uể oải, đi dùng dằng. Và đêm như không
bao giờ hết.
Rừng thật vắng và yên tĩnh, ra khỏi khu vực đơn vị dừng chân
tập kết vài trăm mét, chỉ còn tiếng gió âm u. Ngự trị toàn bộ không gian là lặng
im tuyệt đối. Chỉ đôi khi, tiếng AK điểm xạ hai vọng về từ đâu đó rất xa. Mùa
xuân, nhưng cánh rừng quá lặng lẽ buồn rầu. Dường như những chồi non vẫn còn
thiếp ngủ đâu đó trong những nách lá già nua. Dường như chim chóc đã rủ nhau đi
chơi xa đâu đó chưa về kịp. Những thân cổ thụ nâu sẫm, xanh mốc rêu, xam xám...
kiên nhẫn khoác lớp áo lá úa vàng không sinh khí. Chúng đứng kề bên nhau trong
lặng lẽ. Thỉnh thoảng, ở cây này, cây khác, một cành khô chết từ lâu chợt răng
rắc vặn người, rồi tức tưởi lìa thân trong cơn gió xoáy. Những cành lá trên tầng
cao của rừng chợt lao xao một lúc, như thể cất tiếng thở than tiễn biệt một người
bạn mới qua đời.
Ðôi khi, trong đêm khuya, chợt một hồi sấm rền rền vọng lại,
mưa đã rơi ở đâu đó xa xôi, một cơn mưa giông trái mùa thỉnh thoảng xuất hiện
trong những khu rừng nhiệt đới. Ban ngày, không khí oi nồng và khô hạn, cả những
cơn gió cũng nóng rãy như hơi nước tỏa ra từ một nồi nước sôi khổng lồ. Chập tối
trở đi, nhiệt độ giảm dần. Rồi từ khoảng chín giờ đêm cho tới sáng, cái lạnh đột
ngột ùa đến - một cái lạnh tê buốt đến xương. Thời tiết ở đây thay đổi bất thường,
nghiệt ngã. Xuân ấm áp, khoan hòa và dịu dàng chưa đến. Nhưng dường như vẫn có
một cái gì không rõ đang âm thầm cựa quậy, đang rạo rực chuyển mình trong từng
tảng đá, thân cây, hay bên dưới lòng đất ấm. Dường như mọi sự vật đang chuẩn bị
để chờ ngày ùa ra, nở rộ, khoe bày sức sống, cất lên tiếng hát không lời bất
khuất, ngợi ca cuộc sống tươi đẹp vĩnh hằng.
Ðại đội dựng lều dã chiến rải rác ở một góc khu rừng. Những
chiếc lều làm cho bức tranh phong cảnh buồn thiu tẻ nhạt nơi đây chợt có một
chút gì ngộ nghĩnh, vui vui. Chúng như những nét cọ ngẫu hứng, phá tung bố cục
đơn điệu của những cụm cây xanh lướt buồn rầu và bãi cỏ vàng khô cháy. Lều, hay
nói đúng hơn, chỉ là những cái chòi nhỏ, được dựng rất giản dị xuề xòa. Cột lều
là bốn thân cây rừng cỡ bắp tay, hai dài hai ngắn, tạo thành một mái xuôi. Bốn
phía lều trống trơn. Mái lều là mấy tấm tăng ghép nối nằm bên dưới, bên trên phủ
những cành lá, những túm cỏ tranh. Nhìn xa, trông chúng như những chiếc nhà
chòi của trẻ con làng quê dựng lên để chơi trò bán mua, cưới hỏi... Ðôi khi,
vài con sẻ rừng lông xám hiếm hoi rong ruổi lang thang qua góc rừng, chợt sững
lại ngạc nhiên, tròn xoe đôi mắt. Chúng đậu trên một cành cây rậm rạp, nép thân
người sau đám lá um tùm và kêu lên chí chóe. Như thể chúng hỏi han nhau:
"Dưới kia, ở giữa đám cỏ tranh vừa xuất hiện cái gì lạ thế?" Chúng
xôn xao bàn tán, âu lo không biết giống chim khổng lồ quái dị nào đã tới đây
xây những cái tổ kỳ khôi và xấu xí thế kia. Rồi cuối cùng, sau một tràng tiếng
kêu rít cao hốt hoảng, chúng bay vù mất, bỏ lại những chiếc lá đung đưa rất khẽ
vì giận dỗi và luyến tiếc những người bạn sao quá đỗi vội vàng.
Những túp lều của Trung đội hai nằm dưới một khóm ba gốc dầu
già cỗi mọc gần nhau. Khi gió nổi lên, hoa dầu lại từ trên cao xoay xoay bay xuống,
rắc đầy trên lớp cỏ úa vàng những đôi cánh chuồn nâu. Huy ngồi phía ngoài lều,
hí hoáy ghi ghi chép chép. Lâu lâu, một cánh hoa dầu lại tình cờ đáp xuống vai
anh.
Chí phèo, trung đội phó, ngồi cách đấy không xa, anh đang mài
dao trên một phiến đá hình bán nguyệt. Chí liếc nhát cuối cùng qua phiến đá,
đưa ngón tay trỏ gậy khẽ lưỡi dao, gật đầu tỏ vẻ hài lòng. Anh cất tiếng bâng
quơ:
- Vậy là sắp tới cái tết xa nhà lần thứ bốn...Mẹ kiếp! Tết với
nhất gì ở cái rừng khô này!
Huy ngẩng đầu nhìn Chí phèo. Câu nói của Chí làm anh chợt nao
nao. Ngày mai đã là Tết rồi. Huy đưa mắt lướt qua những khóm cây mọc lưa thưa,
qua trảng cỏ trống, hướng tới cụm rừng dày âm u xanh thẫm phía xa. Chẳng có gì
báo hiệu cho mùa xuân cả! Mùa xuân ắt là đã lạc đường không tới được nơi đây.
Dạo mới sang, Huy đã từ trạm chỉ huy tiền phương của mặt trận
đi thẳng lên tuyến trước theo ngõ Sàm-rông, băng qua một cánh rừng nằm chếch hướng
Tây, cách Sàm-rông chừng một buổi hành quân. Quanh bìa rừng mọc đầy những cội
mai núi già cỗi, bấy giờ trời lại đang vào tiết lập xuân, hoa mai bừng nở chi
chít trên cành, vàng rực lên trong nắng. Màu vàng hoa mai lúc nào cũng nhắc những
người con đi xa nhớ những ngày cận tết ở quê hương.
Huy nhét cây viết vào túi áo, ngồi ngẩn người, trong đầu anh
một chuỗi ý nghĩ, hình ảnh lướt nhanh qua.
Mùa này, trong những khu vườn ngoại ô, mai đã được bứng lên
cho vào chậu, được tỉa tót, uốn sửa lại và chở vào bày bán trên những vỉa hè
hay khu chợ trung tâm thành phố. Chợ tết chắc cũng đang vào lúc tưng bừng, nhộn
nhịp, với đủ hoa trái, sắc màu.
Nào những bông cúc đại đóa trắng, vàng, tim tím, xanh lơ nằm
chen vai bên thược dược đỏ, hồng. Nào những đóa hồng kiêu sa rung rinh trong nắng
sớm kề bên những cụm vạn thọ bình dị, thân quen; và hoa đào đỏ thắm; và mẫu
đơn, lay-ơn muôn sắc muôn màu; và huệ trắng, huệ lam...Có đến trăm loài hoa đua
nhau khoe sắc khoe hương. Rồi còn bao nhiêu là bánh mứt, bao nhiêu là thứ trái
cây đua nhau phô vẻ hấp dẫn, ngon lành...
Ôi, quê nhà! Nhớ làm sao những con đường, những khu chợ hoa
chợ tết tràn ngập người qua kẻ lại, hội tụ biết bao nhiêu nàng thiếu nữ mắt
sáng môi hồng, đẹp như tranh vẽ; những ngọn gió đầu xuân nhẹ vờn trên tà áo mỏng,
trên những lá non, lộc biếc lao xao; hương thơm của muôn hoa, hương vị ngọt
ngào của trái cây, bánh mứt, hương tóc của một ai đó vừa đi qua thoảng lại.
Nhớ làm sao Sài Gòn những ngày cuối năm náo nức rộn ràng; những
con người quen lạ với mắt sáng môi cười ánh lên niềm vui, hy vọng vào một năm mới
nhiều may mắn, phúc lành hơn...
Hôm qua, Huy đã đi ngược xuống hướng đông mấy cây số, mong
tìm được một cành mai mang về mừng đón giao thừa. Anh đi mãi, lùng đỏ mắt,
nhưng chỉ thấy có mỗi màu vàng héo úa của lá khô. Rừng phía trên này không có
mai, thật lạ, rừng mai mà anh đã đi qua chỉ cách đây khoảng ba mươi cây số. Huy
tự nhủ: Chả lẽ bây giờ cuốc bộ sáu mươi cây cả đi lẫn về chỉ để kiếm một cành
hoa? Vả lại, đại đội trưởng Thái đã có lệnh không được đi xa nơi tập kết quá
năm cây. Cuối cùng, Huy đành phải quay về, thất vọng. Anh nghĩ, không có hoa,
không có làn khói mỏng manh, thoang thoảng mùi thơm của những nén nhang thắp
lên, không khí của giây phút chuyển tiếp từ năm cũ sang năm mới sẽ kém phần ấm
áp, thiêng liêng. Nhưng biết làm sao, lính mà, lại ở tận trong rừng, đang trong
thời điểm chuẩn bị cho đợt hành quân cơ động mới, đành phải chấp nhận những cái
đang có mà thôi.
Tuy nhiên, đêm giao thừa này, đêm giao thừa đầu tiên xa nhà của
Huy, cũng hứa hẹn những điều cực kỳ hấp dẫn. Toàn trung đoàn đều có rượu, không
biết mấy tay lính cũ đã xoay xở cách nào hay vậy! Tiểu đội nào cũng có ít nhất
là một can vàng bốn lít. Ðêm nay, Huy sẽ được thưởng thức cái thú vui đầy nam
tính, hào sảng như những vị anh hùng hảo hán trong truyện Tàu xưa, sẽ được hai
tay bưng cái bát B52 1 đưa lên miệng, ngửa cổ uống một hơi dài, để rồi nghe người
mình lâng lâng, ngây ngất.
Huy chưa từng uống rượu. Anh chỉ nghe nói về cái cảm giác kỳ
lạ do nó gây ra, và thấy cũng hay hay. Ðêm nay, đêm nay mình sẽ như người xưa,
vừa bưng bát rượu, vừa đọc bài thơ bi tráng, hào hùng của Vương Hàn:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
(Tạm dịch : Rượu đào chung ngọc dạ quang
Chưa vơi đã rộn tiếng đàn xuất quân
Say lăn lóc giữa sa trường
Bạn đừng cất tiếng cười khan lắc đầu
Xưa nay ra chốn binh đao
Mấy ai biết được ngày sau có về).
Lại còn có một cái khác, vô cùng thú vị, mà toàn bộ các tay
súng của ba tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị trực thuộc trung đoàn đã bí mật
giao kết với nhau: đốt pháo hoa đón giao thừa. Pháo hoa ở đây, nơi trận địa
này, sẽ được tạo ra bởi các loại đạn lửa khác nhau. Ðạn lửa sẽ đan kết thành những
bông hoa trên bầu trời chiến địa. Và những người lính sẽ không còn cảm giác xa
cách quê hương. Ðạn tiểu liên, đạn đại liên K.57, 12,7 là những tràng pháo chuột,
pháo trung, và đạn cối 60, cối 82...sẽ là những tiếng pháo đại điểm nhịp cực kỳ
ấn tượng! Ðây là một sự vụ khá là nghiêm trọng, vì quân lệnh nghiêm cấm bắn
súng bừa bãi. Nhưng vừa rồi đánh chiếm Ampil, quân ta thu được rất nhiều đạn dược
các thứ. Lính chiến mà, đôi khi cũng phải chơi cho ra trò như vậy chứ.
Ðại đội tải của trung đoàn có quân số tổng cộng lên đến xấp xỉ
sáu mươi người. Con số này lớn hơn nhiều so với thực lực của các đại đội chiến
đấu, nhất là đang trong mùa chiến dịch. Một phần vì quân số của nó ít biến động.
Thêm nữa, đại đội đã được bổ sung quân số hồi cuối năm để đảm bảo thực hiện thật
tốt công tác tải đạn cáng thương phục vụ cho các đơn vị trực tiếp tác chiến.
Hôm mới về trung đoàn nhận nhiệm vụ, Huy đã được phân công về
đại đội này. Ðại đội trưởng Thái vui vẻ tiếp nhận Huy. Anh tạm thời bổ nhiệm
Huy làm tiểu đội phó tiểu đội ba, trung đội hai. Anh cũng nói sơ qua về nhiệm vụ
vai trò của đại đội trước nét mặt ỉu xìu thất vọng của Huy. Huy chán nản khi biết
mình không về một đơn vị trực tiếp chiến đấu, mà là đơn vị phục vụ, trong một
trận đánh lớn lao như vậy. Trên đường sang đây, lúc nằm ở quân trạm thị xã
Batđomboong, Huy gặp một sĩ quan người Thanh Hoá đi phép ngược về. Khi nghe Huy
nói sẽ về Sư đoàn X, anh bảo đây là một sư đoàn đã hai lần được phong anh hùng,
anh cũng nói thêm: "Về đó khá là vất đấy! Tôi từng ở dưới bộ binh tiểu
đoàn của sư đó mấy năm..." Huy đã hình dung ra những trận đánh vô cùng kịch
liệt hào hùng, tương tự như trong những bộ phim lịch sử nổi tiếng anh từng xem
ngày trước. Những trận đánh kinh thiên động địa, đầy máu và hoa, đầy tính anh
hùng ca lãng mạn. Huy tưởng tượng, gần như ao ước, mình sẽ lập được một chiến
công gì đó, nho nhỏ thôi, và cũng sẽ bị thương qua quýt gì đó, bị thương nhưng
vừa phải thôi, đừng mất đứt một chân hay một tay, một mắt... để sau này về còn
có vài cái sẹo làm kỷ niệm! Vậy mà bây giờ... Thái đoán được ngay những ý nghĩ
của Huy, anh động viên:
- Cậu đừng tưởng đây là công việc nhẹ nhàng đơn giản. Nó cũng
khá căng, vất vả và nguy hiểm đấy, và cũng là một công tác vô cùng quan trọng cần
thiết. Nếu không có chúng ta, các đơn vị lấy đâu ra đạn dược để chiến đấu, ai
là người chuyển các thương binh, tử sĩ về tuyến sau? Thực tình thì nó cũng hơi
buồn tẻ hơn là trực tiếp cầm súng, nhưng là lính, chúng ta phải hiểu dù ở bất cứ
cương vị, chỗ đứng nào, thì cái đánh giá chúng ta là tinh thần công tác, chứ
không phải là hình thức. Với lại, cậu vừa mới sang đây, chưa có kinh nghiệm gì,
chưa quen với điều kiện chiến trường, nên trên mới đưa cậu về đây để thử thách,
làm quen. Cậu cứ yên chí, sớm muộn gì, cậu cũng sẽ về đơn vị chiến đấu. Lúc đó
chỉ sợ cậu lại không đủ can đảm, ý chí mà đứng vững thôi!
Thế là Huy vác ba lô về trung đội hai. Và đã nếm trải trận
đánh đầu tiên của đời lính ở đại đội này.
Ở lều bên cạnh, Trường, trung đội trưởng, vừa lên xong kế hoạch
cho ba ngày Tết. Anh đã sắp xếp, phân bố lại toàn bộ các thức ăn hiện có: vài
chục lon cá hộp Thái trung đoàn cấp lại sau khi thu được ở Ampil, thịt heo đóng
hộp của ta, khô cá lóc bông, ruốc cá, bánh kẹo, thuốc lá hậu phương gửi sang...
để mỗi ngày Tết đều vừa đủ thức ăn thết đãi khách khứa, đồng hương, vừa dành lại
một phần nhỏ cho những ngày sau đó. Anh bước ra khỏi lều, cất tiếng gọi Nhu,
anh nuôi trung đội, đang ngồi nhặt thóc phía bên kia lại, giao cho Nhu tờ giấy
anh đã liệt kê chi tiết. Chí phèo gọi giật Nhu tới, cầm lấy tờ giấy đọc qua, rồi
nói như quát với Trường:
- Sao mày lo xa thế. Lính là phải chơi xả láng, hết mình,
chơi cho đã rồi mai có chết cũng không còn phải tiếc gì! Thằng Nhu đừng có nghe
nó, cứ việc đem ra nấu hết trong ba ngày Tết cho tao!
Nhu nhìn Trường, rồi lại nhìn Chí phèo, không biết phải nghe
ai. Anh nghĩ bụng, có phần thiên về phía Chí phèo: "Ông nào cũng có lý.
Thôi cứ tới ngày nào tính ngày đó, hơi đâu mà nghĩ ngợi cho lắm."
Chí phèo càu nhàu thêm vài câu, rồi gọi to:
- Mấy thằng được phân công lấy củi hôm qua đâu, theo tao!
Theo hội ý hôm qua, bữa nay tới phiên Hòa, Huy, Phước, Danh
đi lấy củi để đốt lửa trại đón giao thừa. Mọi người lấy dao rựa rồi tập họp lại
trước cửa lều. Chí phèo lại hét:
- Lên đường!
Trường nhìn theo cười khẽ, không có vẻ gì bực tức. Trường đã
quá hiểu Chí phèo, ngay cái biệt danh cũng đã nói lên tính cách của anh. Chí
phèo nói đó rồi quên đó, ruột để ngoài da, cứ hùng hổ làm như sắp nhảy xổ vào
người khác vậy chứ thật ra lại rất đa sầu đa cảm và tốt bụng.
Dạo mới về Phnom S'rok, có một lần Trường và Chí phèo đi xắn
măng rừng, chợt Trường bị một viên đạn mồ côi ở đâu rơi xuống xuyên qua bắp
chân trái. Vết thương chỉ ở phần mềm, không nguy hiểm, nhưng máu ra khá nhiều.
Chí cuống quýt bứt vội mấy cọng dây rừng quanh đó, rồi móc cái khăn tay của người
yêu tặng ra, đè lên vết đạn băng bó lại cho anh. Cái khăn này Chí phèo rất quý,
chỉ cất trong túi áo chứ không khi nào đem ra lau mặt. Nhưng cái khăn quá mỏng,
máu vẫn ứa ra đẫm ướt ống quần. Lúc đó hai người cách trại khoảng ba cây số,
Chí phèo dìu anh đi một đoạn khoảng hai trăm mét, rồi thấy máu cứ rỉ ra, Chí
nói: "Thôi để tao cõng mày. Mày đi, động vết thương mất máu nhiều nguy lắm."
Rồi Chí xốc anh lên vai, hì hụi cõng anh từ đó về đơn vị.
Một lần khác, Phước lên cơn sốt ác tính, người cứ co giật thấy
thương quá chừng, Chí vừa nằm ôm lấy nó đè xuống, vừa nước mắt nước mũi chèm
nhèm. Phải nói trong trung đội, Chí phèo thương nhất là Phước. Cả hai đều mồ
côi cha mẹ từ nhỏ, đều chịu nhiều vất vả, nên dễ đồng cảm với nhau. Có những
đêm, hai người nằm rì rầm nói chuyện suốt, làm Trường phát bực, phải quát lên:
"Hai thằng mày còn sống với nhau dài dài, có phải là một ngày một bữa mà
nói cho lắm thế! Ngủ đi, cho người khác ngủ!"
Trường nghĩ tới đó chợt thấy buồn buồn, nhớ những chuyện xa
xôi. Ðã hai năm rồi anh không biết chút tin gì ở quê nhà. Bố mẹ anh đều đã qua
đời. Hai ông anh, người thì lên mạn Cao Bắc Lạng làm rừng, người thì vào tận
Tây Nguyên khai khẩn đất hoang, chẳng biết giờ làm ăn, sinh sống ra sao. Còn
An, người con gái vùng Thanh có cặp mắt đen lay láy, đôi má cứ ửng hồng lên mỗi
lúc gặp anh dạo mới quen nhau, từ sau lá thư cuối cùng, với những câu úp mở,
quanh co, ngụ ý khuyên anh hãy quên đi những chuyện ngày xưa cũng đã im lặng,
không hồi đáp những lá thư đầy âu lo, ray rứt của anh.
Giờ cô ấy ở nơi đâu, sống ra sao? Có khi nào cô nhìn ra cánh
đồng chiêm trổ đòng vàng óng mà nhớ tới buổi chiều cùng anh thề sẽ sống bên
nhau mãi mãi?...
Thật ra, Trường không hề giận trách gì An. Cô hẳn phải có những
lý do để làm như vậy. Vả chăng, chính Trường cũng có nhiều lúc định nói lời
chia tay với cô, ngay trước khi nhận được lá thư đau xót ấy. Ðó là những giây
phút bàng hoàng, trống vắng sau một trận đánh căng, có người đổ máu và có người
ra đi mãi mãi. Những lúc ấy Trường chợt nghĩ biết đâu lần kế đó sẽ là chính
mình. Và anh mường tượng tới sự đau đớn tột cùng của An khi nhận được một tin dữ
từ đồng đội của anh. Thế là anh viết những lá thư ngắn, với những câu khô khan,
phi lý, có khi còn nặng nề xúc phạm cô, để mong cô sẽ giận, và sẽ quên anh.
Nhưng rồi sau đó bình tỉnh lại, Trường xé nát những lá thư
này. An đã trở thành một phần không thể tách rời với vui buồn, với thương yêu
tràn ngập trong anh. Anh không thể, không có đủ can đảm để làm cô buồn phiền,
đau đớn chỉ vì một điều chưa xảy đến, một điều biết đâu sẽ không bao giờ xảy đến...Trường
chỉ thấy lòng đau nhói, và buồn vì An không nói rõ nguyên do, để anh khỏi phải
thắc mắc suy diễn lung tung. Anh hiểu cô có những điều khó nói, anh hiểu không
nên thắc mắc mà chỉ nên chấp nhận một sự thật vô cùng đơn giản, là đã mất An,
và tốt nhất là hãy quên đi mọi chuyện. Nhưng sự mâu thuẫn của tim anh, cũng như
sự mâu thuẫn đời đời trong trái tim của loài người, là biết rất rõ cách tốt nhất
để chữa trị vết thương lòng, nhưng vẫn cứ hành xử những điều ngược lại, cứ tự
mình khoét sâu, chọc mãi vết thương.
Trường thở một hơi dài, lắc mạnh đầu như để xua đi những ý
nghĩ nặng nề. Anh vào lều xách con dao bản to để chặt cây rừng ra, bước tới đống
cây khô làm củi. Anh vung dao lia lịa, phạt đôi những thân cây khô, cho đến lúc
đống cây đã vợi hẳn đi, và mồ hôi đã ròng ròng ướt đẫm chiếc áo xanh bạc phếch.
Cả bọn đã chặt được khá nhiều củi khô, toàn là những cành dầu,
sao chắc nịch. Họ bó phần của mỗi người lại thành hai bó, cột ràng thật chặt, rồi
chọn một cành thẳng làm đòn gánh xỏ qua, gánh về.
Huy đi chân nam đá chân chiêu như người say rượu. Chí phèo cứ
nhìn dáng bộ của Huy mà cười thầm trong bụng. Anh tự hỏi tại sao người ta lại
tuyển mộ một tên nhỏ con ốm yếu, thư sinh trói gà không chặt như Huy vào quân đội.
Lại còn là khẩu đội trưởng hỏa lực nữa chứ! Bộ thằng này mà xiết chừng nửa
thùng 12 ly bảy chắc mặt không còn chút máu! Anh cất giọng chế nhạo Huy:
- Tao không hiểu sao họ lại chọn một thằng thư sinh trói gà
không chặt như mày cho học hỏa lực đó Huy. Chưa hết, tướng mày đâu phải tướng
con nhà lính. Tướng mày chỉ có nước ngồi bàn cạo giấy mà thôi!
Huy trả đũa:
- Ðừng trông mặt bắt hình dong anh Chí ơi. Chứ như anh cũng
đâu phải là tướng lính. Nom mặt mày của anh, chỉ có về làng Vũ Ðại vạch mặt ăn
vạ là hợp thời trang nhất đó!
Hòa chợt cười khe khé như ngựa hí, quay qua hỏi Chí phèo:
- Ông Chí phèo, ông còn nhớ vị nước trà thằng Huy pha hôm nó
mới về không...hí hí...Cái đó người ta kêu bằng pha trà kiểu "tướng sĩ một
lòng phụ tử" 2 đó nghe!
Huy bật cười. Cả bọn cũng cười theo hô hố. Hôm đó, Chí phèo
đưa cho Huy một gói trà, bảo đem pha. Huy ra bếp nấu một nồi nước to, rồi trút
hết gói trà vào. Trên kia đã nghe tiếng Chí la oai oái:
- Huy đâu rồi, có ấm trà mà mày làm gì lâu thế!
Khi thấy Huy lễ mễ bê nồi nước lên, Chí phèo giật mình kinh
ngạc:
- Mày bưng nồi nước lên làm gì vậy Huy?
- Thì anh kêu em pha trà mà - Huy thản nhiên đáp.
- Có chút xíu trà mà pha nguyên nồi nước vậy sao! - Chí phèo
trợn mắt – Trời ơi, đúng là ngu không chịu nổi!
- Vậy chứ làm sao? - Huy nổi cáu.
- Nè, Hòa, mày về huấn luyện lại lính mày cách pha trà nghe.
Lần sau mà còn thế này là tao không tha mày đâu. Hừ! Toi mất gói trà rồi - Chí
nhăn mặt - Ðâu đem cái nồi lại tao xem!
Thì ra, pha trà ở đây khác với ở nhà! Ở đây, lính tráng quen
uống thứ "trà quạu" pha thật đặc. Như gói trà của Chí, chỉ pha độ một
phần ba bi đông nước. Thế mà Huy tống vào cái nồi cả hai lít nước sôi.
Rõ ràng, trong cuộc sống lính chiến ở đây có biết bao điều mới
lạ Huy chưa từng biết đến. Anh ngơ ngác với mấy từ lạ tai cánh lính cũ dùng.
Trong đó, có những từ nghiêm chỉnh, cũng có từ lóng mà mấy tay ma cũ hay lấy nó
để trêu mấy con ma mới tò te. Khi Huy mới vừa chân ướt chân ráo về tới nhà
trung đội, chưa kịp khô mồ hôi, cả đám lính cũ đã nhao nhao bu lại. Người này
nhìn anh như người ta nhìn một con gà giò trong lồng tre ngoài chợ, đánh giá
xem nó có dễ bị toi không, có thể thành một con gà trống hiên ngang, đủ tài
chăn dắt lãnh đạo cả bầy gà mái hay không. Người khác đưa tay nắn nắn bắp tay,
bắp chân Huy rồi bĩu môi lắc đầu khi dễ. Tự ái Huy nổi lên đùng đùng. Dù gì,
người ta cũng qua hết chín tháng quân trường, rèn ngày rèn đêm đến da đen cháy
như than, thịt săn cứng như củi, chứ đâu là loại bở. Chỉ có cái Huy nhỏ con và
hơi ốm thôi mà! Rồi một tay mặt mày bậm trợn, râu tóc bờm xờm, sau này mới biết
là anh Chí nhà ta, vừa cười nhe trọn hai hàm răng ám đen khói thuốc lào, vừa
ranh mảnh nháy mắt với Huy:
- Trung đoàn có cấp tiền "xốc lọ" cho mày chưa vậy?
- Tiền xốc lọ là tiền gì? - Huy thực sự ngơ ngác.
Tay bậm trợn giải thích một cách đáng ngờ:
- Ðó là một loại trợ cấp cho lính mới sang. Mai mày lên tài vụ
trung đoàn hỏi đi nghe - Anh ta vờ vịt - Sao kỳ vậy cà! Lẽ ra họ phải cấp cho
mày rồi mới đúng chứ!
Cả bọn cười ầm lên. Huy nhìn họ, hai mắt tròn xoe như một con
nai vàng chính hiệu. Huy hỏi mãi nhưng chẳng ai chịu nói rõ ràng, chỉ hàm hồ ú ớ
đó là một món tiền rất ư hấp dẫn, không lấy là uổng cả nửa cuộc đời! Mấy bữa
sau, Danh mới chịu cười nắc nẻ giải thích cho Huy. (Xin độc giả thứ lỗi vì lời
giải thích đưa ra đây có phần hơi bất tiện!) Chiều hôm đó hội ý, Huy lại thêm một
phen ngạc nhiên khi Trường nhắc nhở:
- Các đồng chí nhớ giao ca cho đúng giờ giấc. Ðừng có ăn gian
nhau dăm mười phút mà anh em xích mích...
Huy nhìn quanh một lượt, chẳng thấy ai có đồng hồ cả. Anh hỏi:
- Ở đây không có đồng hồ, làm sao biết giờ cho đúng?
Trường giải thích:
- Chúng ta sẽ nhìn sao để đoán giờ. Từ từ rồi Huy sẽ quen
thôi. Ví dụ như chập tối là sáu giờ rưởi, thì sao Hôm mọc. Rồi ta sẽ xác định một
điểm mốc so với ngôi sao, một ngọn cây chẳng hạn. Một tiếng đồng hồ, thì ngôi
sao sẽ di chuyển so với vị trí lúc đầu khoảng một gang tay...
- Một gang tay?
- Tức là em sẽ duỗi thẳng tay ra, rồi xòe tay trước mắt để ướm
khoảng cách đó.
- Ạ, ạ.... - Huy gật gù thú vị.
Lần khác, vài hôm sau đó, Huy cảm thấy trong người tự dưng lừ
đừ khó chịu, buồn ngủ lạ lùng. Khi đó, đang ém quân chờ đến ngày tấn công, nên
cũng không có công tác gì, Huy nằm ngủ li bì. Chí phèo vội đánh thức Huy, anh bảo:
- Mày không nên ngủ nhiều lúc ban ngày. Nếu thấy khó chịu thì
kiếm chuyện làm cho đổ mồ hôi. Ngủ ngày nhiều trong rừng dễ bị sốt lắm đó...
Ðại loại những tri thức nhỏ nhoi, đơn giản như vậy làm Huy
luôn cảm thấy bất ngờ và thích thú. Mỗi ngày Huy lại học được thêm vài điều mới
lạ...
Vừa đi, vừa chuyện trò đùa cợt, chẳng mấy chốc họ đã về tới
nơi đóng quân. Mọi người xách mấy cái bi đông ra tắm, chuẩn bị thân người sạch
sẽ thoải mái để chào đón giao thừa. Nước này phải tải về từ một nơi khá xa. Do
đó, họ tiết kiệm bằng cách tắm "một bi đông". Nghĩa là chỉ tắm trong
phạm vi giới hạn bao nhiêu đó nước. Trước tiên, họ đặt sát cái bi đông lên đầu,
dốc ngược, để cho nước chảy rỉ rả vừa đủ ướt toàn thân. Rồi kỳ cọ. Rồi lấy khăn
lau. Rồi lại cho nước rỉ rả qua thêm lần cuối, trở mặt còn sạch của khăn lau lại.
