Thứ Hai, 7 tháng 12, 2020

Mùa xa nhà 1

Mùa xa nhà 1

Chương 1: Mở Đầu
Tân,
Tôi nhớ những ngày mùa đông năm 1985, tụi mình cùng nhau lặn lội bắt cá suốt ngày ở suối Phum Pô. Tôi đeo cái rộng cá lội bì bõm trong dòng nước mấp mé vai, nhũng nhẵng bám sau lưng Tân, chỉ để Tân bỏ vào đó những con cá lóc, cá lăng vừa mò được. Tôi nhớ những đêm cuối năm trời lạnh căm căm, tôi trùm thêm một chiếc áo lên vai, ngồi co gối bên ánh đèn đốt từ mỡ lon thịt hộp, trên đầu gối là một miếng gỗ ván dùng để lót trong thùng đạn, trong tay là một cây bút chì ngắn củn. Tôi vẽ Tchiete. Không biết tôi đã vẽ nàng lên bao nhiêu mảnh ván. Nhưng chỉ nhớ là cùng với những nét vẽ vụng dại, đơn sơ đó, tim tôi đã ấm áp lạ thường, máu tôi đã chảy rộn ràng, nóng bỏng trong từng huyết mạch. Tôi đã quên đi cái lạnh của khí trời và cái lạnh của sự cô đơn trong những đêm đông ấy. Tôi không ngủ vì đang yêu. Ðó là điều dễ hiểu, và là chuyện thường tình. Nhưng cả Tân cũng không ngủ được. Tân nằm trăn trở trên chiếc võng, im lặng nhìn tôi, nhìn ngọn lửa nhỏ xíu, lù mù của chiếc đèn dã chiến, thao thức cùng tôi. Thương tôi, hiểu tôi trong những ngày tháng đó, còn ai hơn Tân nữa.
Tôi nhớ sau khi chuyển xuống đại đội, có một lần Tân ghé tôi chơi. Tân có vẻ buồn khi trông thấy tôi mặc một chiếc áo cũ. Vai áo sờn rách, chằng chịt những đường chỉ vụng về. Thật ra lúc ấy chúng ta đâu còn đến nỗi phải mặc rách, phải không Tân? Nhưng áo mới của tôi, tôi cũng đã cho người khác, một người anh kết nghĩa Khmer. Sau đó vài ngày, Tân đã gửi lên cho tôi chiếc áo mới của mình.
Rồi không bao lâu sau lần gặp cuối cùng đó, Tân đã rời xa vĩnh viễn. Không chỉ một mình Tân, tôi đã mất biết bao nhiêu đồng đội, người rất là thân thiết, người vừa quen mặt mà chưa kịp biết tên, trong những tháng ngày xa quê đó.
Tân ơi! Những đồng đội của tôi ơi! Mồ của các bạn đã được phủ lên bao nhiêu lớp cỏ úa mùa thu. Tên tuổi, hình ảnh của các bạn chỉ còn trong nỗi nhớ - những nỗi nhớ ngắn ngủi, bất chợt hiện ra trong giây lát, rồi lại chìm khuất dưới bao âu lo, suy tư của thực tế mỗi ngày. Ðiều quan trọng là tôi không được quyền quên! Trái tim con người còn đập trong lồng ngực chúng ta không được quyền quên !
Tân! Ðã sắp đến ngày giỗ lần thứ mười một của Tân rồi đó. Tôi viết những dòng này, thắp một nén hương trong tâm tưởng, hoài niệm hương hồn Tân và tất cả những anh em khác. Cầu mong hương hồn các bạn sẽ tìm được an bình.
TP.HCM, 11-1997
Sanly thân mến,
Khi đặt bút viết những dòng đầu tiên cho quyển truyện này, tôi đã nhớ tới cô. Tôi nhớ lại ngày chúng ta tình cờ gặp gỡ nhau ở một phòng triển lãm tranh tại Sài Gòn; và những gì chúng ta đã trao đổi với nhau. Truyện được viết nên, phần nào đó cũng bắt nguồn từ cuộc chuyện trò giữa chúng ta hôm ấy. Tôi hy vọng là sau khi đã đọc qua, cô sẽ tìm thấy những gì mà trong lần trao đổi đó tôi chưa thể nói hết được với cô. Tôi cũng hy vọng rằng cô, và cả những bạn bè của cô - những người trí thức trẻ, những người sau này sẽ đứng mũi chịu sào lèo lái con thuyền đất nước Campuchia - sẽ có một cái nhìn mới, hiểu biết và đồng cảm hơn với chúng tôi, những người lính tình nguyện Việt Nam.
Tôi muốn nhắc lại với cô ngày hôm ấy. Chắc hẳn cô vẫn còn nhớ, một buổi chiều cuối năm 1995, tại phòng triển lãm, trước một bức tranh dầu, cô đã đứng yên lặng giờ lâu?
Bức tranh vẽ một người lính Việt Nam đang một tay bưng bát sữa, tay kia cầm chiếc muỗng nhỏ bón sữa cho một bé gái Khmer, vây quanh hai nhân vật đó là vài người lính khác. Hậu cảnh bức tranh là một phum làng đổ nát, tan hoang, một vài túp nhà sàn cháy dở dang còn nghi ngút khói, và đó đây trên mặt đất rải rác một vài xác chết. Tác giả bức tranh này, và một số tranh khác trong cuộc triển lãm, là một người bạn của tôi. Ðó là lý do giải thích sự có mặt của tôi hôm ấy. Dạo đó, tôi chưa hiểu biết gì nhiều, nhưng đã rất yêu thích hội họa. Và tôi, khi ấy, đã dừng lại khá lâu, sau lưng cô để ngắm nhìn bức tranh.
Bức tranh gợi cho tôi một nỗi niềm, mà có lẽ giờ đây tôi sẽ không thể nhớ lại, và diễn đạt được chính xác, nếu không có cuộc trò chuyện với cô. Ðó là một nỗi buồn sâu thẳm. Nó không quá mãnh liệt đến làm cho ta đau đớn, nhưng cũng không hời hợt thoáng qua. Một nỗi buồn đã kinh qua nhiều năm tháng, đã gắn chặt, chìm lặng xuống đáy tim, đã trở thành ký ức không thể phai nhòa. Ðó là nỗi buồn trước một điều bi thảm nhất, một điều xấu xa, gây nhức nhối nhất cho con người. Ðó là nỗi buồn và cảm giác bất lực trước hậu quả của chiến tranh. Tôi đã cảm nhận bức tranh như vậy. Nhưng cô, Sanly thân mến, cô chỉ thấy ở đó một sự ca ngợi tầm thường và hơi có phần cường điệu cái gọi là tình cảm quân dân, tình đoàn kết Campuchia - Việt Nam, và lòng nhân đạo chung chung.
Lúc đó, cô đã lẩm bẩm, bằng tiếng Khmer: "Giả tạo, dối trá...!" Tôi thoáng nghe những lời ấy. Tôi biết lõm bõm tiếng Khmer, nhưng cũng đã quên đi khá nhiều, nên không hiểu hết những lời cô nói. Tôi chỉ có cảm giác cô đang bực dọc, bất bình. Tôi đã bước lên, đứng đối diện với cô, mỉm cười chào và hỏi: "Cô có biết tiếng Việt không?"
Cô lắc đầu, rồi lại gật đầu, "Chỉ chút chút thôi!"
"Cô có thể ra bên ngoài uống một ly cà phê với tôi không? Tôi có chuyện muốn nói với cô."
"Dạ được", cô đáp thật ngọt ngào, và mỉm cười, nói tiếp bằng tiếng Khmer, "Tôi không nói được nhiều tiếng Việt đâu. Anh có thể nói chuyện với tôi bằng tiếng Khmer không?"
"Tiếng Khmer của tôi cũng như tiếng Việt của cô vậy!", tôi cười, "Tôi đã quên nhiều. Chắc cô nói được tiếng Anh?"
"Vâng, khá hơn tiếng Việt, tôi mới sang Việt Nam hai tháng.", cô đáp.
Rồi chúng ta đã ngồi nói chuyện với nhau khá lâu, lúc thì nói tiếng Việt pha lẫn tiếng Khmer, lúc nói tiếng Anh, rồi có lúc dùng cả điệu bộ, nét mặt kết hợp với ba thứ ngôn ngữ đó để cố làm cho nhau hiểu. Dù sao, hôm đó chúng ta đã hiểu người kia muốn nói gì, và cũng đã diễn tả ý nghĩ của mình tương đối tốt, phải không, Sanly?
Cô cho biết tên cô là Sanly, hiện là du học sinh ở Hà Nội, nhân nghỉ Tết, cô ghé vào Sài Gòn thăm vài người đồng hương học ở đây trước khi về Campuchia. Cô chỉ mới mười chín tuổi, rất yêu thích các bộ môn nghệ thuật. Tôi cũng nói sơ cho cô biết về tôi, một người lính xuất ngũ, đã có mấy năm ở Campuchia. Sau đó, tôi hỏi cô về những lời nhận xét cô bất giác thốt ra lúc nãy khi xem tranh.
(Cuộc trò chuyện, như tôi nói trên, khá là phức tạp. Ðể bạn đọc dễ dàng theo dõi, tôi xin kể lại theo diễn biến nội dung câu chuyện, bỏ qua những chỗ khó khăn, ngắc ngứ vì lớp rào ngôn ngữ).
Cô đã nói ngay, dường như đã ấp ủ sẵn những ý nghĩ đó trong đầu từ lâu:
"Tôi nói là giả dối, là vì người lính Việt Nam trong bức tranh tượng trưng cho một sự cứu vớt, tượng trưng cho một vị anh hùng cứu khổn phò nguy cho dân tộc Campuchia. Ðó là một sự tự đề cao quá đáng, lố bịch, xúc phạm tới lòng tự hào dân tộc của chúng tôi. Tôi sẽ nói cho anh biết vì sao như vậy. Quân đội Việt Nam đã chen quá sâu vào cuộc đấu tranh nội bộ của đất nước tôi, làm cho những mâu thuẫn đó thêm trầm trọng, khó hàn gắn lại. Nếu như Việt Nam thật sự vì tình đoàn kết, vì sự giúp đỡ vô tư, họ đã rút về nước sau khi Campuchia có một quân đội riêng hùng mạnh. Thế nhưng, mãi cho đến những năm đầu thập kỷ 90, Campuchia mới thật sự vắng bóng những bộ quân phục Việt Nam. Và theo như tôi biết, qua lời kể của họ hàng, bè bạn, cũng như qua những gì chính tôi mục kích, người lính Việt Nam có nhiều hành vi trái hẳn với sự tuyên truyền đầy chính nghĩa. Vậy thì anh giải thích động cơ, ý nghĩa của những hành vi đó ra sao?"
Tôi cố sắp xếp những ý tưởng để có thể diễn đạt sao cho cô dễ hiểu. Rồi tôi đáp:
"Ðiều cô nói, cũng chính là điều đã làm ray rứt đa số những người lính chúng tôi. Nhưng trước hết, tôi tạm gác lại những chuyện đó, để nói với cô ý nghĩa thật sự của bức tranh. Cô đã hiểu sai, cảm nhận sai về nó. Tôi biết đích xác là cô đã cảm nhận sai, vì tôi là bạn thân của tác giả bức tranh. Tôi đã nhiều lần trò chuyện với anh ấy trong khi anh đang vẽ nó, mặt khác, vì tôi cũng là một người lính. Nó không đề cao người lính Việt Nam như cô nói đâu. Lúc nãy, cô có chú ý đến ánh mắt của các nhân vật trong tranh không? Ánh mắt của đứa bé Campuchia có vẻ sợ hãi, kinh hoàng, dù đôi môi nó đang hé mở một cách hồn nhiên để đón nhận muỗng sữa. Rồi ánh mắt của người lính đang đút cho đứa bé. Anh ta không nhìn vào nó, anh ta đang nhìn mông lung vào một điểm nào đó ở phía trước một cách lo âu. Ðứa bé mồ côi rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc nó, nuôi nấng nó trong những tháng ngày sau? Liệu nó có còn sống đến lúc trưởng thành không? - Không ai biết!...Ánh mắt của người lính mang những nỗi niềm như vậy... Và ánh mắt, vẻ mặt của những người lính còn lại. Họ đang nhìn quanh, người thì về phía hai nhân vật chính, người thì về phía những túp nhà ngún cháy. Họ như bàng hoàng, ngơ ngác vì những tác hại của súng đạn, của chiến tranh. Họ như không biết vì sao lại đến nông nỗi thế này. Họ còn có vẻ đau đớn và bất lực, với những bàn tay buông thỏng, xòe ra bỡ ngỡ. Họ vẫn không quen được với những đau thương, mất mát, và có lẽ không bao giờ quen được với chúng, dù chiếc áo của họ đã bạc phếch sau nhiều tháng năm cầm súng. Không, bức tranh không đề cao một cá nhân hay một dân tộc nào riêng biệt. Nó chỉ đề cao tình người nói chung, và chủ yếu là nó cố làm người xem nhận ra sự đau thương, khủng khiếp của chiến tranh thôi, Sanly ạ!..."
Tôi dừng lại, dõi nhìn phản ứng trên nét mặt của cô.
Gương mặt cô vẫn còn những nét hồn nhiên của tuổi thơ, đôi mắt đen to có vẻ rất thông minh, nhạy bén. Mái tóc cô không quăn như đa số phụ nữ Khmer. Nó đen, dày, mềm mại trùm xuống vai cô.
Ðôi mắt và mái tóc cô gợi cho tôi nhớ tới một người con gái khác... Tôi cố nén một hơi thở dài, buộc ý nghĩ của mình quay về hiện tại.
Cô gật gật đầu, có vẻ hơi đồng ý, nhưng rồi đôi mày lại nhướng lên như muốn nói điều gì. Tôi giơ tay ngăn cô, nói tiếp:
"Xin để cho tôi nói hết, Sanly. Bây giờ, tôi nói về cách nhìn của cô đối với người lính Việt Nam chúng tôi đây... Tôi không biết có nhiều thanh niên nam nữ Campuchia cùng chia sẻ quan điểm đó của cô hay không, nhưng nếu có nhiều người cũng nghĩ như cô, thì thật là đáng buồn, và thật là nguy hiểm. Có lẽ tôi sẽ cố gắng để nói với cô, nhưng tôi e rằng chỉ trong một vài câu nói, hay thậm chí trọn cả một buổi trò chuyện chiều nay, tôi cũng không sao nói hết được, diễn tả đầy đủ được những gì tôi đã băn khoăn, một số bạn bè tôi đã băn khoăn trong suốt những năm sống xa quê, những năm cầm súng trên đất người... Chúng tôi từng tự hỏi: chúng tôi đang bắn giết, đánh nhau, và có thể sẽ chết vì ai, vì cái gì. Và không phải lúc nào chúng tôi cũng tự trả lời được những câu hỏi đó. Có đôi lúc, chúng tôi cảm thấy sự lý giải của mình là có lý, rồi đôi lúc, lại cảm thấy nó vô cùng phi lý. Như cô nói lúc nãy, nếu chúng tôi hoàn toàn bất vụ lợi, lẽ ra chúng tôi đã rút quân về từ lâu trước đó. Nhưng cô đâu hiểu rằng cuộc chiến trên đất nước cô vào thời điểm ấy không còn đơn thuần là một cuộc nội chiến giữa các phe phái Campuchia có chính kiến khác nhau. Campuchia lúc ấy là một con cờ trên bàn cờ chiến lược giữa hai thế lực, hai chủ nghĩa đang giành quyền thống soái vũ đài thế giới. Thật ra, điều tôi vừa nói với cô, tôi cũng mới hiểu được về sau này. Còn lúc đó, chúng tôi chỉ rất mơ hồ. Chúng tôi không như những người lính Việt Nam thời chống Mỹ, họ cầm súng để giải phóng quê hương, thống nhất đất nước. Chúng tôi thậm chí cũng không như những người lính Việt Nam giai đoạn 1978-1980. Lúc đó, họ chiến đấu đánh đuổi quân đội Polpot tàn ác đang đốt phá, tàn sát những người dân vô tội ở vùng biên giới Việt Nam, và kế tiếp sau đó, họ giúp quân đội cách mạng Campuchia giải phóng đất nước. Họ biết rõ ý nghĩa, mục đích và có một niềm tin trọn vẹn vào công việc họ làm. Họ xứng đáng với cái tên quân tình nguyện. Ðối với chúng tôi, những người lính từ sau 1980, mọi sự không đơn giản và rõ ràng như vậy. Nói cho cùng thì chúng tôi phải chấp nhận tham dự vào cuộc chiến ở Campuchia như là một điều không thể nào tránh khỏi. Chúng tôi lớn lên, đủ mười tám tuổi, thực hiện nghĩa vụ quân sự. Rồi được đưa sang Campuchia, dù muốn dù không. Chúng tôi đâu phải là những người chọn việc binh đao như một cái nghề sinh sống. Chúng tôi chỉ thực hiện nghĩa vụ của một công dân đối với Tổ quốc của mình. Và chúng tôi, khi đã biết thế nào là chiến tranh, chết chóc, đều mong cho nó mau kết thúc, đều mong cho sớm tới ngày yên lành trở lại quê nhà..."
"... Tôi quay trở lại điểm xuất phát, tại sao tôi lại nói thật là điều đáng buồn và nguy hiểm nếu cô và nhiều người trẻ tuổi như cô đánh giá về chúng tôi một cách phiến diện, chủ quan như vậy. Thanh niên trí thức các cô sẽ là những người đảm nhiệm gánh nặng đất nước Campuchia trong một tương lai không xa. Trong đó rồi sẽ có những người nắm giữ những chức vụ, cương vị lớn lao quan trọng. Nếu đa số những người này lại có một cách nhìn đầy định kiến, thiếu cảm thông, thì cái họa chiến tranh chẳng khác nào một hòn than cháy cứ âm ỉ mãi. Nhưng tôi mong là không có nhiều người như vậy. Tôi biết có nhiều người khác - những bà mẹ già, những người con trai con gái, những đứa trẻ con ở những phum làng hẻo lánh miền tây bắc Batđomboong không nghĩ như cô. Họ thương yêu chúng tôi. Họ cảm thông với những chàng trai trẻ mới lớn đã phải sống xa nhà, xa quê, chịu nhiều hy sinh, mất mát. Họ thật sự xem chúng tôi là con cháu, anh em của họ..."
Tôi ngưng lời, cảm thấy càng nói càng bất lực, không tài nào diễn đạt hết được những ý nghĩ đang dồn dập xô về. Cô đăm đăm nhìn tôi, trầm ngâm rất lâu mới cất tiếng:
"Anh nói nghe rất hay, và có vẻ hợp lý nữa, nhưng tôi vẫn thấy có điều không ổn. Tôi có cảm giác như anh đã đánh tráo khái niệm ở đây. Như tôi đã nói, quân tình nguyện Việt Nam các anh khoác lên mình cái vòng hoa vẻ vang của người hiệp sĩ, nhưng các anh đã làm nhiều chuyện tồi tệ. Nếu như mọi người lính Việt Nam đều có những ý thức, những trăn trở như anh nói, tại sao họ lại có thể có những hành động đó. Có những vụ cưỡng dâm, cướp bóc, hà hiếp dân, hà hiếp bộ đội Campuchia, anh không thể phủ nhận những sự kiện đó. Ðiều buồn cười nhất là những hành vi đó lại nằm dưới một lớp áo choàng đầy cao cả."
"Sanly ơi! Cô còn trẻ quá, cô chưa hiểu con người phức tạp, tự mâu thuẫn đến độ nào đâu. Và chiến tranh, với biết bao tình cảm trái ngược nhau : yêu thương, hờn oán, căm thù, điên cuồng, phẫn nộ... có thể gây nên mọi chuyện, có thể trong một lúc nhất thời biến đổi hoàn toàn một cá nhân bé nhỏ bất kỳ nào đó. Mặt khác, những chuyện cô nói đúng là có thật, nhưng nó chỉ là những sự kiện hiếm hoi, cá biệt. Những chuyện như vậy không thể coi là cơ sở để đánh giá bản chất của những người lính chúng tôi. Tôi sẽ kể cho cô nghe một câu chuyện, hoàn toàn có thật..."
Tôi ngừng lời, hồi nhớ lại những sự kiện dường như đã quá xa xăm. Cô vẫn ngồi lặng lẽ, chăm chú nhìn tôi một cách nhẫn nại, cô hiểu tâm trạng của tôi. Rồi tôi kể.
"Ðầu mùa đông năm ấy, một tiểu đoàn quân tình nguyện Việt Nam về tạm đóng ở phum X, một phum nhỏ nghèo nàn nằm ở phía đông bắc huyện Th'mo Puoc, tỉnh Batđomboong. Ðơn vị ở đó để tiến hành kế hoạch truy quét mùa khô các vùng lân cận. Tiểu đoàn trưởng vào ở tạm trong một căn nhà đầu phum, các trung đội trực thuộc nằm bao quanh ở vòng ngoài. Trung đội súng máy 12mm 7 nằm ở hướng bắc phum, nơi có một con suối nhỏ chảy qua. Trung đội phó trung đội này là một anh chàng trẻ tuổi, có hơi lãng mạn. Anh ta rất yêu mến những người dân Khmer hiền lành chất phác, và đang cố học thêm tiếng Khmer để nói chuyện nhiều với họ. Buổi sáng hôm ấy, trời còn mù sương, anh tới chỗ ở của tiểu đoàn trưởng để xin ý kiến ông về một công vụ. Cô biết không, năm ấy trời rất lạnh, lạnh nhất trong những mùa đông tôi đã trải qua ở Campuchia. Vì vậy, chàng trung đội phó vừa đi thật nhanh vừa xoa hai tay lên má cho đỡ rét. Anh còn cách căn nhà vài mươi mét thì bắt gặp một cô gái nhỏ, khoảng mười sáu, mười bảy tuổi đang đứng giã gạo trước sân, dưới gốc một cây vông cổ thụ với những chùm hoa muộn cuối mùa đỏ rực. Cô bé mặc một chiếc áo vải trắng thô dày, quanh cổ quàng một chiếc khăn croma tím thẫm. Mái tóc đen nhánh mềm mại trùm xuống bờ vai, đôi má ửng hồng vì trời rét và vì làm việc nặng. Trông cô thật là dễ thương, xinh xắn. Anh bước tới gần hơn, rồi cứ đứng im nhìn cô mãi. Chợt cô bé ngưng giã gạo, ngẩng lên, bắt gặp một đôi mắt đang nhìn mình chăm chú. Cô cũng đứng im, nhìn thẳng vào đôi mắt đó. Hai bên nhìn nhau như vậy không biết đến bao lâu, rồi cô bé như sực tỉnh, luống cuống quay mặt đi, e thẹn. Chàng trai cất lời hỏi cô bé về người chỉ huy tiểu đoàn. Cô không đáp mà chỉ đưa tay chỉ lên nhà, rồi quay lưng đi ra phía vườn sau. Chàng trai vừa kịp thoáng thấy hình như trên khuôn mặt đỏ bừng xinh xắn xuất hiện một nụ cười..."
Cô mỉm cười, nhận xét:
"Câu chuyện có vẻ lãng mạn quá, hệt như trong tiểu thuyết!"
"Vâng", tôi đáp, "nhưng là một cuốn tiểu thuyết có kết thúc buồn... Tôi xin kể tiếp... Ðơn vị đóng ở phum ba tháng. Những ngày không hành quân tác chiến, chàng trai vẫn thường hay ngồi bên bờ suối mỗi chiều chờ gặp cô gái nhỏ ra gánh nước. Và đôi ba ngày, lại vào phum, đến nhà cô chơi, trò chuyện với bà và mẹ của cô. Ba tháng trôi qua thật nhanh, họ vừa kịp quen nhau, cảm thấy mến thương nhau thì đơn vị rút đi...Khoảng nửa năm sau, đơn vị lại quay về vùng đó, nhưng lần này thì dựng cứ dưới chân núi S'vai So, cách Phum X khoảng bốn cây số. Chàng trẻ tuổi vẫn thường qua Phum X tìm cô bạn. Tình cảm hai bên đã rất đậm đà, nhưng vẫn còn sự ngượng ngùng e ấp về phía cô gái nhỏ. Gặp nhau, cô chỉ mỉm cười, ngồi nghe chàng trai bập bẹ nói những lời thương nhớ bằng tiếng Khmer. Thấm thoắt lại sắp đến mùa đông. Nhưng không khí năm ấy thật khác thường. Từ anh em lính trong đơn vị đến những người dân ở các phum lân cận đều căng thẳng, bất an. Quân đội của ba phái Khmer phản động đã sống dậy sau một năm im hơi lặng tiếng. Từ những căn cứ huấn luyện quân sự trên đất Thái, hàng chục trung đoàn, tiểu đoàn địch bắt đầu tung ra hoạt động dọc theo tuyến hành lang biên giới. Các đại đội quân tình nguyện Việt Nam đóng chốt riêng lẻ lần lượt bị bao vây, tấn công dữ dội. Cả những người dân hiền lành cũng chịu vạ lây. Ðã có một số dân khi vào rừng, ra suối đã bị thương, bị chết vì mìn. Một hôm, cô gái nhỏ đi vào rừng hái nấm một mình. Cô bị vướng mìn, và đã chết ở ven bờ một con suối cạn cách phum khoảng ba cây số. Dân làng bắt gặp xác cô chiều hôm đó, thân hình đẫm máu nằm bên chiếc giỏ tung tóe những chiếc nấm rừng..."
Tôi phải tạm dừng vì chợt thấy cổ họng nghẹn ngào, đắng ngắt. Giọng nói tôi đã trở nên run rẩy đến mức cô nhận ra một cách dễ dàng. Cô nhìn tôi kinh ngạc. Tôi ngước đầu lên, hít thật sâu mấy hơi liền, cố lấy lại bình tĩnh, rồi kể tiếp.
"... Chàng trai đau đớn xé lòng khi biết được tin. Anh như người mất hồn, thẫn thờ suốt cả tháng trời. Ðến một hôm, đơn vị vừa có phụ cấp nên mua rượu thịt về tổ chức liên hoan. Ðang giữa cuộc vui, anh bỏ ra ngoài. Anh nhớ người yêu, và đau đớn quá, anh bỗng muốn tự sát theo cô. Anh mang theo một quả lựu đạn, lần về Phum X, dự tính sẽ tìm đến nhà cô, nhìn lại lần cuối nơi đã tình cờ gặp gỡ. Về tới căn nhà xưa nơi từng đã có nàng, anh ngồi dưới gốc cây vông già khóc nức nở, dưới ánh mắt thương cảm của bà và mẹ của cô gái. Rồi anh bước lên nhà, nhìn lại cây đèn dầu làm bằng chiếc lọ thủy tinh đựng thuốc cảm mà một năm trước anh đã làm tặng cho cô. Anh ngồi dựa vào vách, cầm chiếc đèn trong tay, ve vuốt nó, mơ lại những ngày dĩ vãng, rồi thiếp ngủ lúc nào không biết.
Anh giật mình thức giấc lúc trời đã ngả về chiều. Anh sờ tay lên hông, nơi dắt quả lựu đạn, nó đã biến mất. Anh bước ra ngoài, trông thấy X, một đồng đội, đang đứng trò chuyện với bà mẹ. Các đồng đội của anh thấy thái độ anh có vẻ khả nghi, đã cử X và Y theo dõi, ngăn cản, bảo vệ anh nếu cần. Lúc anh tỉnh dậy thì Y đã mang theo quả lựu đạn về trước. Anh bước tới gần X, hỏi mấy câu với vẻ thản nhiên, rồi chợt kẹp cổ X, cố giằng lấy khẩu AK. Hai bên đang giằng co quyết liệt thì vị trưởng phum chạy tới cầm lấy khẩu súng mang đi giấu, sợ anh sẽ làm liều. X vẫn cố chịu đau ôm ghì anh lại. Anh lúc này đã nổi điên, không còn biết gì là phải trái. Anh đấm đá X, vùng ra, chạy tới nhà vị phum trưởng, đòi khẩu súng. Vị phum trưởng ôm anh cố can ngăn, nhưng anh vẫn hung hăng đấm đá. Cuối cùng, một số thanh niên trong phum phải nhào tới, kẻ ôm tay, người ôm chân anh ghì xuống đất, lấy dây trói lại. Anh vùng vẫy điên cuồng cho đến lúc kiệt sức ngất đi. Khi tỉnh dậy, anh đã nằm trên chiếc chõng tre trong căn nhà của mình. Vị phum trưởng đã cho xe bò chở anh về doanh trại. Anh nằm yên trong bóng tối, nhớ lại những chuyện vừa mới xảy ra, tưởng như đã trải qua một giấc mơ khủng khiếp. Suýt nữa anh đã chết một cái chết vô nghĩa lý, làm buồn lòng những người thân, thương mến của mình...Anh không hiểu vì sao mình lại điên lên như vậy... Vì say rượu thì không, vì anh chỉ uống một ít, chưa đến mức bị say mèm... Nhưng tại sao, anh vẫn thầm tự hỏi suốt những ngày sau đó..."
"Chàng trai đó chính là anh, phải không?", cô buột miệng hỏi sau một lúc lặng im.
"Phải, chính là tôi" , tôi đáp, "Cho đến bây giờ, Sanly à, tôi cũng không biết mình đã thật sự hiểu được nguyên do của những hành động đó hay chăng. Cô thấy không, có những chuyện như vậy đã xảy ra. Thật khó tin nhưng đã xảy ra..."
Rồi sau đó, tôi im lặng. Cô cũng im lặng. Tôi nghĩ có lẽ cô đã phần nào đó cảm thông được với tôi. Nắng đã tắt từ lúc nào. Ðêm đã buông. Phòng triển lãm cũng đã đóng cửa từ lâu. Trong quán, những bóng đèn tròn xanh đỏ tí hon treo trên những chậu cây nhấp nháy. Ngồi thêm lúc nữa, chúng ta chia tay nhau. Cô chúc tôi mạnh khỏe. Và tôi chúc lại cô lời chúc tương tự.
Sanly thân mến!
Lá thư này, tôi gửi tới cô, và tới tất cả những bạn bè cô, với ý nghĩa là một phần không thể tách rời của quyển truyện này. Nói rõ hơn, nó như là một dạo khúc mở đầu cho câu chuyện về những ngày tôi đã sống. Tôi viết câu chuyện này là để trả phần nào món nợ tinh thần mà tôi đã tự nguyện gánh vác đối với bạn bè, đồng đội của tôi. Trong số đó có kẻ đang còn sống, đang tiếp tục không ngừng cuộc đấu tranh kiếm tìm hạnh phúc, cũng có kẻ đã ngủ yên trong lòng đất.
Mong cô đọc nó với lòng thông cảm. Vốn dĩ, tôi không phải là một nhà văn gì cả. Tôi chỉ là một người bình thường, bằng những lời đơn giản kể lại một câu chuyện mà nhiều người đã biết.
Chúc Sanly những ngày tuổi trẻ bình an, nhiều hạnh phúc.
Một người bạn của cô.
Chương 2
Những ngày cận Tết ở rừng trôi qua chậm chạp. Buổi sáng kéo dài. Buổi trưa lê thê. Buổi chiều đến uể oải, đi dùng dằng. Và đêm như không bao giờ hết.
Rừng thật vắng và yên tĩnh, ra khỏi khu vực đơn vị dừng chân tập kết vài trăm mét, chỉ còn tiếng gió âm u. Ngự trị toàn bộ không gian là lặng im tuyệt đối. Chỉ đôi khi, tiếng AK điểm xạ hai vọng về từ đâu đó rất xa. Mùa xuân, nhưng cánh rừng quá lặng lẽ buồn rầu. Dường như những chồi non vẫn còn thiếp ngủ đâu đó trong những nách lá già nua. Dường như chim chóc đã rủ nhau đi chơi xa đâu đó chưa về kịp. Những thân cổ thụ nâu sẫm, xanh mốc rêu, xam xám... kiên nhẫn khoác lớp áo lá úa vàng không sinh khí. Chúng đứng kề bên nhau trong lặng lẽ. Thỉnh thoảng, ở cây này, cây khác, một cành khô chết từ lâu chợt răng rắc vặn người, rồi tức tưởi lìa thân trong cơn gió xoáy. Những cành lá trên tầng cao của rừng chợt lao xao một lúc, như thể cất tiếng thở than tiễn biệt một người bạn mới qua đời.
Ðôi khi, trong đêm khuya, chợt một hồi sấm rền rền vọng lại, mưa đã rơi ở đâu đó xa xôi, một cơn mưa giông trái mùa thỉnh thoảng xuất hiện trong những khu rừng nhiệt đới. Ban ngày, không khí oi nồng và khô hạn, cả những cơn gió cũng nóng rãy như hơi nước tỏa ra từ một nồi nước sôi khổng lồ. Chập tối trở đi, nhiệt độ giảm dần. Rồi từ khoảng chín giờ đêm cho tới sáng, cái lạnh đột ngột ùa đến - một cái lạnh tê buốt đến xương. Thời tiết ở đây thay đổi bất thường, nghiệt ngã. Xuân ấm áp, khoan hòa và dịu dàng chưa đến. Nhưng dường như vẫn có một cái gì không rõ đang âm thầm cựa quậy, đang rạo rực chuyển mình trong từng tảng đá, thân cây, hay bên dưới lòng đất ấm. Dường như mọi sự vật đang chuẩn bị để chờ ngày ùa ra, nở rộ, khoe bày sức sống, cất lên tiếng hát không lời bất khuất, ngợi ca cuộc sống tươi đẹp vĩnh hằng.
Ðại đội dựng lều dã chiến rải rác ở một góc khu rừng. Những chiếc lều làm cho bức tranh phong cảnh buồn thiu tẻ nhạt nơi đây chợt có một chút gì ngộ nghĩnh, vui vui. Chúng như những nét cọ ngẫu hứng, phá tung bố cục đơn điệu của những cụm cây xanh lướt buồn rầu và bãi cỏ vàng khô cháy. Lều, hay nói đúng hơn, chỉ là những cái chòi nhỏ, được dựng rất giản dị xuề xòa. Cột lều là bốn thân cây rừng cỡ bắp tay, hai dài hai ngắn, tạo thành một mái xuôi. Bốn phía lều trống trơn. Mái lều là mấy tấm tăng ghép nối nằm bên dưới, bên trên phủ những cành lá, những túm cỏ tranh. Nhìn xa, trông chúng như những chiếc nhà chòi của trẻ con làng quê dựng lên để chơi trò bán mua, cưới hỏi... Ðôi khi, vài con sẻ rừng lông xám hiếm hoi rong ruổi lang thang qua góc rừng, chợt sững lại ngạc nhiên, tròn xoe đôi mắt. Chúng đậu trên một cành cây rậm rạp, nép thân người sau đám lá um tùm và kêu lên chí chóe. Như thể chúng hỏi han nhau: "Dưới kia, ở giữa đám cỏ tranh vừa xuất hiện cái gì lạ thế?" Chúng xôn xao bàn tán, âu lo không biết giống chim khổng lồ quái dị nào đã tới đây xây những cái tổ kỳ khôi và xấu xí thế kia. Rồi cuối cùng, sau một tràng tiếng kêu rít cao hốt hoảng, chúng bay vù mất, bỏ lại những chiếc lá đung đưa rất khẽ vì giận dỗi và luyến tiếc những người bạn sao quá đỗi vội vàng.
Những túp lều của Trung đội hai nằm dưới một khóm ba gốc dầu già cỗi mọc gần nhau. Khi gió nổi lên, hoa dầu lại từ trên cao xoay xoay bay xuống, rắc đầy trên lớp cỏ úa vàng những đôi cánh chuồn nâu. Huy ngồi phía ngoài lều, hí hoáy ghi ghi chép chép. Lâu lâu, một cánh hoa dầu lại tình cờ đáp xuống vai anh.
Chí phèo, trung đội phó, ngồi cách đấy không xa, anh đang mài dao trên một phiến đá hình bán nguyệt. Chí liếc nhát cuối cùng qua phiến đá, đưa ngón tay trỏ gãy khẽ lưỡi dao, gật đầu tỏ vẻ hài lòng. Anh cất tiếng bâng quơ:
- Vậy là sắp tới cái tết xa nhà lần thứ bốn... Mẹ kiếp! Tết với nhất gì ở cái rừng khô này!
Huy ngẩng đầu nhìn Chí phèo. Câu nói của Chí làm anh chợt nao nao. Ngày mai đã là Tết rồi. Huy đưa mắt lướt qua những khóm cây mọc lưa thưa, qua trảng cỏ trống, hướng tới cụm rừng dày âm u xanh thẫm phía xa. Chẳng có gì báo hiệu cho mùa xuân cả! Mùa xuân ắt là đã lạc đường không tới được nơi đây.
Dạo mới sang, Huy đã từ trạm chỉ huy tiền phương của mặt trận đi thẳng lên tuyến trước theo ngõ Sàm-rông, băng qua một cánh rừng nằm chếch hướng Tây, cách Sàm-rông chừng một buổi hành quân. Quanh bìa rừng mọc đầy những cội mai núi già cỗi, bấy giờ trời lại đang vào tiết lập xuân, hoa mai bừng nở chi chít trên cành, vàng rực lên trong nắng. Màu vàng hoa mai lúc nào cũng nhắc những người con đi xa nhớ những ngày cận tết ở quê hương.
Huy nhét cây viết vào túi áo, ngồi ngẩn người, trong đầu anh một chuỗi ý nghĩ, hình ảnh lướt nhanh qua.
Mùa này, trong những khu vườn ngoại ô, mai đã được bứng lên cho vào chậu, được tỉa tót, uốn sửa lại và chở vào bày bán trên những vỉa hè hay khu chợ trung tâm thành phố. Chợ tết chắc cũng đang vào lúc tưng bừng, nhộn nhịp, với đủ hoa trái, sắc màu.
Nào những bông cúc đại đóa trắng, vàng, tim tím, xanh lơ nằm chen vai bên thược dược đỏ, hồng. Nào những đóa hồng kiêu sa rung rinh trong nắng sớm kề bên những cụm vạn thọ bình dị, thân quen; và hoa đào đỏ thắm; và mẫu đơn, lay-ơn muôn sắc muôn màu; và huệ trắng, huệ lam...Có đến trăm loài hoa đua nhau khoe sắc khoe hương. Rồi còn bao nhiêu là bánh mứt, bao nhiêu là thứ trái cây đua nhau phô vẻ hấp dẫn, ngon lành...
Ôi, quê nhà! Nhớ làm sao những con đường, những khu chợ hoa chợ tết tràn ngập người qua kẻ lại, hội tụ biết bao nhiêu nàng thiếu nữ mắt sáng môi hồng, đẹp như tranh vẽ; những ngọn gió đầu xuân nhẹ vờn trên tà áo mỏng, trên những lá non, lộc biếc lao xao; hương thơm của muôn hoa, hương vị ngọt ngào của trái cây, bánh mứt, hương tóc của một ai đó vừa đi qua thoảng lại.
Nhớ làm sao Sài Gòn những ngày cuối năm náo nức rộn ràng; những con người quen lạ với mắt sáng môi cười ánh lên niềm vui, hy vọng vào một năm mới nhiều may mắn, phúc lành hơn...
Hôm qua, Huy đã đi ngược xuống hướng đông mấy cây số, mong tìm được một cành mai mang về mừng đón giao thừa. Anh đi mãi, lùng đỏ mắt, nhưng chỉ thấy có mỗi màu vàng héo úa của lá khô. Rừng phía trên này không có mai, thật lạ, rừng mai mà anh đã đi qua chỉ cách đây khoảng ba mươi cây số. Huy tự nhủ: Chả lẽ bây giờ cuốc bộ sáu mươi cây cả đi lẫn về chỉ để kiếm một cành hoa? Vả lại, đại đội trưởng Thái đã có lệnh không được đi xa nơi tập kết quá năm cây. Cuối cùng, Huy đành phải quay về, thất vọng. Anh nghĩ, không có hoa, không có làn khói mỏng manh, thoang thoảng mùi thơm của những nén nhang thắp lên, không khí của giây phút chuyển tiếp từ năm cũ sang năm mới sẽ kém phần ấm áp, thiêng liêng. Nhưng biết làm sao, lính mà, lại ở tận trong rừng, đang trong thời điểm chuẩn bị cho đợt hành quân cơ động mới, đành phải chấp nhận những cái đang có mà thôi.