Nói cho đúng thì cũng chả khác gì nhúng nước chiếc khăn rồi lau người. Nhưng
làm kiểu này khoái hơn và dễ chịu hơn. Sau đó, mọi người trở về tiểu đội ăn cơm
tối. Ðêm đã bắt đầu buông xuống.
Huy bàn giao ca gác cho Vũ rồi quay trở về lều. Sao Cày đã ló
ra sau ngọn cây dầu độc mộc, tức là khoảng chín giờ đêm. Trời lành lạnh, một thứ
lạnh nao nao khó tả. Bầu trời đêm xanh đen thăm thẳm trên đầu chi chít những
sao. Ðêm giao thừa xa nhà xa quê đầu tiên của Huy đang chầm chậm trôi qua, vô
tình không biết nó đã mang về cho Huy biết bao suy nghĩ, biết bao cảm xúc vui
buồn, nhớ thương lẫn lộn.
Lúc nãy ngồi một mình trong ụ gác, anh đã điểm lại trong đầu
bao nhiêu hình ảnh...
Buổi chiều cuối cùng trước lúc đi xa, má Huy đã đứng lặng bên
đường khi anh nhảy vội lên chiếc xe đò để quay về đơn vị. Khi xe lăn bánh, anh
chồm người ngó ra, vừa kịp thấy người đang giơ tay lên quẹt vội dòng nước mắt.
Má đã cố kềm nén tiếng nấc, kềm nén dòng lệ để anh khỏi phải nao lòng, nhưng rồi
lúc ấy anh cũng đã nhận ra người buồn đau đến mức nào khi phải xa anh, không biết
đến bao giờ...
Huy nhớ bé út với đôi mắt tròn xoe. Ngày anh đi nó vừa tròn bốn
tuổi. Có một lần Tường Vân, cô lớp trưởng, tới nhà anh chơi, bắt gặp anh đang bế
bé út đùa giỡn đã khen nức nở: "Trời, con bé có đôi mắt ngộ ghê! Sau này
chắc làm khối anh chết mệt!..."
Huy nhớ con đường đến trường có mấy cây phượng đỏ nở hoa rất
sớm. Những buổi chiều đi học về anh đã thả bước thật chậm để ngắm nhìn những
cánh phượng đỏ liêu xiêu rơi xuống... Rồi những lần anh và bọn bạn trốn học sang
La-san Mai thôn, Thanh Ða để tắm sông. Tụi anh lội qua phía bờ bên kia, nơi có
một cái cù lao nhỏ giữa dòng mọc toàn những cây dừa nước để bắt còng. Hồi đó, tụi
anh hay uống cà phê buổi tối. Thằng Hà xách túi còng bắt được về nhà nó rang, rồi
mang ra quán, tụi anh vừa tán dóc, vừa nhâm nhi còng rang với nước trà...
Huy nhớ những đêm giao thừa, khi bầu trời khuya trở nên xanh
nhạt, và những vì sao xa tít tắp hẳn đi, lư hương trên bàn thờ tổ tiên được đốt
lên, mùi trầm hương ngan ngát. Má anh sẽ bày thêm một mâm trái cây để mang ra
cúng trời đất trước hiên nhà. Nồi bánh tét kê ở góc sân cũng bắt đầu reo lên
vui vẻ, báo tin bánh đã sắp chín mềm. Aùnh lửa bếp sáng bập bùng, soi lên mặt đất
những bóng người to đen sẫm đang cử động lao xao. Bọn trẻ con tụ tập ngồi quanh
dây pháo đỏ, khe khẽ tán chuyện, hồi hộp chờ tới lúc những chùm pháo nỗ tạch
đùng, văng tung toé. Trong đêm mênh mang, một cái gì ấm áp, linh thiêng đang
lan tỏa. Nó bay đến, ghé qua khắp mọi ngôi nhà, nối một sợi chỉ mong manh vô
hình nhưng bền chặt giữa mọi tâm hồn lại với nhau. Có phải người ta gọi đó là hồn
thiêng đất nước?...
Những hình ảnh cứ lần lượt theo dòng liên tưởng ập về, xâm
chiếm toàn bộ trí não của Huy, dẫn anh về với những ngày qua, dù Huy vẫn mở mắt
trừng trừng nhìn ra cánh trảng trước mặt.
Huy chui vào lều, mở ba lô lấy cuốn sổ nhật ký, định ghi vội
vài dòng ý tưởng còn đọng lại sau ca gác. Nhưng rồi không biết nghĩ sao, anh lại
cất nó vào. Anh bước ra, đi về phía nhà trung đội.
Khắp các đơn vị, lửa đã đốt lên từ khi chập tối. Những đốm lửa
trại cháy chập chờn hắt sáng cả một góc rừng. Tiếng ca hát, la lối, reo hò, tiếng
gõ đập vào can nước, vào xoong nồi đánh nhịp theo lời hát văng vẳng khi xa khi
gần theo hướng gió. Cả trung đội đang ngồi vây quanh đống lửa, trừ những người
trực gác. Trường đang cầm cái can rượu đã vơi phân nửa rót vào bát, chợt ngước
lên trông thấy Huy. Anh kêu lên:
- A, vào ngồi đi đồng chí tân A phó A3. Mày đến sau, phải làm
luôn ba bát đấy.
Huy len vào ngồi xuống giữa Phước và Chí Phèo. Anh đưa tay đỡ
lấy bát rượu, mỉm cười nhìn quanh khắp mọi người, nói to:
- Xin mấy anh thông cảm, tôi chưa từng uống rượu bao giờ.
Nhưng cũng xin uống cạn một chén này chung vui với các anh.
Nói đoạn, Huy ngửa cổ từ từ trút bát rượu vào miệng. Hơi rượu
cay nồng bốc lên mũi làm anh muốn sặc. Hôm qua, anh đã nghe mấy tay bợm nói,
khi uống phải nín thở làm một hơi mới không bị sặc, nên đã chuẩn bị tinh thần
làm theo thật đúng. Vậy mà suýt chút nữa cũng không tránh khỏi. Tuy nhiên, Huy
cũng đã uống hết bát rượu thật ngọt. Xong, anh giao trả cái bát lại cho Trường,
chủ xị. Anh nhăn mặt, cảm nhận một luồng hơi nóng đang lan tỏa rừng rực từ bụng
ngược trở lên cổ, da thịt chợt nóng ran lên đến muốn toát mồ hôi, dù khí trời
khá lạnh. Hòa, A trưởng A3, đang ôm đàn hát những câu do một người lính nào đó
của trung đoàn cải biên từ bài Mùa xuân lá khô:
"Tôi trở lại vùng Sầm Bua, vùng xa xôi đóng gần núi Cườm.
Sau những ngày lo xây dựng, có những đêm đi phục chốt, tôi lại đi chiến dịch
K.5. Ngồi xe ra đến Xi phôn, an dưỡng ba ngày ăn nhậu thật là vui. Trong lúc
say, ai có đâu ngờ, quê hương từng giờ mẹ mong chờ tin con..."
Huy đưa mắt nhìn quanh. Dưới ánh lửa chập chờn khi mờ khi tỏ,
gương mặt ai cũng có một vẻ buồn buồn sâu kín, dù là đang cười nói xôn xao hay
ngồi im lặng lẽ. Hòa đã hát xong bài hát. Toàn bộ im lắng trong giây lát. Chỉ
còn nghe tiếng lửa reo, tiếng nổ tí tách của những chỗ thân gỗ bị ẩm mục. Những
lời hát này thật đơn sơ mộc mạc, nhưng nó như thuật lại cho bọn anh nghe về thời
gian vừa mới trôi qua, về cuộc sống, tình cảm, nghĩ suy chân thật của những
tháng ngày này.
Những người lính Việt Nam đang ngồi đây, hay đang ngồi trong
một khu trại nằm bên một cánh rừng, bên một bờ sông, con suối, trên một sườn
núi, đỉnh đồi chon von heo hút nào đó, trên khắp đất nước Campuchia này, hầu hết
đều còn rất trẻ. Những gương mặt xạm đen nắng gió vẫn còn lưu lại chút nét gì
đó trẻ con thơ dại trên nét cong vành môi tinh nghịch, lại cũng vừa già giặn ưu
tư trong những cặp mắt long lanh. Có người tuổi quân chưa tròn một năm, ngay
trước lúc khoác chiếc áo xanh vẫn còn nghịch ngợm giành quà bánh với em mình, vẫn
còn vô tư hò reo trong một cuộc đá dế, đá cá lia thia. Vậy mà, trong trận chiến
vừa qua, đã có một số người nằm xuống, mãi mãi ra đi; đã có những người khi ngã
xuống vẫn còn mở mắt trừng trừng kinh ngạc, như không tin mình lại có thể chết
vào lúc tuổi còn xanh, mộng còn đầy, còn chưa biết thế nào là nụ hôn lên má một
người con gái.
Hòa quay qua Huy:
- Huy này, mày hát một bài đi. Ở đây ai cũng đã hát rồi.
- Anh đưa cây đàn cho em. - Huy đáp.
Huy ôm cây đàn ghi ta cũ, lớp ván phần lưng thùng đàn đã bị
bong ra, còn phía trước thì nứt nẻ loang lổ, anh gảy khẽ vài nốt rồi ngước lên:
- Tôi xin hát một bài hát của Trần Tiến để tưởng niệm tới những
đồng đội đã hy sinh của chúng ta.
Trường chuyền bát rượu sang bảo Huy:
- Làm thêm một chén cho có hứng.
Huy uống cạn bát rượu rồi cất tiếng hát. Men rượu ngây ngất,
không khí nồng ấm gắn bó thương yêu và những niềm riêng canh cánh, thoáng chốc
cùng trộn lẫn vào nhau bay lên thành tiếng hát. Huy thấy lòng mình cũng tan
loãng ra trong những ý tình câu nhạc gần gũi và chân thật.
Bài hát kể về tâm tình của một người lính nào đó; mà cũng là
của thật nhiều người lính; trước cái chết của đồng đội thân thương. Bài hát kể
về nụ hôn đầu đời của một chàng lính trẻ. Nụ hôn đó không dành cho một cô gái dịu
dàng xinh đẹp. Nó không đặt lên bờ môi trinh nữ ngọt thơm như cỏ non, như hoa sứ
hoa quỳnh. Nó đặt lên trên đôi mắt khép hờ còn đầy tiếc nuối ngỡ ngàng của một
người bạn vừa ngã xuống. Nụ hôn đầu của người lính không dành cho tình yêu đôi
lứa; Nụ hôn đầu của người lính dành cho tình đồng đội. Và người lính hát khúc
tình ca bằng những "lời lửa cháy". Ðây không là lời tình hát tặng em
đâu, người yêu nhỏ. Ðây là khúc hành ca tôi dành tặng bạn tôi. Dành ru bạn tôi
giấc ngủ cuối cùng... và mãi mãi...
Trong khoảnh khắc này của đêm giao thừa, bài hát nghe ra có một
cái gì thật là kỳ dị. Nó không thích hợp chút nào với những giây phút cuối cùng
của năm - lúc mà theo lẽ thường mọi người đang náo nức xôn xao, với những hy vọng,
niềm tin vào một năm mới nhiều may mắn, với những dự tính ước mơ, những kế hoạch
đầy triển vọng. Nhưng nó thật sự gây xúc động. Những người lính của đại đội tải
này khi nghe bài hát, thấy nó như nói về chính bản thân mình. Và đôi mắt họ
long lanh trong ánh lửa. Có phải là nước mắt? Hay chỉ là do một hạt bụi vô tình
theo gió bay vào làm khóe mắt xốn xang?...
Huy đã hát tới khúc cuối của bài hát.... "Hãy hát lời lửa
cháy bằng trái tim tình yêu. Hãy hát lời tình yêu bằng trái tim lửa cháy. Hãy
hát lời lửa cháy bằng trái tim yêu thương. Hãy hát lời yêu thương bằng lửa cháy
trong ta..." Lòng Huy cũng đang bừng bừng bốc cháy. Ngọn lửa thương yêu,
tiếc nuối và đau đớn sôi lên thiêu đốt trái tim anh.
Sau đó, tới lượt Minh, lính cuối 84, người Thành phố. Anh ôm
đàn la lên:
- Thôi, không hát mấy bài buồn nữa nghe, muốn đứt gan đứt ruột
rồi. Nhảy đi các bạn! Soul nghe! Giật soul dễ ẹt, cứ tán loạn lên là được.
Tiếng đàn vang lên thôi thúc, tưng bừng. Một vài tay bước ra
giữa vòng tròn khơi mào cuộc nhảy múa. Những bước chân quay cuồng bên ánh lửa bập
bùng. Rồi cả bọn đều đứng lên vào cuộc. Có người ôm theo cái can hoặc cái xoong
vừa nhảy vừa gõ đập. Ðêm rung lên trong những âm thanh khuấy động. Trên bầu trời
mênh mông thăm thẳm, những vì sao lóng lánh xa xăm dường như cũng đang nối nhau
trong một khúc luân vũ yểu điệu nhịp nhàng.
Ðêm đã rất sâu. Có lẽ chỉ còn dăm chục phút nữa là tới thời
điểm giao thừa. Trường hí húi lắp lại pin vào chiếc máy thu thanh nhỏ xíu hiệu
National của anh. Chiếc máy chỉ được nghe mỗi ngày một tiếng, ở những giờ có
chương trình ngâm thơ và kể chuyện đêm khuya. Bầu không khí cũng trầm lắng xuống
không biết tự lúc nào. Toàn bộ doanh trại khối Trung đoàn bộ lặng im. Mọi người
chỉ trò chuyện, tâm sự với nhau một cách khẽ khàng như không dám làm rạn vỡ những
giây phút thiêng liêng. Huy ngồi bó gối, gục đầu xuống, cảm thấy thân thể anh
đang xoay tròn, rơi rơi mãi xuống một vực sâu mà không tới đáy. Anh đã uống khá
nhiều rượu nặng, đã nôn mửa mấy lần từ khi nãy cho tới khi chỉ còn nôn ra được
một chút chất lỏng lầy nhầy, đắng nghét. Chí Phèo lay lay vai Huy:
- Huy, Huy, mày cố uống tí nước trà cho giã rượu nè.
Huy lúc lắc đầu, rồi ngã vật ra, nằm co người lại. Anh vẫn
nghe thấy những tiếng nói lao xao, văng vẳng, nhưng chân tay thì rã rời, mềm
như bún. Anh nằm mơ màng, nửa tỉnh nửa mê như vậy không biết bao lâu. Bỗng anh
nghe một tràng AK chát chúa. Rồi một tràng nữa. Rồi tiếng súng, tiếng cối pháo
nỗ rền rền khắp mọi nơi. Huy mở mắt ra, cố gượng chống tay ngồi dậy. Trên trời,
màn đêm mênh mông bị rạch nát bởi những đường vạch đỏ rực đan chéo vào nhau như
những cánh sao. Khói súng tỏa mù như sương và hăng nồng trùm lên bầu không khí.
Ở góc chân trời, đạn cầu vồng phát hỏa bùng lên thành những cụm sáng đủ màu, những
giải sáng vàng chanh pha đỏ, những giải màu cam tươi, xanh lá thẫm chuyển sang
lam, và phía ngoài cùng là màu tím ngát chìm hẳn vào màn đêm thẳm. Âm thanh, sắc
màu như cùng cất tiếng hát và đang nhảy múa. Ðêm đẹp rực rỡ. Một cái đẹp hoang
sơ man dại. Những tràng pháo hoa đón giao thừa Xuân 1985 đã òa vỡ, vang lên ở một
góc rừng tây bắc Campuchia như vậy đó.
Chú thích:
1. Cách gọi hình tượng của lính chỉ loại chén quân dụng to bằng
sắt.
2. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi: "...tướng sĩ một
lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào."
Chương
3
(Trích nhật ký)
Ngày... tháng... 1984
Ngày cuối cùng của năm đầu đời trong quân đội...Một cánh rừng
lúc chiều hôm. Rừng chiều không đẹp, không êm đềm như trong nhạc. Nó ẩn dấu một
cái gì khó hiểu, đè nặng lên tâm tư người lính.
Tiếng lá khô rơi chạm vào nhau tí tách, rất khẽ. Tiếng súng
AK vu vơ...
Ngày... tháng..1985
Hôm nay lẽ ra là ngày mở đầu chiến dịch đánh bứt cứ điểm A.
Nhưng kế hoạch phải tạm đình chỉ vì cái chết của vị lãnh đạo nhà nước
Campuchia. Sư đoàn tung toàn bộ lực lượng, cộng thêm một trung đoàn quân đội
Campuchia phối thuộc. Trung đoàn của mình là trung đoàn chủ công, đánh trực diện
vào căn cứ.
Cuộc đời chiến sĩ của tôi sẽ trưởng thành từ những ngày này.
Một trận lớn cấp sư, trong toàn bộ chiến dịch tổng tấn công của toàn mặt trận.
Một trận mà có lẽ không phải ai cũng có dịp may tham dự.
Hôm nay, trên toàn thế giới người ta xé tờ đầu tiên của quyển
lịch mới. Và ở thành phố quê nhà, giờ này mọi người đang vui tươi hớn hở...
Mẹ tôi giờ này có lẽ đang vừa làm một việc gì đó, vừa nheo
đôi mắt u buồn nhớ tới đứa con xa...Và có lẽ, đôi khi giữa đêm khuya chợt thức,
người lại khóc âm thầm... Má ơi! Con đã làm được gì cho má vui đâu, chỉ toàn những
lo buồn. Biết đến bao giờ con làm được điều con mong cho má - Má ngồi giữa đàn
cháu dễ thương, kháu khỉnh kể chuyện ngày xưa, những chuyện ma quỷ, thần tiên
mà ngày thơ ấu má đã đưa con vào giấc ngủ êm đềm, má cười không lo âu vì miếng
cơm, manh áo, nợ nần giăng mắc...
Ngày tháng năm 1985
Một bài thơ viết vội: Xuân này nhớ ai
Mùa xuân đến bao giờ tôi chẳng biết
Gió quê hương không đến tận phương này
Tôi chờ mãi trong niềm đau không dứt
Một mai này chinh chiến sẽ tàn phai
Xuân về hay chưa, tôi vẫn ngờ không thật
Giữa rừng già không én báo tin vui
Không có những cành hoa tươi khoe sắc
Làm sao tôi quên thực trạng quanh người
Giữa rừng chỉ có chúng tôi
Những người đi giữ đất trời quê hương
Bạc rồi những tấm áo xanh
Mà chưa thấy lại mùa xuân quê mình
Nghĩ gì những lúc thâu canh
Sương rơi ướt lạnh một vầng trăng xa
Sao đêm thắp lửa mong chờ
Bâng khuâng người lính xa nhà nhớ thương
Nhớ mẹ hiền tóc bạc với thời gian
Chắc mẹ vẫn chiều chiều ra ngõ đứng
Dõi mắt phương xa mong chờ, trông ngóng
Một dáng hình, một tiếng nói thân thương
Ạ à ơi...
‘ Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau'
Con đi chinh chiến dài lâu
Mẹ ơi! Ðừng khóc những chiều nhớ con
Mẹ ơi! Ðừng thức thâu canh
Trở trăn vì bước quân hành của con
Con đi xuôi ngược hành quân
Mang theo lòng mẹ, niềm tin trọn đời.
Mẹ ơi, nếu có một ngày
Chợt nghe tin dữ con trai không còn
Mẹ đừng nước mắt trào tuôn
Con yêu mẹ đã làm tròn ước mơ
Mẹ đừng thắp nến, chưng hoa
Chỉ thêm buồn nhớ, xót xa nghẹn ngào...
Giờ con nhớ mẹ biết bao
Giờ thương hơn hẳn lúc nào, mẹ ơi!...
Mùa xuân về mọi nơi
Nhưng ở đây mùa xuân không có mặt
Cả bầu trời và mặt đất
Ðều khô cằn, ảm đạm, hoang vu...
Ở đây, những người lính nhớ
Thành phố quê nhà những ngày cuối năm
Có chợ tết, chợ hoa xôn xao, lộng lẫy, tưng bừng
Những màu áo, mái tóc dài tha thướt
Những tiếng nói, giọng cười trong vắt
Thân quen vô cùng, mà xa quá là xa...
Những con đường lá đổ ngày xưa
Và những cơn mưa đi về bất chợt
Màu áo học trò ngây thơ, dịu mát
Suối tóc ai dài chảy suốt mùa Ngâu..
Và đôi khi... giữa đêm lắng sâu
Niềm tiếc nuối thời ấu thơ ray rứt
Con nhện giăng tơ trên cành trước mặt
Tò vò nào cứ vỗ cánh chờ mong...
Bạn bè ơi! Một mái trường
Bao nhiêu kỷ niệm âm thầm chết đi
Bao nhiêu người hãy còn ghi
Tình yêu, lý tưởng vun từ ngày xưa
Ai còn cháy bỏng ước mơ
Và ai đã chịu đẩy đưa dòng đời...
Bâng khuâng người lính đêm dài
Từng khuôn mặt cũ quay về... mông lung...
Ngày tháng năm 1985
Hôm nay là thứ mấy, ngày mấy? Ý niệm về thời gian chỉ còn là
buổi sáng, buổi chiều, là ngày và đêm nối tiếp trôi đi, vô tận.
Tôi buồn vì sao? Tôi không thể tìm ra câu trả lời đích xác.
Nhớ ư? Phải! Ðôi khi một vật thể nào đó lại gợi cho tôi những liên tưởng về bè
bạn, gia đình, và hàng đêm trằn trọc thao thức nhìn qua nóc màn lên bầu trời
lung linh vạn ánh sao, trong tiếng lá khô rơi xào xạc, tiếng cây vặn mình trong
cơn gió rừng lạnh lẽo đêm khuya, tôi nghe tiếng nức nở âm thầm của lòng mình.
Tương lai là một khoảng mơ hồ mù mịt. Hiện tại thì thật đau đớn xé lòng...
Anh hùng là ai? Chỉ có những người lính bình thường, vô danh
kia mới là những anh hùng. Tay họ cầm vũ khí, da thịt họ hứng chịu đau thương
và máu họ đổ tuôn. Họ đến với cuộc đời, sống, ước mơ, yêu đương...để rồi ra đi
trong phút chốc. Họ không nghĩ đến những chuyện cao xa. Ước mơ, khát khao của họ
thật giản dị, bình thường. Ðây mới chính là những con người thật sự. Tôi làm
sao tìm thấy một con người chỉ tồn tại trong trí tưởng của mình - Một con người
vô hình, không thật, xây đắp bằng bao nhiêu mảnh vụn của sách vở, từ chương.
Bây giờ tôi đã nhận ra điều đó. Muộn hay chưa, tôi khó mà kết luận.
Phải chăng sinh ra là để chịu đựng những khổ đau, xây những ước
mơ, hưởng những hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn, để rồi chết? Ý nghĩa của cuộc
sống thật là mông lung, siêu hình.
Ampil! Cái địa danh này sẽ ghi mãi trong tâm khảm của tôi, với
những gì tôi đã nhận thức được về cái ranh giới mong manh giữa hai chiều tư tưởng.
Chỉ còn vài ngày nữa là Tết rồi. Thật là mơ hồ!...
Ngày.... tháng... năm 1985
Tết giữa rừng
Bây giờ, tôi viết những dòng chữ ứa ra từ tấm lòng bồi hồi
khôn tả về những ngày tôi đang sống, dưới ánh đèn dầu tù mù leo lét cháy. Viết
để làm gì? Tôi đã không còn thiết tha đến việc cầm bút nữa, nhưng sao giờ đây một
nỗi niềm nào đó cứ thiêu đốt tim tôi...Máu dường như nghẽn lại trong từng huyết
mạch...
Không gian bao la đen thẳm phủ quanh người tôi như một tấm
màn dày đặc, khổng lồ, với những lỗ thủng li ti, xa xăm - những vì sao. Ðêm
như quánh lại... Xa xa, những đống lửa của các đơn vị cháy thành từng đóm, chập
chờn, chập chờn. Tiếng hát, tiếng la hét, tiếng trống gõ vào can nước cũng chao
chao, khi xa khi gần theo hướng gió...Ôi! Cái Tết của những người lính trẻ xa
nhà giữa rừng đêm quạnh vắng.
Ðêm qua, đêm giao thừa, tôi đã không còn tỉnh táo để chờ đón
phút giây thiêng. Những người lính cũ, đi trước tôi, hình như cũng rất buồn. Họ
che lấp nỗi buồn bằng cách cười nghiêng ngả, nhảy múa, hò hét và ca hát. Chén
rượu cay nồng tình nghĩa đồng đội chuyền tay... Trời ơi! Tôi say mèm trước tất cả
mọi người...Các anh ơi, hãy thông cảm cho tôi!... Má ơi! Hãy tha thứ cho
con...Rượu làm con say, nhưng chính nỗi buồn sâu thẳm đã quật con ngã gục trước
khi con cùng đồng đội, đồng bào hưởng phút giây giao tiếp ấy.
Ngày kia, tôi lại hành quân vào trận đánh mới. Trong số những
gương mặt trẻ trung, nhưng đã sớm cằn cỗi quanh tôi, ai sẽ còn, và ai sẽ mãi
mãi ra đi? Cười sằng sặc, ca hát và nhảy múa... vui đi để rồi có thể sẽ không
bao giờ vui được nữa...Những bà mẹ và những người tình có biết giờ này người
thân của mình đang chuẩn bị để ra đi, trở về hoặc vĩnh viễn - Với một niềm tin
yêu tha thiết và quyết tâm chiến thắng. Máu sẽ đổ, thịt sẽ tan, nhưng không bao
giờ người lính Việt nam chùng bước! Các mẹ ơi, các chị ơi, hãy nguyện cầu cho
người con, người yêu lời nguyện trọn lành!...
Con thương nhớ má thật nhiều, thật nhiều... Má yêu dấu ngàn đời!...Không
biết mai này con còn có ngày về với má hay không? Nhưng con sẽ không bao giờ là
một người lính yếu hèn. Má ơi, hãy hiểu cho con!...
Ngọn đèn gần hết dầu đang lụi dần. Nhưng ngày mai trời lại
sáng...
Huy vừa đọc lướt lại những gì đã ghi vào nhật ký trong mấy
ngày qua. Anh gấp quyển sổ lại, nhìn ra hướng trảng cỏ trống ngoài kia. Gió vẫn
thổi hun hút từng cơn, làm ngọn lửa phát ra từ chiếc đèn dầu đốt bằng mỡ lon thịt
hộp chập chờn muốn tắt. Huy với cái ba lô kề bên, nhét cuốn sổ vào và thổi tắt
ngọn đèn. Anh bước ra khỏi chiếc lều dã chiến thấp lè tè, đi tới chiếc võng đã
giăng sẵn từ lúc nãy, vén mùng chui vào. Mấy hôm nay, anh mang võng mắc giữa
hai cây dầu nhỏ trước lều để ngủ ngoài trời.
Huy thích được nằm nhìn lơ mơ qua chiếc mùng vải mỏng lên bầu
trời đêm thăm thẳm. Từ thuở còn bé tí, anh đã yêu mến bầu trời đêm và những vì
sao xa xăm trên đó. Truyện Hoàng tử bé của Saint Éxupéry, truyện Những vì sao của
Alphonse Daudet mà Huy tình cờ đọc được sau này càng làm anh yêu mến chúng hơn.
Ngàn sao là giấc mơ kỳ diệu, làm tâm hồn thơ trẻ của anh thấm đẫm bao tưởng tượng,
bao ước vọng đẹp đẽ hướng tới cõi trời cao rộng, thánh linh. Bây giờ, tuổi thơ
đã trôi qua, những hình ảnh ngây thơ, trong sáng ấy cũng mất đi phần nào huyền
diệu. Ðêm sao bây giờ với anh chỉ là một bầu trời vật chất, với những thiên thể
vật chất, những hành tinh lạnh lẽo, vô hồn. Ngàn sao lấp lánh kia không còn là
những sinh vật sống động, đầy cảm tính, y hệt như những con người. Không còn nữa
những vì sao của tuổi thơ! Tuy vậy, trời đêm và sao sáng vẫn làm dịu đi những nỗi
buồn phiền, những niềm thương nhớ.
Huy vòng hai cánh tay ra sau đầu, thầm đếm những vì sao rải
rác phía trên ngọn cây dầu độc mộc giữa trảng. Một, hai, ba....một trăm lẻ một,
một trăm lẻ hai... Chợt nhiên, một vì sao - vì sao thứ một trăm lẻ bốn - ngày
càng to lên, to lên...Rồi nó chợt nhoẻn miệng cười với Huy thật dịu dàng. Nó mở
đôi mắt đầy âu yếm nhìn Huy. Không phải là vì sao, mà là má! Má đang mỉm cười lặng
lẽ. Mái tóc của má trôi dài, bay bay giữa trời đêm thênh thang vằng vặc, lóng
lánh triệu triệu những tinh cầu bé xíu, li ti...
Từ sau Mồng Mười Tết, mưa liên tiếp mấy hôm liền. Trời thấp,
xám màu chì và nặng trĩu. Trong toàn đơn vị, không khí im lìm, vắng lặng hẳn
đi. Mọi người chỉ bước ra ngoài khi có việc cần. Họ chui rúc trong lều đánh tiến
lên, hay nằm bên nhau tâm sự.
Huy ngồi co ro, vừa nghĩ ngợi lan man, vừa lơ mơ nghe tiếng
Phước và Danh trò chuyện lẫn vào tiếng mưa rào rào vỗ trên mái lá. Danh đang kể
một câu chuyện gì đó về miền Mộc Hóa, Long An, quê hương của anh, Huy nghe
loáng thoáng những tình tiết về con vện, con vàng... mấy con chó săn tinh khôn
mà Danh rất cưng hồi còn ở nhà.
Trong tiểu đội, Danh là một trong những lính mới được nể nang
nhất. Anh đi hành quân mang vác, đào công sự chiến đấu thật dẻo dai, không thua
gì cánh lính cũ. Thoạt nhìn, Danh không có vẻ gì là một người mạnh khỏe, anh
cao lòng khòng, ốm nhách. So với Minh, Hùng, cũng lính cuối 84, dân Thành phố,
Danh ốm yếu hơn nhiều.
Theo lời Danh kể, từ nhỏ anh đã làm việc nặng nhọc, vất vả mà
ăn uống thì lại quá thiếu thốn, kham khổ.
Hôm đánh lên Ampil vừa rồi, không có Danh, thì Huy chắc phải
xỉu đi vì quá mệt. Hồi ở Quang Trung, bọn Huy cũng thường đi hành quân dã ngoại,
cũng mang vác nặng. Nhưng so với hành quân thật sự thì thật khác nhau một trời
một vực.