Tuy nhiên, đêm giao thừa này, đêm giao thừa đầu tiên xa nhà của Huy, cũng hứa hẹn những điều cực kỳ hấp dẫn. Toàn trung đoàn đều có rượu, không biết mấy tay lính cũ đã xoay xở cách nào hay vậy! Tiểu đội nào cũng có ít nhất là một can vàng bốn lít. Ðêm nay, Huy sẽ được thưởng thức cái thú vui đầy nam tính, hào sảng như những vị anh hùng hảo hán trong truyện Tàu xưa, sẽ được hai tay bưng cái bát B52 1 đưa lên miệng, ngửa cổ uống một hơi dài, để rồi nghe người mình lâng lâng, ngây ngất.
Huy chưa từng uống rượu. Anh chỉ nghe nói về cái cảm giác kỳ lạ do nó gây ra, và thấy cũng hay hay. Ðêm nay, đêm nay mình sẽ như người xưa, vừa bưng bát rượu, vừa đọc bài thơ bi tráng, hào hùng của Vương Hàn:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
(Tạm dịch: Rượu đào chung ngọc dạ quang
Chưa vơi đã rộn tiếng đàn xuất quân
Say lăn lóc giữa sa trường
Bạn đừng cất tiếng cười khan lắc đầu
Xưa nay ra chốn binh đao
Mấy ai biết được ngày sau có về)
Lại còn có một cái khác, vô cùng thú vị, mà toàn bộ các tay súng của ba tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị trực thuộc trung đoàn đã bí mật giao kết với nhau: đốt pháo hoa đón giao thừa. Pháo hoa ở đây, nơi trận địa này, sẽ được tạo ra bởi các loại đạn lửa khác nhau. Ðạn lửa sẽ đan kết thành những bông hoa trên bầu trời chiến địa. Và những người lính sẽ không còn cảm giác xa cách quê hương. Ðạn tiểu liên, đạn đại liên K.57, 12,7 là những tràng pháo chuột, pháo trung, và đạn cối 60, cối 82...sẽ là những tiếng pháo đại điểm nhịp cực kỳ ấn tượng! Ðây là một sự vụ khá là nghiêm trọng, vì quân lệnh nghiêm cấm bắn súng bừa bãi. Nhưng vừa rồi đánh chiếm Ampil, quân ta thu được rất nhiều đạn dược các thứ. Lính chiến mà, đôi khi cũng phải chơi cho ra trò như vậy chứ.
Ðại đội tải của trung đoàn có quân số tổng cộng lên đến xấp xỉ sáu mươi người. Con số này lớn hơn nhiều so với thực lực của các đại đội chiến đấu, nhất là đang trong mùa chiến dịch. Một phần vì quân số của nó ít biến động. Thêm nữa, đại đội đã được bổ sung quân số hồi cuối năm để đảm bảo thực hiện thật tốt công tác tải đạn cáng thương phục vụ cho các đơn vị trực tiếp tác chiến.
Hôm mới về trung đoàn nhận nhiệm vụ, Huy đã được phân công về đại đội này. Ðại đội trưởng Thái vui vẻ tiếp nhận Huy. Anh tạm thời bổ nhiệm Huy làm tiểu đội phó tiểu đội ba, trung đội hai. Anh cũng nói sơ qua về nhiệm vụ vai trò của đại đội trước nét mặt ỉu xìu thất vọng của Huy. Huy chán nản khi biết mình không về một đơn vị trực tiếp chiến đấu, mà là đơn vị phục vụ, trong một trận đánh lớn lao như vậy. Trên đường sang đây, lúc nằm ở quân trạm thị xã Batđomboong, Huy gặp một sĩ quan người Thanh Hóa đi phép ngược về. Khi nghe Huy nói sẽ về Sư đoàn X, anh bảo đây là một sư đoàn đã hai lần được phong anh hùng, anh cũng nói thêm: "Về đó khá là vất đấy! Tôi từng ở dưới bộ binh tiểu đoàn của sư đó mấy năm..." Huy đã hình dung ra những trận đánh vô cùng kịch liệt hào hùng, tương tự như trong những bộ phim lịch sử nổi tiếng anh từng xem ngày trước. Những trận đánh kinh thiên động địa, đầy máu và hoa, đầy tính anh hùng ca lãng mạn. Huy tưởng tượng, gần như ao ước, mình sẽ lập được một chiến công gì đó, nho nhỏ thôi, và cũng sẽ bị thương qua quýt gì đó, bị thương nhưng vừa phải thôi, đừng mất đứt một chân hay một tay, một mắt... để sau này về còn có vài cái sẹo làm kỷ niệm! Vậy mà bây giờ... Thái đoán được ngay những ý nghĩ của Huy, anh động viên:
- Cậu đừng tưởng đây là công việc nhẹ nhàng đơn giản. Nó cũng khá căng, vất vả và nguy hiểm đấy, và cũng là một công tác vô cùng quan trọng cần thiết. Nếu không có chúng ta, các đơn vị lấy đâu ra đạn dược để chiến đấu, ai là người chuyển các thương binh, tử sĩ về tuyến sau? Thực tình thì nó cũng hơi buồn tẻ hơn là trực tiếp cầm súng, nhưng là lính, chúng ta phải hiểu dù ở bất cứ cương vị, chỗ đứng nào, thì cái đánh giá chúng ta là tinh thần công tác, chứ không phải là hình thức. Với lại, cậu vừa mới sang đây, chưa có kinh nghiệm gì, chưa quen với điều kiện chiến trường, nên trên mới đưa cậu về đây để thử thách, làm quen. Cậu cứ yên chí, sớm muộn gì, cậu cũng sẽ về đơn vị chiến đấu. Lúc đó chỉ sợ cậu lại không đủ can đảm, ý chí mà đứng vững thôi!
Thế là Huy vác ba lô về trung đội hai. Và đã nếm trải trận đánh đầu tiên của đời lính ở đại đội này.
Ở lều bên cạnh, Trường, trung đội trưởng, vừa lên xong kế hoạch cho ba ngày Tết. Anh đã sắp xếp, phân bố lại toàn bộ các thức ăn hiện có: vài chục lon cá hộp Thái trung đoàn cấp lại sau khi thu được ở Ampil, thịt heo đóng hộp của ta, khô cá lóc bông, ruốc cá, bánh kẹo, thuốc lá hậu phương gửi sang... để mỗi ngày Tết đều vừa đủ thức ăn thết đãi khách khứa, đồng hương, vừa dành lại một phần nhỏ cho những ngày sau đó. Anh bước ra khỏi lều, cất tiếng gọi Nhu, anh nuôi trung đội, đang ngồi nhặt thóc phía bên kia lại, giao cho Nhu tờ giấy anh đã liệt kê chi tiết. Chí phèo gọi giật Nhu tới, cầm lấy tờ giấy đọc qua, rồi nói như quát với Trường:
- Sao mày lo xa thế. Lính là phải chơi xả láng, hết mình, chơi cho đã rồi mai có chết cũng không còn phải tiếc gì! Thằng Nhu đừng có nghe nó, cứ việc đem ra nấu hết trong ba ngày Tết cho tao!
Nhu nhìn Trường, rồi lại nhìn Chí phèo, không biết phải nghe ai. Anh nghĩ bụng, có phần thiên về phía Chí phèo: "Ông nào cũng có lý. Thôi cứ tới ngày nào tính ngày đó, hơi đâu mà nghĩ ngợi cho lắm."
Chí phèo càu nhàu thêm vài câu, rồi gọi to:
- Mấy thằng được phân công lấy củi hôm qua đâu, theo tao!
Theo hội ý hôm qua, bữa nay tới phiên Hòa, Huy, Phước, Danh đi lấy củi để đốt lửa trại đón giao thừa. Mọi người lấy dao rựa rồi tập họp lại trước cửa lều. Chí phèo lại hét:
- Lên đường!
Trường nhìn theo cười khẽ, không có vẻ gì bực tức. Trường đã quá hiểu Chí phèo, ngay cái biệt danh cũng đã nói lên tính cách của anh. Chí phèo nói đó rồi quên đó, ruột để ngoài da, cứ hùng hổ làm như sắp nhảy xổ vào người khác vậy chứ thật ra lại rất đa sầu đa cảm và tốt bụng.
Dạo mới về Phnom S'rok, có một lần Trường và Chí phèo đi xắn măng rừng, chợt Trường bị một viên đạn mồ côi ở đâu rơi xuống xuyên qua bắp chân trái. Vết thương chỉ ở phần mềm, không nguy hiểm, nhưng máu ra khá nhiều. Chí cuống quýt bứt vội mấy cọng dây rừng quanh đó, rồi móc cái khăn tay của người yêu tặng ra, đè lên vết đạn băng bó lại cho anh. Cái khăn này Chí phèo rất quý, chỉ cất trong túi áo chứ không khi nào đem ra lau mặt. Nhưng cái khăn quá mỏng, máu vẫn ứa ra đẫm ướt ống quần. Lúc đó hai người cách trại khoảng ba cây số, Chí phèo dìu anh đi một đoạn khoảng hai trăm mét, rồi thấy máu cứ rỉ ra, Chí nói: "Thôi để tao cõng mày. Mày đi, động vết thương mất máu nhiều nguy lắm." Rồi Chí xốc anh lên vai, hì hụi cõng anh từ đó về đơn vị.
Một lần khác, Phước lên cơn sốt ác tính, người cứ co giật thấy thương quá chừng, Chí vừa nằm ôm lấy nó đè xuống, vừa nước mắt nước mũi chèm nhèm. Phải nói trong trung đội, Chí phèo thương nhất là Phước. Cả hai đều mồ côi cha mẹ từ nhỏ, đều chịu nhiều vất vả, nên dễ đồng cảm với nhau. Có những đêm, hai người nằm rì rầm nói chuyện suốt, làm Trường phát bực, phải quát lên: "Hai thằng mày còn sống với nhau dài dài, có phải là một ngày một bữa mà nói cho lắm thế! Ngủ đi, cho người khác ngủ!"
Trường nghĩ tới đó chợt thấy buồn buồn, nhớ những chuyện xa xôi. Ðã hai năm rồi anh không biết chút tin gì ở quê nhà. Bố mẹ anh đều đã qua đời. Hai ông anh, người thì lên mạn Cao Bắc Lạng làm rừng, người thì vào tận Tây Nguyên khai khẩn đất hoang, chẳng biết giờ làm ăn, sinh sống ra sao. Còn An, người con gái vùng Thanh có cặp mắt đen lay láy, đôi má cứ ửng hồng lên mỗi lúc gặp anh dạo mới quen nhau, từ sau lá thư cuối cùng, với những câu úp mở, quanh co, ngụ ý khuyên anh hãy quên đi những chuyện ngày xưa cũng đã im lặng, không hồi đáp những lá thư đầy âu lo, ray rứt của anh.
Giờ cô ấy ở nơi đâu, sống ra sao? Có khi nào cô nhìn ra cánh đồng chiêm trổ đòng vàng óng mà nhớ tới buổi chiều cùng anh thề sẽ sống bên nhau mãi mãi?...
Thật ra, Trường không hề giận trách gì An. Cô hẳn phải có những lý do để làm như vậy. Vả chăng, chính Trường cũng có nhiều lúc định nói lời chia tay với cô, ngay trước khi nhận được lá thư đau xót ấy. Ðó là những giây phút bàng hoàng, trống vắng sau một trận đánh căng, có người đổ máu và có người ra đi mãi mãi. Những lúc ấy Trường chợt nghĩ biết đâu lần kế đó sẽ là chính mình. Và anh mường tượng tới sự đau đớn tột cùng của An khi nhận được một tin dữ từ đồng đội của anh. Thế là anh viết những lá thư ngắn, với những câu khô khan, phi lý, có khi còn nặng nề xúc phạm cô, để mong cô sẽ giận, và sẽ quên anh.
Nhưng rồi sau đó bình tỉnh lại, Trường xé nát những lá thư này. An đã trở thành một phần không thể tách rời với vui buồn, với thương yêu tràn ngập trong anh. Anh không thể, không có đủ can đảm để làm cô buồn phiền, đau đớn chỉ vì một điều chưa xảy đến, một điều biết đâu sẽ không bao giờ xảy đến...Trường chỉ thấy lòng đau nhói, và buồn vì An không nói rõ nguyên do, để anh khỏi phải thắc mắc suy diễn lung tung. Anh hiểu cô có những điều khó nói, anh hiểu không nên thắc mắc mà chỉ nên chấp nhận một sự thật vô cùng đơn giản, là đã mất An, và tốt nhất là hãy quên đi mọi chuyện. Nhưng sự mâu thuẫn của tim anh, cũng như sự mâu thuẫn đời đời trong trái tim của loài người, là biết rất rõ cách tốt nhất để chữa trị vết thương lòng, nhưng vẫn cứ hành xử những điều ngược lại, cứ tự mình khoét sâu, chọc mãi vết thương.
Trường thở một hơi dài, lắc mạnh đầu như để xua đi những ý nghĩ nặng nề. Anh vào lều xách con dao bản to để chặt cây rừng ra, bước tới đống cây khô làm củi. Anh vung dao lia lịa, phạt đôi những thân cây khô, cho đến lúc đống cây đã vợi hẳn đi, và mồ hôi đã ròng ròng ướt đẫm chiếc áo xanh bạc phếch.
Cả bọn đã chặt được khá nhiều củi khô, toàn là những cành dầu, sao chắc nịch. Họ bó phần của mỗi người lại thành hai bó, cột ràng thật chặt, rồi chọn một cành thẳng làm đòn gánh xỏ qua, gánh về.
Huy đi chân nam đá chân chiêu như người say rượu. Chí phèo cứ nhìn dáng bộ của Huy mà cười thầm trong bụng. Anh tự hỏi tại sao người ta lại tuyển mộ một tên nhỏ con ốm yếu, thư sinh trói gà không chặt như Huy vào quân đội. Lại còn là khẩu đội trưởng hỏa lực nữa chứ! Bộ thằng này mà xiết chừng nửa thùng 12 ly bảy chắc mặt không còn chút máu! Anh cất giọng chế nhạo Huy:
- Tao không hiểu sao họ lại chọn một thằng thư sinh trói gà không chặt như mày cho học hỏa lực đó Huy. Chưa hết, tướng mày đâu phải tướng con nhà lính. Tướng mày chỉ có nước ngồi bàn cạo giấy mà thôi!
Huy trả đũa:
- Ðừng trông mặt bắt hình dong anh Chí ơi. Chứ như anh cũng đâu phải là tướng lính. Nom mặt mày của anh, chỉ có về làng Vũ Ðại vạch mặt ăn vạ là hợp thời trang nhất đó!
Hòa chợt cười khe khé như ngựa hí, quay qua hỏi Chí phèo:
- Ông Chí phèo, ông còn nhớ vị nước trà thằng Huy pha hôm nó mới về không... hí hí... Cái đó người ta kêu bằng pha trà kiểu "tướng sĩ một lòng phụ tử" 2 đó nghe!
Huy bật cười. Cả bọn cũng cười theo hô hố. Hôm đó, Chí phèo đưa cho Huy một gói trà, bảo đem pha. Huy ra bếp nấu một nồi nước to, rồi trút hết gói trà vào. Trên kia đã nghe tiếng Chí la oai oái:
- Huy đâu rồi, có ấm trà mà mày làm gì lâu thế!
Khi thấy Huy lễ mễ bê nồi nước lên, Chí phèo giật mình kinh ngạc:
- Mày bưng nồi nước lên làm gì vậy Huy?
- Thì anh kêu em pha trà mà - Huy thản nhiên đáp.
- Có chút xíu trà mà pha nguyên nồi nước vậy sao! - Chí phèo trợn mắt - Trời ơi, đúng là ngu không chịu nổi!
- Vậy chứ làm sao? - Huy nổi cáu.
- Nè, Hòa, mày về huấn luyện lại lính mày cách pha trà nghe. Lần sau mà còn thế này là tao không tha mày đâu. Hừ! Toi mất gói trà rồi - Chí nhăn mặt - Ðâu đem cái nồi lại tao xem!
Thì ra, pha trà ở đây khác với ở nhà! Ở đây, lính tráng quen uống thứ "trà quạu" pha thật đặc. Như gói trà của Chí, chỉ pha độ một phần ba bi đông nước. Thế mà Huy tống vào cái nồi cả hai lít nước sôi.
Rõ ràng, trong cuộc sống lính chiến ở đây có biết bao điều mới lạ Huy chưa từng biết đến. Anh ngơ ngác với mấy từ lạ tai cánh lính cũ dùng. Trong đó, có những từ nghiêm chỉnh, cũng có từ lóng mà mấy tay ma cũ hay lấy nó để trêu mấy con ma mới tò te. Khi Huy mới vừa chân ướt chân ráo về tới nhà trung đội, chưa kịp khô mồ hôi, cả đám lính cũ đã nhao nhao bu lại. Người này nhìn anh như người ta nhìn một con gà giò trong lồng tre ngoài chợ, đánh giá xem nó có dễ bị toi không, có thể thành một con gà trống hiên ngang, đủ tài chăn dắt lãnh đạo cả bầy gà mái hay không. Người khác đưa tay nắn nắn bắp tay, bắp chân Huy rồi bĩu môi lắc đầu khi dễ. Tự ái Huy nổi lên đùng đùng. Dù gì, người ta cũng qua hết chín tháng quân trường, rèn ngày rèn đêm đến da đen cháy như than, thịt săn cứng như củi, chứ đâu là loại bở. Chỉ có cái Huy nhỏ con và hơi ốm thôi mà! Rồi một tay mặt mày bậm trợn, râu tóc bờm xờm, sau này mới biết là anh Chí nhà ta, vừa cười nhe trọn hai hàm răng ám đen khói thuốc lào, vừa ranh mảnh nháy mắt với Huy:
- Trung đoàn có cấp tiền "xốc lọ" cho mày chưa vậy?
- Tiền xốc lọ là tiền gì? - Huy thực sự ngơ ngác.
Tay bậm trợn giải thích một cách đáng ngờ:
- Ðó là một loại trợ cấp cho lính mới sang. Mai mày lên tài vụ trung đoàn hỏi đi nghe - Anh ta vờ vịt - Sao kỳ vậy cà! Lẽ ra họ phải cấp cho mày rồi mới đúng chứ!
Cả bọn cười ầm lên. Huy nhìn họ, hai mắt tròn xoe như một con nai vàng chính hiệu. Huy hỏi mãi nhưng chẳng ai chịu nói rõ ràng, chỉ hàm hồ ú ớ đó là một món tiền rất ư hấp dẫn, không lấy là uổng cả nửa cuộc đời! Mấy bữa sau, Danh mới chịu cười nắc nẻ giải thích cho Huy. (Xin độc giả thứ lỗi vì lời giải thích đưa ra đây có phần hơi bất tiện!) Chiều hôm đó hội ý, Huy lại thêm một phen ngạc nhiên khi Trường nhắc nhở:
- Các đồng chí nhớ giao ca cho đúng giờ giấc. Ðừng có ăn gian nhau dăm mười phút mà anh em xích mích...
Huy nhìn quanh một lượt, chẳng thấy ai có đồng hồ cả. Anh hỏi:
- Ở đây không có đồng hồ, làm sao biết giờ cho đúng?
Trường giải thích:
- Chúng ta sẽ nhìn sao để đoán giờ. Từ từ rồi Huy sẽ quen thôi. Ví dụ như chập tối là sáu giờ rưởi, thì sao Hôm mọc. Rồi ta sẽ xác định một điểm mốc so với ngôi sao, một ngọn cây chẳng hạn. Một tiếng đồng hồ, thì ngôi sao sẽ di chuyển so với vị trí lúc đầu khoảng một gang tay...
- Một gang tay?
- Tức là em sẽ duỗi thẳng tay ra, rồi xòe tay trước mắt để ướm khoảng cách đó.
- Ạ, ạ.... - Huy gật gù thú vị.
Lần khác, vài hôm sau đó, Huy cảm thấy trong người tự dưng lừ đừ khó chịu, buồn ngủ lạ lùng. Khi đó, đang ém quân chờ đến ngày tấn công, nên cũng không có công tác gì, Huy nằm ngủ li bì. Chí phèo vội đánh thức Huy, anh bảo:
- Mày không nên ngủ nhiều lúc ban ngày. Nếu thấy khó chịu thì kiếm chuyện làm cho đổ mồ hôi. Ngủ ngày nhiều trong rừng dễ bị sốt lắm đó...
Ðại loại những tri thức nhỏ nhoi, đơn giản như vậy làm Huy luôn cảm thấy bất ngờ và thích thú. Mỗi ngày Huy lại học được thêm vài điều mới lạ...
Vừa đi, vừa chuyện trò đùa cợt, chẳng mấy chốc họ đã về tới nơi đóng quân. Mọi người xách mấy cái bi đông ra tắm, chuẩn bị thân người sạch sẽ thoải mái để chào đón giao thừa. Nước này phải tải về từ một nơi khá xa. Do đó, họ tiết kiệm bằng cách tắm "một bi đông". Nghĩa là chỉ tắm trong phạm vi giới hạn bao nhiêu đó nước. Trước tiên, họ đặt sát cái bi đông lên đầu, dốc ngược, để cho nước chảy rỉ rả vừa đủ ướt toàn thân. Rồi kỳ cọ. Rồi lấy khăn lau. Rồi lại cho nước rỉ rả qua thêm lần cuối, trở mặt còn sạch của khăn lau lại. Nói cho đúng thì cũng chả khác gì nhúng nước chiếc khăn rồi lau người. Nhưng làm kiểu này khoái hơn và dễ chịu hơn. Sau đó, mọi người trở về tiểu đội ăn cơm tối. Ðêm đã bắt đầu buông xuống.
Huy bàn giao ca gác cho Vũ rồi quay trở về lều. Sao Cày đã ló ra sau ngọn cây dầu độc mộc, tức là khoảng chín giờ đêm. Trời lành lạnh, một thứ lạnh nao nao khó tả. Bầu trời đêm xanh đen thăm thẳm trên đầu chi chít những sao. Ðêm giao thừa xa nhà xa quê đầu tiên của Huy đang chầm chậm trôi qua, vô tình không biết nó đã mang về cho Huy biết bao suy nghĩ, biết bao cảm xúc vui buồn, nhớ thương lẫn lộn.
Lúc nãy ngồi một mình trong ụ gác, anh đã điểm lại trong đầu bao nhiêu hình ảnh...
Buổi chiều cuối cùng trước lúc đi xa, má Huy đã đứng lặng bên đường khi anh nhảy vội lên chiếc xe đò để quay về đơn vị. Khi xe lăn bánh, anh chồm người ngó ra, vừa kịp thấy người đang giơ tay lên quẹt vội dòng nước mắt. Má đã cố kềm nén tiếng nấc, kềm nén dòng lệ để anh khỏi phải nao lòng, nhưng rồi lúc ấy anh cũng đã nhận ra người buồn đau đến mức nào khi phải xa anh, không biết đến bao giờ...
Huy nhớ bé út với đôi mắt tròn xoe. Ngày anh đi nó vừa tròn bốn tuổi. Có một lần Tường Vân, cô lớp trưởng, tới nhà anh chơi, bắt gặp anh đang bế bé út đùa giỡn đã khen nức nở: "Trời, con bé có đôi mắt ngộ ghê! Sau này chắc làm khối anh chết mệt!..."
Huy nhớ con đường đến trường có mấy cây phượng đỏ nở hoa rất sớm. Những buổi chiều đi học về anh đã thả bước thật chậm để ngắm nhìn những cánh phượng đỏ liêu xiêu rơi xuống...Rồi những lần anh và bọn bạn trốn học sang La-san Mai thôn, Thanh Ða để tắm sông. Tụi anh lội qua phía bờ bên kia, nơi có một cái cù lao nhỏ giữa dòng mọc toàn những cây dừa nước để bắt còng. Hồi đó, tụi anh hay uống cà phê buổi tối. Thằng Hà xách túi còng bắt được về nhà nó rang, rồi mang ra quán, tụi anh vừa tán dóc, vừa nhâm nhi còng rang với nước trà...
Huy nhớ những đêm giao thừa, khi bầu trời khuya trở nên xanh nhạt, và những vì sao xa tít tắp hẳn đi, lư hương trên bàn thờ tổ tiên được đốt lên, mùi trầm hương ngan ngát. Má anh sẽ bày thêm một mâm trái cây để mang ra cúng trời đất trước hiên nhà. Nồi bánh tét kê ở góc sân cũng bắt đầu reo lên vui vẻ, báo tin bánh đã sắp chín mềm. Ánh lửa bếp sáng bập bùng, soi lên mặt đất những bóng người to đen sẫm đang cử động lao xao. Bọn trẻ con tụ tập ngồi quanh dây pháo đỏ, khe khẽ tán chuyện, hồi hộp chờ tới lúc những chùm pháo nỗ tạch đùng, văng tung tóe. Trong đêm mênh mang, một cái gì ấm áp, linh thiêng đang lan tỏa. Nó bay đến, ghé qua khắp mọi ngôi nhà, nối một sợi chỉ mong manh vô hình nhưng bền chặt giữa mọi tâm hồn lại với nhau. Có phải người ta gọi đó là hồn thiêng đất nước?...
Những hình ảnh cứ lần lượt theo dòng liên tưởng ập về, xâm chiếm toàn bộ trí não của Huy, dẫn anh về với những ngày qua, dù Huy vẫn mở mắt trừng trừng nhìn ra cánh trảng trước mặt.
Huy chui vào lều, mở ba lô lấy cuốn sổ nhật ký, định ghi vội vài dòng ý tưởng còn đọng lại sau ca gác. Nhưng rồi không biết nghĩ sao, anh lại cất nó vào. Anh bước ra, đi về phía nhà trung đội.
Khắp các đơn vị, lửa đã đốt lên từ khi chập tối. Những đốm lửa trại cháy chập chờn hắt sáng cả một góc rừng. Tiếng ca hát, la lối, reo hò, tiếng gõ đập vào can nước, vào xoong nồi đánh nhịp theo lời hát văng vẳng khi xa khi gần theo hướng gió. Cả trung đội đang ngồi vây quanh đống lửa, trừ những người trực gác. Trường đang cầm cái can rượu đã vơi phân nửa rót vào bát, chợt ngước lên trông thấy Huy. Anh kêu lên:
- A, vào ngồi đi đồng chí tân A phó A3. Mày đến sau, phải làm luôn ba bát đấy.
Huy len vào ngồi xuống giữa Phước và Chí Phèo. Anh đưa tay đỡ lấy bát rượu, mỉm cười nhìn quanh khắp mọi người, nói to:
- Xin mấy anh thông cảm, tôi chưa từng uống rượu bao giờ. Nhưng cũng xin uống cạn một chén này chung vui với các anh.
Nói đoạn, Huy ngửa cổ từ từ trút bát rượu vào miệng. Hơi rượu cay nồng bốc lên mũi làm anh muốn sặc. Hôm qua, anh đã nghe mấy tay bợm nói, khi uống phải nín thở làm một hơi mới không bị sặc, nên đã chuẩn bị tinh thần làm theo thật đúng. Vậy mà suýt chút nữa cũng không tránh khỏi. Tuy nhiên, Huy cũng đã uống hết bát rượu thật ngọt. Xong, anh giao trả cái bát lại cho Trường, chủ xị. Anh nhăn mặt, cảm nhận một luồng hơi nóng đang lan tỏa rừng rực từ bụng ngược trở lên cổ, da thịt chợt nóng ran lên đến muốn toát mồ hôi, dù khí trời khá lạnh. Hòa, A trưởng A3, đang ôm đàn hát những câu do một người lính nào đó của trung đoàn cải biên từ bài Mùa xuân lá khô:
"Tôi trở lại vùng Sầm Bua, vùng xa xôi đóng gần núi Cườm. Sau những ngày lo xây dựng, có những đêm đi phục chốt, tôi lại đi chiến dịch K.5. Ngồi xe ra đến Xi phôn, an dưỡng ba ngày ăn nhậu thật là vui. Trong lúc say, ai có đâu ngờ, quê hương từng giờ mẹ mong chờ tin con..."
Huy đưa mắt nhìn quanh. Dưới ánh lửa chập chờn khi mờ khi tỏ, gương mặt ai cũng có một vẻ buồn buồn sâu kín, dù là đang cười nói xôn xao hay ngồi im lặng lẽ. Hòa đã hát xong bài hát. Toàn bộ im lắng trong giây lát. Chỉ còn nghe tiếng lửa reo, tiếng nổ tí tách của những chỗ thân gỗ bị ẩm mục. Những lời hát này thật đơn sơ mộc mạc, nhưng nó như thuật lại cho bọn anh nghe về thời gian vừa mới trôi qua, về cuộc sống, tình cảm, nghĩ suy chân thật của những tháng ngày này.
Những người lính Việt Nam đang ngồi đây, hay đang ngồi trong một khu trại nằm bên một cánh rừng, bên một bờ sông, con suối, trên một sườn núi, đỉnh đồi chon von heo hút nào đó, trên khắp đất nước Campuchia này, hầu hết đều còn rất trẻ. Những gương mặt xạm đen nắng gió vẫn còn lưu lại chút nét gì đó trẻ con thơ dại trên nét cong vành môi tinh nghịch, lại cũng vừa già giặn ưu tư trong những cặp mắt long lanh. Có người tuổi quân chưa tròn một năm, ngay trước lúc khoác chiếc áo xanh vẫn còn nghịch ngợm giành quà bánh với em mình, vẫn còn vô tư hò reo trong một cuộc đá dế, đá cá lia thia. Vậy mà, trong trận chiến vừa qua, đã có một số người nằm xuống, mãi mãi ra đi; đã có những người khi ngã xuống vẫn còn mở mắt trừng trừng kinh ngạc, như không tin mình lại có thể chết vào lúc tuổi còn xanh, mộng còn đầy, còn chưa biết thế nào là nụ hôn lên má một người con gái.
Hòa quay qua Huy:
- Huy này, mày hát một bài đi. Ở đây ai cũng đã hát rồi.
- Anh đưa cây đàn cho em. - Huy đáp.
Huy ôm cây đàn ghi ta cũ, lớp ván phần lưng thùng đàn đã bị bong ra, còn phía trước thì nứt nẻ loang lổ, anh gảy khẽ vài nốt rồi ngước lên:
- Tôi xin hát một bài hát của Trần Tiến để tưởng niệm tới những đồng đội đã hy sinh của chúng ta.
Trường chuyền bát rượu sang bảo Huy:
- Làm thêm một chén cho có hứng.
Huy uống cạn bát rượu rồi cất tiếng hát. Men rượu ngây ngất, không khí nồng ấm gắn bó thương yêu và những niềm riêng canh cánh, thoáng chốc cùng trộn lẫn vào nhau bay lên thành tiếng hát. Huy thấy lòng mình cũng tan loãng ra trong những ý tình câu nhạc gần gũi và chân thật.
Bài hát kể về tâm tình của một người lính nào đó; mà cũng là của thật nhiều người lính; trước cái chết của đồng đội thân thương. Bài hát kể về nụ hôn đầu đời của một chàng lính trẻ. Nụ hôn đó không dành cho một cô gái dịu dàng xinh đẹp. Nó không đặt lên bờ môi trinh nữ ngọt thơm như cỏ non, như hoa sứ hoa quỳnh. Nó đặt lên trên đôi mắt khép hờ còn đầy tiếc nuối ngỡ ngàng của một người bạn vừa ngã xuống. Nụ hôn đầu của người lính không dành cho tình yêu đôi lứa; Nụ hôn đầu của người lính dành cho tình đồng đội. Và người lính hát khúc tình ca bằng những "lời lửa cháy". Ðây không là lời tình hát tặng em đâu, người yêu nhỏ. Ðây là khúc hành ca tôi dành tặng bạn tôi. Dành ru bạn tôi giấc ngủ cuối cùng... và mãi mãi...
Trong khoảnh khắc này của đêm giao thừa, bài hát nghe ra có một cái gì thật là kỳ dị. Nó không thích hợp chút nào với những giây phút cuối cùng của năm - lúc mà theo lẽ thường mọi người đang náo nức xôn xao, với những hy vọng, niềm tin vào một năm mới nhiều may mắn, với những dự tính ước mơ, những kế hoạch đầy triển vọng. Nhưng nó thật sự gây xúc động. Những người lính của đại đội tải này khi nghe bài hát, thấy nó như nói về chính bản thân mình. Và đôi mắt họ long lanh trong ánh lửa. Có phải là nước mắt? Hay chỉ là do một hạt bụi vô tình theo gió bay vào làm khóe mắt xốn xang?...
Huy đã hát tới khúc cuối của bài hát... "Hãy hát lời lửa cháy bằng trái tim tình yêu. Hãy hát lời tình yêu bằng trái tim lửa cháy. Hãy hát lời lửa cháy bằng trái tim yêu thương. Hãy hát lời yêu thương bằng lửa cháy trong ta..." Lòng Huy cũng đang bừng bừng bốc cháy. Ngọn lửa thương yêu, tiếc nuối và đau đớn sôi lên thiêu đốt trái tim anh.
Sau đó, tới lượt Minh, lính cuối 84, người Thành phố. Anh ôm đàn la lên:
- Thôi, không hát mấy bài buồn nữa nghe, muốn đứt gan đứt ruột rồi. Nhảy đi các bạn! Soul nghe! Giật soul dễ ẹt, cứ tán loạn lên là được.
Tiếng đàn vang lên thôi thúc, tưng bừng. Một vài tay bước ra giữa vòng tròn khơi mào cuộc nhảy múa. Những bước chân quay cuồng bên ánh lửa bập bùng. Rồi cả bọn đều đứng lên vào cuộc. Có người ôm theo cái can hoặc cái xoong vừa nhảy vừa gõ đập. Ðêm rung lên trong những âm thanh khuấy động. Trên bầu trời mênh mông thăm thẳm, những vì sao lóng lánh xa xăm dường như cũng đang nối nhau trong một khúc luân vũ yểu điệu nhịp nhàng.
Ðêm đã rất sâu. Có lẽ chỉ còn dăm chục phút nữa là tới thời điểm giao thừa. Trường hí húi lắp lại pin vào chiếc máy thu thanh nhỏ xíu hiệu National của anh. Chiếc máy chỉ được nghe mỗi ngày một tiếng, ở những giờ có chương trình ngâm thơ và kể chuyện đêm khuya. Bầu không khí cũng trầm lắng xuống không biết tự lúc nào. Toàn bộ doanh trại khối Trung đoàn bộ lặng im. Mọi người chỉ trò chuyện, tâm sự với nhau một cách khẽ khàng như không dám làm rạn vỡ những giây phút thiêng liêng. Huy ngồi bó gối, gục đầu xuống, cảm thấy thân thể anh đang xoay tròn, rơi rơi mãi xuống một vực sâu mà không tới đáy. Anh đã uống khá nhiều rượu nặng, đã nôn mửa mấy lần từ khi nãy cho tới khi chỉ còn nôn ra được một chút chất lỏng lầy nhầy, đắng nghét. Chí Phèo lay lay vai Huy:
- Huy, Huy, mày cố uống tí nước trà cho giã rượu nè.
Huy lúc lắc đầu, rồi ngã vật ra, nằm co người lại. Anh vẫn nghe thấy những tiếng nói lao xao, văng vẳng, nhưng chân tay thì rã rời, mềm như bún. Anh nằm mơ màng, nửa tỉnh nửa mê như vậy không biết bao lâu. Bỗng anh nghe một tràng AK chát chúa. Rồi một tràng nữa. Rồi tiếng súng, tiếng cối pháo nỗ rền rền khắp mọi nơi. Huy mở mắt ra, cố gượng chống tay ngồi dậy. Trên trời, màn đêm mênh mông bị rạch nát bởi những đường vạch đỏ rực đan chéo vào nhau như những cánh sao. Khói súng tỏa mù như sương và hăng nồng trùm lên bầu không khí. Ở góc chân trời, đạn cầu vồng phát hỏa bùng lên thành những cụm sáng đủ màu, những giải sáng vàng chanh pha đỏ, những giải màu cam tươi, xanh lá thẫm chuyển sang lam, và phía ngoài cùng là màu tím ngát chìm hẳn vào màn đêm thẳm. Âm thanh, sắc màu như cùng cất tiếng hát và đang nhảy múa. Ðêm đẹp rực rỡ. Một cái đẹp hoang sơ man dại. Những tràng pháo hoa đón giao thừa Xuân 1985 đã òa vỡ, vang lên ở một góc rừng tây bắc Campuchia như vậy đó.
Chú thích:
1. Cách gọi hình tượng của lính chỉ loại chén quân dụng to bằng sắt.
2. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi: "... tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào".
Những ngày cận Tết ở rừng trôi qua chậm chạp. Buổi sáng kéo dài. Buổi trưa lê thê. Buổi chiều đến uể oải, đi dùng dằng. Và đêm như không bao giờ hết.
Rừng thật vắng và yên tĩnh, ra khỏi khu vực đơn vị dừng chân tập kết vài trăm mét, chỉ còn tiếng gió âm u. Ngự trị toàn bộ không gian là lặng im tuyệt đối. Chỉ đôi khi, tiếng AK điểm xạ hai vọng về từ đâu đó rất xa. Mùa xuân, nhưng cánh rừng quá lặng lẽ buồn rầu. Dường như những chồi non vẫn còn thiếp ngủ đâu đó trong những nách lá già nua. Dường như chim chóc đã rủ nhau đi chơi xa đâu đó chưa về kịp. Những thân cổ thụ nâu sẫm, xanh mốc rêu, xam xám... kiên nhẫn khoác lớp áo lá úa vàng không sinh khí. Chúng đứng kề bên nhau trong lặng lẽ. Thỉnh thoảng, ở cây này, cây khác, một cành khô chết từ lâu chợt răng rắc vặn người, rồi tức tưởi lìa thân trong cơn gió xoáy. Những cành lá trên tầng cao của rừng chợt lao xao một lúc, như thể cất tiếng thở than tiễn biệt một người bạn mới qua đời.
Ðôi khi, trong đêm khuya, chợt một hồi sấm rền rền vọng lại, mưa đã rơi ở đâu đó xa xôi, một cơn mưa giông trái mùa thỉnh thoảng xuất hiện trong những khu rừng nhiệt đới. Ban ngày, không khí oi nồng và khô hạn, cả những cơn gió cũng nóng rãy như hơi nước tỏa ra từ một nồi nước sôi khổng lồ. Chập tối trở đi, nhiệt độ giảm dần. Rồi từ khoảng chín giờ đêm cho tới sáng, cái lạnh đột ngột ùa đến - một cái lạnh tê buốt đến xương. Thời tiết ở đây thay đổi bất thường, nghiệt ngã. Xuân ấm áp, khoan hòa và dịu dàng chưa đến. Nhưng dường như vẫn có một cái gì không rõ đang âm thầm cựa quậy, đang rạo rực chuyển mình trong từng tảng đá, thân cây, hay bên dưới lòng đất ấm. Dường như mọi sự vật đang chuẩn bị để chờ ngày ùa ra, nở rộ, khoe bày sức sống, cất lên tiếng hát không lời bất khuất, ngợi ca cuộc sống tươi đẹp vĩnh hằng.