Ở trường, hành quân tà tà như đi dạo. Mệt thì nghỉ. Chỉ huy đại
đội lúc đầu có vẻ nghiêm khắc nhưng về sau rất dễ, nên bọn Huy được thể cứ làm
nũng như con nít. Thật sự, lúc đó cũng không có gì nặng mấy, chỉ là các bộ phận
tách rời của khẩu 12 ly. Còn vừa rồi, lần đầu tiên Huy đi một mạch năm sáu cây
số mới được nghỉ giải lao. Sau lưng là chiếc ba lô, ngoài quần áo, tư trang là
một thùng đạn K.56 và mớ liều phóng, ngòi nổ cối 82; một can vàng bốn lít nước
cột lủng lẳng dưới nắp ba lô; trên vai là một gánh sáu quả cối 82, chiếc ruột
tượng bảy ngày gạo; cộng thêm khẩu AK quàng qua vai và chiếc bao se ba băng đạn,
một bình toong nước xệ xệ bên hông. Trung bình, mỗi người lính mang trên người
khoảng ba mươi ký.
Ði được khoảng ba cây số, đầu Huy đã lùng bùng. Ðôi chân Huy
phồng dộp lên từ lúc nãy, giờ những chỗ đó tróc da, cọ xát vào giầy làm anh đau
điếng. Nhất là vì nền cát, mùa khô co cứng lại như bê tông, cứ dội ngược lại dưới
gót giày sau mỗi bước nặng nề. Huy nhìn người phía trước, Minh cũng không khá
gì hơn anh, đang xuýt xoa rên rỉ. Tuy vậy, Huy cũng cố đi được cho đến chỗ giải
lao đầu tiên. Huy ngồi bệt xuống, ngã người ra, lưng dựa vào chiếc ba lô. Anh
nhắm mắt lại một lúc, rồi lại mở ra. Cổ họng Huy khô rát vì cơn khát. Anh run
run mở nắp bi đông. Những ngụm nước mát lạnh đi vì không khí ban đêm. Không còn
là những ngụm nước bình thường nữa: nước lã giờ như trở thành dưỡng chất, thành
rượu quỳnh ngon ngọt khác thường. Trong những lúc như thế này, Huy nhận ra nhu
cầu của con người đến lúc thiết yếu nhất, khi chịu sự thiếu thốn tột cùng nhất,
khi gần kề cái chết nhất, chỉ là rất ít oi: không khí để thở; nước để uống; và
cái gì đó để ăn. Rồi tình yêu cuộc sống lại quay về, và ta lại có thể bình an
nghĩ ngợi, ước mơ. Vâng, chỉ bấy nhiêu đủ để ta thấy trong ta cuộc sống tràn đầy,
rạo rực...
Huy uống rất chậm và dè sẻn. Chí Phèo đã dặn trước với anh
khi hành quân không được uống nhiều nước, càng ít thì càng tốt, vì uống nhiều,
mồ hôi toát ra quá mức sẽ làm kiệt sức rất nhanh. Mặt khác, giữ cho lúc nào
bình toong cũng còn nước là điều cốt tử ở vùng đất khô cằn này.
Ðến lúc tiếp tục hành quân, anh chỉ đi được vài bước đã thấy
choáng váng, hai bàn chân đã nguôi đau, giờ lại càng hành hạ anh tệ hại hơn lúc
trước. Huy bước ngày càng có vẻ chập choạng. Danh đi phía sau vội nói nhỏ:
- Anh đưa cho tui vác phụ gánh cối một lúc cho.
Huy ngần ngừ, rồi lắc đầu. Danh cũng đâu có nhẹ gì hơn anh.
Là chiến sĩ, Danh không mang AK, nhưng trong ba lô anh là hai thùng đạn, liều
ngòi cối, và trên vai là tám, chứ không phải sáu quả cối như Huy. Huy cố bước
thêm một lúc thì quị xuống. Danh giằng lấy gánh cối:
- Tui còn khỏe, cứ để tui vác một lúc. Anh đỡ mệt là tui giao
lại liền.
Lần này, Huy không còn đủ sức và ý chí để từ chối sự giúp đỡ
chân thành của Danh. Thế là Danh nghiêng vai còn lại gánh luôn gánh của Huy. Quả
thật, không có gánh cối, anh cảm thấy nhẹ hẳn đi, khỏe lại. Ðược một quảng, Huy
ngoái lại. Danh vẫn bước bình thường, nhưng hơi thở đã nghe nặng nề. Mình nhẹ
được một phần, thì Danh lại càng nặng thêm gấp hai ba nữa - Huy nghĩ. Anh bỗng
thấy một sức mạnh không biết từ đâu đến, đánh tan hẳn những nhọc mệt và cơn nhức
nhối ở hai chân. Anh giơ tay đón lấy gánh cối:
- Cám ơn Danh, mình đã khỏe rồi.
Và từ đó, Huy thật sự quên đi những khổ sở, nhọc nhằn. Anh
nghĩ về những kỷ niệm vui, những hình ảnh thân thương êm ái, rồi thầm cười khẽ
một mình. Cuộc hành quân đêm trôi đi một cách nhẹ nhàng, không còn là cơn ác mộng
dài khủng khiếp như lúc nãy với anh...
Buổi chiều cuối cùng trước khi trận địa dứt hẳn tiếng súng,
Huy cùng một nhóm ba người khác cáng thương từ tuyến trước về trại cấp cứu dã
chiến của K.23. Nắng ong ong chiếu xuống làm anh mệt rũ cả người. Cả nhóm đã
liên tục lên xuống suốt hai ngày qua, lên tải đạn, về tải thương như con thoi
không ngừng nghỉ. Chuyến cuối cùng họ cáng một liệt sĩ của D.2 đã hy sinh từ buổi
tối qua, nhưng để tại chỗ để ưu tiên cáng các thương binh trước. Cố gắng về đến
một chỗ còn cách K.23 khoảng nửa cây, sau khi giao lại cáng cho hai người khác,
Huy thấy đầu bưng bưng nhức nhối, hai mắt hoa lên. Anh bảo Danh:
- Danh đi trước đi, mình ngồi nghỉ một lát đã.
Danh gật đầu, lo âu nhìn Huy:
- Ừ, anh về sau, tui lên đi chung với hai thằng nó để có gì
tiếp tay. Tụi nó cũng phờ phạc lắm rồi.
Huy gieo người xuống, nửa nằm nửa ngồi, một tay tì lên mặt đất.
Anh tháo cái bi đông nước bên hông, đưa lên đôi môi khô rộp. Chỉ còn không đầy
một nắp bi đông đọng dưới đáy. Huy nốc cạn, thấy cơn khát vẫn chẳng bớt tí nào.
Anh mệt nhọc nhắm nghiền đôi mắt lại. Rồi vài giây sau, không gượng được, anh nằm
lăn ra nền cát, kế bên một bụi le cằn cọc, mặc cho những con ong ruồi nhỏ xíu
bu bám vào mặt mũi, mặc cho ánh nắng xiên khoai chói chang đổ xuống. Khi Huy mở
mắt ra, trời đã bắt đầu xế bóng. Anh gượng dậy, tìm đường tắt đi về.
Về đến trại, Huy chui vào lều nằm bất động. Anh mê man cho đến
trưa hôm sau. Nghe tiếng gọi dậy ăn cơm của Phước nhưng Huy vẫn thấy người rã rời,
không biết đói. Phước vào lay lay Huy:
- Nè, gắng dậy ăn một chén cho khỏe. Mệt mà nằm hoài là bị sốt
luôn đó.
Huy lắc đầu, nhắm nghiền mắt, yếu ớt nói:
- Mình không đói. Cứ mặc mình.
Một lúc sau, Danh cầm chén cháo bốc khói chui vào. Anh đỡ Huy
ngồi dậy.
- Tui lấy cơm nấu lại thành cháo cho anh dễ húp. Ráng đi.
Huy nhìn Danh xúc động. Anh cố húp hết bát cháo dù miệng lưỡi
đều thấy đắng nghét, không muốn ăn uống gì. Danh lại bưng chén nước nóng vào,
tay kia cầm hai viên thuốc giục Huy uống. Sau khi ăn cháo, uống thuốc, nằm nghỉ
khoảng hai tiếng, Huy thức giấc và thấy người khỏe hẳn. Anh đã có thể ngồi dậy,
đi lại được, dù còn hơi run rẩy...
Danh chợt quay sang Huy cất tiếng hỏi:
- Anh còn giấy không cho tui xin một tờ. Viết thư cho con nhỏ
bồ.
Huy gật đầu:
- Còn, chờ chút mình lấy liền đây.
Hôm vừa mới sang, Huy mang theo sổ sách lỉnh kỉnh rất nhiều.
Ba cuốn sổ, trong đó có một cuốn đang ghi dở, mấy cuốn tập học trò ghi bài giảng
hồi học ở H.15, mấy cuốn sách Anh văn, và vài cuốn truyện. Xui một cái là từ
bên nước qua, Huy bị đưa thẳng vào rừng, nơi đang tạm đóng quân chuẩn bị vào
chiến dịch. Anh không được ghé hậu cứ, nên bao nhiêu hành lý, tư trang đều dồn
hết vào ba lô, cõng hết suốt một mùa chiến dịch. Lúc nghỉ giải lao trong cuộc
hành quân đầu tiên, anh đã vứt bỏ hết mấy cuốn vở ghi bài, sách Anh văn và truyện.
Giờ nghĩ lại, Huy tiếc quá chừng. Huy rứt mấy tờ đôi đưa cho Danh, cười cười:
- Nè, mai mốt về làm đám cưới nhớ đánh điện tín mời tui xuống
dự với nghe ông.
- Yên chí đi!
Phía ngoài lều có tiếng chân bước bì bõm trên mặt đất ngập nước
mưa, tiếng sột soạt của tấm nylon, rồi Minh ló đầu vào:
- Huy ơi, anh Thái kêu anh lên đại đội. Mang theo toàn bộ ba
lô, tư trang để nhận nhiệm vụ mới.
Huy không ngạc nhiên, anh đã biết không sớm thì muộn anh phải
chuyển về đơn vị mới. Hồi mới sang, vì đang chuẩn bị đánh một trận quá căng,
nên người ta không đưa anh về ngay đơn vị trực tiếp chiến đấu, mà tạm đưa vào đại
đội tải của trung đoàn. Bây giờ là thời gian cho các đơn vị huấn luyện phối hợp
quân binh chủng để tiếp tục đánh cứ 201, anh phải về đơn vị hỏa lực để cùng tập
luyện chuẩn bị chiến đấu. Mặt khác, cũng là để bổ sung quân số cho các đơn vị bị
tổn thất thương vong. Dù sao, Huy cũng cảm thấy buồn buồn. Anh đã chia sẻ với
anh em C.22 cái Tết xa nhà đầu tiên, chia sẻ với họ những chén rượu ấm nồng
tình nghĩa, đã có những đêm nằm tâm sự, giờ chia tay sao tránh khỏi nỗi buồn.
Anh gom mấy thứ linh tinh nhét vào túi cóc, bàn giao khẩu AK
cho Phước, rồi nhìn hai người nói:
- Thôi tạm biệt các bạn. Chúc mạnh giỏi, công tác tốt. Cho
mình gửi lời chào anh Hòa, anh Trường, anh Chí và các anh em khác.
Phước và Danh gật đầu, buồn hiu nhìn Huy:
- Chúc anh về đơn vị mới mạnh giỏi, bình an.
Huy xốc ba lô lên vai, khoác tấm nylon lên đầu rồi chui ra khỏi
lều, đi về hướng nhà đại đội.
Ðại đội trưởng Thái đang ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu trải
giữa lều. Ðối diện với anh là một tay trẻ tuổi, Huy nhận ra đó là người đã lên
Sư đoàn nhận anh về dạo trước. Thái nói to khi thấy Huy bước vào:
- A, Huy đây rồi. Cậu vào làm chén trà cho ấm bụng. - Anh giơ
tay chỉ sang người đối diện - Ðây là cậu Phúc, trợ lý tổ chức động viên trung
đoàn, lát nữa Phúc sẽ đưa cậu về D3.
Huy gật đầu chào Phúc. Anh nói:
- Em đã cùng anh Phúc đi từ Sư về đây hôm trước chiến dịch.
- A, vậy là người quen cũ rồi, phải không, tốt, tốt lắm.-
Thái nghiêng người rót trà vào chén, rồi đưa cho Huy.
- D3 là tiểu đoàn cơ động mấy năm liền của Trung đoàn đó, anh
Huy ạ, đánh nhau cừ lắm - Phúc nói - Ông Văn D trưởng chịu chơi lắm, nhưng cũng
rất nghiêm. Lính ông Văn thì khỏi nói, công tác chiến đấu một cây, mà quậy cũng
bạo có tiếng.
Thái giơ ống thuốc lào lên rít sâu một hơi, phà khói mù mịt,
rồi đưa sang Huy:
- Làm một hơi đi, rồi lên đường. Từ đây qua D3 cũng mười mấy
cây số đó.
Huy cầm chiếc điếu cày, nhón một nhúm thuốc lào, châm lửa.
Anh đã tập tành chút chút cái món này từ hôm về C.22. Chí Phèo là đại sư phụ đã
huấn luyện cho anh kỹ thuật hút mà không bị sặc. Huy thấy thuốc lào hay hơn thuốc
lá. Nó làm người ta lâng lâng, ngây ngất tê người trong một thoáng. Chỉ cần hút
một hơi thôi, cũng đủ đô bằng cả mấy điếu thuốc vấn rồi. Ngồi cho tan hẳn cơn
say thuốc, Huy đứng lên, chào đại đội trưởng Thái:
- Thôi, em đi nghe anh Thái.
- Về đơn vị mới công tác cho tốt nghe Huy. Lâu lâu có dịp ghé
E bộ thăm anh em.
Huy và Phúc bước ra khỏi căn lều. Trời vẫn còn mưa lất phất.
Không khí thoang thoảng một mùi gì đó, thơm nồng. Hình như là mùi một thứ gỗ
thơm đang bốc cháy đâu đó trong một gian bếp gần đây. Phúc nhìn Huy, cười hỏi:
- Vừa qua, anh đã tham gia đánh nhau rồi đó, có run không?
- Sợ chết khiếp chứ sao không. Lúc mình tải đạn lên cho D2, đạn
nhọn của địch cứ chiu chíu xé qua tai, còn pháo thì nổ ầm ầm chung quanh, cách
không đầy chục mét.
- Về bộ binh còn kinh hơn nữa. Ðánh nhau liên miên, chứ không
khỏe như ở trung đoàn đâu. Sao anh không xin ở lại công tác bên nước?
- Lính mà, tổ chức phân công đâu, mình đi đó. Mình có muốn ở
lại cũng không được. Thật tình, mình cũng muốn qua đây cho biết. Qua rồi mới thấy
ngán.
Phúc gật gật đầu, nhưng không nói, như đang vướng bận một suy
nghĩ nào đó. Huy cũng không gợi chuyện thêm. Cả hai cúi mặt, bước nhanh hơn dưới
những làn mưa rơi xeo xéo.
Trời đã ngưng mưa khi hai người tới trại D 3. Lều tiểu đoàn nằm
trên một gò đất cao. Xung quanh là những lùm cây lúp xúp. Ở phía trước, xéo về
tay phải là một cây dầu lớn, hình dáng thật lạ lùng. Từ gốc đến khoảng một phần
ba thân đầu tiên của nó nghiêng một góc gần bốn mươi độ so với mặt đất. Rồi từ
cuối đoạn này, thân cây lại trở về tư thế tự nhiên chọc thẳng lên trời. Huy
nhìn nó, thầm nghĩ có lẽ lúc còn non, nó đã bị một con thú rừng làm gẫy ngang,
nhưng vẫn kiên cường vươn dậy. Một người lính trẻ đang ngồi bên gốc cây dầu này
đẽo gọt một cành cây nhỏ, đường kính khoảng bốn phân, chắc để làm cán cuốc. Anh
ta nhìn thấy Huy và Phước, buông con dao và cành cây xuống đất, đứng lên đi về
phía họ. Khoảng cách thu ngắn đủ để Huy nhìn rõ người lính. Một khuôn mặt rắn rỏi,
da ngăm ngăm sạm nắng, đôi mắt đen lanh lợi, vui vẻ, vóc dáng cao to, khỏe mạnh.
Phúc cất tiếng:
- Chào đồng chí, có anh Văn ở nhà không vậy?
Người lính trẻ gật đầu, đưa mắt nhìn Huy như đánh giá, rồi lại
nhìn sang Phúc, trả lời bằng một giọng đặc sệt đồng bằng Nam bộ:
- Anh "Dăng" ngồi trong lều. Mời hai anh
"dô" trong.
Tiểu đoàn trưởng Văn đang ngồi hý hoáy viết gì đó bên cái bàn
dã chiến trong lều. Bốn chân bàn là bốn thân gỗ chôn sâu xuống đất, phía trên đầu
là một chạc hai để đỡ một thanh ngang. Mặt bàn đan bằng các thanh tre, được cột
lại bằng những sợi dây xanh. Anh ngước lên gật đầu chào khi thấy người lính trẻ
dẫn Huy, Phúc bước vào, rồi tiếp tục cúi đầu viết. Người lính trẻ kéo Huy, Phúc
tới một cái băng dài, thấp, cũng một kiểu dáng như cái bàn, nhưng bề ngang hẹp
vừa đủ để ngồi, anh nói:
- Hai anh ngồi uống nước, nghỉ mệt, chờ anh "Dăng"
một chút.
Anh ta tới bên bàn, nghiêng chiếc can rùa rót vào hai cái bát
một thứ nước xanh xanh, rồi bưng lại.
- Ðây là nước hà thủ ô, hai anh uống đi, mát lắm.
Huy và Phúc đón lấy, uống một hơi cạn chén, rồi đưa mắt nhìn
quanh quẩn. Trong lều trống trơn không có gì ngoài cái bàn và mấy cái băng ghế.
Trên vách lều treo ba cái ba lô, và ở một góc là cái giá súng với hai khẩu AK.
Dù sao cũng là tinh tươm hơn rất nhiều so với nhà đại đội của Thái, chẳng có
bàn ghế gì, chỉ ngồi bệt dưới đất là xong.
Tia mắt Huy xoay trọn một vòng, rồi trở về điểm xuất phát là
tiểu đoàn trưởng Văn. Anh trạc ba mươi, ba mốt gì đó, cao dong dỏng, vai gầy
nhưng rộng. Gương mặt lại có vẻ trắng trẻo, thư sinh, khác xa hình ảnh Huy hình
dung về anh trên đường lúc nãy. Trên mặt anh có một nét gì đó là lạ, vui vui,
dù lúc này Văn đang nghiêm nghị làm việc. Huy để ý quan sát thêm giây lát, rồi
nhận ra chính vì cái miệng của Văn. Nó hơi méo, chếch lên bên phải, làm Văn lúc
nào cũng như đang nhếch miệng muốn cười.
Khoảng hai phút sau, Văn viết xong. Anh gấp quyển sổ lại, ngẩng
mặt nhìn Huy, Phúc, đôi mắt đen sáng nheo lại, anh cười ha hả:
- Xin lỗi hai cậu, mai tớ phải lên trung đoàn báo cáo phương
án tác chiến nên cố một tí cho xong. Nào, tớ nhớ không lầm thì hôm qua thông
tin trung đoàn báo cậu sẽ dẫn cậu Huy xuống, có đúng là Huy không Phúc?
Phúc gật đầu xác nhận:
- Vâng, ảnh tên Huy, tốt nghiệp lớp hạ sĩ quan ở H.15 bên nước,
sang đây hồi tháng Mười hai năm ngoái. Vừa rồi ảnh nằm ở C.22, công tác cũng tốt
lắm anh ạ. Hồi nãy trên đường tới đây, em cũng đã giới thiệu sơ với ảnh về D3 rồi.
Nhất là giới thiệu rất xôm về vị tiểu đoàn trưởng ngon lành là anh. Sao, có gì
thưởng công không thủ trưởng?
- Lại còn thế nữa! Cậu đã nói xấu tôi những gì, chưa phạt thì
thôi, còn đòi thưởng. Này, bước tới gần đây, tôi thưởng cho...
Phúc phá ra cười:
- Thôi, em quá biết cái món điểm huyệt của anh rồi, dại gì!
Nè anh Văn, trưa nay em báo cơm D3 đấy nhé. Lo giết gà vịt đón khách đi là vừa.
- Ở đây làm gì có, chỉ có món "bò hóc quân đội" đãi
cậu thôi - Văn cười ha hả, rồi quay sang Huy, anh nói- Huy này, cậu lại đây, để
tớ giới thiệu sơ về tiểu đoàn cho cậu biết. Tớ là Thạch Văn, quê ở Cao Bằng, chắc
cậu biết rồi..
Sau đó, Văn kể cho Huy nghe về tên tuổi của các cán bộ tiểu đoàn và đại đội, các trung đội trực thuộc, tình hình tổng quát của tiểu đoàn, rồi
bảo:
- Bây giờ, cậu sẽ về trung đội 12 ly bảy, đúng như chuyên môn
của cậu. Nhưng tạm thời, cậu vẫn chỉ là chiến sĩ thôi. Vì cậu mới về mà nắm chức
chỉ huy khẩu đội ngay thì anh em không phục. Với lại, cậu cũng chưa có kinh
nghiệm thực tế là mấy, cũng chưa làm được đâu. Cứ cố gắng công tác, chiến đấu
cho tốt, rồi tự khắc khi anh em trung đội đề xuất lên, tôi sẽ chính thức bổ nhiệm
cậu. Vậy nhé, có thắc mắc gì nữa không?
- Dạ không. Vậy em xin phép được về B ngay, nghe anh Văn.
- Vội gì, cứ ở đây, cơm nước xong xuôi, tớ bảo thằng Kiên đưa
cậu xuống dưới. Giờ cậu xuống thì chẳng còn cơm đâu mà ăn.- Văn đảo người tìm
Kiên, liên lạc tiểu đoàn, nhưng Kiên đã đi đâu ra ngoài, anh gọi to - Kiên ơi!
Em coi cơm chín chưa dọn lên đây nào.
Ngoài kia, mưa lại bắt đầu rơi lất phất. Từ sau gian lều thoảng
ra mùi ruốc cá xào, Kiên bê mâm cơm và thức ăn lên.
(Trích nhật ký)
Ngày... tháng... 1984
Ngày cuối cùng của năm đầu đời trong quân đội... Một cánh rừng
lúc chiều hôm. Rừng chiều không đẹp, không êm đềm như trong nhạc. Nó ẩn dấu một
cái gì khó hiểu, đè nặng lên tâm tư người lính.
Tiếng lá khô rơi chạm vào nhau tí tách, rất khẽ. Tiếng súng
AK vu vơ...
Ngày... tháng... 1985
Hôm nay lẽ ra là ngày mở đầu chiến dịch đánh bứt cứ điểm A.
Nhưng kế hoạch phải tạm đình chỉ vì cái chết của vị lãnh đạo nhà nước
Campuchia. Sư đoàn tung toàn bộ lực lượng, cộng thêm một trung đoàn quân đội
Campuchia phối thuộc. Trung đoàn của mình là trung đoàn chủ công, đánh trực diện
vào căn cứ.
Cuộc đời chiến sĩ của tôi sẽ trưởng thành từ những ngày này.
Một trận lớn cấp sư, trong toàn bộ chiến dịch tổng tấn công của toàn mặt trận.
Một trận mà có lẽ không phải ai cũng có dịp may tham dự.
Hôm nay, trên toàn thế giới người ta xé tờ đầu tiên của quyển
lịch mới. Và ở thành phố quê nhà, giờ này mọi người đang vui tươi hớn hở...
Mẹ tôi giờ này có lẽ đang vừa làm một việc gì đó, vừa nheo
đôi mắt u buồn nhớ tới đứa con xa...Và có lẽ, đôi khi giữa đêm khuya chợt thức,
người lại khóc âm thầm... Má ơi! Con đã làm được gì cho má vui đâu, chỉ toàn những
lo buồn. Biết đến bao giờ con làm được điều con mong cho má - Má ngồi giữa đàn
cháu dễ thương, kháu khỉnh kể chuyện ngày xưa, những chuyện ma quỷ, thần tiên
mà ngày thơ ấu má đã đưa con vào giấc ngủ êm đềm, má cười không lo âu vì miếng
cơm, manh áo, nợ nần giăng mắc...
Ngày tháng năm 1985
Một bài thơ viết vội: Xuân này nhớ ai
Mùa xuân đến bao giờ tôi chẳng biết
Gió quê hương không đến tận phương này
Tôi chờ mãi trong niềm đau không dứt
Một mai này chinh chiến sẽ tàn phai
Xuân về hay chưa, tôi vẫn ngờ không thật
Giữa rừng già không én báo tin vui
Không có những cành hoa tươi khoe sắc
Làm sao tôi quên thực trạng quanh người
Giữa rừng chỉ có chúng tôi
Những người đi giữ đất trời quê hương
Bạc rồi những tấm áo xanh
Mà chưa thấy lại mùa xuân quê mình
Nghĩ gì những lúc thâu canh
Sương rơi ướt lạnh một vầng trăng xa
Sao đêm thắp lửa mong chờ
Bâng khuâng người lính xa nhà nhớ thương
Nhớ mẹ hiền tóc bạc với thời gian
Chắc mẹ vẫn chiều chiều ra ngõ đứng
Dõi mắt phương xa mong chờ, trông ngóng
Một dáng hình, một tiếng nói thân thương
Ạ à ơi...
‘ Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau'
Con đi chinh chiến dài lâu
Mẹ ơi! Ðừng khóc những chiều nhớ con
Mẹ ơi! Ðừng thức thâu canh
Trở trăn vì bước quân hành của con
Con đi xuôi ngược hành quân
Mang theo lòng mẹ, niềm tin trọn đời.
Mẹ ơi, nếu có một ngày
Chợt nghe tin dữ con trai không còn
Mẹ đừng nước mắt trào tuôn
Con yêu mẹ đã làm tròn ước mơ
Mẹ đừng thắp nến, chưng hoa
Chỉ thêm buồn nhớ, xót xa nghẹn ngào...
Giờ con nhớ mẹ biết bao
Giờ thương hơn hẳn lúc nào, mẹ ơi!..
Mùa xuân về mọi nơi
Nhưng ở đây mùa xuân không có mặt
Cả bầu trời và mặt đất
Ðều khô cằn, ảm đạm, hoang vu...
Ở đây, những người lính nhớ
Thành phố quê nhà những ngày cuối năm
Có chợ tết, chợ hoa xôn xao, lộng lẫy, tưng bừng
Những màu áo, mái tóc dài tha thướt
Những tiếng nói, giọng cười trong vắt
Thân quen vô cùng, mà xa quá là xa...
Những con đường lá đổ ngày xưa
Và những cơn mưa đi về bất chợt
Màu áo học trò ngây thơ, dịu mát
Suối tóc ai dài chảy suốt mùa Ngâu..
Và đôi khi...giữa đêm lắng sâu
Niềm tiếc nuối thời ấu thơ ray rứt
Con nhện giăng tơ trên cành trước mặt
Tò vò nào cứ vỗ cánh chờ mong...
Bạn bè ơi! Một mái trường
Bao nhiêu kỷ niệm âm thầm chết đi
Bao nhiêu người hãy còn ghi
Tình yêu, lý tưởng vun từ ngày xưa
Ai còn cháy bỏng ước mơ
Và ai đã chịu đẩy đưa dòng đời..
Bâng khuâng người lính đêm dài
Từng khuôn mặt cũ quay về... mông lung...
Ngày tháng năm 1985
Hôm nay là thứ mấy, ngày mấy? Ý niệm về thời gian chỉ còn là
buổi sáng, buổi chiều, là ngày và đêm nối tiếp trôi đi, vô tận.
Tôi buồn vì sao? Tôi không thể tìm ra câu trả lời đích xác.
Nhớ ư? Phải! Ðôi khi một vật thể nào đó lại gợi cho tôi những liên tưởng về bè
bạn, gia đình, và hàng đêm trằn trọc thao thức nhìn qua nóc màn lên bầu trời
lung linh vạn ánh sao, trong tiếng lá khô rơi xào xạc, tiếng cây vặn mình trong
cơn gió rừng lạnh lẽo đêm khuya, tôi nghe tiếng nức nở âm thầm của lòng mình.
Tương lai là một khoảng mơ hồ mù mịt. Hiện tại thì thật đau đớn xé lòng...
Anh hùng là ai? Chỉ có những người lính bình thường, vô danh
kia mới là những anh hùng. Tay họ cầm vũ khí, da thịt họ hứng chịu đau thương
và máu họ đổ tuôn. Họ đến với cuộc đời, sống, ước mơ, yêu đương...để rồi ra đi
trong phút chốc. Họ không nghĩ đến những chuyện cao xa. Ước mơ, khát khao của họ
thật giản dị, bình thường. Ðây mới chính là những con người thật sự. Tôi làm
sao tìm thấy một con người chỉ tồn tại trong trí tưởng của mình - Một con người
vô hình, không thật, xây đắp bằng bao nhiêu mảnh vụn của sách vở, từ chương.
Bây giờ tôi đã nhận ra điều đó. Muộn hay chưa, tôi khó mà kết luận.
Phải chăng sinh ra là để chịu đựng những khổ đau, xây những ước
mơ, hưởng những hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn, để rồi chết? Ý nghĩa của cuộc
sống thật là mông lung, siêu hình.
Ampil! Cái địa danh này sẽ ghi mãi trong tâm khảm của tôi, với
những gì tôi đã nhận thức được về cái ranh giới mong manh giữa hai chiều tư tưởng.
Chỉ còn vài ngày nữa là Tết rồi. Thật là mơ hồ!...
Ngày.... tháng... năm 1985
Tết giữa rừng
Bây giờ, tôi viết những dòng chữ ứa ra từ tấm lòng bồi hồi
khôn tả về những ngày tôi đang sống, dưới ánh đèn dầu tù mù leo lét cháy. Viết
để làm gì? Tôi đã không còn thiết tha đến việc cầm bút nữa, nhưng sao giờ đây một
nỗi niềm nào đó cứ thiêu đốt tim tôi...Máu dường như nghẽn lại trong từng huyết
mạch...
Không gian bao la đen thẳm phủ quanh người tôi như một tấm
màn dày đặc, khổng lồ, với những lỗ thủng li ti, xa xăm - những vì sao. Ðêm
như quánh lại... Xa xa, những đống lửa của các đơn vị cháy thành từng đóm, chập
chờn, chập chờn. Tiếng hát, tiếng la hét, tiếng trống gõ vào can nước cũng chao
chao, khi xa khi gần theo hướng gió...Ôi! Cái Tết của những người lính trẻ xa
nhà giữa rừng đêm quạnh vắng.
Ðêm qua, đêm giao thừa, tôi đã không còn tỉnh táo để chờ đón
phút giây thiêng. Những người lính cũ, đi trước tôi, hình như cũng rất buồn. Họ
che lấp nỗi buồn bằng cách cười nghiêng ngả, nhảy múa, hò hét và ca hát. Chén
rượu cay nồng tình nghĩa đồng đội chuyền tay...Trời ơi! Tôi say mèm trước tất cả
mọi người...Các anh ơi, hãy thông cảm cho tôi!... Má ơi! Hãy tha thứ cho
con... Rượu làm con say, nhưng chính nỗi buồn sâu thẳm đã quật con ngã gục trước
khi con cùng đồng đội, đồng bào hưởng phút giây giao tiếp ấy.
Ngày kia, tôi lại hành quân vào trận đánh mới.Trong số những
gương mặt trẻ trung, nhưng đã sớm cằn cỗi quanh tôi, ai sẽ còn, và ai sẽ mãi
mãi ra đi? Cười sằng sặc, ca hát và nhảy múa...vui đi để rồi có thể sẽ không
bao giờ vui được nữa...Những bà mẹ và những người tình có biết giờ này người
thân của mình đang chuẩn bị để ra đi, trở về hoặc vĩnh viễn - Với một niềm tin
yêu tha thiết và quyết tâm chiến thắng. Máu sẽ đổ, thịt sẽ tan, nhưng không bao
giờ người lính Việt nam chùng bước! Các mẹ ơi, các chị ơi, hãy nguyện cầu cho
người con, người yêu lời nguyện trọn lành!...
Con thương nhớ má thật nhiều, thật nhiều... Má yêu dấu ngàn đời!... Không
biết mai này con còn có ngày về với má hay không? Nhưng con sẽ không bao giờ là
một người lính yếu hèn. Má ơi, hãy hiểu cho con!...
Ngọn đèn gần hết dầu đang lụi dần. Nhưng ngày mai trời lại
sáng...
Huy vừa đọc lướt lại những gì đã ghi vào nhật ký trong mấy
ngày qua. Anh gấp quyển sổ lại, nhìn ra hướng trảng cỏ trống ngoài kia. Gió vẫn
thổi hun hút từng cơn, làm ngọn lửa phát ra từ chiếc đèn dầu đốt bằng mỡ lon thịt
hộp chập chờn muốn tắt. Huy với cái ba lô kề bên, nhét cuốn sổ vào và thổi tắt
ngọn đèn. Anh bước ra khỏi chiếc lều dã chiến thấp lè tè, đi tới chiếc võng đã
giăng sẵn từ lúc nãy, vén mùng chui vào. Mấy hôm nay, anh mang võng mắc giữa
hai cây dầu nhỏ trước lều để ngủ ngoài trời.
Huy thích được nằm nhìn lơ mơ qua chiếc mùng vải mỏng lên bầu
trời đêm thăm thẳm. Từ thuở còn bé tí, anh đã yêu mến bầu trời đêm và những vì
sao xa xăm trên đó. Truyện Hoàng tử bé của Saint Éxupéry, truyện Những vì sao của
Alphonse Daudet mà Huy tình cờ đọc được sau này càng làm anh yêu mến chúng hơn.
Ngàn sao là giấc mơ kỳ diệu, làm tâm hồn thơ trẻ của anh thấm đẫm bao tưởng tượng,
bao ước vọng đẹp đẽ hướng tới cõi trời cao rộng, thánh linh. Bây giờ, tuổi thơ
đã trôi qua, những hình ảnh ngây thơ, trong sáng ấy cũng mất đi phần nào huyền
diệu. Ðêm sao bây giờ với anh chỉ là một bầu trời vật chất, với những thiên thể
vật chất, những hành tinh lạnh lẽo, vô hồn. Ngàn sao lấp lánh kia không còn là
những sinh vật sống động, đầy cảm tính, y hệt như những con người. Không còn nữa
những vì sao của tuổi thơ! Tuy vậy, trời đêm và sao sáng vẫn làm dịu đi những nỗi
buồn phiền, những niềm thương nhớ.
Huy vòng hai cánh tay ra sau đầu, thầm đếm những vì sao rải
rác phía trên ngọn cây dầu độc mộc giữa trảng. Một, hai, ba....một trăm lẻ một,
một trăm lẻ hai...Chợt nhiên, một vì sao -vì sao thứ một trăm lẻ bốn - ngày
càng to lên, to lên...Rồi nó chợt nhoẻn miệng cười với Huy thật dịu dàng. Nó mở
đôi mắt đầy âu yếm nhìn Huy. Không phải là vì sao, mà là má! Má đang mỉm cười lặng
lẽ. Mái tóc của má trôi dài, bay bay giữa trời đêm thênh thang vằng vặc, lóng
lánh triệu triệu những tinh cầu bé xíu, li ti...
Từ sau Mồng Mười Tết, mưa liên tiếp mấy hôm liền. Trời thấp,
xám màu chì và nặng trĩu. Trong toàn đơn vị, không khí im lìm, vắng lặng hẳn
đi. Mọi người chỉ bước ra ngoài khi có việc cần. Họ chui rúc trong lều đánh tiến
lên, hay nằm bên nhau tâm sự.
Huy ngồi co ro, vừa nghĩ ngợi lan man, vừa lơ mơ nghe tiếng
Phước và Danh trò chuyện lẫn vào tiếng mưa rào rào vỗ trên mái lá. Danh đang kể
một câu chuyện gì đó về miền Mộc Hóa, Long An, quê hương của anh, Huy nghe
loáng thoáng những tình tiết về con vện, con vàng... mấy con chó săn tinh khôn
mà Danh rất cưng hồi còn ở nhà.
Trong tiểu đội, Danh là một trong những lính mới được nể nang
nhất. Anh đi hành quân mang vác, đào công sự chiến đấu thật dẻo dai, không thua
gì cánh lính cũ. Thoạt nhìn, Danh không có vẻ gì là một người mạnh khỏe, anh
cao lòng khòng, ốm nhách. So với Minh, Hùng, cũng lính cuối 84, dân Thành phố,
Danh ốm yếu hơn nhiều.
Theo lời Danh kể, từ nhỏ anh đã làm việc nặng nhọc, vất vả mà
ăn uống thì lại quá thiếu thốn, kham khổ.
Hôm đánh lên Ampil vừa rồi, không có Danh, thì Huy chắc phải
xỉu đi vì quá mệt. Hồi ở Quang Trung, bọn Huy cũng thường đi hành quân dã ngoại,
cũng mang vác nặng. Nhưng so với hành quân thật sự thì thật khác nhau một trời
một vực.
Ở trường, hành quân tà tà như đi dạo. Mệt thì nghỉ. Chỉ huy đại
đội lúc đầu có vẻ nghiêm khắc nhưng về sau rất dễ, nên bọn Huy được thể cứ làm
nũng như con nít. Thật sự, lúc đó cũng không có gì nặng mấy, chỉ là các bộ phận
tách rời của khẩu 12 ly. Còn vừa rồi, lần đầu tiên Huy đi một mạch năm sáu cây
số mới được nghỉ giải lao. Sau lưng là chiếc ba lô, ngoài quần áo, tư trang là
một thùng đạn K.56 và mớ liều phóng, ngòi nổ cối 82; một can vàng bốn lít nước
cột lủng lẳng dưới nắp ba lô; trên vai là một gánh sáu quả cối 82, chiếc ruột
tượng bảy ngày gạo; cộng thêm khẩu AK quàng qua vai và chiếc bao se ba băng đạn,
một bình toong nước xệ xệ bên hông. Trung bình, mỗi người lính mang trên người
khoảng ba mươi ký.
Ði được khoảng ba cây số, đầu Huy đã lùng bùng. Ðôi chân Huy
phồng dộp lên từ lúc nãy, giờ những chỗ đó tróc da, cọ xát vào giầy làm anh đau
điếng. Nhất là vì nền cát, mùa khô co cứng lại như bê tông, cứ dội ngược lại dưới
gót giày sau mỗi bước nặng nề. Huy nhìn người phía trước, Minh cũng không khá
gì hơn anh, đang xuýt xoa rên rỉ. Tuy vậy, Huy cũng cố đi được cho đến chỗ giải
lao đầu tiên. Huy ngồi bệt xuống, ngã người ra, lưng dựa vào chiếc ba lô. Anh
nhắm mắt lại một lúc, rồi lại mở ra. Cổ họng Huy khô rát vì cơn khát. Anh run
run mở nắp bi đông. Những ngụm nước mát lạnh đi vì không khí ban đêm. Không còn
là những ngụm nước bình thường nữa: nước lã giờ như trở thành dưỡng chất, thành
rượu quỳnh ngon ngọt khác thường. Trong những lúc như thế này, Huy nhận ra nhu
cầu của con người đến lúc thiết yếu nhất, khi chịu sự thiếu thốn tột cùng nhất,
khi gần kề cái chết nhất, chỉ là rất ít oi: không khí để thở; nước để uống; và
cái gì đó để ăn. Rồi tình yêu cuộc sống lại quay về, và ta lại có thể bình an
nghĩ ngợi, ước mơ. Vâng, chỉ bấy nhiêu đủ để ta thấy trong ta cuộc sống tràn đầy,
rạo rực...
Huy uống rất chậm và dè sẻn. Chí Phèo đã dặn trước với anh
khi hành quân không được uống nhiều nước, càng ít thì càng tốt, vì uống nhiều,
mồ hôi toát ra quá mức sẽ làm kiệt sức rất nhanh. Mặt khác, giữ cho lúc nào
bình toong cũng còn nước là điều cốt tử ở vùng đất khô cằn này.
Ðến lúc tiếp tục hành quân, anh chỉ đi được vài bước đã thấy
choáng váng, hai bàn chân đã nguôi đau, giờ lại càng hành hạ anh tệ hại hơn lúc
trước. Huy bước ngày càng có vẻ chập choạng. Danh đi phía sau vội nói nhỏ:
- Anh đưa cho tui vác phụ gánh cối một lúc cho.
Huy ngần ngừ, rồi lắc đầu. Danh cũng đâu có nhẹ gì hơn anh.
Là chiến sĩ, Danh không mang AK, nhưng trong ba lô anh là hai thùng đạn, liều
ngòi cối, và trên vai là tám, chứ không phải sáu quả cối như Huy. Huy cố bước
thêm một lúc thì quị xuống. Danh giằng lấy gánh cối:
- Tui còn khỏe, cứ để tui vác một lúc. Anh đở mệt là tui giao
lại liền.
Lần này, Huy không còn đủ sức và ý chí để từ chối sự giúp đỡ
chân thành của Danh. Thế là Danh nghiêng vai còn lại gánh luôn gánh của Huy. Quả
thật, không có gánh cối, anh cảm thấy nhẹ hẳn đi, khỏe lại. Ðược một quảng, Huy
ngoái lại. Danh vẫn bước bình thường, nhưng hơi thở đã nghe nặng nề. Mình nhẹ
được một phần, thì Danh lại càng nặng thêm gấp hai ba nữa - Huy nghĩ. Anh bỗng
thấy một sức mạnh không biết từ đâu đến, đánh tan hẳn những nhọc mệt và cơn nhức
nhối ở hai chân. Anh giơ tay đón lấy gánh cối:
- Cám ơn Danh, mình đã khỏe rồi.
Và từ đó, Huy thật sự quên đi những khổ sở, nhọc nhằn. Anh
nghĩ về những kỷ niệm vui, những hình ảnh thân thương êm ái, rồi thầm cười khẽ
một mình. Cuộc hành quân đêm trôi đi một cách nhẹ nhàng, không còn là cơn ác mộng
dài khủng khiếp như lúc nãy với anh...
Buổi chiều cuối cùng trước khi trận địa dứt hẳn tiếng súng,
Huy cùng một nhóm ba người khác cáng thương từ tuyến trước về trại cấp cứu dã
chiến của K.23. Nắng ong ong chiếu xuống làm anh mệt rũ cả người. Cả nhóm đã
liên tục lên xuống suốt hai ngày qua, lên tải đạn, về tải thương như con thoi
không ngừng nghỉ. Chuyến cuối cùng họ cáng một liệt sĩ của D.2 đã hy sinh từ buổi
tối qua, nhưng để tại chỗ để ưu tiên cáng các thương binh trước. Cố gắng về đến
một chỗ còn cách K.23 khoảng nửa cây, sau khi giao lại cáng cho hai người khác,
Huy thấy đầu bưng bưng nhức nhối, hai mắt hoa lên. Anh bảo Danh:
- Danh đi trước đi, mình ngồi nghỉ một lát đã.
Danh gật đầu, lo âu nhìn Huy:
- Ừ, anh về sau, tui lên đi chung với hai thằng nó để có gì
tiếp tay. Tụi nó cũng phờ phạc lắm rồi.
Huy gieo người xuống, nửa nằm nửa ngồi, một tay tì lên mặt đất.
Anh tháo cái bi đông nước bên hông, đưa lên đôi môi khô rộp. Chỉ còn không đầy
một nắp bi đông đọng dưới đáy. Huy nốc cạn, thấy cơn khát vẫn chẳng bớt tí nào.
Anh mệt nhọc nhắm nghiền đôi mắt lại. Rồi vài giây sau, không gượng được, anh nằm
lăn ra nền cát, kế bên một bụi le cằn cọc, mặc cho những con ong ruồi nhỏ xíu
bu bám vào mặt mũi, mặc cho ánh nắng xiên khoai chói chang đổ xuống. Khi Huy mở
mắt ra, trời đã bắt đầu xế bóng. Anh gượng dậy, tìm đường tắt đi về.
Về đến trại, Huy chui vào lều nằm bất động. Anh mê man cho đến
trưa hôm sau. Nghe tiếng gọi dậy ăn cơm của Phước nhưng Huy vẫn thấy người rã rời,
không biết đói. Phước vào lay lay Huy:
- Nè, gắng dậy ăn một chén cho khỏe. Mệt mà nằm hoài là bị sốt
luôn đó.
Huy lắc đầu, nhắm nghiền mắt, yếu ớt nói:
- Mình không đói. Cứ mặc mình.
Một lúc sau, Danh cầm chén cháo bốc khói chui vào. Anh đỡ Huy
ngồi dậy.
- Tui lấy cơm nấu lại thành cháo cho anh dễ húp. Ráng đi.
Huy nhìn Danh xúc động. Anh cố húp hết bát cháo dù miệng lưỡi
đều thấy đắng nghét, không muốn ăn uống gì. Danh lại bưng chén nước nóng vào,
tay kia cầm hai viên thuốc giục Huy uống. Sau khi ăn cháo, uống thuốc, nằm nghỉ
khoảng hai tiếng, Huy thức giấc và thấy người khỏe hẳn. Anh đã có thể ngồi dậy,
đi lại được, dù còn hơi run rẩy...
Danh chợt quay sang Huy cất tiếng hỏi:
- Anh còn giấy không cho tui xin một tờ. Viết thư cho con nhỏ
bồ.
Huy gật đầu:
- Còn, chờ chút mình lấy liền đây.
Hôm vừa mới sang, Huy mang theo sổ sách lỉnh kỉnh rất nhiều.
Ba cuốn sổ, trong đó có một cuốn đang ghi dở, mấy cuốn tập học trò ghi bài giảng
hồi học ở H.15, mấy cuốn sách Anh văn, và vài cuốn truyện. Xui một cái là từ
bên nước qua, Huy bị đưa thẳng vào rừng, nơi đang tạm đóng quân chuẩn bị vào
chiến dịch. Anh không được ghé hậu cứ, nên bao nhiêu hành lý, tư trang đều dồn
hết vào ba lô, cõng hết suốt một mùa chiến dịch. Lúc nghỉ giải lao trong cuộc
hành quân đầu tiên, anh đã vứt bỏ hết mấy cuốn vở ghi bài, sách Anh văn và truyện.
Giờ nghĩ lại, Huy tiếc quá chừng. Huy rứt mấy tờ đôi đưa cho Danh, cười cười:
- Nè, mai mốt về làm đám cưới nhớ đánh điện tín mời tui xuống
dự với nghe ông.
- Yên chí đi!
Phía ngoài lều có tiếng chân bước bì bõm trên mặt đất ngập nước
mưa, tiếng sột soạt của tấm nylon, rồi Minh ló đầu vào:
- Huy ơi, anh Thái kêu anh lên đại đội. Mang theo toàn bộ ba
lô, tư trang để nhận nhiệm vụ mới.
Huy không ngạc nhiên, anh đã biết không sớm thì muộn anh phải
chuyển về đơn vị mới. Hồi mới sang, vì đang chuẩn bị đánh một trận quá căng,
nên người ta không đưa anh về ngay đơn vị trực tiếp chiến đấu, mà tạm đưa vào đại
đội tải của trung đoàn. Bây giờ là thời gian cho các đơn vị huấn luyện phối hợp
quân binh chủng để tiếp tục đánh cứ 201, anh phải về đơn vị hỏa lực để cùng tập
luyện chuẩn bị chiến đấu. Mặt khác, cũng là để bổ sung quân số cho các đơn vị bị
tổn thất thương vong. Dù sao, Huy cũng cảm thấy buồn buồn. Anh đã chia sẻ với
anh em C.22 cái Tết xa nhà đầu tiên, chia sẻ với họ những chén rượu ấm nồng
tình nghĩa, đã có những đêm nằm tâm sự, giờ chia tay sao tránh khỏi nỗi buồn.
Anh gom mấy thứ linh tinh nhét vào túi cóc, bàn giao khẩu AK
cho Phước, rồi nhìn hai người nói:
- Thôi tạm biệt các bạn. Chúc mạnh giỏi, công tác tốt. Cho
mình gửi lời chào anh Hòa, anh Trường, anh Chí và các anh em khác.
Phước và Danh gật đầu, buồn hiu nhìn Huy:
- Chúc anh về đơn vị mới mạnh giỏi, bình an.
Huy xốc ba lô lên vai, khoác tấm nylon lên đầu rồi chui ra khỏi
lều, đi về hướng nhà đại đội.
Ðại đội trưởng Thái đang ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu trải
giữa lều. Ðối diện với anh là một tay trẻ tuổi, Huy nhận ra đó là người đã lên
Sư đoàn nhận anh về dạo trước. Thái nói to khi thấy Huy bước vào:
- A, Huy đây rồi. Cậu vào làm chén trà cho ấm bụng. - Anh giơ
tay chỉ sang người đối diện - Ðây là cậu Phúc, trợ lý tổ chức động viên trung
đoàn, lát nữa Phúc sẽ đưa cậu về D3.
Huy gật đầu chào Phúc. Anh nói:
- Em đã cùng anh Phúc đi từ Sư về đây hôm trước chiến dịch.
- A, vậy là người quen cũ rồi, phải không, tốt, tốt lắm.-
Thái nghiêng người rót trà vào chén, rồi đưa cho Huy.
- D3 là tiểu đoàn cơ động mấy năm liền của Trung đoàn đó, anh
Huy ạ, đánh nhau cừ lắm - Phúc nói - Ông Văn D trưởng chịu chơi lắm, nhưng cũng
rất nghiêm. Lính ông Văn thì khỏi nói, công tác chiến đấu một cây, mà quậy cũng
bạo có tiếng.
Thái giơ ống thuốc lào lên rít sâu một hơi, phà khói mù mịt,
rồi đưa sang Huy:
- Làm một hơi đi, rồi lên đường. Từ đây qua D3 cũng mười mấy
cây số đó.
Huy cầm chiếc điếu cày, nhón một nhúm thuốc lào, châm lửa.
Anh đã tập tành chút chút cái món này từ hôm về C.22. Chí Phèo là đại sư phụ đã
huấn luyện cho anh kỹ thuật hút mà không bị sặc. Huy thấy thuốc lào hay hơn thuốc
lá. Nó làm người ta lâng lâng, ngây ngất tê người trong một thoáng. Chỉ cần hút
một hơi thôi, cũng đủ đô bằng cả mấy điếu thuốc vấn rồi. Ngồi cho tan hẳn cơn
say thuốc, Huy đứng lên, chào đại đội trưởng Thái:
- Thôi, em đi nghe anh Thái.
- Về đơn vị mới công tác cho tốt nghe Huy. Lâu lâu có dịp ghé
E bộ thăm anh em.
Huy và Phúc bước ra khỏi căn lều. Trời vẫn còn mưa lất phất.
Không khí thoang thoảng một mùi gì đó, thơm nồng. Hình như là mùi một thứ gỗ
thơm đang bốc cháy đâu đó trong một gian bếp gần đây. Phúc nhìn Huy, cười hỏi:
- Vừa qua, anh đã tham gia đánh nhau rồi đó, có run không?
- Sợ chết khiếp chứ sao không. Lúc mình tải đạn lên cho D2, đạn
nhọn của địch cứ chiu chíu xé qua tai, còn pháo thì nổ ầm ầm chung quanh, cách
không đầy chục mét.
- Về bộ binh còn kinh hơn nữa. Ðánh nhau liên miên, chứ không
khỏe như ở trung đoàn đâu. Sao anh không xin ở lại công tác bên nước?
- Lính mà, tổ chức phân công đâu, mình đi đó. Mình có muốn ở
lại cũng không được. Thật tình, mình cũng muốn qua đây cho biết. Qua rồi mới thấy
ngán.
Phúc gật gật đầu, nhưng không nói, như đang vướng bận một suy
nghĩ nào đó. Huy cũng không gợi chuyện thêm. Cả hai cúi mặt, bước nhanh hơn dưới
những làn mưa rơi xeo xéo.
Trời đã ngưng mưa khi hai người tới trại D 3. Lều tiểu đoàn nằm
trên một gò đất cao. Xung quanh là những lùm cây lúp xúp. Ở phía trước, xéo về
tay phải là một cây dầu lớn, hình dáng thật lạ lùng. Từ gốc đến khoảng một phần
ba thân đầu tiên của nó nghiêng một góc gần bốn mươi độ so với mặt đất. Rồi từ
cuối đoạn này, thân cây lại trở về tư thế tự nhiên chọc thẳng lên trời. Huy
nhìn nó, thầm nghĩ có lẽ lúc còn non, nó đã bị một con thú rừng làm gẫy ngang,
nhưng vẫn kiên cường vươn dậy. Một người lính trẻ đang ngồi bên gốc cây dầu này
đẽo gọt một cành cây nhỏ, đường kính khoảng bốn phân, chắc để làm cán cuốc. Anh
ta nhìn thấy Huy và Phước, buông con dao và cành cây xuống đất, đứng lên đi về
phía họ. Khoảng cách thu ngắn đủ để Huy nhìn rõ người lính. Một khuôn mặt rắn rỏi,
da ngăm ngăm sạm nắng, đôi mắt đen lanh lợi, vui vẻ, vóc dáng cao to, khỏe mạnh.
Phúc cất tiếng:
- Chào đồng chí, có anh Văn ở nhà không vậy?
Người lính trẻ gật đầu, đưa mắt nhìn Huy như đánh giá, rồi lại
nhìn sang Phúc, trả lời bằng một giọng đặc sệt đồng bằng Nam bộ:
- Anh "Dăng" ngồi trong lều. Mời hai anh
"dô" trong.
Tiểu đoàn trưởng Văn đang ngồi hý hoáy viết gì đó bên cái bàn
dã chiến trong lều. Bốn chân bàn là bốn thân gỗ chôn sâu xuống đất, phía trên đầu
là một chạc hai để đỡ một thanh ngang. Mặt bàn đan bằng các thanh tre, được cột
lại bằng những sợi dây xanh. Anh ngước lên gật đầu chào khi thấy người lính trẻ
dẫn Huy, Phúc bước vào, rồi tiếp tục cúi đầu viết. Người lính trẻ kéo Huy, Phúc
tới một cái băng dài, thấp, cũng một kiểu dáng như cái bàn, nhưng bề ngang hẹp
vừa đủ để ngồi, anh nói:
- Hai anh ngồi uống nước, nghỉ mệt, chờ anh "Dăng"
một chút.
Anh ta tới bên bàn, nghiêng chiếc can rùa rót vào hai cái bát
một thứ nước xanh xanh, rồi bưng lại.
- Ðây là nước hà thủ ô, hai anh uống đi, mát lắm.
Huy và Phúc đón lấy, uống một hơi cạn chén, rồi đưa mắt nhìn
quanh quẩn. Trong lều trống trơn không có gì ngoài cái bàn và mấy cái băng ghế.
Trên vách lều treo ba cái ba lô, và ở một góc là cái giá súng với hai khẩu AK.
Dù sao cũng là tinh tươm hơn rất nhiều so với nhà đại đội của Thái, chẳng có
bàn ghế gì, chỉ ngồi bệt dưới đất là xong.
Tia mắt Huy xoay trọn một vòng, rồi trở về điểm xuất phát là
tiểu đoàn trưởng Văn. Anh trạc ba mươi, ba mốt gì đó, cao dong dỏng, vai gầy
nhưng rộng. Gương mặt lại có vẻ trắng trẻo, thư sinh, khác xa hình ảnh Huy hình
dung về anh trên đường lúc nãy. Trên mặt anh có một nét gì đó là lạ, vui vui,
dù lúc này Văn đang nghiêm nghị làm việc. Huy để ý quan sát thêm giây lát, rồi
nhận ra chính vì cái miệng của Văn. Nó hơi méo, chếch lên bên phải, làm Văn lúc
nào cũng như đang nhếch miệng muốn cười.
Khoảng hai phút sau, Văn viết xong. Anh gấp quyển sổ lại, ngẩng
mặt nhìn Huy, Phúc, đôi mắt đen sáng nheo lại, anh cười ha hả:
- Xin lỗi hai cậu, mai tớ phải lên trung đoàn báo cáo phương
án tác chiến nên cố một tí cho xong. Nào, tớ nhớ không lầm thì hôm qua thông
tin trung đoàn báo cậu sẽ dẫn cậu Huy xuống, có đúng là Huy không Phúc?
Phúc gật đầu xác nhận:
- Vâng, ảnh tên Huy, tốt nghiệp lớp hạ sĩ quan ở H.15 bên nước,
sang đây hồi tháng Mười hai năm ngoái. Vừa rồi ảnh nằm ở C.22, công tác cũng tốt
lắm anh ạ. Hồi nãy trên đường tới đây, em cũng đã giới thiệu sơ với ảnh về D3 rồi.
Nhất là giới thiệu rất xôm về vị tiểu đoàn trưởng ngon lành là anh. Sao, có gì
thưởng công không thủ trưởng?
- Lại còn thế nữa! Cậu đã nói xấu tôi những gì, chưa phạt thì
thôi, còn đòi thưởng. Này, bước tới gần đây, tôi thưởng cho...
Phúc phá ra cười:
- Thôi, em quá biết cái món điểm huyệt của anh rồi, dại gì!
Nè anh Văn, trưa nay em báo cơm D3 đấy nhé. Lo giết gà vịt đón khách đi là vừa.
- Ở đây làm gì có, chỉ có món "bò hóc quân đội" đãi
cậu thôi - Văn cười ha hả, rồi quay sang Huy, anh nói - Huy này, cậu lại đây, để
tớ giới thiệu sơ về tiểu đoàn cho cậu biết. Tớ là Thạch Văn, quê ở Cao Bằng, chắc
cậu biết rồi..
Sau đó, Văn kể cho Huy nghe về tên tuổi của các cán bộ tiểu đoàn và đại đội, các trung đội trực thuộc, tình hình tổng quát của tiểu đoàn, rồi
bảo:
- Bây giờ, cậu sẽ về trung đội 12 ly bảy, đúng như chuyên môn
của cậu. Nhưng tạm thời, cậu vẫn chỉ là chiến sĩ thôi. Vì cậu mới về mà nắm chức
chỉ huy khẩu đội ngay thì anh em không phục. Với lại, cậu cũng chưa có kinh
nghiệm thực tế là mấy, cũng chưa làm được đâu. Cứ cố gắng công tác, chiến đấu
cho tốt, rồi tự khắc khi anh em trung đội đề xuất lên, tôi sẽ chính thức bổ nhiệm
cậu. Vậy nhé, có thắc mắc gì nữa không?
- Dạ không. Vậy em xin phép được về B ngay, nghe anh Văn.
- Vội gì, cứ ở đây, cơm nước xong xuôi, tớ bảo thằng Kiên đưa
cậu xuống dưới. Giờ cậu xuống thì chẳng còn cơm đâu mà ăn.- Văn đảo người tìm
Kiên, liên lạc tiểu đoàn, nhưng Kiên đã đi đâu ra ngoài, anh gọi to - Kiên ơi!
Em coi cơm chín chưa dọn lên đây nào.
Ngoài kia, mưa lại bắt đầu rơi lất phất. Từ sau gian lều thoảng
ra mùi ruốc cá xào, Kiên bê mâm cơm và thức ăn lên.
Chương
4
"... Mưa. Mưa ròng rã mấy ngày liền. Cả cao điểm chỉ còn
là một chiếc màn nhạt nhòa màu trắng xám..
Mưa tầm tã suốt những ngày, rào rào đập xuống mái túp lều dã
chiến, như một tay đàn bass trong cơn cao hứng. Mưa lặng thầm rỉ rả suốt những
đêm, như muốn kể lể một điều gì, than van giùm ai đó.
Con sáo Chíp của Ụ Mối không nhảy loi choi phá phách như thường
lệ. Nó chui vào nép mình trong một góc nắp ba lô nằm im thin thít, chỉ có hai
con mắt tròn xoe tinh nghịch là vẫn láo liêng nhìn ngó mọi người như dò hỏi, thắc
mắc: "Sao lạnh thế? Sao buồn thế? Sao không thấy mặt trời với những tia nắng
vàng tươi ấm áp?".
Dạo đầu tháng Giêng, khi đơn vị vừa lui về đây dựng trại, nắng
đến sẩu cả người. Nắng cứ ong ong chiếu thẳng xuống đầu, nóng rừng rực như muốn
nung đỏ cả giải cát trắng bìa rừng, muốn sấy khô những cành lá xác xơ, khô cằn
đầy bụi của những lùm những bụi, những gốc cổ thụ già nua. Rồi từ cơn mưa đầu
mùa trái nết một ngày cuối tháng Hai, trời mưa mãi, tối trời tối đất.
Trận mưa đầu tiên, cả trung đội mừng phát khóc, khoái chí vô
cùng.
Họ mừng vì không khí sẽ mát mẻ, dễ chịu, đêm không còn phải nằm
trăn trở, mồ hôi tươm ra nhớp nhúa; vì lũ ruồi nhặng đông đúc đến kinh hoàng,
không biết từ đâu kéo đến sẽ không còn tác oai tác quái; vì không còn phải vất
vả hằng ngày lên hồ Ampil cách đó bảy tám cây số để tắm giặt, tải nước về
dùng...
Mọi người ùa ra, reo lên khi những giọt nước ngọt ngào bắt đầu
trút xuống liên miên, bắt đầu dệt thành một chuỗi vô tận trắng mờ mịt những hạt
nước mưa to nặng. Mưa! Mưa rồi! Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống...
Họ lột phăng quần áo ra cầm trên tay quay tròn vun vút, mình
trần như nhộng, như trẻ thơ vừa mới lọt lòng, như những thiên thần hồn nhiên vô
tội. Rồi cả bọn nhảy tung tăng, đứa hát, đứa gào lên những lời vô nghĩa, đứa nằm
lăn ra, ngửa mặt, xoảy tay chân, há hốc miệng, cho mưa tràn trề rơi xuống vỗ về.
Mưa đi! Cứ mưa đi! Mưa cho quét sạch bụi bặm trần gian, quét
sạch những nỗi buồn lo, quét sạch những suy tư nhớ nhung căng đầu căng óc. Cho
chúng tôi hóa thân, trộn lẫn vào với những giọt nước ngọt mát trong veo...