Ðại đội dựng lều dã chiến rải rác ở một góc khu rừng. Những chiếc lều làm cho bức tranh phong cảnh buồn thiu tẻ nhạt nơi đây chợt có một chút gì ngộ nghĩnh, vui vui. Chúng như những nét cọ ngẫu hứng, phá tung bố cục đơn điệu của những cụm cây xanh lướt buồn rầu và bãi cỏ vàng khô cháy. Lều, hay nói đúng hơn, chỉ là những cái chòi nhỏ, được dựng rất giản dị xuề xòa. Cột lều là bốn thân cây rừng cỡ bắp tay, hai dài hai ngắn, tạo thành một mái xuôi. Bốn phía lều trống trơn. Mái lều là mấy tấm tăng ghép nối nằm bên dưới, bên trên phủ những cành lá, những túm cỏ tranh. Nhìn xa, trông chúng như những chiếc nhà chòi của trẻ con làng quê dựng lên để chơi trò bán mua, cưới hỏi... Ðôi khi, vài con sẻ rừng lông xám hiếm hoi rong ruổi lang thang qua góc rừng, chợt sững lại ngạc nhiên, tròn xoe đôi mắt. Chúng đậu trên một cành cây rậm rạp, nép thân người sau đám lá um tùm và kêu lên chí chóe. Như thể chúng hỏi han nhau: "Dưới kia, ở giữa đám cỏ tranh vừa xuất hiện cái gì lạ thế?" Chúng xôn xao bàn tán, âu lo không biết giống chim khổng lồ quái dị nào đã tới đây xây những cái tổ kỳ khôi và xấu xí thế kia. Rồi cuối cùng, sau một tràng tiếng kêu rít cao hốt hoảng, chúng bay vù mất, bỏ lại những chiếc lá đung đưa rất khẽ vì giận dỗi và luyến tiếc những người bạn sao quá đỗi vội vàng.
Những túp lều của Trung đội hai nằm dưới một khóm ba gốc dầu già cỗi mọc gần nhau. Khi gió nổi lên, hoa dầu lại từ trên cao xoay xoay bay xuống, rắc đầy trên lớp cỏ úa vàng những đôi cánh chuồn nâu. Huy ngồi phía ngoài lều, hí hoáy ghi ghi chép chép. Lâu lâu, một cánh hoa dầu lại tình cờ đáp xuống vai anh.
Chí phèo, trung đội phó, ngồi cách đấy không xa, anh đang mài dao trên một phiến đá hình bán nguyệt. Chí liếc nhát cuối cùng qua phiến đá, đưa ngón tay trỏ gậy khẽ lưỡi dao, gật đầu tỏ vẻ hài lòng. Anh cất tiếng bâng quơ:
- Vậy là sắp tới cái tết xa nhà lần thứ bốn...Mẹ kiếp! Tết với nhất gì ở cái rừng khô này!
Huy ngẩng đầu nhìn Chí phèo. Câu nói của Chí làm anh chợt nao nao. Ngày mai đã là Tết rồi. Huy đưa mắt lướt qua những khóm cây mọc lưa thưa, qua trảng cỏ trống, hướng tới cụm rừng dày âm u xanh thẫm phía xa. Chẳng có gì báo hiệu cho mùa xuân cả! Mùa xuân ắt là đã lạc đường không tới được nơi đây.
Dạo mới sang, Huy đã từ trạm chỉ huy tiền phương của mặt trận đi thẳng lên tuyến trước theo ngõ Sàm-rông, băng qua một cánh rừng nằm chếch hướng Tây, cách Sàm-rông chừng một buổi hành quân. Quanh bìa rừng mọc đầy những cội mai núi già cỗi, bấy giờ trời lại đang vào tiết lập xuân, hoa mai bừng nở chi chít trên cành, vàng rực lên trong nắng. Màu vàng hoa mai lúc nào cũng nhắc những người con đi xa nhớ những ngày cận tết ở quê hương.
Huy nhét cây viết vào túi áo, ngồi ngẩn người, trong đầu anh một chuỗi ý nghĩ, hình ảnh lướt nhanh qua.
Mùa này, trong những khu vườn ngoại ô, mai đã được bứng lên cho vào chậu, được tỉa tót, uốn sửa lại và chở vào bày bán trên những vỉa hè hay khu chợ trung tâm thành phố. Chợ tết chắc cũng đang vào lúc tưng bừng, nhộn nhịp, với đủ hoa trái, sắc màu.
Nào những bông cúc đại đóa trắng, vàng, tim tím, xanh lơ nằm chen vai bên thược dược đỏ, hồng. Nào những đóa hồng kiêu sa rung rinh trong nắng sớm kề bên những cụm vạn thọ bình dị, thân quen; và hoa đào đỏ thắm; và mẫu đơn, lay-ơn muôn sắc muôn màu; và huệ trắng, huệ lam...Có đến trăm loài hoa đua nhau khoe sắc khoe hương. Rồi còn bao nhiêu là bánh mứt, bao nhiêu là thứ trái cây đua nhau phô vẻ hấp dẫn, ngon lành...
Ôi, quê nhà! Nhớ làm sao những con đường, những khu chợ hoa chợ tết tràn ngập người qua kẻ lại, hội tụ biết bao nhiêu nàng thiếu nữ mắt sáng môi hồng, đẹp như tranh vẽ; những ngọn gió đầu xuân nhẹ vờn trên tà áo mỏng, trên những lá non, lộc biếc lao xao; hương thơm của muôn hoa, hương vị ngọt ngào của trái cây, bánh mứt, hương tóc của một ai đó vừa đi qua thoảng lại.
Nhớ làm sao Sài Gòn những ngày cuối năm náo nức rộn ràng; những con người quen lạ với mắt sáng môi cười ánh lên niềm vui, hy vọng vào một năm mới nhiều may mắn, phúc lành hơn...
Hôm qua, Huy đã đi ngược xuống hướng đông mấy cây số, mong tìm được một cành mai mang về mừng đón giao thừa. Anh đi mãi, lùng đỏ mắt, nhưng chỉ thấy có mỗi màu vàng héo úa của lá khô. Rừng phía trên này không có mai, thật lạ, rừng mai mà anh đã đi qua chỉ cách đây khoảng ba mươi cây số. Huy tự nhủ: Chả lẽ bây giờ cuốc bộ sáu mươi cây cả đi lẫn về chỉ để kiếm một cành hoa? Vả lại, đại đội trưởng Thái đã có lệnh không được đi xa nơi tập kết quá năm cây. Cuối cùng, Huy đành phải quay về, thất vọng. Anh nghĩ, không có hoa, không có làn khói mỏng manh, thoang thoảng mùi thơm của những nén nhang thắp lên, không khí của giây phút chuyển tiếp từ năm cũ sang năm mới sẽ kém phần ấm áp, thiêng liêng. Nhưng biết làm sao, lính mà, lại ở tận trong rừng, đang trong thời điểm chuẩn bị cho đợt hành quân cơ động mới, đành phải chấp nhận những cái đang có mà thôi.
Tuy nhiên, đêm giao thừa này, đêm giao thừa đầu tiên xa nhà của Huy, cũng hứa hẹn những điều cực kỳ hấp dẫn. Toàn trung đoàn đều có rượu, không biết mấy tay lính cũ đã xoay xở cách nào hay vậy! Tiểu đội nào cũng có ít nhất là một can vàng bốn lít. Ðêm nay, Huy sẽ được thưởng thức cái thú vui đầy nam tính, hào sảng như những vị anh hùng hảo hán trong truyện Tàu xưa, sẽ được hai tay bưng cái bát B52 1 đưa lên miệng, ngửa cổ uống một hơi dài, để rồi nghe người mình lâng lâng, ngây ngất.
Huy chưa từng uống rượu. Anh chỉ nghe nói về cái cảm giác kỳ lạ do nó gây ra, và thấy cũng hay hay. Ðêm nay, đêm nay mình sẽ như người xưa, vừa bưng bát rượu, vừa đọc bài thơ bi tráng, hào hùng của Vương Hàn:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
(Tạm dịch : Rượu đào chung ngọc dạ quang
Chưa vơi đã rộn tiếng đàn xuất quân
Say lăn lóc giữa sa trường
Bạn đừng cất tiếng cười khan lắc đầu
Xưa nay ra chốn binh đao
Mấy ai biết được ngày sau có về).
Lại còn có một cái khác, vô cùng thú vị, mà toàn bộ các tay súng của ba tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị trực thuộc trung đoàn đã bí mật giao kết với nhau: đốt pháo hoa đón giao thừa. Pháo hoa ở đây, nơi trận địa này, sẽ được tạo ra bởi các loại đạn lửa khác nhau. Ðạn lửa sẽ đan kết thành những bông hoa trên bầu trời chiến địa. Và những người lính sẽ không còn cảm giác xa cách quê hương. Ðạn tiểu liên, đạn đại liên K.57, 12,7 là những tràng pháo chuột, pháo trung, và đạn cối 60, cối 82...sẽ là những tiếng pháo đại điểm nhịp cực kỳ ấn tượng! Ðây là một sự vụ khá là nghiêm trọng, vì quân lệnh nghiêm cấm bắn súng bừa bãi. Nhưng vừa rồi đánh chiếm Ampil, quân ta thu được rất nhiều đạn dược các thứ. Lính chiến mà, đôi khi cũng phải chơi cho ra trò như vậy chứ.
Ðại đội tải của trung đoàn có quân số tổng cộng lên đến xấp xỉ sáu mươi người. Con số này lớn hơn nhiều so với thực lực của các đại đội chiến đấu, nhất là đang trong mùa chiến dịch. Một phần vì quân số của nó ít biến động. Thêm nữa, đại đội đã được bổ sung quân số hồi cuối năm để đảm bảo thực hiện thật tốt công tác tải đạn cáng thương phục vụ cho các đơn vị trực tiếp tác chiến.
Hôm mới về trung đoàn nhận nhiệm vụ, Huy đã được phân công về đại đội này. Ðại đội trưởng Thái vui vẻ tiếp nhận Huy. Anh tạm thời bổ nhiệm Huy làm tiểu đội phó tiểu đội ba, trung đội hai. Anh cũng nói sơ qua về nhiệm vụ vai trò của đại đội trước nét mặt ỉu xìu thất vọng của Huy. Huy chán nản khi biết mình không về một đơn vị trực tiếp chiến đấu, mà là đơn vị phục vụ, trong một trận đánh lớn lao như vậy. Trên đường sang đây, lúc nằm ở quân trạm thị xã Batđomboong, Huy gặp một sĩ quan người Thanh Hoá đi phép ngược về. Khi nghe Huy nói sẽ về Sư đoàn X, anh bảo đây là một sư đoàn đã hai lần được phong anh hùng, anh cũng nói thêm: "Về đó khá là vất đấy! Tôi từng ở dưới bộ binh tiểu đoàn của sư đó mấy năm..." Huy đã hình dung ra những trận đánh vô cùng kịch liệt hào hùng, tương tự như trong những bộ phim lịch sử nổi tiếng anh từng xem ngày trước. Những trận đánh kinh thiên động địa, đầy máu và hoa, đầy tính anh hùng ca lãng mạn. Huy tưởng tượng, gần như ao ước, mình sẽ lập được một chiến công gì đó, nho nhỏ thôi, và cũng sẽ bị thương qua quýt gì đó, bị thương nhưng vừa phải thôi, đừng mất đứt một chân hay một tay, một mắt... để sau này về còn có vài cái sẹo làm kỷ niệm! Vậy mà bây giờ... Thái đoán được ngay những ý nghĩ của Huy, anh động viên:
- Cậu đừng tưởng đây là công việc nhẹ nhàng đơn giản. Nó cũng khá căng, vất vả và nguy hiểm đấy, và cũng là một công tác vô cùng quan trọng cần thiết. Nếu không có chúng ta, các đơn vị lấy đâu ra đạn dược để chiến đấu, ai là người chuyển các thương binh, tử sĩ về tuyến sau? Thực tình thì nó cũng hơi buồn tẻ hơn là trực tiếp cầm súng, nhưng là lính, chúng ta phải hiểu dù ở bất cứ cương vị, chỗ đứng nào, thì cái đánh giá chúng ta là tinh thần công tác, chứ không phải là hình thức. Với lại, cậu vừa mới sang đây, chưa có kinh nghiệm gì, chưa quen với điều kiện chiến trường, nên trên mới đưa cậu về đây để thử thách, làm quen. Cậu cứ yên chí, sớm muộn gì, cậu cũng sẽ về đơn vị chiến đấu. Lúc đó chỉ sợ cậu lại không đủ can đảm, ý chí mà đứng vững thôi!
Thế là Huy vác ba lô về trung đội hai. Và đã nếm trải trận đánh đầu tiên của đời lính ở đại đội này.
Ở lều bên cạnh, Trường, trung đội trưởng, vừa lên xong kế hoạch cho ba ngày Tết. Anh đã sắp xếp, phân bố lại toàn bộ các thức ăn hiện có: vài chục lon cá hộp Thái trung đoàn cấp lại sau khi thu được ở Ampil, thịt heo đóng hộp của ta, khô cá lóc bông, ruốc cá, bánh kẹo, thuốc lá hậu phương gửi sang... để mỗi ngày Tết đều vừa đủ thức ăn thết đãi khách khứa, đồng hương, vừa dành lại một phần nhỏ cho những ngày sau đó. Anh bước ra khỏi lều, cất tiếng gọi Nhu, anh nuôi trung đội, đang ngồi nhặt thóc phía bên kia lại, giao cho Nhu tờ giấy anh đã liệt kê chi tiết. Chí phèo gọi giật Nhu tới, cầm lấy tờ giấy đọc qua, rồi nói như quát với Trường:
- Sao mày lo xa thế. Lính là phải chơi xả láng, hết mình, chơi cho đã rồi mai có chết cũng không còn phải tiếc gì! Thằng Nhu đừng có nghe nó, cứ việc đem ra nấu hết trong ba ngày Tết cho tao!
Nhu nhìn Trường, rồi lại nhìn Chí phèo, không biết phải nghe ai. Anh nghĩ bụng, có phần thiên về phía Chí phèo: "Ông nào cũng có lý. Thôi cứ tới ngày nào tính ngày đó, hơi đâu mà nghĩ ngợi cho lắm."
Chí phèo càu nhàu thêm vài câu, rồi gọi to:
- Mấy thằng được phân công lấy củi hôm qua đâu, theo tao!
Theo hội ý hôm qua, bữa nay tới phiên Hòa, Huy, Phước, Danh đi lấy củi để đốt lửa trại đón giao thừa. Mọi người lấy dao rựa rồi tập họp lại trước cửa lều. Chí phèo lại hét:
- Lên đường!
Trường nhìn theo cười khẽ, không có vẻ gì bực tức. Trường đã quá hiểu Chí phèo, ngay cái biệt danh cũng đã nói lên tính cách của anh. Chí phèo nói đó rồi quên đó, ruột để ngoài da, cứ hùng hổ làm như sắp nhảy xổ vào người khác vậy chứ thật ra lại rất đa sầu đa cảm và tốt bụng.
Dạo mới về Phnom S'rok, có một lần Trường và Chí phèo đi xắn măng rừng, chợt Trường bị một viên đạn mồ côi ở đâu rơi xuống xuyên qua bắp chân trái. Vết thương chỉ ở phần mềm, không nguy hiểm, nhưng máu ra khá nhiều. Chí cuống quýt bứt vội mấy cọng dây rừng quanh đó, rồi móc cái khăn tay của người yêu tặng ra, đè lên vết đạn băng bó lại cho anh. Cái khăn này Chí phèo rất quý, chỉ cất trong túi áo chứ không khi nào đem ra lau mặt. Nhưng cái khăn quá mỏng, máu vẫn ứa ra đẫm ướt ống quần. Lúc đó hai người cách trại khoảng ba cây số, Chí phèo dìu anh đi một đoạn khoảng hai trăm mét, rồi thấy máu cứ rỉ ra, Chí nói: "Thôi để tao cõng mày. Mày đi, động vết thương mất máu nhiều nguy lắm." Rồi Chí xốc anh lên vai, hì hụi cõng anh từ đó về đơn vị.
Một lần khác, Phước lên cơn sốt ác tính, người cứ co giật thấy thương quá chừng, Chí vừa nằm ôm lấy nó đè xuống, vừa nước mắt nước mũi chèm nhèm. Phải nói trong trung đội, Chí phèo thương nhất là Phước. Cả hai đều mồ côi cha mẹ từ nhỏ, đều chịu nhiều vất vả, nên dễ đồng cảm với nhau. Có những đêm, hai người nằm rì rầm nói chuyện suốt, làm Trường phát bực, phải quát lên: "Hai thằng mày còn sống với nhau dài dài, có phải là một ngày một bữa mà nói cho lắm thế! Ngủ đi, cho người khác ngủ!"
Trường nghĩ tới đó chợt thấy buồn buồn, nhớ những chuyện xa xôi. Ðã hai năm rồi anh không biết chút tin gì ở quê nhà. Bố mẹ anh đều đã qua đời. Hai ông anh, người thì lên mạn Cao Bắc Lạng làm rừng, người thì vào tận Tây Nguyên khai khẩn đất hoang, chẳng biết giờ làm ăn, sinh sống ra sao. Còn An, người con gái vùng Thanh có cặp mắt đen lay láy, đôi má cứ ửng hồng lên mỗi lúc gặp anh dạo mới quen nhau, từ sau lá thư cuối cùng, với những câu úp mở, quanh co, ngụ ý khuyên anh hãy quên đi những chuyện ngày xưa cũng đã im lặng, không hồi đáp những lá thư đầy âu lo, ray rứt của anh.
Giờ cô ấy ở nơi đâu, sống ra sao? Có khi nào cô nhìn ra cánh đồng chiêm trổ đòng vàng óng mà nhớ tới buổi chiều cùng anh thề sẽ sống bên nhau mãi mãi?...
Thật ra, Trường không hề giận trách gì An. Cô hẳn phải có những lý do để làm như vậy. Vả chăng, chính Trường cũng có nhiều lúc định nói lời chia tay với cô, ngay trước khi nhận được lá thư đau xót ấy. Ðó là những giây phút bàng hoàng, trống vắng sau một trận đánh căng, có người đổ máu và có người ra đi mãi mãi. Những lúc ấy Trường chợt nghĩ biết đâu lần kế đó sẽ là chính mình. Và anh mường tượng tới sự đau đớn tột cùng của An khi nhận được một tin dữ từ đồng đội của anh. Thế là anh viết những lá thư ngắn, với những câu khô khan, phi lý, có khi còn nặng nề xúc phạm cô, để mong cô sẽ giận, và sẽ quên anh.
Nhưng rồi sau đó bình tỉnh lại, Trường xé nát những lá thư này. An đã trở thành một phần không thể tách rời với vui buồn, với thương yêu tràn ngập trong anh. Anh không thể, không có đủ can đảm để làm cô buồn phiền, đau đớn chỉ vì một điều chưa xảy đến, một điều biết đâu sẽ không bao giờ xảy đến...Trường chỉ thấy lòng đau nhói, và buồn vì An không nói rõ nguyên do, để anh khỏi phải thắc mắc suy diễn lung tung. Anh hiểu cô có những điều khó nói, anh hiểu không nên thắc mắc mà chỉ nên chấp nhận một sự thật vô cùng đơn giản, là đã mất An, và tốt nhất là hãy quên đi mọi chuyện. Nhưng sự mâu thuẫn của tim anh, cũng như sự mâu thuẫn đời đời trong trái tim của loài người, là biết rất rõ cách tốt nhất để chữa trị vết thương lòng, nhưng vẫn cứ hành xử những điều ngược lại, cứ tự mình khoét sâu, chọc mãi vết thương.
Trường thở một hơi dài, lắc mạnh đầu như để xua đi những ý nghĩ nặng nề. Anh vào lều xách con dao bản to để chặt cây rừng ra, bước tới đống cây khô làm củi. Anh vung dao lia lịa, phạt đôi những thân cây khô, cho đến lúc đống cây đã vợi hẳn đi, và mồ hôi đã ròng ròng ướt đẫm chiếc áo xanh bạc phếch.
Cả bọn đã chặt được khá nhiều củi khô, toàn là những cành dầu, sao chắc nịch. Họ bó phần của mỗi người lại thành hai bó, cột ràng thật chặt, rồi chọn một cành thẳng làm đòn gánh xỏ qua, gánh về.
Huy đi chân nam đá chân chiêu như người say rượu. Chí phèo cứ nhìn dáng bộ của Huy mà cười thầm trong bụng. Anh tự hỏi tại sao người ta lại tuyển mộ một tên nhỏ con ốm yếu, thư sinh trói gà không chặt như Huy vào quân đội. Lại còn là khẩu đội trưởng hỏa lực nữa chứ! Bộ thằng này mà xiết chừng nửa thùng 12 ly bảy chắc mặt không còn chút máu! Anh cất giọng chế nhạo Huy:
- Tao không hiểu sao họ lại chọn một thằng thư sinh trói gà không chặt như mày cho học hỏa lực đó Huy. Chưa hết, tướng mày đâu phải tướng con nhà lính. Tướng mày chỉ có nước ngồi bàn cạo giấy mà thôi!
Huy trả đũa:
- Ðừng trông mặt bắt hình dong anh Chí ơi. Chứ như anh cũng đâu phải là tướng lính. Nom mặt mày của anh, chỉ có về làng Vũ Ðại vạch mặt ăn vạ là hợp thời trang nhất đó!
Hòa chợt cười khe khé như ngựa hí, quay qua hỏi Chí phèo:
- Ông Chí phèo, ông còn nhớ vị nước trà thằng Huy pha hôm nó mới về không...hí hí...Cái đó người ta kêu bằng pha trà kiểu "tướng sĩ một lòng phụ tử" 2 đó nghe!
Huy bật cười. Cả bọn cũng cười theo hô hố. Hôm đó, Chí phèo đưa cho Huy một gói trà, bảo đem pha. Huy ra bếp nấu một nồi nước to, rồi trút hết gói trà vào. Trên kia đã nghe tiếng Chí la oai oái:
- Huy đâu rồi, có ấm trà mà mày làm gì lâu thế!
Khi thấy Huy lễ mễ bê nồi nước lên, Chí phèo giật mình kinh ngạc:
- Mày bưng nồi nước lên làm gì vậy Huy?
- Thì anh kêu em pha trà mà - Huy thản nhiên đáp.
- Có chút xíu trà mà pha nguyên nồi nước vậy sao! - Chí phèo trợn mắt – Trời ơi, đúng là ngu không chịu nổi!
- Vậy chứ làm sao? - Huy nổi cáu.
- Nè, Hòa, mày về huấn luyện lại lính mày cách pha trà nghe. Lần sau mà còn thế này là tao không tha mày đâu. Hừ! Toi mất gói trà rồi - Chí nhăn mặt - Ðâu đem cái nồi lại tao xem!
Thì ra, pha trà ở đây khác với ở nhà! Ở đây, lính tráng quen uống thứ "trà quạu" pha thật đặc. Như gói trà của Chí, chỉ pha độ một phần ba bi đông nước. Thế mà Huy tống vào cái nồi cả hai lít nước sôi.
Rõ ràng, trong cuộc sống lính chiến ở đây có biết bao điều mới lạ Huy chưa từng biết đến. Anh ngơ ngác với mấy từ lạ tai cánh lính cũ dùng. Trong đó, có những từ nghiêm chỉnh, cũng có từ lóng mà mấy tay ma cũ hay lấy nó để trêu mấy con ma mới tò te. Khi Huy mới vừa chân ướt chân ráo về tới nhà trung đội, chưa kịp khô mồ hôi, cả đám lính cũ đã nhao nhao bu lại. Người này nhìn anh như người ta nhìn một con gà giò trong lồng tre ngoài chợ, đánh giá xem nó có dễ bị toi không, có thể thành một con gà trống hiên ngang, đủ tài chăn dắt lãnh đạo cả bầy gà mái hay không. Người khác đưa tay nắn nắn bắp tay, bắp chân Huy rồi bĩu môi lắc đầu khi dễ. Tự ái Huy nổi lên đùng đùng. Dù gì, người ta cũng qua hết chín tháng quân trường, rèn ngày rèn đêm đến da đen cháy như than, thịt săn cứng như củi, chứ đâu là loại bở. Chỉ có cái Huy nhỏ con và hơi ốm thôi mà! Rồi một tay mặt mày bậm trợn, râu tóc bờm xờm, sau này mới biết là anh Chí nhà ta, vừa cười nhe trọn hai hàm răng ám đen khói thuốc lào, vừa ranh mảnh nháy mắt với Huy:
- Trung đoàn có cấp tiền "xốc lọ" cho mày chưa vậy?
- Tiền xốc lọ là tiền gì? - Huy thực sự ngơ ngác.
Tay bậm trợn giải thích một cách đáng ngờ:
- Ðó là một loại trợ cấp cho lính mới sang. Mai mày lên tài vụ trung đoàn hỏi đi nghe - Anh ta vờ vịt - Sao kỳ vậy cà! Lẽ ra họ phải cấp cho mày rồi mới đúng chứ!
Cả bọn cười ầm lên. Huy nhìn họ, hai mắt tròn xoe như một con nai vàng chính hiệu. Huy hỏi mãi nhưng chẳng ai chịu nói rõ ràng, chỉ hàm hồ ú ớ đó là một món tiền rất ư hấp dẫn, không lấy là uổng cả nửa cuộc đời! Mấy bữa sau, Danh mới chịu cười nắc nẻ giải thích cho Huy. (Xin độc giả thứ lỗi vì lời giải thích đưa ra đây có phần hơi bất tiện!) Chiều hôm đó hội ý, Huy lại thêm một phen ngạc nhiên khi Trường nhắc nhở:
- Các đồng chí nhớ giao ca cho đúng giờ giấc. Ðừng có ăn gian nhau dăm mười phút mà anh em xích mích...
Huy nhìn quanh một lượt, chẳng thấy ai có đồng hồ cả. Anh hỏi:
- Ở đây không có đồng hồ, làm sao biết giờ cho đúng?
Trường giải thích:
- Chúng ta sẽ nhìn sao để đoán giờ. Từ từ rồi Huy sẽ quen thôi. Ví dụ như chập tối là sáu giờ rưởi, thì sao Hôm mọc. Rồi ta sẽ xác định một điểm mốc so với ngôi sao, một ngọn cây chẳng hạn. Một tiếng đồng hồ, thì ngôi sao sẽ di chuyển so với vị trí lúc đầu khoảng một gang tay...
- Một gang tay?
- Tức là em sẽ duỗi thẳng tay ra, rồi xòe tay trước mắt để ướm khoảng cách đó.
- Ạ, ạ.... - Huy gật gù thú vị.
Lần khác, vài hôm sau đó, Huy cảm thấy trong người tự dưng lừ đừ khó chịu, buồn ngủ lạ lùng. Khi đó, đang ém quân chờ đến ngày tấn công, nên cũng không có công tác gì, Huy nằm ngủ li bì. Chí phèo vội đánh thức Huy, anh bảo:
- Mày không nên ngủ nhiều lúc ban ngày. Nếu thấy khó chịu thì kiếm chuyện làm cho đổ mồ hôi. Ngủ ngày nhiều trong rừng dễ bị sốt lắm đó...
Ðại loại những tri thức nhỏ nhoi, đơn giản như vậy làm Huy luôn cảm thấy bất ngờ và thích thú. Mỗi ngày Huy lại học được thêm vài điều mới lạ...
Vừa đi, vừa chuyện trò đùa cợt, chẳng mấy chốc họ đã về tới nơi đóng quân. Mọi người xách mấy cái bi đông ra tắm, chuẩn bị thân người sạch sẽ thoải mái để chào đón giao thừa. Nước này phải tải về từ một nơi khá xa. Do đó, họ tiết kiệm bằng cách tắm "một bi đông". Nghĩa là chỉ tắm trong phạm vi giới hạn bao nhiêu đó nước. Trước tiên, họ đặt sát cái bi đông lên đầu, dốc ngược, để cho nước chảy rỉ rả vừa đủ ướt toàn thân. Rồi kỳ cọ. Rồi lấy khăn lau. Rồi lại cho nước rỉ rả qua thêm lần cuối, trở mặt còn sạch của khăn lau lại. Nói cho đúng thì cũng chả khác gì nhúng nước chiếc khăn rồi lau người. Nhưng làm kiểu này khoái hơn và dễ chịu hơn. Sau đó, mọi người trở về tiểu đội ăn cơm tối. Ðêm đã bắt đầu buông xuống.
Huy bàn giao ca gác cho Vũ rồi quay trở về lều. Sao Cày đã ló ra sau ngọn cây dầu độc mộc, tức là khoảng chín giờ đêm. Trời lành lạnh, một thứ lạnh nao nao khó tả. Bầu trời đêm xanh đen thăm thẳm trên đầu chi chít những sao. Ðêm giao thừa xa nhà xa quê đầu tiên của Huy đang chầm chậm trôi qua, vô tình không biết nó đã mang về cho Huy biết bao suy nghĩ, biết bao cảm xúc vui buồn, nhớ thương lẫn lộn.
Lúc nãy ngồi một mình trong ụ gác, anh đã điểm lại trong đầu bao nhiêu hình ảnh...
Buổi chiều cuối cùng trước lúc đi xa, má Huy đã đứng lặng bên đường khi anh nhảy vội lên chiếc xe đò để quay về đơn vị. Khi xe lăn bánh, anh chồm người ngó ra, vừa kịp thấy người đang giơ tay lên quẹt vội dòng nước mắt. Má đã cố kềm nén tiếng nấc, kềm nén dòng lệ để anh khỏi phải nao lòng, nhưng rồi lúc ấy anh cũng đã nhận ra người buồn đau đến mức nào khi phải xa anh, không biết đến bao giờ...
Huy nhớ bé út với đôi mắt tròn xoe. Ngày anh đi nó vừa tròn bốn tuổi. Có một lần Tường Vân, cô lớp trưởng, tới nhà anh chơi, bắt gặp anh đang bế bé út đùa giỡn đã khen nức nở: "Trời, con bé có đôi mắt ngộ ghê! Sau này chắc làm khối anh chết mệt!..."
Huy nhớ con đường đến trường có mấy cây phượng đỏ nở hoa rất sớm. Những buổi chiều đi học về anh đã thả bước thật chậm để ngắm nhìn những cánh phượng đỏ liêu xiêu rơi xuống... Rồi những lần anh và bọn bạn trốn học sang La-san Mai thôn, Thanh Ða để tắm sông. Tụi anh lội qua phía bờ bên kia, nơi có một cái cù lao nhỏ giữa dòng mọc toàn những cây dừa nước để bắt còng. Hồi đó, tụi anh hay uống cà phê buổi tối. Thằng Hà xách túi còng bắt được về nhà nó rang, rồi mang ra quán, tụi anh vừa tán dóc, vừa nhâm nhi còng rang với nước trà...
Huy nhớ những đêm giao thừa, khi bầu trời khuya trở nên xanh nhạt, và những vì sao xa tít tắp hẳn đi, lư hương trên bàn thờ tổ tiên được đốt lên, mùi trầm hương ngan ngát. Má anh sẽ bày thêm một mâm trái cây để mang ra cúng trời đất trước hiên nhà. Nồi bánh tét kê ở góc sân cũng bắt đầu reo lên vui vẻ, báo tin bánh đã sắp chín mềm. Aùnh lửa bếp sáng bập bùng, soi lên mặt đất những bóng người to đen sẫm đang cử động lao xao. Bọn trẻ con tụ tập ngồi quanh dây pháo đỏ, khe khẽ tán chuyện, hồi hộp chờ tới lúc những chùm pháo nỗ tạch đùng, văng tung toé. Trong đêm mênh mang, một cái gì ấm áp, linh thiêng đang lan tỏa. Nó bay đến, ghé qua khắp mọi ngôi nhà, nối một sợi chỉ mong manh vô hình nhưng bền chặt giữa mọi tâm hồn lại với nhau. Có phải người ta gọi đó là hồn thiêng đất nước?...
Những hình ảnh cứ lần lượt theo dòng liên tưởng ập về, xâm chiếm toàn bộ trí não của Huy, dẫn anh về với những ngày qua, dù Huy vẫn mở mắt trừng trừng nhìn ra cánh trảng trước mặt.
Huy chui vào lều, mở ba lô lấy cuốn sổ nhật ký, định ghi vội vài dòng ý tưởng còn đọng lại sau ca gác. Nhưng rồi không biết nghĩ sao, anh lại cất nó vào. Anh bước ra, đi về phía nhà trung đội.
Khắp các đơn vị, lửa đã đốt lên từ khi chập tối. Những đốm lửa trại cháy chập chờn hắt sáng cả một góc rừng. Tiếng ca hát, la lối, reo hò, tiếng gõ đập vào can nước, vào xoong nồi đánh nhịp theo lời hát văng vẳng khi xa khi gần theo hướng gió. Cả trung đội đang ngồi vây quanh đống lửa, trừ những người trực gác. Trường đang cầm cái can rượu đã vơi phân nửa rót vào bát, chợt ngước lên trông thấy Huy. Anh kêu lên:
- A, vào ngồi đi đồng chí tân A phó A3. Mày đến sau, phải làm luôn ba bát đấy.
Huy len vào ngồi xuống giữa Phước và Chí Phèo. Anh đưa tay đỡ lấy bát rượu, mỉm cười nhìn quanh khắp mọi người, nói to:
- Xin mấy anh thông cảm, tôi chưa từng uống rượu bao giờ. Nhưng cũng xin uống cạn một chén này chung vui với các anh.
Nói đoạn, Huy ngửa cổ từ từ trút bát rượu vào miệng. Hơi rượu cay nồng bốc lên mũi làm anh muốn sặc. Hôm qua, anh đã nghe mấy tay bợm nói, khi uống phải nín thở làm một hơi mới không bị sặc, nên đã chuẩn bị tinh thần làm theo thật đúng. Vậy mà suýt chút nữa cũng không tránh khỏi. Tuy nhiên, Huy cũng đã uống hết bát rượu thật ngọt. Xong, anh giao trả cái bát lại cho Trường, chủ xị. Anh nhăn mặt, cảm nhận một luồng hơi nóng đang lan tỏa rừng rực từ bụng ngược trở lên cổ, da thịt chợt nóng ran lên đến muốn toát mồ hôi, dù khí trời khá lạnh. Hòa, A trưởng A3, đang ôm đàn hát những câu do một người lính nào đó của trung đoàn cải biên từ bài Mùa xuân lá khô:
"Tôi trở lại vùng Sầm Bua, vùng xa xôi đóng gần núi Cườm. Sau những ngày lo xây dựng, có những đêm đi phục chốt, tôi lại đi chiến dịch K.5. Ngồi xe ra đến Xi phôn, an dưỡng ba ngày ăn nhậu thật là vui. Trong lúc say, ai có đâu ngờ, quê hương từng giờ mẹ mong chờ tin con..."
Huy đưa mắt nhìn quanh. Dưới ánh lửa chập chờn khi mờ khi tỏ, gương mặt ai cũng có một vẻ buồn buồn sâu kín, dù là đang cười nói xôn xao hay ngồi im lặng lẽ. Hòa đã hát xong bài hát. Toàn bộ im lắng trong giây lát. Chỉ còn nghe tiếng lửa reo, tiếng nổ tí tách của những chỗ thân gỗ bị ẩm mục. Những lời hát này thật đơn sơ mộc mạc, nhưng nó như thuật lại cho bọn anh nghe về thời gian vừa mới trôi qua, về cuộc sống, tình cảm, nghĩ suy chân thật của những tháng ngày này.
Những người lính Việt Nam đang ngồi đây, hay đang ngồi trong một khu trại nằm bên một cánh rừng, bên một bờ sông, con suối, trên một sườn núi, đỉnh đồi chon von heo hút nào đó, trên khắp đất nước Campuchia này, hầu hết đều còn rất trẻ. Những gương mặt xạm đen nắng gió vẫn còn lưu lại chút nét gì đó trẻ con thơ dại trên nét cong vành môi tinh nghịch, lại cũng vừa già giặn ưu tư trong những cặp mắt long lanh. Có người tuổi quân chưa tròn một năm, ngay trước lúc khoác chiếc áo xanh vẫn còn nghịch ngợm giành quà bánh với em mình, vẫn còn vô tư hò reo trong một cuộc đá dế, đá cá lia thia. Vậy mà, trong trận chiến vừa qua, đã có một số người nằm xuống, mãi mãi ra đi; đã có những người khi ngã xuống vẫn còn mở mắt trừng trừng kinh ngạc, như không tin mình lại có thể chết vào lúc tuổi còn xanh, mộng còn đầy, còn chưa biết thế nào là nụ hôn lên má một người con gái.
Hòa quay qua Huy:
- Huy này, mày hát một bài đi. Ở đây ai cũng đã hát rồi.
- Anh đưa cây đàn cho em. - Huy đáp.
Huy ôm cây đàn ghi ta cũ, lớp ván phần lưng thùng đàn đã bị bong ra, còn phía trước thì nứt nẻ loang lổ, anh gảy khẽ vài nốt rồi ngước lên:
- Tôi xin hát một bài hát của Trần Tiến để tưởng niệm tới những đồng đội đã hy sinh của chúng ta.
Trường chuyền bát rượu sang bảo Huy:
- Làm thêm một chén cho có hứng.
Huy uống cạn bát rượu rồi cất tiếng hát. Men rượu ngây ngất, không khí nồng ấm gắn bó thương yêu và những niềm riêng canh cánh, thoáng chốc cùng trộn lẫn vào nhau bay lên thành tiếng hát. Huy thấy lòng mình cũng tan loãng ra trong những ý tình câu nhạc gần gũi và chân thật.
Bài hát kể về tâm tình của một người lính nào đó; mà cũng là của thật nhiều người lính; trước cái chết của đồng đội thân thương. Bài hát kể về nụ hôn đầu đời của một chàng lính trẻ. Nụ hôn đó không dành cho một cô gái dịu dàng xinh đẹp. Nó không đặt lên bờ môi trinh nữ ngọt thơm như cỏ non, như hoa sứ hoa quỳnh. Nó đặt lên trên đôi mắt khép hờ còn đầy tiếc nuối ngỡ ngàng của một người bạn vừa ngã xuống. Nụ hôn đầu của người lính không dành cho tình yêu đôi lứa; Nụ hôn đầu của người lính dành cho tình đồng đội. Và người lính hát khúc tình ca bằng những "lời lửa cháy". Ðây không là lời tình hát tặng em đâu, người yêu nhỏ. Ðây là khúc hành ca tôi dành tặng bạn tôi. Dành ru bạn tôi giấc ngủ cuối cùng... và mãi mãi...
Trong khoảnh khắc này của đêm giao thừa, bài hát nghe ra có một cái gì thật là kỳ dị. Nó không thích hợp chút nào với những giây phút cuối cùng của năm - lúc mà theo lẽ thường mọi người đang náo nức xôn xao, với những hy vọng, niềm tin vào một năm mới nhiều may mắn, với những dự tính ước mơ, những kế hoạch đầy triển vọng. Nhưng nó thật sự gây xúc động. Những người lính của đại đội tải này khi nghe bài hát, thấy nó như nói về chính bản thân mình. Và đôi mắt họ long lanh trong ánh lửa. Có phải là nước mắt? Hay chỉ là do một hạt bụi vô tình theo gió bay vào làm khóe mắt xốn xang?...
Huy đã hát tới khúc cuối của bài hát.... "Hãy hát lời lửa cháy bằng trái tim tình yêu. Hãy hát lời tình yêu bằng trái tim lửa cháy. Hãy hát lời lửa cháy bằng trái tim yêu thương. Hãy hát lời yêu thương bằng lửa cháy trong ta..." Lòng Huy cũng đang bừng bừng bốc cháy. Ngọn lửa thương yêu, tiếc nuối và đau đớn sôi lên thiêu đốt trái tim anh.
Sau đó, tới lượt Minh, lính cuối 84, người Thành phố. Anh ôm đàn la lên:
- Thôi, không hát mấy bài buồn nữa nghe, muốn đứt gan đứt ruột rồi. Nhảy đi các bạn! Soul nghe! Giật soul dễ ẹt, cứ tán loạn lên là được.
Tiếng đàn vang lên thôi thúc, tưng bừng. Một vài tay bước ra giữa vòng tròn khơi mào cuộc nhảy múa. Những bước chân quay cuồng bên ánh lửa bập bùng. Rồi cả bọn đều đứng lên vào cuộc. Có người ôm theo cái can hoặc cái xoong vừa nhảy vừa gõ đập. Ðêm rung lên trong những âm thanh khuấy động. Trên bầu trời mênh mông thăm thẳm, những vì sao lóng lánh xa xăm dường như cũng đang nối nhau trong một khúc luân vũ yểu điệu nhịp nhàng.
Ðêm đã rất sâu. Có lẽ chỉ còn dăm chục phút nữa là tới thời điểm giao thừa. Trường hí húi lắp lại pin vào chiếc máy thu thanh nhỏ xíu hiệu National của anh. Chiếc máy chỉ được nghe mỗi ngày một tiếng, ở những giờ có chương trình ngâm thơ và kể chuyện đêm khuya. Bầu không khí cũng trầm lắng xuống không biết tự lúc nào. Toàn bộ doanh trại khối Trung đoàn bộ lặng im. Mọi người chỉ trò chuyện, tâm sự với nhau một cách khẽ khàng như không dám làm rạn vỡ những giây phút thiêng liêng. Huy ngồi bó gối, gục đầu xuống, cảm thấy thân thể anh đang xoay tròn, rơi rơi mãi xuống một vực sâu mà không tới đáy. Anh đã uống khá nhiều rượu nặng, đã nôn mửa mấy lần từ khi nãy cho tới khi chỉ còn nôn ra được một chút chất lỏng lầy nhầy, đắng nghét. Chí Phèo lay lay vai Huy:
- Huy, Huy, mày cố uống tí nước trà cho giã rượu nè.
Huy lúc lắc đầu, rồi ngã vật ra, nằm co người lại. Anh vẫn nghe thấy những tiếng nói lao xao, văng vẳng, nhưng chân tay thì rã rời, mềm như bún. Anh nằm mơ màng, nửa tỉnh nửa mê như vậy không biết bao lâu. Bỗng anh nghe một tràng AK chát chúa. Rồi một tràng nữa. Rồi tiếng súng, tiếng cối pháo nỗ rền rền khắp mọi nơi. Huy mở mắt ra, cố gượng chống tay ngồi dậy. Trên trời, màn đêm mênh mông bị rạch nát bởi những đường vạch đỏ rực đan chéo vào nhau như những cánh sao. Khói súng tỏa mù như sương và hăng nồng trùm lên bầu không khí. Ở góc chân trời, đạn cầu vồng phát hỏa bùng lên thành những cụm sáng đủ màu, những giải sáng vàng chanh pha đỏ, những giải màu cam tươi, xanh lá thẫm chuyển sang lam, và phía ngoài cùng là màu tím ngát chìm hẳn vào màn đêm thẳm. Âm thanh, sắc màu như cùng cất tiếng hát và đang nhảy múa. Ðêm đẹp rực rỡ. Một cái đẹp hoang sơ man dại. Những tràng pháo hoa đón giao thừa Xuân 1985 đã òa vỡ, vang lên ở một góc rừng tây bắc Campuchia như vậy đó.
Chú thích:
1. Cách gọi hình tượng của lính chỉ loại chén quân dụng to bằng sắt.
2. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi: "...tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào."
Chương 3
(Trích nhật ký)
Ngày... tháng... 1984
Ngày cuối cùng của năm đầu đời trong quân đội...Một cánh rừng lúc chiều hôm. Rừng chiều không đẹp, không êm đềm như trong nhạc. Nó ẩn dấu một cái gì khó hiểu, đè nặng lên tâm tư người lính.
Tiếng lá khô rơi chạm vào nhau tí tách, rất khẽ. Tiếng súng AK vu vơ...
Ngày... tháng..1985
Hôm nay lẽ ra là ngày mở đầu chiến dịch đánh bứt cứ điểm A. Nhưng kế hoạch phải tạm đình chỉ vì cái chết của vị lãnh đạo nhà nước Campuchia. Sư đoàn tung toàn bộ lực lượng, cộng thêm một trung đoàn quân đội Campuchia phối thuộc. Trung đoàn của mình là trung đoàn chủ công, đánh trực diện vào căn cứ.
Cuộc đời chiến sĩ của tôi sẽ trưởng thành từ những ngày này. Một trận lớn cấp sư, trong toàn bộ chiến dịch tổng tấn công của toàn mặt trận. Một trận mà có lẽ không phải ai cũng có dịp may tham dự.
Hôm nay, trên toàn thế giới người ta xé tờ đầu tiên của quyển lịch mới. Và ở thành phố quê nhà, giờ này mọi người đang vui tươi hớn hở...
Mẹ tôi giờ này có lẽ đang vừa làm một việc gì đó, vừa nheo đôi mắt u buồn nhớ tới đứa con xa...Và có lẽ, đôi khi giữa đêm khuya chợt thức, người lại khóc âm thầm... Má ơi! Con đã làm được gì cho má vui đâu, chỉ toàn những lo buồn. Biết đến bao giờ con làm được điều con mong cho má - Má ngồi giữa đàn cháu dễ thương, kháu khỉnh kể chuyện ngày xưa, những chuyện ma quỷ, thần tiên mà ngày thơ ấu má đã đưa con vào giấc ngủ êm đềm, má cười không lo âu vì miếng cơm, manh áo, nợ nần giăng mắc...
Ngày tháng năm 1985
Một bài thơ viết vội: Xuân này nhớ ai
Mùa xuân đến bao giờ tôi chẳng biết
Gió quê hương không đến tận phương này
Tôi chờ mãi trong niềm đau không dứt
Một mai này chinh chiến sẽ tàn phai
Xuân về hay chưa, tôi vẫn ngờ không thật
Giữa rừng già không én báo tin vui
Không có những cành hoa tươi khoe sắc
Làm sao tôi quên thực trạng quanh người
Giữa rừng chỉ có chúng tôi
Những người đi giữ đất trời quê hương
Bạc rồi những tấm áo xanh
Mà chưa thấy lại mùa xuân quê mình
Nghĩ gì những lúc thâu canh
Sương rơi ướt lạnh một vầng trăng xa
Sao đêm thắp lửa mong chờ
Bâng khuâng người lính xa nhà nhớ thương
Nhớ mẹ hiền tóc bạc với thời gian
Chắc mẹ vẫn chiều chiều ra ngõ đứng
Dõi mắt phương xa mong chờ, trông ngóng
Một dáng hình, một tiếng nói thân thương
Ạ à ơi...
‘ Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau'
Con đi chinh chiến dài lâu
Mẹ ơi! Ðừng khóc những chiều nhớ con
Mẹ ơi! Ðừng thức thâu canh
Trở trăn vì bước quân hành của con
Con đi xuôi ngược hành quân
Mang theo lòng mẹ, niềm tin trọn đời.
Mẹ ơi, nếu có một ngày
Chợt nghe tin dữ con trai không còn
Mẹ đừng nước mắt trào tuôn
Con yêu mẹ đã làm tròn ước mơ
Mẹ đừng thắp nến, chưng hoa
Chỉ thêm buồn nhớ, xót xa nghẹn ngào...
Giờ con nhớ mẹ biết bao
Giờ thương hơn hẳn lúc nào, mẹ ơi!...
Mùa xuân về mọi nơi
Nhưng ở đây mùa xuân không có mặt
Cả bầu trời và mặt đất
Ðều khô cằn, ảm đạm, hoang vu...
Ở đây, những người lính nhớ
Thành phố quê nhà những ngày cuối năm
Có chợ tết, chợ hoa xôn xao, lộng lẫy, tưng bừng
Những màu áo, mái tóc dài tha thướt
Những tiếng nói, giọng cười trong vắt
Thân quen vô cùng, mà xa quá là xa...
Những con đường lá đổ ngày xưa
Và những cơn mưa đi về bất chợt
Màu áo học trò ngây thơ, dịu mát
Suối tóc ai dài chảy suốt mùa Ngâu..
Và đôi khi... giữa đêm lắng sâu
Niềm tiếc nuối thời ấu thơ ray rứt
Con nhện giăng tơ trên cành trước mặt
Tò vò nào cứ vỗ cánh chờ mong...
Bạn bè ơi! Một mái trường
Bao nhiêu kỷ niệm âm thầm chết đi
Bao nhiêu người hãy còn ghi
Tình yêu, lý tưởng vun từ ngày xưa
Ai còn cháy bỏng ước mơ
Và ai đã chịu đẩy đưa dòng đời...
Bâng khuâng người lính đêm dài
Từng khuôn mặt cũ quay về... mông lung...
Ngày tháng năm 1985
Hôm nay là thứ mấy, ngày mấy? Ý niệm về thời gian chỉ còn là buổi sáng, buổi chiều, là ngày và đêm nối tiếp trôi đi, vô tận.
Tôi buồn vì sao? Tôi không thể tìm ra câu trả lời đích xác. Nhớ ư? Phải! Ðôi khi một vật thể nào đó lại gợi cho tôi những liên tưởng về bè bạn, gia đình, và hàng đêm trằn trọc thao thức nhìn qua nóc màn lên bầu trời lung linh vạn ánh sao, trong tiếng lá khô rơi xào xạc, tiếng cây vặn mình trong cơn gió rừng lạnh lẽo đêm khuya, tôi nghe tiếng nức nở âm thầm của lòng mình. Tương lai là một khoảng mơ hồ mù mịt. Hiện tại thì thật đau đớn xé lòng...
Anh hùng là ai? Chỉ có những người lính bình thường, vô danh kia mới là những anh hùng. Tay họ cầm vũ khí, da thịt họ hứng chịu đau thương và máu họ đổ tuôn. Họ đến với cuộc đời, sống, ước mơ, yêu đương...để rồi ra đi trong phút chốc. Họ không nghĩ đến những chuyện cao xa. Ước mơ, khát khao của họ thật giản dị, bình thường. Ðây mới chính là những con người thật sự. Tôi làm sao tìm thấy một con người chỉ tồn tại trong trí tưởng của mình - Một con người vô hình, không thật, xây đắp bằng bao nhiêu mảnh vụn của sách vở, từ chương. Bây giờ tôi đã nhận ra điều đó. Muộn hay chưa, tôi khó mà kết luận.
Phải chăng sinh ra là để chịu đựng những khổ đau, xây những ước mơ, hưởng những hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn, để rồi chết? Ý nghĩa của cuộc sống thật là mông lung, siêu hình.
Ampil! Cái địa danh này sẽ ghi mãi trong tâm khảm của tôi, với những gì tôi đã nhận thức được về cái ranh giới mong manh giữa hai chiều tư tưởng.
Chỉ còn vài ngày nữa là Tết rồi. Thật là mơ hồ!...
Ngày.... tháng... năm 1985
Tết giữa rừng
Bây giờ, tôi viết những dòng chữ ứa ra từ tấm lòng bồi hồi khôn tả về những ngày tôi đang sống, dưới ánh đèn dầu tù mù leo lét cháy. Viết để làm gì? Tôi đã không còn thiết tha đến việc cầm bút nữa, nhưng sao giờ đây một nỗi niềm nào đó cứ thiêu đốt tim tôi...Máu dường như nghẽn lại trong từng huyết mạch...
Không gian bao la đen thẳm phủ quanh người tôi như một tấm màn dày đặc, khổng lồ, với những lỗ thủng li ti, xa xăm - những vì sao. Ðêm như quánh lại... Xa xa, những đống lửa của các đơn vị cháy thành từng đóm, chập chờn, chập chờn. Tiếng hát, tiếng la hét, tiếng trống gõ vào can nước cũng chao chao, khi xa khi gần theo hướng gió...Ôi! Cái Tết của những người lính trẻ xa nhà giữa rừng đêm quạnh vắng.
Ðêm qua, đêm giao thừa, tôi đã không còn tỉnh táo để chờ đón phút giây thiêng. Những người lính cũ, đi trước tôi, hình như cũng rất buồn. Họ che lấp nỗi buồn bằng cách cười nghiêng ngả, nhảy múa, hò hét và ca hát. Chén rượu cay nồng tình nghĩa đồng đội chuyền tay... Trời ơi! Tôi say mèm trước tất cả mọi người...Các anh ơi, hãy thông cảm cho tôi!... Má ơi! Hãy tha thứ cho con...Rượu làm con say, nhưng chính nỗi buồn sâu thẳm đã quật con ngã gục trước khi con cùng đồng đội, đồng bào hưởng phút giây giao tiếp ấy.
Ngày kia, tôi lại hành quân vào trận đánh mới. Trong số những gương mặt trẻ trung, nhưng đã sớm cằn cỗi quanh tôi, ai sẽ còn, và ai sẽ mãi mãi ra đi? Cười sằng sặc, ca hát và nhảy múa... vui đi để rồi có thể sẽ không bao giờ vui được nữa...Những bà mẹ và những người tình có biết giờ này người thân của mình đang chuẩn bị để ra đi, trở về hoặc vĩnh viễn - Với một niềm tin yêu tha thiết và quyết tâm chiến thắng. Máu sẽ đổ, thịt sẽ tan, nhưng không bao giờ người lính Việt nam chùng bước! Các mẹ ơi, các chị ơi, hãy nguyện cầu cho người con, người yêu lời nguyện trọn lành!...
Con thương nhớ má thật nhiều, thật nhiều... Má yêu dấu ngàn đời!...Không biết mai này con còn có ngày về với má hay không? Nhưng con sẽ không bao giờ là một người lính yếu hèn. Má ơi, hãy hiểu cho con!...
Ngọn đèn gần hết dầu đang lụi dần. Nhưng ngày mai trời lại sáng...
Huy vừa đọc lướt lại những gì đã ghi vào nhật ký trong mấy ngày qua. Anh gấp quyển sổ lại, nhìn ra hướng trảng cỏ trống ngoài kia. Gió vẫn thổi hun hút từng cơn, làm ngọn lửa phát ra từ chiếc đèn dầu đốt bằng mỡ lon thịt hộp chập chờn muốn tắt. Huy với cái ba lô kề bên, nhét cuốn sổ vào và thổi tắt ngọn đèn. Anh bước ra khỏi chiếc lều dã chiến thấp lè tè, đi tới chiếc võng đã giăng sẵn từ lúc nãy, vén mùng chui vào. Mấy hôm nay, anh mang võng mắc giữa hai cây dầu nhỏ trước lều để ngủ ngoài trời.
Huy thích được nằm nhìn lơ mơ qua chiếc mùng vải mỏng lên bầu trời đêm thăm thẳm. Từ thuở còn bé tí, anh đã yêu mến bầu trời đêm và những vì sao xa xăm trên đó. Truyện Hoàng tử bé của Saint Éxupéry, truyện Những vì sao của Alphonse Daudet mà Huy tình cờ đọc được sau này càng làm anh yêu mến chúng hơn. Ngàn sao là giấc mơ kỳ diệu, làm tâm hồn thơ trẻ của anh thấm đẫm bao tưởng tượng, bao ước vọng đẹp đẽ hướng tới cõi trời cao rộng, thánh linh. Bây giờ, tuổi thơ đã trôi qua, những hình ảnh ngây thơ, trong sáng ấy cũng mất đi phần nào huyền diệu. Ðêm sao bây giờ với anh chỉ là một bầu trời vật chất, với những thiên thể vật chất, những hành tinh lạnh lẽo, vô hồn. Ngàn sao lấp lánh kia không còn là những sinh vật sống động, đầy cảm tính, y hệt như những con người. Không còn nữa những vì sao của tuổi thơ! Tuy vậy, trời đêm và sao sáng vẫn làm dịu đi những nỗi buồn phiền, những niềm thương nhớ.
Huy vòng hai cánh tay ra sau đầu, thầm đếm những vì sao rải rác phía trên ngọn cây dầu độc mộc giữa trảng. Một, hai, ba....một trăm lẻ một, một trăm lẻ hai... Chợt nhiên, một vì sao - vì sao thứ một trăm lẻ bốn - ngày càng to lên, to lên...Rồi nó chợt nhoẻn miệng cười với Huy thật dịu dàng. Nó mở đôi mắt đầy âu yếm nhìn Huy. Không phải là vì sao, mà là má! Má đang mỉm cười lặng lẽ. Mái tóc của má trôi dài, bay bay giữa trời đêm thênh thang vằng vặc, lóng lánh triệu triệu những tinh cầu bé xíu, li ti...
Từ sau Mồng Mười Tết, mưa liên tiếp mấy hôm liền. Trời thấp, xám màu chì và nặng trĩu. Trong toàn đơn vị, không khí im lìm, vắng lặng hẳn đi. Mọi người chỉ bước ra ngoài khi có việc cần. Họ chui rúc trong lều đánh tiến lên, hay nằm bên nhau tâm sự.
Huy ngồi co ro, vừa nghĩ ngợi lan man, vừa lơ mơ nghe tiếng Phước và Danh trò chuyện lẫn vào tiếng mưa rào rào vỗ trên mái lá. Danh đang kể một câu chuyện gì đó về miền Mộc Hóa, Long An, quê hương của anh, Huy nghe loáng thoáng những tình tiết về con vện, con vàng... mấy con chó săn tinh khôn mà Danh rất cưng hồi còn ở nhà.
Trong tiểu đội, Danh là một trong những lính mới được nể nang nhất. Anh đi hành quân mang vác, đào công sự chiến đấu thật dẻo dai, không thua gì cánh lính cũ. Thoạt nhìn, Danh không có vẻ gì là một người mạnh khỏe, anh cao lòng khòng, ốm nhách. So với Minh, Hùng, cũng lính cuối 84, dân Thành phố, Danh ốm yếu hơn nhiều.
Theo lời Danh kể, từ nhỏ anh đã làm việc nặng nhọc, vất vả mà ăn uống thì lại quá thiếu thốn, kham khổ.
Hôm đánh lên Ampil vừa rồi, không có Danh, thì Huy chắc phải xỉu đi vì quá mệt. Hồi ở Quang Trung, bọn Huy cũng thường đi hành quân dã ngoại, cũng mang vác nặng. Nhưng so với hành quân thật sự thì thật khác nhau một trời một vực.
Ở trường, hành quân tà tà như đi dạo. Mệt thì nghỉ. Chỉ huy đại đội lúc đầu có vẻ nghiêm khắc nhưng về sau rất dễ, nên bọn Huy được thể cứ làm nũng như con nít. Thật sự, lúc đó cũng không có gì nặng mấy, chỉ là các bộ phận tách rời của khẩu 12 ly. Còn vừa rồi, lần đầu tiên Huy đi một mạch năm sáu cây số mới được nghỉ giải lao. Sau lưng là chiếc ba lô, ngoài quần áo, tư trang là một thùng đạn K.56 và mớ liều phóng, ngòi nổ cối 82; một can vàng bốn lít nước cột lủng lẳng dưới nắp ba lô; trên vai là một gánh sáu quả cối 82, chiếc ruột tượng bảy ngày gạo; cộng thêm khẩu AK quàng qua vai và chiếc bao se ba băng đạn, một bình toong nước xệ xệ bên hông. Trung bình, mỗi người lính mang trên người khoảng ba mươi ký.
Ði được khoảng ba cây số, đầu Huy đã lùng bùng. Ðôi chân Huy phồng dộp lên từ lúc nãy, giờ những chỗ đó tróc da, cọ xát vào giầy làm anh đau điếng. Nhất là vì nền cát, mùa khô co cứng lại như bê tông, cứ dội ngược lại dưới gót giày sau mỗi bước nặng nề. Huy nhìn người phía trước, Minh cũng không khá gì hơn anh, đang xuýt xoa rên rỉ. Tuy vậy, Huy cũng cố đi được cho đến chỗ giải lao đầu tiên. Huy ngồi bệt xuống, ngã người ra, lưng dựa vào chiếc ba lô. Anh nhắm mắt lại một lúc, rồi lại mở ra. Cổ họng Huy khô rát vì cơn khát. Anh run run mở nắp bi đông. Những ngụm nước mát lạnh đi vì không khí ban đêm. Không còn là những ngụm nước bình thường nữa: nước lã giờ như trở thành dưỡng chất, thành rượu quỳnh ngon ngọt khác thường. Trong những lúc như thế này, Huy nhận ra nhu cầu của con người đến lúc thiết yếu nhất, khi chịu sự thiếu thốn tột cùng nhất, khi gần kề cái chết nhất, chỉ là rất ít oi: không khí để thở; nước để uống; và cái gì đó để ăn. Rồi tình yêu cuộc sống lại quay về, và ta lại có thể bình an nghĩ ngợi, ước mơ. Vâng, chỉ bấy nhiêu đủ để ta thấy trong ta cuộc sống tràn đầy, rạo rực...
Huy uống rất chậm và dè sẻn. Chí Phèo đã dặn trước với anh khi hành quân không được uống nhiều nước, càng ít thì càng tốt, vì uống nhiều, mồ hôi toát ra quá mức sẽ làm kiệt sức rất nhanh. Mặt khác, giữ cho lúc nào bình toong cũng còn nước là điều cốt tử ở vùng đất khô cằn này.
Ðến lúc tiếp tục hành quân, anh chỉ đi được vài bước đã thấy choáng váng, hai bàn chân đã nguôi đau, giờ lại càng hành hạ anh tệ hại hơn lúc trước. Huy bước ngày càng có vẻ chập choạng. Danh đi phía sau vội nói nhỏ:
- Anh đưa cho tui vác phụ gánh cối một lúc cho.
Huy ngần ngừ, rồi lắc đầu. Danh cũng đâu có nhẹ gì hơn anh. Là chiến sĩ, Danh không mang AK, nhưng trong ba lô anh là hai thùng đạn, liều ngòi cối, và trên vai là tám, chứ không phải sáu quả cối như Huy. Huy cố bước thêm một lúc thì quị xuống. Danh giằng lấy gánh cối:
- Tui còn khỏe, cứ để tui vác một lúc. Anh đỡ mệt là tui giao lại liền.
Lần này, Huy không còn đủ sức và ý chí để từ chối sự giúp đỡ chân thành của Danh. Thế là Danh nghiêng vai còn lại gánh luôn gánh của Huy. Quả thật, không có gánh cối, anh cảm thấy nhẹ hẳn đi, khỏe lại. Ðược một quảng, Huy ngoái lại. Danh vẫn bước bình thường, nhưng hơi thở đã nghe nặng nề. Mình nhẹ được một phần, thì Danh lại càng nặng thêm gấp hai ba nữa - Huy nghĩ. Anh bỗng thấy một sức mạnh không biết từ đâu đến, đánh tan hẳn những nhọc mệt và cơn nhức nhối ở hai chân. Anh giơ tay đón lấy gánh cối:
- Cám ơn Danh, mình đã khỏe rồi.
Và từ đó, Huy thật sự quên đi những khổ sở, nhọc nhằn. Anh nghĩ về những kỷ niệm vui, những hình ảnh thân thương êm ái, rồi thầm cười khẽ một mình. Cuộc hành quân đêm trôi đi một cách nhẹ nhàng, không còn là cơn ác mộng dài khủng khiếp như lúc nãy với anh...
Buổi chiều cuối cùng trước khi trận địa dứt hẳn tiếng súng, Huy cùng một nhóm ba người khác cáng thương từ tuyến trước về trại cấp cứu dã chiến của K.23. Nắng ong ong chiếu xuống làm anh mệt rũ cả người. Cả nhóm đã liên tục lên xuống suốt hai ngày qua, lên tải đạn, về tải thương như con thoi không ngừng nghỉ. Chuyến cuối cùng họ cáng một liệt sĩ của D.2 đã hy sinh từ buổi tối qua, nhưng để tại chỗ để ưu tiên cáng các thương binh trước. Cố gắng về đến một chỗ còn cách K.23 khoảng nửa cây, sau khi giao lại cáng cho hai người khác, Huy thấy đầu bưng bưng nhức nhối, hai mắt hoa lên. Anh bảo Danh:
- Danh đi trước đi, mình ngồi nghỉ một lát đã.
Danh gật đầu, lo âu nhìn Huy:
- Ừ, anh về sau, tui lên đi chung với hai thằng nó để có gì tiếp tay. Tụi nó cũng phờ phạc lắm rồi.
Huy gieo người xuống, nửa nằm nửa ngồi, một tay tì lên mặt đất. Anh tháo cái bi đông nước bên hông, đưa lên đôi môi khô rộp. Chỉ còn không đầy một nắp bi đông đọng dưới đáy. Huy nốc cạn, thấy cơn khát vẫn chẳng bớt tí nào. Anh mệt nhọc nhắm nghiền đôi mắt lại. Rồi vài giây sau, không gượng được, anh nằm lăn ra nền cát, kế bên một bụi le cằn cọc, mặc cho những con ong ruồi nhỏ xíu bu bám vào mặt mũi, mặc cho ánh nắng xiên khoai chói chang đổ xuống. Khi Huy mở mắt ra, trời đã bắt đầu xế bóng. Anh gượng dậy, tìm đường tắt đi về.
Về đến trại, Huy chui vào lều nằm bất động. Anh mê man cho đến trưa hôm sau. Nghe tiếng gọi dậy ăn cơm của Phước nhưng Huy vẫn thấy người rã rời, không biết đói. Phước vào lay lay Huy:
- Nè, gắng dậy ăn một chén cho khỏe. Mệt mà nằm hoài là bị sốt luôn đó.
Huy lắc đầu, nhắm nghiền mắt, yếu ớt nói:
- Mình không đói. Cứ mặc mình.
Một lúc sau, Danh cầm chén cháo bốc khói chui vào. Anh đỡ Huy ngồi dậy.
- Tui lấy cơm nấu lại thành cháo cho anh dễ húp. Ráng đi.
Huy nhìn Danh xúc động. Anh cố húp hết bát cháo dù miệng lưỡi đều thấy đắng nghét, không muốn ăn uống gì. Danh lại bưng chén nước nóng vào, tay kia cầm hai viên thuốc giục Huy uống. Sau khi ăn cháo, uống thuốc, nằm nghỉ khoảng hai tiếng, Huy thức giấc và thấy người khỏe hẳn. Anh đã có thể ngồi dậy, đi lại được, dù còn hơi run rẩy...
Danh chợt quay sang Huy cất tiếng hỏi:
- Anh còn giấy không cho tui xin một tờ. Viết thư cho con nhỏ bồ.
Huy gật đầu:
- Còn, chờ chút mình lấy liền đây.
Hôm vừa mới sang, Huy mang theo sổ sách lỉnh kỉnh rất nhiều. Ba cuốn sổ, trong đó có một cuốn đang ghi dở, mấy cuốn tập học trò ghi bài giảng hồi học ở H.15, mấy cuốn sách Anh văn, và vài cuốn truyện. Xui một cái là từ bên nước qua, Huy bị đưa thẳng vào rừng, nơi đang tạm đóng quân chuẩn bị vào chiến dịch. Anh không được ghé hậu cứ, nên bao nhiêu hành lý, tư trang đều dồn hết vào ba lô, cõng hết suốt một mùa chiến dịch. Lúc nghỉ giải lao trong cuộc hành quân đầu tiên, anh đã vứt bỏ hết mấy cuốn vở ghi bài, sách Anh văn và truyện. Giờ nghĩ lại, Huy tiếc quá chừng. Huy rứt mấy tờ đôi đưa cho Danh, cười cười:
- Nè, mai mốt về làm đám cưới nhớ đánh điện tín mời tui xuống dự với nghe ông.
- Yên chí đi!
Phía ngoài lều có tiếng chân bước bì bõm trên mặt đất ngập nước mưa, tiếng sột soạt của tấm nylon, rồi Minh ló đầu vào:
- Huy ơi, anh Thái kêu anh lên đại đội. Mang theo toàn bộ ba lô, tư trang để nhận nhiệm vụ mới.
Huy không ngạc nhiên, anh đã biết không sớm thì muộn anh phải chuyển về đơn vị mới. Hồi mới sang, vì đang chuẩn bị đánh một trận quá căng, nên người ta không đưa anh về ngay đơn vị trực tiếp chiến đấu, mà tạm đưa vào đại đội tải của trung đoàn. Bây giờ là thời gian cho các đơn vị huấn luyện phối hợp quân binh chủng để tiếp tục đánh cứ 201, anh phải về đơn vị hỏa lực để cùng tập luyện chuẩn bị chiến đấu. Mặt khác, cũng là để bổ sung quân số cho các đơn vị bị tổn thất thương vong. Dù sao, Huy cũng cảm thấy buồn buồn. Anh đã chia sẻ với anh em C.22 cái Tết xa nhà đầu tiên, chia sẻ với họ những chén rượu ấm nồng tình nghĩa, đã có những đêm nằm tâm sự, giờ chia tay sao tránh khỏi nỗi buồn.
Anh gom mấy thứ linh tinh nhét vào túi cóc, bàn giao khẩu AK cho Phước, rồi nhìn hai người nói:
- Thôi tạm biệt các bạn. Chúc mạnh giỏi, công tác tốt. Cho mình gửi lời chào anh Hòa, anh Trường, anh Chí và các anh em khác.
Phước và Danh gật đầu, buồn hiu nhìn Huy:
- Chúc anh về đơn vị mới mạnh giỏi, bình an.
Huy xốc ba lô lên vai, khoác tấm nylon lên đầu rồi chui ra khỏi lều, đi về hướng nhà đại đội.
Ðại đội trưởng Thái đang ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu trải giữa lều. Ðối diện với anh là một tay trẻ tuổi, Huy nhận ra đó là người đã lên Sư đoàn nhận anh về dạo trước. Thái nói to khi thấy Huy bước vào:
- A, Huy đây rồi. Cậu vào làm chén trà cho ấm bụng. - Anh giơ tay chỉ sang người đối diện - Ðây là cậu Phúc, trợ lý tổ chức động viên trung đoàn, lát nữa Phúc sẽ đưa cậu về D3.
Huy gật đầu chào Phúc. Anh nói:
- Em đã cùng anh Phúc đi từ Sư về đây hôm trước chiến dịch.
- A, vậy là người quen cũ rồi, phải không, tốt, tốt lắm.- Thái nghiêng người rót trà vào chén, rồi đưa cho Huy.
- D3 là tiểu đoàn cơ động mấy năm liền của Trung đoàn đó, anh Huy ạ, đánh nhau cừ lắm - Phúc nói - Ông Văn D trưởng chịu chơi lắm, nhưng cũng rất nghiêm. Lính ông Văn thì khỏi nói, công tác chiến đấu một cây, mà quậy cũng bạo có tiếng.
Thái giơ ống thuốc lào lên rít sâu một hơi, phà khói mù mịt, rồi đưa sang Huy:
- Làm một hơi đi, rồi lên đường. Từ đây qua D3 cũng mười mấy cây số đó.
Huy cầm chiếc điếu cày, nhón một nhúm thuốc lào, châm lửa. Anh đã tập tành chút chút cái món này từ hôm về C.22. Chí Phèo là đại sư phụ đã huấn luyện cho anh kỹ thuật hút mà không bị sặc. Huy thấy thuốc lào hay hơn thuốc lá. Nó làm người ta lâng lâng, ngây ngất tê người trong một thoáng. Chỉ cần hút một hơi thôi, cũng đủ đô bằng cả mấy điếu thuốc vấn rồi. Ngồi cho tan hẳn cơn say thuốc, Huy đứng lên, chào đại đội trưởng Thái:
- Thôi, em đi nghe anh Thái.
- Về đơn vị mới công tác cho tốt nghe Huy. Lâu lâu có dịp ghé E bộ thăm anh em.
Huy và Phúc bước ra khỏi căn lều. Trời vẫn còn mưa lất phất. Không khí thoang thoảng một mùi gì đó, thơm nồng. Hình như là mùi một thứ gỗ thơm đang bốc cháy đâu đó trong một gian bếp gần đây. Phúc nhìn Huy, cười hỏi:
- Vừa qua, anh đã tham gia đánh nhau rồi đó, có run không?
- Sợ chết khiếp chứ sao không. Lúc mình tải đạn lên cho D2, đạn nhọn của địch cứ chiu chíu xé qua tai, còn pháo thì nổ ầm ầm chung quanh, cách không đầy chục mét.
- Về bộ binh còn kinh hơn nữa. Ðánh nhau liên miên, chứ không khỏe như ở trung đoàn đâu. Sao anh không xin ở lại công tác bên nước?
- Lính mà, tổ chức phân công đâu, mình đi đó. Mình có muốn ở lại cũng không được. Thật tình, mình cũng muốn qua đây cho biết. Qua rồi mới thấy ngán.
Phúc gật gật đầu, nhưng không nói, như đang vướng bận một suy nghĩ nào đó. Huy cũng không gợi chuyện thêm. Cả hai cúi mặt, bước nhanh hơn dưới những làn mưa rơi xeo xéo.
Trời đã ngưng mưa khi hai người tới trại D 3. Lều tiểu đoàn nằm trên một gò đất cao. Xung quanh là những lùm cây lúp xúp. Ở phía trước, xéo về tay phải là một cây dầu lớn, hình dáng thật lạ lùng. Từ gốc đến khoảng một phần ba thân đầu tiên của nó nghiêng một góc gần bốn mươi độ so với mặt đất. Rồi từ cuối đoạn này, thân cây lại trở về tư thế tự nhiên chọc thẳng lên trời. Huy nhìn nó, thầm nghĩ có lẽ lúc còn non, nó đã bị một con thú rừng làm gẫy ngang, nhưng vẫn kiên cường vươn dậy. Một người lính trẻ đang ngồi bên gốc cây dầu này đẽo gọt một cành cây nhỏ, đường kính khoảng bốn phân, chắc để làm cán cuốc. Anh ta nhìn thấy Huy và Phước, buông con dao và cành cây xuống đất, đứng lên đi về phía họ. Khoảng cách thu ngắn đủ để Huy nhìn rõ người lính. Một khuôn mặt rắn rỏi, da ngăm ngăm sạm nắng, đôi mắt đen lanh lợi, vui vẻ, vóc dáng cao to, khỏe mạnh. Phúc cất tiếng:
- Chào đồng chí, có anh Văn ở nhà không vậy?
Người lính trẻ gật đầu, đưa mắt nhìn Huy như đánh giá, rồi lại nhìn sang Phúc, trả lời bằng một giọng đặc sệt đồng bằng Nam bộ:
- Anh "Dăng" ngồi trong lều. Mời hai anh "dô" trong.
Tiểu đoàn trưởng Văn đang ngồi hý hoáy viết gì đó bên cái bàn dã chiến trong lều. Bốn chân bàn là bốn thân gỗ chôn sâu xuống đất, phía trên đầu là một chạc hai để đỡ một thanh ngang. Mặt bàn đan bằng các thanh tre, được cột lại bằng những sợi dây xanh. Anh ngước lên gật đầu chào khi thấy người lính trẻ dẫn Huy, Phúc bước vào, rồi tiếp tục cúi đầu viết. Người lính trẻ kéo Huy, Phúc tới một cái băng dài, thấp, cũng một kiểu dáng như cái bàn, nhưng bề ngang hẹp vừa đủ để ngồi, anh nói:
- Hai anh ngồi uống nước, nghỉ mệt, chờ anh "Dăng" một chút.
Anh ta tới bên bàn, nghiêng chiếc can rùa rót vào hai cái bát một thứ nước xanh xanh, rồi bưng lại.
- Ðây là nước hà thủ ô, hai anh uống đi, mát lắm.
Huy và Phúc đón lấy, uống một hơi cạn chén, rồi đưa mắt nhìn quanh quẩn. Trong lều trống trơn không có gì ngoài cái bàn và mấy cái băng ghế. Trên vách lều treo ba cái ba lô, và ở một góc là cái giá súng với hai khẩu AK. Dù sao cũng là tinh tươm hơn rất nhiều so với nhà đại đội của Thái, chẳng có bàn ghế gì, chỉ ngồi bệt dưới đất là xong.
Tia mắt Huy xoay trọn một vòng, rồi trở về điểm xuất phát là tiểu đoàn trưởng Văn. Anh trạc ba mươi, ba mốt gì đó, cao dong dỏng, vai gầy nhưng rộng. Gương mặt lại có vẻ trắng trẻo, thư sinh, khác xa hình ảnh Huy hình dung về anh trên đường lúc nãy. Trên mặt anh có một nét gì đó là lạ, vui vui, dù lúc này Văn đang nghiêm nghị làm việc. Huy để ý quan sát thêm giây lát, rồi nhận ra chính vì cái miệng của Văn. Nó hơi méo, chếch lên bên phải, làm Văn lúc nào cũng như đang nhếch miệng muốn cười.
Khoảng hai phút sau, Văn viết xong. Anh gấp quyển sổ lại, ngẩng mặt nhìn Huy, Phúc, đôi mắt đen sáng nheo lại, anh cười ha hả:
- Xin lỗi hai cậu, mai tớ phải lên trung đoàn báo cáo phương án tác chiến nên cố một tí cho xong. Nào, tớ nhớ không lầm thì hôm qua thông tin trung đoàn báo cậu sẽ dẫn cậu Huy xuống, có đúng là Huy không Phúc?
Phúc gật đầu xác nhận:
- Vâng, ảnh tên Huy, tốt nghiệp lớp hạ sĩ quan ở H.15 bên nước, sang đây hồi tháng Mười hai năm ngoái. Vừa rồi ảnh nằm ở C.22, công tác cũng tốt lắm anh ạ. Hồi nãy trên đường tới đây, em cũng đã giới thiệu sơ với ảnh về D3 rồi. Nhất là giới thiệu rất xôm về vị tiểu đoàn trưởng ngon lành là anh. Sao, có gì thưởng công không thủ trưởng?
- Lại còn thế nữa! Cậu đã nói xấu tôi những gì, chưa phạt thì thôi, còn đòi thưởng. Này, bước tới gần đây, tôi thưởng cho...
Phúc phá ra cười:
- Thôi, em quá biết cái món điểm huyệt của anh rồi, dại gì! Nè anh Văn, trưa nay em báo cơm D3 đấy nhé. Lo giết gà vịt đón khách đi là vừa.
- Ở đây làm gì có, chỉ có món "bò hóc quân đội" đãi cậu thôi - Văn cười ha hả, rồi quay sang Huy, anh nói- Huy này, cậu lại đây, để tớ giới thiệu sơ về tiểu đoàn cho cậu biết. Tớ là Thạch Văn, quê ở Cao Bằng, chắc cậu biết rồi..
Sau đó, Văn kể cho Huy nghe về tên tuổi của các cán bộ tiểu đoàn và đại đội, các trung đội trực thuộc, tình hình tổng quát của tiểu đoàn, rồi bảo:
- Bây giờ, cậu sẽ về trung đội 12 ly bảy, đúng như chuyên môn của cậu. Nhưng tạm thời, cậu vẫn chỉ là chiến sĩ thôi. Vì cậu mới về mà nắm chức chỉ huy khẩu đội ngay thì anh em không phục. Với lại, cậu cũng chưa có kinh nghiệm thực tế là mấy, cũng chưa làm được đâu. Cứ cố gắng công tác, chiến đấu cho tốt, rồi tự khắc khi anh em trung đội đề xuất lên, tôi sẽ chính thức bổ nhiệm cậu. Vậy nhé, có thắc mắc gì nữa không?
- Dạ không. Vậy em xin phép được về B ngay, nghe anh Văn.
- Vội gì, cứ ở đây, cơm nước xong xuôi, tớ bảo thằng Kiên đưa cậu xuống dưới. Giờ cậu xuống thì chẳng còn cơm đâu mà ăn.- Văn đảo người tìm Kiên, liên lạc tiểu đoàn, nhưng Kiên đã đi đâu ra ngoài, anh gọi to - Kiên ơi! Em coi cơm chín chưa dọn lên đây nào.
Ngoài kia, mưa lại bắt đầu rơi lất phất. Từ sau gian lều thoảng ra mùi ruốc cá xào, Kiên bê mâm cơm và thức ăn lên.
(Trích nhật ký)
Ngày... tháng... 1984
Ngày cuối cùng của năm đầu đời trong quân đội... Một cánh rừng lúc chiều hôm. Rừng chiều không đẹp, không êm đềm như trong nhạc. Nó ẩn dấu một cái gì khó hiểu, đè nặng lên tâm tư người lính.
Tiếng lá khô rơi chạm vào nhau tí tách, rất khẽ. Tiếng súng AK vu vơ...
Ngày... tháng... 1985
Hôm nay lẽ ra là ngày mở đầu chiến dịch đánh bứt cứ điểm A. Nhưng kế hoạch phải tạm đình chỉ vì cái chết của vị lãnh đạo nhà nước Campuchia. Sư đoàn tung toàn bộ lực lượng, cộng thêm một trung đoàn quân đội Campuchia phối thuộc. Trung đoàn của mình là trung đoàn chủ công, đánh trực diện vào căn cứ.
Cuộc đời chiến sĩ của tôi sẽ trưởng thành từ những ngày này. Một trận lớn cấp sư, trong toàn bộ chiến dịch tổng tấn công của toàn mặt trận. Một trận mà có lẽ không phải ai cũng có dịp may tham dự.