Nhưng rồi mưa như muốn thỏa lòng nguyện ước của họ, nên cứ
hào phóng rơi mãi, tuôn trút dầm dề suốt cả tuần. Mưa trắng trời trắng đất, chẳng
có đồ sạch mặc vì treo phơi mãi mà quần áo chưa chịu khô cho. Cũng chẳng thể kiếm
chác cải thiện gì được với những cơn mưa ào ạt. Chỉ có nước là nhiều, lúc nào
cũng tràn trề mấy cái bồn làm bằng mấy tấm nylon đi mưa trùm lên hố đất. Nắng
mãi cầu mưa, mưa hoài nhớ nắng. Thiên nhiên có bao giờ ban phát bình quân đều đặn,
không thừa không thiếu theo ý muốn con người..."
Quân miệt mài ghi chép. Anh đang viết một bút ký để gửi cho tạp
chí Văn nghệ Quân đội. Không khí lành lạnh, ẩm ướt và tiếng mưa rơi đều đều bất
tận làm anh thấy nao nao. Trong lều tối om om, cả ngoài trời cũng một màu u ám.
Mọi thứ đều xám, lạnh, buồn, nhưng chứa đầy sinh lực bên trong, khơi dậy niềm cảm
hứng.
Có lẽ kỳ này Ban biên tập sẽ không gạt bỏ bản thảo của anh.
Nó đã được viết trong niềm rung động sâu xa. Nó gắn chặt, quyện vào với những cảm
xúc chân thật, đầy sức sống, và toàn là những điều có thật. Ðây không phải là một
câu chuyện kể bình thường. Ðây chính là những nụ cười, nước mắt, những giọt mồ
hôi rơi xuống ướt đẫm chiếc áo lính bạc màu; là ánh nắng vàng rực rỡ lúc cuối
ngày hắt xuống cánh rừng dầu; là những khoảnh khắc mong manh, thiêng liêng giữa
cuộc sống và cái chết của đồng đội, bạn bè anh...Nghĩa là toàn bộ cuộc sống của
bọn anh ở đây, trong những tháng ngày này, đã thu gọn, biến hình, chuyển hóa thành con chữ.
Tiểu đoàn đã lui về đây nằm chốt từ sau đợt tấn công Ampil để
huấn luyện phối hợp quân binh chủng với tăng, pháo chuẩn bị cho trận đánh lớn kế
tiếp. Những ngày tháng tương đối nhàn hạ và yên tĩnh với đơn vị của anh - một
trung đoàn cơ động của Sư, một trung đoàn cứ xê dịch, hành quân di chuyển miệt
mài suốt hàng trăm ki lô mét dọc chiều dài biên giới vùng Tây bắc, đánh nhau hết
trận này tới trận kia, hết trận to sang trận nhỏ ngay từ trước khi anh về đơn vị.
Cánh rừng này nằm cách hồ Ampil khoảng tám cây số đường chim
bay về hướng Tây Nam. Một cánh rừng thưa, chủ yếu là cây dầu cổ thụ, đứng rải
rác trên nền cát trắng, hệt như cát ở vùng Củ Chi quê ngoại của Quân. Ở đây quả
là nhàn thật, quá nhàn là đằng khác. Các đơn vị của Polpot và Sonsan giờ nằm dạt
đâu đó ở trên đất Thái, đã mất hồn và kiệt quệ sau đợt tấn công vừa rồi. Chúng
còn đang co cụm, củng cố lực lượng chờ phục hồi sinh lực, nên cũng chẳng hơi sức
đâu mà lén lút bò sang quấy nhiễu. Ðây là những tháng ngày bình yên, những
tháng ngày hiếm hoi quý báu cho sự nghỉ ngơi và trở lại với cuộc sống không tiếng
súng, không vất vả, không có những phút giây căng thẳng khi ém quân chờ giờ nổ
súng. Nhưng đôi khi, bọn anh cũng hơi buồn, nhớ những cuộc hành quân đầy phấn
khích, nhớ những đợt xung phong, nhớ mùi thuốc súng tỏa ra khét lẹt một vùng trận
địa.
Quân viết thật sẻn so, với những dòng chữ li ti, mỏng mảnh.
Giấy ở đây là thứ quá hiếm hoi. Mấy quyển vở học trò anh mua
khi ở Cứ giờ chỉ còn lại có dăm cặp giấy đôi. Có khi ở tòa soạn tạp chí, người
ta đã vứt bỏ những bản thảo trước của anh ngay từ đầu, khi thấy chúng viết trên
cả hai mặt giấy; vứt bỏ một cách bực dọc mà không buồn liếc qua xem chúng ghi
chép những gì, dù anh đã cẩn thận ghi ở đầu mảnh giấy một dòng chữ to đầy khẩn
thiết, van nài: "XIN VUI LÒNG THÔNG CẢM, CHÚNG TÔI KHÔNG CÓ GIẤY!" .
Quân nghĩ, ở tòa soạn báo Quân đội, dĩ nhiên đa số trong Ban
biên tập phải là con nhà lính, nếu không phải là tất cả. Và đã là lính, tất họ
phải hiểu giấy là thứ quí hiếm đến thế nào ở chiến trường. Họ phải biết nỗi xót
xa phải xé dần, xé dần những lá thư của người yêu ở xa xôi, những dấu tích duy
nhất, thân thương liền khúc ruột ấy của người mình yêu mến để cuộn thuốc rê. Ấy
là vì tình đồng đội.
Có những thằng chẳng bao giờ lưu tâm tới chuyện giấy má thư từ.
Với đứa này thì vì mù chữ, với đứa kia vì bị phụ tình, đứa nọ gia đình ở quê
nhà đã từ lâu không còn liên lạc gì nữa. Nhưng tụi nó cũng cần giấy, dù chỉ là
để vấn thuốc mà thôi. Và những tờ giấy, dù là giấy vở trắng tinh chưa dính chút
mực, hay là trang thư chứa đầy những lời thương nhớ thiết tha, là giấy báo mềm
mại dễ dùng, hay là giấy đen khổ to để viết công văn, báo cáo cứng còng, dòn rụm... đều
cùng với thuốc rê, hay với lá hà thủ ô biến thành khói nhuộm đen buồng phổi của
những kẻ xa nhà.
Bạn có thể nhịn thèm, chờ một dịp may nào đó, khi có một tờ
báo hay một quyển tạp chí chôm được hay xin được ở Trung đoàn. Nhưng nếu bạn là
người "giàu có" , là tiểu chủ nắm quyền sở hữu một vài manh giấy, bất
kể giấy gì, bạn đâu thể nhìn bạn bè mình bứt tóc bứt râu vì thèm thuốc, nhất là
khi còn thuốc mà giấy đã hết rồi. Và những điếu thuốc chẳng giống ai ấy lại rất
ngon, ngon hơn bất kỳ thứ thuốc thơm nổi tiếng nào trên trái đất. Chúng ngon vì
sự thiếu thốn, vì sự chia sẻ, vì tình cảm đồng đội thân thương gắn bó.
Nói đến giấy, mà không nói đến tem, là một thiếu sót vô cùng
trầm trọng. Mỗi người được phát ba con tem quân đội mỗi quý. Thật là chẳng thấm
vào đâu! May mà có những đứa chẳng khi nào dùng đến chúng như đã nói trên. Vậy
là mọi con tem được phát ra cuối cùng đều được sử dụng cho sứ mệnh thiêng liêng
cao quý của chúng. Hoặc là dán lên những cánh thư, hoặc là dán lên những phong
bì đựng bản thảo phụng sự cho văn học.
Nói đến phong bì, lại đẻ ra thêm một chuyện. Lính làm gì có
những phong bì đúng nghĩa. Phong bì, nghĩa là một mảnh giấy, có khi lem nhem chữ
nghĩa, hình vẽ lăng quăng, được gấp lại, dán bằng cơm nguội một cách lôi thôi.
Tuy nhiên, nói đi rồi nói lại, cũng có những khi anh em ta được một thời phủ
phê, giàu có. Nào giấy, nào vở, nào thuốc điếu, thuốc lào, bánh kẹo, thư từ động
viên thăm hỏi của mấy cháu thiếu nhi... Ấy là những dịp bắt đầu vào mùa chiến dịch,
hoặc những dịp lễ lớn ở quê nhà. Nhưng những dịp đáng yêu như vậy cũng ít oi có
thấm vào đâu, và thiếu thốn vẫn hoàn thiếu thốn.
Những trang bản thảo của Quân đã lôi thôi như vậy về hình thức,
nhưng cũng còn dễ chấp nhận được nếu mọi chuyện chỉ dừng ở đó. Thế nhưng không,
bản thảo của anh lại còn mang đủ màu đủ sắc. Mực viết Bic xanh dương đậm. Mực
bơm vào viết máy tim tím, xanh lá mạ non nguyên là thuốc màu nhuộm vải xin được
của dân dạo còn ở Cứ. Rồi có khi là những đoạn ghi bằng bút chì. Bởi vì một
truyện viết ở đây có bao giờ đi một lèo thẳng tắp. Chúng luôn bị ngắt ngang đột
ngột ở một đoạn, một dòng nào đó, vì một ngàn lẻ một lý do: địch tập kích, hành
quân chiến đấu, đi công tác, bị lên cơn sốt... Và những dòng chữ này còn có khi
nhem nhuốc, nhạt nhòa vì thấm nước mưa, đến không tài nào đọc được. Mỗi khi phải
bỏ một trang bản thảo bị sự cố như vậy lòng Quân đau như muối xát.
Trăm nỗi đoạn trường, trăm điều cay đắng như vậy đối với từng
bản thảo gửi đi - bản thảo duy nhất, không có bản nháp mà cũng không có bản lưu
- thế nhưng những truyện của anh vẫn không được ghé mắt đến, hoặc cũng có khi
chúng được chiếu cố đăng rồi, nhưng Quân không thể biết.
Ở đây, có khi hàng mấy tháng trời chẳng có gì để đọc. Và những
tờ báo, tạp chí rách tươm, nhàu nát kiếm được ở Trung đoàn mang về, thì cũng đã
quá lỗi thời, số này số nọ được chăng hay chớ chả có thứ tự gì. Có khi lúc đó
là tháng Mười, tụi Quân kiếm được số của tháng Một, tháng Hai tận hồi năm
ngoái. Biết đâu chúng đã được đăng trong những cuốn mình chưa đọc - Quân tự an ủi,
và vẫn tiếp tục bỏ một phần giấy hiếm hoi của mình để viết, không vì điều gì
khác ngoài một sự thật đơn giản: viết đối với anh là một niềm thôi thúc.
Quân đặt dấu chấm cuối cùng kết thúc câu chuyện, rồi vươn vai
thở phào vô cùng khoan khoái. Nó đã được khởi đầu từ dạo đơn vị còn nằm ở Cứ
chưa hành quân cơ động, nhưng viết giữa chừng thì biết bao công việc bận rộn để
chuẩn bị cho một mùa chiến dịch đã buộc anh phải tạm bỏ quên nó đi.
Ôi, cái sự viết lách, "văn-nghệ-văn-gừng" này thật
là kỳ lạ! Nó hành hạ người ta, làm người ta quên ăn quên ngủ, làm người ta đầu
óc nóng bừng như muốn nổi điên lên với bao nhiêu câu hỏi: Phải tiếp tục câu
chuyện dở dang như thế nào đây? Phải dùng từ nào để diễn tả những khoảnh khắc
này với bao ý nghĩa? Cây bút này có chịu vâng lời, tuân phục tôi không? Có run
rẩy theo nhịp tim tôi run rẩy, có tuôn trào trên mặt giấy như máu tôi đang cuộn
chảy rạo rực trong người? Hay là nó cương quyết bướng bỉnh kháng cự lại điều tôi
muốn nói? Viết! Thật là nhẹ nhàng, mà cũng thật là vất vả. Nhưng nó cũng thật
diệu kỳ, làm tâm hồn sung sướng, lâng lâng phơi phới biết bao. Hạnh phúc khi viết
rất là giản dị, nhưng lớn lao không có gì so sánh được, khi có một đoạn, một
câu ưng ý, nói lên đúng những cảm xúc, ý tưởng sâu xa.
Quân quay qua Ụ Mối. Nó đang cặm cụi vót những nan tre tròn
trỉnh, nhỏ xíu để đan một chiếc lồng cho con sáo cưng của mình. Quả là Ụ Mối rất
cưng con sáo. Rừng tre gai cách đây đâu phải gần gì, mười mấy cây đường rừng.
Thật ra, con Chíp không ưa gì những chiếc lồng. Nhưng khi hành quân di chuyển, Ụ
Mối buộc phải nhốt nó vào lồng. Nếu không, khi dừng lại nghỉ giải lao, con quỷ
hiếu kỳ ham chơi này có thể mải mê săn đuổi, tán tỉnh một nàng sáo xinh xinh
nào đó, và không kịp trở về khi đơn vị tiếp tục hành quân. Chiếc lồng cũ đã bị
bẹp rúm lại khi Ụ Mối lăn mấy vòng để tránh một làn đạn xối xả của địch khi
đánh vào cửa mở ở Ampil hồi đầu năm. Ụ Mối tiếc muốn đứt ruột, nó cứ lầm bầm
nguyền rủa bọn địch ác ôn đã làm hư chiếc lồng quý báu, sườn lồng không phải
làm bằng thứ tre tầm thường mà là những thanh gỗ gõ đỏ đã được nó trau chuốt
công phu, cạo vuốt bóng loáng. Dù sao, Ụ Mối ắt cũng mừng thầm là con Chíp vẫn
bình an vô sự.
Hồi chuẩn bị đi, Quân đã ngăn không Ụ Mối mang theo con Chíp.
Nhưng nó cũng lén lút bằng cách nào đó xách theo vì không muốn xa con chim cưng
lâu như vậy.
Quân hỏi:
- Già Hương và thằng Thuận đi đâu mất rồi Ụ Mối?
Ụ Mối không ngẩng đầu lên, làu bàu nói:
- Hai bọn hắn đi kiếm gì về làm thức ăn rồi. Em đòi đi, ông
già không cho, còn bảo em "xúi quẩy" lắm, đi theo chỉ tổ trù ẻo cho
xui thêm. Anh thấy có bực không! Hừ, hồi còn ở Tà Cuông, ai đi chém cá, săn
dộc về cho trung đội? Ai là tay săn thiện nghệ nhất của tiểu đoàn ngoài Ụ Mối
này?
Quân an ủi Ụ mối:
- Thôi mày đừng buồn. Ở đây đâu có cá hay có thú cho mày săn
bắt. Mà ông già dị đoan cũng phải, ổng là dân xứ đạo An Giang mà. Tại mấy lần
trước, có mày đi cùng, rạc cả giò nhưng có kiếm được cái quái gì đâu. Thật ra ở
đây chỉ có nước kiếm chút lá rừng chua về nấu canh, đâu cần gì đi đông. Ông già
muốn để mày rảnh rỗi làm cái lồng đó thôi, chứ không phải chê gì mày đâu, Ụ Mối
à.
- Phải chi trời nắng, em xách xẻng ra một loáng là có khối
dông về nướng.
Ụ Mối là biệt danh trung đội dành cho nó, chứ họ tên đầy đủ của
nó cũng văn hoa lắm: Phan Quang Dũng. Lý do của cái biệt danh này là vì tự
nhiên đã bố trí gương mặt quá tuổi dậy thì của Dũng một cách vô cùng quân sự,
mang tính phòng ngự cao độ - nghĩa là lỗ chỗ, lồi lõm những mụn nhỏ, mụt to và
sẹo mụn, hệt như một cái ụ mối thứ thượng hảo hạng. Mà ở chiến trường này, có gì
quý báu cho bằng một cái ụ mối hiện ra đâu đó khi đang đánh nhau long trời lở đất.
Ụ mối là một công sự thiên nhiên vững chắc, an toàn hơn hết. Vậy nên cái biệt
danh này không phải là một sự coi thường, mà trái lại, là một niềm vinh hạnh
cho người mang nó. Ụ Mối cũng thừa hiểu điều này, nên nó tỏ ra khoái trá vô
cùng.
Quê Ụ Mối là một huyện miền núi tỉnh Nghệ Tĩnh, nên nó đánh bắt
thú rừng rất giỏi. Những đêm nằm nhớ nhà, Ụ Mối cứ kể cho tụi Quân nghe về những
chuyến đi săn tuyệt thú của nó. Cái giọng trọ trẹ, khó nghe của Ụ Mối hồi mới về
đơn vị chả có ai nghe ra nổi, nhưng sau rồi cũng quen dần. Ở đây, tụi Quân gọi
mấy đứa quê ở Nghệ An, Hà Tĩnh là con nhà "Bọ". Bọ nghĩa là bố. Dân
Nghệ Tĩnh có lắm thổ ngữ, nên cũng tạo ra nhiều giai thoại vui đáo để. Ví dụ
như dưới đây là một trong số đó:
Trung đội vừa nhận được mấy thằng Bọ tân binh,về tới nhà, A
trưởng nói:
- Thôi, tụi bây theo thằng A. ra giếng tắm rửa đi rồi về ăn
cơm.
Tắm táp xong, mấy chàng lính mới quay về. Bữa cơm đã được dọn
lên, tinh tươm hơn ngày thường chút đỉnh để chào mừng đồng đội mới. Mấy tay cũ
ngồi quây quần lại bên mâm, bỗng ngạc nhiên khi thấy tụi tân binh vẫn đứng lóng
nga lóng ngóng.
- Nè, ngồi xuống ăn cơm đi chứ, tụi bây còn mắc cở gì nữa vậy?
- A trưởng nói.
Mấy đứa khép nép ngồi, còn một thằng vẫn đứng lơ láo.
- Ngồi xuống ăn đi chứ mậy, chờ gì nữa?
- Dạ dạ... em không có đọi!
- Không đói thì cũng ăn thêm một hai chén cho vui.
- Ơ, em không có đọi...!
- Thôi không đói thì thôi. Lính mà, thấy ăn là cứ nhào vô,
không chờ mời mọc nhiều lời, chừng nào đói mầy qua nhà bếp mà ăn nghe.
Tên lính mới nhìn mấy đứa đồng hương, rồi nhìn mấy cái miệng
đang nhai nuốt ngồm ngào mà nuốt nước bọt, vừa đói vừa tức mình, vừa sợ sệt
không dám nói gì.
"Ðọi" thổ ngữ Nghệ Tĩnh có nghĩa là chén. Nó đã làm
rớt cái chén B52 đâu đó trên đường. Thế nhưng do cái giọng địa phương, dấu sắc
thành dấu nặng, mà cánh lính miền Nam cứ nghĩ là nó nói không có đói! Ðến khi,
một thằng đồng hương ních hết chén cơm cuối cùng, đưa cho thằng này. Nó chạy ra
bồn nước trước nhà ngoáy mấy cái rồi nhào vào, bới cơm, ăn hùng hục như đói từ
ba đời ba kiếp nào trước những cặp mắt ngạc nhiên. A trưởng hỏi:
- Ủa, sao mày nói không đói mà bây giờ ăn thấy kinh vậy?
Một thằng ngập ngừng giải thích, nó chỉ cái chén nói:
- Nó không có đọi, tức là không có cái này.
Cả A ôm bụng cười nghiêng ngửa. A trưởng vừa cười sùng sục, vừa
cố thốt:
- Ðiệu này, tao phải lập một bản tự điển giải thích mấy từ độc
đáo của tụi bây rồi.
Dĩ nhiên đây chỉ là giai thoại. Có lẽ nó ra đời từ những ngày
chống Mỹ, hay trước đó nữa cũng nên. Nhưng những giai thoại như vậy vẫn hay được
nhắc đến để trêu ghẹo những chàng lính "quê choa".
Quân nhớ tới mấy giai thoại đó và bỗng bật cười hăng hắc. Ụ Mối
ngạc nhiên nhìn anh:
- Anh làm gì mà khi không cười một mình vậy?
- Không có gì, tao nhớ mấy chuyện cũ.
Ụ Mối cúi xuống, tiếp tục vót nan. Anh ngâm nga ư ử trong cổ mấy
câu dân ca xứ Nghệ: "Ðã thương thì thương cho trót. Ðã trục trặc thì trục
trặc cho luôn. Chứ đừng như con thỏ ở đầu truông. Khi vui nó giỡn bóng khi buồn
nó đùa trăng..." .
Quân bước tới góc lều, nơi balô của anh treo trên một cây cột
chừa một nhánh chạc hai - một kiểu móc quần áo ba lô đặc trưng
"mô-đen-dã-chiến" của cánh lính nhà ta. Anh lấy ba lô xuống, moi cái
bọc nylon đựng sổ sách giấy tờ ra, nhét cẩn thận mấy trang bản thảo vào, rồi
gói ghém lại, treo lên. Anh chép miệng:
- Thèm thuốc quá, giờ mà được rít mấy hơi thì còn hơn lên thượng
giới uống rượu quỳnh tương của Ngọc Hoàng thượng đế!
Lều có tổng cộng bốn chạc hai treo ba lô, nghĩa là có bốn người:
Quân, Ụ Mối, Già Hương và Thuận kều. Ở trung đội, Già Hương, trung đội phó hậu
cần, là người lớn tuổi nhất - hai mươi chín. Kế đó là Quân - hai mươi bảy. Còn
lại thì sồn sồn một lứa từ đứa nhỏ nhất là mười chín, đến đứa lớn nhất khoảng
hăm mốt, hăm hai. Trung đội có bốn lều, tức là có quân số mười sáu tay súng bộ
binh. Quân số thực là hai mươi lăm, nhưng vắng hết bảy người: Ba tay đang lên
cơn sốt nặng hồi sắp hành quân cơ động ở lại giữ Cứ, thứ tư là Trung - A trưởng
đã hy sinh trong đợt đánh Ampil vừa qua, thêm hai tay bị thương đang nằm viện ở
Chúp, và cuối cùng là Phương, B trưởng, đã đào ngũ sau trận đánh chiếm Ampil.
Tạm thời thì Quân nắm quyền chỉ huy trung đội 12 ly bảy. Thật
ra, anh đã là B phó quyền B trưởng từ năm 1982, nhưng đầu 1983, Phương học quân
chính ở Sư về, thay thế anh chỉ huy B. Một con người cơ hội, đầy thủ đoạn, ham
hố trèo thật nhanh thật cao trong nấc thang cấp chức, nhưng không bằng năng lực
mà bằng mọi mánh khóe.
Nói cho công bằng, Phương cũng là người có tài năng trong việc
vạch ra các kế hoạch, phương án huấn luyện hay tác chiến, hay trong phân công
công tác. Nhưng Phương là dạng người mồm mép đỡ tay chân, y lại chưa từng qua
chiến đấu bao nhiêu, vừa sang K. đánh một hai trận lẻ tẻ đã xin đi học sĩ quan
sơ cấp, rồi khi ra trường về đơn vị chưa bao lâu lại gặp ngay đợt chiến dịch lớn
nhất, căng nhất trong suốt bốn năm qua. Y bỏ trốn, có khi là điều hay. Một chỉ
huy hèn nhát có thể làm anh em đổ máu, hy sinh một cách vô ích và phi lý.
Quân từng có kinh nghiệm xương máu về vấn đề này. Ðó là một
trận đánh vào cuối mùa khô năm 1981 ở phía Ðông huyện S'vai Chek. Lúc đó, anh
còn là xạ thủ B40 của đại đội 12.
Khi ấy, đại đội đang trên đường về Cứ sau một đợt truy quét
mười ngày. Gạo hết, nước hết, nhưng đơn vị chỉ còn cách Cứ khoảng năm cây số,
nghĩa là chưa tới một giờ hành quân. Mùa nắng ở Campuchia, cái cần yếu nhất
chính là nước uống, vì có khi đơn vị đi hàng chục cây số băng qua những cánh trảng
mênh mông của Bát Ðom Boong. Trên đầu là mặt trời đỏ rực bừng bừng, dưới chân
là lớp đất ruộng khô nẻ săn cứng lại như bê tông, lỏi chỏi những gốc rạ đốt
cháy nham nhở còn sót lại. Những con suối, con mương dẫn nước đều chỉ chảy có một
mùa - mùa mưa, còn mùa nắng, chúng chỉ là những đường rãnh thấp ngoằn ngoèo,
trơ trọi lớp bùn khô. Và trên suốt hàng mấy chục cây số hành quân đó, thỉnh thoảng
mới có một cây độc mộc đứng lẻ loi, hoặc một lùm cây lè tè khô héo, không đủ
che mát một mái đầu. Hành quân mang vác nặng, mồ hôi ra nhiều nên cũng cần nước
để bù đắp lại cho cơ thể. Những tay lính cũ cẩn trọng lúc nào hành quân chiến đấu
cũng thủ sẵn một bình toong chí cốt trong ba lô, chỉ khi chết sống mới dùng đến.
Nhưng lần ấy, C đã về gần đến Cứ, và ở chặng giải lao cuối
cùng trước đó, mọi người, dù là người lo xa nhất, cũng đều dốc hết nước vào bụng
cho đã thèm. Người không uống mấy thì cũng nhường chỗ nước còn lại của mình cho
mấy đứa trẻ hơn, đã hết nước từ đời nảo đời nao. Khi sắp đến một con suối một
mùa lớn giữa trảng, chợt đại đội bị phục kích bất ngờ. Khoảng hơn tám mươi tay
súng địch đã phục sẵn dưới lòng suối, ở một khúc vòng cung hiễm trở. Ðại đội
nhanh chóng tản ra phản kích. Nhưng ai cũng vừa mệt, vừa đói, lại khổ nhất là
khát khô cả cổ, mà cuộc đọ súng cứ giằng co. Ðịch đã chuẩn bị tinh thần, vật chất
đầy đủ để kềm chân hòng tiêu diệt đơn vị của ta theo chiến thuật dĩ dật đãi
lao. Và chúng quyết không để cho tụi anh thoát khỏi gọng kềm. C trưởng khi ấy
là Vụ, người Thanh Hóa, rất vui tính nhưng cũng đánh nhau rất cừ. Anh vẫn thản
nhiên, bình tỉnh xếp đặt kế hoạch rút lui, sau đó anh cho liên lạc bò lên từng
bộ phận triển khai kế hoạch. C sẽ cầm cự đến chiều, chờ khi mặt trời sụp xuống.
Khi ấy lợi dụng bóng đêm sẽ từ từ rút. Hỏa lực gồm khẩu cối sáu và khẩu đại
liên sẽ rút ra trước đến vị trí an toàn rồi phát hỏa kềm chế cho số còn lại rút
ra. Trung đội 4 rút sau cùng theo đội hình tổ tam tam. Kế hoạch lẽ ra đã tiến
hành hoàn hảo, nếu không vì sự hèn nhát của Dung B trưởng B5. Thay vì chờ phối
hợp rút một cách bình tỉnh, thong thả, an toàn, anh quá sợ sẽ bị cầm chân, và
chết khát nếu không thoát được, nên khi liên lạc vừa mới kịp phổ biến kế hoạch
cho các A trực thuộc và B4, Dung đã ra lệnh cho B5 liều mạng tháo chạy về hướng
Tây, hướng có Cứ của tiểu đoàn hai, không chờ lệnh của C trưởng Vụ. Số lính B5
mở đường máu thoát ra khỏi tầm hỏa lực địch hôm đó chỉ còn vỏn vẹn hơn một phần
ba. Hai phần ba chết hoặc bị thương nặng, mất máu quá nhiều, nên sau đó cũng chết
khi có chi viện của D2 tới.
Lần bị vây hãm ấy đã ăn sâu vào ký ức Quân như một vết hằn,
vì trong số lính hy sinh có Khoa, có Ðạt, là những bạn vô cùng thân thiết của
anh...
Từ ngoài căn lều, cách khoảng hơn trăm mét, chợt nghe thấy tiếng
kêu réo ơi ới của Thuận kều:
- Anh Quân ơi, Ụ Mối ơi, qua nhà bếp mau đi... Có đồ nhậu rồi.
Ụ Mối ló đầu ra, nghiêng ngó, rồi thụt vô bảo Quân:
- Em thấy thằng Thuận xách con gì như con vịt ấy, anh Quân ạ!
- Vậy hả, chắc hai tay này ra hồ bắn được vịt trời rồi.
Ụ Mối lầm bầm:
- Cái hồ chết tiệt này đúng là vô duyên vô dụng, em nỏ bao giờ
thấy có chim cò gì, cá thì nhỏ chút bằng ngón út, đầy xương, mà cũng nỏ được bao
nhiêu.
Quân cười xòa:
- Thôi, tại mày chưa gặp dịp đó. Chứ Già Hương hay thằng Thuận
làm gì bá phát bá trúng như mày. Mày biết tại sao hồ không có cá, mà cũng không
có chim chóc gì không? Tụi Trung đoàn tám ở đây cứ đánh trái hà rầm, cá to nào
còn với tụi nó. Với lại vừa rồi mình đánh chiếm Ampil, đạn pháo ầm ầm, chim cò
mất hồn mất vía trốn sạch hết rồi. Con vịt trời này chắc là loại thương phế
binh hạng nặng nên mới còn lề mề ở lại đây chờ vô nồi đó Ụ Mối ơi.
Quân và Ụ Mối bước vào nhà bếp. Mọi người đã quân quần ngồi
bên những bát nước nóng bốc khói. Bình và Phái điển đang loay hoay nhổ lông con
vịt. Thuận kều quay sang Quân, nói với vẻ quan trọng:
- Anh Quân, lúc nãy về ngang qua Tiểu đoàn bộ, em gặp thằng
Kiên liên lạc. Nó báo cho em một chuyện. Anh biết gì không? -Thuận ngưng lại, ỡm
ờ.
- Thì mày cứ nói đi! Mày lúc nào cũng làm ra vẻ quan trọng những
chuyện nhỏ như cái móng tay. - Tiến cóc bực mình quát Thuận.
- B mình sắp có thêm một tay súng, tay này nghe nói học hạ sĩ
quan ở bên nước mới qua. Chắc hắn về đây thay cho anh Trung đó.
- Vậy à! - Quân bình thản nói. Anh là người trầm tỉnh, kín
đáo, vui buồn ít khi lộ ra mặt. Thật ra, cái tin này cũng làm anh rất nôn nao
như hầu hết mọi người khác. Ở chiến trường, có thêm được một người là rất quí,
vì quân số luôn luôn bị hao hụt, mất mát do bị thương, bị bệnh. Có thêm một người
là bớt đi một phần gánh nặng trong công tác, chiến đấu, và thêm một niềm vui.
Chỉ mong sao nó không phải là một thằng Phương thứ hai - Quân thầm mong ước,
anh nhìn con vịt, hỏi Già Hương:
- Anh hay Thuận bắn được vậy? Con này coi bộ cũng cỡ tám chục
tuổi rồi! Tha hồ mà nhai đó nghe!
- Tao bắn. Kể cũng buồn cười. Ði mãi mà chẳng thấy thứ gì ăn
được, tao nản quá chừng, đã tính quay về. Thằng Thuận cứ nằn nì bảo tao lên hồ
họa may kiếm chác được gì. Thế rồi, lên đó, thấy con vịt này đang lặc lừ trên bờ
hồ. Nó bị thương ở cánh, bay không nổi. Chắc là bị ai bắn hay trúng mảnh pháo
lúc đánh nhau.
- Em bảo Già Hương ráng bắt sống nó để về lấy tiết đánh tiết
canh mà ổng không nghe. Ổng sợ bị sẩy mất uổng nên tỉa luôn. Chà! Nhắc tới tiết
canh mà phát thèm. Phải chi có gừng, cháo vịt chan nước mắm gừng, trời mưa này
ăn đúng là nhức nhối!
Mọi người im lặng. Mưa lại bắt đầu rơi tí tách bên ngoài. Câu
ước ao của Thuận chợt gợi lên một nỗi nhớ không tên về quê hương. Nỗi nhớ thơm
mùi cốm dẹp mùa lúa mới, thơm mùi thịt chuột đồng khìa xả ớt mùa nước nổi, thơm
mùi khói rạ đốt đồng những buổi chiều vàng...
Con Chíp thật là nghịch ngợm. Nó cứ mổ mổ vào môi Huy làm anh
không sao ngủ được yên. Huy bực mình tóm nó, co ngón tay ký mấy cái nhẹ vào cái
đầu bướng bỉnh. Khi Huy buông tay, nó bay vù ra đậu trên cành cây nghiêng xuống
trước cửa lều, chẩu đôi mỏ nhọn nguyền rủa anh: "Cút mẹ mày đi! Cút mẹ
mày đi!"
Ụ Mối toàn dạy cho tên đệ tử của hắn những câu linh tinh, bậy
bạ, và con sáo này cứ cố tình áp dụng bừa bãi tùy hứng, chẳng ăn khớp hoàn cảnh
tí nào. Có khi mọi người đang ngồi vui vẻ trò chuyện, nó chợt kêu lên, theo cái
khẩu âm trọ trẹ nặng nề của Ụ Mối: "Tối rồi ngủ đi! Tối rồi ngủ đi!"
Có khi, giữa buổi trưa vắng lặng, nó buồn tình réo mãi liên hồi: "Nghỉ
cho mát! Nghỉ cho mát! Nghỉ cho mát!..." Một lần, tiểu đoàn trưởng Văn ghé
trung đội, nó oang oang thét vào mặt anh: "Mê mai cầm pê, mê mai cầm pê! 1
Chơi mãi quên về, chơi mãi quên về!.."
Huy thường quần mấy bụi cỏ bắt châu chấu, cào cào cho con
Chíp, nên nó rất khoái anh. Trừ Ụ Mối, chỉ có Huy là có thể kêu nó đậu xuống
tay, hay huýt sáo rủ nó đi theo vào rừng.
Có con Chíp, nhiều khi cũng vui vui, khuây khỏa, nhưng nhiều
khi mọi người bực phát điên lên với nó. Nó tha mấy cái muỗng mà ai đó quên nhét
vào túi cóc ra tận ngoài trảng cỏ, quăng ở đó. Nó mổ vào cái lon đựng thuốc rê,
lôi từng nhúm thuốc ra, bỏ vương vải trên nền đất, rồi nhảy lên thành lon nhún
nhún, cho đến khi cái lon nghiêng úp lại, thuốc, giấy đổ tung tóe. Lúc đó, như
đã hoàn thành một kỳ công ghê gớm, cu cậu bay lên cây ưỡn ngực hót lên một
tràng đắc thắng.
Nhưng buồn cười nhất, là nó cũng biết trả đũa ra trò. Trong
trung đội, nó ghét nhất là Phái điển, vì anh hay đuổi bắt nó, vung cành cây quất
dọa nó những khi nó phá nghịch. Một lần, canh lúc Phái đang ngủ, nó len lén bay
tới, nghiêng người thả một bãi phân vào mặt anh với sự chính xác của một phi
công tác xạ bậc thầy. Lần ấy, Phái điển nổi khùng, suýt đập chết nó nếu Ụ Mối
không kịp thời ngăn anh lại. Từ đó, Phái không đá động gì đến con Chíp nữa, mặc
cho nó quậy phá cỡ nào, anh cũng cố bịt mắt, lấp tai làm ngơ đi. Kể ra cũng tội
nghiệp cho Phái, đành phải nhịn thua một con chim nhãi nhép nhưng vô cùng láo
xược.
Huy vươn vai, rồi ngồi dậy. Nắng bên ngoài lấp loáng qua kẻ
lá, đổ xuống mặt đất những đốm hoa loang lổ nhỏ to. Từ sau hôm Huy về trung đội,
trời đã dứt hẳn mưa. Cho đến hôm nay thì những gì một tuần mưa dầm mang lại đã
biến đi không còn dấu vết gì. Mấy bồn nước lại chỉ còn lưng lưng nước tải từ hồ
về. Mặt cát lại khô rang, nóng bỏng. Không khí lại oi nồng. Chỉ có những hàng
cây là còn giữ lại được phần nào nét xanh mát của mưa, với những chùm lộc non
biên biếc vừa mới nhú.
Ụ Mối nằm xoay trở nãy giờ mà không dỗ giấc được cũng lồm cồm
ngồi lên, bảo Huy:
- Tụi mình đi đào dông đi Huy.
Huy gật đầu, bước tới góc lều, nơi dựng xẻng cuốc cầm lấy hai
cái, vác lên vai. Con Chíp từ ngoài lượn vào, bay vòng vòng quanh Ụ Mối kêu léo
nhéo. Ụ Mối giơ tay lên đe nó:
- Mi chuyên quấy giấc tụi tao. Có bữa ông cáu tiết lên đem
xáo măng bây giờ.
- Ðau lòng cò con! Ðau lòng cò con! - Con Chíp quàng quạc kêu
lên. Ụ Mối trợn mắt nhìn nó, tự hỏi thầm: "Trời đất! Con quái này học ở
đâu vậy? Làm như nó hiểu được tiếng người!"
Huy nhìn vẻ mặt ngơ ngác của Ụ Mối, bật cười. Anh giải thích
với hắn:
- Không phải nó biết ông nói cái quái gì đâu. Hôm qua, tôi vừa
cho nó ăn vừa đọc mấy câu "Con cò mà đi ăn đêm..." Bây giờ, nó nghe
ông nói xáo măng, nên nó nhớ tới câu kế, đọc tiếp cho ông nghe đó!
Ụ Mối vỡ lẽ, gật gù cười khà khà, rồi hắn bước ra cái bồn,
múc một chút nước đổ vào cái khăn, đưa lên lau bộ mặt pháo đài kiên cố của
mình.
Hai người đi về hướng đông. Hướng này bọn Huy chưa khai thác
nhiều, có lẽ "tài nguyên - thực phẩm" còn phong phú. Bãi cát ở sau một
khoảng rừng thưa, không có cây to mà chỉ lơ thơ những bụi cây cao ngang đầu người,
đôi chỗ có cả những bụi xương rồng to lớn, lởm chởm những gai. Nó kéo dài khoảng
năm sáu trăm mét, rồi băng qua một ngọn đồi thấp đầy đá cuội, luồn vào những
hàng cây đồ sộ, nơi bắt đầu của cánh rừng già.
Hang dông có đáy nằm cách mặt đất khoảng nửa mét đến một mét,
tùy theo kích thước to nhỏ của "chủ nhân", và thường là đâm xéo từ
trên xuống một quảng, rồi bẻ ngang song song với mặt đất theo dạng chữ L.
Ðào bắt dông không khó. Ðiều chủ yếu là phải xem dấu chân ở
miệng hang để khỏi phí công vô ích. Mấy hôm trước chưa có kinh nghiệm, cứ nhìn
thấy hang là Huy hùng hục đào, rốt cuộc chỉ là một cái hang trống, hoặc có những
sinh vật khác đang trú ngụ; đôi lúc là một con cóc già xụ, to kềnh; đôi lúc là
một chú bò cạp núi khổng lồ, đỏ rực như than đang cháy, giơ hai chiếc càng đồ sộ
lên thủ thế. Ụ Mối giảng giải với Huy:
- Ông phải nhìn thật kỷ xem miệng hang nào có cát xước thành
những vệt nhỏ - đó là vết chân dông, thì đào mới có. Hang nào mà miệng trơn nhẵn
thín nỏ có gì đâu.
Có khi, đào tới cuối hang nhưng chận không kịp, chú dông nhào
lên cong đuôi phi sang một cái hang khác gần đó chui xuống, phải làm lại từ đầu.
Huy rút kinh nghiệm nên thủ sẵn một cành cây có nhiều nhánh nhỏ. Con dông nào vừa
xuất hiện tính chạy là anh quất ngay, xem ra rất có hiệu quả.
Ði vòng vòng một lúc, cả hai đã bắt được sáu con to, khoảng
hai tấc đến hai tấc rưởi không kể cái đuôi dài. Ụ Mối nói:
- Thôi, bao nhiêu đây đủ cho bữa ni rồi. Ðể dành đó cho mấy
ngày sau.
Huy kéo Ụ Mối tới ngồi nghỉ dưới bóng một lùm cây. Anh móc
trong túi cái bao đựng thuốc rê ra, vấn một điếu rồi đưa sang Ụ Mối. Hôm trước,
trung đội tải theo xe trung đoàn về cứ, tụi anh đã nhờ họ mua giùm ít thuốc rê
và trà. Cả trung đội được một phen hút thuốc uống trà thỏa thuê, bù lại những
ngày thèm nhớ.
Huy khoan khoái rít một hơi thuốc thật sâu, rồi chầm chậm nhả
khói ra. Anh đưa mắt nhìn lơ mơ về phía ngọn đồi. Dưới ánh nắng, những hòn cuội
trắng, đen, xam xám đủ màu đủ cỡ óng a óng ánh như những hòn ngọc quí. Cả ngọn
đồi rực rỡ, sáng loá lên. Huy hỏi Ụ Mối:
- Anh Quân lính bảy chín sao bây giờ vẫn chưa ra quân vậy hả
Dũng?
- Ông chưa biết sao, anh ấy đâu còn họ hàng thân thuộc gì nữa
mà về. Trước khi vào lính, anh Quân ở trong chùa...
Ụ Mối duỗi hai chân ra, kể cho Huy nghe về cuộc đời Quân.
Quân là con một của hai vợ chồng làm nghề buôn chuyến. Trong
một chuyến từ Huế trở vào Sài Gòn, chiếc xe bị lật nhào rơi xuống vực. Cả hai
người đều chết tại chỗ. Năm dó, Quân lên bốn, do một người vú nuôi mẹ anh thuê
chăm sóc. Sau tai nạn, bà ngoại Quân đón anh về nuôi. Nhưng bốn năm sau đó, bà
cũng bị bệnh mất đi. Tài sản của ba mẹ và bà đều bị những ông cậu, bà dì họ
giành giật, chia chác tiêu tán hết, nhưng lại chẳng ai buồn nhớ tới việc nuôi nấng,
dạy dỗ đứa trẻ tám tuổi bất hạnh. Nói chính xác hơn, họ rất quan tâm đến chuyện
đó, nhưng ai cũng thành thật tin rằng đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của một người
khác chứ không phải của mình. Họ đun đẩy qua lại, trách móc nhau, cải cọ nhau,
rồi chửi rủa nhau ngày này qua ngày khác về chuyện nuôi nấng đứa nhỏ, dạy dỗ
cho nó nên người, nhưng lại lờ đi chuyện đứa nhỏ cần một bữa ăn, cần một sự lo
lắng, thương yêu bằng hành động.
Quân lần mò về thành phố, đi lang thang xin ăn một thời gian.
Rồi một bữa anh bị mắc mưa, cảm sốt nằm mê man trước cổng một ngôi chùa nhỏ.
Trong chùa, chỉ có một vị sư già trụ trì và một chú tiểu lớn hơn Quân khoảng
năm sáu tuổi. Họ bắt gặp anh đang nằm co quắp, ôm anh vào săn sóc, chữa bệnh.
Sau đó, vị sư già cho Quân ở lại chùa, nuôi dạy anh cho đến lúc trưởng thành.
Quân được nhà sư cho đi học, anh dã có bằng tú tài hai khi Sài Gòn được giải
phóng. Sau đó, anh thi đậu vào đại học, nhưng đang học dở năm thứ hai, thứ ba
gì đó, thì nhà sư mất. Quân buồn lắm. Anh thương mến vị sư già như cha đẻ. Thêm
nữa lúc ấy chiến tranh đang nổ ra ở biên giới, anh liền tình nguyện vào lính,
và kể từ đó coi đơn vị như mái nhà của mình.
Huy ngồi im lắng nghe Ụ Mối kể chuyện.
Ngoài kia, ánh nắng đã bắt đầu dịu dần, phai đi trên những ngọn
cỏ tranh héo vàng bên tay phải. Ở rừng bóng chiều ụp xuống rất nhanh. Thường
thường, vừa mới đó nắng còn chói chang, nhưng chỉ giây lát sau thôi, những hàng
cây đã mờ đi, chìm trong làn sáng mờ mờ vàng nhạt; và ở phía trong sâu hơn, chỉ
còn thấy những khoảng tối âm u, thăm thẳm. Mấy con sóc bay và bọn dơi quạ bắt đầu
tung ra lượn lờ quanh quẩn để săn mồi.
Không ngờ cuộc đời của anh Quân buồn như vậy - Huy thầm nghĩ.
Qua những ngày sống ở đây, Huy chỉ nhận thấy Quân là một người
trầm ngâm, ít nói. Nhưng đôi lúc, anh cũng đùa giỡn, kể chuyện tiếu lâm rất nhộn.
Anh không hề làm ra vẻ khó khăn, nghiêm khắc, thế mà mọi người trong trung đội
ai cũng có vẻ nể trọng, làm theo răm rắp những lời anh nói, kể cả người lớn tuổi
nhất là Già Hương. Mọi người còn có vẻ rất quí mến, gần gũi với anh, giữa họ
không hề có một khoảng cách nào. Huy thấy Quân có cái gì đó thật gần, thật giống
với mình. Ở chỗ nào, Huy không xác định được, nhưng anh cảm nhận được nó, dù suốt
nửa tháng qua, anh cũng chưa bao giờ có một cuộc chuyện trò, tâm sự nào thật sự
với Quân, ngoài những lời trao đổi thông thường.
- Lần đó, tôi nhận được thư nhà báo tin mẹ tôi bị bệnh nặng vừa
mới chết. Tôi nằm khóc cả ngày, bỏ ăn bỏ uống. Anh Quân đã an ủi tôi, rồi anh kể
cho tôi nghe những chuyện này... - Ụ Mối nói thêm - Thôi về đi Huy, chiều rồi
đó.
Hai người về tới nơi, cả trung đội cũng đang tập trung lại
thành mấy nhóm bên ngoài căn lều nấu bếp.
Ngay trước cửa lều là nhóm sáu người: Phái điển, Trung gấu,
Thiện, Tiến cóc, Bình, Hưng. Bên tay trái là nhóm Mợi, Lý, Thái, Phú, Trọng, Cường.
Nhóm thứ ba là Quân, Thuận kều, Già Hương. Mỗi nhóm đều ngồi trước một thau
cơm, và khẩu phần thức ăn cho sáu người.
Ụ Mối nói:
- Chờ thêm tí nữa các đồng chí thân yêu. Mỗi mâm được phân phối
hai con "gà đất". Nói đoạn, anh bước vào bếp để nướng dông. Chỉ
nhoáng sau, mùi thịt nướng đã bốc lên thơm nhức mũi. Vài phút sau, Ụ Mối cầm mấy
con dông đã chín, lột bỏ lớp vảy ngoài, để lộ lớp thịt trắng phao, trông hệt
như thịt cá lóc nướng ra, chia cho mỗi nhóm hai con. Rồi anh ngồi xuống nhóm của
mình.
Thức ăn buổi chiều gồm có một thau canh lá rừng chua, một dĩa
muối trộn ớt khô giã nhuyễn, một dĩa thịt heo đóng hộp, giống hệt như buổi
trưa, và cả mấy ngày gần đây. Mọi người ăn thật ngon miệng, dù chẳng có gì để gọi
là ngon lành, trừ món thịt dông nướng chấm muối ớt. Nhưng hai con xé ra có được
là bao, mỗi người chỉ nhón một miếng là hết sạch.
Dạo vừa đánh xong Ampil, trung đội còn lên đó kiếm được chút
rau dền, cải, hay bầu bí, trái đu đủ non mà dân tị nạn trong cứ trồng về nấu
canh. Rau chỉ có hạn, mà biết bao nhiêu đơn vị cùng tập trung lên hái, nên chỉ
vài ngày sau là chẳng còn một cái gốc rau làm thuốc. Trọng có sáng kiến chặt mấy
cái đọt đu đủ về cắt ra mỏng, rửa thật kỷ rồi ngâm muối cho tan mủ, sau đó đem
nấu canh. Nhưng sau khi ăn món đó, hầu như ai cũng bị đau bụng một trận nên
thân, không ai dám nhắc đến món canh đọt đu đủ nữa. Liên tiếp cả tuần, canh chỉ
là nước sôi cho tí bột ngọt và muối vào nêm để dễ nuốt trôi cơm. Nhưng thiếu chất
xanh, cả bọn bị táo bón gần chết. May sao sau đó Già Hương tình cờ phát hiện được
một thứ cây rừng có lá giống như lá mai nhưng mỏng hơn, có vị chua. Anh nấu thử
một ít, tự ăn một mình thí nghiệm, rồi thấy bình an vô sự nên thông báo cho cả
bọn đi lùng món rau trời cho này về nấu canh suốt từ ấy đến nay. May một cái nữa
là khu rừng trước mặt mọc đầy dẫy loại cây này, nên không còn lo thiếu canh nữa.
Có điều, lúc đầu ăn cũng khá ngon, nhưng ròng rã mấy tuần, cứ một món canh vừa
chua vừa chát, ai nấy đều ngán tới cổ.
Trung đội cơm nước xong xuôi thì trời cũng đã nhá nhem tối.
Quân tập hợp cả trung đội lại hội ý, phân công gác, xong xuôi phần làm việc,
anh cười cười bảo:
- Này anh em, tối nay là mười bốn trăng tròn. Chúng ta sẽ pha
trà ngắm trăng. Ðề nghị anh Mợi chuẩn bị mấy "bộ phim" mới hấp dẫn tối
nay "quay" cho anh em thưởng thức. Thôi, trung đội giải tán.
Mọi người đứng lên, ai về lều nấy. Ở hướng đông, vầng trăng
mười bốn to như một chiếc mâm vàng sáng rỡ đã nhú ra.
Trong lính, những "nghệ sĩ quay phim" là những người
rất mực được anh em sủng ái và chiều chuộng. Anh ta chỉ việc ngồi xếp bằng chễm
chệ, mở mồm ra để tường thuật lại những gì mình đã từng đọc được, xem được một
cách ung dung.
Thuốc hút ư? Anh em đã vấn sẵn cho anh mấy điếu to kềnh, chỉ
cần cất tiếng là lập tức có người đốt lên, đưa tận miệng cho anh, tha hồ mà
rít.
Trà ư? Sẽ có người chuyên từ cái ca inox ra loại trà hãm nước
nhất, còn bốc khói, xanh biếc, đậm đặc ngon lành, và đưa đến tận tay.
Nếu anh còn chưa vừa ý, còn muốn làm eo làm nũng, bằng cách vặn
cổ, uốn lưng than mỏi cổ, mỏi vai, ngay lập tức sẽ có hai tay đấm bóp "đẳng
cấp quốc tế" thay phiên nhau đấm lưng, xoa bóp cho anh với đủ bài đủ bản.
Những tay đạt được trình độ đại cao thủ trong nghề quay phim còn được thường
xuyên hưởng cái vinh dự là khách mời đặc biệt trong những cuộc liên hoan tiệc
tùng ngọt, mặn của các trung đội, thậm chí đại đội lân cận.
Tuy nhiên, "nghề chơi cũng lắm công phu"! Chẳng phải
dễ gì mà một bước lên ngay cái chức vua không ngai như vậy.
Trước hết, anh phải là một tay biết nhiều hiểu rộng, là bậc
làu thông các tác phẩm nghệ thuật lừng danh kim cổ. Thứ hai, anh phải có một
trí nhớ hoạt động một cách bền bỉ và liên tục trong một câu chuyện
"ma-ra-tông", có khi phải kể suốt mấy đêm liền mới hết. Thứ ba, anh
phải có một năng khiếu bẩm sinh về nghệ thuật kể chuyện, nghĩa là anh phải biết
cách làm cho câu chuyện trở nên ly kỳ, hấp dẫn lên gấp bội, phải thêm thắt, phịa
ra bằng một sự ngẫu hứng thiên tài những tình tiết nhỏ to, mà chẳng lần nào giống
lần nào một câu chuyện; biết ngưng lại đúng lúc một câu chuyện đang lên đến điểm
nút, cao trào, để người nghe phải nôn nóng, thòm thèm muốn nghe kể tiếp ngay,
dù tình thế khách quan bắt buộc câu chuyện phải tạm dừng ở đó.
Vì những yêu cầu khắt khe như vậy, số lượng những nhà kể chuyện
bậc thầy càng trở nên hạn chế, trong khi giá trị của họ càng được nâng cao.
Trung đội được cái diễm phúc vô cùng là có một người như vậy,
làm rạng rỡ cả tiếng tăm chung, làm thơm lây cho những anh em khác. Người đó
chính là Mợi lác.
Mợi là lính 83, dân Quận 1, khu chợ Cầu Ông Lãnh. Ðã là lính,
không anh nào tránh khỏi cái món lác. Bởi vậy, người ta mới có cơ sở để tạo ra
một danh từ kép đầy hình tượng: "lính lác". Lính phải có lác, cũng
như sông hồ phải có cá, rừng phải có muông chim, điều đó gần như trở thành qui
luật! Chính bản thân Huy, hồi còn ở Quang Trung cũng đã bị lác, dù rất vệ sinh,
kỷ lưỡng, có ngày tắm tới ba lần! Không riêng gì anh, cả đại đội lúc bấy giờ đều
như vậy. Có lẽ, một tay nào đó có mầm mống vi nấm lác trên người đã ẩu tả nhảy
vào hồ chứa nước, làm lây nhiễm cả tập thể anh em. Báo hại cứ chiều chiều, sau
giờ cơm, toàn đại đội đều tiến hành cuộc "tổng tấn công tiêu diệt
lác"! Mà thuốc thì chả có gì ngoài nước Iode, hoặc cồn 90o. Chứng lác có một
đặc điểm là thường tập trung ngay tại "cơ quan đầu não", "bộ tổng
hành dinh" của quí vị mày râu. Vậy nên cái quang cảnh lúc ấy thật là náo
nhiệt. Mọi người đồng loạt lúi húi thoa thoa, xức xức, đồng loạt rú lên những
tiếng thét xung phong, và đồng loạt nhảy disco, hay giật soul cho nguôi cơn
nóng rát.
Dù sao, lác không phải là một chứng nan y hay khó trị, nên sớm
muộn gì nó cũng bị tiêu diệt, trừ những ngoại lệ vô cùng cá biệt, hiếm hoi, ví
dụ như trường hợp của Mợi lác. Lác ở anh lan tràn, bành trướng trên toàn bộ mọi
bề mặt có lỗ chân lông! Và, hình như nó rất quyến luyến anh, nên nếu anh trị được
hết ở chỗ này, thì nó lại chuyển hộ khẩu sang một "địa phương" lân cận.
Cuối cùng, Mợi kiệt sức, đầu hàng trong cuộc chiến không cân sức này, anh bắt
tay với lác, "chung sống hòa bình" với nó. Anh chỉ còn khổ một cái là
phải cẩn thận, dè dặt để tránh cho lác khỏi buồn tình làm một chuyến ngao du
qua các cơ thể khác...
Ðêm. Cả trung đội ngồi thành một vòng tròn trên mấy chiếc chiếu.
Trăng đã lên cao gần giữa đỉnh đầu, tỏa xuống một ánh sáng vằng
vặc, dịu dàng. Giải cát dưới ánh trăng mịn màng một sắc trắng lạ lùng, huyền ảo.
Dường như nó không còn là một vật thể khô khan, thô thiển và làm mắt người ta
nhức nhối như dưới ánh mặt trời. Giải cát giờ đây mềm mại, mỏng manh như một
chiếc khăn lụa đang nhấp nhô phấp phới, uốn lượn qua những gò, những lũng, những
đồi. Những cây cổ thụ lẻ loi, những lùm bụi thấp rải rác, và những hàng cây ở
phía xa hiện lên dưới ánh trăng có vẻ hư ảo mơ hồ, như trong một bức tranh thủy
mặc. Trên những thân cây mọc gần lều, ở những chỗ có rêu hay địa y bám sáng lên
lấp lánh, những chiếc lá như được tráng một lớp bạc mỏng. Các chỗ khuất mà ánh
trăng không lọt tới tối và sậm màu hơn, nhưng cũng phát ra một làn phản quang yếu
ớt.
Bao giờ ngồi dưới bóng trăng, Huy cũng thấy bình an, thanh thản
dù là đang rất buồn lo một điều gì đó. Ánh trăng hình như có một nguồn sức mạnh
kỳ diệu lạ thường, nó vỗ về, xoa dịu, và nâng hồn người đến một cõi cao xa, hòa
vào hồn đất trời, cây cỏ.
Ánh trăng vằng vặc giúp cho người lính gác đêm có tầm quan
sát rộng, dễ dàng phát hiện mọi hiện tượng diễn ra trong tầm mắt, giúp cho những
đêm xa nhà ngắn lại, vui hơn, dễ chịu hơn. Anh em ngồi quây quần tán gẫu, nghe
kể chuyện, hoặc cùng nhau nhảy lăm thôn, khiêu vũ đôi những điệu slow, tango,
bebop dìu dặt, hay điệu cha cha cha, valse náo nức rộn ràng...Có lẽ vì vậy, những
đêm có trăng với lính là những đêm tuyệt diệu.
Mợi đang kể đến một đoạn hấp dẫn ở phần đầu truyện Ðồi gió
hú. Mọi người ngồi im lắng nghe. Thỉnh thoảng, chỉ có tiếng một cơn gió cuốn
qua lay động lá cành. Giọng kể của Mợi sôi nổi, lôi cuốn làm ai cũng quên đi cả
giờ giấc. Bỗng từ xa, cách khoảng ba trăm mét về hướng Nam, có ánh đèn pin
loang loáng tiến dần về lều trung đội. Trọng đang ngồi gác bên ụ súng quát lên:
- Ai?
- Tâm cối đây mà! - Bóng người đang đi tới hét lên đáp, và tắt
đèn pin.
Tâm đã tới gần hơn, đủ để có thể nhận diện được dưới ánh
trăng. Anh nói một cách ồn ào:
- Chà, 12 ly cũng đang thưởng trăng phải không. Bên Cối cũng
ngồi chơi nãy giờ. Ông Ðạt nhớ anh Mợi, bảo tôi qua đây mời anh qua bển chơi,
quay vài khúc. Tôi đã biết thế nào anh cũng có sô ở đây rồi, mà nói ổng không
nghe, cứ một hai bảo tôi cứ đi bằng được. Thôi, giờ cho ngồi đây tham dự với mấy
anh luôn nghe.
Phái điển và Trung gấu ngồi nhích qua chừa chỗ cho Tâm. Cả ba
là đồng hương Quận Tân Bình với nhau, cùng sang đây một lượt. Tâm rất nghiền
nghe kể chuyện. Anh là một trong những người hâm mộ Mợi còn hơn cả nhỏ bồ ruột
của mình. Có lần, Mợi sang B Cối kể chuyện, trung đội chả ai còn giấy, Tâm lấy
cả lá thư nhận được lúc chiều của nhỏ bồ, mà anh cũng chỉ mới đọc lướt qua, xé
ra vấn thuốc cho Mợi.
Một lúc sau, Trung gấu đột nhiên đứng dậy. Nét mặt Trung có vẻ
kỳ lạ, bồn chồn. Anh im lặng bước khỏi vòng tròn. Mợi ngưng kể, nhìn chằm chặp
Trung. Thường ngày, Trung rất thích nghe chuyện, không bao giờ anh bỏ qua một
chuyện ngắn chuyện dài nào. Trung đi chầm chậm về phía ụ gác, nhưng còn cách chỗ
Trọng khoảng vài chục mét thì dừng lại, ngồi bệt xuống đất. Dáng ngồi của Trung
dưới ánh trăng trông thật buồn bã, cô đơn.
Phái điển làu bàu:
- Chắc là nó lại nhớ anh Trung liều, lại nghĩ ngợi vẩn vơ!
Mọi người im lặng trong giây lát.
Phát điển nhóng người về phía Quân, nói tiếp:
- Mấy hôm nay nó có vẻ bất thường lắm anh Quân! Giống như
khùng khùng vậy.
Quân nhíu mày. Anh trầm ngâm một lúc, rồi nói:
- Anh em nên chú ý quan sát Trung, gần gũi động viên nó. Nhất
là Phái đó, nghe không.
Mọi người lại im lặng. Rồi Mợi cất tiếng:
- Thôi, ta tiếp tục câu chuyện...
Ðêm trôi nhanh. Vầng trăng đã hơi chếch trên cao về hướng
Tây. Những vì sao khuất dần, chỉ còn lại những ngôi sáng nhất. Tiếng gà rừng eo
óc gáy ở đâu đó rất xa vọng đến mơ hồ.
Câu chuyện ngày càng thu hút hơn qua giọng kể lúc bổng lúc trầm
của Mợi. Ðến một lúc, khi Mợi cầm chén trà nhấp một ngụm lấy giọng, Quân nói:
- Thôi, Mợi kể hết đoạn này nữa là giải tán. Chúng ta còn phải
nghỉ ngơi để mai bắt đầu tập với các đại đội chiến thuật đánh phối hợp với
tăng.
Chú thích:
1. Bà góa hàng trăm! Bà góa hàng trăm!
"... Mưa. Mưa ròng rã mấy ngày liền. Cả cao điểm chỉ còn
là một chiếc màn nhạt nhòa màu trắng xám..
Mưa tầm tã suốt những ngày, rào rào đập xuống mái túp lều dã
chiến, như một tay đàn bass trong cơn cao hứng. Mưa lặng thầm rỉ rả suốt những
đêm, như muốn kể lể một điều gì, than van giùm ai đó.
Con sáo Chíp của Ụ Mối không nhảy loi choi phá phách như thường
lệ. Nó chui vào nép mình trong một góc nắp ba lô nằm im thin thít, chỉ có hai
con mắt tròn xoe tinh nghịch là vẫn láo liêng nhìn ngó mọi người như dò hỏi, thắc
mắc: "Sao lạnh thế? Sao buồn thế? Sao không thấy mặt trời với những tia nắng
vàng tươi ấm áp?".
Dạo đầu tháng Giêng, khi đơn vị vừa lui về đây dựng trại, nắng
đến sẩu cả người. Nắng cứ ong ong chiếu thẳng xuống đầu, nóng rừng rực như muốn
nung đỏ cả giải cát trắng bìa rừng, muốn sấy khô những cành lá xác xơ, khô cằn
đầy bụi của những lùm những bụi, những gốc cổ thụ già nua. Rồi từ cơn mưa đầu
mùa trái nết một ngày cuối tháng Hai, trời mưa mãi, tối trời tối đất.
Trận mưa đầu tiên, cả trung đội mừng phát khóc, khoái chí vô
cùng.