Hôm nay, trên toàn thế giới người ta xé tờ đầu tiên của quyển lịch mới. Và ở thành phố quê nhà, giờ này mọi người đang vui tươi hớn hở...
Mẹ tôi giờ này có lẽ đang vừa làm một việc gì đó, vừa nheo đôi mắt u buồn nhớ tới đứa con xa...Và có lẽ, đôi khi giữa đêm khuya chợt thức, người lại khóc âm thầm... Má ơi! Con đã làm được gì cho má vui đâu, chỉ toàn những lo buồn. Biết đến bao giờ con làm được điều con mong cho má - Má ngồi giữa đàn cháu dễ thương, kháu khỉnh kể chuyện ngày xưa, những chuyện ma quỷ, thần tiên mà ngày thơ ấu má đã đưa con vào giấc ngủ êm đềm, má cười không lo âu vì miếng cơm, manh áo, nợ nần giăng mắc...
Ngày tháng năm 1985
Một bài thơ viết vội: Xuân này nhớ ai
Mùa xuân đến bao giờ tôi chẳng biết
Gió quê hương không đến tận phương này
Tôi chờ mãi trong niềm đau không dứt
Một mai này chinh chiến sẽ tàn phai
Xuân về hay chưa, tôi vẫn ngờ không thật
Giữa rừng già không én báo tin vui
Không có những cành hoa tươi khoe sắc
Làm sao tôi quên thực trạng quanh người
Giữa rừng chỉ có chúng tôi
Những người đi giữ đất trời quê hương
Bạc rồi những tấm áo xanh
Mà chưa thấy lại mùa xuân quê mình
Nghĩ gì những lúc thâu canh
Sương rơi ướt lạnh một vầng trăng xa
Sao đêm thắp lửa mong chờ
Bâng khuâng người lính xa nhà nhớ thương
Nhớ mẹ hiền tóc bạc với thời gian
Chắc mẹ vẫn chiều chiều ra ngõ đứng
Dõi mắt phương xa mong chờ, trông ngóng
Một dáng hình, một tiếng nói thân thương
Ạ à ơi...
‘ Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau'
Con đi chinh chiến dài lâu
Mẹ ơi! Ðừng khóc những chiều nhớ con
Mẹ ơi! Ðừng thức thâu canh
Trở trăn vì bước quân hành của con
Con đi xuôi ngược hành quân
Mang theo lòng mẹ, niềm tin trọn đời.
Mẹ ơi, nếu có một ngày
Chợt nghe tin dữ con trai không còn
Mẹ đừng nước mắt trào tuôn
Con yêu mẹ đã làm tròn ước mơ
Mẹ đừng thắp nến, chưng hoa
Chỉ thêm buồn nhớ, xót xa nghẹn ngào...
Giờ con nhớ mẹ biết bao
Giờ thương hơn hẳn lúc nào, mẹ ơi!..
Mùa xuân về mọi nơi
Nhưng ở đây mùa xuân không có mặt
Cả bầu trời và mặt đất
Ðều khô cằn, ảm đạm, hoang vu...
Ở đây, những người lính nhớ
Thành phố quê nhà những ngày cuối năm
Có chợ tết, chợ hoa xôn xao, lộng lẫy, tưng bừng
Những màu áo, mái tóc dài tha thướt
Những tiếng nói, giọng cười trong vắt
Thân quen vô cùng, mà xa quá là xa...
Những con đường lá đổ ngày xưa
Và những cơn mưa đi về bất chợt
Màu áo học trò ngây thơ, dịu mát
Suối tóc ai dài chảy suốt mùa Ngâu..
Và đôi khi...giữa đêm lắng sâu
Niềm tiếc nuối thời ấu thơ ray rứt
Con nhện giăng tơ trên cành trước mặt
Tò vò nào cứ vỗ cánh chờ mong...
Bạn bè ơi! Một mái trường
Bao nhiêu kỷ niệm âm thầm chết đi
Bao nhiêu người hãy còn ghi
Tình yêu, lý tưởng vun từ ngày xưa
Ai còn cháy bỏng ước mơ
Và ai đã chịu đẩy đưa dòng đời..
Bâng khuâng người lính đêm dài
Từng khuôn mặt cũ quay về... mông lung...
Ngày tháng năm 1985
Hôm nay là thứ mấy, ngày mấy? Ý niệm về thời gian chỉ còn là buổi sáng, buổi chiều, là ngày và đêm nối tiếp trôi đi, vô tận.
Tôi buồn vì sao? Tôi không thể tìm ra câu trả lời đích xác. Nhớ ư? Phải! Ðôi khi một vật thể nào đó lại gợi cho tôi những liên tưởng về bè bạn, gia đình, và hàng đêm trằn trọc thao thức nhìn qua nóc màn lên bầu trời lung linh vạn ánh sao, trong tiếng lá khô rơi xào xạc, tiếng cây vặn mình trong cơn gió rừng lạnh lẽo đêm khuya, tôi nghe tiếng nức nở âm thầm của lòng mình. Tương lai là một khoảng mơ hồ mù mịt. Hiện tại thì thật đau đớn xé lòng...
Anh hùng là ai? Chỉ có những người lính bình thường, vô danh kia mới là những anh hùng. Tay họ cầm vũ khí, da thịt họ hứng chịu đau thương và máu họ đổ tuôn. Họ đến với cuộc đời, sống, ước mơ, yêu đương...để rồi ra đi trong phút chốc. Họ không nghĩ đến những chuyện cao xa. Ước mơ, khát khao của họ thật giản dị, bình thường. Ðây mới chính là những con người thật sự. Tôi làm sao tìm thấy một con người chỉ tồn tại trong trí tưởng của mình - Một con người vô hình, không thật, xây đắp bằng bao nhiêu mảnh vụn của sách vở, từ chương. Bây giờ tôi đã nhận ra điều đó. Muộn hay chưa, tôi khó mà kết luận.
Phải chăng sinh ra là để chịu đựng những khổ đau, xây những ước mơ, hưởng những hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn, để rồi chết? Ý nghĩa của cuộc sống thật là mông lung, siêu hình.
Ampil! Cái địa danh này sẽ ghi mãi trong tâm khảm của tôi, với những gì tôi đã nhận thức được về cái ranh giới mong manh giữa hai chiều tư tưởng.
Chỉ còn vài ngày nữa là Tết rồi. Thật là mơ hồ!...
Ngày.... tháng... năm 1985
Tết giữa rừng
Bây giờ, tôi viết những dòng chữ ứa ra từ tấm lòng bồi hồi khôn tả về những ngày tôi đang sống, dưới ánh đèn dầu tù mù leo lét cháy. Viết để làm gì? Tôi đã không còn thiết tha đến việc cầm bút nữa, nhưng sao giờ đây một nỗi niềm nào đó cứ thiêu đốt tim tôi...Máu dường như nghẽn lại trong từng huyết mạch...
Không gian bao la đen thẳm phủ quanh người tôi như một tấm màn dày đặc, khổng lồ, với những lỗ thủng li ti, xa xăm - những vì sao. Ðêm như quánh lại... Xa xa, những đống lửa của các đơn vị cháy thành từng đóm, chập chờn, chập chờn. Tiếng hát, tiếng la hét, tiếng trống gõ vào can nước cũng chao chao, khi xa khi gần theo hướng gió...Ôi! Cái Tết của những người lính trẻ xa nhà giữa rừng đêm quạnh vắng.
Ðêm qua, đêm giao thừa, tôi đã không còn tỉnh táo để chờ đón phút giây thiêng. Những người lính cũ, đi trước tôi, hình như cũng rất buồn. Họ che lấp nỗi buồn bằng cách cười nghiêng ngả, nhảy múa, hò hét và ca hát. Chén rượu cay nồng tình nghĩa đồng đội chuyền tay...Trời ơi! Tôi say mèm trước tất cả mọi người...Các anh ơi, hãy thông cảm cho tôi!... Má ơi! Hãy tha thứ cho con... Rượu làm con say, nhưng chính nỗi buồn sâu thẳm đã quật con ngã gục trước khi con cùng đồng đội, đồng bào hưởng phút giây giao tiếp ấy.
Ngày kia, tôi lại hành quân vào trận đánh mới.Trong số những gương mặt trẻ trung, nhưng đã sớm cằn cỗi quanh tôi, ai sẽ còn, và ai sẽ mãi mãi ra đi? Cười sằng sặc, ca hát và nhảy múa...vui đi để rồi có thể sẽ không bao giờ vui được nữa...Những bà mẹ và những người tình có biết giờ này người thân của mình đang chuẩn bị để ra đi, trở về hoặc vĩnh viễn - Với một niềm tin yêu tha thiết và quyết tâm chiến thắng. Máu sẽ đổ, thịt sẽ tan, nhưng không bao giờ người lính Việt nam chùng bước! Các mẹ ơi, các chị ơi, hãy nguyện cầu cho người con, người yêu lời nguyện trọn lành!...
Con thương nhớ má thật nhiều, thật nhiều... Má yêu dấu ngàn đời!... Không biết mai này con còn có ngày về với má hay không? Nhưng con sẽ không bao giờ là một người lính yếu hèn. Má ơi, hãy hiểu cho con!...
Ngọn đèn gần hết dầu đang lụi dần. Nhưng ngày mai trời lại sáng...
Huy vừa đọc lướt lại những gì đã ghi vào nhật ký trong mấy ngày qua. Anh gấp quyển sổ lại, nhìn ra hướng trảng cỏ trống ngoài kia. Gió vẫn thổi hun hút từng cơn, làm ngọn lửa phát ra từ chiếc đèn dầu đốt bằng mỡ lon thịt hộp chập chờn muốn tắt. Huy với cái ba lô kề bên, nhét cuốn sổ vào và thổi tắt ngọn đèn. Anh bước ra khỏi chiếc lều dã chiến thấp lè tè, đi tới chiếc võng đã giăng sẵn từ lúc nãy, vén mùng chui vào. Mấy hôm nay, anh mang võng mắc giữa hai cây dầu nhỏ trước lều để ngủ ngoài trời.
Huy thích được nằm nhìn lơ mơ qua chiếc mùng vải mỏng lên bầu trời đêm thăm thẳm. Từ thuở còn bé tí, anh đã yêu mến bầu trời đêm và những vì sao xa xăm trên đó. Truyện Hoàng tử bé của Saint Éxupéry, truyện Những vì sao của Alphonse Daudet mà Huy tình cờ đọc được sau này càng làm anh yêu mến chúng hơn. Ngàn sao là giấc mơ kỳ diệu, làm tâm hồn thơ trẻ của anh thấm đẫm bao tưởng tượng, bao ước vọng đẹp đẽ hướng tới cõi trời cao rộng, thánh linh. Bây giờ, tuổi thơ đã trôi qua, những hình ảnh ngây thơ, trong sáng ấy cũng mất đi phần nào huyền diệu. Ðêm sao bây giờ với anh chỉ là một bầu trời vật chất, với những thiên thể vật chất, những hành tinh lạnh lẽo, vô hồn. Ngàn sao lấp lánh kia không còn là những sinh vật sống động, đầy cảm tính, y hệt như những con người. Không còn nữa những vì sao của tuổi thơ! Tuy vậy, trời đêm và sao sáng vẫn làm dịu đi những nỗi buồn phiền, những niềm thương nhớ.
Huy vòng hai cánh tay ra sau đầu, thầm đếm những vì sao rải rác phía trên ngọn cây dầu độc mộc giữa trảng. Một, hai, ba....một trăm lẻ một, một trăm lẻ hai...Chợt nhiên, một vì sao -vì sao thứ một trăm lẻ bốn - ngày càng to lên, to lên...Rồi nó chợt nhoẻn miệng cười với Huy thật dịu dàng. Nó mở đôi mắt đầy âu yếm nhìn Huy. Không phải là vì sao, mà là má! Má đang mỉm cười lặng lẽ. Mái tóc của má trôi dài, bay bay giữa trời đêm thênh thang vằng vặc, lóng lánh triệu triệu những tinh cầu bé xíu, li ti...
Từ sau Mồng Mười Tết, mưa liên tiếp mấy hôm liền. Trời thấp, xám màu chì và nặng trĩu. Trong toàn đơn vị, không khí im lìm, vắng lặng hẳn đi. Mọi người chỉ bước ra ngoài khi có việc cần. Họ chui rúc trong lều đánh tiến lên, hay nằm bên nhau tâm sự.
Huy ngồi co ro, vừa nghĩ ngợi lan man, vừa lơ mơ nghe tiếng Phước và Danh trò chuyện lẫn vào tiếng mưa rào rào vỗ trên mái lá. Danh đang kể một câu chuyện gì đó về miền Mộc Hóa, Long An, quê hương của anh, Huy nghe loáng thoáng những tình tiết về con vện, con vàng... mấy con chó săn tinh khôn mà Danh rất cưng hồi còn ở nhà.
Trong tiểu đội, Danh là một trong những lính mới được nể nang nhất. Anh đi hành quân mang vác, đào công sự chiến đấu thật dẻo dai, không thua gì cánh lính cũ. Thoạt nhìn, Danh không có vẻ gì là một người mạnh khỏe, anh cao lòng khòng, ốm nhách. So với Minh, Hùng, cũng lính cuối 84, dân Thành phố, Danh ốm yếu hơn nhiều.
Theo lời Danh kể, từ nhỏ anh đã làm việc nặng nhọc, vất vả mà ăn uống thì lại quá thiếu thốn, kham khổ.
Hôm đánh lên Ampil vừa rồi, không có Danh, thì Huy chắc phải xỉu đi vì quá mệt. Hồi ở Quang Trung, bọn Huy cũng thường đi hành quân dã ngoại, cũng mang vác nặng. Nhưng so với hành quân thật sự thì thật khác nhau một trời một vực.
Ở trường, hành quân tà tà như đi dạo. Mệt thì nghỉ. Chỉ huy đại đội lúc đầu có vẻ nghiêm khắc nhưng về sau rất dễ, nên bọn Huy được thể cứ làm nũng như con nít. Thật sự, lúc đó cũng không có gì nặng mấy, chỉ là các bộ phận tách rời của khẩu 12 ly. Còn vừa rồi, lần đầu tiên Huy đi một mạch năm sáu cây số mới được nghỉ giải lao. Sau lưng là chiếc ba lô, ngoài quần áo, tư trang là một thùng đạn K.56 và mớ liều phóng, ngòi nổ cối 82; một can vàng bốn lít nước cột lủng lẳng dưới nắp ba lô; trên vai là một gánh sáu quả cối 82, chiếc ruột tượng bảy ngày gạo; cộng thêm khẩu AK quàng qua vai và chiếc bao se ba băng đạn, một bình toong nước xệ xệ bên hông. Trung bình, mỗi người lính mang trên người khoảng ba mươi ký.
Ði được khoảng ba cây số, đầu Huy đã lùng bùng. Ðôi chân Huy phồng dộp lên từ lúc nãy, giờ những chỗ đó tróc da, cọ xát vào giầy làm anh đau điếng. Nhất là vì nền cát, mùa khô co cứng lại như bê tông, cứ dội ngược lại dưới gót giày sau mỗi bước nặng nề. Huy nhìn người phía trước, Minh cũng không khá gì hơn anh, đang xuýt xoa rên rỉ. Tuy vậy, Huy cũng cố đi được cho đến chỗ giải lao đầu tiên. Huy ngồi bệt xuống, ngã người ra, lưng dựa vào chiếc ba lô. Anh nhắm mắt lại một lúc, rồi lại mở ra. Cổ họng Huy khô rát vì cơn khát. Anh run run mở nắp bi đông. Những ngụm nước mát lạnh đi vì không khí ban đêm. Không còn là những ngụm nước bình thường nữa: nước lã giờ như trở thành dưỡng chất, thành rượu quỳnh ngon ngọt khác thường. Trong những lúc như thế này, Huy nhận ra nhu cầu của con người đến lúc thiết yếu nhất, khi chịu sự thiếu thốn tột cùng nhất, khi gần kề cái chết nhất, chỉ là rất ít oi: không khí để thở; nước để uống; và cái gì đó để ăn. Rồi tình yêu cuộc sống lại quay về, và ta lại có thể bình an nghĩ ngợi, ước mơ. Vâng, chỉ bấy nhiêu đủ để ta thấy trong ta cuộc sống tràn đầy, rạo rực...
Huy uống rất chậm và dè sẻn. Chí Phèo đã dặn trước với anh khi hành quân không được uống nhiều nước, càng ít thì càng tốt, vì uống nhiều, mồ hôi toát ra quá mức sẽ làm kiệt sức rất nhanh. Mặt khác, giữ cho lúc nào bình toong cũng còn nước là điều cốt tử ở vùng đất khô cằn này.
Ðến lúc tiếp tục hành quân, anh chỉ đi được vài bước đã thấy choáng váng, hai bàn chân đã nguôi đau, giờ lại càng hành hạ anh tệ hại hơn lúc trước. Huy bước ngày càng có vẻ chập choạng. Danh đi phía sau vội nói nhỏ:
- Anh đưa cho tui vác phụ gánh cối một lúc cho.
Huy ngần ngừ, rồi lắc đầu. Danh cũng đâu có nhẹ gì hơn anh. Là chiến sĩ, Danh không mang AK, nhưng trong ba lô anh là hai thùng đạn, liều ngòi cối, và trên vai là tám, chứ không phải sáu quả cối như Huy. Huy cố bước thêm một lúc thì quị xuống. Danh giằng lấy gánh cối:
- Tui còn khỏe, cứ để tui vác một lúc. Anh đở mệt là tui giao lại liền.
Lần này, Huy không còn đủ sức và ý chí để từ chối sự giúp đỡ chân thành của Danh. Thế là Danh nghiêng vai còn lại gánh luôn gánh của Huy. Quả thật, không có gánh cối, anh cảm thấy nhẹ hẳn đi, khỏe lại. Ðược một quảng, Huy ngoái lại. Danh vẫn bước bình thường, nhưng hơi thở đã nghe nặng nề. Mình nhẹ được một phần, thì Danh lại càng nặng thêm gấp hai ba nữa - Huy nghĩ. Anh bỗng thấy một sức mạnh không biết từ đâu đến, đánh tan hẳn những nhọc mệt và cơn nhức nhối ở hai chân. Anh giơ tay đón lấy gánh cối:
- Cám ơn Danh, mình đã khỏe rồi.
Và từ đó, Huy thật sự quên đi những khổ sở, nhọc nhằn. Anh nghĩ về những kỷ niệm vui, những hình ảnh thân thương êm ái, rồi thầm cười khẽ một mình. Cuộc hành quân đêm trôi đi một cách nhẹ nhàng, không còn là cơn ác mộng dài khủng khiếp như lúc nãy với anh...
Buổi chiều cuối cùng trước khi trận địa dứt hẳn tiếng súng, Huy cùng một nhóm ba người khác cáng thương từ tuyến trước về trại cấp cứu dã chiến của K.23. Nắng ong ong chiếu xuống làm anh mệt rũ cả người. Cả nhóm đã liên tục lên xuống suốt hai ngày qua, lên tải đạn, về tải thương như con thoi không ngừng nghỉ. Chuyến cuối cùng họ cáng một liệt sĩ của D.2 đã hy sinh từ buổi tối qua, nhưng để tại chỗ để ưu tiên cáng các thương binh trước. Cố gắng về đến một chỗ còn cách K.23 khoảng nửa cây, sau khi giao lại cáng cho hai người khác, Huy thấy đầu bưng bưng nhức nhối, hai mắt hoa lên. Anh bảo Danh:
- Danh đi trước đi, mình ngồi nghỉ một lát đã.
Danh gật đầu, lo âu nhìn Huy:
- Ừ, anh về sau, tui lên đi chung với hai thằng nó để có gì tiếp tay. Tụi nó cũng phờ phạc lắm rồi.
Huy gieo người xuống, nửa nằm nửa ngồi, một tay tì lên mặt đất. Anh tháo cái bi đông nước bên hông, đưa lên đôi môi khô rộp. Chỉ còn không đầy một nắp bi đông đọng dưới đáy. Huy nốc cạn, thấy cơn khát vẫn chẳng bớt tí nào. Anh mệt nhọc nhắm nghiền đôi mắt lại. Rồi vài giây sau, không gượng được, anh nằm lăn ra nền cát, kế bên một bụi le cằn cọc, mặc cho những con ong ruồi nhỏ xíu bu bám vào mặt mũi, mặc cho ánh nắng xiên khoai chói chang đổ xuống. Khi Huy mở mắt ra, trời đã bắt đầu xế bóng. Anh gượng dậy, tìm đường tắt đi về.
Về đến trại, Huy chui vào lều nằm bất động. Anh mê man cho đến trưa hôm sau. Nghe tiếng gọi dậy ăn cơm của Phước nhưng Huy vẫn thấy người rã rời, không biết đói. Phước vào lay lay Huy:
- Nè, gắng dậy ăn một chén cho khỏe. Mệt mà nằm hoài là bị sốt luôn đó.
Huy lắc đầu, nhắm nghiền mắt, yếu ớt nói:
- Mình không đói. Cứ mặc mình.
Một lúc sau, Danh cầm chén cháo bốc khói chui vào. Anh đỡ Huy ngồi dậy.
- Tui lấy cơm nấu lại thành cháo cho anh dễ húp. Ráng đi.
Huy nhìn Danh xúc động. Anh cố húp hết bát cháo dù miệng lưỡi đều thấy đắng nghét, không muốn ăn uống gì. Danh lại bưng chén nước nóng vào, tay kia cầm hai viên thuốc giục Huy uống. Sau khi ăn cháo, uống thuốc, nằm nghỉ khoảng hai tiếng, Huy thức giấc và thấy người khỏe hẳn. Anh đã có thể ngồi dậy, đi lại được, dù còn hơi run rẩy...
Danh chợt quay sang Huy cất tiếng hỏi:
- Anh còn giấy không cho tui xin một tờ. Viết thư cho con nhỏ bồ.
Huy gật đầu:
- Còn, chờ chút mình lấy liền đây.
Hôm vừa mới sang, Huy mang theo sổ sách lỉnh kỉnh rất nhiều. Ba cuốn sổ, trong đó có một cuốn đang ghi dở, mấy cuốn tập học trò ghi bài giảng hồi học ở H.15, mấy cuốn sách Anh văn, và vài cuốn truyện. Xui một cái là từ bên nước qua, Huy bị đưa thẳng vào rừng, nơi đang tạm đóng quân chuẩn bị vào chiến dịch. Anh không được ghé hậu cứ, nên bao nhiêu hành lý, tư trang đều dồn hết vào ba lô, cõng hết suốt một mùa chiến dịch. Lúc nghỉ giải lao trong cuộc hành quân đầu tiên, anh đã vứt bỏ hết mấy cuốn vở ghi bài, sách Anh văn và truyện. Giờ nghĩ lại, Huy tiếc quá chừng. Huy rứt mấy tờ đôi đưa cho Danh, cười cười:
- Nè, mai mốt về làm đám cưới nhớ đánh điện tín mời tui xuống dự với nghe ông.
- Yên chí đi!
Phía ngoài lều có tiếng chân bước bì bõm trên mặt đất ngập nước mưa, tiếng sột soạt của tấm nylon, rồi Minh ló đầu vào:
- Huy ơi, anh Thái kêu anh lên đại đội. Mang theo toàn bộ ba lô, tư trang để nhận nhiệm vụ mới.
Huy không ngạc nhiên, anh đã biết không sớm thì muộn anh phải chuyển về đơn vị mới. Hồi mới sang, vì đang chuẩn bị đánh một trận quá căng, nên người ta không đưa anh về ngay đơn vị trực tiếp chiến đấu, mà tạm đưa vào đại đội tải của trung đoàn. Bây giờ là thời gian cho các đơn vị huấn luyện phối hợp quân binh chủng để tiếp tục đánh cứ 201, anh phải về đơn vị hỏa lực để cùng tập luyện chuẩn bị chiến đấu. Mặt khác, cũng là để bổ sung quân số cho các đơn vị bị tổn thất thương vong. Dù sao, Huy cũng cảm thấy buồn buồn. Anh đã chia sẻ với anh em C.22 cái Tết xa nhà đầu tiên, chia sẻ với họ những chén rượu ấm nồng tình nghĩa, đã có những đêm nằm tâm sự, giờ chia tay sao tránh khỏi nỗi buồn.
Anh gom mấy thứ linh tinh nhét vào túi cóc, bàn giao khẩu AK cho Phước, rồi nhìn hai người nói:
- Thôi tạm biệt các bạn. Chúc mạnh giỏi, công tác tốt. Cho mình gửi lời chào anh Hòa, anh Trường, anh Chí và các anh em khác.
Phước và Danh gật đầu, buồn hiu nhìn Huy:
- Chúc anh về đơn vị mới mạnh giỏi, bình an.
Huy xốc ba lô lên vai, khoác tấm nylon lên đầu rồi chui ra khỏi lều, đi về hướng nhà đại đội.
Ðại đội trưởng Thái đang ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu trải giữa lều. Ðối diện với anh là một tay trẻ tuổi, Huy nhận ra đó là người đã lên Sư đoàn nhận anh về dạo trước. Thái nói to khi thấy Huy bước vào:
- A, Huy đây rồi. Cậu vào làm chén trà cho ấm bụng. - Anh giơ tay chỉ sang người đối diện - Ðây là cậu Phúc, trợ lý tổ chức động viên trung đoàn, lát nữa Phúc sẽ đưa cậu về D3.
Huy gật đầu chào Phúc. Anh nói:
- Em đã cùng anh Phúc đi từ Sư về đây hôm trước chiến dịch.
- A, vậy là người quen cũ rồi, phải không, tốt, tốt lắm.- Thái nghiêng người rót trà vào chén, rồi đưa cho Huy.
- D3 là tiểu đoàn cơ động mấy năm liền của Trung đoàn đó, anh Huy ạ, đánh nhau cừ lắm - Phúc nói - Ông Văn D trưởng chịu chơi lắm, nhưng cũng rất nghiêm. Lính ông Văn thì khỏi nói, công tác chiến đấu một cây, mà quậy cũng bạo có tiếng.
Thái giơ ống thuốc lào lên rít sâu một hơi, phà khói mù mịt, rồi đưa sang Huy:
- Làm một hơi đi, rồi lên đường. Từ đây qua D3 cũng mười mấy cây số đó.
Huy cầm chiếc điếu cày, nhón một nhúm thuốc lào, châm lửa. Anh đã tập tành chút chút cái món này từ hôm về C.22. Chí Phèo là đại sư phụ đã huấn luyện cho anh kỹ thuật hút mà không bị sặc. Huy thấy thuốc lào hay hơn thuốc lá. Nó làm người ta lâng lâng, ngây ngất tê người trong một thoáng. Chỉ cần hút một hơi thôi, cũng đủ đô bằng cả mấy điếu thuốc vấn rồi. Ngồi cho tan hẳn cơn say thuốc, Huy đứng lên, chào đại đội trưởng Thái:
- Thôi, em đi nghe anh Thái.
- Về đơn vị mới công tác cho tốt nghe Huy. Lâu lâu có dịp ghé E bộ thăm anh em.
Huy và Phúc bước ra khỏi căn lều. Trời vẫn còn mưa lất phất. Không khí thoang thoảng một mùi gì đó, thơm nồng. Hình như là mùi một thứ gỗ thơm đang bốc cháy đâu đó trong một gian bếp gần đây. Phúc nhìn Huy, cười hỏi:
- Vừa qua, anh đã tham gia đánh nhau rồi đó, có run không?
- Sợ chết khiếp chứ sao không. Lúc mình tải đạn lên cho D2, đạn nhọn của địch cứ chiu chíu xé qua tai, còn pháo thì nổ ầm ầm chung quanh, cách không đầy chục mét.
- Về bộ binh còn kinh hơn nữa. Ðánh nhau liên miên, chứ không khỏe như ở trung đoàn đâu. Sao anh không xin ở lại công tác bên nước?
- Lính mà, tổ chức phân công đâu, mình đi đó. Mình có muốn ở lại cũng không được. Thật tình, mình cũng muốn qua đây cho biết. Qua rồi mới thấy ngán.
Phúc gật gật đầu, nhưng không nói, như đang vướng bận một suy nghĩ nào đó. Huy cũng không gợi chuyện thêm. Cả hai cúi mặt, bước nhanh hơn dưới những làn mưa rơi xeo xéo.
Trời đã ngưng mưa khi hai người tới trại D 3. Lều tiểu đoàn nằm trên một gò đất cao. Xung quanh là những lùm cây lúp xúp. Ở phía trước, xéo về tay phải là một cây dầu lớn, hình dáng thật lạ lùng. Từ gốc đến khoảng một phần ba thân đầu tiên của nó nghiêng một góc gần bốn mươi độ so với mặt đất. Rồi từ cuối đoạn này, thân cây lại trở về tư thế tự nhiên chọc thẳng lên trời. Huy nhìn nó, thầm nghĩ có lẽ lúc còn non, nó đã bị một con thú rừng làm gẫy ngang, nhưng vẫn kiên cường vươn dậy. Một người lính trẻ đang ngồi bên gốc cây dầu này đẽo gọt một cành cây nhỏ, đường kính khoảng bốn phân, chắc để làm cán cuốc. Anh ta nhìn thấy Huy và Phước, buông con dao và cành cây xuống đất, đứng lên đi về phía họ. Khoảng cách thu ngắn đủ để Huy nhìn rõ người lính. Một khuôn mặt rắn rỏi, da ngăm ngăm sạm nắng, đôi mắt đen lanh lợi, vui vẻ, vóc dáng cao to, khỏe mạnh. Phúc cất tiếng:
- Chào đồng chí, có anh Văn ở nhà không vậy?
Người lính trẻ gật đầu, đưa mắt nhìn Huy như đánh giá, rồi lại nhìn sang Phúc, trả lời bằng một giọng đặc sệt đồng bằng Nam bộ:
- Anh "Dăng" ngồi trong lều. Mời hai anh "dô" trong.
Tiểu đoàn trưởng Văn đang ngồi hý hoáy viết gì đó bên cái bàn dã chiến trong lều. Bốn chân bàn là bốn thân gỗ chôn sâu xuống đất, phía trên đầu là một chạc hai để đỡ một thanh ngang. Mặt bàn đan bằng các thanh tre, được cột lại bằng những sợi dây xanh. Anh ngước lên gật đầu chào khi thấy người lính trẻ dẫn Huy, Phúc bước vào, rồi tiếp tục cúi đầu viết. Người lính trẻ kéo Huy, Phúc tới một cái băng dài, thấp, cũng một kiểu dáng như cái bàn, nhưng bề ngang hẹp vừa đủ để ngồi, anh nói:
- Hai anh ngồi uống nước, nghỉ mệt, chờ anh "Dăng" một chút.
Anh ta tới bên bàn, nghiêng chiếc can rùa rót vào hai cái bát một thứ nước xanh xanh, rồi bưng lại.
- Ðây là nước hà thủ ô, hai anh uống đi, mát lắm.
Huy và Phúc đón lấy, uống một hơi cạn chén, rồi đưa mắt nhìn quanh quẩn. Trong lều trống trơn không có gì ngoài cái bàn và mấy cái băng ghế. Trên vách lều treo ba cái ba lô, và ở một góc là cái giá súng với hai khẩu AK. Dù sao cũng là tinh tươm hơn rất nhiều so với nhà đại đội của Thái, chẳng có bàn ghế gì, chỉ ngồi bệt dưới đất là xong.
Tia mắt Huy xoay trọn một vòng, rồi trở về điểm xuất phát là tiểu đoàn trưởng Văn. Anh trạc ba mươi, ba mốt gì đó, cao dong dỏng, vai gầy nhưng rộng. Gương mặt lại có vẻ trắng trẻo, thư sinh, khác xa hình ảnh Huy hình dung về anh trên đường lúc nãy. Trên mặt anh có một nét gì đó là lạ, vui vui, dù lúc này Văn đang nghiêm nghị làm việc. Huy để ý quan sát thêm giây lát, rồi nhận ra chính vì cái miệng của Văn. Nó hơi méo, chếch lên bên phải, làm Văn lúc nào cũng như đang nhếch miệng muốn cười.
Khoảng hai phút sau, Văn viết xong. Anh gấp quyển sổ lại, ngẩng mặt nhìn Huy, Phúc, đôi mắt đen sáng nheo lại, anh cười ha hả:
- Xin lỗi hai cậu, mai tớ phải lên trung đoàn báo cáo phương án tác chiến nên cố một tí cho xong. Nào, tớ nhớ không lầm thì hôm qua thông tin trung đoàn báo cậu sẽ dẫn cậu Huy xuống, có đúng là Huy không Phúc?
Phúc gật đầu xác nhận:
- Vâng, ảnh tên Huy, tốt nghiệp lớp hạ sĩ quan ở H.15 bên nước, sang đây hồi tháng Mười hai năm ngoái. Vừa rồi ảnh nằm ở C.22, công tác cũng tốt lắm anh ạ. Hồi nãy trên đường tới đây, em cũng đã giới thiệu sơ với ảnh về D3 rồi. Nhất là giới thiệu rất xôm về vị tiểu đoàn trưởng ngon lành là anh. Sao, có gì thưởng công không thủ trưởng?
- Lại còn thế nữa! Cậu đã nói xấu tôi những gì, chưa phạt thì thôi, còn đòi thưởng. Này, bước tới gần đây, tôi thưởng cho...
Phúc phá ra cười:
- Thôi, em quá biết cái món điểm huyệt của anh rồi, dại gì! Nè anh Văn, trưa nay em báo cơm D3 đấy nhé. Lo giết gà vịt đón khách đi là vừa.
- Ở đây làm gì có, chỉ có món "bò hóc quân đội" đãi cậu thôi - Văn cười ha hả, rồi quay sang Huy, anh nói - Huy này, cậu lại đây, để tớ giới thiệu sơ về tiểu đoàn cho cậu biết. Tớ là Thạch Văn, quê ở Cao Bằng, chắc cậu biết rồi..
Sau đó, Văn kể cho Huy nghe về tên tuổi của các cán bộ tiểu đoàn và đại đội, các trung đội trực thuộc, tình hình tổng quát của tiểu đoàn, rồi bảo:
- Bây giờ, cậu sẽ về trung đội 12 ly bảy, đúng như chuyên môn của cậu. Nhưng tạm thời, cậu vẫn chỉ là chiến sĩ thôi. Vì cậu mới về mà nắm chức chỉ huy khẩu đội ngay thì anh em không phục. Với lại, cậu cũng chưa có kinh nghiệm thực tế là mấy, cũng chưa làm được đâu. Cứ cố gắng công tác, chiến đấu cho tốt, rồi tự khắc khi anh em trung đội đề xuất lên, tôi sẽ chính thức bổ nhiệm cậu. Vậy nhé, có thắc mắc gì nữa không?
- Dạ không. Vậy em xin phép được về B ngay, nghe anh Văn.
- Vội gì, cứ ở đây, cơm nước xong xuôi, tớ bảo thằng Kiên đưa cậu xuống dưới. Giờ cậu xuống thì chẳng còn cơm đâu mà ăn.- Văn đảo người tìm Kiên, liên lạc tiểu đoàn, nhưng Kiên đã đi đâu ra ngoài, anh gọi to - Kiên ơi! Em coi cơm chín chưa dọn lên đây nào.
Ngoài kia, mưa lại bắt đầu rơi lất phất. Từ sau gian lều thoảng ra mùi ruốc cá xào, Kiên bê mâm cơm và thức ăn lên.
Chương 4
"... Mưa. Mưa ròng rã mấy ngày liền. Cả cao điểm chỉ còn là một chiếc màn nhạt nhòa màu trắng xám..
Mưa tầm tã suốt những ngày, rào rào đập xuống mái túp lều dã chiến, như một tay đàn bass trong cơn cao hứng. Mưa lặng thầm rỉ rả suốt những đêm, như muốn kể lể một điều gì, than van giùm ai đó.
Con sáo Chíp của Ụ Mối không nhảy loi choi phá phách như thường lệ. Nó chui vào nép mình trong một góc nắp ba lô nằm im thin thít, chỉ có hai con mắt tròn xoe tinh nghịch là vẫn láo liêng nhìn ngó mọi người như dò hỏi, thắc mắc: "Sao lạnh thế? Sao buồn thế? Sao không thấy mặt trời với những tia nắng vàng tươi ấm áp?".
Dạo đầu tháng Giêng, khi đơn vị vừa lui về đây dựng trại, nắng đến sẩu cả người. Nắng cứ ong ong chiếu thẳng xuống đầu, nóng rừng rực như muốn nung đỏ cả giải cát trắng bìa rừng, muốn sấy khô những cành lá xác xơ, khô cằn đầy bụi của những lùm những bụi, những gốc cổ thụ già nua. Rồi từ cơn mưa đầu mùa trái nết một ngày cuối tháng Hai, trời mưa mãi, tối trời tối đất.
Trận mưa đầu tiên, cả trung đội mừng phát khóc, khoái chí vô cùng.
Họ mừng vì không khí sẽ mát mẻ, dễ chịu, đêm không còn phải nằm trăn trở, mồ hôi tươm ra nhớp nhúa; vì lũ ruồi nhặng đông đúc đến kinh hoàng, không biết từ đâu kéo đến sẽ không còn tác oai tác quái; vì không còn phải vất vả hằng ngày lên hồ Ampil cách đó bảy tám cây số để tắm giặt, tải nước về dùng...
Mọi người ùa ra, reo lên khi những giọt nước ngọt ngào bắt đầu trút xuống liên miên, bắt đầu dệt thành một chuỗi vô tận trắng mờ mịt những hạt nước mưa to nặng. Mưa! Mưa rồi! Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống...
Họ lột phăng quần áo ra cầm trên tay quay tròn vun vút, mình trần như nhộng, như trẻ thơ vừa mới lọt lòng, như những thiên thần hồn nhiên vô tội. Rồi cả bọn nhảy tung tăng, đứa hát, đứa gào lên những lời vô nghĩa, đứa nằm lăn ra, ngửa mặt, xoảy tay chân, há hốc miệng, cho mưa tràn trề rơi xuống vỗ về.
Mưa đi! Cứ mưa đi! Mưa cho quét sạch bụi bặm trần gian, quét sạch những nỗi buồn lo, quét sạch những suy tư nhớ nhung căng đầu căng óc. Cho chúng tôi hóa thân, trộn lẫn vào với những giọt nước ngọt mát trong veo...
Nhưng rồi mưa như muốn thỏa lòng nguyện ước của họ, nên cứ hào phóng rơi mãi, tuôn trút dầm dề suốt cả tuần. Mưa trắng trời trắng đất, chẳng có đồ sạch mặc vì treo phơi mãi mà quần áo chưa chịu khô cho. Cũng chẳng thể kiếm chác cải thiện gì được với những cơn mưa ào ạt. Chỉ có nước là nhiều, lúc nào cũng tràn trề mấy cái bồn làm bằng mấy tấm nylon đi mưa trùm lên hố đất. Nắng mãi cầu mưa, mưa hoài nhớ nắng. Thiên nhiên có bao giờ ban phát bình quân đều đặn, không thừa không thiếu theo ý muốn con người..."
Quân miệt mài ghi chép. Anh đang viết một bút ký để gửi cho tạp chí Văn nghệ Quân đội. Không khí lành lạnh, ẩm ướt và tiếng mưa rơi đều đều bất tận làm anh thấy nao nao. Trong lều tối om om, cả ngoài trời cũng một màu u ám. Mọi thứ đều xám, lạnh, buồn, nhưng chứa đầy sinh lực bên trong, khơi dậy niềm cảm hứng.
Có lẽ kỳ này Ban biên tập sẽ không gạt bỏ bản thảo của anh. Nó đã được viết trong niềm rung động sâu xa. Nó gắn chặt, quyện vào với những cảm xúc chân thật, đầy sức sống, và toàn là những điều có thật. Ðây không phải là một câu chuyện kể bình thường. Ðây chính là những nụ cười, nước mắt, những giọt mồ hôi rơi xuống ướt đẫm chiếc áo lính bạc màu; là ánh nắng vàng rực rỡ lúc cuối ngày hắt xuống cánh rừng dầu; là những khoảnh khắc mong manh, thiêng liêng giữa cuộc sống và cái chết của đồng đội, bạn bè anh...Nghĩa là toàn bộ cuộc sống của bọn anh ở đây, trong những tháng ngày này, đã thu gọn, biến hình, chuyển hóa thành con chữ.
Tiểu đoàn đã lui về đây nằm chốt từ sau đợt tấn công Ampil để huấn luyện phối hợp quân binh chủng với tăng, pháo chuẩn bị cho trận đánh lớn kế tiếp. Những ngày tháng tương đối nhàn hạ và yên tĩnh với đơn vị của anh - một trung đoàn cơ động của Sư, một trung đoàn cứ xê dịch, hành quân di chuyển miệt mài suốt hàng trăm ki lô mét dọc chiều dài biên giới vùng Tây bắc, đánh nhau hết trận này tới trận kia, hết trận to sang trận nhỏ ngay từ trước khi anh về đơn vị.
Cánh rừng này nằm cách hồ Ampil khoảng tám cây số đường chim bay về hướng Tây Nam. Một cánh rừng thưa, chủ yếu là cây dầu cổ thụ, đứng rải rác trên nền cát trắng, hệt như cát ở vùng Củ Chi quê ngoại của Quân. Ở đây quả là nhàn thật, quá nhàn là đằng khác. Các đơn vị của Polpot và Sonsan giờ nằm dạt đâu đó ở trên đất Thái, đã mất hồn và kiệt quệ sau đợt tấn công vừa rồi. Chúng còn đang co cụm, củng cố lực lượng chờ phục hồi sinh lực, nên cũng chẳng hơi sức đâu mà lén lút bò sang quấy nhiễu. Ðây là những tháng ngày bình yên, những tháng ngày hiếm hoi quý báu cho sự nghỉ ngơi và trở lại với cuộc sống không tiếng súng, không vất vả, không có những phút giây căng thẳng khi ém quân chờ giờ nổ súng. Nhưng đôi khi, bọn anh cũng hơi buồn, nhớ những cuộc hành quân đầy phấn khích, nhớ những đợt xung phong, nhớ mùi thuốc súng tỏa ra khét lẹt một vùng trận địa.
Quân viết thật sẻn so, với những dòng chữ li ti, mỏng mảnh.
Giấy ở đây là thứ quá hiếm hoi. Mấy quyển vở học trò anh mua khi ở Cứ giờ chỉ còn lại có dăm cặp giấy đôi. Có khi ở tòa soạn tạp chí, người ta đã vứt bỏ những bản thảo trước của anh ngay từ đầu, khi thấy chúng viết trên cả hai mặt giấy; vứt bỏ một cách bực dọc mà không buồn liếc qua xem chúng ghi chép những gì, dù anh đã cẩn thận ghi ở đầu mảnh giấy một dòng chữ to đầy khẩn thiết, van nài: "XIN VUI LÒNG THÔNG CẢM, CHÚNG TÔI KHÔNG CÓ GIẤY!" .
Quân nghĩ, ở tòa soạn báo Quân đội, dĩ nhiên đa số trong Ban biên tập phải là con nhà lính, nếu không phải là tất cả. Và đã là lính, tất họ phải hiểu giấy là thứ quí hiếm đến thế nào ở chiến trường. Họ phải biết nỗi xót xa phải xé dần, xé dần những lá thư của người yêu ở xa xôi, những dấu tích duy nhất, thân thương liền khúc ruột ấy của người mình yêu mến để cuộn thuốc rê. Ấy là vì tình đồng đội.
Có những thằng chẳng bao giờ lưu tâm tới chuyện giấy má thư từ. Với đứa này thì vì mù chữ, với đứa kia vì bị phụ tình, đứa nọ gia đình ở quê nhà đã từ lâu không còn liên lạc gì nữa. Nhưng tụi nó cũng cần giấy, dù chỉ là để vấn thuốc mà thôi. Và những tờ giấy, dù là giấy vở trắng tinh chưa dính chút mực, hay là trang thư chứa đầy những lời thương nhớ thiết tha, là giấy báo mềm mại dễ dùng, hay là giấy đen khổ to để viết công văn, báo cáo cứng còng, dòn rụm... đều cùng với thuốc rê, hay với lá hà thủ ô biến thành khói nhuộm đen buồng phổi của những kẻ xa nhà.
Bạn có thể nhịn thèm, chờ một dịp may nào đó, khi có một tờ báo hay một quyển tạp chí chôm được hay xin được ở Trung đoàn. Nhưng nếu bạn là người "giàu có" , là tiểu chủ nắm quyền sở hữu một vài manh giấy, bất kể giấy gì, bạn đâu thể nhìn bạn bè mình bứt tóc bứt râu vì thèm thuốc, nhất là khi còn thuốc mà giấy đã hết rồi. Và những điếu thuốc chẳng giống ai ấy lại rất ngon, ngon hơn bất kỳ thứ thuốc thơm nổi tiếng nào trên trái đất. Chúng ngon vì sự thiếu thốn, vì sự chia sẻ, vì tình cảm đồng đội thân thương gắn bó.
Nói đến giấy, mà không nói đến tem, là một thiếu sót vô cùng trầm trọng. Mỗi người được phát ba con tem quân đội mỗi quý. Thật là chẳng thấm vào đâu! May mà có những đứa chẳng khi nào dùng đến chúng như đã nói trên. Vậy là mọi con tem được phát ra cuối cùng đều được sử dụng cho sứ mệnh thiêng liêng cao quý của chúng. Hoặc là dán lên những cánh thư, hoặc là dán lên những phong bì đựng bản thảo phụng sự cho văn học.
Nói đến phong bì, lại đẻ ra thêm một chuyện. Lính làm gì có những phong bì đúng nghĩa. Phong bì, nghĩa là một mảnh giấy, có khi lem nhem chữ nghĩa, hình vẽ lăng quăng, được gấp lại, dán bằng cơm nguội một cách lôi thôi. Tuy nhiên, nói đi rồi nói lại, cũng có những khi anh em ta được một thời phủ phê, giàu có. Nào giấy, nào vở, nào thuốc điếu, thuốc lào, bánh kẹo, thư từ động viên thăm hỏi của mấy cháu thiếu nhi... Ấy là những dịp bắt đầu vào mùa chiến dịch, hoặc những dịp lễ lớn ở quê nhà. Nhưng những dịp đáng yêu như vậy cũng ít oi có thấm vào đâu, và thiếu thốn vẫn hoàn thiếu thốn.
Những trang bản thảo của Quân đã lôi thôi như vậy về hình thức, nhưng cũng còn dễ chấp nhận được nếu mọi chuyện chỉ dừng ở đó. Thế nhưng không, bản thảo của anh lại còn mang đủ màu đủ sắc. Mực viết Bic xanh dương đậm. Mực bơm vào viết máy tim tím, xanh lá mạ non nguyên là thuốc màu nhuộm vải xin được của dân dạo còn ở Cứ. Rồi có khi là những đoạn ghi bằng bút chì. Bởi vì một truyện viết ở đây có bao giờ đi một lèo thẳng tắp. Chúng luôn bị ngắt ngang đột ngột ở một đoạn, một dòng nào đó, vì một ngàn lẻ một lý do: địch tập kích, hành quân chiến đấu, đi công tác, bị lên cơn sốt... Và những dòng chữ này còn có khi nhem nhuốc, nhạt nhòa vì thấm nước mưa, đến không tài nào đọc được. Mỗi khi phải bỏ một trang bản thảo bị sự cố như vậy lòng Quân đau như muối xát.
Trăm nỗi đoạn trường, trăm điều cay đắng như vậy đối với từng bản thảo gửi đi - bản thảo duy nhất, không có bản nháp mà cũng không có bản lưu - thế nhưng những truyện của anh vẫn không được ghé mắt đến, hoặc cũng có khi chúng được chiếu cố đăng rồi, nhưng Quân không thể biết.
Ở đây, có khi hàng mấy tháng trời chẳng có gì để đọc. Và những tờ báo, tạp chí rách tươm, nhàu nát kiếm được ở Trung đoàn mang về, thì cũng đã quá lỗi thời, số này số nọ được chăng hay chớ chả có thứ tự gì. Có khi lúc đó là tháng Mười, tụi Quân kiếm được số của tháng Một, tháng Hai tận hồi năm ngoái. Biết đâu chúng đã được đăng trong những cuốn mình chưa đọc - Quân tự an ủi, và vẫn tiếp tục bỏ một phần giấy hiếm hoi của mình để viết, không vì điều gì khác ngoài một sự thật đơn giản: viết đối với anh là một niềm thôi thúc.
Quân đặt dấu chấm cuối cùng kết thúc câu chuyện, rồi vươn vai thở phào vô cùng khoan khoái. Nó đã được khởi đầu từ dạo đơn vị còn nằm ở Cứ chưa hành quân cơ động, nhưng viết giữa chừng thì biết bao công việc bận rộn để chuẩn bị cho một mùa chiến dịch đã buộc anh phải tạm bỏ quên nó đi.
Ôi, cái sự viết lách, "văn-nghệ-văn-gừng" này thật là kỳ lạ! Nó hành hạ người ta, làm người ta quên ăn quên ngủ, làm người ta đầu óc nóng bừng như muốn nổi điên lên với bao nhiêu câu hỏi: Phải tiếp tục câu chuyện dở dang như thế nào đây? Phải dùng từ nào để diễn tả những khoảnh khắc này với bao ý nghĩa? Cây bút này có chịu vâng lời, tuân phục tôi không? Có run rẩy theo nhịp tim tôi run rẩy, có tuôn trào trên mặt giấy như máu tôi đang cuộn chảy rạo rực trong người? Hay là nó cương quyết bướng bỉnh kháng cự lại điều tôi muốn nói? Viết! Thật là nhẹ nhàng, mà cũng thật là vất vả. Nhưng nó cũng thật diệu kỳ, làm tâm hồn sung sướng, lâng lâng phơi phới biết bao. Hạnh phúc khi viết rất là giản dị, nhưng lớn lao không có gì so sánh được, khi có một đoạn, một câu ưng ý, nói lên đúng những cảm xúc, ý tưởng sâu xa.
Quân quay qua Ụ Mối. Nó đang cặm cụi vót những nan tre tròn trỉnh, nhỏ xíu để đan một chiếc lồng cho con sáo cưng của mình. Quả là Ụ Mối rất cưng con sáo. Rừng tre gai cách đây đâu phải gần gì, mười mấy cây đường rừng. Thật ra, con Chíp không ưa gì những chiếc lồng. Nhưng khi hành quân di chuyển, Ụ Mối buộc phải nhốt nó vào lồng. Nếu không, khi dừng lại nghỉ giải lao, con quỷ hiếu kỳ ham chơi này có thể mải mê săn đuổi, tán tỉnh một nàng sáo xinh xinh nào đó, và không kịp trở về khi đơn vị tiếp tục hành quân. Chiếc lồng cũ đã bị bẹp rúm lại khi Ụ Mối lăn mấy vòng để tránh một làn đạn xối xả của địch khi đánh vào cửa mở ở Ampil hồi đầu năm. Ụ Mối tiếc muốn đứt ruột, nó cứ lầm bầm nguyền rủa bọn địch ác ôn đã làm hư chiếc lồng quý báu, sườn lồng không phải làm bằng thứ tre tầm thường mà là những thanh gỗ gõ đỏ đã được nó trau chuốt công phu, cạo vuốt bóng loáng. Dù sao, Ụ Mối ắt cũng mừng thầm là con Chíp vẫn bình an vô sự.
Hồi chuẩn bị đi, Quân đã ngăn không Ụ Mối mang theo con Chíp. Nhưng nó cũng lén lút bằng cách nào đó xách theo vì không muốn xa con chim cưng lâu như vậy.
Quân hỏi:
- Già Hương và thằng Thuận đi đâu mất rồi Ụ Mối?
Ụ Mối không ngẩng đầu lên, làu bàu nói:
- Hai bọn hắn đi kiếm gì về làm thức ăn rồi. Em đòi đi, ông già không cho, còn bảo em "xúi quẩy" lắm, đi theo chỉ tổ trù ẻo cho xui thêm. Anh thấy có bực không! Hừ, hồi còn ở Tà Cuông, ai đi chém cá, săn dộc về cho trung đội? Ai là tay săn thiện nghệ nhất của tiểu đoàn ngoài Ụ Mối này?
Quân an ủi Ụ mối:
- Thôi mày đừng buồn. Ở đây đâu có cá hay có thú cho mày săn bắt. Mà ông già dị đoan cũng phải, ổng là dân xứ đạo An Giang mà. Tại mấy lần trước, có mày đi cùng, rạc cả giò nhưng có kiếm được cái quái gì đâu. Thật ra ở đây chỉ có nước kiếm chút lá rừng chua về nấu canh, đâu cần gì đi đông. Ông già muốn để mày rảnh rỗi làm cái lồng đó thôi, chứ không phải chê gì mày đâu, Ụ Mối à.
- Phải chi trời nắng, em xách xẻng ra một loáng là có khối dông về nướng.
Ụ Mối là biệt danh trung đội dành cho nó, chứ họ tên đầy đủ của nó cũng văn hoa lắm: Phan Quang Dũng. Lý do của cái biệt danh này là vì tự nhiên đã bố trí gương mặt quá tuổi dậy thì của Dũng một cách vô cùng quân sự, mang tính phòng ngự cao độ - nghĩa là lỗ chỗ, lồi lõm những mụn nhỏ, mụt to và sẹo mụn, hệt như một cái ụ mối thứ thượng hảo hạng. Mà ở chiến trường này, có gì quý báu cho bằng một cái ụ mối hiện ra đâu đó khi đang đánh nhau long trời lở đất. Ụ mối là một công sự thiên nhiên vững chắc, an toàn hơn hết. Vậy nên cái biệt danh này không phải là một sự coi thường, mà trái lại, là một niềm vinh hạnh cho người mang nó. Ụ Mối cũng thừa hiểu điều này, nên nó tỏ ra khoái trá vô cùng.
Quê Ụ Mối là một huyện miền núi tỉnh Nghệ Tĩnh, nên nó đánh bắt thú rừng rất giỏi. Những đêm nằm nhớ nhà, Ụ Mối cứ kể cho tụi Quân nghe về những chuyến đi săn tuyệt thú của nó. Cái giọng trọ trẹ, khó nghe của Ụ Mối hồi mới về đơn vị chả có ai nghe ra nổi, nhưng sau rồi cũng quen dần. Ở đây, tụi Quân gọi mấy đứa quê ở Nghệ An, Hà Tĩnh là con nhà "Bọ". Bọ nghĩa là bố. Dân Nghệ Tĩnh có lắm thổ ngữ, nên cũng tạo ra nhiều giai thoại vui đáo để. Ví dụ như dưới đây là một trong số đó:
Trung đội vừa nhận được mấy thằng Bọ tân binh,về tới nhà, A trưởng nói:
- Thôi, tụi bây theo thằng A. ra giếng tắm rửa đi rồi về ăn cơm.
Tắm táp xong, mấy chàng lính mới quay về. Bữa cơm đã được dọn lên, tinh tươm hơn ngày thường chút đỉnh để chào mừng đồng đội mới. Mấy tay cũ ngồi quây quần lại bên mâm, bỗng ngạc nhiên khi thấy tụi tân binh vẫn đứng lóng nga lóng ngóng.
- Nè, ngồi xuống ăn cơm đi chứ, tụi bây còn mắc cở gì nữa vậy? - A trưởng nói.
Mấy đứa khép nép ngồi, còn một thằng vẫn đứng lơ láo.
- Ngồi xuống ăn đi chứ mậy, chờ gì nữa?
- Dạ dạ... em không có đọi!
- Không đói thì cũng ăn thêm một hai chén cho vui.
- Ơ, em không có đọi...!
- Thôi không đói thì thôi. Lính mà, thấy ăn là cứ nhào vô, không chờ mời mọc nhiều lời, chừng nào đói mầy qua nhà bếp mà ăn nghe.
Tên lính mới nhìn mấy đứa đồng hương, rồi nhìn mấy cái miệng đang nhai nuốt ngồm ngào mà nuốt nước bọt, vừa đói vừa tức mình, vừa sợ sệt không dám nói gì.
"Ðọi" thổ ngữ Nghệ Tĩnh có nghĩa là chén. Nó đã làm rớt cái chén B52 đâu đó trên đường. Thế nhưng do cái giọng địa phương, dấu sắc thành dấu nặng, mà cánh lính miền Nam cứ nghĩ là nó nói không có đói! Ðến khi, một thằng đồng hương ních hết chén cơm cuối cùng, đưa cho thằng này. Nó chạy ra bồn nước trước nhà ngoáy mấy cái rồi nhào vào, bới cơm, ăn hùng hục như đói từ ba đời ba kiếp nào trước những cặp mắt ngạc nhiên. A trưởng hỏi:
- Ủa, sao mày nói không đói mà bây giờ ăn thấy kinh vậy?
Một thằng ngập ngừng giải thích, nó chỉ cái chén nói:
- Nó không có đọi, tức là không có cái này.
Cả A ôm bụng cười nghiêng ngửa. A trưởng vừa cười sùng sục, vừa cố thốt:
- Ðiệu này, tao phải lập một bản tự điển giải thích mấy từ độc đáo của tụi bây rồi.
Dĩ nhiên đây chỉ là giai thoại. Có lẽ nó ra đời từ những ngày chống Mỹ, hay trước đó nữa cũng nên. Nhưng những giai thoại như vậy vẫn hay được nhắc đến để trêu ghẹo những chàng lính "quê choa".
Quân nhớ tới mấy giai thoại đó và bỗng bật cười hăng hắc. Ụ Mối ngạc nhiên nhìn anh:
- Anh làm gì mà khi không cười một mình vậy?
- Không có gì, tao nhớ mấy chuyện cũ.
Ụ Mối cúi xuống, tiếp tục vót nan. Anh ngâm nga ư ử trong cổ mấy câu dân ca xứ Nghệ: "Ðã thương thì thương cho trót. Ðã trục trặc thì trục trặc cho luôn. Chứ đừng như con thỏ ở đầu truông. Khi vui nó giỡn bóng khi buồn nó đùa trăng..." .
Quân bước tới góc lều, nơi balô của anh treo trên một cây cột chừa một nhánh chạc hai - một kiểu móc quần áo ba lô đặc trưng "mô-đen-dã-chiến" của cánh lính nhà ta. Anh lấy ba lô xuống, moi cái bọc nylon đựng sổ sách giấy tờ ra, nhét cẩn thận mấy trang bản thảo vào, rồi gói ghém lại, treo lên. Anh chép miệng:
- Thèm thuốc quá, giờ mà được rít mấy hơi thì còn hơn lên thượng giới uống rượu quỳnh tương của Ngọc Hoàng thượng đế!
Lều có tổng cộng bốn chạc hai treo ba lô, nghĩa là có bốn người: Quân, Ụ Mối, Già Hương và Thuận kều. Ở trung đội, Già Hương, trung đội phó hậu cần, là người lớn tuổi nhất - hai mươi chín. Kế đó là Quân - hai mươi bảy. Còn lại thì sồn sồn một lứa từ đứa nhỏ nhất là mười chín, đến đứa lớn nhất khoảng hăm mốt, hăm hai. Trung đội có bốn lều, tức là có quân số mười sáu tay súng bộ binh. Quân số thực là hai mươi lăm, nhưng vắng hết bảy người: Ba tay đang lên cơn sốt nặng hồi sắp hành quân cơ động ở lại giữ Cứ, thứ tư là Trung - A trưởng đã hy sinh trong đợt đánh Ampil vừa qua, thêm hai tay bị thương đang nằm viện ở Chúp, và cuối cùng là Phương, B trưởng, đã đào ngũ sau trận đánh chiếm Ampil.
Tạm thời thì Quân nắm quyền chỉ huy trung đội 12 ly bảy. Thật ra, anh đã là B phó quyền B trưởng từ năm 1982, nhưng đầu 1983, Phương học quân chính ở Sư về, thay thế anh chỉ huy B. Một con người cơ hội, đầy thủ đoạn, ham hố trèo thật nhanh thật cao trong nấc thang cấp chức, nhưng không bằng năng lực mà bằng mọi mánh khóe.
Nói cho công bằng, Phương cũng là người có tài năng trong việc vạch ra các kế hoạch, phương án huấn luyện hay tác chiến, hay trong phân công công tác. Nhưng Phương là dạng người mồm mép đỡ tay chân, y lại chưa từng qua chiến đấu bao nhiêu, vừa sang K. đánh một hai trận lẻ tẻ đã xin đi học sĩ quan sơ cấp, rồi khi ra trường về đơn vị chưa bao lâu lại gặp ngay đợt chiến dịch lớn nhất, căng nhất trong suốt bốn năm qua. Y bỏ trốn, có khi là điều hay. Một chỉ huy hèn nhát có thể làm anh em đổ máu, hy sinh một cách vô ích và phi lý.
Quân từng có kinh nghiệm xương máu về vấn đề này. Ðó là một trận đánh vào cuối mùa khô năm 1981 ở phía Ðông huyện S'vai Chek. Lúc đó, anh còn là xạ thủ B40 của đại đội 12.
Khi ấy, đại đội đang trên đường về Cứ sau một đợt truy quét mười ngày. Gạo hết, nước hết, nhưng đơn vị chỉ còn cách Cứ khoảng năm cây số, nghĩa là chưa tới một giờ hành quân. Mùa nắng ở Campuchia, cái cần yếu nhất chính là nước uống, vì có khi đơn vị đi hàng chục cây số băng qua những cánh trảng mênh mông của Bát Ðom Boong. Trên đầu là mặt trời đỏ rực bừng bừng, dưới chân là lớp đất ruộng khô nẻ săn cứng lại như bê tông, lỏi chỏi những gốc rạ đốt cháy nham nhở còn sót lại. Những con suối, con mương dẫn nước đều chỉ chảy có một mùa - mùa mưa, còn mùa nắng, chúng chỉ là những đường rãnh thấp ngoằn ngoèo, trơ trọi lớp bùn khô. Và trên suốt hàng mấy chục cây số hành quân đó, thỉnh thoảng mới có một cây độc mộc đứng lẻ loi, hoặc một lùm cây lè tè khô héo, không đủ che mát một mái đầu. Hành quân mang vác nặng, mồ hôi ra nhiều nên cũng cần nước để bù đắp lại cho cơ thể. Những tay lính cũ cẩn trọng lúc nào hành quân chiến đấu cũng thủ sẵn một bình toong chí cốt trong ba lô, chỉ khi chết sống mới dùng đến.
Nhưng lần ấy, C đã về gần đến Cứ, và ở chặng giải lao cuối cùng trước đó, mọi người, dù là người lo xa nhất, cũng đều dốc hết nước vào bụng cho đã thèm. Người không uống mấy thì cũng nhường chỗ nước còn lại của mình cho mấy đứa trẻ hơn, đã hết nước từ đời nảo đời nao. Khi sắp đến một con suối một mùa lớn giữa trảng, chợt đại đội bị phục kích bất ngờ. Khoảng hơn tám mươi tay súng địch đã phục sẵn dưới lòng suối, ở một khúc vòng cung hiễm trở. Ðại đội nhanh chóng tản ra phản kích. Nhưng ai cũng vừa mệt, vừa đói, lại khổ nhất là khát khô cả cổ, mà cuộc đọ súng cứ giằng co. Ðịch đã chuẩn bị tinh thần, vật chất đầy đủ để kềm chân hòng tiêu diệt đơn vị của ta theo chiến thuật dĩ dật đãi lao. Và chúng quyết không để cho tụi anh thoát khỏi gọng kềm. C trưởng khi ấy là Vụ, người Thanh Hóa, rất vui tính nhưng cũng đánh nhau rất cừ. Anh vẫn thản nhiên, bình tỉnh xếp đặt kế hoạch rút lui, sau đó anh cho liên lạc bò lên từng bộ phận triển khai kế hoạch. C sẽ cầm cự đến chiều, chờ khi mặt trời sụp xuống. Khi ấy lợi dụng bóng đêm sẽ từ từ rút. Hỏa lực gồm khẩu cối sáu và khẩu đại liên sẽ rút ra trước đến vị trí an toàn rồi phát hỏa kềm chế cho số còn lại rút ra. Trung đội 4 rút sau cùng theo đội hình tổ tam tam. Kế hoạch lẽ ra đã tiến hành hoàn hảo, nếu không vì sự hèn nhát của Dung B trưởng B5. Thay vì chờ phối hợp rút một cách bình tỉnh, thong thả, an toàn, anh quá sợ sẽ bị cầm chân, và chết khát nếu không thoát được, nên khi liên lạc vừa mới kịp phổ biến kế hoạch cho các A trực thuộc và B4, Dung đã ra lệnh cho B5 liều mạng tháo chạy về hướng Tây, hướng có Cứ của tiểu đoàn hai, không chờ lệnh của C trưởng Vụ. Số lính B5 mở đường máu thoát ra khỏi tầm hỏa lực địch hôm đó chỉ còn vỏn vẹn hơn một phần ba. Hai phần ba chết hoặc bị thương nặng, mất máu quá nhiều, nên sau đó cũng chết khi có chi viện của D2 tới.
Lần bị vây hãm ấy đã ăn sâu vào ký ức Quân như một vết hằn, vì trong số lính hy sinh có Khoa, có Ðạt, là những bạn vô cùng thân thiết của anh...
Từ ngoài căn lều, cách khoảng hơn trăm mét, chợt nghe thấy tiếng kêu réo ơi ới của Thuận kều:
- Anh Quân ơi, Ụ Mối ơi, qua nhà bếp mau đi... Có đồ nhậu rồi.
Ụ Mối ló đầu ra, nghiêng ngó, rồi thụt vô bảo Quân:
- Em thấy thằng Thuận xách con gì như con vịt ấy, anh Quân ạ!
- Vậy hả, chắc hai tay này ra hồ bắn được vịt trời rồi.
Ụ Mối lầm bầm:
- Cái hồ chết tiệt này đúng là vô duyên vô dụng, em nỏ bao giờ thấy có chim cò gì, cá thì nhỏ chút bằng ngón út, đầy xương, mà cũng nỏ được bao nhiêu.
Quân cười xòa:
- Thôi, tại mày chưa gặp dịp đó. Chứ Già Hương hay thằng Thuận làm gì bá phát bá trúng như mày. Mày biết tại sao hồ không có cá, mà cũng không có chim chóc gì không? Tụi Trung đoàn tám ở đây cứ đánh trái hà rầm, cá to nào còn với tụi nó. Với lại vừa rồi mình đánh chiếm Ampil, đạn pháo ầm ầm, chim cò mất hồn mất vía trốn sạch hết rồi. Con vịt trời này chắc là loại thương phế binh hạng nặng nên mới còn lề mề ở lại đây chờ vô nồi đó Ụ Mối ơi.
Quân và Ụ Mối bước vào nhà bếp. Mọi người đã quân quần ngồi bên những bát nước nóng bốc khói. Bình và Phái điển đang loay hoay nhổ lông con vịt. Thuận kều quay sang Quân, nói với vẻ quan trọng:
- Anh Quân, lúc nãy về ngang qua Tiểu đoàn bộ, em gặp thằng Kiên liên lạc. Nó báo cho em một chuyện. Anh biết gì không? -Thuận ngưng lại, ỡm ờ.
- Thì mày cứ nói đi! Mày lúc nào cũng làm ra vẻ quan trọng những chuyện nhỏ như cái móng tay. - Tiến cóc bực mình quát Thuận.
- B mình sắp có thêm một tay súng, tay này nghe nói học hạ sĩ quan ở bên nước mới qua. Chắc hắn về đây thay cho anh Trung đó.
- Vậy à! - Quân bình thản nói. Anh là người trầm tỉnh, kín đáo, vui buồn ít khi lộ ra mặt. Thật ra, cái tin này cũng làm anh rất nôn nao như hầu hết mọi người khác. Ở chiến trường, có thêm được một người là rất quí, vì quân số luôn luôn bị hao hụt, mất mát do bị thương, bị bệnh. Có thêm một người là bớt đi một phần gánh nặng trong công tác, chiến đấu, và thêm một niềm vui. Chỉ mong sao nó không phải là một thằng Phương thứ hai - Quân thầm mong ước, anh nhìn con vịt, hỏi Già Hương:
- Anh hay Thuận bắn được vậy? Con này coi bộ cũng cỡ tám chục tuổi rồi! Tha hồ mà nhai đó nghe!
- Tao bắn. Kể cũng buồn cười. Ði mãi mà chẳng thấy thứ gì ăn được, tao nản quá chừng, đã tính quay về. Thằng Thuận cứ nằn nì bảo tao lên hồ họa may kiếm chác được gì. Thế rồi, lên đó, thấy con vịt này đang lặc lừ trên bờ hồ. Nó bị thương ở cánh, bay không nổi. Chắc là bị ai bắn hay trúng mảnh pháo lúc đánh nhau.
- Em bảo Già Hương ráng bắt sống nó để về lấy tiết đánh tiết canh mà ổng không nghe. Ổng sợ bị sẩy mất uổng nên tỉa luôn. Chà! Nhắc tới tiết canh mà phát thèm. Phải chi có gừng, cháo vịt chan nước mắm gừng, trời mưa này ăn đúng là nhức nhối!
Mọi người im lặng. Mưa lại bắt đầu rơi tí tách bên ngoài. Câu ước ao của Thuận chợt gợi lên một nỗi nhớ không tên về quê hương. Nỗi nhớ thơm mùi cốm dẹp mùa lúa mới, thơm mùi thịt chuột đồng khìa xả ớt mùa nước nổi, thơm mùi khói rạ đốt đồng những buổi chiều vàng...
Con Chíp thật là nghịch ngợm. Nó cứ mổ mổ vào môi Huy làm anh không sao ngủ được yên. Huy bực mình tóm nó, co ngón tay ký mấy cái nhẹ vào cái đầu bướng bỉnh. Khi Huy buông tay, nó bay vù ra đậu trên cành cây nghiêng xuống trước cửa lều, chẩu đôi mỏ nhọn nguyền rủa anh: "Cút mẹ mày đi! Cút mẹ mày đi!"
Ụ Mối toàn dạy cho tên đệ tử của hắn những câu linh tinh, bậy bạ, và con sáo này cứ cố tình áp dụng bừa bãi tùy hứng, chẳng ăn khớp hoàn cảnh tí nào. Có khi mọi người đang ngồi vui vẻ trò chuyện, nó chợt kêu lên, theo cái khẩu âm trọ trẹ nặng nề của Ụ Mối: "Tối rồi ngủ đi! Tối rồi ngủ đi!" Có khi, giữa buổi trưa vắng lặng, nó buồn tình réo mãi liên hồi: "Nghỉ cho mát! Nghỉ cho mát! Nghỉ cho mát!..." Một lần, tiểu đoàn trưởng Văn ghé trung đội, nó oang oang thét vào mặt anh: "Mê mai cầm pê, mê mai cầm pê! 1 Chơi mãi quên về, chơi mãi quên về!.."
Huy thường quần mấy bụi cỏ bắt châu chấu, cào cào cho con Chíp, nên nó rất khoái anh. Trừ Ụ Mối, chỉ có Huy là có thể kêu nó đậu xuống tay, hay huýt sáo rủ nó đi theo vào rừng.
Có con Chíp, nhiều khi cũng vui vui, khuây khỏa, nhưng nhiều khi mọi người bực phát điên lên với nó. Nó tha mấy cái muỗng mà ai đó quên nhét vào túi cóc ra tận ngoài trảng cỏ, quăng ở đó. Nó mổ vào cái lon đựng thuốc rê, lôi từng nhúm thuốc ra, bỏ vương vải trên nền đất, rồi nhảy lên thành lon nhún nhún, cho đến khi cái lon nghiêng úp lại, thuốc, giấy đổ tung tóe. Lúc đó, như đã hoàn thành một kỳ công ghê gớm, cu cậu bay lên cây ưỡn ngực hót lên một tràng đắc thắng.
Nhưng buồn cười nhất, là nó cũng biết trả đũa ra trò. Trong trung đội, nó ghét nhất là Phái điển, vì anh hay đuổi bắt nó, vung cành cây quất dọa nó những khi nó phá nghịch. Một lần, canh lúc Phái đang ngủ, nó len lén bay tới, nghiêng người thả một bãi phân vào mặt anh với sự chính xác của một phi công tác xạ bậc thầy. Lần ấy, Phái điển nổi khùng, suýt đập chết nó nếu Ụ Mối không kịp thời ngăn anh lại. Từ đó, Phái không đá động gì đến con Chíp nữa, mặc cho nó quậy phá cỡ nào, anh cũng cố bịt mắt, lấp tai làm ngơ đi. Kể ra cũng tội nghiệp cho Phái, đành phải nhịn thua một con chim nhãi nhép nhưng vô cùng láo xược.
Huy vươn vai, rồi ngồi dậy. Nắng bên ngoài lấp loáng qua kẻ lá, đổ xuống mặt đất những đốm hoa loang lổ nhỏ to. Từ sau hôm Huy về trung đội, trời đã dứt hẳn mưa. Cho đến hôm nay thì những gì một tuần mưa dầm mang lại đã biến đi không còn dấu vết gì. Mấy bồn nước lại chỉ còn lưng lưng nước tải từ hồ về. Mặt cát lại khô rang, nóng bỏng. Không khí lại oi nồng. Chỉ có những hàng cây là còn giữ lại được phần nào nét xanh mát của mưa, với những chùm lộc non biên biếc vừa mới nhú.
Ụ Mối nằm xoay trở nãy giờ mà không dỗ giấc được cũng lồm cồm ngồi lên, bảo Huy:
- Tụi mình đi đào dông đi Huy.
Huy gật đầu, bước tới góc lều, nơi dựng xẻng cuốc cầm lấy hai cái, vác lên vai. Con Chíp từ ngoài lượn vào, bay vòng vòng quanh Ụ Mối kêu léo nhéo. Ụ Mối giơ tay lên đe nó:
- Mi chuyên quấy giấc tụi tao. Có bữa ông cáu tiết lên đem xáo măng bây giờ.
- Ðau lòng cò con! Ðau lòng cò con! - Con Chíp quàng quạc kêu lên. Ụ Mối trợn mắt nhìn nó, tự hỏi thầm: "Trời đất! Con quái này học ở đâu vậy? Làm như nó hiểu được tiếng người!"
Huy nhìn vẻ mặt ngơ ngác của Ụ Mối, bật cười. Anh giải thích với hắn:
- Không phải nó biết ông nói cái quái gì đâu. Hôm qua, tôi vừa cho nó ăn vừa đọc mấy câu "Con cò mà đi ăn đêm..." Bây giờ, nó nghe ông nói xáo măng, nên nó nhớ tới câu kế, đọc tiếp cho ông nghe đó!
Ụ Mối vỡ lẽ, gật gù cười khà khà, rồi hắn bước ra cái bồn, múc một chút nước đổ vào cái khăn, đưa lên lau bộ mặt pháo đài kiên cố của mình.
Hai người đi về hướng đông. Hướng này bọn Huy chưa khai thác nhiều, có lẽ "tài nguyên - thực phẩm" còn phong phú. Bãi cát ở sau một khoảng rừng thưa, không có cây to mà chỉ lơ thơ những bụi cây cao ngang đầu người, đôi chỗ có cả những bụi xương rồng to lớn, lởm chởm những gai. Nó kéo dài khoảng năm sáu trăm mét, rồi băng qua một ngọn đồi thấp đầy đá cuội, luồn vào những hàng cây đồ sộ, nơi bắt đầu của cánh rừng già.
Hang dông có đáy nằm cách mặt đất khoảng nửa mét đến một mét, tùy theo kích thước to nhỏ của "chủ nhân", và thường là đâm xéo từ trên xuống một quảng, rồi bẻ ngang song song với mặt đất theo dạng chữ L.
Ðào bắt dông không khó. Ðiều chủ yếu là phải xem dấu chân ở miệng hang để khỏi phí công vô ích. Mấy hôm trước chưa có kinh nghiệm, cứ nhìn thấy hang là Huy hùng hục đào, rốt cuộc chỉ là một cái hang trống, hoặc có những sinh vật khác đang trú ngụ; đôi lúc là một con cóc già xụ, to kềnh; đôi lúc là một chú bò cạp núi khổng lồ, đỏ rực như than đang cháy, giơ hai chiếc càng đồ sộ lên thủ thế. Ụ Mối giảng giải với Huy:
- Ông phải nhìn thật kỷ xem miệng hang nào có cát xước thành những vệt nhỏ - đó là vết chân dông, thì đào mới có. Hang nào mà miệng trơn nhẵn thín nỏ có gì đâu.
Có khi, đào tới cuối hang nhưng chận không kịp, chú dông nhào lên cong đuôi phi sang một cái hang khác gần đó chui xuống, phải làm lại từ đầu. Huy rút kinh nghiệm nên thủ sẵn một cành cây có nhiều nhánh nhỏ. Con dông nào vừa xuất hiện tính chạy là anh quất ngay, xem ra rất có hiệu quả.
Ði vòng vòng một lúc, cả hai đã bắt được sáu con to, khoảng hai tấc đến hai tấc rưởi không kể cái đuôi dài. Ụ Mối nói:
- Thôi, bao nhiêu đây đủ cho bữa ni rồi. Ðể dành đó cho mấy ngày sau.
Huy kéo Ụ Mối tới ngồi nghỉ dưới bóng một lùm cây. Anh móc trong túi cái bao đựng thuốc rê ra, vấn một điếu rồi đưa sang Ụ Mối. Hôm trước, trung đội tải theo xe trung đoàn về cứ, tụi anh đã nhờ họ mua giùm ít thuốc rê và trà. Cả trung đội được một phen hút thuốc uống trà thỏa thuê, bù lại những ngày thèm nhớ.
Huy khoan khoái rít một hơi thuốc thật sâu, rồi chầm chậm nhả khói ra. Anh đưa mắt nhìn lơ mơ về phía ngọn đồi. Dưới ánh nắng, những hòn cuội trắng, đen, xam xám đủ màu đủ cỡ óng a óng ánh như những hòn ngọc quí. Cả ngọn đồi rực rỡ, sáng loá lên. Huy hỏi Ụ Mối:
- Anh Quân lính bảy chín sao bây giờ vẫn chưa ra quân vậy hả Dũng?
- Ông chưa biết sao, anh ấy đâu còn họ hàng thân thuộc gì nữa mà về. Trước khi vào lính, anh Quân ở trong chùa...
Ụ Mối duỗi hai chân ra, kể cho Huy nghe về cuộc đời Quân.
Quân là con một của hai vợ chồng làm nghề buôn chuyến. Trong một chuyến từ Huế trở vào Sài Gòn, chiếc xe bị lật nhào rơi xuống vực. Cả hai người đều chết tại chỗ. Năm dó, Quân lên bốn, do một người vú nuôi mẹ anh thuê chăm sóc. Sau tai nạn, bà ngoại Quân đón anh về nuôi. Nhưng bốn năm sau đó, bà cũng bị bệnh mất đi. Tài sản của ba mẹ và bà đều bị những ông cậu, bà dì họ giành giật, chia chác tiêu tán hết, nhưng lại chẳng ai buồn nhớ tới việc nuôi nấng, dạy dỗ đứa trẻ tám tuổi bất hạnh. Nói chính xác hơn, họ rất quan tâm đến chuyện đó, nhưng ai cũng thành thật tin rằng đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của một người khác chứ không phải của mình. Họ đun đẩy qua lại, trách móc nhau, cải cọ nhau, rồi chửi rủa nhau ngày này qua ngày khác về chuyện nuôi nấng đứa nhỏ, dạy dỗ cho nó nên người, nhưng lại lờ đi chuyện đứa nhỏ cần một bữa ăn, cần một sự lo lắng, thương yêu bằng hành động.
Quân lần mò về thành phố, đi lang thang xin ăn một thời gian. Rồi một bữa anh bị mắc mưa, cảm sốt nằm mê man trước cổng một ngôi chùa nhỏ. Trong chùa, chỉ có một vị sư già trụ trì và một chú tiểu lớn hơn Quân khoảng năm sáu tuổi. Họ bắt gặp anh đang nằm co quắp, ôm anh vào săn sóc, chữa bệnh. Sau đó, vị sư già cho Quân ở lại chùa, nuôi dạy anh cho đến lúc trưởng thành. Quân được nhà sư cho đi học, anh dã có bằng tú tài hai khi Sài Gòn được giải phóng. Sau đó, anh thi đậu vào đại học, nhưng đang học dở năm thứ hai, thứ ba gì đó, thì nhà sư mất. Quân buồn lắm. Anh thương mến vị sư già như cha đẻ. Thêm nữa lúc ấy chiến tranh đang nổ ra ở biên giới, anh liền tình nguyện vào lính, và kể từ đó coi đơn vị như mái nhà của mình.
Huy ngồi im lắng nghe Ụ Mối kể chuyện.
Ngoài kia, ánh nắng đã bắt đầu dịu dần, phai đi trên những ngọn cỏ tranh héo vàng bên tay phải. Ở rừng bóng chiều ụp xuống rất nhanh. Thường thường, vừa mới đó nắng còn chói chang, nhưng chỉ giây lát sau thôi, những hàng cây đã mờ đi, chìm trong làn sáng mờ mờ vàng nhạt; và ở phía trong sâu hơn, chỉ còn thấy những khoảng tối âm u, thăm thẳm. Mấy con sóc bay và bọn dơi quạ bắt đầu tung ra lượn lờ quanh quẩn để săn mồi.
Không ngờ cuộc đời của anh Quân buồn như vậy - Huy thầm nghĩ.
Qua những ngày sống ở đây, Huy chỉ nhận thấy Quân là một người trầm ngâm, ít nói. Nhưng đôi lúc, anh cũng đùa giỡn, kể chuyện tiếu lâm rất nhộn. Anh không hề làm ra vẻ khó khăn, nghiêm khắc, thế mà mọi người trong trung đội ai cũng có vẻ nể trọng, làm theo răm rắp những lời anh nói, kể cả người lớn tuổi nhất là Già Hương. Mọi người còn có vẻ rất quí mến, gần gũi với anh, giữa họ không hề có một khoảng cách nào. Huy thấy Quân có cái gì đó thật gần, thật giống với mình. Ở chỗ nào, Huy không xác định được, nhưng anh cảm nhận được nó, dù suốt nửa tháng qua, anh cũng chưa bao giờ có một cuộc chuyện trò, tâm sự nào thật sự với Quân, ngoài những lời trao đổi thông thường.
- Lần đó, tôi nhận được thư nhà báo tin mẹ tôi bị bệnh nặng vừa mới chết. Tôi nằm khóc cả ngày, bỏ ăn bỏ uống. Anh Quân đã an ủi tôi, rồi anh kể cho tôi nghe những chuyện này... - Ụ Mối nói thêm - Thôi về đi Huy, chiều rồi đó.
Hai người về tới nơi, cả trung đội cũng đang tập trung lại thành mấy nhóm bên ngoài căn lều nấu bếp.
Ngay trước cửa lều là nhóm sáu người: Phái điển, Trung gấu, Thiện, Tiến cóc, Bình, Hưng. Bên tay trái là nhóm Mợi, Lý, Thái, Phú, Trọng, Cường. Nhóm thứ ba là Quân, Thuận kều, Già Hương. Mỗi nhóm đều ngồi trước một thau cơm, và khẩu phần thức ăn cho sáu người.
Ụ Mối nói:
- Chờ thêm tí nữa các đồng chí thân yêu. Mỗi mâm được phân phối hai con "gà đất". Nói đoạn, anh bước vào bếp để nướng dông. Chỉ nhoáng sau, mùi thịt nướng đã bốc lên thơm nhức mũi. Vài phút sau, Ụ Mối cầm mấy con dông đã chín, lột bỏ lớp vảy ngoài, để lộ lớp thịt trắng phao, trông hệt như thịt cá lóc nướng ra, chia cho mỗi nhóm hai con. Rồi anh ngồi xuống nhóm của mình.
Thức ăn buổi chiều gồm có một thau canh lá rừng chua, một dĩa muối trộn ớt khô giã nhuyễn, một dĩa thịt heo đóng hộp, giống hệt như buổi trưa, và cả mấy ngày gần đây. Mọi người ăn thật ngon miệng, dù chẳng có gì để gọi là ngon lành, trừ món thịt dông nướng chấm muối ớt. Nhưng hai con xé ra có được là bao, mỗi người chỉ nhón một miếng là hết sạch.
Dạo vừa đánh xong Ampil, trung đội còn lên đó kiếm được chút rau dền, cải, hay bầu bí, trái đu đủ non mà dân tị nạn trong cứ trồng về nấu canh. Rau chỉ có hạn, mà biết bao nhiêu đơn vị cùng tập trung lên hái, nên chỉ vài ngày sau là chẳng còn một cái gốc rau làm thuốc. Trọng có sáng kiến chặt mấy cái đọt đu đủ về cắt ra mỏng, rửa thật kỷ rồi ngâm muối cho tan mủ, sau đó đem nấu canh. Nhưng sau khi ăn món đó, hầu như ai cũng bị đau bụng một trận nên thân, không ai dám nhắc đến món canh đọt đu đủ nữa. Liên tiếp cả tuần, canh chỉ là nước sôi cho tí bột ngọt và muối vào nêm để dễ nuốt trôi cơm. Nhưng thiếu chất xanh, cả bọn bị táo bón gần chết. May sao sau đó Già Hương tình cờ phát hiện được một thứ cây rừng có lá giống như lá mai nhưng mỏng hơn, có vị chua. Anh nấu thử một ít, tự ăn một mình thí nghiệm, rồi thấy bình an vô sự nên thông báo cho cả bọn đi lùng món rau trời cho này về nấu canh suốt từ ấy đến nay. May một cái nữa là khu rừng trước mặt mọc đầy dẫy loại cây này, nên không còn lo thiếu canh nữa. Có điều, lúc đầu ăn cũng khá ngon, nhưng ròng rã mấy tuần, cứ một món canh vừa chua vừa chát, ai nấy đều ngán tới cổ.
Trung đội cơm nước xong xuôi thì trời cũng đã nhá nhem tối. Quân tập hợp cả trung đội lại hội ý, phân công gác, xong xuôi phần làm việc, anh cười cười bảo:
- Này anh em, tối nay là mười bốn trăng tròn. Chúng ta sẽ pha trà ngắm trăng. Ðề nghị anh Mợi chuẩn bị mấy "bộ phim" mới hấp dẫn tối nay "quay" cho anh em thưởng thức. Thôi, trung đội giải tán.
Mọi người đứng lên, ai về lều nấy. Ở hướng đông, vầng trăng mười bốn to như một chiếc mâm vàng sáng rỡ đã nhú ra.
Trong lính, những "nghệ sĩ quay phim" là những người rất mực được anh em sủng ái và chiều chuộng. Anh ta chỉ việc ngồi xếp bằng chễm chệ, mở mồm ra để tường thuật lại những gì mình đã từng đọc được, xem được một cách ung dung.
Thuốc hút ư? Anh em đã vấn sẵn cho anh mấy điếu to kềnh, chỉ cần cất tiếng là lập tức có người đốt lên, đưa tận miệng cho anh, tha hồ mà rít.
Trà ư? Sẽ có người chuyên từ cái ca inox ra loại trà hãm nước nhất, còn bốc khói, xanh biếc, đậm đặc ngon lành, và đưa đến tận tay.
Nếu anh còn chưa vừa ý, còn muốn làm eo làm nũng, bằng cách vặn cổ, uốn lưng than mỏi cổ, mỏi vai, ngay lập tức sẽ có hai tay đấm bóp "đẳng cấp quốc tế" thay phiên nhau đấm lưng, xoa bóp cho anh với đủ bài đủ bản. Những tay đạt được trình độ đại cao thủ trong nghề quay phim còn được thường xuyên hưởng cái vinh dự là khách mời đặc biệt trong những cuộc liên hoan tiệc tùng ngọt, mặn của các trung đội, thậm chí đại đội lân cận.
Tuy nhiên, "nghề chơi cũng lắm công phu"! Chẳng phải dễ gì mà một bước lên ngay cái chức vua không ngai như vậy.
Trước hết, anh phải là một tay biết nhiều hiểu rộng, là bậc làu thông các tác phẩm nghệ thuật lừng danh kim cổ. Thứ hai, anh phải có một trí nhớ hoạt động một cách bền bỉ và liên tục trong một câu chuyện "ma-ra-tông", có khi phải kể suốt mấy đêm liền mới hết. Thứ ba, anh phải có một năng khiếu bẩm sinh về nghệ thuật kể chuyện, nghĩa là anh phải biết cách làm cho câu chuyện trở nên ly kỳ, hấp dẫn lên gấp bội, phải thêm thắt, phịa ra bằng một sự ngẫu hứng thiên tài những tình tiết nhỏ to, mà chẳng lần nào giống lần nào một câu chuyện; biết ngưng lại đúng lúc một câu chuyện đang lên đến điểm nút, cao trào, để người nghe phải nôn nóng, thòm thèm muốn nghe kể tiếp ngay, dù tình thế khách quan bắt buộc câu chuyện phải tạm dừng ở đó.
Vì những yêu cầu khắt khe như vậy, số lượng những nhà kể chuyện bậc thầy càng trở nên hạn chế, trong khi giá trị của họ càng được nâng cao.
Trung đội được cái diễm phúc vô cùng là có một người như vậy, làm rạng rỡ cả tiếng tăm chung, làm thơm lây cho những anh em khác. Người đó chính là Mợi lác.
Mợi là lính 83, dân Quận 1, khu chợ Cầu Ông Lãnh. Ðã là lính, không anh nào tránh khỏi cái món lác. Bởi vậy, người ta mới có cơ sở để tạo ra một danh từ kép đầy hình tượng: "lính lác". Lính phải có lác, cũng như sông hồ phải có cá, rừng phải có muông chim, điều đó gần như trở thành qui luật! Chính bản thân Huy, hồi còn ở Quang Trung cũng đã bị lác, dù rất vệ sinh, kỷ lưỡng, có ngày tắm tới ba lần! Không riêng gì anh, cả đại đội lúc bấy giờ đều như vậy. Có lẽ, một tay nào đó có mầm mống vi nấm lác trên người đã ẩu tả nhảy vào hồ chứa nước, làm lây nhiễm cả tập thể anh em. Báo hại cứ chiều chiều, sau giờ cơm, toàn đại đội đều tiến hành cuộc "tổng tấn công tiêu diệt lác"! Mà thuốc thì chả có gì ngoài nước Iode, hoặc cồn 90o. Chứng lác có một đặc điểm là thường tập trung ngay tại "cơ quan đầu não", "bộ tổng hành dinh" của quí vị mày râu. Vậy nên cái quang cảnh lúc ấy thật là náo nhiệt. Mọi người đồng loạt lúi húi thoa thoa, xức xức, đồng loạt rú lên những tiếng thét xung phong, và đồng loạt nhảy disco, hay giật soul cho nguôi cơn nóng rát.
Dù sao, lác không phải là một chứng nan y hay khó trị, nên sớm muộn gì nó cũng bị tiêu diệt, trừ những ngoại lệ vô cùng cá biệt, hiếm hoi, ví dụ như trường hợp của Mợi lác. Lác ở anh lan tràn, bành trướng trên toàn bộ mọi bề mặt có lỗ chân lông! Và, hình như nó rất quyến luyến anh, nên nếu anh trị được hết ở chỗ này, thì nó lại chuyển hộ khẩu sang một "địa phương" lân cận. Cuối cùng, Mợi kiệt sức, đầu hàng trong cuộc chiến không cân sức này, anh bắt tay với lác, "chung sống hòa bình" với nó. Anh chỉ còn khổ một cái là phải cẩn thận, dè dặt để tránh cho lác khỏi buồn tình làm một chuyến ngao du qua các cơ thể khác...
Ðêm. Cả trung đội ngồi thành một vòng tròn trên mấy chiếc chiếu.
Trăng đã lên cao gần giữa đỉnh đầu, tỏa xuống một ánh sáng vằng vặc, dịu dàng. Giải cát dưới ánh trăng mịn màng một sắc trắng lạ lùng, huyền ảo. Dường như nó không còn là một vật thể khô khan, thô thiển và làm mắt người ta nhức nhối như dưới ánh mặt trời. Giải cát giờ đây mềm mại, mỏng manh như một chiếc khăn lụa đang nhấp nhô phấp phới, uốn lượn qua những gò, những lũng, những đồi. Những cây cổ thụ lẻ loi, những lùm bụi thấp rải rác, và những hàng cây ở phía xa hiện lên dưới ánh trăng có vẻ hư ảo mơ hồ, như trong một bức tranh thủy mặc. Trên những thân cây mọc gần lều, ở những chỗ có rêu hay địa y bám sáng lên lấp lánh, những chiếc lá như được tráng một lớp bạc mỏng. Các chỗ khuất mà ánh trăng không lọt tới tối và sậm màu hơn, nhưng cũng phát ra một làn phản quang yếu ớt.
Bao giờ ngồi dưới bóng trăng, Huy cũng thấy bình an, thanh thản dù là đang rất buồn lo một điều gì đó. Ánh trăng hình như có một nguồn sức mạnh kỳ diệu lạ thường, nó vỗ về, xoa dịu, và nâng hồn người đến một cõi cao xa, hòa vào hồn đất trời, cây cỏ.
Ánh trăng vằng vặc giúp cho người lính gác đêm có tầm quan sát rộng, dễ dàng phát hiện mọi hiện tượng diễn ra trong tầm mắt, giúp cho những đêm xa nhà ngắn lại, vui hơn, dễ chịu hơn. Anh em ngồi quây quần tán gẫu, nghe kể chuyện, hoặc cùng nhau nhảy lăm thôn, khiêu vũ đôi những điệu slow, tango, bebop dìu dặt, hay điệu cha cha cha, valse náo nức rộn ràng...Có lẽ vì vậy, những đêm có trăng với lính là những đêm tuyệt diệu.
Mợi đang kể đến một đoạn hấp dẫn ở phần đầu truyện Ðồi gió hú. Mọi người ngồi im lắng nghe. Thỉnh thoảng, chỉ có tiếng một cơn gió cuốn qua lay động lá cành. Giọng kể của Mợi sôi nổi, lôi cuốn làm ai cũng quên đi cả giờ giấc. Bỗng từ xa, cách khoảng ba trăm mét về hướng Nam, có ánh đèn pin loang loáng tiến dần về lều trung đội. Trọng đang ngồi gác bên ụ súng quát lên:
- Ai?
- Tâm cối đây mà! - Bóng người đang đi tới hét lên đáp, và tắt đèn pin.
Tâm đã tới gần hơn, đủ để có thể nhận diện được dưới ánh trăng. Anh nói một cách ồn ào:
- Chà, 12 ly cũng đang thưởng trăng phải không. Bên Cối cũng ngồi chơi nãy giờ. Ông Ðạt nhớ anh Mợi, bảo tôi qua đây mời anh qua bển chơi, quay vài khúc. Tôi đã biết thế nào anh cũng có sô ở đây rồi, mà nói ổng không nghe, cứ một hai bảo tôi cứ đi bằng được. Thôi, giờ cho ngồi đây tham dự với mấy anh luôn nghe.
Phái điển và Trung gấu ngồi nhích qua chừa chỗ cho Tâm. Cả ba là đồng hương Quận Tân Bình với nhau, cùng sang đây một lượt. Tâm rất nghiền nghe kể chuyện. Anh là một trong những người hâm mộ Mợi còn hơn cả nhỏ bồ ruột của mình. Có lần, Mợi sang B Cối kể chuyện, trung đội chả ai còn giấy, Tâm lấy cả lá thư nhận được lúc chiều của nhỏ bồ, mà anh cũng chỉ mới đọc lướt qua, xé ra vấn thuốc cho Mợi.
Một lúc sau, Trung gấu đột nhiên đứng dậy. Nét mặt Trung có vẻ kỳ lạ, bồn chồn. Anh im lặng bước khỏi vòng tròn. Mợi ngưng kể, nhìn chằm chặp Trung. Thường ngày, Trung rất thích nghe chuyện, không bao giờ anh bỏ qua một chuyện ngắn chuyện dài nào. Trung đi chầm chậm về phía ụ gác, nhưng còn cách chỗ Trọng khoảng vài chục mét thì dừng lại, ngồi bệt xuống đất. Dáng ngồi của Trung dưới ánh trăng trông thật buồn bã, cô đơn.
Phái điển làu bàu:
- Chắc là nó lại nhớ anh Trung liều, lại nghĩ ngợi vẩn vơ!
Mọi người im lặng trong giây lát.
Phát điển nhóng người về phía Quân, nói tiếp:
- Mấy hôm nay nó có vẻ bất thường lắm anh Quân! Giống như khùng khùng vậy.
Quân nhíu mày. Anh trầm ngâm một lúc, rồi nói:
- Anh em nên chú ý quan sát Trung, gần gũi động viên nó. Nhất là Phái đó, nghe không.
Mọi người lại im lặng. Rồi Mợi cất tiếng:
- Thôi, ta tiếp tục câu chuyện...
Ðêm trôi nhanh. Vầng trăng đã hơi chếch trên cao về hướng Tây. Những vì sao khuất dần, chỉ còn lại những ngôi sáng nhất. Tiếng gà rừng eo óc gáy ở đâu đó rất xa vọng đến mơ hồ.
Câu chuyện ngày càng thu hút hơn qua giọng kể lúc bổng lúc trầm của Mợi. Ðến một lúc, khi Mợi cầm chén trà nhấp một ngụm lấy giọng, Quân nói:
- Thôi, Mợi kể hết đoạn này nữa là giải tán. Chúng ta còn phải nghỉ ngơi để mai bắt đầu tập với các đại đội chiến thuật đánh phối hợp với tăng.
Chú thích:
1. Bà góa hàng trăm! Bà góa hàng trăm!
"... Mưa. Mưa ròng rã mấy ngày liền. Cả cao điểm chỉ còn là một chiếc màn nhạt nhòa màu trắng xám..
Mưa tầm tã suốt những ngày, rào rào đập xuống mái túp lều dã chiến, như một tay đàn bass trong cơn cao hứng. Mưa lặng thầm rỉ rả suốt những đêm, như muốn kể lể một điều gì, than van giùm ai đó.
Con sáo Chíp của Ụ Mối không nhảy loi choi phá phách như thường lệ. Nó chui vào nép mình trong một góc nắp ba lô nằm im thin thít, chỉ có hai con mắt tròn xoe tinh nghịch là vẫn láo liêng nhìn ngó mọi người như dò hỏi, thắc mắc: "Sao lạnh thế? Sao buồn thế? Sao không thấy mặt trời với những tia nắng vàng tươi ấm áp?".
Dạo đầu tháng Giêng, khi đơn vị vừa lui về đây dựng trại, nắng đến sẩu cả người. Nắng cứ ong ong chiếu thẳng xuống đầu, nóng rừng rực như muốn nung đỏ cả giải cát trắng bìa rừng, muốn sấy khô những cành lá xác xơ, khô cằn đầy bụi của những lùm những bụi, những gốc cổ thụ già nua. Rồi từ cơn mưa đầu mùa trái nết một ngày cuối tháng Hai, trời mưa mãi, tối trời tối đất.
Trận mưa đầu tiên, cả trung đội mừng phát khóc, khoái chí vô cùng.
Họ mừng vì không khí sẽ mát mẻ, dễ chịu, đêm không còn phải nằm trăn trở, mồ hôi tươm ra nhớp nhúa; vì lũ ruồi nhặng đông đúc đến kinh hoàng, không biết từ đâu kéo đến sẽ không còn tác oai tác quái; vì không còn phải vất vả hằng ngày lên hồ Ampil cách đó bảy tám cây số để tắm giặt, tải nước về dùng...
Mọi người ùa ra, reo lên khi những giọt nước ngọt ngào bắt đầu trút xuống liên miên, bắt đầu dệt thành một chuỗi vô tận trắng mờ mịt những hạt nước mưa to nặng. Mưa! Mưa rồi! Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống...
Họ lột phăng quần áo ra cầm trên tay quay tròn vun vút, mình trần như nhộng, như trẻ thơ vừa mới lọt lòng, như những thiên thần hồn nhiên vô tội. Rồi cả bọn nhảy tung tăng, đứa hát, đứa gào lên những lời vô nghĩa, đứa nằm lăn ra, ngửa mặt, xoảy tay chân, há hốc miệng, cho mưa tràn trề rơi xuống vỗ về.
Mưa đi! Cứ mưa đi! Mưa cho quét sạch bụi bặm trần gian, quét sạch những nỗi buồn lo, quét sạch những suy tư nhớ nhung căng đầu căng óc. Cho chúng tôi hóa thân, trộn lẫn vào với những giọt nước ngọt mát trong veo...
Nhưng rồi mưa như muốn thỏa lòng nguyện ước của họ, nên cứ hào phóng rơi mãi, tuôn trút dầm dề suốt cả tuần. Mưa trắng trời trắng đất, chẳng có đồ sạch mặc vì treo phơi mãi mà quần áo chưa chịu khô cho. Cũng chẳng thể kiếm chác cải thiện gì được với những cơn mưa ào ạt. Chỉ có nước là nhiều, lúc nào cũng tràn trề mấy cái bồn làm bằng mấy tấm nylon đi mưa trùm lên hố đất. Nắng mãi cầu mưa, mưa hoài nhớ nắng. Thiên nhiên có bao giờ ban phát bình quân đều đặn, không thừa không thiếu theo ý muốn con người..."
Quân miệt mài ghi chép. Anh đang viết một bút ký để gửi cho tạp chí Văn nghệ Quân đội. Không khí lành lạnh, ẩm ướt và tiếng mưa rơi đều đều bất tận làm anh thấy nao nao. Trong lều tối om om, cả ngoài trời cũng một màu u ám. Mọi thứ đều xám, lạnh, buồn, nhưng chứa đầy sinh lực bên trong, khơi dậy niềm cảm hứng.
Có lẽ kỳ này Ban biên tập sẽ không gạt bỏ bản thảo của anh. Nó đã được viết trong niềm rung động sâu xa. Nó gắn chặt, quyện vào với những cảm xúc chân thật, đầy sức sống, và toàn là những điều có thật. Ðây không phải là một câu chuyện kể bình thường. Ðây chính là những nụ cười, nước mắt, những giọt mồ hôi rơi xuống ướt đẫm chiếc áo lính bạc màu; là ánh nắng vàng rực rỡ lúc cuối ngày hắt xuống cánh rừng dầu; là những khoảnh khắc mong manh, thiêng liêng giữa cuộc sống và cái chết của đồng đội, bạn bè anh... Nghĩa là toàn bộ cuộc sống của bọn anh ở đây, trong những tháng ngày này, đã thu gọn, biến hình, chuyển hóa thành con chữ.
Tiểu đoàn đã lui về đây nằm chốt từ sau đợt tấn công Ampil để huấn luyện phối hợp quân binh chủng với tăng, pháo chuẩn bị cho trận đánh lớn kế tiếp. Những ngày tháng tương đối nhàn hạ và yên tĩnh với đơn vị của anh - một trung đoàn cơ động của Sư, một trung đoàn cứ xê dịch, hành quân di chuyển miệt mài suốt hàng trăm ki lô mét dọc chiều dài biên giới vùng Tây bắc, đánh nhau hết trận này tới trận kia, hết trận to sang trận nhỏ ngay từ trước khi anh về đơn vị.
Cánh rừng này nằm cách hồ Ampil khoảng tám cây số đường chim bay về hướng Tây Nam. Một cánh rừng thưa, chủ yếu là cây dầu cổ thụ, đứng rải rác trên nền cát trắng, hệt như cát ở vùng Củ Chi quê ngoại của Quân. Ở đây quả là nhàn thật, quá nhàn là đằng khác. Các đơn vị của Polpot và Sonsan giờ nằm dạt đâu đó ở trên đất Thái, đã mất hồn và kiệt quệ sau đợt tấn công vừa rồi. Chúng còn đang co cụm, củng cố lực lượng chờ phục hồi sinh lực, nên cũng chẳng hơi sức đâu mà lén lút bò sang quấy nhiễu. Ðây là những tháng ngày bình yên, những tháng ngày hiếm hoi quý báu cho sự nghỉ ngơi và trở lại với cuộc sống không tiếng súng, không vất vả, không có những phút giây căng thẳng khi ém quân chờ giờ nổ súng. Nhưng đôi khi, bọn anh cũng hơi buồn, nhớ những cuộc hành quân đầy phấn khích, nhớ những đợt xung phong, nhớ mùi thuốc súng tỏa ra khét lẹt một vùng trận địa.
Quân viết thật sẻn so, với những dòng chữ li ti, mỏng mảnh.
Giấy ở đây là thứ quá hiếm hoi. Mấy quyển vở học trò anh mua khi ở Cứ giờ chỉ còn lại có dăm cặp giấy đôi. Có khi ở tòa soạn tạp chí, người ta đã vứt bỏ những bản thảo trước của anh ngay từ đầu, khi thấy chúng viết trên cả hai mặt giấy; vứt bỏ một cách bực dọc mà không buồn liếc qua xem chúng ghi chép những gì, dù anh đã cẩn thận ghi ở đầu mảnh giấy một dòng chữ to đầy khẩn thiết, van nài: "XIN VUI LÒNG THÔNG CẢM, CHÚNG TÔI KHÔNG CÓ GIẤY!" .
Quân nghĩ, ở tòa soạn báo Quân đội, dĩ nhiên đa số trong Ban biên tập phải là con nhà lính, nếu không phải là tất cả. Và đã là lính, tất họ phải hiểu giấy là thứ quí hiếm đến thế nào ở chiến trường. Họ phải biết nỗi xót xa phải xé dần, xé dần những lá thư của người yêu ở xa xôi, những dấu tích duy nhất, thân thương liền khúc ruột ấy của người mình yêu mến để cuộn thuốc rê. Ấy là vì tình đồng đội.
Có những thằng chẳng bao giờ lưu tâm tới chuyện giấy má thư từ. Với đứa này thì vì mù chữ, với đứa kia vì bị phụ tình, đứa nọ gia đình ở quê nhà đã từ lâu không còn liên lạc gì nữa. Nhưng tụi nó cũng cần giấy, dù chỉ là để vấn thuốc mà thôi. Và những tờ giấy, dù là giấy vở trắng tinh chưa dính chút mực, hay là trang thư chứa đầy những lời thương nhớ thiết tha, là giấy báo mềm mại dễ dùng, hay là giấy đen khổ to để viết công văn, báo cáo cứng còng, dòn rụm...đều cùng với thuốc rê, hay với lá hà thủ ô biến thành khói nhuộm đen buồng phổi của những kẻ xa nhà.
Bạn có thể nhịn thèm, chờ một dịp may nào đó, khi có một tờ báo hay một quyển tạp chí chôm được hay xin được ở Trung đoàn. Nhưng nếu bạn là người "giàu có", là tiểu chủ nắm quyền sở hữu một vài manh giấy, bất kể giấy gì, bạn đâu thể nhìn bạn bè mình bứt tóc bứt râu vì thèm thuốc, nhất là khi còn thuốc mà giấy đã hết rồi. Và những điếu thuốc chẳng giống ai ấy lại rất ngon, ngon hơn bất kỳ thứ thuốc thơm nổi tiếng nào trên trái đất. Chúng ngon vì sự thiếu thốn, vì sự chia sẻ, vì tình cảm đồng đội thân thương gắn bó.
Nói đến giấy, mà không nói đến tem, là một thiếu sót vô cùng trầm trọng. Mỗi người được phát ba con tem quân đội mỗi quý. Thật là chẳng thấm vào đâu! May mà có những đứa chẳng khi nào dùng đến chúng như đã nói trên. Vậy là mọi con tem được phát ra cuối cùng đều được sử dụng cho sứ mệnh thiêng liêng cao quý của chúng. Hoặc là dán lên những cánh thư, hoặc là dán lên những phong bì đựng bản thảo phụng sự cho văn học.
Nói đến phong bì, lại đẻ ra thêm một chuyện. Lính làm gì có những phong bì đúng nghĩa. Phong bì, nghĩa là một mảnh giấy, có khi lem nhem chữ nghĩa, hình vẽ lăng quăng, được gấp lại, dán bằng cơm nguội một cách lôi thôi. Tuy nhiên, nói đi rồi nói lại, cũng có những khi anh em ta được một thời phủ phê, giàu có. Nào giấy, nào vở, nào thuốc điếu, thuốc lào, bánh kẹo, thư từ động viên thăm hỏi của mấy cháu thiếu nhi... Ấy là những dịp bắt đầu vào mùa chiến dịch, hoặc những dịp lễ lớn ở quê nhà. Nhưng những dịp đáng yêu như vậy cũng ít oi có thấm vào đâu, và thiếu thốn vẫn hoàn thiếu thốn.
Những trang bản thảo của Quân đã lôi thôi như vậy về hình thức, nhưng cũng còn dễ chấp nhận được nếu mọi chuyện chỉ dừng ở đó. Thế nhưng không, bản thảo của anh lại còn mang đủ màu đủ sắc. Mực viết Bic xanh dương đậm. Mực bơm vào viết máy tim tím, xanh lá mạ non nguyên là thuốc màu nhuộm vải xin được của dân dạo còn ở Cứ. Rồi có khi là những đoạn ghi bằng bút chì. Bởi vì một truyện viết ở đây có bao giờ đi một lèo thẳng tắp. Chúng luôn bị ngắt ngang đột ngột ở một đoạn, một dòng nào đó, vì một ngàn lẻ một lý do: địch tập kích, hành quân chiến đấu, đi công tác, bị lên cơn sốt...Và những dòng chữ này còn có khi nhem nhuốc, nhạt nhòa vì thấm nước mưa, đến không tài nào đọc được. Mỗi khi phải bỏ một trang bản thảo bị sự cố như vậy lòng Quân đau như muối xát.
Trăm nỗi đoạn trường, trăm điều cay đắng như vậy đối với từng bản thảo gửi đi - bản thảo duy nhất, không có bản nháp mà cũng không có bản lưu - thế nhưng những truyện của anh vẫn không được ghé mắt đến, hoặc cũng có khi chúng được chiếu cố đăng rồi, nhưng Quân không thể biết.
Ở đây, có khi hàng mấy tháng trời chẳng có gì để đọc. Và những tờ báo, tạp chí rách tươm, nhàu nát kiếm được ở Trung đoàn mang về, thì cũng đã quá lỗi thời, số này số nọ được chăng hay chớ chả có thứ tự gì. Có khi lúc đó là tháng Mười, tụi Quân kiếm được số của tháng Một, tháng Hai tận hồi năm ngoái. Biết đâu chúng đã được đăng trong những cuốn mình chưa đọc - Quân tự an ủi, và vẫn tiếp tục bỏ một phần giấy hiếm hoi của mình để viết, không vì điều gì khác ngoài một sự thật đơn giản: viết đối với anh là một niềm thôi thúc.
Quân đặt dấu chấm cuối cùng kết thúc câu chuyện, rồi vươn vai thở phào vô cùng khoan khoái. Nó đã được khởi đầu từ dạo đơn vị còn nằm ở Cứ chưa hành quân cơ động, nhưng viết giữa chừng thì biết bao công việc bận rộn để chuẩn bị cho một mùa chiến dịch đã buộc anh phải tạm bỏ quên nó đi.
Ôi, cái sự viết lách, "văn-nghệ-văn-gừng" này thật là kỳ lạ! Nó hành hạ người ta, làm người ta quên ăn quên ngủ, làm người ta đầu óc nóng bừng như muốn nổi điên lên với bao nhiêu câu hỏi: Phải tiếp tục câu chuyện dở dang như thế nào đây? Phải dùng từ nào để diễn tả những khoảnh khắc này với bao ý nghĩa? Cây bút này có chịu vâng lời, tuân phục tôi không? Có run rẩy theo nhịp tim tôi run rẩy, có tuôn trào trên mặt giấy như máu tôi đang cuộn chảy rạo rực trong người? Hay là nó cương quyết bướng bỉnh kháng cự lại điều tôi muốn nói? Viết! Thật là nhẹ nhàng, mà cũng thật là vất vả. Nhưng nó cũng thật diệu kỳ, làm tâm hồn sung sướng, lâng lâng phơi phới biết bao. Hạnh phúc khi viết rất là giản dị, nhưng lớn lao không có gì so sánh được, khi có một đoạn, một câu ưng ý, nói lên đúng những cảm xúc, ý tưởng sâu xa.
Quân quay qua Ụ Mối. Nó đang cặm cụi vót những nan tre tròn trỉnh, nhỏ xíu để đan một chiếc lồng cho con sáo cưng của mình. Quả là Ụ Mối rất cưng con sáo. Rừng tre gai cách đây đâu phải gần gì, mười mấy cây đường rừng. Thật ra, con Chíp không ưa gì những chiếc lồng. Nhưng khi hành quân di chuyển, Ụ Mối buộc phải nhốt nó vào lồng. Nếu không, khi dừng lại nghỉ giải lao, con quỷ hiếu kỳ ham chơi này có thể mải mê săn đuổi, tán tỉnh một nàng sáo xinh xinh nào đó, và không kịp trở về khi đơn vị tiếp tục hành quân. Chiếc lồng cũ đã bị bẹp rúm lại khi Ụ Mối lăn mấy vòng để tránh một làn đạn xối xả của địch khi đánh vào cửa mở ở Ampil hồi đầu năm. Ụ Mối tiếc muốn đứt ruột, nó cứ lầm bầm nguyền rủa bọn địch ác ôn đã làm hư chiếc lồng quý báu, sườn lồng không phải làm bằng thứ tre tầm thường mà là những thanh gỗ gõ đỏ đã được nó trau chuốt công phu, cạo vuốt bóng loáng. Dù sao, Ụ Mối ắt cũng mừng thầm là con Chíp vẫn bình an vô sự.
Hồi chuẩn bị đi, Quân đã ngăn không Ụ Mối mang theo con Chíp. Nhưng nó cũng lén lút bằng cách nào đó xách theo vì không muốn xa con chim cưng lâu như vậy.
Quân hỏi:
- Già Hương và thằng Thuận đi đâu mất rồi Ụ Mối?
Ụ Mối không ngẩng đầu lên, làu bàu nói:
- Hai bọn hắn đi kiếm gì về làm thức ăn rồi. Em đòi đi, ông già không cho, còn bảo em "xúi quẩy" lắm, đi theo chỉ tổ trù ẻo cho xui thêm. Anh thấy có bực không! Hừ, hồi còn ở Tà Cuông, ai đi chém cá, săn dôïc về cho trung đội? Ai là tay săn thiện nghệ nhất của tiểu đoàn ngoài Ụ Mối này?
Quân an ủi Ụ mối:
- Thôi mày đừng buồn. Ở đây đâu có cá hay có thú cho mày săn bắt. Mà ông già dị đoan cũng phải, ổng là dân xứ đạo An Giang mà. Tại mấy lần trước, có mày đi cùng, rạc cả giò nhưng có kiếm được cái quái gì đâu. Thật ra ở đây chỉ có nước kiếm chút lá rừng chua về nấu canh, đâu cần gì đi đông. Ông già muốn để mày rảnh rỗi làm cái lồng đó thôi, chứ không phải chê gì mày đâu, Ụ Mối à.
- Phải chi trời nắng, em xách xẻng ra một loáng là có khối dông về nướng.
Ụ Mối là biệt danh trung đội dành cho nó, chứ họ tên đầy đủ của nó cũng văn hoa lắm: Phan Quang Dũng. Lý do của cái biệt danh này là vì tự nhiên đã bố trí gương mặt quá tuổi dậy thì của Dũng một cách vô cùng quân sự, mang tính phòng ngự cao độ - nghĩa là lỗ chỗ, lồi lõm những mụn nhỏ, mụt to và sẹo mụn, hệt như một cái ụ mối thứ thượng hảo hạng. Mà ở chiến trường này, có gì quý báu cho bằng một cái ụ mối hiện ra đâu đó khi đang đánh nhau long trời lở đất. Ụ mối là một công sự thiên nhiên vững chắc, an toàn hơn hết. Vậy nên cái biệt danh này không phải là một sự coi thường, mà trái lại, là một niềm vinh hạnh cho người mang nó. Ụ Mối cũng thừa hiểu điều này, nên nó tỏ ra khoái trá vô cùng.
Quê Ụ Mối là một huyện miền núi tỉnh Nghệ Tĩnh, nên nó đánh bắt thú rừng rất giỏi. Những đêm nằm nhớ nhà, Ụ Mối cứ kể cho tụi Quân nghe về những chuyến đi săn tuyệt thú của nó. Cái giọng trọ trẹ, khó nghe của Ụ Mối hồi mới về đơn vị chả có ai nghe ra nổi, nhưng sau rồi cũng quen dần. Ở đây, tụi Quân gọi mấy đứa quê ở Nghệ An, Hà Tĩnh là con nhà "Bọ" . Bọ nghĩa là bố. Dân Nghệ Tĩnh có lắm thổ ngữ, nên cũng tạo ra nhiều giai thoại vui đáo để. Ví dụ như dưới đây là một trong số đó:
Trung đội vừa nhận được mấy thằng Bọ tân binh, về tới nhà, A trưởng nói:
- Thôi, tụi bây theo thằng A. ra giếng tắm rửa đi rồi về ăn cơm.
Tắm táp xong, mấy chàng lính mới quay về. Bữa cơm đã được dọn lên, tinh tươm hơn ngày thường chút đỉnh để chào mừng đồng đội mới. Mấy tay cũ ngồi quây quần lại bên mâm, bỗng ngạc nhiên khi thấy tụi tân binh vẫn đứng lóng nga lóng ngóng.
- Nè, ngồi xuống ăn cơm đi chứ, tụi bây còn mắc cở gì nữa vậy? - A trưởng nói.
Mấy đứa khép nép ngồi, còn một thằng vẫn đứng lơ láo.
- Ngồi xuống ăn đi chứ mậy, chờ gì nữa?
- Dạ dạ...em không có đọi!
- Không đói thì cũng ăn thêm một hai chén cho vui.
- Ơ, em không có đọi...!
- Thôi không đói thì thôi. Lính mà, thấy ăn là cứ nhào vô, không chờ mời mọc nhiều lời, chừng nào đói mầy qua nhà bếp mà ăn nghe.
Tên lính mới nhìn mấy đứa đồng hương, rồi nhìn mấy cái miệng đang nhai nuốt ngồm ngào mà nuốt nước bọt, vừa đói vừa tức mình, vừa sợ sệt không dám nói gì.
"Ðọi" thổ ngữ Nghệ Tĩnh có nghĩa là chén. Nó đã làm rớt cái chén B52 đâu đó trên đường. Thế nhưng do cái giọng địa phương, dấu sắc thành dấu nặng, mà cánh lính miền Nam cứ nghĩ là nó nói không có đói! Ðến khi, một thằng đồng hương ních hết chén cơm cuối cùng, đưa cho thằng này. Nó chạy ra bồn nước trước nhà ngoáy mấy cái rồi nhào vào, bới cơm, ăn hùng hục như đói từ ba đời ba kiếp nào trước những cặp mắt ngạc nhiên. A trưởng hỏi:
- Ủa, sao mày nói không đói mà bây giờ ăn thấy kinh vậy?
Một thằng ngập ngừng giải thích, nó chỉ cái chén nói:
- Nó không có đọi, tức là không có cái này.
Cả A ôm bụng cười nghiêng ngửa. A trưởng vừa cười sùng sục, vừa cố thốt:
- Ðiệu này, tao phải lập một bản tự điển giải thích mấy từ độc đáo của tụi bây rồi.
Dĩ nhiên đây chỉ là giai thoại. Có lẽ nó ra đời từ những ngày chống Mỹ, hay trước đó nữa cũng nên. Nhưng những giai thoại như vậy vẫn hay được nhắc đến để trêu ghẹo những chàng lính "quê choa".
Quân nhớ tới mấy giai thoại đó và bỗng bật cười hăng hắc. Ụ Mối ngạc nhiên nhìn anh:
- Anh làm gì mà khi không cười một mình vậy?
- Không có gì, tao nhớ mấy chuyện cũ.
Ụ Mối cúi xuống, tiếp tục vót nan. Anh ngâm nga ư ử trong cổ mấy câu dân ca xứ Nghệ: "Ðã thương thì thương cho trót. Ðã trục trặc thì trục trặc cho luôn. Chứ đừng như con thỏ ở đầu truông. Khi vui nó giỡn bóng khi buồn nó đùa trăng..." .
Quân bước tới góc lều, nơi balô của anh treo trên một cây cột chừa một nhánh chạc hai - một kiểu móc quần áo ba lô đặc trưng "mô-đen-dã-chiến" của cánh lính nhà ta. Anh lấy ba lô xuống, moi cái bọc nylon đựng sổ sách giấy tờ ra, nhét cẩn thận mấy trang bản thảo vào, rồi gói ghém lại, treo lên. Anh chép miệng:
- Thèm thuốc quá, giờ mà được rít mấy hơi thì còn hơn lên thượng giới uống rượu quỳnh tương của Ngọc Hoàng thượng đế!
Lều có tổng cộng bốn chạc hai treo ba lô, nghĩa là có bốn người: Quân, Ụ Mối, Già Hương và Thuận kều. Ở trung đội, Già Hương, trung đội phó hậu cần, là người lớn tuổi nhất - hai mươi chín. Kế đó là Quân - hai mươi bảy. Còn lại thì sồn sồn một lứa từ đứa nhỏ nhất là mười chín, đến đứa lớn nhất khoảng hăm mốt, hăm hai. Trung đội có bốn lều, tức là có quân số mười sáu tay súng bộ binh. Quân số thực là hai mươi lăm, nhưng vắng hết bảy người: Ba tay đang lên cơn sốt nặng hồi sắp hành quân cơ động ở lại giữ Cứ, thứ tư là Trung - A trưởng đã hy sinh trong đợt đánh Ampil vừa qua, thêm hai tay bị thương đang nằm viện ở Chúp, và cuối cùng là Phương, B trưởng, đã đào ngũ sau trận đánh chiếm Ampil.
Tạm thời thì Quân nắm quyền chỉ huy trung đội 12 ly bảy. Thật ra, anh đã là B phó quyền B trưởng từ năm 1982, nhưng đầu 1983, Phương học quân chính ở Sư về, thay thế anh chỉ huy B. Một con người cơ hội, đầy thủ đoạn, ham hố trèo thật nhanh thật cao trong nấc thang cấp chức, nhưng không bằng năng lực mà bằng mọi mánh khóe.
Nói cho công bằng, Phương cũng là người có tài năng trong việc vạch ra các kế hoạch, phương án huấn luyện hay tác chiến, hay trong phân công công tác. Nhưng Phương là dạng người mồm mép đỡ tay chân, y lại chưa từng qua chiến đấu bao nhiêu, vừa sang K. đánh một hai trận lẻ tẻ đã xin đi học sĩ quan sơ cấp, rồi khi ra trường về đơn vị chưa bao lâu lại gặp ngay đợt chiến dịch lớn nhất, căng nhất trong suốt bốn năm qua. Y bỏ trốn, có khi là điều hay. Một chỉ huy hèn nhát có thể làm anh em đổ máu, hy sinh một cách vô ích và phi lý.
Quân từng có kinh nghiệm xương máu về vấn đề này. Ðó là một trận đánh vào cuối mùa khô năm 1981 ở phía Ðông huyện S'vai Chek. Lúc đó, anh còn là xạ thủ B40 của đại đội 12.
Khi ấy, đại đội đang trên đường về Cứ sau một đợt truy quét mười ngày. Gạo hết, nước hết, nhưng đơn vị chỉ còn cách Cứ khoảng năm cây số, nghĩa là chưa tới một giờ hành quân. Mùa nắng ở Campuchia, cái cần yếu nhất chính là nước uống, vì có khi đơn vị đi hàng chục cây số băng qua những cánh trảng mênh mông của Bát Ðom Boong. Trên đầu là mặt trời đỏ rực bừng bừng, dưới chân là lớp đất ruộng khô nẻ săn cứng lại như bê tông, lỏi chỏi những gốc rạ đốt cháy nham nhở còn sót lại. Những con suối, con mương dẫn nước đều chỉ chảy có một mùa - mùa mưa, còn mùa nắng, chúng chỉ là những đường rãnh thấp ngoằn ngoèo, trơ trọi lớp bùn khô. Và trên suốt hàng mấy chục cây số hành quân đó, thỉnh thoảng mới có một cây độc mộc đứng lẻ loi, hoặc một lùm cây lè tè khô héo, không đủ che mát một mái đầu. Hành quân mang vác nặng, mồ hôi ra nhiều nên cũng cần nước để bù đắp lại cho cơ thể. Những tay lính cũ cẩn trọng lúc nào hành quân chiến đấu cũng thủ sẵn một bình toong chí cốt trong ba lô, chỉ khi chết sống mới dùng đến.
Nhưng lần ấy, C đã về gần đến Cứ, và ở chặng giải lao cuối cùng trước đó, mọi người, dù là người lo xa nhất, cũng đều dốc hết nước vào bụng cho đã thèm. Người không uống mấy thì cũng nhường chỗ nước còn lại của mình cho mấy đứa trẻ hơn, đã hết nước từ đời nảo đời nao. Khi sắp đến một con suối một mùa lớn giữa trảng, chợt đại đội bị phục kích bất ngờ. Khoảng hơn tám mươi tay súng địch đã phục sẵn dưới lòng suối, ở một khúc vòng cung hiễm trở. Ðại đội nhanh chóng tản ra phản kích. Nhưng ai cũng vừa mệt, vừa đói, lại khổ nhất là khát khô cả cổ, mà cuộc đọ súng cứ giằng co. Ðịch đã chuẩn bị tinh thần, vật chất đầy đủ để kềm chân hòng tiêu diệt đơn vị của ta theo chiến thuật dĩ dật đãi lao. Và chúng quyết không để cho tụi anh thoát khỏi gọng kềm. C trưởng khi ấy là Vụ, người Thanh Hóa, rất vui tính nhưng cũng đánh nhau rất cừ. Anh vẫn thản nhiên, bình tỉnh xếp đặt kế hoạch rút lui, sau đó anh cho liên lạc bò lên từng bộ phận triển khai kế hoạch. C sẽ cầm cự đến chiều, chờ khi mặt trời sụp xuống. Khi ấy lợi dụng bóng đêm sẽ từ từ rút. Hỏa lực gồm khẩu cối sáu và khẩu đại liên sẽ rút ra trước đến vị trí an toàn rồi phát hỏa kềm chế cho số còn lại rút ra. Trung đội 4 rút sau cùng theo đội hình tổ tam tam. Kế hoạch lẽ ra đã tiến hành hoàn hảo, nếu không vì sự hèn nhát của Dung B trưởng B5. Thay vì chờ phối hợp rút một cách bình tỉnh, thong thả, an toàn, anh quá sợ sẽ bị cầm chân, và chết khát nếu không thoát được, nên khi liên lạc vừa mới kịp phổ biến kế hoạch cho các A trực thuộc và B4, Dung đã ra lệnh cho B5 liều mạng tháo chạy về hướng Tây, hướng có Cứ của tiểu đoàn hai, không chờ lệnh của C trưởng Vụ. Số lính B5 mở đường máu thoát ra khỏi tầm hỏa lực địch hôm đó chỉ còn vỏn vẹn hơn một phần ba. Hai phần ba chết hoặc bị thương nặng, mất máu quá nhiều, nên sau đó cũng chết khi có chi viện của D2 tới.
Lần bị vây hãm ấy đã ăn sâu vào ký ức Quân như một vết hằn, vì trong số lính hy sinh có Khoa, có Ðạt, là những bạn vô cùng thân thiết của anh...
Từ ngoài căn lều, cách khoảng hơn trăm mét, chợt nghe thấy tiếng kêu réo ơi ới của Thuận kều:
- Anh Quân ơi, Ụ Mối ơi, qua nhà bếp mau đi... Có đồ nhậu rồi.
Ụ Mối ló đầu ra, nghiêng ngó, rồi thụt vô bảo Quân:
- Em thấy thằng Thuận xách con gì như con vịt ấy, anh Quân ạ!
- Vậy hả, chắc hai tay này ra hồ bắn được vịt trời rồi.
Ụ Mối lầm bầm:
- Cái hồ chết tiệt này đúng là vô duyên vô dụng, em nỏ bao giờ thấy có chim cò gì, cá thì nhỏ chút bằng ngón út, đầy xương, mà cũng nỏ được bao nhiêu.
Quân cười xòa:
- Thôi, tại mày chưa gặp dịp đó. Chứ Già Hương hay thằng Thuận làm gì bá phát bá trúng như mày. Mày biết tại sao hồ không có cá, mà cũng không có chim chóc gì không? Tụi Trung đoàn tám ở đây cứ đánh trái hà rầm, cá to nào còn với tụi nó. Với lại vừa rồi mình đánh chiếm Ampil, đạn pháo ầm ầm, chim cò mất hồn mất vía trốn sạch hết rồi. Con vịt trời này chắc là loại thương phế binh hạng nặng nên mới còn lề mề ở lại đây chờ vô nồi đó Ụ Mối ơi.
Quân và Ụ Mối bước vào nhà bếp. Mọi người đã quân quần ngồi bên những bát nước nóng bốc khói. Bình và Phái điển đang loay hoay nhổ lông con vịt. Thuận kều quay sang Quân, nói với vẻ quan trọng:
- Anh Quân, lúc nãy về ngang qua Tiểu đoàn bộ, em gặp thằng Kiên liên lạc. Nó báo cho em một chuyện. Anh biết gì không? -Thuận ngưng lại, ỡm ờ.
- Thì mày cứ nói đi! Mày lúc nào cũng làm ra vẻ quan trọng những chuyện nhỏ như cái móng tay. - Tiến cóc bực mình quát Thuận.
- B mình sắp có thêm một tay súng, tay này nghe nói học hạ sĩ quan ở bên nước mới qua. Chắc hắn về đây thay cho anh Trung đó.
- Vậy à! - Quân bình thản nói. Anh là người trầm tỉnh, kín đáo, vui buồn ít khi lộ ra mặt. Thật ra, cái tin này cũng làm anh rất nôn nao như hầu hết mọi người khác. Ở chiến trường, có thêm được một người là rất quí, vì quân số luôn luôn bị hao hụt, mất mát do bị thương, bị bệnh. Có thêm một người là bớt đi một phần gánh nặng trong công tác, chiến đấu, và thêm một niềm vui. Chỉ mong sao nó không phải là một thằng Phương thứ hai - Quân thầm mong ước, anh nhìn con vịt, hỏi Già Hương:
- Anh hay Thuận bắn được vậy? Con này coi bộ cũng cỡ tám chục tuổi rồi! Tha hồ mà nhai đó nghe!
- Tao bắn. Kể cũng buồn cười. Ði mãi mà chẳng thấy thứ gì ăn được, tao nản quá chừng, đã tính quay về. Thằng Thuận cứ nằn nì bảo tao lên hồ họa may kiếm chác được gì. Thế rồi, lên đó, thấy con vịt này đang lặc lừ trên bờ hồ. Nó bị thương ở cánh, bay không nổi. Chắc là bị ai bắn hay trúng mảnh pháo lúc đánh nhau.
- Em bảo Già Hương ráng bắt sống nó để về lấy tiết đánh tiết canh mà ổng không nghe. Ổng sợ bị sẩy mất uổng nên tỉa luôn. Chà! Nhắc tới tiết canh mà phát thèm. Phải chi có gừng, cháo vịt chan nước mắm gừng, trời mưa này ăn đúng là nhức nhối!
Mọi người im lặng. Mưa lại bắt đầu rơi tí tách bên ngoài. Câu ước ao của Thuận chợt gợi lên một nỗi nhớ không tên về quê hương. Nỗi nhớ thơm mùi cốm dẹp mùa lúa mới, thơm mùi thịt chuột đồng khìa xả ớt mùa nước nổi, thơm mùi khói rạ đốt đồng những buổi chiều vàng...
Con Chíp thật là nghịch ngợm. Nó cứ mổ mổ vào môi Huy làm anh không sao ngủ được yên. Huy bực mình tóm nó, co ngón tay ký mấy cái nhẹ vào cái đầu bướng bỉnh. Khi Huy buông tay, nó bay vù ra đậu trên cành cây nghiêng xuống trước cửa lều, chẩu đôi mỏ nhọn nguyền rủa anh: "Cút mẹ mày đi! Cút mẹ mày đi!"
Ụ Mối toàn dạy cho tên đệ tử của hắn những câu linh tinh, bậy bạ, và con sáo này cứ cố tình áp dụng bừa bãi tùy hứng, chẳng ăn khớp hoàn cảnh tí nào. Có khi mọi người đang ngồi vui vẻ trò chuyện, nó chợt kêu lên, theo cái khẩu âm trọ trẹ nặng nề của Ụ Mối: "Tối rồi ngủ đi! Tối rồi ngủ đi!" Có khi, giữa buổi trưa vắng lặng, nó buồn tình réo mãi liên hồi: "Nghỉ cho mát! Nghỉ cho mát! Nghỉ cho mát!..." Một lần, tiểu đoàn trưởng Văn ghé trung đội, nó oang oang thét vào mặt anh: "Mê mai cầm pê, mê mai cầm pê! 1 Chơi mãi quên về, chơi mãi quên về!..."
Huy thường quần mấy bụi cỏ bắt châu chấu, cào cào cho con Chíp, nên nó rất khoái anh. Trừ Ụ Mối, chỉ có Huy là có thể kêu nó đậu xuống tay, hay huýt sáo rủ nó đi theo vào rừng.
Có con Chíp, nhiều khi cũng vui vui, khuây khỏa, nhưng nhiều khi mọi người bực phát điên lên với nó. Nó tha mấy cái muỗng mà ai đó quên nhét vào túi cóc ra tận ngoài trảng cỏ, quăng ở đó. Nó mổ vào cái lon đựng thuốc rê, lôi từng nhúm thuốc ra, bỏ vương vải trên nền đất, rồi nhảy lên thành lon nhún nhún, cho đến khi cái lon nghiêng úp lại, thuốc, giấy đổ tung tóe. Lúc đó, như đã hoàn thành một kỳ công ghê gớm, cu cậu bay lên cây ưỡn ngực hót lên một tràng đắc thắng.
Nhưng buồn cười nhất, là nó cũng biết trả đũa ra trò. Trong trung đội, nó ghét nhất là Phái điển, vì anh hay đuổi bắt nó, vung cành cây quất dọa nó những khi nó phá nghịch. Một lần, canh lúc Phái đang ngủ, nó len lén bay tới, nghiêng người thả một bãi phân vào mặt anh với sự chính xác của một phi công tác xạ bậc thầy. Lần ấy, Phái điển nổi khùng, suýt đập chết nó nếu Ụ Mối không kịp thời ngăn anh lại. Từ đó, Phái không đá động gì đến con Chíp nữa, mặc cho nó quậy phá cỡ nào, anh cũng cố bịt mắt, lấp tai làm ngơ đi. Kể ra cũng tội nghiệp cho Phái, đành phải nhịn thua một con chim nhãi nhép nhưng vô cùng láo xược.
Huy vươn vai, rồi ngồi dậy. Nắng bên ngoài lấp loáng qua kẻ lá, đổ xuống mặt đất những đốm hoa loang lổ nhỏ to. Từ sau hôm Huy về trung đội, trời đã dứt hẳn mưa. Cho đến hôm nay thì những gì một tuần mưa dầm mang lại đã biến đi không còn dấu vết gì. Mấy bồn nước lại chỉ còn lưng lưng nước tải từ hồ về. Mặt cát lại khô rang, nóng bỏng. Không khí lại oi nồng. Chỉ có những hàng cây là còn giữ lại được phần nào nét xanh mát của mưa, với những chùm lộc non biên biếc vừa mới nhú.
Ụ Mối nằm xoay trở nãy giờ mà không dỗ giấc được cũng lồm cồm ngồi lên, bảo Huy:
- Tụi mình đi đào dông đi Huy.
Huy gật đầu, bước tới góc lều, nơi dựng xẻng cuốc cầm lấy hai cái, vác lên vai. Con Chíp từ ngoài lượn vào, bay vòng vòng quanh Ụ Mối kêu léo nhéo. Ụ Mối giơ tay lên đe nó:
- Mi chuyên quấy giấc tụi tao. Có bữa ông cáu tiết lên đem xáo măng bây giờ.
- Ðau lòng cò con! Ðau lòng cò con! - Con Chíp quàng quạc kêu lên. Ụ Mối trợn mắt nhìn nó, tự hỏi thầm: "Trời đất! Con quái này học ở đâu vậy? Làm như nó hiểu được tiếng người!"
Huy nhìn vẻ mặt ngơ ngác của Ụ Mối, bật cười. Anh giải thích với hắn:
- Không phải nó biết ông nói cái quái gì đâu. Hôm qua, tôi vừa cho nó ăn vừa đọc mấy câu "Con cò mà đi ăn đêm..." Bây giờ, nó nghe ông nói xáo măng, nên nó nhớ tới câu kế, đọc tiếp cho ông nghe đó!
Ụ Mối vỡ lẽ, gật gù cười khà khà, rồi hắn bước ra cái bồn, múc một chút nước đổ vào cái khăn, đưa lên lau bộ mặt pháo đài kiên cố của mình.
Hai người đi về hướng đông. Hướng này bọn Huy chưa khai thác nhiều, có lẽ "tài nguyên - thực phẩm" còn phong phú. Bãi cát ở sau một khoảng rừng thưa, không có cây to mà chỉ lơ thơ những bụi cây cao ngang đầu người, đôi chỗ có cả những bụi xương rồng to lớn, lởm chởm những gai. Nó kéo dài khoảng năm sáu trăm mét, rồi băng qua một ngọn đồi thấp đầy đá cuội, luồn vào những hàng cây đồ sộ, nơi bắt đầu của cánh rừng già.
Hang dông có đáy nằm cách mặt đất khoảng nửa mét đến một mét, tùy theo kích thước to nhỏ của "chủ nhân", và thường là đâm xéo từ trên xuống một quảng, rồi bẻ ngang song song với mặt đất theo dạng chữ L.
Ðào bắt dông không khó. Ðiều chủ yếu là phải xem dấu chân ở miệng hang để khỏi phí công vô ích. Mấy hôm trước chưa có kinh nghiệm, cứ nhìn thấy hang là Huy hùng hục đào, rốt cuộc chỉ là một cái hang trống, hoặc có những sinh vật khác đang trú ngụ; đôi lúc là một con cóc già xụ, to kềnh; đôi lúc là một chú bò cạp núi khổng lồ, đỏ rực như than đang cháy, giơ hai chiếc càng đồ sộ lên thủ thế. Ụ Mối giảng giải với Huy:
- Ông phải nhìn thật kỷ xem miệng hang nào có cát xước thành những vệt nhỏ - đó là vết chân dông, thì đào mới có. Hang nào mà miệng trơn nhẵn thín nỏ có gì đâu.
Có khi, đào tới cuối hang nhưng chận không kịp, chú dông nhào lên cong đuôi phi sang một cái hang khác gần đó chui xuống, phải làm lại từ đầu. Huy rút kinh nghiệm nên thủ sẵn một cành cây có nhiều nhánh nhỏ. Con dông nào vừa xuất hiện tính chạy là anh quất ngay, xem ra rất có hiệu quả.
Ði vòng vòng một lúc, cả hai đã bắt được sáu con to, khoảng hai tấc đến hai tấc rưởi không kể cái đuôi dài. Ụ Mối nói:
- Thôi, bao nhiêu đây đủ cho bữa ni rồi. Ðể dành đó cho mấy ngày sau.
Huy kéo Ụ Mối tới ngồi nghỉ dưới bóng một lùm cây. Anh móc trong túi cái bao đựng thuốc rê ra, vấn một điếu rồi đưa sang Ụ Mối. Hôm trước, trung đội tải theo xe trung đoàn về cứ, tụi anh đã nhờ họ mua giùm ít thuốc rê và trà. Cả trung đội được một phen hút thuốc uống trà thỏa thuê, bù lại những ngày thèm nhớ.
Huy khoan khoái rít một hơi thuốc thật sâu, rồi chầm chậm nhả khói ra. Anh đưa mắt nhìn lơ mơ về phía ngọn đồi. Dưới ánh nắng, những hòn cuội trắng, đen, xam xám đủ màu đủ cỡ óng a óng ánh như những hòn ngọc quí. Cả ngọn đồi rực rỡ, sáng lóa lên. Huy hỏi Ụ Mối:
- Anh Quân lính bảy chín sao bây giờ vẫn chưa ra quân vậy hả Dũng?
- Ông chưa biết sao, anh ấy đâu còn họ hàng thân thuộc gì nữa mà về. Trước khi vào lính, anh Quân ở trong chùa...
Ụ Mối duỗi hai chân ra, kể cho Huy nghe về cuộc đời Quân.
Quân là con một của hai vợ chồng làm nghề buôn chuyến. Trong một chuyến từ Huế trở vào Sài Gòn, chiếc xe bị lật nhào rơi xuống vực. Cả hai người đều chết tại chỗ. Năm dó, Quân lên bốn, do một người vú nuôi mẹ anh thuê chăm sóc. Sau tai nạn, bà ngoại Quân đón anh về nuôi. Nhưng bốn năm sau đó, bà cũng bị bệnh mất đi. Tài sản của ba mẹ và bà đều bị những ông cậu, bà dì họ giành giật, chia chác tiêu tán hết, nhưng lại chẳng ai buồn nhớ tới việc nuôi nấng, dạy dỗ đứa trẻ tám tuổi bất hạnh. Nói chính xác hơn, họ rất quan tâm đến chuyện đó, nhưng ai cũng thành thật tin rằng đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của một người khác chứ không phải của mình. Họ đun đẩy qua lại, trách móc nhau, cải cọ nhau, rồi chửi rủa nhau ngày này qua ngày khác về chuyện nuôi nấng đứa nhỏ, dạy dỗ cho nó nên người, nhưng lại lờ đi chuyện đứa nhỏ cần một bữa ăn, cần một sự lo lắng, thương yêu bằng hành động.
Quân lần mò về thành phố, đi lang thang xin ăn một thời gian. Rồi một bữa anh bị mắc mưa, cảm sốt nằm mê man trước cổng một ngôi chùa nhỏ. Trong chùa, chỉ có một vị sư già trụ trì và một chú tiểu lớn hơn Quân khoảng năm sáu tuổi. Họ bắt gặp anh đang nằm co quắp, ôm anh vào săn sóc, chữa bệnh. Sau đó, vị sư già cho Quân ở lại chùa, nuôi dạy anh cho đến lúc trưởng thành. Quân được nhà sư cho đi học, anh dã có bằng tú tài hai khi Sài Gòn được giải phóng. Sau đó, anh thi đậu vào đại học, nhưng đang học dở năm thứ hai, thứ ba gì đó, thì nhà sư mất. Quân buồn lắm. Anh thương mến vị sư già như cha đẻ. Thêm nữa lúc ấy chiến tranh đang nổ ra ở biên giới, anh liền tình nguyện vào lính, và kể từ đó coi đơn vị như mái nhà của mình.
Huy ngồi im lắng nghe Ụ Mối kể chuyện.
Ngoài kia, ánh nắng đã bắt đầu dịu dần, phai đi trên những ngọn cỏ tranh héo vàng bên tay phải. Ở rừng bóng chiều ụp xuống rất nhanh. Thường thường, vừa mới đó nắng còn chói chang, nhưng chỉ giây lát sau thôi, những hàng cây đã mờ đi, chìm trong làn sáng mờ mờ vàng nhạt; và ở phía trong sâu hơn, chỉ còn thấy những khoảng tối âm u, thăm thẳm. Mấy con sóc bay và bọn dơi quạ bắt đầu tung ra lượn lờ quanh quẩn để săn mồi.
Không ngờ cuộc đời của anh Quân buồn như vậy - Huy thầm nghĩ.
Qua những ngày sống ở đây, Huy chỉ nhận thấy Quân là một người trầm ngâm, ít nói. Nhưng đôi lúc, anh cũng đùa giỡn, kể chuyện tiếu lâm rất nhộn. Anh không hề làm ra vẻ khó khăn, nghiêm khắc, thế mà mọi người trong trung đội ai cũng có vẻ nể trọng, làm theo răm rắp những lời anh nói, kể cả người lớn tuổi nhất là Già Hương. Mọi người còn có vẻ rất quí mến, gần gũi với anh, giữa họ không hề có một khoảng cách nào. Huy thấy Quân có cái gì đó thật gần, thật giống với mình. Ở chỗ nào, Huy không xác định được, nhưng anh cảm nhận được nó, dù suốt nửa tháng qua, anh cũng chưa bao giờ có một cuộc chuyện trò, tâm sự nào thật sự với Quân, ngoài những lời trao đổi thông thường.
- Lần đó, tôi nhận được thư nhà báo tin mẹ tôi bị bệnh nặng vừa mới chết. Tôi nằm khóc cả ngày, bỏ ăn bỏ uống. Anh Quân đã an ủi tôi, rồi anh kể cho tôi nghe những chuyện này...- Ụ Mối nói thêm - Thôi về đi Huy, chiều rồi đó.
Hai người về tới nơi, cả trung đội cũng đang tập trung lại thành mấy nhóm bên ngoài căn lều nấu bếp.
Ngay trước cửa lều là nhóm sáu người: Phái điển, Trung gấu, Thiện, Tiến cóc, Bình, Hưng. Bên tay trái là nhóm Mợi, Lý, Thái, Phú, Trọng, Cường. Nhóm thứ ba là Quân, Thuận kều, Già Hương. Mỗi nhóm đều ngồi trước một thau cơm, và khẩu phần thức ăn cho sáu người.
Ụ Mối nói:
- Chờ thêm tí nữa các đồng chí thân yêu. Mỗi mâm được phân phối hai con "gà đất". Nói đoạn, anh bước vào bếp để nướng dông. Chỉ nhoáng sau, mùi thịt nướng đã bốc lên thơm nhức mũi. Vài phút sau, Ụ Mối cầm mấy con dông đã chín, lột bỏ lớp vảy ngoài, để lộ lớp thịt trắng phao, trông hệt như thịt cá lóc nướng ra, chia cho mỗi nhóm hai con. Rồi anh ngồi xuống nhóm của mình.
Thức ăn buổi chiều gồm có một thau canh lá rừng chua, một dĩa muối trộn ớt khô giã nhuyễn, một dĩa thịt heo đóng hộp, giống hệt như buổi trưa, và cả mấy ngày gần đây. Mọi người ăn thật ngon miệng, dù chẳng có gì để gọi là ngon lành, trừ món thịt dông nướng chấm muối ớt. Nhưng hai con xé ra có được là bao, mỗi người chỉ nhón một miếng là hết sạch.
Dạo vừa đánh xong Ampil, trung đội còn lên đó kiếm được chút rau dền, cải, hay bầu bí, trái đu đủ non mà dân tị nạn trong cứ trồng về nấu canh. Rau chỉ có hạn, mà biết bao nhiêu đơn vị cùng tập trung lên hái, nên chỉ vài ngày sau là chẳng còn một cái gốc rau làm thuốc. Trọng có sáng kiến chặt mấy cái đọt đu đủ về cắt ra mỏng, rửa thật kỷ rồi ngâm muối cho tan mủ, sau đó đem nấu canh. Nhưng sau khi ăn món đó, hầu như ai cũng bị đau bụng một trận nên thân, không ai dám nhắc đến món canh đọt đu đủ nữa. Liên tiếp cả tuần, canh chỉ là nước sôi cho tí bột ngọt và muối vào nêm để dễ nuốt trôi cơm. Nhưng thiếu chất xanh, cả bọn bị táo bón gần chết. May sao sau đó Già Hương tình cờ phát hiện được một thứ cây rừng có lá giống như lá mai nhưng mỏng hơn, có vị chua. Anh nấu thử một ít, tự ăn một mình thí nghiệm, rồi thấy bình an vô sự nên thông báo cho cả bọn đi lùng món rau trời cho này về nấu canh suốt từ ấy đến nay. May một cái nữa là khu rừng trước mặt mọc đầy dẫy loại cây này, nên không còn lo thiếu canh nữa. Có điều, lúc đầu ăn cũng khá ngon, nhưng ròng rã mấy tuần, cứ một món canh vừa chua vừa chát, ai nấy đều ngán tới cổ.
Trung đội cơm nước xong xuôi thì trời cũng đã nhá nhem tối. Quân tập hợp cả trung đội lại hội ý, phân công gác, xong xuôi phần làm việc, anh cười cười bảo:
- Này anh em, tối nay là mười bốn trăng tròn. Chúng ta sẽ pha trà ngắm trăng. Ðề nghị anh Mợi chuẩn bị mấy "bộ phim" mới hấp dẫn tối nay "quay" cho anh em thưởng thức. Thôi, trung đội giải tán.
Mọi người đứng lên, ai về lều nấy. Ở hướng đông, vầng trăng mười bốn to như một chiếc mâm vàng sáng rỡ đã nhú ra.
Trong lính, những "nghệ sĩ quay phim" là những người rất mực được anh em sủng ái và chiều chuộng. Anh ta chỉ việc ngồi xếp bằng chễm chệ, mở mồm ra để tường thuật lại những gì mình đã từng đọc được, xem được một cách ung dung.
Thuốc hút ư? Anh em đã vấn sẵn cho anh mấy điếu to kềnh, chỉ cần cất tiếng là lập tức có người đốt lên, đưa tận miệng cho anh, tha hồ mà rít.
Trà ư? Sẽ có người chuyên từ cái ca inox ra loại trà hãm nước nhất, còn bốc khói, xanh biếc, đậm đặc ngon lành, và đưa đến tận tay.
Nếu anh còn chưa vừa ý, còn muốn làm eo làm nũng, bằng cách vặn cổ, uốn lưng than mỏi cổ, mỏi vai, ngay lập tức sẽ có hai tay đấm bóp "đẳng cấp quốc tế" thay phiên nhau đấm lưng, xoa bóp cho anh với đủ bài đủ bản. Những tay đạt được trình độ đại cao thủ trong nghề quay phim còn được thường xuyên hưởng cái vinh dự là khách mời đặc biệt trong những cuộc liên hoan tiệc tùng ngọt, mặn của các trung đội, thậm chí đại đội lân cận.
Tuy nhiên, "nghề chơi cũng lắm công phu"! Chẳng phải dễ gì mà một bước lên ngay cái chức vua không ngai như vậy.
Trước hết, anh phải là một tay biết nhiều hiểu rộng, là bậc làu thông các tác phẩm nghệ thuật lừng danh kim cổ. Thứ hai, anh phải có một trí nhớ hoạt động một cách bền bỉ và liên tục trong một câu chuyện "ma-ra-tông", có khi phải kể suốt mấy đêm liền mới hết. Thứ ba, anh phải có một năng khiếu bẩm sinh về nghệ thuật kể chuyện, nghĩa là anh phải biết cách làm cho câu chuyện trở nên ly kỳ, hấp dẫn lên gấp bội, phải thêm thắt, phịa ra bằng một sự ngẫu hứng thiên tài những tình tiết nhỏ to, mà chẳng lần nào giống lần nào một câu chuyện; biết ngưng lại đúng lúc một câu chuyện đang lên đến điểm nút, cao trào, để người nghe phải nôn nóng, thòm thèm muốn nghe kể tiếp ngay, dù tình thế khách quan bắt buộc câu chuyện phải tạm dừng ở đó.
Vì những yêu cầu khắt khe như vậy, số lượng những nhà kể chuyện bậc thầy càng trở nên hạn chế, trong khi giá trị của họ càng được nâng cao.
Trung đội được cái diễm phúc vô cùng là có một người như vậy, làm rạng rỡ cả tiếng tăm chung, làm thơm lây cho những anh em khác. Người đó chính là Mợi lác.
Mợi là lính 83, dân Quận 1, khu chợ Cầu Ông Lãnh. Ðã là lính, không anh nào tránh khỏi cái món lác. Bởi vậy, người ta mới có cơ sở để tạo ra một danh từ kép đầy hình tượng: "lính lác". Lính phải có lác, cũng như sông hồ phải có cá, rừng phải có muông chim, điều đó gần như trở thành qui luật! Chính bản thân Huy, hồi còn ở Quang Trung cũng đã bị lác, dù rất vệ sinh, kỷ lưỡng, có ngày tắm tới ba lần! Không riêng gì anh, cả đại đội lúc bấy giờ đều như vậy. Có lẽ, một tay nào đó có mầm mống vi nấm lác trên người đã ẩu tả nhảy vào hồ chứa nước, làm lây nhiễm cả tập thể anh em. Báo hại cứ chiều chiều, sau giờ cơm, toàn đại đội đều tiến hành cuộc "tổng tấn công tiêu diệt lác"! Mà thuốc thì chả có gì ngoài nước Iode, hoặc cồn 90o. Chứng lác có một đặc điểm là thường tập trung ngay tại "cơ quan đầu não", "bộ tổng hành dinh" của quí vị mày râu. Vậy nên cái quang cảnh lúc ấy thật là náo nhiệt. Mọi người đồng loạt lúi húi thoa thoa, xức xức, đồng loạt rú lên những tiếng thét xung phong, và đồng loạt nhảy disco, hay giật soul cho nguôi cơn nóng rát.
Dù sao, lác không phải là một chứng nan y hay khó trị, nên sớm muộn gì nó cũng bị tiêu diệt, trừ những ngoại lệ vô cùng cá biệt, hiếm hoi, ví dụ như trường hợp của Mợi lác. Lác ở anh lan tràn, bành trướng trên toàn bộ mọi bề mặt có lỗ chân lông! Và, hình như nó rất quyến luyến anh, nên nếu anh trị được hết ở chỗ này, thì nó lại chuyển hộ khẩu sang một "địa phương" lân cận. Cuối cùng, Mợi kiệt sức, đầu hàng trong cuộc chiến không cân sức này, anh bắt tay với lác, "chung sống hòa bình" với nó. Anh chỉ còn khổ một cái là phải cẩn thận, dè dặt để tránh cho lác khỏi buồn tình làm một chuyến ngao du qua các cơ thể khác...
Ðêm. Cả trung đội ngồi thành một vòng tròn trên mấy chiếc chiếu.
Trăng đã lên cao gần giữa đỉnh đầu, tỏa xuống một ánh sáng vằng vặc, dịu dàng. Giải cát dưới ánh trăng mịn màng một sắc trắng lạ lùng, huyền ảo. Dường như nó không còn là một vật thể khô khan, thô thiển và làm mắt người ta nhức nhối như dưới ánh mặt trời. Giải cát giờ đây mềm mại, mỏng manh như một chiếc khăn lụa đang nhấp nhô phấp phới, uốn lượn qua những gò, những lũng, những đồi. Những cây cổ thụ lẻ loi, những lùm bụi thấp rải rác, và những hàng cây ở phía xa hiện lên dưới ánh trăng có vẻ hư ảo mơ hồ, như trong một bức tranh thủy mặc. Trên những thân cây mọc gần lều, ở những chỗ có rêu hay địa y bám sáng lên lấp lánh, những chiếc lá như được tráng một lớp bạc mỏng. Các chỗ khuất mà ánh trăng không lọt tới tối và sậm màu hơn, nhưng cũng phát ra một làn phản quang yếu ớt.
Bao giờ ngồi dưới bóng trăng, Huy cũng thấy bình an, thanh thản dù là đang rất buồn lo một điều gì đó. Ánh trăng hình như có một nguồn sức mạnh kỳ diệu lạ thường, nó vỗ về, xoa dịu, và nâng hồn người đến một cõi cao xa, hòa vào hồn đất trời, cây cỏ.
Ánh trăng vằng vặc giúp cho người lính gác đêm có tầm quan sát rộng, dễ dàng phát hiện mọi hiện tượng diễn ra trong tầm mắt, giúp cho những đêm xa nhà ngắn lại, vui hơn, dễ chịu hơn. Anh em ngồi quây quần tán gẫu, nghe kể chuyện, hoặc cùng nhau nhảy lăm thôn, khiêu vũ đôi những điệu slow, tango, bebop dìu dặt, hay điệu cha cha cha, valse náo nức rộn ràng...Có lẽ vì vậy, những đêm có trăng với lính là những đêm tuyệt diệu.
Mợi đang kể đến một đoạn hấp dẫn ở phần đầu truyện Ðồi gió hú. Mọi người ngồi im lắng nghe. Thỉnh thoảng, chỉ có tiếng một cơn gió cuốn qua lay động lá cành. Giọng kể của Mợi sôi nổi, lôi cuốn làm ai cũng quên đi cả giờ giấc. Bỗng từ xa, cách khoảng ba trăm mét về hướng Nam, có ánh đèn pin loang loáng tiến dần về lều trung đội. Trọng đang ngồi gác bên ụ súng quát lên:
- Ai?
- Tâm cối đây mà! - Bóng người đang đi tới hét lên đáp, và tắt đèn pin.
Tâm đã tới gần hơn, đủ để có thể nhận diện được dưới ánh trăng. Anh nói một cách ồn ào:
- Chà, 12 ly cũng đang thưởng trăng phải không. Bên Cối cũng ngồi chơi nãy giờ. Ông Ðạt nhớ anh Mợi, bảo tôi qua đây mời anh qua bển chơi, quay vài khúc. Tôi đã biết thế nào anh cũng có sô ở đây rồi, mà nói ổng không nghe, cứ một hai bảo tôi cứ đi bằng được. Thôi, giờ cho ngồi đây tham dự với mấy anh luôn nghe.
Phái điển và Trung gấu ngồi nhích qua chừa chỗ cho Tâm. Cả ba là đồng hương Quận Tân Bình với nhau, cùng sang đây một lượt. Tâm rất nghiền nghe kể chuyện. Anh là một trong những người hâm mộ Mợi còn hơn cả nhỏ bồ ruột của mình. Có lần, Mợi sang B Cối kể chuyện, trung đội chả ai còn giấy, Tâm lấy cả lá thư nhận được lúc chiều của nhỏ bồ, mà anh cũng chỉ mới đọc lướt qua, xé ra vấn thuốc cho Mợi.
Một lúc sau, Trung gấu đột nhiên đứng dậy. Nét mặt Trung có vẻ kỳ lạ, bồn chồn. Anh im lặng bước khỏi vòng tròn. Mợi ngưng kể, nhìn chằm chặp Trung. Thường ngày, Trung rất thích nghe chuyện, không bao giờ anh bỏ qua một chuyện ngắn chuyện dài nào. Trung đi chầm chậm về phía ụ gác, nhưng còn cách chỗ Trọng khoảng vài chục mét thì dừng lại, ngồi bệt xuống đất. Dáng ngồi của Trung dưới ánh trăng trông thật buồn bã, cô đơn.
Phái điển làu bàu:
- Chắc là nó lại nhớ anh Trung liều, lại nghĩ ngợi vẩn vơ!
Mọi người im lặng trong giây lát.
Phát điển nhóng người về phía Quân, nói tiếp:
- Mấy hôm nay nó có vẻ bất thường lắm anh Quân! Giống như khùng khùng vậy.
Quân nhíu mày. Anh trầm ngâm một lúc, rồi nói:
- Anh em nên chú ý quan sát Trung, gần gũi động viên nó. Nhất là Phái đó, nghe không.
Mọi người lại im lặng. Rồi Mợi cất tiếng:
- Thôi, ta tiếp tục câu chuyện...
Ðêm trôi nhanh. Vầng trăng đã hơi chếch trên cao về hướng Tây. Những vì sao khuất dần, chỉ còn lại những ngôi sáng nhất. Tiếng gà rừng eo óc gáy ở đâu đó rất xa vọng đến mơ hồ.
Câu chuyện ngày càng thu hút hơn qua giọng kể lúc bổng lúc trầm của Mợi. Ðến một lúc, khi Mợi cầm chén trà nhấp một ngụm lấy giọng, Quân nói:
- Thôi, Mợi kể hết đoạn này nữa là giải tán. Chúng ta còn phải nghỉ ngơi để mai bắt đầu tập với các đại đội chiến thuật đánh phối hợp với tăng.
Chú thích:
1. Bà góa hàng trăm! Bà góa hàng trăm!.
Viết xong đêm giao thừa Xuân Kỷ Mão 1999
Nguyễn Thành Nhân
Theo http://dev.kilopad.com/

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh Thực lòng lúc ấy tôi bỗng ứa nước mắt. Nhưng bất giác tôi kịp tỉnh ra là mình đã bắt đầu làm cho...