Họ mừng vì không khí sẽ mát mẻ, dễ chịu, đêm không còn phải nằm
trăn trở, mồ hôi tươm ra nhớp nhúa; vì lũ ruồi nhặng đông đúc đến kinh hoàng,
không biết từ đâu kéo đến sẽ không còn tác oai tác quái; vì không còn phải vất
vả hằng ngày lên hồ Ampil cách đó bảy tám cây số để tắm giặt, tải nước về
dùng...
Mọi người ùa ra, reo lên khi những giọt nước ngọt ngào bắt đầu
trút xuống liên miên, bắt đầu dệt thành một chuỗi vô tận trắng mờ mịt những hạt
nước mưa to nặng. Mưa! Mưa rồi! Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống...
Họ lột phăng quần áo ra cầm trên tay quay tròn vun vút, mình
trần như nhộng, như trẻ thơ vừa mới lọt lòng, như những thiên thần hồn nhiên vô
tội. Rồi cả bọn nhảy tung tăng, đứa hát, đứa gào lên những lời vô nghĩa, đứa nằm
lăn ra, ngửa mặt, xoảy tay chân, há hốc miệng, cho mưa tràn trề rơi xuống vỗ về.
Mưa đi! Cứ mưa đi! Mưa cho quét sạch bụi bặm trần gian, quét
sạch những nỗi buồn lo, quét sạch những suy tư nhớ nhung căng đầu căng óc. Cho
chúng tôi hóa thân, trộn lẫn vào với những giọt nước ngọt mát trong veo...
Nhưng rồi mưa như muốn thỏa lòng nguyện ước của họ, nên cứ
hào phóng rơi mãi, tuôn trút dầm dề suốt cả tuần. Mưa trắng trời trắng đất, chẳng
có đồ sạch mặc vì treo phơi mãi mà quần áo chưa chịu khô cho. Cũng chẳng thể kiếm
chác cải thiện gì được với những cơn mưa ào ạt. Chỉ có nước là nhiều, lúc nào
cũng tràn trề mấy cái bồn làm bằng mấy tấm nylon đi mưa trùm lên hố đất. Nắng
mãi cầu mưa, mưa hoài nhớ nắng. Thiên nhiên có bao giờ ban phát bình quân đều đặn,
không thừa không thiếu theo ý muốn con người..."
Quân miệt mài ghi chép. Anh đang viết một bút ký để gửi cho tạp
chí Văn nghệ Quân đội. Không khí lành lạnh, ẩm ướt và tiếng mưa rơi đều đều bất
tận làm anh thấy nao nao. Trong lều tối om om, cả ngoài trời cũng một màu u ám.
Mọi thứ đều xám, lạnh, buồn, nhưng chứa đầy sinh lực bên trong, khơi dậy niềm cảm
hứng.
Có lẽ kỳ này Ban biên tập sẽ không gạt bỏ bản thảo của anh.
Nó đã được viết trong niềm rung động sâu xa. Nó gắn chặt, quyện vào với những cảm
xúc chân thật, đầy sức sống, và toàn là những điều có thật. Ðây không phải là một
câu chuyện kể bình thường. Ðây chính là những nụ cười, nước mắt, những giọt mồ
hôi rơi xuống ướt đẫm chiếc áo lính bạc màu; là ánh nắng vàng rực rỡ lúc cuối
ngày hắt xuống cánh rừng dầu; là những khoảnh khắc mong manh, thiêng liêng giữa
cuộc sống và cái chết của đồng đội, bạn bè anh... Nghĩa là toàn bộ cuộc sống của
bọn anh ở đây, trong những tháng ngày này, đã thu gọn, biến hình, chuyển hóa thành con chữ.
Tiểu đoàn đã lui về đây nằm chốt từ sau đợt tấn công Ampil để
huấn luyện phối hợp quân binh chủng với tăng, pháo chuẩn bị cho trận đánh lớn kế
tiếp. Những ngày tháng tương đối nhàn hạ và yên tĩnh với đơn vị của anh - một
trung đoàn cơ động của Sư, một trung đoàn cứ xê dịch, hành quân di chuyển miệt
mài suốt hàng trăm ki lô mét dọc chiều dài biên giới vùng Tây bắc, đánh nhau hết
trận này tới trận kia, hết trận to sang trận nhỏ ngay từ trước khi anh về đơn vị.
Cánh rừng này nằm cách hồ Ampil khoảng tám cây số đường chim
bay về hướng Tây Nam. Một cánh rừng thưa, chủ yếu là cây dầu cổ thụ, đứng rải
rác trên nền cát trắng, hệt như cát ở vùng Củ Chi quê ngoại của Quân. Ở đây quả
là nhàn thật, quá nhàn là đằng khác. Các đơn vị của Polpot và Sonsan giờ nằm dạt
đâu đó ở trên đất Thái, đã mất hồn và kiệt quệ sau đợt tấn công vừa rồi. Chúng
còn đang co cụm, củng cố lực lượng chờ phục hồi sinh lực, nên cũng chẳng hơi sức
đâu mà lén lút bò sang quấy nhiễu. Ðây là những tháng ngày bình yên, những
tháng ngày hiếm hoi quý báu cho sự nghỉ ngơi và trở lại với cuộc sống không tiếng
súng, không vất vả, không có những phút giây căng thẳng khi ém quân chờ giờ nổ
súng. Nhưng đôi khi, bọn anh cũng hơi buồn, nhớ những cuộc hành quân đầy phấn
khích, nhớ những đợt xung phong, nhớ mùi thuốc súng tỏa ra khét lẹt một vùng trận
địa.
Quân viết thật sẻn so, với những dòng chữ li ti, mỏng mảnh.
Giấy ở đây là thứ quá hiếm hoi. Mấy quyển vở học trò anh mua
khi ở Cứ giờ chỉ còn lại có dăm cặp giấy đôi. Có khi ở tòa soạn tạp chí, người
ta đã vứt bỏ những bản thảo trước của anh ngay từ đầu, khi thấy chúng viết trên
cả hai mặt giấy; vứt bỏ một cách bực dọc mà không buồn liếc qua xem chúng ghi
chép những gì, dù anh đã cẩn thận ghi ở đầu mảnh giấy một dòng chữ to đầy khẩn
thiết, van nài: "XIN VUI LÒNG THÔNG CẢM, CHÚNG TÔI KHÔNG CÓ GIẤY!" .
Quân nghĩ, ở tòa soạn báo Quân đội, dĩ nhiên đa số trong Ban
biên tập phải là con nhà lính, nếu không phải là tất cả. Và đã là lính, tất họ
phải hiểu giấy là thứ quí hiếm đến thế nào ở chiến trường. Họ phải biết nỗi xót
xa phải xé dần, xé dần những lá thư của người yêu ở xa xôi, những dấu tích duy
nhất, thân thương liền khúc ruột ấy của người mình yêu mến để cuộn thuốc rê. Ấy
là vì tình đồng đội.
Có những thằng chẳng bao giờ lưu tâm tới chuyện giấy má thư từ.
Với đứa này thì vì mù chữ, với đứa kia vì bị phụ tình, đứa nọ gia đình ở quê
nhà đã từ lâu không còn liên lạc gì nữa. Nhưng tụi nó cũng cần giấy, dù chỉ là
để vấn thuốc mà thôi. Và những tờ giấy, dù là giấy vở trắng tinh chưa dính chút
mực, hay là trang thư chứa đầy những lời thương nhớ thiết tha, là giấy báo mềm
mại dễ dùng, hay là giấy đen khổ to để viết công văn, báo cáo cứng còng, dòn rụm...đều
cùng với thuốc rê, hay với lá hà thủ ô biến thành khói nhuộm đen buồng phổi của
những kẻ xa nhà.
Bạn có thể nhịn thèm, chờ một dịp may nào đó, khi có một tờ
báo hay một quyển tạp chí chôm được hay xin được ở Trung đoàn. Nhưng nếu bạn là
người "giàu có", là tiểu chủ nắm quyền sở hữu một vài manh giấy, bất
kể giấy gì, bạn đâu thể nhìn bạn bè mình bứt tóc bứt râu vì thèm thuốc, nhất là
khi còn thuốc mà giấy đã hết rồi. Và những điếu thuốc chẳng giống ai ấy lại rất
ngon, ngon hơn bất kỳ thứ thuốc thơm nổi tiếng nào trên trái đất. Chúng ngon vì
sự thiếu thốn, vì sự chia sẻ, vì tình cảm đồng đội thân thương gắn bó.
Nói đến giấy, mà không nói đến tem, là một thiếu sót vô cùng
trầm trọng. Mỗi người được phát ba con tem quân đội mỗi quý. Thật là chẳng thấm
vào đâu! May mà có những đứa chẳng khi nào dùng đến chúng như đã nói trên. Vậy
là mọi con tem được phát ra cuối cùng đều được sử dụng cho sứ mệnh thiêng liêng
cao quý của chúng. Hoặc là dán lên những cánh thư, hoặc là dán lên những phong
bì đựng bản thảo phụng sự cho văn học.
Nói đến phong bì, lại đẻ ra thêm một chuyện. Lính làm gì có
những phong bì đúng nghĩa. Phong bì, nghĩa là một mảnh giấy, có khi lem nhem chữ
nghĩa, hình vẽ lăng quăng, được gấp lại, dán bằng cơm nguội một cách lôi thôi.
Tuy nhiên, nói đi rồi nói lại, cũng có những khi anh em ta được một thời phủ
phê, giàu có. Nào giấy, nào vở, nào thuốc điếu, thuốc lào, bánh kẹo, thư từ động
viên thăm hỏi của mấy cháu thiếu nhi... Ấy là những dịp bắt đầu vào mùa chiến dịch,
hoặc những dịp lễ lớn ở quê nhà. Nhưng những dịp đáng yêu như vậy cũng ít oi có
thấm vào đâu, và thiếu thốn vẫn hoàn thiếu thốn.
Những trang bản thảo của Quân đã lôi thôi như vậy về hình thức,
nhưng cũng còn dễ chấp nhận được nếu mọi chuyện chỉ dừng ở đó. Thế nhưng không,
bản thảo của anh lại còn mang đủ màu đủ sắc. Mực viết Bic xanh dương đậm. Mực
bơm vào viết máy tim tím, xanh lá mạ non nguyên là thuốc màu nhuộm vải xin được
của dân dạo còn ở Cứ. Rồi có khi là những đoạn ghi bằng bút chì. Bởi vì một
truyện viết ở đây có bao giờ đi một lèo thẳng tắp. Chúng luôn bị ngắt ngang đột
ngột ở một đoạn, một dòng nào đó, vì một ngàn lẻ một lý do: địch tập kích, hành
quân chiến đấu, đi công tác, bị lên cơn sốt...Và những dòng chữ này còn có khi
nhem nhuốc, nhạt nhòa vì thấm nước mưa, đến không tài nào đọc được. Mỗi khi phải
bỏ một trang bản thảo bị sự cố như vậy lòng Quân đau như muối xát.
Trăm nỗi đoạn trường, trăm điều cay đắng như vậy đối với từng
bản thảo gửi đi - bản thảo duy nhất, không có bản nháp mà cũng không có bản lưu
- thế nhưng những truyện của anh vẫn không được ghé mắt đến, hoặc cũng có khi
chúng được chiếu cố đăng rồi, nhưng Quân không thể biết.
Ở đây, có khi hàng mấy tháng trời chẳng có gì để đọc. Và những
tờ báo, tạp chí rách tươm, nhàu nát kiếm được ở Trung đoàn mang về, thì cũng đã
quá lỗi thời, số này số nọ được chăng hay chớ chả có thứ tự gì. Có khi lúc đó
là tháng Mười, tụi Quân kiếm được số của tháng Một, tháng Hai tận hồi năm
ngoái. Biết đâu chúng đã được đăng trong những cuốn mình chưa đọc - Quân tự an ủi,
và vẫn tiếp tục bỏ một phần giấy hiếm hoi của mình để viết, không vì điều gì
khác ngoài một sự thật đơn giản: viết đối với anh là một niềm thôi thúc.
Quân đặt dấu chấm cuối cùng kết thúc câu chuyện, rồi vươn vai
thở phào vô cùng khoan khoái. Nó đã được khởi đầu từ dạo đơn vị còn nằm ở Cứ
chưa hành quân cơ động, nhưng viết giữa chừng thì biết bao công việc bận rộn để
chuẩn bị cho một mùa chiến dịch đã buộc anh phải tạm bỏ quên nó đi.
Ôi, cái sự viết lách, "văn-nghệ-văn-gừng" này thật
là kỳ lạ! Nó hành hạ người ta, làm người ta quên ăn quên ngủ, làm người ta đầu
óc nóng bừng như muốn nổi điên lên với bao nhiêu câu hỏi: Phải tiếp tục câu
chuyện dở dang như thế nào đây? Phải dùng từ nào để diễn tả những khoảnh khắc
này với bao ý nghĩa? Cây bút này có chịu vâng lời, tuân phục tôi không? Có run
rẩy theo nhịp tim tôi run rẩy, có tuôn trào trên mặt giấy như máu tôi đang cuộn
chảy rạo rực trong người? Hay là nó cương quyết bướng bỉnh kháng cự lại điều
tôi muốn nói? Viết! Thật là nhẹ nhàng, mà cũng thật là vất vả. Nhưng nó cũng thật
diệu kỳ, làm tâm hồn sung sướng, lâng lâng phơi phới biết bao. Hạnh phúc khi viết
rất là giản dị, nhưng lớn lao không có gì so sánh được, khi có một đoạn, một
câu ưng ý, nói lên đúng những cảm xúc, ý tưởng sâu xa.
Quân quay qua Ụ Mối. Nó đang cặm cụi vót những nan tre tròn
trỉnh, nhỏ xíu để đan một chiếc lồng cho con sáo cưng của mình. Quả là Ụ Mối rất
cưng con sáo. Rừng tre gai cách đây đâu phải gần gì, mười mấy cây đường rừng.
Thật ra, con Chíp không ưa gì những chiếc lồng. Nhưng khi hành quân di chuyển, Ụ
Mối buộc phải nhốt nó vào lồng. Nếu không, khi dừng lại nghỉ giải lao, con quỷ
hiếu kỳ ham chơi này có thể mải mê săn đuổi, tán tỉnh một nàng sáo xinh xinh
nào đó, và không kịp trở về khi đơn vị tiếp tục hành quân. Chiếc lồng cũ đã bị
bẹp rúm lại khi Ụ Mối lăn mấy vòng để tránh một làn đạn xối xả của địch khi
đánh vào cửa mở ở Ampil hồi đầu năm. Ụ Mối tiếc muốn đứt ruột, nó cứ lầm bầm
nguyền rủa bọn địch ác ôn đã làm hư chiếc lồng quý báu, sườn lồng không phải
làm bằng thứ tre tầm thường mà là những thanh gỗ gõ đỏ đã được nó trau chuốt
công phu, cạo vuốt bóng loáng. Dù sao, Ụ Mối ắt cũng mừng thầm là con Chíp vẫn
bình an vô sự.
Hồi chuẩn bị đi, Quân đã ngăn không Ụ Mối mang theo con Chíp.
Nhưng nó cũng lén lút bằng cách nào đó xách theo vì không muốn xa con chim cưng
lâu như vậy.
Quân hỏi:
- Già Hương và thằng Thuận đi đâu mất rồi Ụ Mối?
Ụ Mối không ngẩng đầu lên, làu bàu nói:
- Hai bọn hắn đi kiếm gì về làm thức ăn rồi. Em đòi đi, ông
già không cho, còn bảo em "xúi quẩy" lắm, đi theo chỉ tổ trù ẻo cho
xui thêm. Anh thấy có bực không! Hừ, hồi còn ở Tà Cuông, ai đi chém cá, săn
dôïc về cho trung đội? Ai là tay săn thiện nghệ nhất của tiểu đoàn ngoài Ụ Mối
này?
Quân an ủi Ụ mối:
- Thôi mày đừng buồn. Ở đây đâu có cá hay có thú cho mày săn
bắt. Mà ông già dị đoan cũng phải, ổng là dân xứ đạo An Giang mà. Tại mấy lần
trước, có mày đi cùng, rạc cả giò nhưng có kiếm được cái quái gì đâu. Thật ra ở
đây chỉ có nước kiếm chút lá rừng chua về nấu canh, đâu cần gì đi đông. Ông già
muốn để mày rảnh rỗi làm cái lồng đó thôi, chứ không phải chê gì mày đâu, Ụ Mối
à.
- Phải chi trời nắng, em xách xẻng ra một loáng là có khối
dông về nướng.
Ụ Mối là biệt danh trung đội dành cho nó, chứ họ tên đầy đủ của
nó cũng văn hoa lắm: Phan Quang Dũng. Lý do của cái biệt danh này là vì tự
nhiên đã bố trí gương mặt quá tuổi dậy thì của Dũng một cách vô cùng quân sự,
mang tính phòng ngự cao độ - nghĩa là lỗ chỗ, lồi lõm những mụn nhỏ, mụt to và
sẹo mụn, hệt như một cái ụ mối thứ thượng hảo hạng. Mà ở chiến trường này, có
gì quý báu cho bằng một cái ụ mối hiện ra đâu đó khi đang đánh nhau long trời lở
đất. Ụ mối là một công sự thiên nhiên vững chắc, an toàn hơn hết. Vậy nên cái
biệt danh này không phải là một sự coi thường, mà trái lại, là một niềm vinh hạnh
cho người mang nó. Ụ Mối cũng thừa hiểu điều này, nên nó tỏ ra khoái trá vô
cùng.
Quê Ụ Mối là một huyện miền núi tỉnh Nghệ Tĩnh, nên nó đánh bắt
thú rừng rất giỏi. Những đêm nằm nhớ nhà, Ụ Mối cứ kể cho tụi Quân nghe về những
chuyến đi săn tuyệt thú của nó. Cái giọng trọ trẹ, khó nghe của Ụ Mối hồi mới về
đơn vị chả có ai nghe ra nổi, nhưng sau rồi cũng quen dần. Ở đây, tụi Quân gọi
mấy đứa quê ở Nghệ An, Hà Tĩnh là con nhà "Bọ" . Bọ nghĩa là bố. Dân
Nghệ Tĩnh có lắm thổ ngữ, nên cũng tạo ra nhiều giai thoại vui đáo để. Ví dụ
như dưới đây là một trong số đó:
Trung đội vừa nhận được mấy thằng Bọ tân binh, về tới nhà, A
trưởng nói:
- Thôi, tụi bây theo thằng A. ra giếng tắm rửa đi rồi về ăn
cơm.
Tắm táp xong, mấy chàng lính mới quay về. Bữa cơm đã được dọn
lên, tinh tươm hơn ngày thường chút đỉnh để chào mừng đồng đội mới. Mấy tay cũ
ngồi quây quần lại bên mâm, bỗng ngạc nhiên khi thấy tụi tân binh vẫn đứng lóng
nga lóng ngóng.
- Nè, ngồi xuống ăn cơm đi chứ, tụi bây còn mắc cở gì nữa vậy?
- A trưởng nói.
Mấy đứa khép nép ngồi, còn một thằng vẫn đứng lơ láo.
- Ngồi xuống ăn đi chứ mậy, chờ gì nữa?
- Dạ dạ...em không có đọi!
- Không đói thì cũng ăn thêm một hai chén cho vui.
- Ơ, em không có đọi...!
- Thôi không đói thì thôi. Lính mà, thấy ăn là cứ nhào vô,
không chờ mời mọc nhiều lời, chừng nào đói mầy qua nhà bếp mà ăn nghe.
Tên lính mới nhìn mấy đứa đồng hương, rồi nhìn mấy cái miệng
đang nhai nuốt ngồm ngào mà nuốt nước bọt, vừa đói vừa tức mình, vừa sợ sệt
không dám nói gì.
"Ðọi" thổ ngữ Nghệ Tĩnh có nghĩa là chén. Nó đã làm
rớt cái chén B52 đâu đó trên đường. Thế nhưng do cái giọng địa phương, dấu sắc
thành dấu nặng, mà cánh lính miền Nam cứ nghĩ là nó nói không có đói! Ðến khi,
một thằng đồng hương ních hết chén cơm cuối cùng, đưa cho thằng này. Nó chạy ra
bồn nước trước nhà ngoáy mấy cái rồi nhào vào, bới cơm, ăn hùng hục như đói từ
ba đời ba kiếp nào trước những cặp mắt ngạc nhiên. A trưởng hỏi:
- Ủa, sao mày nói không đói mà bây giờ ăn thấy kinh vậy?
Một thằng ngập ngừng giải thích, nó chỉ cái chén nói:
- Nó không có đọi, tức là không có cái này.
Cả A ôm bụng cười nghiêng ngửa. A trưởng vừa cười sùng sục, vừa
cố thốt:
- Ðiệu này, tao phải lập một bản tự điển giải thích mấy từ độc
đáo của tụi bây rồi.
Dĩ nhiên đây chỉ là giai thoại. Có lẽ nó ra đời từ những ngày
chống Mỹ, hay trước đó nữa cũng nên. Nhưng những giai thoại như vậy vẫn hay được
nhắc đến để trêu ghẹo những chàng lính "quê choa".
Quân nhớ tới mấy giai thoại đó và bỗng bật cười hăng hắc. Ụ Mối
ngạc nhiên nhìn anh:
- Anh làm gì mà khi không cười một mình vậy?
- Không có gì, tao nhớ mấy chuyện cũ.
Ụ Mối cúi xuống, tiếp tục vót nan. Anh ngâm nga ư ử trong cổ mấy
câu dân ca xứ Nghệ: "Ðã thương thì thương cho trót. Ðã trục trặc thì trục
trặc cho luôn. Chứ đừng như con thỏ ở đầu truông. Khi vui nó giỡn bóng khi buồn
nó đùa trăng..." .
Quân bước tới góc lều, nơi balô của anh treo trên một cây cột
chừa một nhánh chạc hai - một kiểu móc quần áo ba lô đặc trưng
"mô-đen-dã-chiến" của cánh lính nhà ta. Anh lấy ba lô xuống, moi cái
bọc nylon đựng sổ sách giấy tờ ra, nhét cẩn thận mấy trang bản thảo vào, rồi gói
ghém lại, treo lên. Anh chép miệng:
- Thèm thuốc quá, giờ mà được rít mấy hơi thì còn hơn lên thượng
giới uống rượu quỳnh tương của Ngọc Hoàng thượng đế!
Lều có tổng cộng bốn chạc hai treo ba lô, nghĩa là có bốn người:
Quân, Ụ Mối, Già Hương và Thuận kều. Ở trung đội, Già Hương, trung đội phó hậu
cần, là người lớn tuổi nhất - hai mươi chín. Kế đó là Quân - hai mươi bảy. Còn
lại thì sồn sồn một lứa từ đứa nhỏ nhất là mười chín, đến đứa lớn nhất khoảng
hăm mốt, hăm hai. Trung đội có bốn lều, tức là có quân số mười sáu tay súng bộ
binh. Quân số thực là hai mươi lăm, nhưng vắng hết bảy người: Ba tay đang lên
cơn sốt nặng hồi sắp hành quân cơ động ở lại giữ Cứ, thứ tư là Trung - A trưởng
đã hy sinh trong đợt đánh Ampil vừa qua, thêm hai tay bị thương đang nằm viện ở
Chúp, và cuối cùng là Phương, B trưởng, đã đào ngũ sau trận đánh chiếm Ampil.
Tạm thời thì Quân nắm quyền chỉ huy trung đội 12 ly bảy. Thật
ra, anh đã là B phó quyền B trưởng từ năm 1982, nhưng đầu 1983, Phương học quân
chính ở Sư về, thay thế anh chỉ huy B. Một con người cơ hội, đầy thủ đoạn, ham
hố trèo thật nhanh thật cao trong nấc thang cấp chức, nhưng không bằng năng lực
mà bằng mọi mánh khóe.
Nói cho công bằng, Phương cũng là người có tài năng trong việc
vạch ra các kế hoạch, phương án huấn luyện hay tác chiến, hay trong phân công
công tác. Nhưng Phương là dạng người mồm mép đỡ tay chân, y lại chưa từng qua
chiến đấu bao nhiêu, vừa sang K. đánh một hai trận lẻ tẻ đã xin đi học sĩ quan
sơ cấp, rồi khi ra trường về đơn vị chưa bao lâu lại gặp ngay đợt chiến dịch lớn
nhất, căng nhất trong suốt bốn năm qua. Y bỏ trốn, có khi là điều hay. Một chỉ
huy hèn nhát có thể làm anh em đổ máu, hy sinh một cách vô ích và phi lý.
Quân từng có kinh nghiệm xương máu về vấn đề này. Ðó là một
trận đánh vào cuối mùa khô năm 1981 ở phía Ðông huyện S'vai Chek. Lúc đó, anh
còn là xạ thủ B40 của đại đội 12.
Khi ấy, đại đội đang trên đường về Cứ sau một đợt truy quét
mười ngày. Gạo hết, nước hết, nhưng đơn vị chỉ còn cách Cứ khoảng năm cây số,
nghĩa là chưa tới một giờ hành quân. Mùa nắng ở Campuchia, cái cần yếu nhất
chính là nước uống, vì có khi đơn vị đi hàng chục cây số băng qua những cánh trảng
mênh mông của Bát Ðom Boong. Trên đầu là mặt trời đỏ rực bừng bừng, dưới chân
là lớp đất ruộng khô nẻ săn cứng lại như bê tông, lỏi chỏi những gốc rạ đốt
cháy nham nhở còn sót lại. Những con suối, con mương dẫn nước đều chỉ chảy có một
mùa - mùa mưa, còn mùa nắng, chúng chỉ là những đường rãnh thấp ngoằn ngoèo,
trơ trọi lớp bùn khô. Và trên suốt hàng mấy chục cây số hành quân đó, thỉnh thoảng
mới có một cây độc mộc đứng lẻ loi, hoặc một lùm cây lè tè khô héo, không đủ
che mát một mái đầu. Hành quân mang vác nặng, mồ hôi ra nhiều nên cũng cần nước
để bù đắp lại cho cơ thể. Những tay lính cũ cẩn trọng lúc nào hành quân chiến đấu
cũng thủ sẵn một bình toong chí cốt trong ba lô, chỉ khi chết sống mới dùng đến.
Nhưng lần ấy, C đã về gần đến Cứ, và ở chặng giải lao cuối
cùng trước đó, mọi người, dù là người lo xa nhất, cũng đều dốc hết nước vào bụng
cho đã thèm. Người không uống mấy thì cũng nhường chỗ nước còn lại của mình cho
mấy đứa trẻ hơn, đã hết nước từ đời nảo đời nao. Khi sắp đến một con suối một
mùa lớn giữa trảng, chợt đại đội bị phục kích bất ngờ. Khoảng hơn tám mươi tay
súng địch đã phục sẵn dưới lòng suối, ở một khúc vòng cung hiễm trở. Ðại đội
nhanh chóng tản ra phản kích. Nhưng ai cũng vừa mệt, vừa đói, lại khổ nhất là
khát khô cả cổ, mà cuộc đọ súng cứ giằng co. Ðịch đã chuẩn bị tinh thần, vật chất
đầy đủ để kềm chân hòng tiêu diệt đơn vị của ta theo chiến thuật dĩ dật đãi lao.
Và chúng quyết không để cho tụi anh thoát khỏi gọng kềm. C trưởng khi ấy là Vụ,
người Thanh Hóa, rất vui tính nhưng cũng đánh nhau rất cừ. Anh vẫn thản nhiên,
bình tỉnh xếp đặt kế hoạch rút lui, sau đó anh cho liên lạc bò lên từng bộ phận
triển khai kế hoạch. C sẽ cầm cự đến chiều, chờ khi mặt trời sụp xuống. Khi ấy
lợi dụng bóng đêm sẽ từ từ rút. Hỏa lực gồm khẩu cối sáu và khẩu đại liên sẽ
rút ra trước đến vị trí an toàn rồi phát hỏa kềm chế cho số còn lại rút ra.
Trung đội 4 rút sau cùng theo đội hình tổ tam tam. Kế hoạch lẽ ra đã tiến hành
hoàn hảo, nếu không vì sự hèn nhát của Dung B trưởng B5. Thay vì chờ phối hợp
rút một cách bình tỉnh, thong thả, an toàn, anh quá sợ sẽ bị cầm chân, và chết
khát nếu không thoát được, nên khi liên lạc vừa mới kịp phổ biến kế hoạch cho
các A trực thuộc và B4, Dung đã ra lệnh cho B5 liều mạng tháo chạy về hướng
Tây, hướng có Cứ của tiểu đoàn hai, không chờ lệnh của C trưởng Vụ. Số lính B5
mở đường máu thoát ra khỏi tầm hỏa lực địch hôm đó chỉ còn vỏn vẹn hơn một phần
ba. Hai phần ba chết hoặc bị thương nặng, mất máu quá nhiều, nên sau đó cũng chết
khi có chi viện của D2 tới.
Lần bị vây hãm ấy đã ăn sâu vào ký ức Quân như một vết hằn,
vì trong số lính hy sinh có Khoa, có Ðạt, là những bạn vô cùng thân thiết của
anh...
Từ ngoài căn lều, cách khoảng hơn trăm mét, chợt nghe thấy tiếng
kêu réo ơi ới của Thuận kều:
- Anh Quân ơi, Ụ Mối ơi, qua nhà bếp mau đi... Có đồ nhậu rồi.
Ụ Mối ló đầu ra, nghiêng ngó, rồi thụt vô bảo Quân:
- Em thấy thằng Thuận xách con gì như con vịt ấy, anh Quân ạ!
- Vậy hả, chắc hai tay này ra hồ bắn được vịt trời rồi.
Ụ Mối lầm bầm:
- Cái hồ chết tiệt này đúng là vô duyên vô dụng, em nỏ bao giờ
thấy có chim cò gì, cá thì nhỏ chút bằng ngón út, đầy xương, mà cũng nỏ được
bao nhiêu.
Quân cười xòa:
- Thôi, tại mày chưa gặp dịp đó. Chứ Già Hương hay thằng Thuận
làm gì bá phát bá trúng như mày. Mày biết tại sao hồ không có cá, mà cũng không
có chim chóc gì không? Tụi Trung đoàn tám ở đây cứ đánh trái hà rầm, cá to nào
còn với tụi nó. Với lại vừa rồi mình đánh chiếm Ampil, đạn pháo ầm ầm, chim cò
mất hồn mất vía trốn sạch hết rồi. Con vịt trời này chắc là loại thương phế
binh hạng nặng nên mới còn lề mề ở lại đây chờ vô nồi đó Ụ Mối ơi.
Quân và Ụ Mối bước vào nhà bếp. Mọi người đã quân quần ngồi
bên những bát nước nóng bốc khói. Bình và Phái điển đang loay hoay nhổ lông con
vịt. Thuận kều quay sang Quân, nói với vẻ quan trọng:
- Anh Quân, lúc nãy về ngang qua Tiểu đoàn bộ, em gặp thằng
Kiên liên lạc. Nó báo cho em một chuyện. Anh biết gì không? -Thuận ngưng lại, ỡm
ờ.
- Thì mày cứ nói đi! Mày lúc nào cũng làm ra vẻ quan trọng những
chuyện nhỏ như cái móng tay. - Tiến cóc bực mình quát Thuận.
- B mình sắp có thêm một tay súng, tay này nghe nói học hạ sĩ
quan ở bên nước mới qua. Chắc hắn về đây thay cho anh Trung đó.
- Vậy à! - Quân bình thản nói. Anh là người trầm tỉnh, kín
đáo, vui buồn ít khi lộ ra mặt. Thật ra, cái tin này cũng làm anh rất nôn nao
như hầu hết mọi người khác. Ở chiến trường, có thêm được một người là rất quí,
vì quân số luôn luôn bị hao hụt, mất mát do bị thương, bị bệnh. Có thêm một người
là bớt đi một phần gánh nặng trong công tác, chiến đấu, và thêm một niềm vui.
Chỉ mong sao nó không phải là một thằng Phương thứ hai - Quân thầm mong ước,
anh nhìn con vịt, hỏi Già Hương:
- Anh hay Thuận bắn được vậy? Con này coi bộ cũng cỡ tám chục
tuổi rồi! Tha hồ mà nhai đó nghe!
- Tao bắn. Kể cũng buồn cười. Ði mãi mà chẳng thấy thứ gì ăn
được, tao nản quá chừng, đã tính quay về. Thằng Thuận cứ nằn nì bảo tao lên hồ
họa may kiếm chác được gì. Thế rồi, lên đó, thấy con vịt này đang lặc lừ trên bờ
hồ. Nó bị thương ở cánh, bay không nổi. Chắc là bị ai bắn hay trúng mảnh pháo
lúc đánh nhau.
- Em bảo Già Hương ráng bắt sống nó để về lấy tiết đánh tiết
canh mà ổng không nghe. Ổng sợ bị sẩy mất uổng nên tỉa luôn. Chà! Nhắc tới tiết
canh mà phát thèm. Phải chi có gừng, cháo vịt chan nước mắm gừng, trời mưa này
ăn đúng là nhức nhối!
Mọi người im lặng. Mưa lại bắt đầu rơi tí tách bên ngoài. Câu
ước ao của Thuận chợt gợi lên một nỗi nhớ không tên về quê hương. Nỗi nhớ thơm
mùi cốm dẹp mùa lúa mới, thơm mùi thịt chuột đồng khìa xả ớt mùa nước nổi, thơm
mùi khói rạ đốt đồng những buổi chiều vàng...
Con Chíp thật là nghịch ngợm. Nó cứ mổ mổ vào môi Huy làm anh
không sao ngủ được yên. Huy bực mình tóm nó, co ngón tay ký mấy cái nhẹ vào cái
đầu bướng bỉnh. Khi Huy buông tay, nó bay vù ra đậu trên cành cây nghiêng xuống
trước cửa lều, chẩu đôi mỏ nhọn nguyền rủa anh: "Cút mẹ mày đi! Cút mẹ
mày đi!"
Ụ Mối toàn dạy cho tên đệ tử của hắn những câu linh tinh, bậy
bạ, và con sáo này cứ cố tình áp dụng bừa bãi tùy hứng, chẳng ăn khớp hoàn cảnh
tí nào. Có khi mọi người đang ngồi vui vẻ trò chuyện, nó chợt kêu lên, theo cái
khẩu âm trọ trẹ nặng nề của Ụ Mối: "Tối rồi ngủ đi! Tối rồi ngủ đi!"
Có khi, giữa buổi trưa vắng lặng, nó buồn tình réo mãi liên hồi: "Nghỉ
cho mát! Nghỉ cho mát! Nghỉ cho mát!..." Một lần, tiểu đoàn trưởng Văn ghé
trung đội, nó oang oang thét vào mặt anh: "Mê mai cầm pê, mê mai cầm pê! 1
Chơi mãi quên về, chơi mãi quên về!..."
Huy thường quần mấy bụi cỏ bắt châu chấu, cào cào cho con
Chíp, nên nó rất khoái anh. Trừ Ụ Mối, chỉ có Huy là có thể kêu nó đậu xuống
tay, hay huýt sáo rủ nó đi theo vào rừng.
Có con Chíp, nhiều khi cũng vui vui, khuây khỏa, nhưng nhiều
khi mọi người bực phát điên lên với nó. Nó tha mấy cái muỗng mà ai đó quên nhét
vào túi cóc ra tận ngoài trảng cỏ, quăng ở đó. Nó mổ vào cái lon đựng thuốc rê,
lôi từng nhúm thuốc ra, bỏ vương vải trên nền đất, rồi nhảy lên thành lon nhún
nhún, cho đến khi cái lon nghiêng úp lại, thuốc, giấy đổ tung tóe. Lúc đó, như
đã hoàn thành một kỳ công ghê gớm, cu cậu bay lên cây ưỡn ngực hót lên một
tràng đắc thắng.
Nhưng buồn cười nhất, là nó cũng biết trả đũa ra trò. Trong
trung đội, nó ghét nhất là Phái điển, vì anh hay đuổi bắt nó, vung cành cây quất
dọa nó những khi nó phá nghịch. Một lần, canh lúc Phái đang ngủ, nó len lén bay
tới, nghiêng người thả một bãi phân vào mặt anh với sự chính xác của một phi
công tác xạ bậc thầy. Lần ấy, Phái điển nổi khùng, suýt đập chết nó nếu Ụ Mối
không kịp thời ngăn anh lại. Từ đó, Phái không đá động gì đến con Chíp nữa, mặc
cho nó quậy phá cỡ nào, anh cũng cố bịt mắt, lấp tai làm ngơ đi. Kể ra cũng tội
nghiệp cho Phái, đành phải nhịn thua một con chim nhãi nhép nhưng vô cùng láo
xược.
Huy vươn vai, rồi ngồi dậy. Nắng bên ngoài lấp loáng qua kẻ
lá, đổ xuống mặt đất những đốm hoa loang lổ nhỏ to. Từ sau hôm Huy về trung đội,
trời đã dứt hẳn mưa. Cho đến hôm nay thì những gì một tuần mưa dầm mang lại đã
biến đi không còn dấu vết gì. Mấy bồn nước lại chỉ còn lưng lưng nước tải từ hồ
về. Mặt cát lại khô rang, nóng bỏng. Không khí lại oi nồng. Chỉ có những hàng
cây là còn giữ lại được phần nào nét xanh mát của mưa, với những chùm lộc non
biên biếc vừa mới nhú.
Ụ Mối nằm xoay trở nãy giờ mà không dỗ giấc được cũng lồm cồm
ngồi lên, bảo Huy:
- Tụi mình đi đào dông đi Huy.
Huy gật đầu, bước tới góc lều, nơi dựng xẻng cuốc cầm lấy hai
cái, vác lên vai. Con Chíp từ ngoài lượn vào, bay vòng vòng quanh Ụ Mối kêu léo
nhéo. Ụ Mối giơ tay lên đe nó:
- Mi chuyên quấy giấc tụi tao. Có bữa ông cáu tiết lên đem
xáo măng bây giờ.
- Ðau lòng cò con! Ðau lòng cò con! - Con Chíp quàng quạc kêu
lên. Ụ Mối trợn mắt nhìn nó, tự hỏi thầm: "Trời đất! Con quái này học ở
đâu vậy? Làm như nó hiểu được tiếng người!"
Huy nhìn vẻ mặt ngơ ngác của Ụ Mối, bật cười. Anh giải thích
với hắn:
- Không phải nó biết ông nói cái quái gì đâu. Hôm qua, tôi vừa
cho nó ăn vừa đọc mấy câu "Con cò mà đi ăn đêm..." Bây giờ, nó nghe
ông nói xáo măng, nên nó nhớ tới câu kế, đọc tiếp cho ông nghe đó!
Ụ Mối vỡ lẽ, gật gù cười khà khà, rồi hắn bước ra cái bồn,
múc một chút nước đổ vào cái khăn, đưa lên lau bộ mặt pháo đài kiên cố của
mình.
Hai người đi về hướng đông. Hướng này bọn Huy chưa khai thác
nhiều, có lẽ "tài nguyên - thực phẩm" còn phong phú. Bãi cát ở sau một
khoảng rừng thưa, không có cây to mà chỉ lơ thơ những bụi cây cao ngang đầu người,
đôi chỗ có cả những bụi xương rồng to lớn, lởm chởm những gai. Nó kéo dài khoảng
năm sáu trăm mét, rồi băng qua một ngọn đồi thấp đầy đá cuội, luồn vào những
hàng cây đồ sộ, nơi bắt đầu của cánh rừng già.
Hang dông có đáy nằm cách mặt đất khoảng nửa mét đến một mét,
tùy theo kích thước to nhỏ của "chủ nhân", và thường là đâm xéo từ
trên xuống một quảng, rồi bẻ ngang song song với mặt đất theo dạng chữ L.
Ðào bắt dông không khó. Ðiều chủ yếu là phải xem dấu chân ở
miệng hang để khỏi phí công vô ích. Mấy hôm trước chưa có kinh nghiệm, cứ nhìn
thấy hang là Huy hùng hục đào, rốt cuộc chỉ là một cái hang trống, hoặc có những
sinh vật khác đang trú ngụ; đôi lúc là một con cóc già xụ, to kềnh; đôi lúc là
một chú bò cạp núi khổng lồ, đỏ rực như than đang cháy, giơ hai chiếc càng đồ sộ
lên thủ thế. Ụ Mối giảng giải với Huy:
- Ông phải nhìn thật kỷ xem miệng hang nào có cát xước thành
những vệt nhỏ - đó là vết chân dông, thì đào mới có. Hang nào mà miệng trơn nhẵn
thín nỏ có gì đâu.
Có khi, đào tới cuối hang nhưng chận không kịp, chú dông nhào
lên cong đuôi phi sang một cái hang khác gần đó chui xuống, phải làm lại từ đầu.
Huy rút kinh nghiệm nên thủ sẵn một cành cây có nhiều nhánh nhỏ. Con dông nào vừa
xuất hiện tính chạy là anh quất ngay, xem ra rất có hiệu quả.
Ði vòng vòng một lúc, cả hai đã bắt được sáu con to, khoảng
hai tấc đến hai tấc rưởi không kể cái đuôi dài. Ụ Mối nói:
- Thôi, bao nhiêu đây đủ cho bữa ni rồi. Ðể dành đó cho mấy
ngày sau.
Huy kéo Ụ Mối tới ngồi nghỉ dưới bóng một lùm cây. Anh móc
trong túi cái bao đựng thuốc rê ra, vấn một điếu rồi đưa sang Ụ Mối. Hôm trước,
trung đội tải theo xe trung đoàn về cứ, tụi anh đã nhờ họ mua giùm ít thuốc rê
và trà. Cả trung đội được một phen hút thuốc uống trà thỏa thuê, bù lại những
ngày thèm nhớ.
Huy khoan khoái rít một hơi thuốc thật sâu, rồi chầm chậm nhả
khói ra. Anh đưa mắt nhìn lơ mơ về phía ngọn đồi. Dưới ánh nắng, những hòn cuội
trắng, đen, xam xám đủ màu đủ cỡ óng a óng ánh như những hòn ngọc quí. Cả ngọn
đồi rực rỡ, sáng lóa lên. Huy hỏi Ụ Mối:
- Anh Quân lính bảy chín sao bây giờ vẫn chưa ra quân vậy hả
Dũng?
- Ông chưa biết sao, anh ấy đâu còn họ hàng thân thuộc gì nữa
mà về. Trước khi vào lính, anh Quân ở trong chùa...
Ụ Mối duỗi hai chân ra, kể cho Huy nghe về cuộc đời Quân.
Quân là con một của hai vợ chồng làm nghề buôn chuyến. Trong
một chuyến từ Huế trở vào Sài Gòn, chiếc xe bị lật nhào rơi xuống vực. Cả hai
người đều chết tại chỗ. Năm dó, Quân lên bốn, do một người vú nuôi mẹ anh thuê
chăm sóc. Sau tai nạn, bà ngoại Quân đón anh về nuôi. Nhưng bốn năm sau đó, bà
cũng bị bệnh mất đi. Tài sản của ba mẹ và bà đều bị những ông cậu, bà dì họ
giành giật, chia chác tiêu tán hết, nhưng lại chẳng ai buồn nhớ tới việc nuôi nấng,
dạy dỗ đứa trẻ tám tuổi bất hạnh. Nói chính xác hơn, họ rất quan tâm đến chuyện
đó, nhưng ai cũng thành thật tin rằng đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của một người
khác chứ không phải của mình. Họ đun đẩy qua lại, trách móc nhau, cải cọ nhau,
rồi chửi rủa nhau ngày này qua ngày khác về chuyện nuôi nấng đứa nhỏ, dạy dỗ
cho nó nên người, nhưng lại lờ đi chuyện đứa nhỏ cần một bữa ăn, cần một sự lo
lắng, thương yêu bằng hành động.
Quân lần mò về thành phố, đi lang thang xin ăn một thời gian.
Rồi một bữa anh bị mắc mưa, cảm sốt nằm mê man trước cổng một ngôi chùa nhỏ.
Trong chùa, chỉ có một vị sư già trụ trì và một chú tiểu lớn hơn Quân khoảng
năm sáu tuổi. Họ bắt gặp anh đang nằm co quắp, ôm anh vào săn sóc, chữa bệnh.
Sau đó, vị sư già cho Quân ở lại chùa, nuôi dạy anh cho đến lúc trưởng thành.
Quân được nhà sư cho đi học, anh dã có bằng tú tài hai khi Sài Gòn được giải
phóng. Sau đó, anh thi đậu vào đại học, nhưng đang học dở năm thứ hai, thứ ba
gì đó, thì nhà sư mất. Quân buồn lắm. Anh thương mến vị sư già như cha đẻ. Thêm
nữa lúc ấy chiến tranh đang nổ ra ở biên giới, anh liền tình nguyện vào lính,
và kể từ đó coi đơn vị như mái nhà của mình.
Huy ngồi im lắng nghe Ụ Mối kể chuyện.
Ngoài kia, ánh nắng đã bắt đầu dịu dần, phai đi trên những ngọn
cỏ tranh héo vàng bên tay phải. Ở rừng bóng chiều ụp xuống rất nhanh. Thường
thường, vừa mới đó nắng còn chói chang, nhưng chỉ giây lát sau thôi, những hàng
cây đã mờ đi, chìm trong làn sáng mờ mờ vàng nhạt; và ở phía trong sâu hơn, chỉ
còn thấy những khoảng tối âm u, thăm thẳm. Mấy con sóc bay và bọn dơi quạ bắt đầu
tung ra lượn lờ quanh quẩn để săn mồi.
Không ngờ cuộc đời của anh Quân buồn như vậy - Huy thầm nghĩ.
Qua những ngày sống ở đây, Huy chỉ nhận thấy Quân là một người
trầm ngâm, ít nói. Nhưng đôi lúc, anh cũng đùa giỡn, kể chuyện tiếu lâm rất nhộn.
Anh không hề làm ra vẻ khó khăn, nghiêm khắc, thế mà mọi người trong trung đội
ai cũng có vẻ nể trọng, làm theo răm rắp những lời anh nói, kể cả người lớn tuổi
nhất là Già Hương. Mọi người còn có vẻ rất quí mến, gần gũi với anh, giữa họ
không hề có một khoảng cách nào. Huy thấy Quân có cái gì đó thật gần, thật giống
với mình. Ở chỗ nào, Huy không xác định được, nhưng anh cảm nhận được nó, dù suốt
nửa tháng qua, anh cũng chưa bao giờ có một cuộc chuyện trò, tâm sự nào thật sự
với Quân, ngoài những lời trao đổi thông thường.
- Lần đó, tôi nhận được thư nhà báo tin mẹ tôi bị bệnh nặng vừa
mới chết. Tôi nằm khóc cả ngày, bỏ ăn bỏ uống. Anh Quân đã an ủi tôi, rồi anh kể
cho tôi nghe những chuyện này...- Ụ Mối nói thêm - Thôi về đi Huy, chiều rồi
đó.
Hai người về tới nơi, cả trung đội cũng đang tập trung lại
thành mấy nhóm bên ngoài căn lều nấu bếp.
Ngay trước cửa lều là nhóm sáu người: Phái điển, Trung gấu,
Thiện, Tiến cóc, Bình, Hưng. Bên tay trái là nhóm Mợi, Lý, Thái, Phú, Trọng, Cường.
Nhóm thứ ba là Quân, Thuận kều, Già Hương. Mỗi nhóm đều ngồi trước một thau
cơm, và khẩu phần thức ăn cho sáu người.
Ụ Mối nói:
- Chờ thêm tí nữa các đồng chí thân yêu. Mỗi mâm được phân phối
hai con "gà đất". Nói đoạn, anh bước vào bếp để nướng dông. Chỉ
nhoáng sau, mùi thịt nướng đã bốc lên thơm nhức mũi. Vài phút sau, Ụ Mối cầm mấy
con dông đã chín, lột bỏ lớp vảy ngoài, để lộ lớp thịt trắng phao, trông hệt
như thịt cá lóc nướng ra, chia cho mỗi nhóm hai con. Rồi anh ngồi xuống nhóm của
mình.
Thức ăn buổi chiều gồm có một thau canh lá rừng chua, một dĩa
muối trộn ớt khô giã nhuyễn, một dĩa thịt heo đóng hộp, giống hệt như buổi
trưa, và cả mấy ngày gần đây. Mọi người ăn thật ngon miệng, dù chẳng có gì để gọi
là ngon lành, trừ món thịt dông nướng chấm muối ớt. Nhưng hai con xé ra có được
là bao, mỗi người chỉ nhón một miếng là hết sạch.
Dạo vừa đánh xong Ampil, trung đội còn lên đó kiếm được chút
rau dền, cải, hay bầu bí, trái đu đủ non mà dân tị nạn trong cứ trồng về nấu
canh. Rau chỉ có hạn, mà biết bao nhiêu đơn vị cùng tập trung lên hái, nên chỉ
vài ngày sau là chẳng còn một cái gốc rau làm thuốc. Trọng có sáng kiến chặt mấy
cái đọt đu đủ về cắt ra mỏng, rửa thật kỷ rồi ngâm muối cho tan mủ, sau đó đem
nấu canh. Nhưng sau khi ăn món đó, hầu như ai cũng bị đau bụng một trận nên
thân, không ai dám nhắc đến món canh đọt đu đủ nữa. Liên tiếp cả tuần, canh chỉ
là nước sôi cho tí bột ngọt và muối vào nêm để dễ nuốt trôi cơm. Nhưng thiếu chất
xanh, cả bọn bị táo bón gần chết. May sao sau đó Già Hương tình cờ phát hiện được
một thứ cây rừng có lá giống như lá mai nhưng mỏng hơn, có vị chua. Anh nấu thử
một ít, tự ăn một mình thí nghiệm, rồi thấy bình an vô sự nên thông báo cho cả
bọn đi lùng món rau trời cho này về nấu canh suốt từ ấy đến nay. May một cái nữa
là khu rừng trước mặt mọc đầy dẫy loại cây này, nên không còn lo thiếu canh nữa.
Có điều, lúc đầu ăn cũng khá ngon, nhưng ròng rã mấy tuần, cứ một món canh vừa
chua vừa chát, ai nấy đều ngán tới cổ.
Trung đội cơm nước xong xuôi thì trời cũng đã nhá nhem tối.
Quân tập hợp cả trung đội lại hội ý, phân công gác, xong xuôi phần làm việc,
anh cười cười bảo:
- Này anh em, tối nay là mười bốn trăng tròn. Chúng ta sẽ pha
trà ngắm trăng. Ðề nghị anh Mợi chuẩn bị mấy "bộ phim" mới hấp dẫn tối
nay "quay" cho anh em thưởng thức. Thôi, trung đội giải tán.
Mọi người đứng lên, ai về lều nấy. Ở hướng đông, vầng trăng
mười bốn to như một chiếc mâm vàng sáng rỡ đã nhú ra.
Trong lính, những "nghệ sĩ quay phim" là những người
rất mực được anh em sủng ái và chiều chuộng. Anh ta chỉ việc ngồi xếp bằng chễm
chệ, mở mồm ra để tường thuật lại những gì mình đã từng đọc được, xem được một
cách ung dung.
Thuốc hút ư? Anh em đã vấn sẵn cho anh mấy điếu to kềnh, chỉ
cần cất tiếng là lập tức có người đốt lên, đưa tận miệng cho anh, tha hồ mà
rít.
Trà ư? Sẽ có người chuyên từ cái ca inox ra loại trà hãm nước
nhất, còn bốc khói, xanh biếc, đậm đặc ngon lành, và đưa đến tận tay.
Nếu anh còn chưa vừa ý, còn muốn làm eo làm nũng, bằng cách vặn
cổ, uốn lưng than mỏi cổ, mỏi vai, ngay lập tức sẽ có hai tay đấm bóp "đẳng
cấp quốc tế" thay phiên nhau đấm lưng, xoa bóp cho anh với đủ bài đủ bản.
Những tay đạt được trình độ đại cao thủ trong nghề quay phim còn được thường
xuyên hưởng cái vinh dự là khách mời đặc biệt trong những cuộc liên hoan tiệc
tùng ngọt, mặn của các trung đội, thậm chí đại đội lân cận.
Tuy nhiên, "nghề chơi cũng lắm công phu"! Chẳng phải
dễ gì mà một bước lên ngay cái chức vua không ngai như vậy.
Trước hết, anh phải là một tay biết nhiều hiểu rộng, là bậc
làu thông các tác phẩm nghệ thuật lừng danh kim cổ. Thứ hai, anh phải có một
trí nhớ hoạt động một cách bền bỉ và liên tục trong một câu chuyện
"ma-ra-tông", có khi phải kể suốt mấy đêm liền mới hết. Thứ ba, anh
phải có một năng khiếu bẩm sinh về nghệ thuật kể chuyện, nghĩa là anh phải biết
cách làm cho câu chuyện trở nên ly kỳ, hấp dẫn lên gấp bội, phải thêm thắt, phịa
ra bằng một sự ngẫu hứng thiên tài những tình tiết nhỏ to, mà chẳng lần nào giống
lần nào một câu chuyện; biết ngưng lại đúng lúc một câu chuyện đang lên đến điểm
nút, cao trào, để người nghe phải nôn nóng, thòm thèm muốn nghe kể tiếp ngay,
dù tình thế khách quan bắt buộc câu chuyện phải tạm dừng ở đó.
Vì những yêu cầu khắt khe như vậy, số lượng những nhà kể chuyện
bậc thầy càng trở nên hạn chế, trong khi giá trị của họ càng được nâng cao.
Trung đội được cái diễm phúc vô cùng là có một người như vậy,
làm rạng rỡ cả tiếng tăm chung, làm thơm lây cho những anh em khác. Người đó
chính là Mợi lác.
Mợi là lính 83, dân Quận 1, khu chợ Cầu Ông Lãnh. Ðã là lính,
không anh nào tránh khỏi cái món lác. Bởi vậy, người ta mới có cơ sở để tạo ra
một danh từ kép đầy hình tượng: "lính lác". Lính phải có lác, cũng
như sông hồ phải có cá, rừng phải có muông chim, điều đó gần như trở thành qui
luật! Chính bản thân Huy, hồi còn ở Quang Trung cũng đã bị lác, dù rất vệ sinh,
kỷ lưỡng, có ngày tắm tới ba lần! Không riêng gì anh, cả đại đội lúc bấy giờ đều
như vậy. Có lẽ, một tay nào đó có mầm mống vi nấm lác trên người đã ẩu tả nhảy
vào hồ chứa nước, làm lây nhiễm cả tập thể anh em. Báo hại cứ chiều chiều, sau
giờ cơm, toàn đại đội đều tiến hành cuộc "tổng tấn công tiêu diệt
lác"! Mà thuốc thì chả có gì ngoài nước Iode, hoặc cồn 90o. Chứng lác có một
đặc điểm là thường tập trung ngay tại "cơ quan đầu não", "bộ tổng
hành dinh" của quí vị mày râu. Vậy nên cái quang cảnh lúc ấy thật là náo
nhiệt. Mọi người đồng loạt lúi húi thoa thoa, xức xức, đồng loạt rú lên những
tiếng thét xung phong, và đồng loạt nhảy disco, hay giật soul cho nguôi cơn
nóng rát.
Dù sao, lác không phải là một chứng nan y hay khó trị, nên sớm
muộn gì nó cũng bị tiêu diệt, trừ những ngoại lệ vô cùng cá biệt, hiếm hoi, ví
dụ như trường hợp của Mợi lác. Lác ở anh lan tràn, bành trướng trên toàn bộ mọi
bề mặt có lỗ chân lông! Và, hình như nó rất quyến luyến anh, nên nếu anh trị được
hết ở chỗ này, thì nó lại chuyển hộ khẩu sang một "địa phương" lân cận.
Cuối cùng, Mợi kiệt sức, đầu hàng trong cuộc chiến không cân sức này, anh bắt
tay với lác, "chung sống hòa bình" với nó. Anh chỉ còn khổ một cái là
phải cẩn thận, dè dặt để tránh cho lác khỏi buồn tình làm một chuyến ngao du
qua các cơ thể khác...
Ðêm. Cả trung đội ngồi thành một vòng tròn trên mấy chiếc chiếu.
Trăng đã lên cao gần giữa đỉnh đầu, tỏa xuống một ánh sáng vằng
vặc, dịu dàng. Giải cát dưới ánh trăng mịn màng một sắc trắng lạ lùng, huyền ảo.
Dường như nó không còn là một vật thể khô khan, thô thiển và làm mắt người ta
nhức nhối như dưới ánh mặt trời. Giải cát giờ đây mềm mại, mỏng manh như một
chiếc khăn lụa đang nhấp nhô phấp phới, uốn lượn qua những gò, những lũng, những
đồi. Những cây cổ thụ lẻ loi, những lùm bụi thấp rải rác, và những hàng cây ở
phía xa hiện lên dưới ánh trăng có vẻ hư ảo mơ hồ, như trong một bức tranh thủy
mặc. Trên những thân cây mọc gần lều, ở những chỗ có rêu hay địa y bám sáng lên
lấp lánh, những chiếc lá như được tráng một lớp bạc mỏng. Các chỗ khuất mà ánh
trăng không lọt tới tối và sậm màu hơn, nhưng cũng phát ra một làn phản quang yếu
ớt.
Bao giờ ngồi dưới bóng trăng, Huy cũng thấy bình an, thanh thản
dù là đang rất buồn lo một điều gì đó. Ánh trăng hình như có một nguồn sức mạnh
kỳ diệu lạ thường, nó vỗ về, xoa dịu, và nâng hồn người đến một cõi cao xa, hòa
vào hồn đất trời, cây cỏ.
Ánh trăng vằng vặc giúp cho người lính gác đêm có tầm quan
sát rộng, dễ dàng phát hiện mọi hiện tượng diễn ra trong tầm mắt, giúp cho những
đêm xa nhà ngắn lại, vui hơn, dễ chịu hơn. Anh em ngồi quây quần tán gẫu, nghe
kể chuyện, hoặc cùng nhau nhảy lăm thôn, khiêu vũ đôi những điệu slow, tango,
bebop dìu dặt, hay điệu cha cha cha, valse náo nức rộn ràng...Có lẽ vì vậy, những
đêm có trăng với lính là những đêm tuyệt diệu.
Mợi đang kể đến một đoạn hấp dẫn ở phần đầu truyện Ðồi gió
hú. Mọi người ngồi im lắng nghe. Thỉnh thoảng, chỉ có tiếng một cơn gió cuốn
qua lay động lá cành. Giọng kể của Mợi sôi nổi, lôi cuốn làm ai cũng quên đi cả
giờ giấc. Bỗng từ xa, cách khoảng ba trăm mét về hướng Nam, có ánh đèn pin
loang loáng tiến dần về lều trung đội. Trọng đang ngồi gác bên ụ súng quát lên:
- Ai?
- Tâm cối đây mà! - Bóng người đang đi tới hét lên đáp, và tắt
đèn pin.
Tâm đã tới gần hơn, đủ để có thể nhận diện được dưới ánh
trăng. Anh nói một cách ồn ào:
- Chà, 12 ly cũng đang thưởng trăng phải không. Bên Cối cũng
ngồi chơi nãy giờ. Ông Ðạt nhớ anh Mợi, bảo tôi qua đây mời anh qua bển chơi,
quay vài khúc. Tôi đã biết thế nào anh cũng có sô ở đây rồi, mà nói ổng không
nghe, cứ một hai bảo tôi cứ đi bằng được. Thôi, giờ cho ngồi đây tham dự với mấy
anh luôn nghe.
Phái điển và Trung gấu ngồi nhích qua chừa chỗ cho Tâm. Cả ba
là đồng hương Quận Tân Bình với nhau, cùng sang đây một lượt. Tâm rất nghiền
nghe kể chuyện. Anh là một trong những người hâm mộ Mợi còn hơn cả nhỏ bồ ruột
của mình. Có lần, Mợi sang B Cối kể chuyện, trung đội chả ai còn giấy, Tâm lấy
cả lá thư nhận được lúc chiều của nhỏ bồ, mà anh cũng chỉ mới đọc lướt qua, xé
ra vấn thuốc cho Mợi.
Một lúc sau, Trung gấu đột nhiên đứng dậy. Nét mặt Trung có vẻ
kỳ lạ, bồn chồn. Anh im lặng bước khỏi vòng tròn. Mợi ngưng kể, nhìn chằm chặp
Trung. Thường ngày, Trung rất thích nghe chuyện, không bao giờ anh bỏ qua một
chuyện ngắn chuyện dài nào. Trung đi chầm chậm về phía ụ gác, nhưng còn cách chỗ
Trọng khoảng vài chục mét thì dừng lại, ngồi bệt xuống đất. Dáng ngồi của Trung
dưới ánh trăng trông thật buồn bã, cô đơn.
Phái điển làu bàu:
- Chắc là nó lại nhớ anh Trung liều, lại nghĩ ngợi vẩn vơ!
Mọi người im lặng trong giây lát.
Phát điển nhóng người về phía Quân, nói tiếp:
- Mấy hôm nay nó có vẻ bất thường lắm anh Quân! Giống như
khùng khùng vậy.
Quân nhíu mày. Anh trầm ngâm một lúc, rồi nói:
- Anh em nên chú ý quan sát Trung, gần gũi động viên nó. Nhất
là Phái đó, nghe không.
Mọi người lại im lặng. Rồi Mợi cất tiếng:
- Thôi, ta tiếp tục câu chuyện...
Ðêm trôi nhanh. Vầng trăng đã hơi chếch trên cao về hướng
Tây. Những vì sao khuất dần, chỉ còn lại những ngôi sáng nhất. Tiếng gà rừng eo
óc gáy ở đâu đó rất xa vọng đến mơ hồ.
Câu chuyện ngày càng thu hút hơn qua giọng kể lúc bổng lúc trầm
của Mợi. Ðến một lúc, khi Mợi cầm chén trà nhấp một ngụm lấy giọng, Quân nói:
- Thôi, Mợi kể hết đoạn này nữa là giải tán. Chúng ta còn phải
nghỉ ngơi để mai bắt đầu tập với các đại đội chiến thuật đánh phối hợp với
tăng.
Chú thích:
1. Bà góa hàng trăm! Bà góa hàng trăm!.
Viết xong đêm giao thừa Xuân Kỷ Mão 1999
Nguyễn Thành Nhân
Theo http://dev.kilopad.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét