Mùa xa nhà 2
Chương 5
Sáng hôm sau, tình trạng thần kinh của Trung gấu có vẻ xấu đi. Căn bệnh đã bắt đầu bộc phát. Khi đó, mọi người đã ra ngoài luyện tập. Ở lều chỉ còn lại hai người. Phái lo chuẩn bị cơm nước, còn Trung gấu ngồi phụ giúp kế bên. Ðang cắm cúi nhặt thóc, Trung bỗng bật khóc to nức nở. Phái điển quay lại, buồn bã và lo lắng nhìn anh.
Trung đội dạo trước có hai Trung: Trung liều A trưởng và Trung gấu, xạ thủ số hai đại liên. Trung liều đã hy sinh trong trận vừa qua, để lại nỗi đau xót, mất mát lớn lao cho mọi anh em, nhất là đối với Trung gấu.
Hồi mới nhận tân binh về, A trưởng Trung liều đã chú ý đến cái thằng lùn lùn, vạm vỡ, vai rộng, dáng đi lùi lũi như một con gấu, nhưng vẻ mặt lại hiền khô, khờ khạo, đôi mắt nâu buồn buồn không hợp chút nào với khuôn mặt to vuông vắn chữ điền. Tự dưng, anh bỗng thấy thương nó như đứa em ruột của mình. Trung liều có một thằng em trai nhưng đã bị bệnh chết năm nó lên mười tuổi. Một lần, khi hai người nằm gác chân lên nhau trò chuyện, Trung liều đã kể cho Trung gấu nghe thời thơ ấu buồn tủi cơ cực của mình. Hai gã Trung chỉ trong vòng vài ngày đã gắn bó với nhau còn hơn anh em ruột thịt. Trung lớn lo cho Trung nhỏ từng chút một, dạy bảo, chỉ dẫn, khuyên nhủ, và cả an ủi những lúc cậu này buồn.
Trung gấu chỉ có cái tướng là táo tợn, đáng gờm, còn vẻ mặt và tính tình thì lại hiền và nhút nhát. Hồi chưa vào lính, Trung gấu làm ở một ga-ra sửa chữa ô-tô. Anh vốn là dân Phan Thiết, gia đình rất nghèo. Năm Trung mười lăm tuổi thi rớt lớp mười, chưa biết làm sao thì một bà dì độc thân ở Sài Gòn ra chơi, rồi khuyên ba má Trung cho anh vào Thành phố để kiếm chuyện làm ăn. Bà làm giấy nhận Trung làm con nuôi và chuyển hộ khẩu anh về Thành phố. Sau đó bà xin cho Trung vào vừa học vừa làm ở cơ sở đó cho đến khi anh đi nghĩa vụ.
Bà dì là người ăn chay trường. Bà không buộc anh phải gò bó như mình, nhưng Trung vốn đã quen kham khổ, lại muốn tránh phiền cho bà, nên anh cũng bắt chước theo bà. Dạo ở quân trường, do có muối đậu, tương chao bà mang lên tiếp tế, Trung vẫn duy trì được thói quen ăn chay. Nhưng qua đây, dần dần anh cũng phải ngã mặn theo anh em. Trung rất ghét chuyện súng ống. Hồi mới sang, anh hay nói với mọi người là nếu có đánh nhau, anh chỉ bắn chỉ thiên thôi. Trung bảo hồi ở nhà đến mấy con thằn lằn anh còn không nở giết, tính ra, trong đời anh chỉ phạm tội sát sinh mấy loài muỗi, rệp và gián mà thôi.
Hôm đó, hôm Trung liều hy sinh, trung đội đang phối thuộc với đại đội 12 cắm mũi đầu tiên vào cứ địch. Sau khi qua được cửa mở ở tuyến phòng thủ thứ nhất, anh em tiếp tục vận động chiếm lĩnh các điểm xung yếu để vượt tuyến phòng thủ thứ hai.
Cứ Ampil là tổng hành dinh của Sonsan, lực lượng của nó theo quân báo ước tính khoảng chừng mười ngàn tay súng, được trang bị đủ các loại cối pháo từ 130 ly trở xuống. Ngoài lính ra, trong cứ còn có dân Khmer tỵ nạn, và gia đình, vợ con của số lính tráng, sĩ quan. Trong số này có cả người gốc Việt. Sau khi chiếm được cứ, trung đội đã nhặt được trong một căn nhà mấy quyển sổ ghi chép bằng tiếng Anh, và một số ghi chú tiếng Việt kèm theo.
Ampil có tất cả ba tuyến phòng thủ tạo thành ba vòng cung đồng tâm, mỗi tuyến cách nhau chừng bảy, tám trăm mét. Tuyến phòng thủ là một bờ đất cao và rộng, phía sau nó là đường giao thông hào sâu ngang ngực. Dọc theo tuyến, cứ cách năm chục mét lại có một căn hầm to rộng, trên phủ mấy lớp gỗ rừng, mỗi cây đường kính bé nhất cũng đến năm tấc. Ngoài ra còn có ụ súng lộ thiên cho các tay súng cá nhân và súng máy. Giữa những tuyến này lại có những bãi mìn. Khi tấn công lên tuyến thứ nhất, đại đội 11 chưa nổ được phát súng nào đã lọt vào một bãi mìn, thương vong mất bốn người. Cuối cùng họ phải rút lui, chuyển sang hướng khác.
Ðang đánh nhau kịch liệt ở ngoài tuyến phòng thủ thứ hai thì một trong hai chiếc tăng mà đại đội 12 đánh kèm bị vướng mìn tăng, đứt xích không di chuyển được nữa. Ðại đội dàn hàng ngang vận động lên phía trước chiếc tăng để bảo vệ cho tuyến sau lên làm nhiệm vụ cáng thương. Khẩu đại liên của Trung liều cùng lên với trung đội sáu, còn khẩu 12 ly lúc đó do Quân chỉ huy cũng đang vận động ở cánh trái, trong đội hình của trung đội năm. Trung liều dẫn đầu khẩu đội, khẩu AK lật ngang quét từng tràng điểm xạ ngắn đanh. Lúc ấy, đạn nhọn cứ bay veo véo như mưa ngang đầu, chẳng còn biết đâu mà tránh né. Họ chỉ dừng lại, mọp xuống khi có một quả đạn cối hay pháo nổ gần bên.
Trung liều đang chạy thì một quả B40 từ phía trước nổ chụp tới, cách anh chừng bốn mét. Lúc đó, Trung gấu và Tiến cóc ở phía sau lưng anh không đầy mười mét. Trung liều chết ngay tại chỗ.
Tiến và Trung gấu quăng khẩu đại liên xuống, nhào tới bên anh, nhưng chỉ để nhìn thấy khuôn mặt xám ngoét, hai con mắt nửa mở nửa khép, lòng trắng vằn đỏ những tia máu, và khóe miệng rỉ máu đỏ bầm của Trung liều. Thân hình anh nhầy nhụa những vết thương.
Trung liều hy sinh vào khoảng năm giờ chiều, ngày 7-1-1985. Ánh hoàng hôn đỏ rực như lửa cháy từ phía trước mặt đội hình -hướng Tây - hắt xuống bãi cát một màu đỏ vàng hiu hắt. Trên trận địa, những người lính đang chầm chậm bò lê tiến về phía địch như một đàn kiến khổng lồ. Ðây đó rải rác những hố cát do đạn pháo cày xới lên; và ở nhiều hố loang lổ những vệt máu khô bầm.
Từ đó trở đi, Trung gấu trở thành một người khác hẳn. Anh lao lên, xô Tiến cóc, xạ thủ một, ngã dúi sang bên, chụp lấy hai tay cò súng. Lần đầu tiên trong đời,Trung gấu đã biết đau đớn căm thù. Anh không thèm cúi mình né tránh làn đạn phủ đầu rát mặt từ sau tuyến giao thông hào thứ hai của địch, cứ chăm chăm quay súng tới những nụ lửa xòe ra, quất liên tục từng tràng. Mấy ụ súng đó câm tiếng ngay lập tức sau loạt đạn của Trung. Trung gấu bắn như điên như dại. Trong đầu anh trống rỗng, chỉ tồn tại mấy từ "Anh Trung đã chết rồi!".
Trận đánh kéo dài từ rạng sáng ngày 7, đến sẫm tối ngày 9 thì kết thúc. Hôm đó Trung không khóc. Cả hai hôm sau, khi trận đánh chưa ngưng cũng vậy. Trừ những lúc nổ súng đánh nhau, Trung có vẻ lầm lì nhưng còn linh hoạt chút xíu, ngoài ra, trong mọi sinh hoạt khác, anh làm gì cũng ngơ ngẩn, ngẩn ngơ. Ðến cái đêm sau khi toàn thắng, anh em bắt được một con heo nuôi chạy lạc, xẻ ra làm thịt liên hoan, Trung gấu không ngồi vào ăn uống. Anh đi ra xa, tới một chỗ vắng người, ngồi sụp xuống, khóc nghẹn ngào rất lâu.
Tâm trạng Trung trong những ngày sau đó rất nặng nề, u uất. Nhiều lúc nửa đêm chợt giật mình thức giấc, Trung không tài nào dỗ giấc lại. Anh nằm nghe tiếng những cơn gió rừng hun hút thổi, nghe tiếng trở mình, tiếng ngái đều đều của các đồng đội khác, rồi tưởng như nghe tiếng bước chân quen thuộc, bình thản của Trung liều vừa bước vào lều sau một ca gác, tưởng như mơ hồ nhìn thấy bóng Trung đang tiến đến gần mình. Rồi anh nhận ra đó chỉ là tiếng gió xào xạc lùa qua lớp lá che trên mái, là bóng những cành lá bên ngoài chập chờn trên đất, trên vách căn lều. Có lúc anh nhớ tới cảnh tượng A trưởng Trung nằm đó, đôi mắt khép hờ, thân hình đẫm máu mà cứ ngỡ mình vừa qua một cơn ác mộng. Anh tự lừa dối mình trong khoảnh khắc rằng tất cả chỉ là một giấc mơ; rằng Trung vẫn sống; rằng chỉ cần anh ngồi dậy, xoa mặt mấy cái là Trung sẽ bước đến, mỉm cười đưa cho anh điếu thuốc vấn đang hút dở dang.
"Cái chết đến dễ dàng như vậy hay sao?" Câu hỏi như một mũi khoan cứ xoáy mãi, xoáy mãi trong tâm trí của Trung. Nó rít lên lúc anh đang ngồi ăn, đang đi đứng, đang nói năng, đang làm bất cứ chuyện gì. Trung hiểu con người thì phải chết. Anh đã thấy bà nội mình qua đời như thế nào trong căn nhà thấp lụp xụp ven biển của bà. Anh cũng đã thấy những cái chết khác, của những người quen hay lạ xung quanh. Nhưng anh chưa từng biết về một cái chết đến đột ngột, vô cùng đột ngột trong thoáng chốc như vậy. Chỉ trong thoáng chốc, một con người khỏe khoắn, nhân hậu, yêu thương anh và được anh yêu thương không kém chỉ còn là một đống thịt bầy nhầy, trơ trơ, vô cảm.
Rồi Trung chợt giật mình khi nhớ lại chính bản thân mình sau lúc đó. Anh đã bắn, không phải là chỉ thiên, mà là thẳng vào những thân người. Trung biết đã có những thân người đổ gục xuống sau tràng đạn của anh. Ðó là kẻ địch, quân thù. Ðó là bọn dã man tàn ác đã giết chết Trung A trưởng - Trung biết rất rõ điều này. Nhưng anh vẫn có một cảm giác gì đó ghê tởm chính mình, khi nhìn xuống bàn tay. Bàn tay này đã nhuốm máu rồi! Do chính bàn tay này mà có những người vợ mất chồng, những đứa con mất cha, những người lính mất đồng đội!...
... Ðầu Trung gấu nhức buốt. Những suy nghĩ quay cuồng. Trung nghe lùng bùng trong tai những tràng điểm xạ liên hồi chát chúa của khẩu đại liên. Anh rên lên những tiếng ngắn đau đớn.
Phái chợt nghe tiếng rên rỉ và lầm bầm của Trung gấu: "Dì ơi!... Con đã bắn rồi... bắn vào tụi nó rồi... Con đã bắn chết tụi nó rồí!... Anh Trung ơi... em đã bắn chết tụi nó rồi!...". Giọng nói không âm sắc, lắp bắp, lẫn vào tiếng khóc, và nhất là tính chất không đúng chỗ của nội dung câu nói làm cho những lời nghẹn ngào của Trung có một vẻ gì đó kỳ lạ, ghê ghê làm Phái giật mình. Anh ngước lên nhìn Trung kinh ngạc.
Bóng một người che khuất ánh sáng ở phía lối vào, làm bên trong lều tối xầm một thoáng, rồi người đó bước vào lều. Ðó là Quân. Anh đã đứng bên ngoài lều từ lúc nãy.
Quân nhìn Trung đang ngồi nức nở, thấy xót xa thương Trung quá. Qua bao nhiêu ngày tháng gần gũi bên nhau, Quân hiểu từng niềm vui, nỗi buồn, từng sự trái nết, kỳ cục nào đó của mỗi người trong trung đội, không phải chỉ với sự đồng cảm, thương yêu của một người anh cả, mà còn với tấm lòng bao dung của một người mẹ dịu dàng. Nhất là Trung, hồi mới về trung đội, nó cứ bám theo anh, hỏi han thắc mắc đủ chuyện. Những câu hỏi ngây ngô như của một đứa trẻ con.
Quân nhận ra bên trong cái ngoại hình xù xì, dữ tợn, trái tim Trung là trái tim hiền hậu của một bà soeur già trọn đời làm việc thiện. Trung không phải là loại người có tinh thần mạnh mẽ để có thể thích ứng, đối phó với những nghịch cảnh, trắc trở của cuộc đời. Sau những ngày đầu quay quắt nỗi nhớ nhà, nhớ quê, Trung đã cảm thấy đời lính trở nên thân tình, ấm áp. Có một lúc nào đó, Trung đã ước ao cuộc đời cứ như thế này mãi mãi, nó và những bạn bè gắn bó trong trung đội sẽ sống bên nhau cho đến cuối đời, như những người trong một gia đình. Có lần, nó đã bảo với Quân: "Bây giờ em không còn nhớ nhà nữa. Em thấy sống như thế này thật vui, thật thích. Phải chi tất cả anh em trong trung đội mình cứ sống bên nhau như vầy đến già há anh Quân!"
Ðầu óc vô cùng đơn giản của Trung đã vô ý thức quên đi thực tại. Nó đã sống trong một giấc mơ ban ngày êm ái, chứa chan niềm vui, tình thương yêu gắn bó với nhau của những người lính chiến xa nhà. Rồi giấc mơ đã vỡ tan. Thực tế là những lưỡi dao sắc bén đã cắt đứt, băm nát chuỗi ngày bình yên, hạnh phúc thành ngàn ngàn mảnh vụn. Thực tế là cơn bão dữ cuốn qua, để lại sau lưng nó một thế giới tâm linh đổ vỡ, điêu tàn. "Mọi thứ đều là tạm bợ, là hư ảo phù du thôi, Trung ơi! Cả cuộc đời của chúng ta, cả những niềm vui, nỗi khổ của chúng ta. Nhất là ở đây, trong cuộc sống này!..." Quân bật thốt lên lời than thở. Nhưng nó nghẹn lại ở cổ anh... Chính nỗi đau của anh bây giờ cũng là hư ảo nốt, anh biết, và tin như vậy. Nhưng ý thức, ý chí và trái tim anh dường như không có chút gì liên hệ với nhau.
Anh vẫn ý thức, bằng niềm tin, tư tưởng đã cô đúc, đã tạo thành một nền tảng vững bền trong nhân cách của anh - một người đã ở dưới mái chùa suốt quảng đời thơ ấu - tính chất vô thường bào ảnh của mọi điều, và vẫn thấy đau một nỗi đau thực thể, bằng những cảm giác của một con người đang sống.
Quân bước tới, đưa tay bóp nhẹ bờ vai rắn chắc của Trung, anh nói:
- Từ mai, em sẽ thay thế Phái làm anh nuôi, để nó trở lại khẩu đội đại liên. Em đừng tự dằn vặt nữa, nghe không Trung.
Quân quay sang Phái:
- Phái sắp xếp công việc bàn giao lại cho Trung, em nhớ kèm cho nó vài bữa, hướng dẫn mấy bí quyết nấu nướng của em, nghe Phái.
Phái gật đầu, đưa mắt nhìn Trung. Trung vẫn cúi gầm đầu, thu cái cổ to ngắn vào giữa hai vai run rẩy, như một con gấu lầm lì đang dỗ giấc mùa đông.
Trong suốt mấy ngày sau, Trung càng có vẻ bất thường. Anh hay ngẩn người ra, nhìn trừng trừng vào một điểm nào đó vô hình trước mặt, miệng lẩm bẩm những câu rời rạc, vô nghĩa. Ban đêm, anh em trực gác thấy Trung đi thất thểu, quờ quạng từ nhà này qua nhà khác trong bóng tối như một hồn ma.
Chỉ còn ba ngày nữa là đơn vị hành quân tấn công cứ điểm 201, toàn đơn vị đang tập luyện ráo riết. Ai cũng nôn nao, phấn khích mong cho trận đánh chóng đến, chóng qua. Buổi sáng hôm ấy, trung đội đang dợt lại lần chót các thao tác trong vận động chiến đấu ngoài bãi cát, cách nơi dựng lều khoảng năm trăm mét. Quân vừa hô khẩu lệnh: "Khẩu đội. Tháo súng vận động!" thì Mợi lác hớt hải chạy tới, mặt mày xanh như tàu lá. Anh hào hển bảo Quân:
- Anh Quân ơi, thằng Trung nổi cơn điên rồi! Lúc nãy, em đang rang ruốc cá giùm nó, quay qua không thấy nó đâu. Em chạy đi tìm, nhìn thấy nó đang cầm khẩu AK của Già Hương còn để trong lều, kê nòng súng vào cằm, cười hì hì, mà nét mặt ghê lắm. Em len lén bò lại gần đá văng khẩu súng. Rồi ôm nó, cố dỗ dành nó. Nó không cự gì, chỉ lúc cười lúc khóc. Em ôm nó một hồi, thấy nó vẫn im lìm, em bỏ nó ngồi đó, mang mấy băng đạn và dao cộ giấu đi, rồi chạy ra đây. Anh tính sao bây giờ?
Quân bảo Già Hương:
- Anh cho anh em tập thêm tí nữa rồi về. Em về trước coi sao.
Quân và Mợi lác chạy về tới lều, Trung gấu đang quỳ mọp bên bếp, mồm miệng đầy đất cát. Quân bước tới, kéo vai đỡ Trung ngồi thẳng lên. Trung gấu cười hềnh hệch:
- Anh Trung... đi lên cung trăng hái mận với em nghe. Em mới ở trển về...Mận ngon lắm... Trong hồ có con cá mập lớn lắm. Nó cắn đứt bàn tay em rồi, anh Trung ơi...! - Trung gấu khóc òa lên.
Quân cau mày. Trung bị bệnh thật rồi. Anh quay lại bảo Mợi:
- Mợi ra bảo Tiến và Huy về gấp, cùng anh đưa Trung về Trung đoàn để chữa bệnh ngay. Nguy lắm rồi.
Ba người đưa Trung gấu lên tới K.23 khoảng ba giờ chiều hôm ấy. Lẽ ra, họ tới nơi sớm hơn, nếu trên đường đi Trung không dỡ chứng ngồi lì một lúc lâu.
Quân đã phải vất vả lắm khi thuyết phục đại úy Sơn, bác sĩ trưởng K.23 chuyển Trung gấu lên viện cấp cao hơn, nơi có điều kiện đưa Trung về nước. Mặc cho Quân nói khô cả cổ, Sơn vẫn lắc đầu quầy quậy, anh cứ khăng khăng một mực:
- Chỉ vì nó quá kích động. Từ từ vài bữa là bình thường trở lại thôi, cậu lo xa quá. Mà chưa biết chừng tại nó bể chiến đấu nên giả khùng giả điên như vậy. Còn phải chờ xác định coi nó thật sự bị loạn thần kinh không đã. Loại này tôi gặp nhiều quá rồi mà!
Quân vốn điềm đạm, nhưng cũng phải nổi nóng vì sự cứng nhắc của Sơn. Anh cố kềm cơn giận, gằn giọng nói:
- Ðây là một người lính của tôi. Tôi hiểu nó hơn anh nhiều. Nó bị bệnh thật sự. Nó cần được chữa trị ở một nơi thích hợp. Nếu anh sợ bị ảnh hưởng đến cái uy tín rẽ mạt của anh mà chần chừ, thì hậu quả còn tệ hại hơn. Lúc đó, anh sẽ vừa mang tiếng xấu, vừa bị lương tâm cắn rứt cả đời đó, anh hãy nghĩ lại đi...
Sơn khoát khoát tay, quay lưng dợm bước đi. Mặt Quân đỏ bừng như uống rượu. Máu nóng chợt dồn lên đầu, lan ra khắp người Quân, anh gần như hét lên:
- Nó suýt chút đã tự sát rồi, anh có biết không! Nó còn ở cái nơi đầy súng ống này ngày nào, thì còn nguy hiểm cho nó, và cho mọi người xung quanh ngày đó... - Quân dịu giọng lại - Anh Sơn à! Anh phải quyết định ngay một quyết định sáng suốt. Anh là một bác sĩ có tài, thương lính mà. Tôi vẫn còn nhớ anh đã tốt như thế nào, tận tụy như thế nào hồi trị thương cho tôi. Nhưng đây không phải là chuyên môn của anh. Anh nghe tôi đi, phải đưa nó về nước càng sớm càng tốt. Và phải cho một anh em nào có tấm lòng đưa nó đi. Tôi năn nỉ anh, thật tình năn nỉ anh đó, anh Sơn.
Cuối cùng, bác sĩ Sơn xúc động, đồng ý làm theo đề nghị của Quân. Quân còn nằng nằng xin Sơn nhớ cho người theo dõi Trung liên tục trong thời gian còn ở lại K.23, cho đến khi bác sĩ Sơn nổi khùng quát lên: " Cậu tưởng tôi là một thằng ngu ngốc và vô lương tâm hay sao mà cứ lải nhải hoài vậy. Ði về đi! Tôi sẽ làm những gì tôi thấy cần thiết!".
Trên đường về, cả ba lặng lẽ bước nhanh. Thỉnh thoảng, Huy nhìn sang Quân, cảm thấy thương anh vô cùng. Nét mặt Quân dàu dàu, không thần sắc. Vẻ bình an thanh thản thường nhật của anh không còn nữa. Nhìn anh giống như một bà mẹ vừa phải bứt ruột nhìn đứa con yêu của mình chết lịm trên tay. Họ về tới nhà lúc vầng trăng khuyết hạ tuần đã lên gần giữa đỉnh trời.
Cánh rừng lại xôn xao không khí của những ngày vào chiến dịch. Các cánh quân của các trung đoàn, tiểu đoàn khác nhau lũ lượt di chuyển dọc ngang. Từng đoàn quân, quần áo bạc màu nắng gió, ba lô, súng ống, gạo nước trĩu nặng trên thân bước những bước dài mạnh mẽ. Tất cả, từ người lính cũ đã mấy năm xa quê đến những người lính mới sang hồi cuối năm ngoái, đều không còn gì khác biệt nhau. Ai ai cũng đã quen với những chặng hành quân hàng chục cây số dưới ánh nắng chang chang, trong lớp bụi mù mịt bay lên giữa ban ngày, hay dưới ánh sao lấp lánh mùa khô miền xích đạo ban đêm; quen với mùi mồ hôi của chiếc áo lính nhiều ngày không giặt, với sự thiếu ngủ những đêm trắng hành quân; quen với sự căng thẳng trong giờ phút ém quân chờ lệnh nổ súng...
Từng đoàn quân, như những con rùa dưới cái mai nặng nề bò từng bước chậm rãi mà chắc chắn về mục tiêu phía trước. Người thì ngược về Tây, tiếp tục cho trận đánh. Người thì xuôi lên Bắc thế chân đóng chốt, bảo vệ cho dân công lên xây dựng tuyến phòng thủ dọc theo hành lang biên giới.
Trên đường đi, những người lính thuộc các đơn vị khác nhau cứ ngong ngóng mong gặp lại một đồng hương nào đó thuộc đơn vị bạn. Tiếng chào hỏi, cười đùa trêu ghẹo nhau giữa những người lính vang vang suốt một chặng đường dài, cuốn theo cơn gió cuối xuân hun hút luồn vào cánh rừng sâu, phá vỡ sự tĩnh lặng hàng trăm nghìn năm nay của khu rừng trầm mặc:
- Vân ơi, có viết thư cho nhỏ Thùy em gái tao nói tao gửi lời thăm nó với nhé. Dạo này tao lười viết quá. Ði may mắn nghe Vân.
- Thắng ơi! Ðánh cho hăng vào! Kiếm nhiều nhiều "đồ cổ" 1 về ghé tao nhậu một chặp tưng bừng nghe!
- Ðồng hương ơi, phen này lên đó nằm chốt một năm tội nhỉ! Có gặp nàng khỉ cái nào đèm đẹp thì cũng ráng giữ thủy chung với bà vợ già ở quê nghe!
- Anh em đi mạnh khỏe, chiến thắng vẻ vang nghe!
- Anh em ở lại cũng mạnh khỏe, hoàn thành nhiệm vụ nghe!
Huy dáo dác nhìn ngược ngó xuôi tìm kiếm Xuân, thằng bạn cùng huấn luyện ở H.15. Trong đoàn sang đây, chỉ có Huy và Xuân là về sư đoàn này. Không biết là Xuân ở trung đoàn, tiểu đoàn nào, Huy cứ vừa dõi mắt tìm, vừa hét lên hú họa: "Xuân ơí! Huy đây! Xuân H15 ơi! Huy đây! Mày đâu rồi?".
Từ phía đầu đội hình của đoàn quân đang đi ngược lên, bỗng có một người lính chạy xuống quát to:
- Ai là Huy H15?
- Tôi, tôi đây! - Huy cuống quýt.
Người lính bước tới gần bên Huy, mỉm cười:
- Xuân không có ở đây, nó đi qua chỗ E. bộ liên hệ công tác. Tui có nghe nó kể về ông.
Huy mừng rỡ, hỏi rối rít:
- Ủa, nó làm gì mà lên E? Anh ở đơn vị nào? Nó có khỏe không vậy?
Người lính bật cười, vui vẻ nói:
- Xuân đã lên tiểu đoàn làm văn thư. Tụi tui ở D7. Sắp tới nằm chốt ở đây, chắc còn lâu mới về hậu cứ. Yên chí đi, Xuân vẫn khỏe khoắn, vui vẻ. Thôi, tui phải đi đây. Tui sẽ nói nó có gặp ông. Mạnh giỏi nghe đồng hương. - Nói chưa dứt câu, anh ta xoay lưng chạy vù đi.
- Mạnh giỏi nghe đồng hương.! Huy hét vói theo. Anh tự trách mình quên không hỏi anh ta tên gì.
Buổi trưa, đơn vị dừng chân nghỉ giải lao bên một tiểu đoàn tăng. Lác đác trên trảng cỏ khô xơ xác là những khóm cây rừng, những chiếc tăng nằm dưới bóng những khóm cây đó. Từng nhóm năm người lính một đang quây quần bên cạnh chiếc tăng ăn cơm, trông thấy tụi Huy đi qua, cất tiếng chào mời vui vẻ, thân thiện:
- Xơi cơm mấy anh ơi.
- Ăn cơm đồng hương ơi.
Dù biết là họ chỉ mời cho có, Huy cũng thấy vui vui, xúc động. Tình cảm giữa các đơn vị, các binh chủng khác nhau trong những ngày này thật sự gắn bó, thể hiện ở từng điều nhỏ nhoi như vậy. Anh gật đầu cám ơn, rồi hỏi:
- Tụi tôi đang đi tìm nước về nấu cơm. Khu này có hố nước nào không mấy anh?
- Có, có người anh em ạ! Cứ đi dọc theo đường mòn này vài trăm mét nữa, có một vũng nước lớn lắm.
Theo lời những người lính tăng, đi thêm khoảng năm trăm mét, băng vào một cụm cây cao rậm rạp, Huy, Thuận gặp vũng nước. Ðó là một khoảng đất trũng hình bầu dục, đường kính chừng bốn mét, nằm giữa một bãi cỏ. Nó có nước là nhờ đợt mưa dầm hồi cuối tháng trước, nhưng đến nay cũng đã vơi cạn đi nhiều. Mặt nước tù đọng nổi lều bều những lá khô rơi, những váng rêu xanh mốc. Rải rác bên bờ vũng có những chỗ cỏ bị đè nát, lỗ chỗ dấu chân thú rừng trên mặt bùn non. Màu nước vàng đục, lợn cợn trông thật tởm. Nhưng có nước đã là quí lắm rồi. Huy mở bung tấm nylon ra, gấp làm hai, rồi móc túi quần lấy hai sợi dây võng cột gút hai đầu tấm nylon vào hai đầu cành cây đã chặt sẵn từ trước, tạo thành một cái võng chứa nước dã chiến. Xong xuôi, hai người gỡ nón cối ra bước xuống ven vũng, múc nước đổ đầy chiếc cáng. Dù có tải theo mấy can rùa nước dự trữ, Quân vẫn cẩn thận bảo anh em cố đi tìm nguồn nước, để dành lại số nước có sẵn phòng khi bất trắc.
Hai người về tới chỗ trung đội. Phái đã nổi lửa từ lúc nào. Anh nhanh nhẹn trút gạo vào nồi, đổ nước vào rồi bắc lên chiếc bếp dã chiến đào âm vào nền đất, bỏ qua công đoạn vo gạo. "Ăn thế càng thêm bổ!" Phái biện bạch dù chả ai có ý kiến gì.
Cơm nước xong, mỗi người tìm chỗ mắc võng, hay trải chiếu lên trên lớp cỏ khô để nghỉ lưng. Huy đang dáo dác tìm nơi cột võng thì Quân gọi:
- Lại đây Huy, đây có chỗ giăng nè.
Quân mắc võng giữa hai cây rừng cỡ bắp chân. Bên tay phải anh có một nhánh lớn xòa xuống thấp từ một cây to gần đó. Huy cột một đầu võng vào nhánh cây đó, đầu kia vào thân cây đầu võng của Quân. Rồi anh ngồi lên võng, ngả lưng ra khoan khoái.
Huy nhắm mắt lại dỗ giấc, anh cũng đã mệt nhoài sau chặng hành quân. Nhưng rồi anh thấy đầu mình tỉnh như sáo, không sao ngủ được, như vừa uống xong một ly cà phê thật đậm. Anh nhổm lưng ngó qua Quân. Quân cũng không ngủ, anh vòng hai tay ra sau ót, mở mắt nhìn lên vòm lá trên đầu.
Huy ngần ngừ một lúc, rồi nói:
- Thương thằng Trung quá, anh Quân! Không biết giờ nó ra sao!
Quân thở dài:
- Cầu mong cho nó hết bệnh. Nó là một người tốt...và hiếm có...
Huy ngạc nhiên. Anh không hiểu Quân muốn nói gì. Huy im lặng ngẫm nghĩ một lúc rồi buột miệng hỏi:
- Hiếm có là sao hả anh?
- Thật ra, điều này anh khó mà giải thích. Với lại, nó chỉ là cách nghĩ của anh thôi, Huy à. Huy biết không, thường thì mọi người coi những người bị lên cơn điên khùng sau một cú sốc, một thương tổn tâm lý là những người yếu đuối, đáng thương. Người ta thương hại, và người ta cũng coi thường những người này. Thật ra, những người điên này cao quí, đáng trọng hơn nhiều so với vô khối loại người. Họ trung thành với điều họ coi là lẽ phải, là chân lý, và khi điều này bị xúc phạm, họ không chịu đựng được. Họ là những người có nhiều tính nhân bản hơn người khác.
Huy ngơ ngác nghe Quân nói. Những câu giải thích của Quân còn khó hiểu hơn cả nhận định của anh. Tuy vậy, những lời trầm buồn của Quân in sâu vào trí nhớ Huy. Anh nhớ hầu như đúng từng câu, từng chữ. "Rồi sẽ có ngày mình hiểu!" Huy tự hứa với mình. Anh chợt nghĩ tới một điều khác.
- Em có nghe Ụ Mối kể về anh. Anh không muốn về nước sao anh Quân?
- Muốn chứ. Anh cũng nhớ thành phố lắm. Nhưng anh không còn ai, không còn nơi nào để coi là gia đình, là mái ấm của mình nữa. Anh cũng không thể xa anh em, đồng đội. Trung đội bây giờ là nhà của anh đó Huy.
Quân chợt mỉm cười. Anh nhìn Huy với đôi mắt sáng. Không thể gọi Quân là một người đẹp trai. Dáng anh cao gầy, lưng hơi khòm khòm. Nét mặt anh là nét mặt của một người bình thường, không xấu cũng không đẹp, và không có gì đặc biệt. Một gương mặt mà người ta có thể nhìn lướt qua rồi sau đó sẽ quên khuấy đi ngay. Tuy nhiên, Quân có một đôi mắt khác thường. Mắt anh tỏa một ánh sáng dịu dàng, kỳ diệu. Ánh sáng đó làm cho bất cứ người nào, khi nhìn vào đôi mắt của Quân, cũng sẽ có cảm giác mình như tốt hẳn lên, tự tin hẳn lên. Và những khi Quân im lặng, nét mặt anh có một sự bình thản lạ thường, bình thản nhưng không gây cảm giác lạnh lùng, xa cách. Ở Quân ánh lên một vẻ đẹp bên trong khó diễn tả thành lời. Ngay từ hôm gặp Quân lần đầu, Huy đã không cưỡng nổi một niềm tin cậy và yêu mến tự nhiên đối với anh. Quân nói:
- Hôm trước, lúc em ra hồ tải nước. Ụ Mối nó lục ba lô em lấy cuốn sổ ra đọc um lên. Em cũng lãng mạn lắm nghe Huy! Thơ em có sự rung cảm, có sức mạnh nội tại đó, nhưng còn dàn trải lắm. Thơ em là lời độc thoại với chính mình, nó không phải là loại thơ dành cho người thứ hai nào khác ngoài em. Anh thấy qua những bài thơ và đoạn nhật ký đó, em đa cảm và mang nhiều ảo tưởng quá Huy. Ðó không phải là điều tốt cho em đâu. Em sẽ vì nó mà chịu nhiều bất hạnh.
Huy nhìn Quân đăm đăm, ngạc nhiên thấy Quân chỉ với những lời giản dị như vậy đã nói thật chính xác được những gì mà chính anh cũng đã từng cảm nhận một cách mơ hồ. "Anh Quân hiểu mình còn hơn mình hiểu chính mình nữa!" - Huy la thầm trong bụng. Quân nói tiếp:
- Em đang băn khoăn về những điều hư huyễn đó Huy. Tốt hơn em nên cố gắng dẹp bỏ đi những khái niệm phân biệt về bản chất con người. Con người chỉ đơn giản là con người thôi. Có tốt, có xấu, có thiện, có ác, có sự hèn nhát song song với bản chất anh hùng. Tốt hay xấu, thiện hay ác, hèn nhát hay anh hùng theo đánh giá của người khác ngoài bản thân của một cá nhân chỉ là cái vỏ bên ngoài, là hiện tượng, biểu hiện nhất thời. Nếu đúng lúc, đúng thời cơ thì nó là hay, nếu không đúng lúc thì nó là điều dở, chỉ vậy thôi Huy. Tất nhiên, ở mỗi cá nhân, mức độ giữa những bản chất này có khác nhau. Nhưng có ích gì việc đi đánh giá, khen chê, phẩm bình người khác, và đặt niềm tin nơi người khác. Em chỉ nên quay lại nhìn nhận chính mình, chỉ nên tin vào con người nói chung, chứ không phải là bất cứ một con người cụ thể nào...
Quân chợt ngưng lời. Anh thấy lòng quặn lên một nỗi xót xa khôn tả. Anh đã cảm nghiệm, kinh qua những điều vừa nói với Huy bằng chính những mất mát đổ vỡ của mình. Anh chợt thấy băn khoăn. Huy còn trẻ quá, còn hồn nhiên chân thật nào khác gì một đứa trẻ thơ. Huy chính là hình ảnh của chính anh thời thơ dại: đầy khát khao hiểu biết, đầy mơ tưởng ngây thơ, đầy niềm tin, hy vọng... Có nên nói với Huy những điều này không? Có thật sự cần thiết hay không?... Lướt qua đầu Quân một chuỗi hình ảnh của ngày qua: một thằng Quân nhỏ xíu, ngơ ngác nghe mấy ông cậu bà dì bảo: "Ba má mày chết cả rồi!" - "Chết là sao hả cậu?" - "Là mày không bao giờ gặp lại ba má mày nữa." - "Vậy ba má con đi đâu?" - "Ði xa lắm..." - "Xa tới đâu hả dì?" - "Xa lắm, có nói mày cũng không biết đâu mà hỏi." - " Vậy chừng nào ba má con về?" - "Họ không về nữa đâu, họ đi mãi mãi..."... Nó ôm mặt khóc nức nở. Lần đầu tiên nó đã ý thức về cái chết như là sự xa cách, bất ngờ và không hiểu nổi...; Rồi một thằng Quân bụng đói như cào, lang thang trên đường phố, bị tụi trẻ bụi đời đánh đập, bị chó rượt cắn, bị người lớn mắng chửi khi nó liều bước vào nhà xin chút cơm ăn...; Rồi một thằng Quân mặc áo nâu sồng, lưng thẳng đơ, nghiêm nghị ngồi nghe sư cụ giảng giải những lẽ mất còn, những điều sắc sắc không không...Có lần, sư cụ đã dạy Quân: "Con không nên tin vào những gì người khác nói, kể cả một người đáng trọng nhất con từng biết, kể cả Ðức Phật, nếu như người có hiện ra trước mặt con; không nên tin vào sách vở, kể cả đó là một quyển kinh điển hầu hết mọi người đều tôn sùng ca ngợi, khi chưa tự mình chứng nghiệm, kinh qua. Một khi con đã tự mình chứng nghiệm, kinh qua, một khi trái tim con hòa hợp cùng lý lẽ, một khi thâm tâm con cuối cùng mách bảo đó chính là lẽ phải, điều nên - cái đó, chúng ta gọi là lương tâm - khi ấy, con hãy tuân theo những gì lương tâm con thúc giục con. "Quân đã cảm nghiệm, đã tự mình minh chứng tính chất đúng đắn của lời dạy đó sau bao nhiêu năm tháng băn khoăn. Quân đã hiểu ra một điều: Lẽ phải, hay như sư cụ nói - lương tâm- thật sự không nằm ở luân lý, đạo đức hay pháp luật. Tất cả những thứ đó đều có thể đổi thay cùng lịch sử. Lẽ phải là điều cao viễn hơn chúng, vĩnh hằng, thuộc về mỗi cộng đồng, và cũng thuộc về mỗi cá nhân. Nó đã được di truyền qua bao thế hệ, hình thành và tồn tại trong cuộc chiến đấu sinh tồn. Nó mang tính cá thể vì nó nằm khuất trong ý thức, tiềm thức mỗi con người riêng biệt. Nó lại mang tính cộng đồng vì nó là mối dây liên kết giữa từng cá thể với nhau trong cuộc sống chung. Một người khi hành động một điều không hợp với lẽ phải đó, sẽ có thể che dấu, dối gạt được người khác, nhưng không thể che dấu, dối gạt chính mình. Họ sẽ cảm thấy bất an, day dứt, đau đớn không nguôi, dù đôi lúc đôi khi hay suốt cả đời.
Quân quay sang Huy. Huy vẫn mở to mắt nhìn anh chờ đợi. Có lẽ trong đầu óc của nó mình là một con người hoàn hảo lắm, là một tấm gương đáng để nó noi theo... Quân nghĩ thầm rồi nói tiếp:
- Ðừng đặt toàn bộ niềm tin vào bất cứ ai Huy à... kể cả anh hay người nào khác, nếu không, khi niềm tin sụp đổ, em sẽ không đủ sức chịu đựng nó đâu. Và điều quan trọng em cần luôn luôn nhớ, là cái tốt thật sự, cái chân lý thật sự cũng chỉ là tương đối. Em có bản chất tốt, có niềm tin, vậy hãy tin rằng những điều không làm những người đang sống quanh em thiệt hại, đau khổ là điều thiện, điều mình phải nỗ lực thực hiện, và chỉ cần như vậy là đủ rồi. Chỉ vậy thôi cũng đã khiến em phải tự đấu tranh rất gian lao rồi đó Huy.
Quân ngưng lời, anh thở dài, im lặng một lúc lâu.
Huy vẫn còn choáng váng với những gì Quân nói. Chúng như những tia chớp lóe lên, sáng rực trong khoảnh khắc, soi rọi đến tận những ngõ ngách thâm u, mờ mịt nhất trong ý thức của Huy. Tuy vậy, anh không hiểu hết, chỉ cố gắng ghi nhớ chúng. Huy chợt phát hiện ra một điều kỳ quặc - Quân nói như một nhà tu sĩ, nhưng anh vẫn hành xử như bao người bình thường khác, vẫn cầm súng chiến đấu một cách dũng cảm, có thể nói là anh hùng nữa cũng không quá đáng. Có một sự mâu thuẫn nào đó thật lạ lùng trong con người này! Anh suy tư như một nhà hiền triết, nhưng sống và hành động như một con người đầy nhiệt tâm, đầy lòng đam mê cuộc sống. Một lúc sau, Huy hỏi:
- Tại sao mình lại đánh nhau ở đây anh Quân? Sao mình không để bộ đội K. tự lo lấy chuyện của họ? Em có nghe anh Ngô chính ủy trung đoàn giải thích vấn đề này rồi, nhưng em thấy nó sao sao đó, không thuyết phục. Mấy bữa trước em qua nghe ké "ra-dô" bên đại đội 13, anh Vụ có mở đài Polpot nghe xem chúng nói gì. Mẹ kiếp! Chúng chửi quân tình nguyện Việt Nam mình là lũ xâm lược, chả khác gì mình chửi lính Mỹ trước đây. Liệu người dân Campuchia có coi mình là lũ ngoại bang xâm lược không anh?
- Bản chất những người lính tụi mình khác với bản chất những người lính Mỹ. Anh nói khác ở đây không phải là về cái tốt hay cái xấu. Khác là ở nền văn hóa, ở tư tưởng, quan niệm, truyền thống dân tộc. Lính Mỹ không hiểu dân Việt, do đó, hoặc họ sợ hoặc họ coi thường, khinh rẻ dân ta. Còn chúng ta và dân Campuchia không khác gì nhau mấy, chúng ta và họ có cùng một nền tảng, bản sắc văn hóa như nhau. Chúng ta hiểu họ, thương mến họ. Và những người dân chất phác này cũng hiểu và thương mến chúng ta. Còn như tại sao chúng ta lại phải chiến đấu thế này, là một chuyện không dễ nói. Ðúng là nếu chúng ta sớm rút quân về thì tốt hơn, nhưng tình thế hiện nay rất nhiều chuyện rối ren. Em cũng không nên thắc mắc dằn vặt làm chi. Nói cho cùng, chúng ta chỉ là những hạt cát bị cuốn theo vòng xoay của thời đại, của lịch sử thôi Huy.
- Tại sao lại phải né tránh sự thật hả anh? Em nghĩ nếu không xác định được ý nghĩa, mục đích, thì làm sao chúng ta có đủ niềm tin và ý chí để chiến đấu. Từ hồi nhỏ, em đã thích những chuyện hào hiệp anh hùng, thích những bài thơ, bài hịch hùng tráng. Em nghĩ rằng đối với đàn ông thì chuyện cao quí nhất để làm là chiến đấu, là "da ngựa bọc thây".
- Ðiều này cũng là một trong những ảo tưởng của em đó Huy ơi! - Quân có vẻ buồn buồn. Anh dừng lời, im lặng một lúc lâu - Và cũng là điều mà nhiều người ảo tưởng về nó. Chiến tranh rốt cuộc chỉ để phục vụ cho mưu đồ tham vọng của những người cầm quyền. Ở những cuộc chiến xâm lược thì điều này đã hẳn nhiên rồi, không có gì để bàn cãi nữa. Nhưng cả ở những cuộc chiến tranh giữ nước, chống ngoại xâm, hay nội chiến rồi cũng vậy thôi. Lịch sử đã cho thấy rồi, khi cởi bỏ được ách thống trị hà khắc, bóc lột của ngoại bang, hay đã lật đổ một chế độ thối nát nào trước đó, và đã nắm được quyền lực trong tay, người ta thường quên đi những điều ích dân, lợi nước. Họ, hoặc người kế thừa của họ chỉ còn nuôi tham vọng củng cố quyền uy hoặc xa hoa hưởng thụ. Chỉ có những người dân, những người lính tầm thường là mất rất nhiều, mà được rất ít, hoặc chẳng được gì. Trừ phi là chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, còn thì những cuộc chiến khác không mang tới cho họ điều gì hay ho cả. Cái họ cần chỉ đơn giản là một mái nhà, một gia đình êm ấm, một mảnh ruộng vườn nho nhỏ và một cuộc sống thanh bình... Biết bao nhiêu người phơi xác, tên tuổi cũng vùi sâu vào cát bụi lãng quên, chỉ để cho một vài kẻ trở thành những vị anh hùng lưu danh sử sách. Từ khi khái niệm anh hùng nguyên sơ của thời cổ đại xa xưa đã trở thành một chủ nghĩa- chủ nghĩa anh hùng- nó đã bị biến tướng, đổi thay về chất, trở nên một sự mê hoặc, một sự lừa dối kinh khủng, đã bị người ta lấy nó làm chiêu bài che đậy những sự xấu xa, Huy có hiểu không. Mỗi con người đều có khả năng trở thành một anh hùng, một tài năng để cống hiến cho xã hội, họ vốn mang sẵn trong người cái đó. Nhưng để làm một anh hùng chân chính thì rất khó, rất hiếm hoi... Anh đã từng băn khoăn, nghĩ ngợi nhiều về vấn đề này, nhưng rồi thấy nó thật là phức tạp. Có những điều chúng ta có thể cảm nhận phần nào, nhưng không thể diễn tả nó ra một cách minh bạch bằng lời đâu Huy...Thôi, đừng nói chuyện này nữa nghe Huy. Có lẽ càng nghĩ về mọi sự một cách giản đơn, càng dễ chịu, ít gặp rắc rối hơn đó Huy. Nhiều khi, anh ước ao mình không hiểu biết gì cả, thế lại hóa hay...
Quân điểm lại trong đầu những cái tên vua chúa, anh hùng; Những cuộc cờ chính trị tranh đoạt thế quyền đầy khí trá, gian manh, thủ đoạn ghê người, đẫm máu và nước mắt của biết bao nạn nhân vô tội; Sử sách còn rành rành ghi lại đó. Ở bất kỳ thời nào, ở bất kỳ nơi nào trên quả đất bé nhỏ này, những chuyện như vậy vẫn cứ diễn ra. Nó vẫn diễn ra dù là dưới những hình thức khác nhau. Bao giờ con người mới thật sự xóa bỏ được mọi khái niệm phân biệt, hữu danh vô thực, để yêu thương nhau, để sống một cuộc sống thanh bình, an lạc? Sống không phải để hận thù ganh ghét. Sống để yêu thương và sáng tạo. Ðể mỗi một con người đều là một vì sao, một mặt trời nhỏ tự tỏa sáng bằng ánh sáng của chính mình. Sẽ có một ngày như vậy đến hay không? - Quân tự hỏi lòng.
Huy thân thiết nhìn Quân. Mãi đến hôm nay, Huy mới có một cuộc trò chuyện thật sự với anh. Quân nói nhiều điều thật là mới mẻ, dù có những chỗ Huy chưa thật hiểu, và đôi chỗ khác Huy không đồng ý với Quân, nhưng Huy vẫn thấy lòng tràn ngập một niềm quý mến và cảm phục anh. Không rõ vì sao, lòng Huy chợt rộn lên một niềm ước ao mãnh liệt - được nắm lấy bàn tay Quân, nắm và xiết thật mạnh, thật lâu.
Trầm ngâm một hồi, Huy hỏi:
- Anh Quân thích viết như vậy, chắc hồi đó anh học khoa văn phải không?
- Anh học khoa triết. Anh yêu triết học từ hồi còn nhỏ. Hồi đó, tối tối sau buổi tụng kinh, sư thầy thường ngồi giảng dạy cho anh mọi lẽ. Lớn lên một chút, anh đọc mấy cuốn triết khô khan còn mê mải hơn đọc tiểu thuyết. Nhưng triết học không giải quyết được vấn đề của cá nhân đâu Huy ạ. Triết học chỉ là cánh cửa mở hé cho ta thấy ánh sáng bên ngoài. Còn nguồn sáng ở đâu, tự thân mỗi người phải đi tìm nó. Huy biết không, anh viết vì cảm thấy hạnh phúc khi đang viết. Anh không nghĩ những gì mình viết là hay, hay có giá trị gì cho người khác. Tuy vậy, anh vẫn gửi đi. Anh nghĩ đó là sự thể hiện mối quan tâm tới người khác, ý muốn hòa đồng, chia sẻ với người khác, và tình thương yêu cuộc sống của anh. Anh làm hết những gì mình có thể làm, vậy là anh thấy yên ổn trong lòng.
- Chắc anh Quân có làm thơ? Hôm nào anh cho em đọc với nghe.
- Anh không có năng khiếu về thơ ca như Huy đâu. Thơ anh dở lắm. Nói đúng ra, đó không phải là thơ, mà đơn giản là những suy nghĩ xếp thành vần. Ðể rồi anh sẽ đưa Huy đọc. Thôi, ngủ đi Huy. Ðêm nay là ém quân vào cứ điểm rồi. Ngày mai sẽ là một ngày vất vả...
Huy nghiêng người, nhắm mắt lại. Anh rơi vào giấc ngủ ngay sau đó.
Chú thích:
1. Chiến lợi phẩm.
Sáng hôm sau, tình trạng thần kinh của Trung gấu có vẻ xấu đi. Căn bệnh đã bắt đầu bộc phát. Khi đó, mọi người đã ra ngoài luyện tập. Ở lều chỉ còn lại hai người. Phái lo chuẩn bị cơm nước, còn Trung gấu ngồi phụ giúp kế bên. Ðang cắm cúi nhặt thóc, Trung bỗng bật khóc to nức nở. Phái điển quay lại, buồn bã và lo lắng nhìn anh.
Trung đội dạo trước có hai Trung: Trung liều A trưởng và Trung gấu, xạ thủ số hai đại liên. Trung liều đã hy sinh trong trận vừa qua, để lại nỗi đau xót, mất mát lớn lao cho mọi anh em, nhất là đối với Trung gấu.
Hồi mới nhận tân binh về, A trưởng Trung liều đã chú ý đến cái thằng lùn lùn, vạm vỡ, vai rộng, dáng đi lùi lũi như một con gấu, nhưng vẻ mặt lại hiền khô, khờ khạo, đôi mắt nâu buồn buồn không hợp chút nào với khuôn mặt to vuông vắn chữ điền. Tự dưng, anh bỗng thấy thương nó như đứa em ruột của mình. Trung liều có một thằng em trai nhưng đã bị bệnh chết năm nó lên mười tuổi. Một lần, khi hai người nằm gác chân lên nhau trò chuyện, Trung liều đã kể cho Trung gấu nghe thời thơ ấu buồn tủi cơ cực của mình. Hai gã Trung chỉ trong vòng vài ngày đã gắn bó với nhau còn hơn anh em ruột thịt. Trung lớn lo cho Trung nhỏ từng chút một, dạy bảo, chỉ dẫn, khuyên nhủ, và cả an ủi những lúc cậu này buồn.
Trung gấu chỉ có cái tướng là táo tợn, đáng gờm, còn vẻ mặt và tính tình thì lại hiền và nhút nhát. Hồi chưa vào lính, Trung gấu làm ở một ga-ra sửa chữa ô-tô. Anh vốn là dân Phan Thiết, gia đình rất nghèo. Năm Trung mười lăm tuổi thi rớt lớp mười, chưa biết làm sao thì một bà dì độc thân ở Sài Gòn ra chơi, rồi khuyên ba má Trung cho anh vào Thành phố để kiếm chuyện làm ăn. Bà làm giấy nhận Trung làm con nuôi và chuyển hộ khẩu anh về Thành phố. Sau đó bà xin cho Trung vào vừa học vừa làm ở cơ sở đó cho đến khi anh đi nghĩa vụ.
Bà dì là người ăn chay trường. Bà không buộc anh phải gò bó như mình, nhưng Trung vốn đã quen kham khổ, lại muốn tránh phiền cho bà, nên anh cũng bắt chước theo bà. Dạo ở quân trường, do có muối đậu, tương chao bà mang lên tiếp tế, Trung vẫn duy trì được thói quen ăn chay. Nhưng qua đây, dần dần anh cũng phải ngã mặn theo anh em. Trung rất ghét chuyện súng ống. Hồi mới sang, anh hay nói với mọi người là nếu có đánh nhau, anh chỉ bắn chỉ thiên thôi. Trung bảo hồi ở nhà đến mấy con thằn lằn anh còn không nở giết, tính ra, trong đời anh chỉ phạm tội sát sinh mấy loài muỗi, rệp và gián mà thôi.
Hôm đó, hôm Trung liều hy sinh, trung đội đang phối thuộc với đại đội 12 cắm mũi đầu tiên vào cứ địch. Sau khi qua được cửa mở ở tuyến phòng thủ thứ nhất, anh em tiếp tục vận động chiếm lĩnh các điểm xung yếu để vượt tuyến phòng thủ thứ hai.
Cứ Ampil là tổng hành dinh của Sonsan, lực lượng của nó theo quân báo ước tính khoảng chừng mười ngàn tay súng, được trang bị đủ các loại cối pháo từ 130 ly trở xuống. Ngoài lính ra, trong cứ còn có dân Khmer tỵ nạn, và gia đình, vợ con của số lính tráng, sĩ quan. Trong số này có cả người gốc Việt. Sau khi chiếm được cứ, trung đội đã nhặt được trong một căn nhà mấy quyển sổ ghi chép bằng tiếng Anh, và một số ghi chú tiếng Việt kèm theo.
Ampil có tất cả ba tuyến phòng thủ tạo thành ba vòng cung đồng tâm, mỗi tuyến cách nhau chừng bảy, tám trăm mét. Tuyến phòng thủ là một bờ đất cao và rộng, phía sau nó là đường giao thông hào sâu ngang ngực. Dọc theo tuyến, cứ cách năm chục mét lại có một căn hầm to rộng, trên phủ mấy lớp gỗ rừng, mỗi cây đường kính bé nhất cũng đến năm tấc. Ngoài ra còn có ụ súng lộ thiên cho các tay súng cá nhân và súng máy. Giữa những tuyến này lại có những bãi mìn. Khi tấn công lên tuyến thứ nhất, đại đội 11 chưa nổ được phát súng nào đã lọt vào một bãi mìn, thương vong mất bốn người. Cuối cùng họ phải rút lui, chuyển sang hướng khác.
Ðang đánh nhau kịch liệt ở ngoài tuyến phòng thủ thứ hai thì một trong hai chiếc tăng mà đại đội 12 đánh kèm bị vướng mìn tăng, đứt xích không di chuyển được nữa. Ðại đội dàn hàng ngang vận động lên phía trước chiếc tăng để bảo vệ cho tuyến sau lên làm nhiệm vụ cáng thương. Khẩu đại liên của Trung liều cùng lên với trung đội sáu, còn khẩu 12 ly lúc đó do Quân chỉ huy cũng đang vận động ở cánh trái, trong đội hình của trung đội năm. Trung liều dẫn đầu khẩu đội, khẩu AK lật ngang quét từng tràng điểm xạ ngắn đanh. Lúc ấy, đạn nhọn cứ bay veo véo như mưa ngang đầu, chẳng còn biết đâu mà tránh né. Họ chỉ dừng lại, mọp xuống khi có một quả đạn cối hay pháo nổ gần bên.
Trung liều đang chạy thì một quả B40 từ phía trước nổ chụp tới, cách anh chừng bốn mét. Lúc đó, Trung gấu và Tiến cóc ở phía sau lưng anh không đầy mười mét. Trung liều chết ngay tại chỗ.
Tiến và Trung gấu quăng khẩu đại liên xuống, nhào tới bên anh, nhưng chỉ để nhìn thấy khuôn mặt xám ngoét, hai con mắt nửa mở nửa khép, lòng trắng vằn đỏ những tia máu, và khóe miệng rỉ máu đỏ bầm của Trung liều. Thân hình anh nhầy nhụa những vết thương.
Trung liều hy sinh vào khoảng năm giờ chiều, ngày 7-1-1985. Ánh hoàng hôn đỏ rực như lửa cháy từ phía trước mặt đội hình -hướng Tây - hắt xuống bãi cát một màu đỏ vàng hiu hắt. Trên trận địa, những người lính đang chầm chậm bò lê tiến về phía địch như một đàn kiến khổng lồ. Ðây đó rải rác những hố cát do đạn pháo cày xới lên; và ở nhiều hố loang lổ những vệt máu khô bầm.
Từ đó trở đi, Trung gấu trở thành một người khác hẳn. Anh lao lên, xô Tiến cóc, xạ thủ một, ngã dúi sang bên, chụp lấy hai tay cò súng. Lần đầu tiên trong đời, Trung gấu đã biết đau đớn căm thù. Anh không thèm cúi mình né tránh làn đạn phủ đầu rát mặt từ sau tuyến giao thông hào thứ hai của địch, cứ chăm chăm quay súng tới những nụ lửa xòe ra, quất liên tục từng tràng. Mấy ụ súng đó câm tiếng ngay lập tức sau loạt đạn của Trung. Trung gấu bắn như điên như dại. Trong đầu anh trống rỗng, chỉ tồn tại mấy từ "Anh Trung đã chết rồi!".
Trận đánh kéo dài từ rạng sáng ngày 7, đến sẫm tối ngày 9 thì kết thúc. Hôm đó Trung không khóc. Cả hai hôm sau, khi trận đánh chưa ngưng cũng vậy. Trừ những lúc nổ súng đánh nhau, Trung có vẻ lầm lì nhưng còn linh hoạt chút xíu, ngoài ra, trong mọi sinh hoạt khác, anh làm gì cũng ngơ ngẩn, ngẩn ngơ. Ðến cái đêm sau khi toàn thắng, anh em bắt được một con heo nuôi chạy lạc, xẻ ra làm thịt liên hoan, Trung gấu không ngồi vào ăn uống. Anh đi ra xa, tới một chỗ vắng người, ngồi sụp xuống, khóc nghẹn ngào rất lâu.
Tâm trạng Trung trong những ngày sau đó rất nặng nề, u uất. Nhiều lúc nửa đêm chợt giật mình thức giấc, Trung không tài nào dỗ giấc lại. Anh nằm nghe tiếng những cơn gió rừng hun hút thổi, nghe tiếng trở mình, tiếng ngái đều đều của các đồng đội khác, rồi tưởng như nghe tiếng bước chân quen thuộc, bình thản của Trung liều vừa bước vào lều sau một ca gác, tưởng như mơ hồ nhìn thấy bóng Trung đang tiến đến gần mình. Rồi anh nhận ra đó chỉ là tiếng gió xào xạc lùa qua lớp lá che trên mái, là bóng những cành lá bên ngoài chập chờn trên đất, trên vách căn lều. Có lúc anh nhớ tới cảnh tượng A trưởng Trung nằm đó, đôi mắt khép hờ, thân hình đẫm máu mà cứ ngỡ mình vừa qua một cơn ác mộng. Anh tự lừa dối mình trong khoảnh khắc rằng tất cả chỉ là một giấc mơ; rằng Trung vẫn sống; rằng chỉ cần anh ngồi dậy, xoa mặt mấy cái là Trung sẽ bước đến, mỉm cười đưa cho anh điếu thuốc vấn đang hút dở dang.
"Cái chết đến dễ dàng như vậy hay sao?" Câu hỏi như một mũi khoan cứ xoáy mãi, xoáy mãi trong tâm trí của Trung. Nó rít lên lúc anh đang ngồi ăn, đang đi đứng, đang nói năng, đang làm bất cứ chuyện gì. Trung hiểu con người thì phải chết. Anh đã thấy bà nội mình qua đời như thế nào trong căn nhà thấp lụp xụp ven biển của bà. Anh cũng đã thấy những cái chết khác, của những người quen hay lạ xung quanh. Nhưng anh chưa từng biết về một cái chết đến đột ngột, vô cùng đột ngột trong thoáng chốc như vậy. Chỉ trong thoáng chốc, một con người khỏe khoắn, nhân hậu, yêu thương anh và được anh yêu thương không kém chỉ còn là một đống thịt bầy nhầy, trơ trơ, vô cảm.
Rồi Trung chợt giật mình khi nhớ lại chính bản thân mình sau lúc đó. Anh đã bắn, không phải là chỉ thiên, mà là thẳng vào những thân người. Trung biết đã có những thân người đổ gục xuống sau tràng đạn của anh. Ðó là kẻ địch, quân thù. Ðó là bọn dã man tàn ác đã giết chết Trung A trưởng - Trung biết rất rõ điều này. Nhưng anh vẫn có một cảm giác gì đó ghê tởm chính mình, khi nhìn xuống bàn tay. Bàn tay này đã nhuốm máu rồi! Do chính bàn tay này mà có những người vợ mất chồng, những đứa con mất cha, những người lính mất đồng đội!...
... Ðầu Trung gấu nhức buốt. Những suy nghĩ quay cuồng. Trung nghe lùng bùng trong tai những tràng điểm xạ liên hồi chát chúa của khẩu đại liên. Anh rên lên những tiếng ngắn đau đớn.
Phái chợt nghe tiếng rên rỉ và lầm bầm của Trung gấu: "Dì ơi!... Con đã bắn rồi...bắn vào tụi nó rồi...Con đã bắn chết tụi nó rồí!... Anh Trung ơi... em đã bắn chết tụi nó rồi!...". Giọng nói không âm sắc, lắp bắp, lẫn vào tiếng khóc, và nhất là tính chất không đúng chỗ của nội dung câu nói làm cho những lời nghẹn ngào của Trung có một vẻ gì đó kỳ lạ, ghê ghê làm Phái giật mình. Anh ngước lên nhìn Trung kinh ngạc.
Bóng một người che khuất ánh sáng ở phía lối vào, làm bên trong lều tối xầm một thoáng, rồi người đó bước vào lều. Ðó là Quân. Anh đã đứng bên ngoài lều từ lúc nãy.
Quân nhìn Trung đang ngồi nức nở, thấy xót xa thương Trung quá. Qua bao nhiêu ngày tháng gần gũi bên nhau, Quân hiểu từng niềm vui, nỗi buồn, từng sự trái nết, kỳ cục nào đó của mỗi người trong trung đội, không phải chỉ với sự đồng cảm, thương yêu của một người anh cả, mà còn với tấm lòng bao dung của một người mẹ dịu dàng. Nhất là Trung, hồi mới về trung đội, nó cứ bám theo anh, hỏi han thắc mắc đủ chuyện. Những câu hỏi ngây ngô như của một đứa trẻ con.
Quân nhận ra bên trong cái ngoại hình xù xì, dữ tợn, trái tim Trung là trái tim hiền hậu của một bà soeur già trọn đời làm việc thiện. Trung không phải là loại người có tinh thần mạnh mẽ để có thể thích ứng, đối phó với những nghịch cảnh, trắc trở của cuộc đời. Sau những ngày đầu quay quắt nỗi nhớ nhà, nhớ quê, Trung đã cảm thấy đời lính trở nên thân tình, ấm áp. Có một lúc nào đó, Trung đã ước ao cuộc đời cứ như thế này mãi mãi, nó và những bạn bè gắn bó trong trung đội sẽ sống bên nhau cho đến cuối đời, như những người trong một gia đình. Có lần, nó đã bảo với Quân: "Bây giờ em không còn nhớ nhà nữa. Em thấy sống như thế này thật vui, thật thích. Phải chi tất cả anh em trong trung đội mình cứ sống bên nhau như vầy đến già há anh Quân!"
Ðầu óc vô cùng đơn giản của Trung đã vô ý thức quên đi thực tại. Nó đã sống trong một giấc mơ ban ngày êm ái, chứa chan niềm vui, tình thương yêu gắn bó với nhau của những người lính chiến xa nhà. Rồi giấc mơ đã vỡ tan. Thực tế là những lưỡi dao sắc bén đã cắt đứt, băm nát chuỗi ngày bình yên, hạnh phúc thành ngàn ngàn mảnh vụn. Thực tế là cơn bão dữ cuốn qua, để lại sau lưng nó một thế giới tâm linh đổ vỡ, điêu tàn. "Mọi thứ đều là tạm bợ, là hư ảo phù du thôi, Trung ơi! Cả cuộc đời của chúng ta, cả những niềm vui, nỗi khổ của chúng ta. Nhất là ở đây, trong cuộc sống này!..." Quân bật thốt lên lời than thở. Nhưng nó nghẹn lại ở cổ anh... Chính nỗi đau của anh bây giờ cũng là hư ảo nốt, anh biết, và tin như vậy. Nhưng ý thức, ý chí và trái tim anh dường như không có chút gì liên hệ với nhau.
Anh vẫn ý thức, bằng niềm tin, tư tưởng đã cô đúc, đã tạo thành một nền tảng vững bền trong nhân cách của anh - một người đã ở dưới mái chùa suốt quảng đời thơ ấu - tính chất vô thường bào ảnh của mọi điều, và vẫn thấy đau một nỗi đau thực thể, bằng những cảm giác của một con người đang sống.
Quân bước tới, đưa tay bóp nhẹ bờ vai rắn chắc của Trung, anh nói:
- Từ mai, em sẽ thay thế Phái làm anh nuôi, để nó trở lại khẩu đội đại liên. Em đừng tự dằn vặt nữa, nghe không Trung.
Quân quay sang Phái:
- Phái sắp xếp công việc bàn giao lại cho Trung, em nhớ kèm cho nó vài bữa, hướng dẫn mấy bí quyết nấu nướng của em, nghe Phái.
Phái gật đầu, đưa mắt nhìn Trung. Trung vẫn cúi gầm đầu, thu cái cổ to ngắn vào giữa hai vai run rẩy, như một con gấu lầm lì đang dỗ giấc mùa đông.
Trong suốt mấy ngày sau, Trung càng có vẻ bất thường. Anh hay ngẩn người ra, nhìn trừng trừng vào một điểm nào đó vô hình trước mặt, miệng lẩm bẩm những câu rời rạc, vô nghĩa. Ban đêm, anh em trực gác thấy Trung đi thất thểu, quờ quạng từ nhà này qua nhà khác trong bóng tối như một hồn ma.
Chỉ còn ba ngày nữa là đơn vị hành quân tấn công cứ điểm 201, toàn đơn vị đang tập luyện ráo riết. Ai cũng nôn nao, phấn khích mong cho trận đánh chóng đến, chóng qua. Buổi sáng hôm ấy, trung đội đang dợt lại lần chót các thao tác trong vận động chiến đấu ngoài bãi cát, cách nơi dựng lều khoảng năm trăm mét. Quân vừa hô khẩu lệnh: "Khẩu đội. Tháo súng vận động!" thì Mợi lác hớt hải chạy tới, mặt mày xanh như tàu lá. Anh hào hển bảo Quân:
- Anh Quân ơi, thằng Trung nổi cơn điên rồi! Lúc nãy, em đang rang ruốc cá giùm nó, quay qua không thấy nó đâu. Em chạy đi tìm, nhìn thấy nó đang cầm khẩu AK của Già Hương còn để trong lều, kê nòng súng vào cằm, cười hì hì, mà nét mặt ghê lắm. Em len lén bò lại gần đá văng khẩu súng. Rồi ôm nó, cố dỗ dành nó. Nó không cự gì, chỉ lúc cười lúc khóc. Em ôm nó một hồi, thấy nó vẫn im lìm, em bỏ nó ngồi đó, mang mấy băng đạn và dao cộ giấu đi, rồi chạy ra đây. Anh tính sao bây giờ?
Quân bảo Già Hương:
- Anh cho anh em tập thêm tí nữa rồi về. Em về trước coi sao.
Quân và Mợi lác chạy về tới lều, Trung gấu đang quỳ mọp bên bếp, mồm miệng đầy đất cát. Quân bước tới, kéo vai đỡ Trung ngồi thẳng lên. Trung gấu cười hềnh hệch:
- Anh Trung... đi lên cung trăng hái mận với em nghe. Em mới ở trển về... Mận ngon lắm... Trong hồ có con cá mập lớn lắm. Nó cắn đứt bàn tay em rồi, anh Trung ơi...! - Trung gấu khóc òa lên.
Quân cau mày. Trung bị bệnh thật rồi. Anh quay lại bảo Mợi:
- Mợi ra bảo Tiến và Huy về gấp, cùng anh đưa Trung về Trung đoàn để chữa bệnh ngay. Nguy lắm rồi.
Ba người đưa Trung gấu lên tới K.23 khoảng ba giờ chiều hôm ấy. Lẽ ra, họ tới nơi sớm hơn, nếu trên đường đi Trung không dỡ chứng ngồi lì một lúc lâu.
Quân đã phải vất vả lắm khi thuyết phục đại úy Sơn, bác sĩ trưởng K.23 chuyển Trung gấu lên viện cấp cao hơn, nơi có điều kiện đưa Trung về nước. Mặc cho Quân nói khô cả cổ, Sơn vẫn lắc đầu quầy quậy, anh cứ khăng khăng một mực:
- Chỉ vì nó quá kích động. Từ từ vài bữa là bình thường trở lại thôi, cậu lo xa quá. Mà chưa biết chừng tại nó bể chiến đấu nên giả khùng giả điên như vậy. Còn phải chờ xác định coi nó thật sự bị loạn thần kinh không đã. Loại này tôi gặp nhiều quá rồi mà!
Quân vốn điềm đạm, nhưng cũng phải nổi nóng vì sự cứng nhắc của Sơn. Anh cố kềm cơn giận, gằn giọng nói:
- Ðây là một người lính của tôi. Tôi hiểu nó hơn anh nhiều. Nó bị bệnh thật sự. Nó cần được chữa trị ở một nơi thích hợp. Nếu anh sợ bị ảnh hưởng đến cái uy tín rẽ mạt của anh mà chần chừ, thì hậu quả còn tệ hại hơn. Lúc đó, anh sẽ vừa mang tiếng xấu, vừa bị lương tâm cắn rứt cả đời đó, anh hãy nghĩ lại đi...
Sơn khoát khoát tay, quay lưng dợm bước đi. Mặt Quân đỏ bừng như uống rượu. Máu nóng chợt dồn lên đầu, lan ra khắp người Quân, anh gần như hét lên:
- Nó suýt chút đã tự sát rồi, anh có biết không! Nó còn ở cái nơi đầy súng ống này ngày nào, thì còn nguy hiểm cho nó, và cho mọi người xung quanh ngày đó...- Quân dịu giọng lại - Anh Sơn à! Anh phải quyết định ngay một quyết định sáng suốt. Anh là một bác sĩ có tài, thương lính mà. Tôi vẫn còn nhớ anh đã tốt như thế nào, tận tụy như thế nào hồi trị thương cho tôi. Nhưng đây không phải là chuyên môn của anh. Anh nghe tôi đi, phải đưa nó về nước càng sớm càng tốt. Và phải cho một anh em nào có tấm lòng đưa nó đi. Tôi năn nỉ anh, thật tình năn nỉ anh đó, anh Sơn.
Cuối cùng, bác sĩ Sơn xúc động, đồng ý làm theo đề nghị của Quân. Quân còn nằng nằng xin Sơn nhớ cho người theo dõi Trung liên tục trong thời gian còn ở lại K.23, cho đến khi bác sĩ Sơn nổi khùng quát lên: "Cậu tưởng tôi là một thằng ngu ngốc và vô lương tâm hay sao mà cứ lải nhải hoài vậy. Ði về đi! Tôi sẽ làm những gì tôi thấy cần thiết!".
Trên đường về, cả ba lặng lẽ bước nhanh. Thỉnh thoảng, Huy nhìn sang Quân, cảm thấy thương anh vô cùng. Nét mặt Quân dàu dàu, không thần sắc. Vẻ bình an thanh thản thường nhật của anh không còn nữa. Nhìn anh giống như một bà mẹ vừa phải bứt ruột nhìn đứa con yêu của mình chết lịm trên tay. Họ về tới nhà lúc vầng trăng khuyết hạ tuần đã lên gần giữa đỉnh trời.
Cánh rừng lại xôn xao không khí của những ngày vào chiến dịch. Các cánh quân của các trung đoàn, tiểu đoàn khác nhau lũ lượt di chuyển dọc ngang. Từng đoàn quân, quần áo bạc màu nắng gió, ba lô, súng ống, gạo nước trĩu nặng trên thân bước những bước dài mạnh mẽ. Tất cả, từ người lính cũ đã mấy năm xa quê đến những người lính mới sang hồi cuối năm ngoái, đều không còn gì khác biệt nhau. Ai ai cũng đã quen với những chặng hành quân hàng chục cây số dưới ánh nắng chang chang, trong lớp bụi mù mịt bay lên giữa ban ngày, hay dưới ánh sao lấp lánh mùa khô miền xích đạo ban đêm; quen với mùi mồ hôi của chiếc áo lính nhiều ngày không giặt, với sự thiếu ngủ những đêm trắng hành quân; quen với sự căng thẳng trong giờ phút ém quân chờ lệnh nổ súng...
Từng đoàn quân, như những con rùa dưới cái mai nặng nề bò từng bước chậm rãi mà chắc chắn về mục tiêu phía trước. Người thì ngược về Tây, tiếp tục cho trận đánh. Người thì xuôi lên Bắc thế chân đóng chốt, bảo vệ cho dân công lên xây dựng tuyến phòng thủ dọc theo hành lang biên giới.
Trên đường đi, những người lính thuộc các đơn vị khác nhau cứ ngong ngóng mong gặp lại một đồng hương nào đó thuộc đơn vị bạn. Tiếng chào hỏi, cười đùa trêu ghẹo nhau giữa những người lính vang vang suốt một chặng đường dài, cuốn theo cơn gió cuối xuân hun hút luồn vào cánh rừng sâu, phá vỡ sự tĩnh lặng hàng trăm nghìn năm nay của khu rừng trầm mặc:
- Vân ơi, có viết thư cho nhỏ Thùy em gái tao nói tao gửi lời thăm nó với nhé. Dạo này tao lười viết quá. Ði may mắn nghe Vân.
- Thắng ơi! Ðánh cho hăng vào! Kiếm nhiều nhiều "đồ cổ" 1 về ghé tao nhậu một chặp tưng bừng nghe!
- Ðồng hương ơi, phen này lên đó nằm chốt một năm tội nhỉ! Có gặp nàng khỉ cái nào đèm đẹp thì cũng ráng giữ thủy chung với bà vợ già ở quê nghe!
- Anh em đi mạnh khỏe, chiến thắng vẻ vang nghe!
- Anh em ở lại cũng mạnh khỏe, hoàn thành nhiệm vụ nghe!
Huy dáo dác nhìn ngược ngó xuôi tìm kiếm Xuân, thằng bạn cùng huấn luyện ở H.15. Trong đoàn sang đây, chỉ có Huy và Xuân là về sư đoàn này. Không biết là Xuân ở trung đoàn, tiểu đoàn nào, Huy cứ vừa dõi mắt tìm, vừa hét lên hú họa: "Xuân ơí! Huy đây! Xuân H15 ơi! Huy đây! Mày đâu rồi?".
Từ phía đầu đội hình của đoàn quân đang đi ngược lên, bỗng có một người lính chạy xuống quát to:
- Ai là Huy H15?
- Tôi, tôi đây! - Huy cuống quýt.
Người lính bước tới gần bên Huy, mỉm cười:
- Xuân không có ở đây, nó đi qua chỗ E. bộ liên hệ công tác. Tui có nghe nó kể về ông.
Huy mừng rỡ, hỏi rối rít:
- Ủa, nó làm gì mà lên E? Anh ở đơn vị nào? Nó có khỏe không vậy?
Người lính bật cười, vui vẻ nói:
- Xuân đã lên tiểu đoàn làm văn thư. Tụi tui ở D7. Sắp tới nằm chốt ở đây, chắc còn lâu mới về hậu cứ. Yên chí đi, Xuân vẫn khỏe khoắn, vui vẻ. Thôi, tui phải đi đây. Tui sẽ nói nó có gặp ông. Mạnh giỏi nghe đồng hương. - Nói chưa dứt câu, anh ta xoay lưng chạy vù đi.
- Mạnh giỏi nghe đồng hương.! Huy hét vói theo. Anh tự trách mình quên không hỏi anh ta tên gì.
Buổi trưa, đơn vị dừng chân nghỉ giải lao bên một tiểu đoàn tăng. Lác đác trên trảng cỏ khô xơ xác là những khóm cây rừng, những chiếc tăng nằm dưới bóng những khóm cây đó. Từng nhóm năm người lính một đang quây quần bên cạnh chiếc tăng ăn cơm, trông thấy tụi Huy đi qua, cất tiếng chào mời vui vẻ, thân thiện:
- Xơi cơm mấy anh ơi.
- Ăn cơm đồng hương ơi.
Dù biết là họ chỉ mời cho có, Huy cũng thấy vui vui, xúc động. Tình cảm giữa các đơn vị, các binh chủng khác nhau trong những ngày này thật sự gắn bó, thể hiện ở từng điều nhỏ nhoi như vậy. Anh gật đầu cám ơn, rồi hỏi:
- Tụi tôi đang đi tìm nước về nấu cơm. Khu này có hố nước nào không mấy anh?
- Có, có người anh em ạ! Cứ đi dọc theo đường mòn này vài trăm mét nữa, có một vũng nước lớn lắm.
Theo lời những người lính tăng, đi thêm khoảng năm trăm mét, băng vào một cụm cây cao rậm rạp, Huy, Thuận gặp vũng nước. Ðó là một khoảng đất trũng hình bầu dục, đường kính chừng bốn mét, nằm giữa một bãi cỏ. Nó có nước là nhờ đợt mưa dầm hồi cuối tháng trước, nhưng đến nay cũng đã vơi cạn đi nhiều. Mặt nước tù đọng nổi lều bều những lá khô rơi, những váng rêu xanh mốc. Rải rác bên bờ vũng có những chỗ cỏ bị đè nát, lỗ chỗ dấu chân thú rừng trên mặt bùn non. Màu nước vàng đục, lợn cợn trông thật tởm. Nhưng có nước đã là quý lắm rồi. Huy mở bung tấm nylon ra, gấp làm hai, rồi móc túi quần lấy hai sợi dây võng cột gút hai đầu tấm nylon vào hai đầu cành cây đã chặt sẵn từ trước, tạo thành một cái võng chứa nước dã chiến. Xong xuôi, hai người gỡ nón cối ra bước xuống ven vũng, múc nước đổ đầy chiếc cáng. Dù có tải theo mấy can rùa nước dự trữ, Quân vẫn cẩn thận bảo anh em cố đi tìm nguồn nước, để dành lại số nước có sẵn phòng khi bất trắc.
Hai người về tới chỗ trung đội. Phái đã nổi lửa từ lúc nào. Anh nhanh nhẹn trút gạo vào nồi, đổ nước vào rồi bắc lên chiếc bếp dã chiến đào âm vào nền đất, bỏ qua công đoạn vo gạo. "Ăn thế càng thêm bổ!" Phái biện bạch dù chả ai có ý kiến gì.
Cơm nước xong, mỗi người tìm chỗ mắc võng, hay trải chiếu lên trên lớp cỏ khô để nghỉ lưng. Huy đang dáo dác tìm nơi cột võng thì Quân gọi:
- Lại đây Huy, đây có chỗ giăng nè.
Quân mắc võng giữa hai cây rừng cỡ bắp chân. Bên tay phải anh có một nhánh lớn xòa xuống thấp từ một cây to gần đó. Huy cột một đầu võng vào nhánh cây đó, đầu kia vào thân cây đầu võng của Quân. Rồi anh ngồi lên võng, ngả lưng ra khoan khoái.
Huy nhắm mắt lại dỗ giấc, anh cũng đã mệt nhoài sau chặng hành quân. Nhưng rồi anh thấy đầu mình tỉnh như sáo, không sao ngủ được, như vừa uống xong một ly cà phê thật đậm. Anh nhổm lưng ngó qua Quân. Quân cũng không ngủ, anh vòng hai tay ra sau ót, mở mắt nhìn lên vòm lá trên đầu.
Huy ngần ngừ một lúc, rồi nói:
- Thương thằng Trung quá, anh Quân! Không biết giờ nó ra sao!
Quân thở dài:
- Cầu mong cho nó hết bệnh. Nó là một người tốt...và hiếm có...
Huy ngạc nhiên. Anh không hiểu Quân muốn nói gì. Huy im lặng ngẫm nghĩ một lúc rồi buột miệng hỏi:
- Hiếm có là sao hả anh?
- Thật ra, điều này anh khó mà giải thích. Với lại, nó chỉ là cách nghĩ của anh thôi, Huy à. Huy biết không, thường thì mọi người coi những người bị lên cơn điên khùng sau một cú sốc, một thương tổn tâm lý là những người yếu đuối, đáng thương. Người ta thương hại, và người ta cũng coi thường những người này. Thật ra, những người điên này cao quí, đáng trọng hơn nhiều so với vô khối loại người. Họ trung thành với điều họ coi là lẽ phải, là chân lý, và khi điều này bị xúc phạm, họ không chịu đựng được. Họ là những người có nhiều tính nhân bản hơn người khác.
Huy ngơ ngác nghe Quân nói. Những câu giải thích của Quân còn khó hiểu hơn cả nhận định của anh. Tuy vậy, những lời trầm buồn của Quân in sâu vào trí nhớ Huy. Anh nhớ hầu như đúng từng câu, từng chữ. "Rồi sẽ có ngày mình hiểu!" Huy tự hứa với mình. Anh chợt nghĩ tới một điều khác.
- Em có nghe Ụ Mối kể về anh. Anh không muốn về nước sao anh Quân?
- Muốn chứ. Anh cũng nhớ thành phố lắm. Nhưng anh không còn ai, không còn nơi nào để coi là gia đình, là mái ấm của mình nữa. Anh cũng không thể xa anh em, đồng đội. Trung đội bây giờ là nhà của anh đó Huy.
Quân chợt mỉm cười. Anh nhìn Huy với đôi mắt sáng. Không thể gọi Quân là một người đẹp trai. Dáng anh cao gầy, lưng hơi khòm khòm. Nét mặt anh là nét mặt của một người bình thường, không xấu cũng không đẹp, và không có gì đặc biệt. Một gương mặt mà người ta có thể nhìn lướt qua rồi sau đó sẽ quên khuấy đi ngay. Tuy nhiên, Quân có một đôi mắt khác thường. Mắt anh tỏa một ánh sáng dịu dàng, kỳ diệu. Ánh sáng đó làm cho bất cứ người nào, khi nhìn vào đôi mắt của Quân, cũng sẽ có cảm giác mình như tốt hẳn lên, tự tin hẳn lên. Và những khi Quân im lặng, nét mặt anh có một sự bình thản lạ thường, bình thản nhưng không gây cảm giác lạnh lùng, xa cách. Ở Quân ánh lên một vẻ đẹp bên trong khó diễn tả thành lời. Ngay từ hôm gặp Quân lần đầu, Huy đã không cưỡng nổi một niềm tin cậy và yêu mến tự nhiên đối với anh. Quân nói:
- Hôm trước, lúc em ra hồ tải nước. Ụ Mối nó lục ba lô em lấy cuốn sổ ra đọc um lên. Em cũng lãng mạn lắm nghe Huy! Thơ em có sự rung cảm, có sức mạnh nội tại đó, nhưng còn dàn trải lắm. Thơ em là lời độc thoại với chính mình, nó không phải là loại thơ dành cho người thứ hai nào khác ngoài em. Anh thấy qua những bài thơ và đoạn nhật ký đó, em đa cảm và mang nhiều ảo tưởng quá Huy. Ðó không phải là điều tốt cho em đâu. Em sẽ vì nó mà chịu nhiều bất hạnh.
Huy nhìn Quân đăm đăm, ngạc nhiên thấy Quân chỉ với những lời giản dị như vậy đã nói thật chính xác được những gì mà chính anh cũng đã từng cảm nhận một cách mơ hồ. "Anh Quân hiểu mình còn hơn mình hiểu chính mình nữa!" - Huy la thầm trong bụng. Quân nói tiếp:
- Em đang băn khoăn về những điều hư huyễn đó Huy. Tốt hơn em nên cố gắng dẹp bỏ đi những khái niệm phân biệt về bản chất con người. Con người chỉ đơn giản là con người thôi. Có tốt, có xấu, có thiện, có ác, có sự hèn nhát song song với bản chất anh hùng. Tốt hay xấu, thiện hay ác, hèn nhát hay anh hùng theo đánh giá của người khác ngoài bản thân của một cá nhân chỉ là cái vỏ bên ngoài, là hiện tượng, biểu hiện nhất thời. Nếu đúng lúc, đúng thời cơ thì nó là hay, nếu không đúng lúc thì nó là điều dở, chỉ vậy thôi Huy. Tất nhiên, ở mỗi cá nhân, mức độ giữa những bản chất này có khác nhau. Nhưng có ích gì việc đi đánh giá, khen chê, phẩm bình người khác, và đặt niềm tin nơi người khác. Em chỉ nên quay lại nhìn nhận chính mình, chỉ nên tin vào con người nói chung, chứ không phải là bất cứ một con người cụ thể nào...
Quân chợt ngưng lời. Anh thấy lòng quặn lên một nỗi xót xa khôn tả. Anh đã cảm nghiệm, kinh qua những điều vừa nói với Huy bằng chính những mất mát đổ vỡ của mình. Anh chợt thấy băn khoăn. Huy còn trẻ quá, còn hồn nhiên chân thật nào khác gì một đứa trẻ thơ. Huy chính là hình ảnh của chính anh thời thơ dại: đầy khát khao hiểu biết, đầy mơ tưởng ngây thơ, đầy niềm tin, hy vọng... Có nên nói với Huy những điều này không? Có thật sự cần thiết hay không?...Lướt qua đầu Quân một chuỗi hình ảnh của ngày qua: một thằng Quân nhỏ xíu, ngơ ngác nghe mấy ông cậu bà dì bảo: "Ba má mày chết cả rồi!" - "Chết là sao hả cậu?" - "Là mày không bao giờ gặp lại ba má mày nữa." - "Vậy ba má con đi đâu?" - "Ði xa lắm..." – "Xa tới đâu hả dì?" - "Xa lắm, có nói mày cũng không biết đâu mà hỏi." - "Vậy chừng nào ba má con về?" - " Họ không về nữa đâu, họ đi mãi mãi..."... Nó ôm mặt khóc nức nở. Lần đầu tiên nó đã ý thức về cái chết như là sự xa cách, bất ngờ và không hiểu nổi...; Rồi một thằng Quân bụng đói như cào, lang thang trên đường phố, bị tụi trẻ bụi đời đánh đập, bị chó rượt cắn, bị người lớn mắng chửi khi nó liều bước vào nhà xin chút cơm ăn...; Rồi một thằng Quân mặc áo nâu sồng, lưng thẳng đơ, nghiêm nghị ngồi nghe sư cụ giảng giải những lẽ mất còn, những điều sắc sắc không không... Có lần, sư cụ đã dạy Quân: "Con không nên tin vào những gì người khác nói, kể cả một người đáng trọng nhất con từng biết, kể cả Ðức Phật, nếu như người có hiện ra trước mặt con; không nên tin vào sách vở, kể cả đó là một quyển kinh điển hầu hết mọi người đều tôn sùng ca ngợi, khi chưa tự mình chứng nghiệm, kinh qua. Một khi con đã tự mình chứng nghiệm, kinh qua, một khi trái tim con hòa hợp cùng lý lẽ, một khi thâm tâm con cuối cùng mách bảo đó chính là lẽ phải, điều nên - cái đó, chúng ta gọi là lương tâm - khi ấy, con hãy tuân theo những gì lương tâm con thúc giục con. "Quân đã cảm nghiệm, đã tự mình minh chứng tính chất đúng đắn của lời dạy đó sau bao nhiêu năm tháng băn khoăn. Quân đã hiểu ra một điều: Lẽ phải, hay như sư cụ nói - lương tâm - thật sự không nằm ở luân lý, đạo đức hay pháp luật. Tất cả những thứ đó đều có thể đổi thay cùng lịch sử. Lẽ phải là điều cao viễn hơn chúng, vĩnh hằng, thuộc về mỗi cộng đồng, và cũng thuộc về mỗi cá nhân. Nó đã được di truyền qua bao thế hệ, hình thành và tồn tại trong cuộc chiến đấu sinh tồn. Nó mang tính cá thể vì nó nằm khuất trong ý thức, tiềm thức mỗi con người riêng biệt. Nó lại mang tính cộng đồng vì nó là mối dây liên kết giữa từng cá thể với nhau trong cuộc sống chung. Một người khi hành động một điều không hợp với lẽ phải đó, sẽ có thể che dấu, dối gạt được người khác, nhưng không thể che dấu, dối gạt chính mình. Họ sẽ cảm thấy bất an, day dứt, đau đớn không nguôi, dù đôi lúc đôi khi hay suốt cả đời.
Quân quay sang Huy. Huy vẫn mở to mắt nhìn anh chờ đợi. Có lẽ trong đầu óc của nó mình là một con người hoàn hảo lắm, là một tấm gương đáng để nó noi theo... Quân nghĩ thầm rồi nói tiếp:
- Ðừng đặt toàn bộ niềm tin vào bất cứ ai Huy à... kể cả anh hay người nào khác, nếu không, khi niềm tin sụp đổ, em sẽ không đủ sức chịu đựng nó đâu. Và điều quan trọng em cần luôn luôn nhớ, là cái tốt thật sự, cái chân lý thật sự cũng chỉ là tương đối. Em có bản chất tốt, có niềm tin, vậy hãy tin rằng những điều không làm những người đang sống quanh em thiệt hại, đau khổ là điều thiện, điều mình phải nỗ lực thực hiện, và chỉ cần như vậy là đủ rồi. Chỉ vậy thôi cũng đã khiến em phải tự đấu tranh rất gian lao rồi đó Huy.
Quân ngưng lời, anh thở dài, im lặng một lúc lâu.
Huy vẫn còn choáng váng với những gì Quân nói. Chúng như những tia chớp loé lên, sáng rực trong khoảnh khắc, soi rọi đến tận những ngõ ngách thâm u, mờ mịt nhất trong ý thức của Huy. Tuy vậy, anh không hiểu hết, chỉ cố gắng ghi nhớ chúng. Huy chợt phát hiện ra một điều kỳ quặc - Quân nói như một nhà tu sĩ, nhưng anh vẫn hành xử như bao người bình thường khác, vẫn cầm súng chiến đấu một cách dũng cảm, có thể nói là anh hùng nữa cũng không quá đáng. Có một sự mâu thuẫn nào đó thật lạ lùng trong con người này! Anh suy tư như một nhà hiền triết, nhưng sống và hành động như một con người đầy nhiệt tâm, đầy lòng đam mê cuộc sống. Một lúc sau, Huy hỏi:
- Tại sao mình lại đánh nhau ở đây anh Quân? Sao mình không để bộ đội K. tự lo lấy chuyện của họ ? Em có nghe anh Ngô chính ủy trung đoàn giải thích vấn đề này rồi, nhưng em thấy nó sao sao đó, không thuyết phục. Mấy bữa trước em qua nghe ké "ra-dô" bên đại đội 13, anh Vụ có mở đài Polpot nghe xem chúng nói gì. Mẹ kiếp! Chúng chửi quân tình nguyện Việt Nam mình là lũ xâm lược, chả khác gì mình chửi lính Mỹ trước đây. Liệu người dân Campuchia có coi mình là lũ ngoại bang xâm lược không anh?
- Bản chất những người lính tụi mình khác với bản chất những người lính Mỹ. Anh nói khác ở đây không phải là về cái tốt hay cái xấu. Khác là ở nền văn hoá, ở tư tưởng, quan niệm, truyền thống dân tộc. Lính Mỹ không hiểu dân Việt, do đó, hoặc họ sợ hoặc họ coi thường, khinh rẻ dân ta. Còn chúng ta và dân Campuchia không khác gì nhau mấy, chúng ta và họ có cùng một nền tảng, bản sắc văn hóa như nhau. Chúng ta hiểu họ, thương mến họ. Và những người dân chất phác này cũng hiểu và thương mến chúng ta. Còn như tại sao chúng ta lại phải chiến đấu thế này, là một chuyện không dễ nói. Ðúng là nếu chúng ta sớm rút quân về thì tốt hơn, nhưng tình thế hiện nay rất nhiều chuyện rối ren. Em cũng không nên thắc mắc dằn vặt làm chi. Nói cho cùng, chúng ta chỉ là những hạt cát bị cuốn theo vòng xoay của thời đại, của lịch sử thôi Huy.
- Tại sao lại phải né tránh sự thật hả anh? Em nghĩ nếu không xác định được ý nghĩa, mục đích, thì làm sao chúng ta có đủ niềm tin và ý chí để chiến đấu. Từ hồi nhỏ, em đã thích những chuyện hào hiệp anh hùng, thích những bài thơ, bài hịch hùng tráng. Em nghĩ rằng đối với đàn ông thì chuyện cao quí nhất để làm là chiến đấu, là "da ngựa bọc thây".
- Ðiều này cũng là một trong những ảo tưởng của em đó Huy ơi! - Quân có vẻ buồn buồn. Anh dừng lời, im lặng một lúc lâu - Và cũng là điều mà nhiều người ảo tưởng về nó. Chiến tranh rốt cuộc chỉ để phục vụ cho mưu đồ tham vọng của những người cầm quyền. Ở những cuộc chiến xâm lược thì điều này đã hẳn nhiên rồi, không có gì để bàn cãi nữa. Nhưng cả ở những cuộc chiến tranh giữ nước, chống ngoại xâm, hay nội chiến rồi cũng vậy thôi. Lịch sử đã cho thấy rồi, khi cởi bỏ được ách thống trị hà khắc, bóc lột của ngoại bang, hay đã lật đổ một chế độ thối nát nào trước đó, và đã nắm được quyền lực trong tay, người ta thường quên đi những điều ích dân, lợi nước. Họ, hoặc người kế thừa của họ chỉ còn nuôi tham vọng củng cố quyền uy hoặc xa hoa hưởng thụ. Chỉ có những người dân, những người lính tầm thường là mất rất nhiều, mà được rất ít, hoặc chẳng được gì. Trừ phi là chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, còn thì những cuộc chiến khác không mang tới cho họ điều gì hay ho cả. Cái họ cần chỉ đơn giản là một mái nhà, một gia đình êm ấm, một mảnh ruộng vườn nho nhỏ và một cuộc sống thanh bình... Biết bao nhiêu người phơi xác, tên tuổi cũng vùi sâu vào cát bụi lãng quên, chỉ để cho một vài kẻ trở thành những vị anh hùng lưu danh sử sách. Từ khi khái niệm anh hùng nguyên sơ của thời cổ đại xa xưa đã trở thành một chủ nghĩa- chủ nghĩa anh hùng- nó đã bị biến tướng, đổi thay về chất, trở nên một sự mê hoặc, một sự lừa dối kinh khủng, đã bị người ta lấy nó làm chiêu bài che đậy những sự xấu xa, Huy có hiểu không. Mỗi con người đều có khả năng trở thành một anh hùng, một tài năng để cống hiến cho xã hội, họ vốn mang sẵn trong người cái đó. Nhưng để làm một anh hùng chân chính thì rất khó, rất hiếm hoi... Anh đã từng băn khoăn, nghĩ ngợi nhiều về vấn đề này, nhưng rồi thấy nó thật là phức tạp. Có những điều chúng ta có thể cảm nhận phần nào, nhưng không thể diễn tả nó ra một cách minh bạch bằng lời đâu Huy...Thôi, đừng nói chuyện này nữa nghe Huy. Có lẽ càng nghĩ về mọi sự một cách giản đơn, càng dễ chịu, ít gặp rắc rối hơn đó Huy. Nhiều khi, anh ước ao mình không hiểu biết gì cả, thế lại hóa hay...
Quân điểm lại trong đầu những cái tên vua chúa, anh hùng; Những cuộc cờ chính trị tranh đoạt thế quyền đầy khí trá, gian manh, thủ đoạn ghê người, đẫm máu và nước mắt của biết bao nạn nhân vô tội; Sử sách còn rành rành ghi lại đó. Ở bất kỳ thời nào, ở bất kỳ nơi nào trên quả đất bé nhỏ này, những chuyện như vậy vẫn cứ diễn ra. Nó vẫn diễn ra dù là dưới những hình thức khác nhau. Bao giờ con người mới thật sự xóa bỏ được mọi khái niệm phân biệt, hữu danh vô thực, để yêu thương nhau, để sống một cuộc sống thanh bình, an lạc? Sống không phải để hận thù ganh ghét. Sống để yêu thương và sáng tạo. Ðể mỗi một con người đều là một vì sao, một mặt trời nhỏ tự tỏa sáng bằng ánh sáng của chính mình. Sẽ có một ngày như vậy đến hay không? - Quân tự hỏi lòng.
Huy thân thiết nhìn Quân. Mãi đến hôm nay, Huy mới có một cuộc trò chuyện thật sự với anh. Quân nói nhiều điều thật là mới mẻ, dù có những chỗ Huy chưa thật hiểu, và đôi chỗ khác Huy không đồng ý với Quân, nhưng Huy vẫn thấy lòng tràn ngập một niềm quý mến và cảm phục anh. Không rõ vì sao, lòng Huy chợt rộn lên một niềm ước ao mãnh liệt - được nắm lấy bàn tay Quân, nắm và xiết thật mạnh, thật lâu.
Trầm ngâm một hồi, Huy hỏi:
- Anh Quân thích viết như vậy, chắc hồi đó anh học khoa văn phải không?
- Anh học khoa triết. Anh yêu triết học từ hồi còn nhỏ. Hồi đó, tối tối sau buổi tụng kinh, sư thầy thường ngồi giảng dạy cho anh mọi lẽ. Lớn lên một chút, anh đọc mấy cuốn triết khô khan còn mê mải hơn đọc tiểu thuyết. Nhưng triết học không giải quyết được vấn đề của cá nhân đâu Huy ạ. Triết học chỉ là cánh cửa mở hé cho ta thấy ánh sáng bên ngoài. Còn nguồn sáng ở đâu, tự thân mỗi người phải đi tìm nó. Huy biết không, anh viết vì cảm thấy hạnh phúc khi đang viết. Anh không nghĩ những gì mình viết là hay, hay có giá trị gì cho người khác. Tuy vậy, anh vẫn gửi đi. Anh nghĩ đó là sự thể hiện mối quan tâm tới người khác, ý muốn hòa đồng, chia sẻ với người khác, và tình thương yêu cuộc sống của anh. Anh làm hết những gì mình có thể làm, vậy là anh thấy yên ổn trong lòng.
- Chắc anh Quân có làm thơ? Hôm nào anh cho em đọc với nghe.
- Anh không có năng khiếu về thơ ca như Huy đâu. Thơ anh dở lắm. Nói đúng ra, đó không phải là thơ, mà đơn giản là những suy nghĩ xếp thành vần. Ðể rồi anh sẽ đưa Huy đọc. Thôi, ngủ đi Huy. Ðêm nay là ém quân vào cứ điểm rồi. Ngày mai sẽ là một ngày vất vả...
Huy nghiêng người, nhắm mắt lại. Anh rơi vào giấc ngủ ngay sau đó.
Chú thích:
1. Chiến lợi phẩm.
Chương
6
Tiểu đoàn đã trở về hậu cứ, sau mấy tháng dài ròng rã hành
quân cơ động chiến đấu ở vùng biên giới. Trên đường về, khi mọi người bắt đầu
trông thấy những làn khói lam mỏng mảnh tỏa lên trên hàng cây thốt nốt, và những
mái tranh xam xám đã thấp thoáng hiện ra sau lớp bụi mù mịt của đoàn xe đi trước,
ai cũng vui sướng, xúc động không tài nào tả xiết. Giã từ những cánh rừng hiu
quạnh! Giã từ miền đất bạc màu cằn khô biên ải! Phum làng thân mến ơi! Các mẹ,
các chị, các em gái Khmer mến thương ơi! Chúng tôi đã trở về!
Dọc đường về, Huy cứ đứng bám vào thành chiếc xe Zin, nhìn
ngó một cách khao khát không biết thỏa những túp nhà sàn nhỏ xíu, tả tơi nằm dọc
hai bên lề con đường đất. Những bà cụ, ông lão, những cô gái, chàng trai, những
đứa trẻ con Khmer đang náo nức hân hoan vẫy chào các " boòng coong tóp Việt
Nam" 1 vừa trở về từ mặt trận. Họ hò reo ơi ới khi mấy chiếc xe chạy tới gần:
" Việt Nam Campuchia xa-ma-ki!" 2
" Xốc-xơ-bai chờ-rờn boòng b'ôn coong-tóp ná!" 3
Và những người lính cũng đồng thanh reo hò đáp trả:
"Việt Nam Campuchia xa-ma-ki, xi bò-hóc, xốc-xơ-bai, tâu
xa-ngai, nức bò-hóc!" 4
"Ôn sa-rây ơi! Xa-lanh boòng tê? Boòng xa-lanh ôn chờ-rờn
ná!" 5
Tiếng cười khanh khách trong trẻo của các cô nàng thôn nữ vẫn
còn văng vẳng đuổi theo đoàn xe một quảng xa, vượt lên tiếng động cơ nổ òm òm.
Hơn ai hết, Huy thấy lòng rưng rưng một nỗi xúc động êm ái. Từ
nhỏ đến lớn, Huy sống ở thành phố. Anh đã quen với sự đông đúc, náo nhiệt, quen
với sự có mặt của bao người quen lạ xung quanh. Thế rồi đột nhiên Huy trải qua
gần nửa năm trời với một cuộc sống mới mẻ khác thường - không có ai ngoài đồng
đội; không có gì ngoài những đồi, những lũng, những rừng mênh mông quạnh quẽ.
Huy không ngờ mình lại xúc động đến như vậy khi trông thấy lại những phum làng
và những người dân. Như thể đây không phải là nơi xa lạ, có những con người xa
lạ với anh, mà chính là nơi Huy đã rất thân quen, gắn bó. Như thể đây chính là
xóm cũ, quê xưa xa cách đã lâu.
Từ biên giới về đến Cứ mất hai ngày đường. Buổi chiều ngày thứ
nhất khi xe chạy ngang qua thị xã Batdomboong, ánh chiều tà đã sắp nhường cho
bóng tối. Xe chạy qua khu thị tứ xa rồi, mà Huy vẫn còn ngoái đầu lại mãi. Anh
đăm đăm nhìn quầng ánh sáng của những bóng đèn điện trắng vàng mờ tỏ hắt lên
chân trời, lòng cồn cào nỗi nhớ thành phố quê hương.
Cuối cùng, sau hai ngày rong ruổi, ba lô, súng ống, lính
tráng chen chúc loi ngoi trên những chiếc xe như những con cá mòi lèn cứng
trong hộp cá, họ đã về tới Cứ.
Bấy giờ đã là đầu tháng Tư - tháng đầu mùa thu hoạch của cây
trái trong vườn. Mặt bằng Cứ vốn là một khu vườn xoài rộng lớn, nên vây quanh
những căn nhà là những gốc xoài già đang oằn trái cỡ nắm tay.
Ở đây, trung đội có ba nhà và một căn chái nhỏ làm nhà bếp.
Nhà cán bộ trung đội nằm giữa, cách mười mét là nhà bếp, hai căn còn lại nằm
hai bên cánh, cách căn giữa chừng năm mươi mét. Những trung đội trực thuộc khác
của tiểu đoàn - DKZ, Cối 82, Thông tin, Trinh sát, Vận tải - nằm nối tiếp nhau
với cùng một cách bố trí, tạo thành một vòng tròn khép kín. Nhà tiểu đoàn bộ nằm
giữa vòng tròn này.
Huy ở căn nhà giữa cùng Quân và mấy số súng khác, hai căn hai
bên là của hai khẩu đội đại liên. Hôm mới về, mấy căn nhà trông thật hoang tàn.
Trừ căn giữa còn có Nam, Bùi, Quy ở, hai căn kia nhện giăng tứ phía, mối đùn
lên giữa nhà mấy ụ, xen lẫn với những túm cỏ gấu, cỏ gà... Cột kèo cũng bị mối
xông mục nát gần hết. Mấy tay ở nhà giữ Cứ ham chơi, cứ suốt ngày lê la ngoài
dân, có khi còn ăn cơm luôn với họ mãi đến chiều tối mới về. Không ai để ý chăm
sóc, dòm chừng nên nhà cửa mới hư hại như vậy. Ở vùng này, nhà không có người
là bọn côn trùng mối mọt và cỏ dại sẽ xâm chiếm, tàn phá rất nhanh. Trung đội mất
hơn một tuần đi chặt tre, cắt đưng, lá thốt nốt để sửa sang nhà cửa, đào đắp củng
cố lại hầm hố, giao thông hào và phát quang quanh nhà.
Sau giờ công tác, Mợi lác và Già Hương dẫn Huy đi vòng vòng
ra phum chơi, thăm viếng những người quen. Tiểu đoàn đã về dựng Cứ ở gần phum
Chan Ðai này từ đầu 1983, tính ra đến nay đã hơn hai năm. Do vậy, cánh lính cũ
có khá nhiều người quen biết. Anh em ta cứ ra phum là trở thành người trong nhà
của những cư dân hồn hậu, tốt bụng này ngay. Họ xưng hô với các ông bà lão là
ba mẹ, với các cô gái là anh em, chị em một cách tự nhiên, thân thiết; và được
đối xử thân thiết không kém.
Huy cứ ngẩn người, phục lăn khi thấy Già Hương và Mợi lác nói
chuyện một cách rôm rả, thoải mái với mọi người. Anh thầm nghĩ phải cố gắng học
thật nhanh tiếng Khmer để nói được, nghe hiểu được như họ.
Ở các huyện vùng tây bắc này, đi trên những cánh đồng cò bay
thẳng cánh, thỉnh thoảng khách bộ hành sẽ trông thấy một vài cụm cây cỏ vạch
thành một nét xanh lam lấp ló ở chân trời. Ðó là những cây cối hoang dại mọc
vây quanh bìa của một phum. Băng qua khoảng cây dại, bụi lùm này vài trăm mét,
những túp nhà sàn đã hiện ra trước mắt người khách lạ.
Giả sử có một người nào đó có thể đứng lơ lửng giữa bầu trời ở
độ cao vài trăm mét nhìn xuống, anh ta sẽ nhìn thấy rải rác nổi lên trên nền
vàng màu cỏ úa của vùng đồng bằng mênh mông miền tây bắc mùa khô là những hình
bầu dục xanh xanh; những đường kẻ ngoằn ngoèo trắng xám nhờ nhờ; những vệt xanh
da trời; và chếch về hướng tây-ghé -bắc là một vệt dài xanh thẫm. Ðó là các
phum làng, các dòng suối, đường mương dẫn thủy, hồ nước, và những dãy núi đất với
rừng cây rậm rạp tiếp giáp vùng biên giới.
Phum Chan Ðai là một phum tương đối đông dân, có khoảng hai
trăm túp nhà sàn lớn nhỏ nằm quây quần thành một hình quả trứng. Một con đường
đất rộng chừng sáu mét cắt đôi quả trứng Chan Ðai, chạy dài từ hồ Tức Sáp ở hướng
bắc, băng qua hai dãy nhà sàn của phum, băng qua trảng lúa bát ngát, và tiếp
giáp huyện lỵ Thmo Puoc sau hơn mười cây số.
Ngang dọc trong phum là những con đường phụ hẹp hơn, khoảng từ
một đến hai đường bò, tức là lối để những chiếc xe bò di chuyển. Nhà vườn ở đây
cũng tương tự như ở các thôn xóm Việt Nam. Trước sân và quanh nhà là những vườn
dâu tằm, vườn cây ăn trái: xoài, me, ổi, mít...Thường thường ở trước mỗi căn
nhà sàn, kề bên bậc thang lên xuống có một cái giàn bằng gỗ cao khoảng ngang
hông, đổ đầy đất mùn đen xốp, ẩm nước. Trên những giàn này là những cụm hành lá
xanh non, những khóm rau ngò, rau răm tươi mát, hay những cây ớt oằn sai trái đỏ.
Ở một góc bên dưới sàn là nơi nhốt trâu bò. Phía ngoài lớp rào gỗ thưa của những
chiếc chuồng này thường có các đống un để xua muỗi ban đêm. Khi đi ngang những
túp nhà này, Huy thường ngửi thấy một mùi lạ lẫm, tổng hợp từ mùi phân trâu bò,
mùi đặc trưng của món mắm bò-hóc, mùi hoa chanh thơm cay thoang thoảng, hay mùi
ngòn ngọt của bắp tươi mới hái treo lủng lẳng dưới sàn. Ban đầu, thứ mùi này
làm anh khó chịu. Nhưng về sau, nó đã trở thành thân quen, thậm chí thành nỗi
nhớ.
Trong phum, cư dân chia thành hai cụm nằm ở hai đầu. Cụm hướng
bắc, chiếm tỷ lệ ít hơn, là những hộ khá giả, có nhiều heo cúi, trâu bò. Cụm hướng
nam là những hộ nghèo, và các cặp vợ chồng son vừa ra riêng sau lễ cưới. Anh em
trong khối trực thuộc tiểu đoàn thường tới lui, giao du với khu dân nghèo phía
nam hơn.
Buổi chiều ngày thứ hai tính từ hôm về hậu cứ, Quân tập hợp
toàn trung đội lại hội ý, phổ biến các công việc của tuần sau: phát quang nhà
tiểu đoàn, đi chặt tre, cắt tranh lá để tu sửa, che lợp lại nhà, cuốc cỏ để
đánh luống trồng rau...Sau đó, Quân thông báo tiểu đoàn đã trao quyết định
thăng cấp thiếu úy và bổ nhiệm chức trung đội trưởng cho anh, thăng cấp cho một
loạt các chiến sĩ từ hạ sĩ lên trung sĩ, từ binh nhất lên hạ sĩ, và gợi ý trung
đội tiến hành bầu cử A trưởng cho Huy.
Quân thở dài. Anh nói nho nhỏ như tâm sự với mọi người:
- Anh em cũng biết, tôi xin được tiếp tục ở lại phục vụ quân
đội, nhưng không hề muốn nhận cấp sĩ quan, không hề muốn coi đời lính như một
cái nghề để theo đuổi trọn đời. Ấy cũng là vì tôi rất biết không tìm được ở đâu
tình thương yêu gắn bó như ở một đơn vị cấp cơ sở tiểu đội hay trung đội. Càng
lên cao, khoảng cách thân tình đó càng giãn cách xa hơn. Nhưng nay thì tôi
không có cách chọn lựa khác. Hoặc tôi nhận sĩ quan, hoặc phải chuẩn bị ra quân.
Khi tôi nhận sĩ quan, sớm muộn gì tôi cũng sẽ rời xa các bạn. Ðời lính hợp rồi
tan như bèo như mây, chẳng có gì là bền vững mãi... Mong các bạn hiểu cho tôi...
Quân cúi đầu trong không khí chợt chùng xuống, im lặng và buồn
bã. Một lúc sau anh nói:
- Bây giờ, chúng ta tiến hành biểu quyết công khai. Ðồng chí
nào nhất trí cử Huy làm A trưởng thì giơ tay lên!
Toàn trung đội giơ tay, trừ Mợi. Anh phát biểu:
- Tôi không có chê đồng chí Huy gì cả. Qua trận đánh cứ 201 vừa
rồi, Huy tỏ ra là một tay ngon lành đó. Nhưng Huy còn mới quá, trong khi đó,
lính 82, 83 lại là thuộc cấp, tôi e khi đụng chuyện Huy khó được chấp hành
theo. Tôi nghĩ còn nhiều thời gian cho Huy tự khẳng định mình, học hỏi thêm.
Tôi đề cử đồng chí Thiện.
Quân nói:
- Ðiều này tôi có nghĩ đến. Nhưng chính mọi người đề cử thì
không lo anh em không chấp hành mệnh lệnh của Huy. Tuy nhiên, tôi cũng thấy nên
có thêm một thời gian nữa, để Huy học hỏi thêm kinh nghiệm của đàn anh. Huy
nghĩ sao?
Huy nghiêng người về trước, nói chậm rãi:
- Tôi rất đồng ý với ý kiến của anh Mợi và anh Quân. Tôi xin
được tiếp tục giữ vị trí xạ thủ hai thêm một thời gian nữa. Cương vị khẩu đội
trưởng thật sự vượt quá khả năng của tôi bây giờ.
Thiện xin phát biểu. Anh nói rổn rảng:
- Các đồng chí cũng biết, lính 82 tụi tôi hoặc cuối năm nay,
hoặc đầu năm sau là đã ra quân. Anh em đề cử thì tôi cũng sẵn sàng nhận thôi.
Tôi chỉ mong Huy và mấy đồng chí trẻ tích cực học hỏi tụi tôi, để sớm thay thế
cho mấy anh già này, hoàn thành nhiệm vụ chung, không để mất tiếng trung đội.
Quân gật đầu. Anh hỏi lại:
- Vậy là tất cả đồng ý đề cử anh Thiện làm khẩu đội trưởng phải
không? Trung đội còn có ai có ý kiến gì khác?... Giải tán!
Huy đứng lên, bước tới Mợi lác, kéo tay anh:
- Anh Mợi! Anh dạy tiếng K cho em với. Mỗi ngày chừng hai chục
từ thôi.
- Trời, mỗi ngày hai chục từ ! Mày tưởng dễ như vậy hay sao!
- Mợi cười hì hì, bắt đầu phịa - Hồi đó tao tôn ông Lãm lính 78 làm sư phụ, mỗi
ngày đấm lưng cho ổng bốn cử sáng trưa chiều tối. Mà ổng dạy cho tao mấy từ biết
không Huy? Năm từ! Mày thấy đó, học đâu chỉ đơn giản là học...Thôi, mai kiếm
cái gì về cúng tổ bái sư, rồi tao dạy cho. Ba bửa là mày ra nói với dân rôm rốp
ngay. Hề hề, mà cũng chỉ ba bửa là tao hết chữ! Mày muốn nói giỏi thì nên bái
thằng Lý đó. Nó tán được cả con nhỏ Sa Piên hoa khôi phum này là mày đủ biết. Cỡ
tao thì ăn thua gì.
- Vậy thì em sẽ học cả hai chứ sao.
- Ờ Huy, tối nay tao dẫn mày ra phum nhảy lăm thôn vui lắm.
Lúc chiều ghé nhà phum trưởng tao thấy ổng đang chuẩn bị mấy cái bình ắc quy và
đèn đóm.
- Tối đâu có ra phum được anh Mợi. Tiểu đoàn đã có lệnh cấm rồi
mà.
- Mày đúng là ngây thơ. Cấm thì cấm, còn mình đi là chuyện của
mình. Hơn nhau là chỗ đó đó Huy. Lính mà, làm sao hiền như thầy chùa được!
- Vậy để em xin phép anh Quân đã.
Mợi lác xua tay lia lịa:
- Mày đừng có nói, cứ đi đại đi. Ổng không cấm cản gì đâu,
nhưng cũng không tiện công khai đồng tình chuyện này. Nói mắc công ổng lo cho
mình thêm. Cứ lén đi thôi. Giờ mày có làm gì thì làm đi, rồi chuẩn bị tư thế, hễ
nghe tiếng tao huýt sáo là chuồn.
Khoảng bảy giờ tối, ngoài đầu hồi có tiếng huýt sáo lanh lảnh
nhái theo một điệu hót ngẫu hứng của chim họa mi. Huy đang nằm trên võng chờ đợi
vội bật người dậy, len lén ngó Quân. Anh vẫn đăm chiêu cắm cúi làm việc dưới
ánh đèn tù mù, không quan tâm gì đến tiếng huýt sáo. Từ nãy, Huy đã rất nôn nao
khi nghe tiếng đàn cò và tiếng kèn trống náo nhiệt được khuếch đại qua loa từ
ngoài phum vọng vào. Những điệu nhạc lạ tai nhưng rất rộn ràng thôi thúc.
Huy đi ra khỏi cửa. Trong bóng tối, Già Hương, Mợi lác và Lý
đang đứng, tay mỗi người cầm một chiếc đèn pin Trung quốc. Huy thì thào:
- Có cần đem theo súng không mấy anh?
- Không cần, phum này không có gì đâu Huy. Nhưng mày bỏ túi một
trái "ổi xá lị" cho chắc ăn cũng được. - Lý nói.
- Vậy chờ em tí xíu.
Huy đi vào nhà, móc trong túi cóc ba lô quả lựu đạn mi ni nhỏ
xíu màu vàng chanh mà anh đã thu được trong trận vừa rồi nhét vào túi quần. Huy
vừa quay lưng, Quân chợt cất tiếng hỏi:
- Em ra phum hả Huy?
- Dạ... dạ... - Huy ấp úng.
- Em nhớ nhắc tụi nó về sớm một chút. Thôi đi đi.
Huy thở phào, bước lẹ ra ngoài.
Họ đi theo lối tắt băng qua đội hình của trung đội thông tin,
lôi kéo thêm vài tay ở đây, rồi vượt đường giao thông hào. Ði thêm khoảng trăm
mét nữa qua một khóm bụi rậm, căn nhà gần nhất đã hiện ra. Tiếng đàn tiếng trống
nghe đã sát gần bên. Ở hướng bắc giữa phum có một khoảnh đất rộng trước ngôi
chùa, đó là nơi dân làng hội họp, nhảy múa hay tổ chức những buổi diễn "lờ-khon"
6. Ánh đèn điện hắt một quầng sáng mờ nôn nao trên màn đêm thẳm.
Huy có cảm giác dường như trên những vòm cây tối trên đầu, mấy
cành lá đang xôn xao, náo nức thì thầm những lời tình tự. Tiếng gió thoảng mơ hồ
lẫn khuất trong tiếng nhạc ồn ào nhiệt náo như những tiếng thở run run rất khẽ;
như lời thì thầm ngọt ngào của một cặp tình nhân. Hương đêm quánh lại, đậm đà.
Toàn bộ không gian có một cái gì đó cứ chao động không ngừng tựa những lớp sóng
lao xao. Dường như mùa xuân còn vương vấn đâu đây. Dường như tình yêu đang tha
thiết gọi mời, đang khẩn khoản van nài những trái tim hãy mở rộng ra, ôm ghì cuộc
sống. Có phải tình yêu đang gọi tôi không?- Huy khẽ hỏi một gốc me già vừa lướt
lại sau lưng.
Cả bọn chen vào đám thanh niên. Ðây đó, thấp thoáng những chiếc
áo lính xen lẫn giữa đám đông vây quanh sân múa. Huy nhìn vào giữa vòng người.
Khoảng chừng mười đôi nam nữ đang bước theo điệu nhạc, những cánh tay và thân
người cử động mềm mại, nhịp nhàng. Mấy cô gái mặc xa-rông Thái với những màu sắc
rực rỡ, ngang eo họ là những chiếc dây lưng bằng kim loại óng a óng ánh. Hầu hết
đều có một thân hình mềm mại, duyên dáng đầy nữ tính. Hay là nhờ những chiếc
xà-rông? Huy tự nhủ. Ðêm nay, anh chợt nhận ra sự quyến rũ lặng thầm của chiếc
váy dài này. Nó tôn lên những đường cong nét lượn của thân hình thiếu nữ, nó cất
lên những lời thơ bay bổng nhất, ca tụng một cách dịu dàng thầm lặng những nét
thanh xuân...
Mợi chợt khều khều vai Huy:
- Mày có thấy con nhỏ mặc xa-rông tím viền vàng, áo xanh đọt
chuối không? Con nhỏ đứng thứ ba từ bên phải tính qua... Sa Piên đó! Ðẹp không?
Huy đưa mắt dõi tìm, rồi nhìn cô gái một lúc lâu. Anh thấy
khó rời mắt khỏi cô ta. Ðúng là một cô gái đẹp. Thân hình thanh tú vừa có vẻ rất
mảnh mai ở chiếc lưng ong, lại vừa vô cùng đầy đặn và quyến rũ ở khuôn ngực, bờ
mông căng tròn dưới lớp vải mỏng manh. Gương mặt cô tươi tắn, dễ thương như một
bông hoa dại đầu mùa; và một làn tóc mềm mại như tơ, đen nhánh, chảy tràn xuống
hai bờ vai tròn thanh thoát. Sa Piên không đen như nhiều cô gái Khmer khác. Cô
có nước da trắng mịn của một nàng tiểu thư khuê các ở Sài Gòn. Huy chắc lưỡi:
- Ừ, đẹp thật anh Mợi ơi! Bồ của anh thật hả, anh Lý?
Lý gật đầu, cười tươi tắn.
Trong trung đội, và thậm chí trong toàn trung đoàn, có lẽ Lý
là một anh chàng đẹp trai và quyến rũ nhất. Lý cao ráo, rắn chắc như một vận động
viên điền kinh. Gương mặt cương nghị, với đôi hàng lông mày lưỡi kiếm vừa dài vừa
thanh tú. Nhưng cái làm phụ nữ chú ý đến anh nhất có lẽ là cái miệng. Nó có một
vẻ tươi tắn và duyên dáng không thể tả, với đôi môi dầy vừa phải, đỏ thắm như
môi một nàng trinh nữ, tạo cảm giác mềm mại và ấm áp. Mái tóc Lý bồng bềnh một
cách tự nhiên, một phần tóc đen biếc như lông quạ ở phía trước rũ xòa xuống vầng
trán cao rộng. Những người vừa tiếp xúc Lý lần đầu đều không cưỡng nỗi sự cảm mến,
hâm mộ vẻ đẹp sáng ngời đó.
Tuy vậy, bên trong cái ngoại hình xuất sắc, Lý chỉ là một người
tầm thường, rỗng tuếch và hời hợt. Anh không phải là người xấu, nhưng cũng
không có đức tính gì nổi bật, và trong chiến đấu thì cũng làng nhàng như vậy -
không gan lì dũng cảm, nhưng cũng không đến mức hèn nhát. Qua những ngày sống
trong trung đội, Huy hiểu đa số anh em không ưa gì Lý cho lắm. Lý sống có phần
ích kỷ, chỉ quan tâm đến bản thân mình. Anh giống một con công trống, suốt ngày
xòe đuôi xoè cánh để quyến rũ những cô gái xinh đẹp lọt vào tầm mắt, như thể đối
với anh đó là một chuyện đẹp đẽ, đáng làm nhất trên đời. Về chuyện này, Huy có
phần nào đó tán đồng với Lý. Anh nghĩ - trên đời còn gì cao đẹp hơn, còn gì
đáng để cho ta sẵn sàng đem cả cuộc sống ra mà đánh đổi hơn tình yêu nữa. Nhưng
dường như ở Lý có một cái gì đó, làm cho Huy có cảm giác là Lý không yêu thật sự,
chưa bao giờ yêu thật sự một ai.
Trong vòng nhảy bản nhạc đã kết thúc. Những người vừa nhảy
xong lùi ra nhường cho tốp khác. Lý bước tới cạnh Sa Piên. Hai người nhìn nhau
âu yếm. Lý nghiêng người người nói nhỏ bên tai cô gái một câu gì đó. Rồi cả hai
len lén lui ra khỏi đám đông, biến mất.
Huy vẫn đứng cạnh Mợi và Già Hương, háo hức nhìn những người
đang nhảy múa. Ðợt này có cả mấy tay lính thông tin nhập cuộc. Họ bước những bước
cứng nhắc, vụng về trong tràng cười vui vẻ và những câu hò reo cổ động của đám
thanh niên. Già Hương bảo Huy và Mợi:
- Hai thằng bây có muốn nhảy thì đợt tới nhào ra đi. Tao già
rồi, chỉ khoái đứng xem.
- Thôi, em cũng đứng xem. Em đâu có biết nhảy, ra kỳ thấy mồ.
- Huy đáp.
- Có gì khó đâu. Mày thấy không, đâu có chú đội nào nhảy ra hồn,
nhưng cũng vi vu được vậy. Chủ yếu là vui. Cứ nhào vô đi Huy, vui lắm! - Mợi
khuyến khích.
Khi dứt đợt nhảy đó, Mợi nắm tay Huy lôi vào giữa vòng. Huy
ngượng đỏ mặt, tay chân quýnh quáng. Nhưng mấy nàng thôn nữ đã bước tới bắt
đôi. Cô gái đứng trước mặt Huy mỉm cười, nói một tràng dài. Huy chả hiểu gì, chỉ
nghe thấy những tiếng líu ríu êm êm như tiếng hót họa mi. Huy chỉ còn biết nhìn
cô gái cười trừ.
Tiếng nhạc đã vang lên nao nức. Huy cắn răng liều mạng bước
những bước nhún ngượng nghịu, và bắt chước cô gái hoa đôi tay lên xuống nhịp
nhàng. Bài nhạc kéo dài được phân nửa thì nỗi e ngại, ngượng ngùng của Huy biến
mất. Tim anh không còn đập thình thịch liên hồi nữa, đôi chân cũng dẻo lại tự
tin. Huy bắt đầu cảm thấy quen thuộc và thích thú hòa nhập vào điệu nhảy. Chân
tay anh cử động theo điệu nhạc một cách tự nhiên, vô thức. Ðiệu nhảy qua nhanh
đến không ngờ trong niềm luyến tiếc của Huy.
Trung đội đã lợp xong mái mới, thưng lại vách cho cả mấy căn
nhà. Họ đánh tranh bằng lá thốt nốt xin chặt ngoài phum. Mùi lá mới thơm thơm,
màu lá mới xanh dịu, những căn nhà trở nên mới toanh, tràn ngập một không khí
bình yên và tươi mát.
Nhà trung đội đẹp và ấm cúng hơn lên nhờ mấy "lọ
hoa". Sau giờ công tác, Phái điển đã ra phum, ra đồng lùng một số hoa về cắm
vào mấy cái lọ tự chế bằng can nước cắt ra. Hoa loa kèn xanh biếc. Hoa phượng vỹ,
hoa vông đỏ rực. Hoa cúc dại tím mơ màng. Mấy nhánh hoa được sắp xếp một cách
đơn giản nhưng độc đáo. Không ngờ trông lù khù thế mà Phái có con mắt thẩm mỹ
thật là tinh tế.
Chiều xuống. Sau giờ cơm, Thiện bảo:
- Tối nay, tao sẽ cho mấy đứa bây thưởng thức một món đặc sản.
Bảo đảm không nhà hàng nào có thứ tuyệt chiêu này.
Thiện gom tất cả những thau chậu, mấy cái nắp xoong để đầy
trên bàn, trên mặt đất giữa nhà. Sau đó, anh đổ một ít nước vào đó. Bọn Huy,
Phái, Tiến...tò mò theo dõi Thiện. Họ đoán già đoán non mãi vẫn không nghĩ ra
anh định làm gì.
Chuẩn bị xong, Thiện xoa tay cười bí ẩn. Huy không nhịn được,
cất tiếng hỏi:
- Anh làm gì vậy? Sao bảo đãi tụi em một món, mà không thấy mồi,
cũng không thấy chuẩn bị bếp núc gì hết vậy. Mấy thau dĩa đựng nước này là
nghĩa làm sao?
- Ðừng có nóng ruột. Lính nghĩa là phải biết kiên nhẫn.- Thiện
vẫn khư khư giữ vẻ bí mật.
Những tay lính cũ như Già Hương, Quân, Ụ mối chắc từng biết rồi,
nhưng cũng chỉ cười cười không nói, làm bọn lính trẻ tức điên vì thắc mắc.
Bóng đêm đã nhạt nhòa ập xuống. Thiện bảo:
- Giờ tụi bây chạy qua bếp lấy thêm mấy cây đèn dầu qua đây.
Sau đó, Thiện đốt tất cả đèn gom được lên, đặt giữa những thau
nước. Anh hỏi Phái:
- Dầu ăn còn không Phái điển?
- Còn.
- Vậy là xong. Nửa tiếng nữa tụi bây có đồ nhắm.
Ðèn thắp lên không lâu, thì hàng đàn hàng lũ mối rừng đã rủ
nhau đến. Chúng bay vòng quanh ánh lửa, rồi rớt xuống, vùng vẫy loi ngoi trong
lớp nước. Những con mối ở đây rất to, bụng chúng tròn căng múp míp.
Huy trợn mắt hỏi Thiện:
- Anh không định nói là sẽ chế biến mấy con mối này chứ ?
- Chứ còn con gì nữa. Sao mày thông minh mà chậm hiểu vậy
Huy! - Mợi nói.
- Ý trời!
Thiện khoanh tay trước ngực, cất giọng giảng giải:
- Những con mối, cào cào hay dế cơm...là thứ tráng miệng
thanh lịch nhất của những con người thanh lịch nhất đó, tụi bây có biết không!
Ðó là một nền "văn minh văn hóa ẩm thực" vô cùng độc đáo của các dân
tộc vùng cao! Ðâu có phải tụi bây muốn là có được. Phải có mùa có vụ, có lúc có
nơi. Ví dụ, tụi bây ở thành phố, làm gì có những con mối mập ú chất lượng như vầy!
Khi số lượng mối bay vào đã giảm tới mức không đáng kể, Thiện
thổi tắt bớt, chỉ chừa lại một ngọn đèn. Anh gom tất cả "mồi" lại
trong một thau, rồi bảo Phái:
- Theo tao qua bếp.
Nhoáng sau, không đầy năm phút, họ đã quay trở lại. Trên tay
mỗi người là một cái dĩa đầy ú ụ nhũng con mối tròn quay, bóng mỡ. Một mùi thơm
ngậy tỏa ra thật quyến rũ mấy cái miệng phàm ăn.
Thiện bảo:
- Thôi, nhập tiệc. Tiếc là trà đã hết rồi. Nếu không, thưởng
thức xong món này mà uống trà thì thật là đúng sách đó.
Huy, Phái, Tiến... tròn mắt nhìn những người khác nhâm nhi mấy
con mối rang một cách ngon lành. Quân cười:
- Ðừng có sợ. Mấy con mối này sạch lắm. Tụi em cứ ăn thử xem.
Phái điển hơi ngại ngần nhón lấy một con đưa lên ngửi ngửi, rồi
chắc lưỡi:
- Thơm quá. Hấp dẫn quá! Thôi liều mạng thử xem.
Phái nhắm mắt, hả to mồm bỏ con mối vào. Mặt anh nhăn nhó như
uống phải thuốc sốt rét bị bóc vỏ ngoài, nó nhúm lại rồi giản ra ngay, cái miệng
nhóp nhép một cách vô cùng khoan khoái. Phái la lên:
- Hết xẩy! Tuyệt vời cú vọ! Nè, ăn đi Huy, Tiến. Ngon lắm.
Miệng nói, tay anh đã bốc thêm mấy con nữa bỏ vào mồm.
Huy bước tới, nhón một con. Anh nhai chậm rãi. Một vị beo
béo, ngầy ngậy như đậu phọng rang tan ra trên đầu lưỡi. Nhưng ngon hơn đậu rang
nhiều! Ăn một con rồi, miệng sẽ thòm thèm muốn ăn tiếp con thứ hai. Rồi con nữa.
Con nữa. Cứ thế, Huy tham gia tích cực vào cuộc khám phá "nền văn hóa ẩm
thực của dân tộc vùng cao" một cách rất là sốt sắng. Chả mấy chốc, bốn dĩa
mối rang đã bay vèo.
Ăn xong món mối rừng độc đáo, dường như mọi người có phần
hưng phấn hẳn lên. Phái điển đột nhiên đề nghị:
- Hôm nay, sao bỗng dưng tui thấy nôn nao trong lòng quá! Tui
sẽ kể cho mấy anh nghe một câu chuyện. Chuyện tình đầu của chính Phái điển này.
Mọi người vỗ tay hoan hô, cỗ vũ tinh thần tự nguyện cống hiến
vô cùng bất chợt của Phát. Huy vừa cười reo, vừa tự hỏi bằng con đường ngoắt
ngoéo nào, bằng mối dây liên tưởng cực kỳ tế nhị nào, mà từ những con mối rừng
rang béo ngậy lại dẫn đến cảm xúc tình yêu trong tâm hồn Phái điển. Nghĩ mãi,
cuối cùng Huy đành chịu không thể hình dung được, anh chỉ suy ra rằng trường hợp
của Phái điển là một ví dụ sinh động về khả năng liên tưởng phong phú, đa dạng
và phức tạp của con người.
Họ đem mấy chiếc chiếu ra trải ngoài sân, rồi ngồi xuống.
Trăng bán nguyệt đổ xuống một thứ ánh sáng bảng lảng mơ màng. Gió hè ru khe khẽ
trên những táng xoài. Không có trà, nhưng Phái cũng đã cất công đi hái lá hà thủ
ô về nấu nước. Khi mọi người đã ngồi yên chỗ, Phái cất giọng kể:
" Chính xác là mười tháng năm ngày trước khi nhập ngũ,
tui đã gặp nàng lần đầu tiên. Hồi đó, tui theo một ông cậu họ đi làm hồ lặt vặt
để kiếm tiền xài. Hai cậu cháu đang làm tại một căn nhà nằm trên đường Ðiện
Biên Phủ, gần Ngã bảy, đối diện với rạp hát Long Vân. Tui lãnh phần sơn các
cánh cửa sổ, cửa cái của ngôi nhà.
Một lần, trong khi đang sơn cái khung cửa sổ trên lầu một,
tui chợt trông thấy ở phía ngoài con hẻm bên dưới có một cô bé đi ngang. Cô bé
đó độ chừng mười bốn, mười lăm tuổi. Chắc chắn là cô ta chưa qua hết cấp hai,
vì trên cổ cô vẫn còn quàng chiếc khăn quàng đỏ. Còn tui lúc đó vừa qua mười
tám tuổi được vài ba tháng. Vừa nhìn thấy cô bé, tui biết sét ái tình đã giáng
cho tôi một đòn chí tử! Tui đứng chết trân, nhìn xuống dưới, dõi theo mãi đến
lúc cô ta đã bước vào một ngôi nhà gần đó. Tâm hồn tui đã bay lên trời, hoặc là
chìm xuống biển. Một cảm giác rất lạ lùng, trước đó tui chưa từng biết..."
Phái ngưng lời, rót một ít nước ra chén, đưa lên nốc một hơi
dài cạn chén. Rồi im lặng. Vẻ mặt Phái chợt sáng bừng, rạng rỡ, trông lạ hẳn
đi, và đẹp nữa! Một lúc sau, anh tiếp tục.
"Tui không rõ nàng đẹp hay xấu như thế nào theo nhận
xét người ngoại cuộc. Ngay từ lúc ấy cho đến bây giờ, tui không tài nào hình
dung được một cách rõ ràng gương mặt hình dáng của nàng. Chỉ biết là với tui,
nàng kỳ diệu như một công chúa nhỏ trong truyện cổ tích. Trong tưởng tượng của
tui, nàng là tất cả những gì đẹp đẽ và thiêng liêng nhất. Thật ra thì lúc ấy
nàng vẫn còn là một cô bé con miệng còn hôi sữa..."
Huy lại một lần nữa ngạc nhiên cực độ. Phái nói thật văn hoa
bóng bẩy và lôi cuốn. Một Phái thường ngày im ỉm bỗng dưng thoát xác, trở thành
một nhà thơ ca tụng một nàng con gái. Tình yêu đã tạo ra phép lạ!
"... Rồi mấy ngày sau, tui đến chỗ làm thật sớm, đứng ở đầu
ngõ chờ gặp nàng đi học ngang qua. Buổi trưa, tui chờ bên khung cửa sổ để được
trông thấy nàng đi học về. Tui chỉ gặp nàng mỗi ngày đôi lần ngắn ngủi, nhưng
những ngày đó là những ngày hạnh phúc nhất tui từng biết.
Tui phát hiện ra nàng có một thằng em, khoảng chín mười tuổi.
Tui bắt đầu vạch ra kế hoạch chinh phục thằng nhóc. Nó sẽ là cầu nối tình yêu
cho tui đến với nàng. Tui bắt chuyện, làm quen với nó. Tui phịa ra hàng loạt
câu chuyện phiên lưu mạo hiểm ly kỳ để kể cho nó nghe. Và tui mua cho nó nào cà
rem, nào kẹo bánh... Trong hai ngày, tui đã thân với nó hơn bất kỳ ai khác.
Nó kể về bà chị mình cho tui nghe. Nàng tên Thu. Nàng học lớp
chín. Và nàng rất dữ! Nàng chưa bao giờ tỏ ra là một bà chị dịu dàng với nó. Nhưng
đó là ý kiến riêng của nó! Dù cho nàng như thế nào, thì trong lòng tôi, trong mắt
tui, trong giấc mơ tui, nàng vẫn là cô công chúa số một trên đời.
Việc sửa chữa căn nhà đã sắp xong. Chỉ đôi ngày nữa là tui phải
theo ông cậu đi làm ở một nơi khác, hoặc là lại trở thành một tên thất nghiệp.
Tui quyết định phải gặp gỡ nàng trước khi phải xa nàng không biết bao giờ gặp lại.
Tui suy nghĩ. Tui lục lại mớ truyện tình cảm tâm lý xã hội của bà chị ở nhà, để
tìm một giải pháp tối ưu. Nhưng cái mớ tiểu thuyết ấy chỉ rặt những cuộc gặp gỡ
đầy gượng ép theo ý đồ tác giả. Tui thất vọng quá, chẳng biết phải làm gì.
Ngày làm việc cuối cùng đã đến. Tui thu dọn mấy thứ dụng cụ
làm việc, lau sạch mấy vệt sơn trên nền gạch, chỉ khoảng hơn một tiếng là xong
hết. Không còn việc gì để làm nữa, tui lại ngồi nghĩ cách gặp nàng. Ðột nhiên
tui nảy ra một ý. Tui tìm thằng nhóc.
May cho tui, hôm ấy là Thứ Năm, nó được nghỉ học. Tui đứng
ngóng trước cửa một hồi thì thấy nó lững thững đi ra. Tui vẫy nó. Nó chạy đến,
cười toe toét:
- Anh Sơn! ( Vì lúc đó, tui làm thợ sơn, nên nó kêu bừa như vậy.
)
- Nè nhóc, mày vào nhà lấy cho anh một tờ giấy đôi với một
cây bút. Lẹ lẹ nghe hôn!
- Chi vậy anh? - Nó thắc mắc, rồi tự giải đáp ngay (Phải
công nhận là nó, thằng em vợ tương lai của tui, khá thông minh. Nàng có thông
minh hơn nó không? Tui cầu trời là không!)
- A! Anh tính viết thư cho chị Thu phải không!
- Cho là vậy đi. Mày đi lấy mau lên.
Nó mang ra cho tôi một tờ giấy. Tui hỏi:
- Còn viết đâu?
- Viết em mới bị rớt xuống đất cong ngòi rồi.
- Trời đất! Sao mày khờ quá vậy. Kiếm cây khác!
- Em chỉ có một cây hà. Của chị Thu em không dám lấy. Chỉ
nhéo đau lắm!
Tui vò đầu chán nản nhìn thằng nhóc.
- Thế có bút chì không? - Tui hỏi
- Có.
- Vậy thì lấy bút chì. Ði đi!
Hơi trục trặc như vậy, nhưng cuối cùng tui cũng viết xong lá
thư tỏ tình đầu tiên trong đời mình. Nó thật là quái chiêu. Có lẽ đó là một lá
thư tỏ tình có một không hai từ trước đến nay, và cả vài trăm năm sau nữa! Một
lá thư tình viết bằng bút chì! Và chỉ có vẻn vẹn bốn câu thơ, với hình vẽ nguệch
ngoạc một cái miệng đang cười, nhe ra một hàm răng sún!
Bốn câu thơ là do tui đọc được đâu đó trong mấy quyển lưu bút
của bọn bạn gái cùng lớp. Nó như vầy:
Chân có bằng lòng cho chân theo với?
Tóc có bằng lòng cho một sợi thôi?
Mắt có bằng lòng trông nghiêng chờ đợi?
Tim có bằng lòng giữ hộ tình tôi?
Còn cái miệng cười là "tác phẩm" của chính tui! Tui
cũng không biết tại sao mình lại vẽ như vậy nữa. Có lẽ là bốn câu thơ có vẻ nhỏ
nhoi ít ỏi quá trong cả một tờ giấy đôi.
Dù sao thì tui cũng rất hài lòng và đắc ý với lá thư độc đáo
của mình. Tui xếp tờ giấy lại làm tư, đưa cho thằng nhóc, dặn dò:
- Trưa nay Thu đi học về, mày đưa cho nó! Chờ nó đọc xong,
nghe coi nó nói gì. Nhìn xem nó có thái độ ra sao. Sau đó ra báo cáo tao ngay
nhe.
Chưa thật sự an tâm, tui động viên thêm:
- Cố gắng đi. Xong việc, tao sẽ chở mày đi Sở thú xem mấy con
khỉ đột làm trò. Và đãi mày một chầu kem ba màu ngon hết xảy luôn!
Từ lúc đó, tui hồi hộp chờ tin. Tui mua một khúc bánh mì, ngồi
gặm ngay tại khung cửa tình yêu, không rời mắt khỏi cánh cửa nhà nàng.
Mười hai giờ kém mười, nàng đi học về ngang.
Mười hai giờ kém năm. Cửa nhà nàng mở toang đột ngột.
Một bà xồn xồn bước ra. Tay bà lôi xềnh xệch thằng nhóc
" em vợ tương lai của anh Sơn!" Bà gầm lên:
- Chỉ cho tao thằng Sơn là thằng nào! Ðồ trời đánh! Con người
ta còn con nít mà nó đã bày đặt dụ dỗ rủ rê rồi!...
Có lẽ bà ta còn chửi rất nhiều, nhưng tui không kịp nghe thấy
nữa. Tui phóng xuống thang lầu, chạy vù ra cửa, nhảy lên chiếc xe đạp, mặt mày
xanh lét. Ông cậu tui đang ngồi trước sân ngạc nhiên hỏi:
- Mày đi đâu vậy, chờ chút xíu tao nhận tiền công rồi về
luôn.
Tui lắc đầu:
- Con về trước. Có việc gấp!
Tui đạp xa căn nhà mấy trăm mét rồi vẫn chưa kịp hoàn hồn,
tim vẫn còn nhảy lam-ba-đa trong lồng ngực.
Hôm sau, tui lò dò đến Ngã Bảy. Tui không dám mò tới gần nhà,
mà đứng ở cách đầu hẻm chừng mười mét, chờ mong một cách tuyệt vọng thằng em vợ
hụt của mình.
Cuối cùng, tui cũng tóm được nó. Tui trợn mắt hỏi:
- Mày làm sao mà như vậy hả, thằng ôn con?
Nó nhăn mặt:
- Ðâu phải tại em! Em chờ chị Thu vừa về tới, là mang thư anh
đưa chỉ ngay. Nhưng em mới móc trong túi ra lá thư thì bà cô em nhìn thấy. Bả hỏi
cái gì. Rồi bả tới giật lấy mở ra xem. Rồi bả chửi um xùm. Em còn bị quất mất
cái vô mông đau điếng nữa đó!
Tui muốn ngất đi. Vậy là Thu của tui vẫn chưa kịp đọc lá thư.
Tui cố lấy bình tỉnh hỏi nó:
- Rồi sau đó, Thu có hỏi mày gì không?
- Chỉ cứ lêu lêu chọc em là bị đòn đáng đời lắm!
- Trời! - Tui chỉ còn biết kêu lên."
Phát ngước lên, nhìn về phía vầng trăng, kết luận:
- Chuyện tình đầu của tui vậy đó. Tui đã thất bại một cách
thê thảm ngay từ vòng loại... và chuyện thì chả có gì, thế mà tui cứ nhớ mãi
không quên. Không biết giờ đây nàng có lớn thêm được tí nào không, cô công
chúa nhỏ!
Mọi người im lặng. Họ xúc động vì sự giản dị, ngây ngô của
câu chuyện. Một chuyện tình thật lạ lùng, không đầu không đũa, không có cả một
kết thúc đúng nghĩa. Nhưng vẫn đúng là một chuyện tình. Và rất dễ thương.
Phát nói thêm sau một hồi trầm ngâm:
- Sau đó, tui không bao giờ trở lại nơi đó nữa. Tui muốn giữ
mãi trong lòng hình ảnh không thể nào phai nhòa được về một cô bé ngây thơ.
Câu chuyện của Phái làm cho mỗi người chợt nhớ tới những kỷ
niệm của riêng mình. Họ ngồi nghiêng người sát bên nhau dưới ánh trăng giờ đây
nhuộm khắp không gian một màu sữa đục. Ánh trăng chở họ về miền thơ dại xa xôi,
nơi có dòng sông xanh biếc, có những đám cỏ may êm ái ven bờ, có mây trắng bềnh
bồng và tiếng sáo ru dìu dặt.
Sáng hôm sau, khi đã làm xong một vài việc lặt vặt, Huy ngồi
viết thư. Anh định viết để sẵn đó rồi có dịp sẽ gửi về nhà. Sáng nay trời đẹp;
và lòng Huy chợt rộn ràng xao động một niềm vui rất lạ.
Ðêm qua, Huy đã mơ những giấc mơ đẹp đẽ. Những giấc mơ không
đầu không cuối, tràn ngập những màu sắc ảnh tượng kỳ diệu lung linh. Mọi người
quen lúc ban ngày trong mơ đều xinh đẹp và hạnh phúc. Huy mang máng nhớ hình
như đã gặp một cô gái trẻ có đôi mắt nâu ngơ ngác và một mái tóc rối xỏa như
mây, giấc mơ bảo Huy đó chính là Thu. Và một con tàu có cánh buồm đỏ thắm, Huy
đột nhiên trở thành thuyền trưởng của con tàu đó. Và một sa mạc lạ lùng với những
giải cát trong suốt màu lam, trên mọc đầy hoa mua tím biếc. Rồi chợt có một đám
tiệc gì đó rất tưng bừng vui vẻ, với những dây đèn hoa giăng kín và những dây
pháo đỏ dài thòng tới đất. Ðang khi hớn hở nhìn dây pháo đỏ nổ tạch đùng thì
Huy chợt giật mình thức giấc. Anh mở mắt ra và bắt gặp Tiến đang gõ khe khẽ vào
thanh ngang đầu giường đánh thức mình để bàn giao ca gác.
Huy viết một mạch không ngừng hai trang giấy khổ to. Viết
xong, anh chậm rãi đọc lại, gật gù với vẻ hài lòng. Anh cất lá thư, rồi bước ra
ngoài.
Mặt trời đã lên cao. Nắng vàng mênh mông và ấm áp. Cây cối
xanh rì run rẩy xôn xao trong ánh nắng. Hình như không khí mùa xuân vẫn còn
vương lại. Huy chợt nhớ ra hôm qua Ụ Mối có bảo bốn ngày nữa là mười lăm tháng
Tư, ngày tết Chol S'nam Thmei - tết cổ truyền của dân tộc Khmer. Ụ Mối đã trải
qua một cái tết này rồi. Huy bỗng thấy nôn nóng muốn ra phum để xem những người
dân chuẩn bị ăn tết. Ắt hẳn là có nhiều điều thú vị, Huy thầm nghĩ.
Một con quạ đậu trên đỉnh cây giá tỵ đằng xa chợt kêu lên mấy
tiếng, rồi nó vỗ cánh bay về hướng bắc phum, chắc hẳn có ai đang mỗ heo bò gì
ngoài đó. Huy dõi theo những nhịp cánh chầm chậm khoan thai của nó, chợt anh nhớ
tới những bài thơ của Quân. Những bài thơ nói lên một sự kiếm tìm điều tuyệt đối.
Ðiều tuyệt đối ấy như gần gụi trong gang tấc mà lại xa xôi vời vợi. Nó gợi lên
một niềm khao khát sống- sống trọn vẹn, tròn đầy, viên mãn. Và vì rốt cuộc đó vẫn
chỉ là niềm khao khát, nó gợi lên một nỗi buồn thật vĩ đại, mênh mang, một nỗi
buồn vượt lên trên những lo âu, phiền muộn, đau khổ nhỏ nhoi hèn mọn của cuộc đời
thường nhật, của những kiếp phận lẽ loi đơn độc, hướng về nơi cao rộng, tự do,
chan hòa ánh sáng. Y như giờ đây, khi Huy nhìn theo bóng con quạ đang xoãy rộng
đôi cánh lượn lờ giữa trời cao xanh thẳm, lòng Huy cũng mênh mang một nỗi buồn
nhớ khát khao. Quân làm thơ không nhiều. Cuốn sổ tay anh đưa Huy mượn nhỏ cỡ nửa
quyển vở học trò, dày chừng một trăm trang mà đã bị xé đi gần nửa. Tổng cộng chỉ
độ chục bài thơ. Có bài dài mấy chục câu, có bài chỉ vỏn vẹn bốn câu tứ tuyệt.
Nhưng thật sự đó là những tuyệt tác, nếu như Huy tự coi mình cũng hiểu biết
chút gì đó về thơ! Ở chúng có một sức mạnh khác thường, ở chúng hình thức và nội
dung kết hợp với nhau, quyện chặt vào nhau để tạo nên vẽ đẹp, nói lên những điều
to tát, mà không hề có chút khoa trương hay màu mè giã tạo. Những từ đơn lẽ là
những từ đơn giản và quen thuộc. Thế nhưng khi chúng nằm cạnh nhau trong các
bài thơ của Quân, được sắp xếp theo một trật tự lạ lùng nào đó, dường như có một
phép màu đã thay hình đổi dạng chúng đi. Như trong chuyện Cô bé lọ lem, một bà
tiên lành đã vung chiếc đũa thần biến mấy con chuột và quả bí ngô thành một cổ
xe tứ mã lộng lẫy huy hoàng, những từ chợt như sống dậy, lao xao, cựa quậy,
mang những ý nghĩa mới mẻ, gợi lên trăm ngàn âm thanh, màu sắc, ảnh tượng kỳ hoặc
lạ thường. Huy bàng hoàng khi đọc chúng lần đầu, và vẫn bàng hoàng hệt như vậy,
còn hơn nữa, khi đọc lại lần thứ hai, thứ ba... Qua chúng, tình yêu, khát khao,
ước vọng... nói chung là toàn bộ cuộc sống, với những sự thật trong suốt và đơn
giản không ngờ, đã phà hơi thở vào những mẫu tự khô khan, đông cứng. Huy hỗ thẹn
khi nghĩ tới những bài thơ của mình. (Vậy mới chính là thơ chứ! Thơ thẩn gì
mày, hả Huy, từ nay thôi hết bày đặt nghe chưa!)
Huy còn đang đứng nghĩ lan man, thì một bàn tay bóp nhẹ vai
anh. Huy quay lại. Là Quân. Quân nói:
- Huy muốn đi dự đám cưới không?
- Hả! Ðám cưới? - Huy ngạc nhiên - Ðám cưới ai vậy anh?
- Một người quen. Họ mời anh và Già Hương, nhưng Già Hương
đang bị sốt. Ði với anh cho vui, Huy ạ.
- Ði chứ anh. Em đang muốn ra phum đây. Tết của dân có vui
không anh Quân?
- Cũng khá vui. Giống như ở miền quê bên mình. Họ cũng nấu
bánh tét, bánh ít, rồi tổ chức nhảy lăm thôn, chơi ném khăn, hát a-dây, đá
gà...
- Hát a-dây là sao anh?
- Nó là một kiểu hát đối đáp qua lại giữa nam và nữ, giống kiểu
hò đối đáp Nam bộ của mình.
- Chà, hay quá! Ðến ngày đó, mình có vào phum chơi được không
anh Quân?
- Ðược chứ. Thôi chúng ta đi. Giờ này có lẽ họ đang làm lễ.
Dàn nhạc đang tấu một điệu khúc lễ nhạc réo rắc vui vui khi
hai người tới ngôi nhà. Trong khoảng sân rộng quanh nhà, rải rác những cô gái
trẻ trong những bộ áo váy xa-rông đủ màu phấp phới. Gió nhẹ và thơm. Nắng tươi
như mật tràn xuống cây lá, phủ lên mái tranh trắng bạc một màu vàng sánh. Một
người đàn ông trông thấy họ, bước tới mỉm cười chào. Anh ta nói với Quân điều
gì đó, rồi lại mỉm cười nghiêng đầu chào cả hai, bước vội vào phía sau. Huy hỏi:
- Anh ta nói gì vậy anh Quân?
- Anh ta bảo chúng ta đứng chờ giây lát.
Huy gật đầu. Anh kéo tay Quân bước lên phía trước, xen vào
hàng người đang đứng vây thành một vòng tròn trước thang gác căn nhà. Quân bảo:
- Họ đang làm lễ "chon đai", nghĩa là cột tay. Người
ta dùng một cái khăn cột tượng trưng tay cô dâu chú rễ với nhau. Sau đó cả hai
dắt nhau lên nhà, bái lạy cha mẹ họ hàng. Ðiều này có ý nghĩa như một sự ràng
buộc cả hai mãi mãi, giống như chỉ hồng se duyên vậy.
Huy thích thú nghe Quân giảng giải. Chợt đám đông giãn ra, cô
dâu, chú rễ đã tới. Hai cổ tay của họ nối với nhau bằng một giải lụa vàng thêu
kim tuyến. Chú rễ chỉ đơn giản với chiếc quần tây, áo sơ mi. Trái lại, cô dâu
trông thật lộng lẫy trong chiếc xa-rông Thái duyên dáng. Phía trên thân là một
kiểu áo thật lạ, giống như chiếc áo của nàng vũ nữ trên bao thuốc lá Apsara, với
thật nhiều nếp viền đăng ten và kim tuyến đủ màu óng ánh. Vai cô dâu còn choàng
thêm một giải lụa hồng. Trên ngực của cả hai là một bông hoa vải đỏ với nhiều
tua chỉ ngũ sắc phất phơ. Trông cả hai người đều trẻ trung và xinh đẹp.
Họ dắt nhau lên thang, bước vào nhà. Huy chẳng thấy gì được nữa
vì nhiều người đã đứng quanh trước cửa. Huy nhìn quanh quẩn. Ngoài sân, bàn ghế
đã được kê sẵn dưới những tàng cây. Nhìn chung, mọi cái đều tương tự một đám cưới
làng quê Việt Nam, trừ một vài phong tục lễ nghi đặc biệt. Huy chợt thấy nhồn
nhột sau gáy, như thể sau lưng đang có ai đó lén nhìn anh. Huy quay lại: Một
đôi mắt đen láy đang chằm chặp hướng về phía Huy với vẻ tò mò và thiện cảm. Một
cô gái, nói đúng hơn, là một cô bé xinh xinh, nhỏ nhắn. Chiếc áo trắng cô mặc
càng làm nổi bật nước da ngăm đen, nhưng trông cô thật là duyên dáng. Huy mỉm
cười với cô. Cô bé cũng rụt rè nở nụ cười đáp trả. Rồi cô chợt e thẹn cúi đầu.
Huy vẫn dán mắt vào cô bé. Giây lát, cô ngẩng mặt lên, thoáng liếc qua Huy,
nhưng khi vừa bắt gặp đôi mắt của anh, cô lại bối rối nghiêng người quay lưng
đi nhanh ra đầu ngõ.
Huy nhìn theo cô bé, thấy vui vui là lạ. Lát sau, Huy quay lại,
hướng về đám thanh niên nam nữ đứng cười nói trước sân. Các cô gái da ngăm mặt
dầy phấn trắng, cong cớn môi son, đang uốn éo làm duyên trước mấy chàng thanh
niên giương vây tán tỉnh. Nét mặt ai cũng tươi hơn hớn, như thể là đám cưới của
chính họ không bằng. Tiếng cười nói khi lặng lại, khi òa vỡ xôn xao. Dường như
không khí tràn ngập những phân tử vô hình đang va đập, chuyển động không ngừng.
Ánh mắt Huy chợt dừng lại ở một chiếc áo xanh- Sa Piên! Cô đứng nghiêng người
bên chân thang ngó lên nhà, mái tóc mềm mại lõa xõa bay trong gió. Trông cô thật
là khả ái. Huy kéo tay Quân.
- Anh Quân! Bồ của anh Lý kìa!
Quân không đáp. Mặt anh trầm ngâm như đang suy nghĩ một việc
gì quan trọng. Ðôi mắt anh lạc đâu đó về một chốn xa xôi. Huy thôi không quấy rối
Quân, anh quay lại nhìn Sa Piên ngưỡng mộ. Vẻ đẹp bao giờ cũng làm Huy thán phục
và kinh ngạc: vẻ đẹp của một cành khô chơ vơ đơn độc, của một chùm hoa cúc dại
nằm lặng lẽ giữa một bờ cỏ ven sông, của một chiều giông với những cụm mây xám
nặng và sấm chớp kinh hồn, của núi ngàn hùng vĩ tím mờ dần một buổi hoàng hôn
muộn... Mỗi thứ đều làm Huy ngây ngất say sưa hay ngợp đi trong niềm kính ngưỡng.
Nhưng vẻ đẹp cao quí, thanh khiết và bí ẩn của người phụ nữ còn mạnh mẽ hơn, đầy
quyền lực. Nó làm Huy trong một khoảnh khắc nghe tim mình thắt lại, và một nỗi
buồn mênh mang không rõ chợt dâng lên. Trong khoảnh khắc, nỗi buồn như có tự
ngàn xưa - nỗi buồn hẳn đã từng đè nặng xuống tâm hồn bao nhiêu tổ tiên man rợ
xa xôi - khắc khoải vọng về như tiếng chuông ngân rền rĩ âm u một chiều đông muộn.
Ở Sa Piên có một vẻ đẹp ảo huyền như vậy, Huy nhìn cô đăm đăm không chớp mắt. Một
lúc sau, Sa Piên đi lẫn vào phía sau nhà.
Khoảng nửa giờ sau, lễ đã tiến hành xong, mọi người ngồi vào
bàn ăn uống. Quân nói cười vui vẻ với các quan khách trong khi Huy chỉ biết ngồi
ngây ra. Chả nói chuyện được gì, Huy chỉ còn biết thể hiện sự nhiệt tình của
mình bằng cách uống rượu. Anh cụng chén với họ, mỉm cười với họ và dùng đôi
tay, nét mặt để diễn tả niềm vui.
Uống được vài lượt, Huy đã thấy lâng lâng, anh hào hứng bảo
Quân:
- Dân họ tốt bụng và chất phác quá anh Quân nhỉ?
- Ða số đều như vậy.
- Vậy mà trong đơn vị có người lại không ưa dân. Mấy ổng nói
họ chỉ vờ vịt thế thôi, chứ toàn là dân địch không thôi. Nhà nào cũng có con
cái, họ hàng theo Polpot, làm sao mà ưa chú đội tụi mình được. Ví dụ như ông
Thiện nhà mình đó, ổng làm như dân là kẻ thù không bằng, lúc nào cũng nghi ngờ,
ác cảm.
- Họ là những người nông dân chân chất. Họ thấy chúng ta
thành thật và tốt, thì họ sẽ tốt lại với chúng ta. Còn anh em mình cũng có người
vầy người khác. Có người chân thành yêu mến dân, có người chỉ giao du để lợi dụng,
cũng có người coi dân Campuchia là thấp hèn, ngu dốt, đầu óc mấy người này đầy
thành kiến phân biệt về dân tộc, màu da, dù là ta với người Khmer cũng cùng một
giống da vàng mũi tẹt mà thôi. Dù sao, đó là quan điểm, là bản tính mỗi người.
Họ cũng có cái lý riêng của mình Huy à.
- Em nghĩ bất kỳ là ai cũng vậy, là người thuộc dân tộc, quốc
gia nào đi nữa, nếu người khác tốt và cảm thông với anh ta, hẳn nhiên anh ta sẽ
phải đối đãi với họ y hệt vậy thôi. Ta cứ cư xử tốt bụng, chân thành với mọi
người chẳng hay hơn sao anh Quân?
- Nói thì đơn giản vậy! Nhưng sự thực lại không dễ đâu Huy.
Em nghĩ thế thì rất tốt. Nhưng nhiều khi ta làm điều tốt mà chỉ chuốc những khổ
đau, chuốc lấy ác cảm và sự hiểu lầm...
Một thanh niên trẻ bước tới nhe răng cười chào Quân và Huy.
Anh ta chỉ vào Huy hỏi:
- Smuo ei?
Câu hỏi này Huy biết. Nó có nghĩa là "tên gì vậy?".
Huy cười trả lời:
- Huy!
Anh ta chỉ vào ngực mình:
- Su Smak!
Huy chìa tay ra bắt tay Smak. Quân nói:
- Smak vui tính lắm Huy. Nó là người dạy anh cách quăng chài
đó. Nó chài cá giỏi nhất phum này.
Smak nhìn Huy nói một tràng dài. Huy lắc đầu. Quân lại phải
diễn dịch:
- Nó bảo hôm nào em theo anh ra nhà nó chơi. Nó sẽ cho em xem
con gà đá của nó. Ðây là con gà đá vô địch trong xã Punley. Nếu em thích chơi gà
đá, nó sẽ cho em một cặp gà con giống mang về nuôi.
Huy gật đầu lia lịa, giờ thì anh có thể tự mình nói được một
cái gì đó bằng tiếng Khmer:
- O cuun chờ rờn, Smak! (Cám ơn nhiều, Smak!)
S'mak chợt kéo vai Huy, bằng một cái giật mạnh xoay người anh
lại. Ðám thanh niên đang gom thành một vòng tròn rộng giữa sân. Ðiệu nhạc chuyển
sang giai điệu mới, hối hả và thôi thúc. S'mak giơ một tay lên giữa ngực, uốn
éo thân người:
- Ruom vôông! - Anh ta vừa nói vừa lôi Huy đứng dậy.
Men rượu đã bốc lên, Huy không e dè bước ra chen vào giữa đám
đông. Anh đưa mắt lướt qua những cô gái đang bụm miệng cười khúc khích. Cái
nhìn dừng lại ở một mái tóc và dáng vóc quen quen: Cô bé lúc nãy đang nghiêng
người nói cười gì đó với một cô gái khác. Huy đi nhanh tới chỗ cô. Vừa quay lại,
cô bé giật mình khi thấy Huy đã đứng lù lù trước mặt. Cô hoảng hốt lùi lại một
bước, đôi mắt tròn xoe nhìn Huy không chớp. Huy toét miệng cười, tay chỉ vào giữa
vòng nhảy:
- Ruôm?... với kh'nhum! 1
Cô bé lắc đầu. Người bạn lớn tuổi hơn đẩy khẽ vào vai cô như
khuyến khích. Cô nhìn thật nhanh vào mặt Huy, và bỏ chạy. Sau lưng cô, một chuỗi
cười rớt lại, như tiếng va chạm lanh canh trong vắt của những chiếc chuông bạc
nhỏ xíu. Huy kêu lên:
- Ðừng có chạy, bé ơi. Ðứng lại đi mà...
Huy dợm chân định chạy theo cô, nhưng vai anh đã bị một bàn
tay khẽ lôi trở lại. Quân. Anh cười khẽ, nói nhỏ vào tai Huy:
- Em nói tiếng Việt, nó có hiểu gì đâu chứ. Thôi, ta tới ngồi
chơi tí nữa rồi về.
Hai anh em quay lại bàn, uống thêm vài chung rượu nữa rồi
chào từ giả mọi người. Huy bước chập chờn lơ lững như thể đang đi trên một lớp
bông êm nhũn, một nỗi niềm không rõ cứ xôn xao. Nỗi xúc động ngọt ngào vì một
người con gái? Hay là niềm vui được giao tiếp, có bạn bè, thân hữu ở một nơi xứ
lạ quê người?
Chú thích:
1. Anh bộ đội Việt Nam.
2. Việt Nam - Campuchia đoàn kết!.
3. Mạnh khỏe nhiều anh em bộ đội nhé!
4. Việt Nam - Campuchia đoàn kết, ăn bò hoóc khỏe mạnh, đi xa nhớ bò
hoóc!.
5. Em gái ơi, có yêu anh không? Anh yêu em lắm!.
6. Một loại hình hát tuồng của Campuchia.
1. Nhảy?... với tôi!.
Tiểu đoàn đã trở về hậu cứ, sau mấy tháng dài ròng rã hành
quân cơ động chiến đấu ở vùng biên giới. Trên đường về, khi mọi người bắt đầu
trông thấy những làn khói lam mỏng mảnh tỏa lên trên hàng cây thốt nốt, và những
mái tranh xam xám đã thấp thoáng hiện ra sau lớp bụi mù mịt của đoàn xe đi trước,
ai cũng vui sướng, xúc động không tài nào tả xiết. Giã từ những cánh rừng hiu
quạnh! Giã từ miền đất bạc màu cằn khô biên ải! Phum làng thân mến ơi! Các mẹ,
các chị, các em gái Khmer mến thương ơi! Chúng tôi đã trở về!
Dọc đường về, Huy cứ đứng bám vào thành chiếc xe Zin, nhìn
ngó một cách khao khát không biết thỏa những túp nhà sàn nhỏ xíu, tả tơi nằm dọc
hai bên lề con đường đất. Những bà cụ, ông lão, những cô gái, chàng trai, những
đứa trẻ con Khmer đang náo nức hân hoan vẫy chào các "boòng coong tóp Việt
Nam" 1 vừa trở về từ mặt trận. Họ hò reo ơi ới khi mấy chiếc xe chạy tới gần:
"Việt Nam Campuchia xa-ma-ki!" 2
"Xốc-xơ-bai chờ-rờn boòng b'ôn coong-tóp ná!" 3
Và những người lính cũng đồng thanh reo hò đáp trả:
"Việt Nam Campuchia xa-ma-ki, xi bò-hóc, xốc-xơ-bai, tâu
xa-ngai, nức bò-hóc!" 4
"Ôn sa-rây ơi! Xa-lanh boòng tê? Boòng xa-lanh ôn chờ-rờn
ná!" 5
Tiếng cười khanh khách trong trẻo của các cô nàng thôn nữ vẫn
còn văng vẳng đuổi theo đoàn xe một quảng xa, vượt lên tiếng động cơ nổ òm òm.
Hơn ai hết, Huy thấy lòng rưng rưng một nỗi xúc động êm ái. Từ
nhỏ đến lớn, Huy sống ở thành phố. Anh đã quen với sự đông đúc, náo nhiệt, quen
với sự có mặt của bao người quen lạ xung quanh. Thế rồi đột nhiên Huy trải qua
gần nửa năm trời với một cuộc sống mới mẻ khác thường - không có ai ngoài đồng
đội; không có gì ngoài những đồi, những lũng, những rừng mênh mông quạnh quẽ.
Huy không ngờ mình lại xúc động đến như vậy khi trông thấy lại những phum làng
và những người dân. Như thể đây không phải là nơi xa lạ, có những con người xa
lạ với anh, mà chính là nơi Huy đã rất thân quen, gắn bó. Như thể đây chính là
xóm cũ, quê xưa xa cách đã lâu.
Từ biên giới về đến Cứ mất hai ngày đường. Buổi chiều ngày thứ
nhất khi xe chạy ngang qua thị xã Batdomboong, ánh chiều tà đã sắp nhường cho
bóng tối. Xe chạy qua khu thị tứ xa rồi, mà Huy vẫn còn ngoái đầu lại mãi. Anh
đăm đăm nhìn quầng ánh sáng của những bóng đèn điện trắng vàng mờ tỏ hắt lên
chân trời, lòng cồn cào nỗi nhớ thành phố quê hương.
Cuối cùng, sau hai ngày rong ruổi, ba lô, súng ống, lính
tráng chen chúc loi ngoi trên những chiếc xe như những con cá mòi lèn cứng
trong hộp cá, họ đã về tới Cứ.
Bấy giờ đã là đầu tháng Tư - tháng đầu mùa thu hoạch của cây
trái trong vườn. Mặt bằng Cứ vốn là một khu vườn xoài rộng lớn, nên vây quanh
những căn nhà là những gốc xoài già đang oằn trái cỡ nắm tay.
Ở đây, trung đội có ba nhà và một căn chái nhỏ làm nhà bếp.
Nhà cán bộ trung đội nằm giữa, cách mười mét là nhà bếp, hai căn còn lại nằm
hai bên cánh, cách căn giữa chừng năm mươi mét. Những trung đội trực thuộc khác
của tiểu đoàn - DKZ, Cối 82, Thông tin, Trinh sát, Vận tải - nằm nối tiếp nhau
với cùng một cách bố trí, tạo thành một vòng tròn khép kín. Nhà tiểu đoàn bộ nằm
giữa vòng tròn này.
Huy ở căn nhà giữa cùng Quân và mấy số súng khác, hai căn hai
bên là của hai khẩu đội đại liên. Hôm mới về, mấy căn nhà trông thật hoang tàn.
Trừ căn giữa còn có Nam, Bùi, Quy ở, hai căn kia nhện giăng tứ phía, mối đùn
lên giữa nhà mấy ụ, xen lẫn với những túm cỏ gấu, cỏ gà... Cột kèo cũng bị mối
xông mục nát gần hết. Mấy tay ở nhà giữ Cứ ham chơi, cứ suốt ngày lê la ngoài
dân, có khi còn ăn cơm luôn với họ mãi đến chiều tối mới về. Không ai để ý chăm
sóc, dòm chừng nên nhà cửa mới hư hại như vậy. Ở vùng này, nhà không có người
là bọn côn trùng mối mọt và cỏ dại sẽ xâm chiếm, tàn phá rất nhanh. Trung đội mất
hơn một tuần đi chặt tre, cắt đưng, lá thốt nốt để sửa sang nhà cửa, đào đắp củng
cố lại hầm hố, giao thông hào và phát quang quanh nhà.
Sau giờ công tác, Mợi lác và Già Hương dẫn Huy đi vòng vòng
ra phum chơi, thăm viếng những người quen. Tiểu đoàn đã về dựng Cứ ở gần phum
Chan Ðai này từ đầu 1983, tính ra đến nay đã hơn hai năm. Do vậy, cánh lính cũ
có khá nhiều người quen biết. Anh em ta cứ ra phum là trở thành người trong nhà
của những cư dân hồn hậu, tốt bụng này ngay. Họ xưng hô với các ông bà lão là
ba mẹ, với các cô gái là anh em, chị em một cách tự nhiên, thân thiết; và được
đối xử thân thiết không kém.
Huy cứ ngẩn người, phục lăn khi thấy Già Hương và Mợi lác nói
chuyện một cách rôm rả, thoải mái với mọi người. Anh thầm nghĩ phải cố gắng học
thật nhanh tiếng Khmer để nói được, nghe hiểu được như họ.
Ở các huyện vùng tây bắc này, đi trên những cánh đồng cò bay
thẳng cánh, thỉnh thoảng khách bộ hành sẽ trông thấy một vài cụm cây cỏ vạch
thành một nét xanh lam lấp ló ở chân trời. Ðó là những cây cối hoang dại mọc
vây quanh bìa của một phum. Băng qua khoảng cây dại, bụi lùm này vài trăm mét,
những túp nhà sàn đã hiện ra trước mắt người khách lạ.
Giả sử có một người nào đó có thể đứng lơ lửng giữa bầu trời ở
độ cao vài trăm mét nhìn xuống, anh ta sẽ nhìn thấy rải rác nổi lên trên nền
vàng màu cỏ úa của vùng đồng bằng mênh mông miền tây bắc mùa khô là những hình
bầu dục xanh xanh; những đường kẻ ngoằn ngoèo trắng xám nhờ nhờ; những vệt xanh
da trời; và chếch về hướng tây ghé bắc là một vệt dài xanh thẫm. Ðó là các
phum làng, các dòng suối, đường mương dẫn thủy, hồ nước, và những dãy núi đất với
rừng cây rậm rạp tiếp giáp vùng biên giới.
Phum Chan Ðai là một phum tương đối đông dân, có khoảng hai
trăm túp nhà sàn lớn nhỏ nằm quây quần thành một hình quả trứng. Một con đường
đất rộng chừng sáu mét cắt đôi quả trứng Chan Ðai, chạy dài từ hồ Tức Sáp ở hướng
bắc, băng qua hai dãy nhà sàn của phum, băng qua trảng lúa bát ngát, và tiếp
giáp huyện lỵ Thmo Puoc sau hơn mười cây số.
Ngang dọc trong phum là những con đường phụ hẹp hơn, khoảng từ
một đến hai đường bò, tức là lối để những chiếc xe bò di chuyển. Nhà vườn ở đây
cũng tương tự như ở các thôn xóm Việt Nam. Trước sân và quanh nhà là những vườn
dâu tằm, vườn cây ăn trái: xoài, me, ổi, mít...Thường thường ở trước mỗi căn
nhà sàn, kề bên bậc thang lên xuống có một cái giàn bằng gỗ cao khoảng ngang
hông, đổ đầy đất mùn đen xốp, ẩm nước. Trên những giàn này là những cụm hành lá
xanh non, những khóm rau ngò, rau răm tươi mát, hay những cây ớt oằn sai trái đỏ.
Ở một góc bên dưới sàn là nơi nhốt trâu bò. Phía ngoài lớp rào gỗ thưa của những
chiếc chuồng này thường có các đống un để xua muỗi ban đêm. Khi đi ngang những
túp nhà này, Huy thường ngửi thấy một mùi lạ lẫm, tổng hợp từ mùi phân trâu bò,
mùi đặc trưng của món mắm bò-hóc, mùi hoa chanh thơm cay thoang thoảng, hay mùi
ngòn ngọt của bắp tươi mới hái treo lủng lẳng dưới sàn. Ban đầu, thứ mùi này
làm anh khó chịu. Nhưng về sau, nó đã trở thành thân quen, thậm chí thành nỗi
nhớ.
Trong phum, cư dân chia thành hai cụm nằm ở hai đầu. Cụm hướng
bắc, chiếm tỷ lệ ít hơn, là những hộ khá giả, có nhiều heo cúi, trâu bò. Cụm hướng
nam là những hộ nghèo, và các cặp vợ chồng son vừa ra riêng sau lễ cưới. Anh em
trong khối trực thuộc tiểu đoàn thường tới lui, giao du với khu dân nghèo phía
nam hơn.
Buổi chiều ngày thứ hai tính từ hôm về hậu cứ, Quân tập hợp
toàn trung đội lại hội ý, phổ biến các công việc của tuần sau: phát quang nhà
tiểu đoàn, đi chặt tre, cắt tranh lá để tu sửa, che lợp lại nhà, cuốc cỏ để
đánh luống trồng rau...Sau đó, Quân thông báo tiểu đoàn đã trao quyết định
thăng cấp thiếu úy và bổ nhiệm chức trung đội trưởng cho anh, thăng cấp cho một
loạt các chiến sĩ từ hạ sĩ lên trung sĩ, từ binh nhất lên hạ sĩ, và gợi ý trung
đội tiến hành bầu cử A trưởng cho Huy.
Quân thở dài. Anh nói nho nhỏ như tâm sự với mọi người:
- Anh em cũng biết, tôi xin được tiếp tục ở lại phục vụ quân
đội, nhưng không hề muốn nhận cấp sĩ quan, không hề muốn coi đời lính như một
cái nghề để theo đuổi trọn đời. Ấy cũng là vì tôi rất biết không tìm được ở đâu
tình thương yêu gắn bó như ở một đơn vị cấp cơ sở tiểu đội hay trung đội. Càng
lên cao, khoảng cách thân tình đó càng giãn cách xa hơn. Nhưng nay thì tôi
không có cách chọn lựa khác. Hoặc tôi nhận sĩ quan, hoặc phải chuẩn bị ra quân.
Khi tôi nhận sĩ quan, sớm muộn gì tôi cũng sẽ rời xa các bạn. Ðời lính hợp rồi
tan như bèo như mây, chẳng có gì là bền vững mãi...Mong các bạn hiểu cho tôi...
Quân cúi đầu trong không khí chợt chùng xuống, im lặng và buồn
bã. Một lúc sau anh nói:
- Bây giờ, chúng ta tiến hành biểu quyết công khai. Ðồng chí
nào nhất trí cử Huy làm A trưởng thì giơ tay lên!
Toàn trung đội giơ tay, trừ Mợi. Anh phát biểu:
- Tôi không có chê đồng chí Huy gì cả. Qua trận đánh cứ 201 vừa
rồi, Huy tỏ ra là một tay ngon lành đó. Nhưng Huy còn mới quá, trong khi đó,
lính 82, 83 lại là thuộc cấp, tôi e khi đụng chuyện Huy khó được chấp hành
theo. Tôi nghĩ còn nhiều thời gian cho Huy tự khẳng định mình, học hỏi thêm.
Tôi đề cử đồng chí Thiện.
Quân nói:
- Ðiều này tôi có nghĩ đến. Nhưng chính mọi người đề cử thì
không lo anh em không chấp hành mệnh lệnh của Huy. Tuy nhiên, tôi cũng thấy nên
có thêm một thời gian nữa, để Huy học hỏi thêm kinh nghiệm của đàn anh. Huy
nghĩ sao?
Huy nghiêng người về trước, nói chậm rãi:
- Tôi rất đồng ý với ý kiến của anh Mợi và anh Quân. Tôi xin
được tiếp tục giữ vị trí xạ thủ hai thêm một thời gian nữa. Cương vị khẩu đội
trưởng thật sự vượt quá khả năng của tôi bây giờ.
Thiện xin phát biểu. Anh nói rổn rảng:
- Các đồng chí cũng biết, lính 82 tụi tôi hoặc cuối năm nay,
hoặc đầu năm sau là đã ra quân. Anh em đề cử thì tôi cũng sẵn sàng nhận thôi.
Tôi chỉ mong Huy và mấy đồng chí trẻ tích cực học hỏi tụi tôi, để sớm thay thế
cho mấy anh già này, hoàn thành nhiệm vụ chung, không để mất tiếng trung đội.
Quân gật đầu. Anh hỏi lại:
- Vậy là tất cả đồng ý đề cử anh Thiện làm khẩu đội trưởng phải
không? Trung đội còn có ai có ý kiến gì khác?...Giải tán!
Huy đứng lên, bước tới Mợi lác, kéo tay anh:
- Anh Mợi! Anh dạy tiếng K cho em với. Mỗi ngày chừng hai chục
từ thôi.
- Trời, mỗi ngày hai chục từ! Mày tưởng dễ như vậy hay sao!
- Mợi cười hì hì, bắt đầu phịa - Hồi đó tao tôn ông Lãm lính 78 làm sư phụ, mỗi
ngày đấm lưng cho ổng bốn cử sáng trưa chiều tối. Mà ổng dạy cho tao mấy từ biết
không Huy? Năm từ! Mày thấy đó, học đâu chỉ đơn giản là học...Thôi, mai kiếm
cái gì về cúng tổ bái sư, rồi tao dạy cho. Ba bửa là mày ra nói với dân rôm rốp
ngay. Hề hề, mà cũng chỉ ba bửa là tao hết chữ! Mày muốn nói giỏi thì nên bái
thằng Lý đó. Nó tán được cả con nhỏ Sa Piên hoa khôi phum này là mày đủ biết. Cỡ
tao thì ăn thua gì.
- Vậy thì em sẽ học cả hai chứ sao.
- Ờ Huy, tối nay tao dẫn mày ra phum nhảy lăm thôn vui lắm.
Lúc chiều ghé nhà phum trưởng tao thấy ổng đang chuẩn bị mấy cái bình ắc qui và
đèn đóm.
- Tối đâu có ra phum được anh Mợi. Tiểu đoàn đã có lệnh cấm rồi
mà.
- Mày đúng là ngây thơ. Cấm thì cấm, còn mình đi là chuyện của
mình. Hơn nhau là chỗ đó đó Huy. Lính mà, làm sao hiền như thầy chùa được!
- Vậy để em xin phép anh Quân đã.
Mợi lác xua tay lia lịa:
- Mày đừng có nói, cứ đi đại đi. Ổng không cấm cản gì đâu,
nhưng cũng không tiện công khai đồng tình chuyện này. Nói mắc công ổng lo cho
mình thêm. Cứ lén đi thôi. Giờ mày có làm gì thì làm đi, rồi chuẩn bị tư thế, hễ
nghe tiếng tao huýt sáo là chuồn.
Khoảng bảy giờ tối, ngoài đầu hồi có tiếng huýt sáo lanh lảnh
nhái theo một điệu hót ngẫu hứng của chim họa mi. Huy đang nằm trên võng chờ đợi
vội bật người dậy, len lén ngó Quân. Anh vẫn đăm chiêu cắm cúi làm việc dưới
ánh đèn tù mù, không quan tâm gì đến tiếng huýt sáo. Từ nãy, Huy đã rất nôn nao
khi nghe tiếng đàn cò và tiếng kèn trống náo nhiệt được khuếch đại qua loa từ
ngoài phum vọng vào. Những điệu nhạc lạ tai nhưng rất rộn ràng thôi thúc.
Huy đi ra khỏi cửa. Trong bóng tối, Già Hương, Mợi lác và Lý
đang đứng, tay mỗi người cầm một chiếc đèn pin Trung quốc. Huy thì thào:
- Có cần đem theo súng không mấy anh?
- Không cần, phum này không có gì đâu Huy. Nhưng mày bỏ túi một
trái "ổi xá lị" cho chắc ăn cũng được. - Lý nói.
- Vậy chờ em tí xíu.
Huy đi vào nhà, móc trong túi cóc ba lô quả lựu đạn mi ni nhỏ
xíu màu vàng chanh mà anh đã thu được trong trận vừa rồi nhét vào túi quần. Huy
vừa quay lưng, Quân chợt cất tiếng hỏi:
- Em ra phum hả Huy?
- Dạ...dạ... - Huy ấp úng.
- Em nhớ nhắc tụi nó về sớm một chút. Thôi đi đi.
Huy thở phào, bước lẹ ra ngoài.
Họ đi theo lối tắt băng qua đội hình của trung đội thông tin,
lôi kéo thêm vài tay ở đây, rồi vượt đường giao thông hào. Ði thêm khoảng trăm
mét nữa qua một khóm bụi rậm, căn nhà gần nhất đã hiện ra. Tiếng đàn tiếng trống
nghe đã sát gần bên. Ở hướng bắc giữa phum có một khoảnh đất rộng trước ngôi
chùa, đó là nơi dân làng hội họp, nhảy múa hay tổ chức những buổi diễn "lờ-khon"
6. Ánh đèn điện hắt một quầng sáng mờ nôn nao trên màn đêm thẳm.
Huy có cảm giác dường như trên những vòm cây tối trên đầu, mấy
cành lá đang xôn xao, náo nức thì thầm những lời tình tự. Tiếng gió thoảng mơ hồ
lẫn khuất trong tiếng nhạc ồn ào nhiệt náo như những tiếng thở run run rất khẽ;
như lời thì thầm ngọt ngào của một cặp tình nhân. Hương đêm quánh lại, đậm đà.
Toàn bộ không gian có một cái gì đó cứ chao động không ngừng tựa những lớp sóng
lao xao. Dường như mùa xuân còn vương vấn đâu đây. Dường như tình yêu đang tha
thiết gọi mời, đang khẩn khoản van nài những trái tim hãy mở rộng ra, ôm ghì cuộc
sống. Có phải tình yêu đang gọi tôi không? - Huy khẽ hỏi một gốc me già vừa lướt
lại sau lưng.
Cả bọn chen vào đám thanh niên. Ðây đó, thấp thoáng những chiếc
áo lính xen lẫn giữa đám đông vây quanh sân múa. Huy nhìn vào giữa vòng người.
Khoảng chừng mười đôi nam nữ đang bước theo điệu nhạc, những cánh tay và thân
người cử động mềm mại, nhịp nhàng. Mấy cô gái mặc xa-rông Thái với những màu sắc
rực rỡ, ngang eo họ là những chiếc dây lưng bằng kim loại óng a óng ánh. Hầu hết
đều có một thân hình mềm mại, duyên dáng đầy nữ tính. Hay là nhờ những chiếc
xà-rông? Huy tự nhủ. Ðêm nay, anh chợt nhận ra sự quyến rũ lặng thầm của chiếc
váy dài này. Nó tôn lên những đường cong nét lượn của thân hình thiếu nữ, nó cất
lên những lời thơ bay bổng nhất, ca tụng một cách dịu dàng thầm lặng những nét
thanh xuân...
Mợi chợt khều khều vai Huy:
- Mày có thấy con nhỏ mặc xa-rông tím viền vàng, áo xanh đọt
chuối không? Con nhỏ đứng thứ ba từ bên phải tính qua... Sa Piên đó! Ðẹp không?
Huy đưa mắt dõi tìm, rồi nhìn cô gái một lúc lâu. Anh thấy
khó rời mắt khỏi cô ta. Ðúng là một cô gái đẹp. Thân hình thanh tú vừa có vẻ rất
mảnh mai ở chiếc lưng ong, lại vừa vô cùng đầy đặn và quyến rũ ở khuôn ngực, bờ
mông căng tròn dưới lớp vải mỏng manh. Gương mặt cô tươi tắn, dễ thương như một
bông hoa dại đầu mùa; và một làn tóc mềm mại như tơ, đen nhánh, chảy tràn xuống
hai bờ vai tròn thanh thoát. Sa Piên không đen như nhiều cô gái Khmer khác. Cô
có nước da trắng mịn của một nàng tiểu thư khuê các ở Sài Gòn. Huy chắc lưỡi:
- Ừ, đẹp thật anh Mợi ơi! Bồ của anh thật hả, anh Lý?
Lý gật đầu, cười tươi tắn.
Trong trung đội, và thậm chí trong toàn trung đoàn, có lẽ Lý
là một anh chàng đẹp trai và quyến rũ nhất. Lý cao ráo, rắn chắc như một vận động
viên điền kinh. Gương mặt cương nghị, với đôi hàng lông mày lưỡi kiếm vừa dài vừa
thanh tú. Nhưng cái làm phụ nữ chú ý đến anh nhất có lẽ là cái miệng. Nó có một
vẻ tươi tắn và duyên dáng không thể tả, với đôi môi dầy vừa phải, đỏ thắm như
môi một nàng trinh nữ, tạo cảm giác mềm mại và ấm áp. Mái tóc Lý bồng bềnh một
cách tự nhiên, một phần tóc đen biếc như lông quạ ở phía trước rũ xòa xuống vầng
trán cao rộng. Những người vừa tiếp xúc Lý lần đầu đều không cưỡng nỗi sự cảm mến,
hâm mộ vẻ đẹp sáng ngời đó.
Tuy vậy, bên trong cái ngoại hình xuất sắc, Lý chỉ là một người
tầm thường, rỗng tuếch và hời hợt. Anh không phải là người xấu, nhưng cũng
không có đức tính gì nổi bật, và trong chiến đấu thì cũng làng nhàng như vậy -
không gan lì dũng cảm, nhưng cũng không đến mức hèn nhát. Qua những ngày sống
trong trung đội, Huy hiểu đa số anh em không ưa gì Lý cho lắm. Lý sống có phần
ích kỷ, chỉ quan tâm đến bản thân mình. Anh giống một con công trống, suốt ngày
xòe đuôi xòe cánh để quyến rũ những cô gái xinh đẹp lọt vào tầm mắt, như thể đối
với anh đó là một chuyện đẹp đẽ, đáng làm nhất trên đời. Về chuyện này, Huy có
phần nào đó tán đồng với Lý. Anh nghĩ - trên đời còn gì cao đẹp hơn, còn gì
đáng để cho ta sẵn sàng đem cả cuộc sống ra mà đánh đổi hơn tình yêu nữa. Nhưng
dường như ở Lý có một cái gì đó, làm cho Huy có cảm giác là Lý không yêu thật sự,
chưa bao giờ yêu thật sự một ai.
Trong vòng nhảy bản nhạc đã kết thúc. Những người vừa nhảy
xong lùi ra nhường cho tốp khác. Lý bước tới cạnh Sa Piên. Hai người nhìn nhau
âu yếm. Lý nghiêng người người nói nhỏ bên tai cô gái một câu gì đó. Rồi cả hai
len lén lui ra khỏi đám đông, biến mất.
Huy vẫn đứng cạnh Mợi và Già Hương, háo hức nhìn những người
đang nhảy múa. Ðợt này có cả mấy tay lính thông tin nhập cuộc. Họ bước những bước
cứng nhắc, vụng về trong tràng cười vui vẻ và những câu hò reo cổ động của đám
thanh niên. Già Hương bảo Huy và Mợi:
- Hai thằng bây có muốn nhảy thì đợt tới nhào ra đi. Tao già
rồi, chỉ khoái đứng xem.
- Thôi, em cũng đứng xem. Em đâu có biết nhảy, ra kỳ thấy mồ.
- Huy đáp.
- Có gì khó đâu. Mày thấy không, đâu có chú đội nào nhảy ra hồn,
nhưng cũng vi vu được vậy. Chủ yếu là vui. Cứ nhào vô đi Huy, vui lắm! - Mợi
khuyến khích.
Khi dứt đợt nhảy đó, Mợi nắm tay Huy lôi vào giữa vòng. Huy
ngượng đỏ mặt, tay chân quýnh quáng. Nhưng mấy nàng thôn nữ đã bước tới bắt
đôi. Cô gái đứng trước mặt Huy mỉm cười, nói một tràng dài. Huy chả hiểu gì, chỉ
nghe thấy những tiếng líu ríu êm êm như tiếng hót họa mi. Huy chỉ còn biết nhìn
cô gái cười trừ.
Tiếng nhạc đã vang lên nao nức. Huy cắn răng liều mạng bước
những bước nhún ngượng nghịu, và bắt chước cô gái hoa đôi tay lên xuống nhịp
nhàng. Bài nhạc kéo dài được phân nửa thì nỗi e ngại, ngượng ngùng của Huy biến
mất. Tim anh không còn đập thình thịch liên hồi nữa, đôi chân cũng dẻo lại tự
tin. Huy bắt đầu cảm thấy quen thuộc và thích thú hòa nhập vào điệu nhảy. Chân
tay anh cử động theo điệu nhạc một cách tự nhiên, vô thức. Ðiệu nhảy qua nhanh
đến không ngờ trong niềm luyến tiếc của Huy.
Trung đội đã lợp xong mái mới, thưng lại vách cho cả mấy căn
nhà. Họ đánh tranh bằng lá thốt nốt xin chặt ngoài phum. Mùi lá mới thơm thơm,
màu lá mới xanh dịu, những căn nhà trở nên mới toanh, tràn ngập một không khí
bình yên và tươi mát.
Nhà trung đội đẹp và ấm cúng hơn lên nhờ mấy "lọ
hoa". Sau giờ công tác, Phái điển đã ra phum, ra đồng lùng một số hoa về cắm
vào mấy cái lọ tự chế bằng can nước cắt ra. Hoa loa kèn xanh biếc. Hoa phượng vỹ,
hoa vông đỏ rực. Hoa cúc dại tím mơ màng. Mấy nhánh hoa được sắp xếp một cách
đơn giản nhưng độc đáo. Không ngờ trông lù khù thế mà Phái có con mắt thẩm mỹ
thật là tinh tế.
Chiều xuống. Sau giờ cơm, Thiện bảo:
- Tối nay, tao sẽ cho mấy đứa bây thưởng thức một món đặc sản.
Bảo đảm không nhà hàng nào có thứ tuyệt chiêu này.
Thiện gom tất cả những thau chậu, mấy cái nắp xoong để đầy
trên bàn, trên mặt đất giữa nhà. Sau đó, anh đổ một ít nước vào đó. Bọn Huy,
Phái, Tiến... tò mò theo dõi Thiện. Họ đoán già đoán non mãi vẫn không nghĩ ra
anh định làm gì.
Chuẩn bị xong, Thiện xoa tay cười bí ẩn. Huy không nhịn được,
cất tiếng hỏi:
- Anh làm gì vậy? Sao bảo đãi tụi em một món, mà không thấy mồi,
cũng không thấy chuẩn bị bếp núc gì hết vậy. Mấy thau dĩa đựng nước này là
nghĩa làm sao?
- Ðừng có nóng ruột. Lính nghĩa là phải biết kiên nhẫn.- Thiện
vẫn khư khư giữ vẻ bí mật.
Những tay lính cũ như Già Hương, Quân, Ụ mối chắc từng biết rồi,
nhưng cũng chỉ cười cười không nói, làm bọn lính trẻ tức điên vì thắc mắc.
Bóng đêm đã nhạt nhòa ập xuống. Thiện bảo:
- Giờ tụi bây chạy qua bếp lấy thêm mấy cây đèn dầu qua đây.
Sau đó, Thiện đốt tất cả đèn gom được lên, đặt giữa những thau
nước. Anh hỏi Phái:
- Dầu ăn còn không Phái điển?
- Còn.
- Vậy là xong. Nửa tiếng nữa tụi bây có đồ nhắm.
Ðèn thắp lên không lâu, thì hàng đàn hàng lũ mối rừng đã rủ
nhau đến. Chúng bay vòng quanh ánh lửa, rồi rớt xuống, vùng vẫy loi ngoi trong
lớp nước. Những con mối ở đây rất to, bụng chúng tròn căng múp míp.
Huy trợn mắt hỏi Thiện:
- Anh không định nói là sẽ chế biến mấy con mối này chứ?
- Chứ còn con gì nữa. Sao mày thông minh mà chậm hiểu vậy
Huy! - Mợi nói.
- Ý trời!
Thiện khoanh tay trước ngực, cất giọng giảng giải:
- Những con mối, cào cào hay dế cơm...là thứ tráng miệng
thanh lịch nhất của những con người thanh lịch nhất đó, tụi bây có biết không!
Ðó là một nền "văn minh văn hóa ẩm-thực" vô cùng độc đáo của các dân
tộc vùng cao! Ðâu có phải tụi bây muốn là có được. Phải có mùa có vụ, có lúc có
nơi. Ví dụ, tụi bây ở thành phố, làm gì có những con mối mập ú chất lượng như vầy!
Khi số lượng mối bay vào đã giảm tới mức không đáng kể, Thiện
thổi tắt bớt, chỉ chừa lại một ngọn đèn. Anh gom tất cả "mồi" lại
trong một thau, rồi bảo Phái:
- Theo tao qua bếp.
Nhoáng sau, không đầy năm phút, họ đã quay trở lại. Trên tay
mỗi người là một cái dĩa đầy ú ụ nhũng con mối tròn quay, bóng mỡ. Một mùi thơm
ngậy tỏa ra thật quyến rũ mấy cái miệng phàm ăn.
Thiện bảo:
- Thôi, nhập tiệc. Tiếc là trà đã hết rồi. Nếu không, thưởng
thức xong món này mà uống trà thì thật là đúng sách đó.
Huy, Phái, Tiến... tròn mắt nhìn những người khác nhâm nhi mấy
con mối rang một cách ngon lành. Quân cười:
- Ðừng có sợ. Mấy con mối này sạch lắm. Tụi em cứ ăn thử xem.
Phái điển hơi ngại ngần nhón lấy một con đưa lên ngửi ngửi, rồi
chắc lưỡi:
- Thơm quá. Hấp dẫn quá! Thôi liều mạng thử xem.
Phái nhắm mắt, hả to mồm bỏ con mối vào. Mặt anh nhăn nhó như
uống phải thuốc sốt rét bị bóc vỏ ngoài, nó nhúm lại rồi giản ra ngay, cái miệng
nhóp nhép một cách vô cùng khoan khoái. Phái la lên:
- Hết xẩy! Tuyệt vời cú vọ! Nè, ăn đi Huy, Tiến. Ngon lắm.
Miệng nói, tay anh đã bốc thêm mấy con nữa bỏ vào mồm.
Huy bước tới, nhón một con. Anh nhai chậm rãi. Một vị beo
béo, ngầy ngậy như đậu phọng rang tan ra trên đầu lưỡi. Nhưng ngon hơn đậu rang
nhiều! Ăn một con rồi, miệng sẽ thòm thèm muốn ăn tiếp con thứ hai. Rồi con nữa.
Con nữa. Cứ thế, Huy tham gia tích cực vào cuộc khám phá "nền văn hóa ẩm
thực của dân tộc vùng cao" một cách rất là sốt sắng. Chả mấy chốc, bốn dĩa
mối rang đã bay vèo.
Ăn xong món mối rừng độc đáo, dường như mọi người có phần
hưng phấn hẳn lên. Phái điển đột nhiên đề nghị:
- Hôm nay, sao bỗng dưng tui thấy nôn nao trong lòng quá! Tui
sẽ kể cho mấy anh nghe một câu chuyện. Chuyện tình đầu của chính Phái điển này.
Mọi người vỗ tay hoan hô, cỗ vũ tinh thần tự nguyện cống hiến
vô cùng bất chợt của Phát. Huy vừa cười reo, vừa tự hỏi bằng con đường ngoắt
ngoéo nào, bằng mối dây liên tưởng cực kỳ tế nhị nào, mà từ những con mối rừng
rang béo ngậy lại dẫn đến cảm xúc tình yêu trong tâm hồn Phái điển. Nghĩ mãi,
cuối cùng Huy đành chịu không thể hình dung được, anh chỉ suy ra rằng trường hợp
của Phái điển là một ví dụ sinh động về khả năng liên tưởng phong phú, đa dạng
và phức tạp của con người.
Họ đem mấy chiếc chiếu ra trải ngoài sân, rồi ngồi xuống.
Trăng bán nguyệt đổ xuống một thứ ánh sáng bảng lảng mơ màng. Gió hè ru khe khẽ
trên những táng xoài. Không có trà, nhưng Phái cũng đã cất công đi hái lá hà thủ
ô về nấu nước. Khi mọi người đã ngồi yên chỗ, Phái cất giọng kể:
"Chính xác là mười tháng năm ngày trước khi nhập ngũ,
tui đã gặp nàng lần đầu tiên. Hồi đó, tui theo một ông cậu họ đi làm hồ lặt vặt
để kiếm tiền xài. Hai cậu cháu đang làm tại một căn nhà nằm trên đường Ðiện
Biên Phủ, gần Ngã bảy, đối diện với rạp hát Long Vân. Tui lãnh phần sơn các
cánh cửa sổ, cửa cái của ngôi nhà.
Một lần, trong khi đang sơn cái khung cửa sổ trên lầu một,
tui chợt trông thấy ở phía ngoài con hẻm bên dưới có một cô bé đi ngang. Cô bé
đó độ chừng mười bốn, mười lăm tuổi. Chắc chắn là cô ta chưa qua hết cấp hai,
vì trên cổ cô vẫn còn quàng chiếc khăn quàng đỏ. Còn tui lúc đó vừa qua mười
tám tuổi được vài ba tháng. Vừa nhìn thấy cô bé, tui biết sét ái tình đã giáng
cho tôi một đòn chí tử! Tui đứng chết trân, nhìn xuống dưới, dõi theo mãi đến
lúc cô ta đã bước vào một ngôi nhà gần đó. Tâm hồn tui đã bay lên trời, hoặc là
chìm xuống biển. Một cảm giác rất lạ lùng, trước đó tui chưa từng biết..."
Phái ngưng lời, rót một ít nước ra chén, đưa lên nốc một hơi
dài cạn chén. Rồi im lặng. Vẻ mặt Phái chợt sáng bừng, rạng rỡ, trông lạ hẳn
đi, và đẹp nữa! Một lúc sau, anh tiếp tục.
"Tui không rõ nàng đẹp hay xấu như thế nào theo nhận
xét người ngoại cuộc. Ngay từ lúc ấy cho đến bây giờ, tui không tài nào hình
dung được một cách rõ ràng gương mặt hình dáng của nàng. Chỉ biết là với tui,
nàng kỳ diệu như một công chúa nhỏ trong truyện cổ tích. Trong tưởng tượng của
tui, nàng là tất cả những gì đẹp đẽ và thiêng liêng nhất. Thật ra thì lúc ấy
nàng vẫn còn là một cô bé con miệng còn hôi sữa..."
Huy lại một lần nữa ngạc nhiên cực độ. Phái nói thật văn hoa
bóng bẩy và lôi cuốn. Một Phái thường ngày im ỉm bỗng dưng thoát xác, trở thành
một nhà thơ ca tụng một nàng con gái. Tình yêu đã tạo ra phép lạ!
"... Rồi mấy ngày sau, tui đến chỗ làm thật sớm, đứng ở đầu
ngõ chờ gặp nàng đi học ngang qua. Buổi trưa, tui chờ bên khung cửa sổ để được trông
thấy nàng đi học về. Tui chỉ gặp nàng mỗi ngày đôi lần ngắn ngủi, nhưng những
ngày đó là những ngày hạnh phúc nhất tui từng biết.
Tui phát hiện ra nàng có một thằng em, khoảng chín mười tuổi.
Tui bắt đầu vạch ra kế hoạch chinh phục thằng nhóc. Nó sẽ là cầu nối tình yêu
cho tui đến với nàng. Tui bắt chuyện, làm quen với nó. Tui phịa ra hàng loạt
câu chuyện phiên lưu mạo hiểm ly kỳ để kể cho nó nghe. Và tui mua cho nó nào cà
rem, nào kẹo bánh... Trong hai ngày, tui đã thân với nó hơn bất kỳ ai khác.
Nó kể về bà chị mình cho tui nghe. Nàng tên Thu. Nàng học lớp
chín. Và nàng rất dữ! Nàng chưa bao giờ tỏ ra là một bà chị dịu dàng với nó.
Nhưng đó là ý kiến riêng của nó! Dù cho nàng như thế nào, thì trong lòng tôi,
trong mắt tui, trong giấc mơ tui, nàng vẫn là cô công chúa số một trên đời.
Việc sửa chữa căn nhà đã sắp xong. Chỉ đôi ngày nữa là tui phải
theo ông cậu đi làm ở một nơi khác, hoặc là lại trở thành một tên thất nghiệp.
Tui quyết định phải gặp gỡ nàng trước khi phải xa nàng không biết bao giờ gặp lại.
Tui suy nghĩ. Tui lục lại mớ truyện tình cảm tâm lý xã hội của bà chị ở nhà, để
tìm một giải pháp tối ưu. Nhưng cái mớ tiểu thuyết ấy chỉ rặt những cuộc gặp gỡ
đầy gượng ép theo ý đồ tác giả. Tui thất vọng quá, chẳng biết phải làm gì.
Ngày làm việc cuối cùng đã đến. Tui thu dọn mấy thứ dụng cụ
làm việc, lau sạch mấy vệt sơn trên nền gạch, chỉ khoảng hơn một tiếng là xong
hết. Không còn việc gì để làm nữa, tui lại ngồi nghĩ cách gặp nàng. Ðột nhiên
tui nảy ra một ý. Tui tìm thằng nhóc.
May cho tui, hôm ấy là Thứ Năm, nó được nghỉ học. Tui đứng
ngóng trước cửa một hồi thì thấy nó lững thững đi ra. Tui vẫy nó. Nó chạy đến,
cười toe toét:
- Anh Sơn! (Vì lúc đó, tui làm thợ sơn, nên nó kêu bừa như vậy)
- Nè nhóc, mày vào nhà lấy cho anh một tờ giấy đôi với một
cây bút. Lẹ lẹ nghe hôn!
- Chi vậy anh? - Nó thắc mắc, rồi tự giải đáp ngay (Phải
công nhận là nó, thằng em vợ tương lai của tui, khá thông minh. Nàng có thông
minh hơn nó không? Tui cầu trời là không!)
- A! Anh tính viết thư cho chị Thu phải không!
- Cho là vậy đi. Mày đi lấy mau lên.
Nó mang ra cho tôi một tờ giấy. Tui hỏi:
- Còn viết đâu?
- Viết em mới bị rớt xuống đất cong ngòi rồi.
- Trời đất! Sao mày khờ quá vậy. Kiếm cây khác!
- Em chỉ có một cây hà. Của chị Thu em không dám lấy. Chỉ
nhéo đau lắm!
Tui vò đầu chán nản nhìn thằng nhóc.
- Thế có bút chì không? - Tui hỏi
- Có.
- Vậy thì lấy bút chì. Ði đi!
Hơi trục trặc như vậy, nhưng cuối cùng tui cũng viết xong lá
thư tỏ tình đầu tiên trong đời mình. Nó thật là quái chiêu. Có lẽ đó là một lá
thư tỏ tình có một không hai từ trước đến nay, và cả vài trăm năm sau nữa! Một
lá thư tình viết bằng bút chì! Và chỉ có vẻn vẹn bốn câu thơ, với hình vẽ nguệch
ngoạc một cái miệng đang cười, nhe ra một hàm răng sún!
Bốn câu thơ là do tui đọc được đâu đó trong mấy quyển lưu bút
của bọn bạn gái cùng lớp. Nó như vầy:
Chân có bằng lòng cho chân theo với?
Tóc có bằng lòng cho một sợi thôi?
Mắt có bằng lòng trông nghiêng chờ đợi?
Tim có bằng lòng giữ hộ tình tôi?
Còn cái miệng cười là "tác phẩm" của chính tui! Tui
cũng không biết tại sao mình lại vẽ như vậy nữa. Có lẽ là bốn câu thơ có vẻ nhỏ
nhoi ít ỏi quá trong cả một tờ giấy đôi.
Dù sao thì tui cũng rất hài lòng và đắc ý với lá thư độc đáo
của mình. Tui xếp tờ giấy lại làm tư, đưa cho thằng nhóc, dặn dò:
- Trưa nay Thu đi học về, mày đưa cho nó! Chờ nó đọc xong,
nghe coi nó nói gì. Nhìn xem nó có thái độ ra sao. Sau đó ra báo cáo tao ngay
nhe.
Chưa thật sự an tâm, tui động viên thêm:
- Cố gắng đi. Xong việc, tao sẽ chở mày đi Sở thú xem mấy con
khỉ đột làm trò. Và đãi mày một chầu kem ba màu ngon hết xảy luôn!
Từ lúc đó, tui hồi hộp chờ tin. Tui mua một khúc bánh mì, ngồi
gặm ngay tại khung cửa tình yêu, không rời mắt khỏi cánh cửa nhà nàng.
Mười hai giờ kém mười, nàng đi học về ngang.
Mười hai giờ kém năm. Cửa nhà nàng mở toang đột ngột.
Một bà xồn xồn bước ra. Tay bà lôi xềnh xệch thằng nhóc
"em vợ tương lai của anh Sơn!" Bà gầm lên:
- Chỉ cho tao thằng Sơn là thằng nào! Ðồ trời đánh! Con người
ta còn con nít mà nó đã bày đặt dụ dỗ rủ rê rồi!...
Có lẽ bà ta còn chửi rất nhiều, nhưng tui không kịp nghe thấy
nữa. Tui phóng xuống thang lầu, chạy vù ra cửa, nhảy lên chiếc xe đạp, mặt mày
xanh lét. Ông cậu tui đang ngồi trước sân ngạc nhiên hỏi:
- Mày đi đâu vậy, chờ chút xíu tao nhận tiền công rồi về
luôn.
Tui lắc đầu:
- Con về trước. Có việc gấp!
Tui đạp xa căn nhà mấy trăm mét rồi vẫn chưa kịp hoàn hồn,
tim vẫn còn nhảy lam-ba-đa trong lồng ngực.
Hôm sau, tui lò dò đến Ngã Bảy. Tui không dám mò tới gần nhà,
mà đứng ở cách đầu hẻm chừng mười mét, chờ mong một cách tuyệt vọng thằng em vợ
hụt của mình.
Cuối cùng, tui cũng tóm được nó. Tui trợn mắt hỏi:
- Mày làm sao mà như vậy hả, thằng ôn con?
Nó nhăn mặt:
- Ðâu phải tại em! Em chờ chị Thu vừa về tới, là mang thư anh
đưa chỉ ngay. Nhưng em mới móc trong túi ra lá thư thì bà cô em nhìn thấy. Bả hỏi
cái gì. Rồi bả tới giật lấy mở ra xem. Rồi bả chửi um xùm. Em còn bị quất mất
cái vô mông đau điếng nữa đó!
Tui muốn ngất đi. Vậy là Thu của tui vẫn chưa kịp đọc lá thư.
Tui cố lấy bình tỉnh hỏi nó:
- Rồi sau đó, Thu có hỏi mày gì không?
- Chỉ cứ lêu lêu chọc em là bị đòn đáng đời lắm!
- Trời! - Tui chỉ còn biết kêu lên."
Phát ngước lên, nhìn về phía vầng trăng, kết luận:
- Chuyện tình đầu của tui vậy đó. Tui đã thất bại một cách
thê thảm ngay từ vòng loại... và chuyện thì chả có gì, thế mà tui cứ nhớ mãi
không quên. Không biết giờ đây nàng có lớn thêm được tí nào không, cô công
chúa nhỏ!
Mọi người im lặng. Họ xúc động vì sự giản dị, ngây ngô của
câu chuyện. Một chuyện tình thật lạ lùng, không đầu không đũa, không có cả một
kết thúc đúng nghĩa. Nhưng vẫn đúng là một chuyện tình. Và rất dễ thương.
Phát nói thêm sau một hồi trầm ngâm:
- Sau đó, tui không bao giờ trở lại nơi đó nữa. Tui muốn giữ
mãi trong lòng hình ảnh không thể nào phai nhòa được về một cô bé ngây thơ.
Câu chuyện của Phái làm cho mỗi người chợt nhớ tới những kỷ
niệm của riêng mình. Họ ngồi nghiêng người sát bên nhau dưới ánh trăng giờ đây
nhuộm khắp không gian một màu sữa đục. Ánh trăng chở họ về miền thơ dại xa xôi,
nơi có dòng sông xanh biếc, có những đám cỏ may êm ái ven bờ, có mây trắng bềnh
bồng và tiếng sáo ru dìu dặt.
Sáng hôm sau, khi đã làm xong một vài việc lặt vặt, Huy ngồi
viết thư. Anh định viết để sẵn đó rồi có dịp sẽ gửi về nhà. Sáng nay trời đẹp;
và lòng Huy chợt rộn ràng xao động một niềm vui rất lạ.
Ðêm qua, Huy đã mơ những giấc mơ đẹp đẽ. Những giấc mơ không
đầu không cuối, tràn ngập những màu sắc ảnh tượng kỳ diệu lung linh. Mọi người
quen lúc ban ngày trong mơ đều xinh đẹp và hạnh phúc. Huy mang máng nhớ hình
như đã gặp một cô gái trẻ có đôi mắt nâu ngơ ngác và một mái tóc rối xỏa như
mây, giấc mơ bảo Huy đó chính là Thu. Và một con tàu có cánh buồm đỏ thắm, Huy
đột nhiên trở thành thuyền trưởng của con tàu đó. Và một sa mạc lạ lùng với những
giải cát trong suốt màu lam, trên mọc đầy hoa mua tím biếc. Rồi chợt có một đám
tiệc gì đó rất tưng bừng vui vẻ, với những dây đèn hoa giăng kín và những dây
pháo đỏ dài thòng tới đất. Ðang khi hớn hở nhìn dây pháo đỏ nổ tạch đùng thì
Huy chợt giật mình thức giấc. Anh mở mắt ra và bắt gặp Tiến đang gõ khe khẽ vào
thanh ngang đầu giường đánh thức mình để bàn giao ca gác.
Huy viết một mạch không ngừng hai trang giấy khổ to. Viết
xong, anh chậm rãi đọc lại, gật gù với vẻ hài lòng. Anh cất lá thư, rồi bước ra
ngoài.
Mặt trời đã lên cao. Nắng vàng mênh mông và ấm áp. Cây cối
xanh rì run rẩy xôn xao trong ánh nắng. Hình như không khí mùa xuân vẫn còn
vương lại. Huy chợt nhớ ra hôm qua Ụ Mối có bảo bốn ngày nữa là mười lăm tháng
Tư, ngày tết Chol S'nam Thmei - tết cổ truyền của dân tộc Khmer. Ụ Mối đã trải
qua một cái tết này rồi. Huy bỗng thấy nôn nóng muốn ra phum để xem những người
dân chuẩn bị ăn tết. Ắt hẳn là có nhiều điều thú vị, Huy thầm nghĩ.
Một con quạ đậu trên đỉnh cây giá tỵ đằng xa chợt kêu lên mấy
tiếng, rồi nó vỗ cánh bay về hướng bắc phum, chắc hẳn có ai đang mỗ heo bò gì
ngoài đó. Huy dõi theo những nhịp cánh chầm chậm khoan thai của nó, chợt anh nhớ
tới những bài thơ của Quân. Những bài thơ nói lên một sự kiếm tìm điều tuyệt đối.
Ðiều tuyệt đối ấy như gần gụi trong gang tấc mà lại xa xôi vời vợi. Nó gợi lên
một niềm khao khát sống- sống trọn vẹn, tròn đầy, viên mãn. Và vì rốt cuộc đó vẫn
chỉ là niềm khao khát, nó gợi lên một nỗi buồn thật vĩ đại, mênh mang, một nỗi
buồn vượt lên trên những lo âu, phiền muộn, đau khổ nhỏ nhoi hèn mọn của cuộc đời
thường nhật, của những kiếp phận lẽ loi đơn độc, hướng về nơi cao rộng, tự do,
chan hòa ánh sáng. Y như giờ đây, khi Huy nhìn theo bóng con quạ đang xoãy rộng
đôi cánh lượn lờ giữa trời cao xanh thẳm, lòng Huy cũng mênh mang một nỗi buồn
nhớ khát khao. Quân làm thơ không nhiều. Cuốn sổ tay anh đưa Huy mượn nhỏ cỡ nửa
quyển vở học trò, dày chừng một trăm trang mà đã bị xé đi gần nửa. Tổng cộng chỉ
độ chục bài thơ. Có bài dài mấy chục câu, có bài chỉ vỏn vẹn bốn câu tứ tuyệt.
Nhưng thật sự đó là những tuyệt tác, nếu như Huy tự coi mình cũng hiểu biết
chút gì đó về thơ! Ở chúng có một sức mạnh khác thường, ở chúng hình thức và nội
dung kết hợp với nhau, quyện chặt vào nhau để tạo nên vẽ đẹp, nói lên những điều
to tát, mà không hề có chút khoa trương hay màu mè giã tạo. Những từ đơn lẽ là
những từ đơn giản và quen thuộc. Thế nhưng khi chúng nằm cạnh nhau trong các
bài thơ của Quân, được sắp xếp theo một trật tự lạ lùng nào đó, dường như có một
phép màu đã thay hình đổi dạng chúng đi. Như trong chuyện Cô bé lọ lem, một bà
tiên lành đã vung chiếc đũa thần biến mấy con chuột và quả bí ngô thành một cổ
xe tứ mã lộng lẫy huy hoàng, những từ chợt như sống dậy, lao xao, cựa quậy,
mang những ý nghĩa mới mẻ, gợi lên trăm ngàn âm thanh, màu sắc, ảnh tượng kỳ hoặc
lạ thường. Huy bàng hoàng khi đọc chúng lần đầu, và vẫn bàng hoàng hệt như vậy,
còn hơn nữa, khi đọc lại lần thứ hai, thứ ba... Qua chúng, tình yêu, khát khao,
ước vọng... nói chung là toàn bộ cuộc sống, với những sự thật trong suốt và đơn
giản không ngờ, đã phà hơi thở vào những mẫu tự khô khan, đông cứng. Huy hỗ thẹn
khi nghĩ tới những bài thơ của mình. (Vậy mới chính là thơ chứ! Thơ thẩn gì
mày, hả Huy, từ nay thôi hết bày đặt nghe chưa!)
Huy còn đang đứng nghĩ lan man, thì một bàn tay bóp nhẹ vai
anh. Huy quay lại. Là Quân. Quân nói:
- Huy muốn đi dự đám cưới không?
- Hả! Ðám cưới? - Huy ngạc nhiên - Ðám cưới ai vậy anh?
- Một người quen. Họ mời anh và Già Hương, nhưng Già Hương
đang bị sốt. Ði với anh cho vui, Huy ạ.
- Ði chứ anh. Em đang muốn ra phum đây. Tết của dân có vui
không anh Quân?
- Cũng khá vui. Giống như ở miền quê bên mình. Họ cũng nấu
bánh tét, bánh ít, rồi tổ chức nhảy lăm thôn, chơi ném khăn, hát a-dây, đá
gà...
- Hát a-dây là sao anh?
- Nó là một kiểu hát đối đáp qua lại giữa nam và nữ, giống kiểu
hò đối đáp Nam bộ của mình.
- Chà, hay quá! Ðến ngày đó, mình có vào phum chơi được không
anh Quân?
- Ðược chứ. Thôi chúng ta đi. Giờ này có lẽ họ đang làm lễ.
Dàn nhạc đang tấu một điệu khúc lễ nhạc réo rắc vui vui khi
hai người tới ngôi nhà. Trong khoảng sân rộng quanh nhà, rải rác những cô gái
trẻ trong những bộ áo váy xa-rông đủ màu phấp phới. Gió nhẹ và thơm. Nắng tươi
như mật tràn xuống cây lá, phủ lên mái tranh trắng bạc một màu vàng sánh. Một
người đàn ông trông thấy họ, bước tới mỉm cười chào. Anh ta nói với Quân điều
gì đó, rồi lại mỉm cười nghiêng đầu chào cả hai, bước vội vào phía sau. Huy hỏi:
- Anh ta nói gì vậy anh Quân?
- Anh ta bảo chúng ta đứng chờ giây lát.
Huy gật đầu. Anh kéo tay Quân bước lên phía trước, xen vào
hàng người đang đứng vây thành một vòng tròn trước thang gác căn nhà. Quân bảo:
- Họ đang làm lễ "chon đai", nghĩa là cột tay. Người
ta dùng một cái khăn cột tượng trưng tay cô dâu chú rễ với nhau. Sau đó cả hai
dắt nhau lên nhà, bái lạy cha mẹ họ hàng. Ðiều này có ý nghĩa như một sự ràng
buộc cả hai mãi mãi, giống như chỉ hồng se duyên vậy.
Huy thích thú nghe Quân giảng giải. Chợt đám đông giãn ra, cô
dâu, chú rễ đã tới. Hai cổ tay của họ nối với nhau bằng một giải lụa vàng thêu
kim tuyến. Chú rễ chỉ đơn giản với chiếc quần tây, áo sơ mi. Trái lại, cô dâu
trông thật lộng lẫy trong chiếc xa-rông Thái duyên dáng. Phía trên thân là một
kiểu áo thật lạ, giống như chiếc áo của nàng vũ nữ trên bao thuốc lá Apsara, với
thật nhiều nếp viền đăng ten và kim tuyến đủ màu óng ánh. Vai cô dâu còn choàng
thêm một giải lụa hồng. Trên ngực của cả hai là một bông hoa vải đỏ với nhiều
tua chỉ ngũ sắc phất phơ. Trông cả hai người đều trẻ trung và xinh đẹp.
Họ dắt nhau lên thang, bước vào nhà. Huy chẳng thấy gì được nữa
vì nhiều người đã đứng quanh trước cửa. Huy nhìn quanh quẩn. Ngoài sân, bàn ghế
đã được kê sẵn dưới những tàng cây. Nhìn chung, mọi cái đều tương tự một đám cưới
làng quê Việt Nam, trừ một vài phong tục lễ nghi đặc biệt. Huy chợt thấy nhồn
nhột sau gáy, như thể sau lưng đang có ai đó lén nhìn anh. Huy quay lại: Một
đôi mắt đen láy đang chằm chặp hướng về phía Huy với vẻ tò mò và thiện cảm. Một
cô gái, nói đúng hơn, là một cô bé xinh xinh, nhỏ nhắn. Chiếc áo trắng cô mặc
càng làm nổi bật nước da ngăm đen, nhưng trông cô thật là duyên dáng. Huy mỉm
cười với cô. Cô bé cũng rụt rè nở nụ cười đáp trả. Rồi cô chợt e thẹn cúi đầu.
Huy vẫn dán mắt vào cô bé. Giây lát, cô ngẩng mặt lên, thoáng liếc qua Huy,
nhưng khi vừa bắt gặp đôi mắt của anh, cô lại bối rối nghiêng người quay lưng
đi nhanh ra đầu ngõ.
Huy nhìn theo cô bé, thấy vui vui là lạ. Lát sau, Huy quay lại,
hướng về đám thanh niên nam nữ đứng cười nói trước sân. Các cô gái da ngăm mặt
dầy phấn trắng, cong cớn môi son, đang uốn éo làm duyên trước mấy chàng thanh
niên giương vây tán tỉnh. Nét mặt ai cũng tươi hơn hớn, như thể là đám cưới của
chính họ không bằng. Tiếng cười nói khi lặng lại, khi òa vỡ xôn xao. Dường như
không khí tràn ngập những phân tử vô hình đang va đập, chuyển động không ngừng.
Ánh mắt Huy chợt dừng lại ở một chiếc áo xanh - Sa Piên! Cô đứng nghiêng người
bên chân thang ngó lên nhà, mái tóc mềm mại lõa xõa bay trong gió. Trông cô thật
là khả ái. Huy kéo tay Quân.
- Anh Quân! Bồ của anh Lý kìa!
Quân không đáp. Mặt anh trầm ngâm như đang suy nghĩ một việc
gì quan trọng. Ðôi mắt anh lạc đâu đó về một chốn xa xôi. Huy thôi không quấy rối
Quân, anh quay lại nhìn Sa Piên ngưỡng mộ. Vẻ đẹp bao giờ cũng làm Huy thán phục
và kinh ngạc: vẻ đẹp của một cành khô chơ vơ đơn độc, của một chùm hoa cúc dại
nằm lặng lẽ giữa một bờ cỏ ven sông, của một chiều giông với những cụm mây xám
nặng và sấm chớp kinh hồn, của núi ngàn hùng vĩ tím mờ dần một buổi hoàng hôn
muộn... Mỗi thứ đều làm Huy ngây ngất say sưa hay ngợp đi trong niềm kính ngưỡng.
Nhưng vẻ đẹp cao quí, thanh khiết và bí ẩn của người phụ nữ còn mạnh mẽ hơn, đầy
quyền lực. Nó làm Huy trong một khoảnh khắc nghe tim mình thắt lại, và một nỗi
buồn mênh mang không rõ chợt dâng lên. Trong khoảnh khắc, nỗi buồn như có tự
ngàn xưa - nỗi buồn hẳn đã từng đè nặng xuống tâm hồn bao nhiêu tổ tiên man rợ
xa xôi - khắc khoải vọng về như tiếng chuông ngân rền rĩ âm u một chiều đông muộn.
Ở Sa Piên có một vẻ đẹp ảo huyền như vậy, Huy nhìn cô đăm đăm không chớp mắt. Một
lúc sau, Sa Piên đi lẫn vào phía sau nhà.
Khoảng nửa giờ sau, lễ đã tiến hành xong, mọi người ngồi vào
bàn ăn uống. Quân nói cười vui vẻ với các quan khách trong khi Huy chỉ biết ngồi
ngây ra. Chả nói chuyện được gì, Huy chỉ còn biết thể hiện sự nhiệt tình của
mình bằng cách uống rượu. Anh cụng chén với họ, mỉm cười với họ và dùng đôi
tay, nét mặt để diễn tả niềm vui.
Uống được vài lượt, Huy đã thấy lâng lâng, anh hào hứng bảo
Quân:
- Dân họ tốt bụng và chất phác quá anh Quân nhỉ?
- Ða số đều như vậy.
- Vậy mà trong đơn vị có người lại không ưa dân. Mấy ổng nói
họ chỉ vờ vịt thế thôi, chứ toàn là dân địch không thôi. Nhà nào cũng có con
cái, họ hàng theo Polpot, làm sao mà ưa chú đội tụi mình được. Ví dụ như ông
Thiện nhà mình đó, ổng làm như dân là kẻ thù không bằng, lúc nào cũng nghi ngờ,
ác cảm.
- Họ là những người nông dân chân chất. Họ thấy chúng ta
thành thật và tốt, thì họ sẽ tốt lại với chúng ta. Còn anh em mình cũng có người
vầy người khác. Có người chân thành yêu mến dân, có người chỉ giao du để lợi dụng,
cũng có người coi dân Campuchia là thấp hèn, ngu dốt, đầu óc mấy người này đầy
thành kiến phân biệt về dân tộc, màu da, dù là ta với người Khmer cũng cùng một
giống da vàng mũi tẹt mà thôi. Dù sao, đó là quan điểm, là bản tính mỗi người.
Họ cũng có cái lý riêng của mình Huy à.
- Em nghĩ bất kỳ là ai cũng vậy, là người thuộc dân tộc, quốc
gia nào đi nữa, nếu người khác tốt và cảm thông với anh ta, hẳn nhiên anh ta sẽ
phải đối đãi với họ y hệt vậy thôi. Ta cứ cư xử tốt bụng, chân thành với mọi
người chẳng hay hơn sao anh Quân?
- Nói thì đơn giản vậy! Nhưng sự thực lại không dễ đâu Huy.
Em nghĩ thế thì rất tốt. Nhưng nhiều khi ta làm điều tốt mà chỉ chuốc những khổ
đau, chuốc lấy ác cảm và sự hiểu lầm...
Một thanh niên trẻ bước tới nhe răng cười chào Quân và Huy.
Anh ta chỉ vào Huy hỏi:
- Smuo ei?
Câu hỏi này Huy biết. Nó có nghĩa là "tên gì vậy?".
Huy cười trả lời:
- Huy!
Anh ta chỉ vào ngực mình:
- Su Smak!
Huy chìa tay ra bắt tay Smak. Quân nói:
- Smak vui tính lắm Huy. Nó là người dạy anh cách quăng chài
đó. Nó chài cá giỏi nhất phum này.
Smak nhìn Huy nói một tràng dài. Huy lắc đầu. Quân lại phải
diễn dịch:
- Nó bảo hôm nào em theo anh ra nhà nó chơi. Nó sẽ cho em xem
con gà đá của nó. Ðây là con gà đá vô địch trong xã Punley. Nếu em thích chơi
gà đá, nó sẽ cho em một cặp gà con giống mang về nuôi.
Huy gật đầu lia lịa, giờ thì anh có thể tự mình nói được một
cái gì đó bằng tiếng Khmer:
- O cuun chờ rờn, Smak! (Cám ơn nhiều, Smak!)
S'mak chợt kéo vai Huy, bằng một cái giật mạnh xoay người anh
lại. Ðám thanh niên đang gom thành một vòng tròn rộng giữa sân. Ðiệu nhạc chuyển
sang giai điệu mới, hối hả và thôi thúc. S'mak giơ một tay lên giữa ngực, uốn
éo thân người:
- Ruom vôông! - Anh ta vừa nói vừa lôi Huy đứng dậy.
Men rượu đã bốc lên, Huy không e dè bước ra chen vào giữa đám
đông. Anh đưa mắt lướt qua những cô gái đang bụm miệng cười khúc khích. Cái
nhìn dừng lại ở một mái tóc và dáng vóc quen quen: Cô bé lúc nãy đang nghiêng
người nói cười gì đó với một cô gái khác. Huy đi nhanh tới chỗ cô. Vừa quay lại,
cô bé giật mình khi thấy Huy đã đứng lù lù trước mặt. Cô hoảng hốt lùi lại một
bước, đôi mắt tròn xoe nhìn Huy không chớp. Huy toét miệng cười, tay chỉ vào giữa
vòng nhảy:
- Ruôm?... với kh'nhum! 1
Cô bé lắc đầu. Người bạn lớn tuổi hơn đẩy khẽ vào vai cô như
khuyến khích. Cô nhìn thật nhanh vào mặt Huy, và bỏ chạy. Sau lưng cô, một chuỗi
cười rớt lại, như tiếng va chạm lanh canh trong vắt của những chiếc chuông bạc
nhỏ xíu. Huy kêu lên:
- Ðừng có chạy, bé ơi. Ðứng lại đi mà...
Huy dợm chân định chạy theo cô, nhưng vai anh đã bị một bàn
tay khẽ lôi trở lại. Quân. Anh cười khẽ, nói nhỏ vào tai Huy:
- Em nói tiếng Việt, nó có hiểu gì đâu chứ. Thôi, ta tới ngồi
chơi tí nữa rồi về.
Hai anh em quay lại bàn, uống thêm vài chung rượu nữa rồi
chào từ giả mọi người. Huy bước chập chờn lơ lững như thể đang đi trên một lớp
bông êm nhũn, một nỗi niềm không rõ cứ xôn xao. Nỗi xúc động ngọt ngào vì một
người con gái? Hay là niềm vui được giao tiếp, có bạn bè, thân hữu ở một nơi xứ
lạ quê người?.
Chú thích:
1. Anh bộ đội Viêt Nam
2. Việt Nam-Campuchia đoàn kết!
3. Mạnh khỏe nhiều anh em bộ đội nhé!
4. VN-Campuchia đoàn kết, ăn bò hoóc khỏe mạnh, đi xa nhớ bò
hoóc!
5. Em gái ơi, có yêu anh không? Anh yêu em lắm!
6. Một loại hình hát tuồng của Campuchia
1. Nhảy?...với tôi!
Chương
7
Xung quanh những căn nhà, hoa màu trung đội trồng đã xanh um
mơn mởn. Những ngọn rau muống và cải củ ngóc đầu vươn ra đón nắng. Ở bên hông mỗi
nhà, mấy giàn mướp, bầu bí đã trổ hoa trắng hoa vàng. Trong ánh nắng mai, lũ bướm
bay rập rờn quanh giàn tìm hút mật. Những con đường mòn nối các nhà trung đội
và dẫn lên tiểu đoàn đã được dọn sạch cỏ và đắp cao lên, trông xa như những đường
chỉ vàng nhạt ngoằn ngoèo đan nổi trên thảm cỏ dày xanh.
Quân đứng bên giàn mướp săm soi mấy chiếc lá tìm bắt sâu. Anh
vuốt nhẹ những chiếc lá non, nét mặt hiền hòa có vẻ rất vui.
Gần đó, Huy đang ngồi thong thả nhổ những túm cỏ dại mọc lô
xô giữa luống rau. Anh ngẩng đầu bảo Quân:
- Chiều nay em sẽ ra phum xin thêm mấy gánh phân chuồng về
bón. Rau mọc nhanh ghê há anh Quân.
Huy đã được nếm trải cảm giác êm đềm khi nhìn những thứ rau
màu lớn lên từng ngày một. Lúc mấy giàn bầu bí vừa nhú ra những nụ hoa nhỏ xíu
đầu tiên, Huy mừng như bắt được vàng. Anh vừa luôn miệng nghêu ngao những câu
hát trẻ con: Tiá em hừng đông đi cày bừa, má em hừng đông đi cày bừa. Tiá em là
một người nông dân, má em là một người nông dân... vừa kê mũi sát vào những nụ
hoa hít lấy hít để, xem chúng có thơm không.
Huy tò mò theo dõi những nụ hoa ấy từng ngày, từ khi chúng
còn là một chiếc nụ bé xíu, xanh xanh, cho đến khi những cánh hoa rửa tàn đi,
và phần cuối cuống hoa hơi phinh phính to ra, lớn dần lên, trở thành một trái bầu,
trái mướp tí hon.
Huy vui sướng nhìn những luống rau rậm rạp, dày lên thấy rõ
sau mỗi ngày, sau từng cơn mưa hạ.
Những gánh nước tưới hàng ngày; những gánh phân rác, phân chuồng
chăm bón; những giọt mồ hôi đầm đìa rơi trên luống đất; tất cả đã kết thành lá
xanh trái ngọt. Bọn rau trái đã được chăm sóc nâng niu bằng những yêu thương,
giờ sắp đền trả bao công lao đó của Huy và đồng đội. Niềm vui, niềm hạnh phúc
xem ra thật giản dị, bình thường!
Huy liên tưởng tới niềm vui của những bà mẹ khi sinh nở, Huy
hình dung tới niềm hạnh phúc của nhà nghệ sĩ khi sáng tạo, và Huy nghĩ - làm
cho sinh sôi, nảy nở dù chỉ một ngọn rau, gốc bí, về bản chất đều giống như
công việc của những bà mẹ, những nhà sáng tạo nghệ thuật kia. Ðó là niềm hạnh
phúc được trở thành một thượng đế bé nhỏ, được trở thành người tạo ra sự sống
và cái đẹp.
Quân chợt lên tiếng:
- Hôm qua me Sa Rinh vừa mang vào cho anh mớ hạt giống đậu
đũa. Chiều nay chúng ta sẽ đánh mấy luống để gieo đậu.
- Me Sa Rinh là bà già của Sa Piên đó phải hôn anh?
- Ừ! - Quân đáp gọn.
Huy trầm trồ:
- Sa Piên đẹp ghê anh há. Lần em gặp cô ấy buổi tối, trông đã
đẹp rồi. Nhưng hôm mình ra phum ăn đám cưới, nhìn gần ban ngày trông cô ấy càng
đẹp mê hồn. Anh Lý với Sa Piên thật xứng đôi!
- Ừ, họ rất xứng đôi - Quân đáp. Giọng anh có chút gì hơi
khác lạ, nhưng Huy vô tình không để ý.
- Sao em ít thấy anh Quân ra phum chơi vậy?
- Anh lười đi quá, với lại anh bận bịu suốt Huy thấy không...
- Nhưng thỉnh thoảng cũng phải đi chơi giải khuây chứ anh. Ở
nhà hoài buồn thấy mồ. Anh Quân này, em biết được nhiều tiếng K rồi
nghe...Nhưng toàn mấy câu tán gái không hà, đâu có nói chuyện với người già hay
con nít được. Anh Quân dạy thêm cho em với.
- Chút nữa anh sẽ cho Huy cuốn Tự học tiếng Khmer.
- Ủa, có cuốn sách đó hả anh! Trời, vậy là hay quá! - Huy mừng
cuống lên.
- Một thằng bạn trên Trung đoàn cho anh khá lâu rồi. Nhưng
anh cũng ít khi đọc đến. Chủ yếu là anh học từ dân. Huy cứ nói chuyện nhiều với
dân là tự khắc sẽ nói giỏi. Dĩ nhiên cũng phải có một số vốn cơ bản trước. Cuốn
này đọc dễ hiểu lắm.
Ụ Mối lững thững đi tới, trên vai là con Chíp đang hót chí
chóe có vẻ rất cao hứng. Huy chúm môi huýt vài tiếng ngắn, con sáo bay vù tới đậu
lên cánh tay Huy vừa giơ ra. Nó quẹt quẹt cái mỏ vào tay Huy, kêu líu nhíu như
chào mừng, hỏi han sức khỏe của anh. Huy bảo Ụ Mối:
- Ụ Mối, đố ông con Chíp biết tán gái bằng tiếng K không?
- Mình đâu có dạy nó, mà cũng chưa nghe nó nói, ông đã dạy nó
câu gì rồi vậy?
- Bây giờ nó không nói đâu, phải gặp đúng đối tượng nó mới
phát biểu. Chiều nay đám con gái vào giếng gánh nước ông sẽ biết.
Hồi mới về dựng cứ, anh em đã đào một cái giếng khá sâu kế
bên nhà bếp. Nó nằm đúng ngay một mạch nước ngầm lớn nên nước nhiều và cũng khá
trong. Dân ở mấy căn nhà gần đội hình trung đội hay vào xin gánh nước, vì từ chỗ
họ ra tới hồ nước của phum đường xa gấp mấy lần, mà nước lại không ngọt bằng.
Trong đám này, Huy vui mừng nhận ra có cả cô bé đã gặp hôm
đám cưới. Anh đã ngầm dạy con Chíp mấy câu với ý đồ nhờ nó trêu ghẹo cô gái
thay mình. Anh huấn luyện nó bằng cách đợi mỗi khi cô gái đang kéo nước, anh vừa
nhử nhử trước mặt nó một con cào cào mập ú, vừa lẩm nhẩm mấy câu nói, vừa chỉ về
phía cô gái. Cô bé cũng đã phát hiện ra thái độ khả nghi của Huy, nhưng cô
không dám nhìn thẳng vào anh, chỉ thỉnh thoảng len lén đưa mắt liếc qua, rồi lại
cúi gầm mặt thẹn thùng, trông càng dễ thương hơn. Huy biết cô bé kể cũng đã
lâu, nhưng anh vẫn chưa dám nói với cô một câu nào, trừ việc mượn hơi rượu làm
càn hôm đó. Thì ra Huy cũng thuộc loại thỏ đế! Vừa đến gần một cô gái lạ, tim
anh đã đánh trống liên hồi, mặt mũi đã đỏ bừng như gấc chín.
Quân chợt đăm đăm nhìn Huy một lúc lâu. Anh nói:
- Lát nữa em kêu đứa nào cắt tóc cho nghe Huy. Tóc em đã dài
quá xá rồi đó.
Huy nhăn mặt, le lưỡi nhìn Ụ Mối. Không biết vì lẽ gì từ nhỏ
Huy đã rất ngại việc hớt tóc, nên dù thật sự không thích để tóc dài, nếu không
có sự ép buộc thì Huy chẳng bao giờ muốn hớt tóc. Từ hồi sang đây, Huy khoái nhất
là chuyện tóc tai. Lính chiến ở đây dù sao cũng có phần tự do, thoải mái hơn. Nếu
không muốn cắt tóc thì cứ né tới né lui, kiếm cớ tránh khỏi những dịp đó là
thoát nợ. Huy đã né được mấy đợt hớt tóc rồi, nên mái tóc anh trông thật là
kinh dị. Ðến nỗi Mợi lác phải kêu lên: "Tóc đỏ quạch như râu bắp mà cũng
ham để cho dài! Cắt tóc đi Huy! Nhìn cái đầu mày tao thấy chướng quá". Giờ
thì chính Quân đã lên tiếng rồi. Căng quá! Huy giả vờ gọi con Chíp rồi đánh bài
chuồn ra chỗ khác. Anh nghĩ bụng: "Kệ! Cứ kéo dài được ngày nào hay ngày
đó"
Chiều hôm ấy, Huy không thể né được cái chuyện mà anh rất ngại
ngùng đó nữa. Vào khoảng hai giờ chiều, tiểu đoàn trưởng Văn xuống đại đội 13 về,
đi ngang trung đội, anh gặp Huy đang đứng trước cửa chỉ trỏ, dợt lại ngón nghề
tán tỉnh cho con Chíp. Anh trợn mắt:
- Ðây có phải là đồng chí Huy của chúng ta không! Hay là một
tên thổ phỉ nào đi lạc vào đây vậy! Lại đây, lại đây Huy! Ði lên tiểu đoàn với
anh. Anh sẽ hớt tóc cho em. Anh vừa kiếm được một cái tông đơ!
Huy kêu khổ thầm trong bụng. Anh đã sợ nhất ba cái vụ xén tóc
xén tai này, giờ lại gặp phải một tay thợ nghiệp dư đem cái đầu của anh ra thí
điểm. Ðúng là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa!
Văn nắm tay Huy dung dăng dung dẻ đi về nhà tiểu đoàn. Vừa
đi, anh vừa kể cho Huy nghe một hai câu chuyện tiếu lâm ngộ nghĩnh của cánh
lính tráng nhà ta. Lên tới nơi, anh vào nhà xách ra một chiếc ghế đẩu tự đóng đặt
dưới bóng một cây xoài. Rồi lại vào mang ra ca nước, hộp "đồ nghề".
Chuẩn bị xong mọi thứ, anh trịnh trọng nói, vẻ khôi hài:
- Xin mời thân chủ ngồi vào ghế. Về tư thế sẵn sàng!
Huy ngồi xuống ghế, mặt nhăn như khỉ ăn ớt. Văn vừa đẩy tông
đơ, vừa cười khà khà bảo:
- Em có nghe cái tông đơ nó rên xiết không Huy! Tóc em cháy nắng,
lại cứng còng như rễ tre thế này mà để dài làm chi vậy! Gương mặt em hớt tóc
cao lên coi cũng khôi ngô lắm đấy chứ. Nào, cố lên, chỉ còn vài đường nữa. Cố
chịu đau một chút, cái tông đơ này hơi lụt, mà lại khô dầu. Ðể rồi anh đem đi
mài lại.
Huy ngồi trân mình, nửa cười nửa mếu mong cho cực hình chóng
qua. Cuối cùng, Văn rút trong túi áo ra lưỡi dao lam, cầm ca nước lên dấp một
ít nước vào mái tóc Huy, rồi cạo sạch chân tóc, và cả lớp lông măng, râu tơ
trên mặt. Xong xuôi, anh xoa tay, lui lại vài bước, ngắm nghía "công trình
lao động nghệ thuật" của mình với vẻ hài lòng đắc ý. Anh bảo huy:
- Có lẽ tháng sau anh về nhận nhiệm vụ mới ở trung đoàn. Anh
Bảo sẽ nắm tiểu đoàn thay anh.
- Thật hả anh? - Huy bật kêu lên.
- Thật chứ.
- Anh mà đi thì cả tiểu đoàn buồn lắm, anh Văn ạ. Anh Bảo
nghiêm quá, lại rất khó tính.
- Anh Bảo rất tốt, có điều gia đình anh ấy ở quê có nhiều khó
khăn, nên anh ấy buồn bực không vui. Thôi, cố mà thông cảm cho anh ấy nhé Huy.
- Anh Bảo hay đánh lính lắm. Em nghe có lần anh ấy đánh lính
bằng cái nắp xoong cơm quân dụng, đến móp cả cái nắp vung đó. Sao ảnh dữ vậy
anh Văn?
- Cái đó thì do tính trời sinh, Huy ạ. Anh cũng đã nhiều lần
tâm sự với anh ấy, nhắc nhở anh nên kềm chế bớt. Có điều, nếu mình không làm gì
sai trái, thì chẳng ai đụng được đến mình đâu em. Thôi, đi về đi Huy.
Huy cám ơn Văn, quay lưng đi về. Anh thật sự cảm động vì sự
giản dị, gần gũi vô cùng của Văn. Nghĩ đến việc không bao lâu nữa anh đã rời khỏi
tiểu đoàn, Huy chợt thấy buồn buồn. Ði được vài chục bước, Huy ngoái lại. Văn
đang lom khom quét mớ tóc rơi vương vải trên nền đất trong ánh nắng chiều vàng
lỗ chỗ xuyên qua tàng cây rậm.
Huy đang tắm gội sau cuộc sửa soạn tóc tai thì một đám đàn bà
con gái năm sáu người kéo nhau đi tới giếng. Họ trông thấy anh đang dứng xối nước
ào ào nên dừng lại, bước tới ngồi chùm nhum dưới một gốc xoài. Huy quýnh quáng
dội ào vài gáo nữa, rồi vơ lấy cái khăn và quần máng trên một cành cây gần đó
đi như chạy vào nhà. Anh cũng không dám đưa mắt ngó qua thử xem có cái cô bé nhỏ
xinh trong đám người đó hay không.
Quần áo chỉnh tề xong, Huy nhón bước tới cửa, nhìn ra. Cô bé
có mặt! Cô đang đứng chờ mấy người phụ nữ lớn tuổi hơn kéo nước trước. Huy
khoái chí búng tay đánh chóc một cái, rồi bước hẳn ra ngoài tìm con Chíp. Huy
ngó quanh quẩn vẫn chưa thấy nó đâu. Ðột nhiên, anh nghe từ lùm cây kề bên giếng,
chỗ bọn anh hay máng quần áo để thay, giọng ẽo ợt the thé của con chim:
- Ao so! Ao so! Boòng nức ôn, đek mìn ban! Ao so! Ao so...1
Huy há miệng cười, cố nén không thành tiếng, khoái thầm trong
bụng. Thật sự anh cũng không có ý gì đặc biệt với cô gái nhỏ đó. Chỉ vì thấy cô
bé cũng hay hay nên anh muốn trêu cho vui. Huy nhìn cô bé coi cô phản ứng ra
sao. Cô đang ngạc nhiên nhìn con sáo, có vẻ vừa ngượng ngùng vừa thích thú. Mấy
người đàn bà kia cười khúc khích. Họ còn hùa nhau trêu thêm cô bé mấy câu. Con
Chíp tung người bay đảo vòng vòng quanh cô bé, miệng vẫn quàng quạc kêu lên:
"Ao so...đek mìn ban!...".
Huy khoái quá, không nhịn được nữa bật cười thành tiếng. Anh
giật mình, giơ tay bưng miệng cố ngăn tiếng cười. Nhưng cô bé đã nghe thấy. Cô
quay lại nhìn anh thật nhanh rồi cúi ngay đầu xuống, mặt đỏ bừng, tay chân luống
cuống. Huy thấy tội nghiệp cho cô bé đã quá thẹn thùng, anh huýt sáo mấy tiếng,
gọi con Chíp lại. Nó bay tới chỗ Huy, đậu lên vai anh, nghiêng nghiêng đầu, một
bên mắt nhìn anh với vẻ vô cùng láu lỉnh và đắc chí. Huy vuốt nhẹ lưng con
Chíp, bảo nó:
- Mày giỏi lắm! Chút nữa tao sẽ thưởng cho hai con cào cào bự
nghe Chíp.
Ngoài kia, cô bé vẫn còn lính quýnh, đứng ngẩn người bên giếng.
Một người phụ nữ bảo cô, đại ý là kéo nước đi rồi cùng gánh về. Huy đi vào nhà,
tránh làm cho cô mắc cở thêm. Nhưng rồi anh lại nổi máu tò mò, vạch một cái lỗ
nhỏ trên vách lá nhìn ra. Cô bé đang vội vàng kéo nước đổ đầy hai chiếc thùng
con. Rồi cô nghiêng vai nâng gánh nước, uyển chuyển bước đi. Trên gương mặt
ngăm ngăm xinh xắn vẫn còn lưu lại một vệt hồng.
Thấm thoắt tiểu đoàn đã trở về nội địa hơn hai tháng. Trong
thời gian này, đơn vị đã có nhiều đợt hành quân truy quét trên địa bàn đóng
quân. Thường mỗi đợt như vậy kéo dài từ ba bốn đến chín mười ngày.
Có lúc họ đi về hướng đông nam huyện, nơi trảng lúa chạy dài
mãi cho đến khi tiếp giáp biển hồ Tông lê sáp; có lúc họ đi về hướng bắc- tây bắc,
nơi những dãy núi đất đứng trầm lặng uy nghiêm, trên mình khoác lớp áo rừng cây
nhiệt đới rậm rạp, chằng chịt dây leo. Có khi cả tiểu đoàn hợp thành một mũi
truy quét trọn một vòng; cũng có khi ba đại đội chia thành ba mũi khác nhau đi
về ba hướng, khối hỏa lực trực thuộc tiểu đoàn đón lõng ở một nơi. Những cuộc
hành quân này tiến hành vào thời điểm những cơn mưa đầu mùa tuôn trút như thác
đổ. Nhiều lúc đoàn quân đi trong một biển nước mênh mông, nước dâng đến đùi, đến
hông, trên đầu là cơn mưa xối xả. Ðoàn quân - như một đoàn thuyền dằng dặc - cắt
một con đường qua làn sóng xanh ngút ngàn những ngọn lúa mùa dài ngoẵn.
Có những đêm, đơn vị hành quân len lỏi qua những căn nhà sàn
thuộc một phum xa lạ dưới ánh sao nhàn nhạt. Thỉnh thoảng, một vài con chó chợt
giật mình tru lên một tràng tức tối, rồi mọi thứ lại im lìm. Nhiều lần Huy đi
sát qua vách một căn nhà nào đó, anh hầu như nghe thấy cả tiếng một đứa bé ngủ
mê ú ớ, tiếng ngáy đều đều, tiếng xoay trở mình trên lớp ván sàn của một người
dân, lòng Huy dâng dâng một niềm xao xuyến bồi hồi khó tả. Chính bằng những đêm
hành quân như vậy, Huy và đồng đội đã giữ cho giấc ngủ, cho cuộc sống nhân dân
được yên bình. Từ những đêm trắng hành quân, từ những cuộc múa lăm thôn tưng bừng
náo nhiệt, từ những đêm trăng giúp dân giã gạo, từ những ngày mùa giúp dân nhổ
mạ, cấy lúa...tình thương yêu gắn bó đã đâm chồi.
Ðoàn quân đi rất lặng lẽ. Ai đó tinh ý lắm mới nghe thấy được
tiếng lớp vải dày của hai ống quần cọ vào nhau kêu sột soạt, tiếng bước chân đằm
đằm dội vào lòng đêm quạnh vắng. Ðêm ngan ngát hương. Mùi của lớp cỏ đẫm sương
bị giày xéo thơm như hơi thở trẻ con. Mùi thơm rất khẽ khàng của những loài hoa
dại như lơ lững giữa không gian. Hương đêm cứ bềnh bồng trôi qua mặt, thoang
thoảng vương lên tóc, thấm vào tận đáy lòng. Ðôi khi, đoàn quân đi qua những
khoảnh đất rộng mọc đầy những khóm ngò gai và rau húng. Mùi rau thơm thoảng gợi
cho những người lính nhớ tới quê nhà, gợi nỗi thèm thuồng khi tưởng tượng ra những
bát phở ngon lành bốc khói.
Cũng có khi đoàn quân đi dưới ánh trăng non một đêm thượng tuần
lờ mờ sáng. Kẻ đi sau bíu lấy ba lô người đi trước, đôi mắt nhắm nghiền, vừa lơ
mơ ngủ vừa bước theo quán tính. Ðôi lúc, cơn ngủ quá say, người trước đã quẹo về
hướng khác, người sau vẫn cứ lùi lũi theo hướng cũ, chợt đâm sầm vào một gốc
cây, bụi rậm nào đó mới giật mình mở mắt ra hốt hoảng.
Những trận đánh trong những đợt truy quét như thế này, nếu
có, cũng không có gì căng thẳng. Thường thì họ chỉ đụng phải những nhóm nhỏ,
khoảng chừng mươi mười lăm tay súng. Thế nên chỉ cần bao vây, nổ súng giây lát
là chúng buông súng đầu hàng, hoặc chạy trốn mất vào những cánh rừng rộng lớn.
Trong hai tháng, chỉ có trận đánh ở gần phum Ðôn là hơi thú vị.
Trinh sát tiểu đoàn đi bám phát hiện được một lực lượng khá đông, khoảng một đại
đội lính Polpot vừa đến đóng ở một phum bỏ hoang nằm kề phum Ðôn. Phum này nằm ở
hướng đông, cách cứ khoảng hơn ba mươi cây số. Ngay đêm hôm đó hai đại đội được
lệnh xuất kích. Ðại đội 12 làm mũi chủ công, được tăng cường thêm trung đội 12
ly 7. Ðại đội 11 đón lõng ở hướng tây bắc, chặn đường rút của địch vào rừng. Ðó
là một đêm cuối tháng, nhằm ngày hai mươi chín hoặc ba mươi âm lịch, trời tối
đen như mực. Gần bốn giờ sáng, họ tới rìa phum hoang. Ðoàn quân dò dẫm đi từng
bước khi bắt đầu xuyên vào khoảng lùm bụi um tùm vây bọc quanh phum hoang. Dẫn
đầu đội hình là hai tay trinh sát tiểu đoàn, kế đó là trung đội bốn, kế nữa là
trung đội súng máy 12 ly.
Thắng, một trong hai trinh sát đang cắt đường, bỗng nghe tiếng
ho khù khụ ở ngay trước mặt, cách không đầy mười mét. Anh đứng sững ngay lại,
thầm hú vía trong bụng. Nếu tên địch nào đó mà không bật ho lên thì rất có thể
đại đội đã đạp cả lên võng của chúng rồi. May sao bọn địch vẫn chưa phát hiện
ra ta đang ém sát bên. Có lẽ chúng đã hút quá nhiều cần sa nên ngủ mê man quên
trời đất. Cả mấy tên lính gác cũng đang ngủ gà gật. Không thì quân ta cũng khá
là vất vả!
Thắng khoát tay, kề miệng vào tay Phụ, đại đội trường C12,
thì thào: "Có địch!". Phụ và một vài người đi đầu cũng đã nghe thấy
tiếng ho. Lập tức đại đội lui lại phía sau một khoảng, triển khai đội hình chiến
đấu. Phụ bò qua chỗ Quân. Anh khẽ nói:
- Chúng ta sẽ nổ súng khi vừa rạng sáng. Ông cho phát hỏa trước.
Ðồng thời, vừa nghe 12 ly nổ, mấy khẩu B của tôi cũng nổ ngay. Tụi nó chỉ có nước
tưởng bị sấm sét đánh xuống đầu!
Quân hạ lệnh lắp súng.
Thường ngày khi tập luyện anh em thao tác rất nhanh. Quân cho
tập bịt mắt tháo lắp dự phòng tình huống chiến đấu trong đêm, mọi người cũng chỉ
mất hơn bốn phút là xong.
Thế nhưng đêm đó mấy số súng cứ loay hoay mãi mới lắp xong,
ai cũng mồ hôi lăn ròng ròng trên trán. Họ hồi hộp vì cách địch quá gần, e
chúng nghe thấy tiếng động lách cách mà tương ngay một quả B vào thì toi cả
đám!
Lắp đạn xong, Huy bò qua chỗ Quân ra hiệu. Quân nói nhỏ:
- Thôi để anh bắn. Huy và Thuận lui ra hai cánh nằm xuống đi.
Mọi người đã đâu vào đó, sẵn sàng cho trận đánh. Quân nới
khóa hướng, xoay nhẹ qua lại vài lần kiểm tra. Sau đó, anh lấy tầm ở khoảng cao
ngang hông, tức là chiều cao trung bình chiếc võng địch mắc, rồi khóa cứng lại.
Và họ nằm im, chờ đợi.
Những giây phút như lúc này bao giờ cũng là lúc mọi người
nghĩ thật nhiều và nhớ thật nhiều. Họ nhớ cha mẹ, hoặc vợ con, hoặc người yêu,
hoặc thậm chí một con cún con nào đó nhà nuôi từ hồi còn họ còn nhỏ xíu, một
cây ổi già đã họ ngồi chênh vênh suốt những buổi trưa hè thơ dại, nhưng cuối
cùng, dù cho nhớ ai, nhớ gì đi nữa, thì họ cũng nhớ tới với một tình yêu sâu sắc.
Có thể một khoảnh khắc sau, ai đó trong số họ sẽ không bao giờ nghĩ và nhớ nữa.
Tiếng gà rừng eo óc gáy dồn, báo hiệu trời sắp sáng. Ðêm nhạt
dần. Khi ánh sáng mờ mờ của bình minh đã cho thấy hình dáng của những lùm cây
lúp xúp, họ phát hiện ra nhiều chiếc võng đang giăng rải rác trước mặt. Xéo về
phía tay phải Quân chừng mười lăm mét, một tên lính Pốt ngồi gác đang ngủ gật,
đầu ngoẹo sang một bên vai. Quân đưa hai ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay trái
vào hờm sẵn một bên cò - súng 12 ly có hai cò song hành, và phải xiết bằng cả
hai tay, vì sức rung giật rất mạnh, một tay khó lòng kềm nổi - tay phải anh giật
mạnh tay kéo khoá nòng, lên đạn. Tay kéo vừa đi hết quảng đường kêu đánh rốp một
tiếng vang khô khốc, thì ngay lập tức tay trái của Quân đã xiết cò. Sau đó, anh
đưa luôn tay phải vào cò súng. Quân xiết luôn một điểm xạ dài khoảng nửa băng,
quay nòng súng quét ngang một vòng cung một trăm hai mươi độ. Ðạn vạch đường
đan những vệt lửa trong màn sương sớm. Ngay sau tiếng gầm của khẩu trọng liên,
mấy khẩu B cũng phát hỏa. Rồi mọi tay súng đều nổ súng về phía trước.
Ðịch không kịp phản lại một phát súng nào ngay tại chỗ.
Chúng mất hồn mất vía, chỉ còn biết chạy tháo thân. Khi đã vượt ra hỏi tầm hỏa
lực, hoàn hồn lại phần nào, chúng củng cố lại đội hình và bắt đầu phản kích.
Nhưng chỉ chừng nửa tiếng, chúng nhận ra tình thế bất lợi và từ từ rút lui vào
rừng. Sau một lúc, trận địa im ắng lại, Phụ hô to:
- Mọi người lên thu dọn trận địa!
Những lùm cây bụi cỏ đẫm ướt sương quanh một vùng rộng bị giẫm
đạp lên tơi tả. Ðây đó, trong một khoảng bán kính gần năm mươi mét, rải rác những
chiếc võng bị đạn băm lỗ chỗ, đầy vết máu. Trừ năm xác chết, bọn bị thương đều
cố chạy thoát. Mọi người nhanh chóng thu gom ba lô, võng và súng địch còn bỏ lại,
rồi lên đường quay về cứ.
Chuyến đó, họ thu được tám khẩu AK báng gấp mới toanh, một
B40 bị đạn trọng liên xuyên qua nòng, một B41 và một đại liên đuôi cá, cùng vô
số ba lô. Anh em được một phen phấn khởi. Trên đường rút quân về, họ đi như bay
không biết mệt, huênh hoang khoác lác với nhau về chiến công vừa lập được.
Một lần khác, đơn vị đi về hướng đông huyện. Ði mãi suốt một
đêm ngày vẫn không gặp địch, Tiểu đoàn trưởng Văn quyết định quay về. Khi vào đến
một phum nhỏ, những người đi đầu đội hình phát hiện khoảng hơn hai mươi tay
súng đang rút khỏi phum, chạy về hướng nam. Văn hạ lệnh cho khẩu đội vận động
lên, quyết ghìm chân chúng lại bắt sống. Huy, Thuận, Tiến là ba xạ thủ chính cứ
để nguyên khẩu súng hạ càng trên vai vận động. Con đường đất băng qua phum lầy
lội, trơn như mỡ, làm họ suýt té mấy lần. Phần khác, ai cũng đã rất đói vì suốt
đêm trước hành quân chỉ có một nắm cơm vắt lót dạ, đã tiêu mất tự đời nào. Lúc
tìm mãi mà không gặp, vừa khi định dừng lại nghĩ ngơi cơm nước, địch lại hiện
ra. Chuyện đánh đấm có khi thật oái oăm.
Sau một lúc đọ súng, họ bắt được hơn mười tên địch. Số kia chạy
thoát vào rừng. Những người lính tước súng địch, rồi dùng ngay mấy chiếc khăn
croma chúng quàng trên cổ làm dây trói. Lẽ ra có thể xem đó là một trận dễ dàng
và thắng lợi hoàn toàn, nếu không có ba tay súng của ta bị thương nhẹ vì mảnh
B40 địch bắn trả.
Văn cho đơn vị tiếp tục hành quân về, không dừng lại nấu cơm
nữa. Anh định tới huyện lỵ sẽ nghỉ ngơi luôn thể, đồng thời đưa mấy thương binh
vào trạm y tế huyện để săn sóc tốt hơn. Dọc đường, mọi người móc bao gạo sấy ra
nhá nhá cho đỡ đói.
Trung đội 12 ly được giao áp giải hai tên địch. Quân cho
chúng đi trên đầu đội hình, ngay sau lưng anh. Huy len lên đi phía trước A trưởng
Thiện, để kiếm chuyện hỏi mấy tên tù binh. Anh tò mò muốn biết chúng suy nghĩ
ra sao.
Huy quan sát hai tên tù binh. Một tên trẻ hơn trạc tuổi Huy,
tên kia đã hơn ba mươi và trông lầm lì, cau có. Huy đi tới sát bên tên lính trẻ.
Anh vỗ vai hắn. Hắn quay sang nhìn anh, ánh mắt hoảng sợ, e dè. Huy hỏi:
- Anh theo Polpot lâu chưa?
- Hai năm rồi.
- Quê anh ở đâu?
- Ở dưới mạn Puốc Xát.
- Có vợ con gì chưa?
- Có vợ rồi, nhưng chưa có con.
- Sao theo địch mà không ở nhà làm ăn đàng hoàng nuôi vợ?
- Bị bắt phải theo. Không họ giết.
Huy nhìn thẳng vào mắt hắn:
- Thật không?
- Tôi không dám nói láo đâu.
Huy gật đầu. Im lặng một lúc, anh hỏi tiếp:
- Thế anh có nhớ nhà nhớ vợ không?
- Nhớ lắm. Tôi hay khóc nhiều những lúc gác đêm.
- Vậy sao không bỏ trốn về?
- Tôi sợ lính ông Hêng Xom Rin trả thù.
- Làm gì có! Anh không biết là ra hàng thì được khoan hồng,
không bị xử phạt à?
- Không biết đâu. Angkar nói nếu đầu hàng sẽ bị giết hay bị
tù.
Huy nhìn tên lính, nét mặt hắn hiền lành chất phác, không có
vẻ gì tàn ác hay dữ tợn. Thế nhưng làm sao biết được hắn đã làm gì. Huy lại hỏi:
- Thế có bao giờ anh bắn giết dân, bắt đàn bà hãm hiếp chưa?
- Dạ không có, không có đâu! - Hắn lắc đầu lia lịa, mặt tái
đi.
Ðến huyện lỵ, Văn đưa ba người bị thương vào trạm xá. Mọi người
còn lại tản ra dọc theo hai bên đường nấu cơm.
Tới giờ ăn, Quân cho cởi trói một bên tay hai tên địch. Tay
còn lại vẫn ghịt chặt sau lưng, để phòng chúng bỏ chạy. Chúng cũng được ăn như
mọi người khác, không có gì phân biệt. Ăn xong, họ trói hai tên tù binh như cũ,
chờ Văn làm việc với ban chỉ huy bộ đội địa phương xong là bàn giao tất cả cho
quân đội bạn xử lý.
Huy cuộn một điếu thuốc, ngồi bệt xuống đất, tựa lưng vào một
gốc me, phì phèo nhả khói. Tên trẻ tuổi lúc nãy đã nói chuyện với Huy nhìn anh
hút thuốc với vẻ thèm thuồng. Tên kia vẫn cúi đầu lầm lì. Trên đường đi, Huy
cũng đã mấy lần gợi chuyện, nhưng hắn chỉ lắc lắc, gật gật, không chịu hé răng.
Huy hỏi tên trẻ tuổi:
- Hút thuốc không?
- Dạ, xin cho tôi hút với.
Huy cuộn cho mỗi tên một điếu, rồi gắn lên môi chúng. Tên già
nhìn anh gật đầu tỏ ý cám ơn. Huy mỉm cười hỏi hắn:
- Lần này về rồi, có chạy theo giặc nữa không, ông già?
- Không đâu. Tôi muốn về với vợ con lâu rồi - Hắn đáp, đôi mắt
buồn buồn. Có lẽ hắn nhớ tới một căn nhà nào đó xa xôi, nơi có người vợ và lũ
con đang chờ mong hắn.
Huy trầm ngâm nhìn cả hai. Trông họ không có vẻ gì tàn ác
đáng sợ. Cứ như vẻ ngoài và thái độ của hai tên này, thì thật không tài nào hiểu
được tại sao lại có những tên lính Polpot dã man, khát máu, giết người như
ngóe. Có lẽ khi đã bị cuốn vào trong cuộc, những hành vi tàn bạo đã dần dần trở
thành quen thuộc, thành phản xạ tự nhiên. Người lính vốn thường là mù quáng. Họ
như là bọn người máy chỉ hành động theo mệnh lệnh cấp trên. Nếu cấp trên của họ
là loại tàn bạo điên cuồng, thì làm sao họ không điên cuồng, tàn bạo!
Còn cái gì khác hơn, đúng hơn để giải thích cho tất cả những
gì đã xảy ra. Cho những đống xương người trưng bày trong các nhà kính, tỉnh lỵ
nào cũng có. Cho hàng triệu người đã bị bắn, bị đập đầu bằng cuốc xẻng, bị cứa
cổ bằng sóng lá thốt nốt đầy gai nhọn, bị hất xác vào những hố chôn tập thể rải
rác trên khắp những bìa rừng, những cánh đồng hoang?...
Chú thích:
1. Áo trắng! Áo trắng! Anh nhớ em không ngủ được!
Xung quanh những căn nhà, hoa màu trung đội trồng đã xanh um
mơn mởn. Những ngọn rau muống và cải củ ngóc đầu vươn ra đón nắng. Ở bên hông mỗi
nhà, mấy giàn mướp, bầu bí đã trổ hoa trắng hoa vàng. Trong ánh nắng mai, lũ bướm
bay rập rờn quanh giàn tìm hút mật. Những con đường mòn nối các nhà trung đội
và dẫn lên tiểu đoàn đã được dọn sạch cỏ và đắp cao lên, trông xa như những đường
chỉ vàng nhạt ngoằn ngoèo đan nổi trên thảm cỏ dày xanh.
Quân đứng bên giàn mướp săm soi mấy chiếc lá tìm bắt sâu. Anh
vuốt nhẹ những chiếc lá non, nét mặt hiền hòa có vẻ rất vui.
Gần đó, Huy đang ngồi thong thả nhổ những túm cỏ dại mọc lô
xô giữa luống rau. Anh ngẩng đầu bảo Quân:
- Chiều nay em sẽ ra phum xin thêm mấy gánh phân chuồng về
bón. Rau mọc nhanh ghê há anh Quân.
Huy đã được nếm trải cảm giác êm đềm khi nhìn những thứ rau
màu lớn lên từng ngày một. Lúc mấy giàn bầu bí vừa nhú ra những nụ hoa nhỏ xíu
đầu tiên, Huy mừng như bắt được vàng. Anh vừa luôn miệng nghêu ngao những câu
hát trẻ con: Tía em hừng đông đi cày bừa, má em hừng đông đi cày bừa. Tía em là
một người nông dân, má em là một người nông dân... vừa kê mũi sát vào những nụ
hoa hít lấy hít để, xem chúng có thơm không.
Huy tò mò theo dõi những nụ hoa ấy từng ngày, từ khi chúng
còn là một chiếc nụ bé xíu, xanh xanh, cho đến khi những cánh hoa rửa tàn đi,
và phần cuối cuống hoa hơi phinh phính to ra, lớn dần lên, trở thành một trái bầu,
trái mướp tí hon.
Huy vui sướng nhìn những luống rau rậm rạp, dày lên thấy rõ
sau mỗi ngày, sau từng cơn mưa hạ.
Những gánh nước tưới hàng ngày; những gánh phân rác, phân chuồng
chăm bón; những giọt mồ hôi đầm đìa rơi trên luống đất; tất cả đã kết thành lá
xanh trái ngọt. Bọn rau trái đã được chăm sóc nâng niu bằng những yêu thương,
giờ sắp đền trả bao công lao đó của Huy và đồng đội. Niềm vui, niềm hạnh phúc
xem ra thật giản dị, bình thường!
Huy liên tưởng tới niềm vui của những bà mẹ khi sinh nở, Huy
hình dung tới niềm hạnh phúc của nhà nghệ sĩ khi sáng tạo, và Huy nghĩ - làm
cho sinh sôi, nảy nở dù chỉ một ngọn rau, gốc bí, về bản chất đều giống như
công việc của những bà mẹ, những nhà sáng tạo nghệ thuật kia. Ðó là niềm hạnh
phúc được trở thành một thượng đế bé nhỏ, được trở thành người tạo ra sự sống
và cái đẹp.
Quân chợt lên tiếng:
- Hôm qua me Sa Rinh vừa mang vào cho anh mớ hạt giống đậu
đũa. Chiều nay chúng ta sẽ đánh mấy luống để gieo đậu.
- Me Sa Rinh là bà già của Sa Piên đó phải hôn anh?
- Ừ! - Quân đáp gọn.
Huy trầm trồ:
- Sa Piên đẹp ghê anh há. Lần em gặp cô ấy buổi tối, trông đã
đẹp rồi. Nhưng hôm mình ra phum ăn đám cưới, nhìn gần ban ngày trông cô ấy càng
đẹp mê hồn. Anh Lý với Sa Piên thật xứng đôi!
- Ừ, họ rất xứng đôi - Quân đáp. Giọng anh có chút gì hơi
khác lạ, nhưng Huy vô tình không để ý.
- Sao em ít thấy anh Quân ra phum chơi vậy?
- Anh lười đi quá, với lại anh bận bịu suốt Huy thấy không...
- Nhưng thỉnh thoảng cũng phải đi chơi giải khuây chứ anh. Ở
nhà hoài buồn thấy mồ. Anh Quân này, em biết được nhiều tiếng K rồi
nghe...Nhưng toàn mấy câu tán gái không hà, đâu có nói chuyện với người già hay
con nít được. Anh Quân dạy thêm cho em với.
- Chút nữa anh sẽ cho Huy cuốn Tự học tiếng Khmer.
- Ủa, có cuốn sách đó hả anh! Trời, vậy là hay quá! - Huy mừng
cuống lên.
- Một thằng bạn trên Trung đoàn cho anh khá lâu rồi. Nhưng
anh cũng ít khi đọc đến. Chủ yếu là anh học từ dân. Huy cứ nói chuyện nhiều với
dân là tự khắc sẽ nói giỏi. Dĩ nhiên cũng phải có một số vốn cơ bản trước. Cuốn
này đọc dễ hiểu lắm.
Ụ Mối lững thững đi tới, trên vai là con Chíp đang hót chí
chóe có vẻ rất cao hứng. Huy chúm môi huýt vài tiếng ngắn, con sáo bay vù tới đậu
lên cánh tay Huy vừa giơ ra. Nó quẹt quẹt cái mỏ vào tay Huy, kêu líu nhíu như
chào mừng, hỏi han sức khỏe của anh. Huy bảo Ụ Mối:
- Ụ Mối, đố ông con Chíp biết tán gái bằng tiếng K không?
- Mình đâu có dạy nó, mà cũng chưa nghe nó nói, ông đã dạy nó
câu gì rồi vậy?
- Bây giờ nó không nói đâu, phải gặp đúng đối tượng nó mới
phát biểu. Chiều nay đám con gái vào giếng gánh nước ông sẽ biết.
Hồi mới về dựng cứ, anh em đã đào một cái giếng khá sâu kế
bên nhà bếp. Nó nằm đúng ngay một mạch nước ngầm lớn nên nước nhiều và cũng khá
trong. Dân ở mấy căn nhà gần đội hình trung đội hay vào xin gánh nước, vì từ chỗ
họ ra tới hồ nước của phum đường xa gấp mấy lần, mà nước lại không ngọt bằng.
Trong đám này, Huy vui mừng nhận ra có cả cô bé đã gặp hôm
đám cưới. Anh đã ngầm dạy con Chíp mấy câu với ý đồ nhờ nó trêu ghẹo cô gái
thay mình. Anh huấn luyện nó bằng cách đợi mỗi khi cô gái đang kéo nước, anh vừa
nhử nhử trước mặt nó một con cào cào mập ú, vừa lẩm nhẩm mấy câu nói, vừa chỉ về
phía cô gái. Cô bé cũng đã phát hiện ra thái độ khả nghi của Huy, nhưng cô
không dám nhìn thẳng vào anh, chỉ thỉnh thoảng len lén đưa mắt liếc qua, rồi lại
cúi gầm mặt thẹn thùng, trông càng dễ thương hơn. Huy biết cô bé kể cũng đã
lâu, nhưng anh vẫn chưa dám nói với cô một câu nào, trừ việc mượn hơi rượu làm
càn hôm đó. Thì ra Huy cũng thuộc loại thỏ đế! Vừa đến gần một cô gái lạ, tim
anh đã đánh trống liên hồi, mặt mũi đã đỏ bừng như gấc chín.
Quân chợt đăm đăm nhìn Huy một lúc lâu. Anh nói:
- Lát nữa em kêu đứa nào cắt tóc cho nghe Huy. Tóc em đã dài
quá xá rồi đó.
Huy nhăn mặt, le lưỡi nhìn Ụ Mối. Không biết vì lẽ gì từ nhỏ
Huy đã rất ngại việc hớt tóc, nên dù thật sự không thích để tóc dài, nếu không
có sự ép buộc thì Huy chẳng bao giờ muốn hớt tóc. Từ hồi sang đây, Huy khoái nhất
là chuyện tóc tai. Lính chiến ở đây dù sao cũng có phần tự do, thoải mái hơn. Nếu
không muốn cắt tóc thì cứ né tới né lui, kiếm cớ tránh khỏi những dịp đó là
thoát nợ. Huy đã né được mấy đợt hớt tóc rồi, nên mái tóc anh trông thật là
kinh dị. Ðến nỗi Mợi lác phải kêu lên: "Tóc đỏ quạch như râu bắp mà cũng
ham để cho dài! Cắt tóc đi Huy! Nhìn cái đầu mày tao thấy chướng quá". Giờ
thì chính Quân đã lên tiếng rồi. Căng quá! Huy giả vờ gọi con Chíp rồi đánh bài
chuồn ra chỗ khác. Anh nghĩ bụng: "Kệ! Cứ kéo dài được ngày nào hay ngày
đó."
Chiều hôm ấy, Huy không thể né được cái chuyện mà anh rất ngại
ngùng đó nữa. Vào khoảng hai giờ chiều, tiểu đoàn trưởng Văn xuống đại đội 13 về,
đi ngang trung đội, anh gặp Huy đang đứng trước cửa chỉ trỏ, dợt lại ngón nghề
tán tỉnh cho con Chíp. Anh trợn mắt:
- Ðây có phải là đồng chí Huy của chúng ta không! Hay là một
tên thổ phỉ nào đi lạc vào đây vậy! Lại đây, lại đây Huy! Ði lên tiểu đoàn với
anh. Anh sẽ hớt tóc cho em. Anh vừa kiếm được một cái tông đơ!
Huy kêu khổ thầm trong bụng. Anh đã sợ nhất ba cái vụ xén tóc
xén tai này, giờ lại gặp phải một tay thợ nghiệp dư đem cái đầu của anh ra thí
điểm. Ðúng là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa!
Văn nắm tay Huy dung dăng dung dẻ đi về nhà tiểu đoàn. Vừa
đi, anh vừa kể cho Huy nghe một hai câu chuyện tiếu lâm ngộ nghĩnh của cánh
lính tráng nhà ta. Lên tới nơi, anh vào nhà xách ra một chiếc ghế đẩu tự đóng đặt
dưới bóng một cây xoài. Rồi lại vào mang ra ca nước, hộp "đồ nghề".
Chuẩn bị xong mọi thứ, anh trịnh trọng nói, vẻ khôi hài:
- Xin mời thân chủ ngồi vào ghế. Về tư thế sẵn sàng!
Huy ngồi xuống ghế, mặt nhăn như khỉ ăn ớt. Văn vừa đẩy tông
đơ, vừa cười khà khà bảo:
- Em có nghe cái tông đơ nó rên xiết không Huy! Tóc em cháy nắng,
lại cứng còng như rễ tre thế này mà để dài làm chi vậy! Gương mặt em hớt tóc
cao lên coi cũng khôi ngô lắm đấy chứ. Nào, cố lên, chỉ còn vài đường nữa. Cố
chịu đau một chút, cái tông đơ này hơi lụt, mà lại khô dầu. Ðể rồi anh đem đi
mài lại.
Huy ngồi trân mình, nửa cười nửa mếu mong cho cực hình chóng
qua. Cuối cùng, Văn rút trong túi áo ra lưỡi dao lam, cầm ca nước lên dấp một
ít nước vào mái tóc Huy, rồi cạo sạch chân tóc, và cả lớp lông măng, râu tơ
trên mặt. Xong xuôi, anh xoa tay, lui lại vài bước, ngắm nghía "công trình
lao động nghệ thuật" của mình với vẻ hài lòng đắc ý. Anh bảo huy:
- Có lẽ tháng sau anh về nhận nhiệm vụ mới ở trung đoàn. Anh
Bảo sẽ nắm tiểu đoàn thay anh.
- Thật hả anh? - Huy bật kêu lên.
- Thật chứ.
- Anh mà đi thì cả tiểu đoàn buồn lắm, anh Văn ạ. Anh Bảo
nghiêm quá, lại rất khó tính.
- Anh Bảo rất tốt, có điều gia đình anh ấy ở quê có nhiều khó
khăn, nên anh ấy buồn bực không vui. Thôi, cố mà thông cảm cho anh ấy nhé Huy.
- Anh Bảo hay đánh lính lắm. Em nghe có lần anh ấy đánh lính
bằng cái nắp xoong cơm quân dụng, đến móp cả cái nắp vung đó. Sao ảnh dữ vậy
anh Văn?
- Cái đó thì do tính trời sinh, Huy ạ. Anh cũng đã nhiều lần
tâm sự với anh ấy, nhắc nhở anh nên kềm chế bớt. Có điều, nếu mình không làm gì
sai trái, thì chẳng ai đụng được đến mình đâu em. Thôi, đi về đi Huy.
Huy cám ơn Văn, quay lưng đi về. Anh thật sự cảm động vì sự
giản dị, gần gũi vô cùng của Văn. Nghĩ đến việc không bao lâu nữa anh đã rời khỏi
tiểu đoàn, Huy chợt thấy buồn buồn. Ði được vài chục bước, Huy ngoái lại. Văn
đang lom khom quét mớ tóc rơi vương vải trên nền đất trong ánh nắng chiều vàng
lỗ chỗ xuyên qua tàng cây rậm.
Huy đang tắm gội sau cuộc sửa soạn tóc tai thì một đám đàn bà
con gái năm sáu người kéo nhau đi tới giếng. Họ trông thấy anh đang dứng xối nước
ào ào nên dừng lại, bước tới ngồi chùm nhum dưới một gốc xoài. Huy quýnh quáng
dội ào vài gáo nữa, rồi vơ lấy cái khăn và quần máng trên một cành cây gần đó
đi như chạy vào nhà. Anh cũng không dám đưa mắt ngó qua thử xem có cái cô bé nhỏ
xinh trong đám người đó hay không.
Quần áo chỉnh tề xong, Huy nhón bước tới cửa, nhìn ra. Cô bé
có mặt! Cô đang đứng chờ mấy người phụ nữ lớn tuổi hơn kéo nước trước. Huy
khoái chí búng tay đánh chóc một cái, rồi bước hẳn ra ngoài tìm con Chíp. Huy
ngó quanh quẩn vẫn chưa thấy nó đâu. Ðột nhiên, anh nghe từ lùm cây kề bên giếng,
chỗ bọn anh hay máng quần áo để thay, giọng ẽo ợt the thé của con chim:
- Ao so! Ao so! Boòng nức ôn, đek mìn ban! Ao so! Ao so...1
Huy há miệng cười, cố nén không thành tiếng, khoái thầm trong
bụng. Thật sự anh cũng không có ý gì đặc biệt với cô gái nhỏ đó. Chỉ vì thấy cô
bé cũng hay hay nên anh muốn trêu cho vui. Huy nhìn cô bé coi cô phản ứng ra
sao. Cô đang ngạc nhiên nhìn con sáo, có vẻ vừa ngượng ngùng vừa thích thú. Mấy
người đàn bà kia cười khúc khích. Họ còn hùa nhau trêu thêm cô bé mấy câu. Con
Chíp tung người bay đảo vòng vòng quanh cô bé, miệng vẫn quàng quạc kêu lên:
" Ao so... đek mìn ban!...".
Huy khoái quá, không nhịn được nữa bật cười thành tiếng. Anh
giật mình, giơ tay bưng miệng cố ngăn tiếng cười. Nhưng cô bé đã nghe thấy. Cô
quay lại nhìn anh thật nhanh rồi cúi ngay đầu xuống, mặt đỏ bừng, tay chân luống
cuống. Huy thấy tội nghiệp cho cô bé đã quá thẹn thùng, anh huýt sáo mấy tiếng,
gọi con Chíp lại. Nó bay tới chỗ Huy, đậu lên vai anh, nghiêng nghiêng đầu, một
bên mắt nhìn anh với vẻ vô cùng láu lỉnh và đắc chí. Huy vuốt nhẹ lưng con
Chíp, bảo nó:
- Mày giỏi lắm! Chút nữa tao sẽ thưởng cho hai con cào cào bự
nghe Chíp.
Ngoài kia, cô bé vẫn còn lính quýnh, đứng ngẩn người bên giếng.
Một người phụ nữ bảo cô, đại ý là kéo nước đi rồi cùng gánh về. Huy đi vào nhà,
tránh làm cho cô mắc cở thêm. Nhưng rồi anh lại nổi máu tò mò, vạch một cái lỗ
nhỏ trên vách lá nhìn ra. Cô bé đang vội vàng kéo nước đổ đầy hai chiếc thùng
con. Rồi cô nghiêng vai nâng gánh nước, uyển chuyển bước đi. Trên gương mặt
ngăm ngăm xinh xắn vẫn còn lưu lại một vệt hồng.
Thấm thoắt tiểu đoàn đã trở về nội địa hơn hai tháng. Trong
thời gian này, đơn vị đã có nhiều đợt hành quân truy quét trên địa bàn đóng
quân. Thường mỗi đợt như vậy kéo dài từ ba bốn đến chín mười ngày.
Có lúc họ đi về hướng đông nam huyện, nơi trảng lúa chạy dài
mãi cho đến khi tiếp giáp biển hồ Tông lê sáp; có lúc họ đi về hướng bắc- tây bắc,
nơi những dãy núi đất đứng trầm lặng uy nghiêm, trên mình khoác lớp áo rừng cây
nhiệt đới rậm rạp, chằng chịt dây leo. Có khi cả tiểu đoàn hợp thành một mũi
truy quét trọn một vòng; cũng có khi ba đại đội chia thành ba mũi khác nhau đi
về ba hướng, khối hỏa lực trực thuộc tiểu đoàn đón lõng ở một nơi. Những cuộc
hành quân này tiến hành vào thời điểm những cơn mưa đầu mùa tuôn trút như thác
đổ. Nhiều lúc đoàn quân đi trong một biển nước mênh mông, nước dâng đến đùi, đến
hông, trên đầu là cơn mưa xối xả. Ðoàn quân - như một đoàn thuyền dằng dặc - cắt
một con đường qua làn sóng xanh ngút ngàn những ngọn lúa mùa dài ngoẵn.
Có những đêm, đơn vị hành quân len lỏi qua những căn nhà sàn
thuộc một phum xa lạ dưới ánh sao nhàn nhạt. Thỉnh thoảng, một vài con chó chợt
giật mình tru lên một tràng tức tối, rồi mọi thứ lại im lìm. Nhiều lần Huy đi
sát qua vách một căn nhà nào đó, anh hầu như nghe thấy cả tiếng một đứa bé ngủ
mê ú ớ, tiếng ngáy đều đều, tiếng xoay trở mình trên lớp ván sàn của một người
dân, lòng Huy dâng dâng một niềm xao xuyến bồi hồi khó tả. Chính bằng những đêm
hành quân như vậy, Huy và đồng đội đã giữ cho giấc ngủ, cho cuộc sống nhân dân
được yên bình. Từ những đêm trắng hành quân, từ những cuộc múa lăm thôn tưng bừng
náo nhiệt, từ những đêm trăng giúp dân giã gạo, từ những ngày mùa giúp dân nhổ
mạ, cấy lúa... tình thương yêu gắn bó đã đâm chồi.
Ðoàn quân đi rất lặng lẽ. Ai đó tinh ý lắm mới nghe thấy được
tiếng lớp vải dày của hai ống quần cọ vào nhau kêu sột soạt, tiếng bước chân đằm
đằm dội vào lòng đêm quạnh vắng. Ðêm ngan ngát hương. Mùi của lớp cỏ đẫm sương
bị giày xéo thơm như hơi thở trẻ con. Mùi thơm rất khẽ khàng của những loài hoa
dại như lơ lững giữa không gian. Hương đêm cứ bềnh bồng trôi qua mặt, thoang
thoảng vương lên tóc, thấm vào tận đáy lòng. Ðôi khi, đoàn quân đi qua những
khoảnh đất rộng mọc đầy những khóm ngò gai và rau húng. Mùi rau thơm thoảng gợi
cho những người lính nhớ tới quê nhà, gợi nỗi thèm thuồng khi tưởng tượng ra những
bát phở ngon lành bốc khói.
Cũng có khi đoàn quân đi dưới ánh trăng non một đêm thượng tuần
lờ mờ sáng. Kẻ đi sau bíu lấy ba lô người đi trước, đôi mắt nhắm nghiền, vừa lơ
mơ ngủ vừa bước theo quán tính. Ðôi lúc, cơn ngủ quá say, người trước đã quẹo về
hướng khác, người sau vẫn cứ lùi lũi theo hướng cũ, chợt đâm sầm vào một gốc
cây, bụi rậm nào đó mới giật mình mở mắt ra hốt hoảng.
Những trận đánh trong những đợt truy quét như thế này, nếu
có, cũng không có gì căng thẳng. Thường thì họ chỉ đụng phải những nhóm nhỏ,
khoảng chừng mươi mười lăm tay súng. Thế nên chỉ cần bao vây, nổ súng giây lát
là chúng buông súng đầu hàng, hoặc chạy trốn mất vào những cánh rừng rộng lớn.
Trong hai tháng, chỉ có trận đánh ở gần phum Ðôn là hơi thú vị.
Trinh sát tiểu đoàn đi bám phát hiện được một lực lượng khá đông, khoảng một đại
đội lính Polpot vừa đến đóng ở một phum bỏ hoang nằm kề phum Ðôn. Phum này nằm ở
hướng đông, cách cứ khoảng hơn ba mươi cây số. Ngay đêm hôm đó hai đại đội được
lệnh xuất kích. Ðại đội 12 làm mũi chủ công, được tăng cường thêm trung đội 12
ly 7. Ðại đội 11 đón lõng ở hướng tây bắc, chặn đường rút của địch vào rừng. Ðó
là một đêm cuối tháng, nhằm ngày hai mươi chín hoặc ba mươi âm lịch, trời tối
đen như mực. Gần bốn giờ sáng, họ tới rìa phum hoang. Ðoàn quân dò dẫm đi từng
bước khi bắt đầu xuyên vào khoảng lùm bụi um tùm vây bọc quanh phum hoang. Dẫn
đầu đội hình là hai tay trinh sát tiểu đoàn, kế đó là trung đội bốn, kế nữa là
trung đội súng máy 12 ly.
Thắng, một trong hai trinh sát đang cắt đường, bỗng nghe tiếng
ho khù khụ ở ngay trước mặt, cách không đầy mười mét. Anh đứng sững ngay lại,
thầm hú vía trong bụng. Nếu tên địch nào đó mà không bật ho lên thì rất có thể
đại đội đã đạp cả lên võng của chúng rồi. May sao bọn địch vẫn chưa phát hiện
ra ta đang ém sát bên. Có lẽ chúng đã hút quá nhiều cần sa nên ngủ mê man quên
trời đất. Cả mấy tên lính gác cũng đang ngủ gà gật. Không thì quân ta cũng khá
là vất vả!
Thắng khoát tay, kề miệng vào tay Phụ, đại đội trường C12,
thì thào: "Có địch!". Phụ và một vài người đi đầu cũng đã nghe thấy
tiếng ho. Lập tức đại đội lui lại phía sau một khoảng, triển khai đội hình chiến
đấu. Phụ bò qua chỗ Quân. Anh khẽ nói:
- Chúng ta sẽ nổ súng khi vừa rạng sáng. Ông cho phát hỏa trước.
Ðồng thời, vừa nghe 12 ly nổ, mấy khẩu B của tôi cũng nổ ngay. Tụi nó chỉ có nước
tưởng bị sấm sét đánh xuống đầu!
Quân hạ lệnh lắp súng.
Thường ngày khi tập luyện anh em thao tác rất nhanh. Quân cho
tập bịt mắt tháo lắp dự phòng tình huống chiến đấu trong đêm, mọi người cũng chỉ
mất hơn bốn phút là xong.
Thế nhưng đêm đó mấy số súng cứ loay hoay mãi mới lắp xong,
ai cũng mồ hôi lăn ròng ròng trên trán. Họ hồi hộp vì cách địch quá gần, e
chúng nghe thấy tiếng động lách cách mà tương ngay một quả B vào thì toi cả
đám!
Lắp đạn xong, Huy bò qua chỗ Quân ra hiệu. Quân nói nhỏ:
- Thôi để anh bắn. Huy và Thuận lui ra hai cánh nằm xuống đi.
Mọi người đã đâu vào đó, sẵn sàng cho trận đánh. Quân nới
khóa hướng, xoay nhẹ qua lại vài lần kiểm tra. Sau đó, anh lấy tầm ở khoảng cao
ngang hông, tức là chiều cao trung bình chiếc võng địch mắc, rồi khóa cứng lại.
Và họ nằm im, chờ đợi.
Những giây phút như lúc này bao giờ cũng là lúc mọi người
nghĩ thật nhiều và nhớ thật nhiều. Họ nhớ cha mẹ, hoặc vợ con, hoặc người yêu,
hoặc thậm chí một con cún con nào đó nhà nuôi từ hồi còn họ còn nhỏ xíu, một
cây ổi già đã họ ngồi chênh vênh suốt những buổi trưa hè thơ dại, nhưng cuối
cùng, dù cho nhớ ai, nhớ gì đi nữa, thì họ cũng nhớ tới với một tình yêu sâu sắc.
Có thể một khoảnh khắc sau, ai đó trong số họ sẽ không bao giờ nghĩ và nhớ nữa.
Tiếng gà rừng eo óc gáy dồn, báo hiệu trời sắp sáng. Ðêm nhạt
dần. Khi ánh sáng mờ mờ của bình minh đã cho thấy hình dáng của những lùm cây
lúp xúp, họ phát hiện ra nhiều chiếc võng đang giăng rải rác trước mặt. Xéo về
phía tay phải Quân chừng mười lăm mét, một tên lính Pốt ngồi gác đang ngủ gật,
đầu ngoẹo sang một bên vai. Quân đưa hai ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay trái
vào hờm sẵn một bên cò - súng 12 ly có hai cò song hành, và phải xiết bằng cả
hai tay, vì sức rung giật rất mạnh, một tay khó lòng kềm nổi - tay phải anh giật
mạnh tay kéo khóa nòng, lên đạn. Tay kéo vừa đi hết quảng đường kêu đánh rốp một
tiếng vang khô khốc, thì ngay lập tức tay trái của Quân đã xiết cò. Sau đó, anh
đưa luôn tay phải vào cò súng. Quân xiết luôn một điểm xạ dài khoảng nửa băng,
quay nòng súng quét ngang một vòng cung một trăm hai mươi độ. Ðạn vạch đường
đan những vệt lửa trong màn sương sớm. Ngay sau tiếng gầm của khẩu trọng liên,
mấy khẩu B cũng phát hỏa. Rồi mọi tay súng đều nổ súng về phía trước.
Ðịch không kịp phản lại một phát súng nào ngay tại chỗ.
Chúng mất hồn mất vía, chỉ còn biết chạy tháo thân. Khi đã vượt ra hỏi tầm hỏa
lực, hoàn hồn lại phần nào, chúng củng cố lại đội hình và bắt đầu phản kích.
Nhưng chỉ chừng nửa tiếng, chúng nhận ra tình thế bất lợi và từ từ rút lui vào
rừng. Sau một lúc, trận địa im ắng lại, Phụ hô to:
- Mọi người lên thu dọn trận địa!
Những lùm cây bụi cỏ đẫm ướt sương quanh một vùng rộng bị giẫm
đạp lên tơi tả. Ðây đó, trong một khoảng bán kính gần năm mươi mét, rải rác những
chiếc võng bị đạn băm lỗ chỗ, đầy vết máu. Trừ năm xác chết, bọn bị thương đều
cố chạy thoát. Mọi người nhanh chóng thu gom ba lô, võng và súng địch còn bỏ lại,
rồi lên đường quay về cứ.
Chuyến đó, họ thu được tám khẩu AK báng gấp mới toanh, một
B40 bị đạn trọng liên xuyên qua nòng, một B41 và một đại liên đuôi cá, cùng vô
số ba lô. Anh em được một phen phấn khởi. Trên đường rút quân về, họ đi như bay
không biết mệt, huênh hoang khoác lác với nhau về chiến công vừa lập được.
Một lần khác, đơn vị đi về hướng đông huyện. Ði mãi suốt một
đêm ngày vẫn không gặp địch, Tiểu đoàn trưởng Văn quyết định quay về. Khi vào đến
một phum nhỏ, những người đi đầu đội hình phát hiện khoảng hơn hai mươi tay
súng đang rút khỏi phum, chạy về hướng nam. Văn hạ lệnh cho khẩu đội vận động
lên, quyết ghìm chân chúng lại bắt sống. Huy, Thuận, Tiến là ba xạ thủ chính cứ
để nguyên khẩu súng hạ càng trên vai vận động. Con đường đất băng qua phum lầy
lội, trơn như mỡ, làm họ suýt té mấy lần. Phần khác, ai cũng đã rất đói vì suốt
đêm trước hành quân chỉ có một nắm cơm vắt lót dạ, đã tiêu mất tự đời nào. Lúc
tìm mãi mà không gặp, vừa khi định dừng lại nghĩ ngơi cơm nước, địch lại hiện
ra. Chuyện đánh đấm có khi thật oái oăm.
Sau một lúc đọ súng, họ bắt được hơn mười tên địch. Số kia chạy
thoát vào rừng. Những người lính tước súng địch, rồi dùng ngay mấy chiếc khăn
croma chúng quàng trên cổ làm dây trói. Lẽ ra có thể xem đó là một trận dễ dàng
và thắng lợi hoàn toàn, nếu không có ba tay súng của ta bị thương nhẹ vì mảnh
B40 địch bắn trả.
Văn cho đơn vị tiếp tục hành quân về, không dừng lại nấu cơm
nữa. Anh định tới huyện lỵ sẽ nghỉ ngơi luôn thể, đồng thời đưa mấy thương binh
vào trạm y tế huyện để săn sóc tốt hơn. Dọc đường, mọi người móc bao gạo sấy ra
nhá nhá cho đỡ đói.
Trung đội 12 ly được giao áp giải hai tên địch. Quân cho
chúng đi trên đầu đội hình, ngay sau lưng anh. Huy len lên đi phía trước A trưởng
Thiện, để kiếm chuyện hỏi mấy tên tù binh. Anh tò mò muốn biết chúng suy nghĩ
ra sao.
Huy quan sát hai tên tù binh. Một tên trẻ hơn trạc tuổi Huy,
tên kia đã hơn ba mươi và trông lầm lì, cau có. Huy đi tới sát bên tên lính trẻ.
Anh vỗ vai hắn. Hắn quay sang nhìn anh, ánh mắt hoảng sợ, e dè. Huy hỏi:
- Anh theo Polpot lâu chưa?
- Hai năm rồi.
- Quê anh ở đâu?
- Ở dưới mạn Puốc Xát.
- Có vợ con gì chưa?
- Có vợ rồi, nhưng chưa có con.
- Sao theo địch mà không ở nhà làm ăn đàng hoàng nuôi vợ?
- Bị bắt phải theo. Không họ giết.
Huy nhìn thẳng vào mắt hắn:
- Thật không?
- Tôi không dám nói láo đâu.
Huy gật đầu. Im lặng một lúc, anh hỏi tiếp:
- Thế anh có nhớ nhà nhớ vợ không?
- Nhớ lắm. Tôi hay khóc nhiều những lúc gác đêm.
- Vậy sao không bỏ trốn về?
- Tôi sợ lính ông Hêng Xom Rin trả thù.
- Làm gì có! Anh không biết là ra hàng thì được khoan hồng,
không bị xử phạt à?
- Không biết đâu. Angkar nói nếu đầu hàng sẽ bị giết hay bị
tù.
Huy nhìn tên lính, nét mặt hắn hiền lành chất phác, không có
vẻ gì tàn ác hay dữ tợn. Thế nhưng làm sao biết được hắn đã làm gì. Huy lại hỏi:
- Thế có bao giờ anh bắn giết dân, bắt đàn bà hãm hiếp chưa?
- Dạ không có, không có đâu! - Hắn lắc đầu lia lịa, mặt tái
đi.
Ðến huyện lỵ, Văn đưa ba người bị thương vào trạm xá. Mọi người
còn lại tản ra dọc theo hai bên đường nấu cơm.
Tới giờ ăn, Quân cho cởi trói một bên tay hai tên địch. Tay
còn lại vẫn ghịt chặt sau lưng, để phòng chúng bỏ chạy. Chúng cũng được ăn như
mọi người khác, không có gì phân biệt. Ăn xong, họ trói hai tên tù binh như cũ,
chờ Văn làm việc với ban chỉ huy bộ đội địa phương xong là bàn giao tất cả cho
quân đội bạn xử lý.
Huy cuộn một điếu thuốc, ngồi bệt xuống đất, tựa lưng vào một
gốc me, phì phèo nhả khói. Tên trẻ tuổi lúc nãy đã nói chuyện với Huy nhìn anh
hút thuốc với vẻ thèm thuồng. Tên kia vẫn cúi đầu lầm lì. Trên đường đi, Huy
cũng đã mấy lần gợi chuyện, nhưng hắn chỉ lắc lắc, gật gật, không chịu hé răng.
Huy hỏi tên trẻ tuổi:
- Hút thuốc không?
- Dạ, xin cho tôi hút với.
Huy cuộn cho mỗi tên một điếu, rồi gắn lên môi chúng. Tên già
nhìn anh gật đầu tỏ ý cám ơn. Huy mỉm cười hỏi hắn:
- Lần này về rồi, có chạy theo giặc nữa không, ông già?
- Không đâu. Tôi muốn về với vợ con lâu rồi - Hắn đáp, đôi mắt
buồn buồn. Có lẽ hắn nhớ tới một căn nhà nào đó xa xôi, nơi có người vợ và lũ
con đang chờ mong hắn.
Huy trầm ngâm nhìn cả hai. Trông họ không có vẻ gì tàn ác
đáng sợ. Cứ như vẻ ngoài và thái độ của hai tên này, thì thật không tài nào hiểu
được tại sao lại có những tên lính Polpot dã man, khát máu, giết người như
ngóe. Có lẽ khi đã bị cuốn vào trong cuộc, những hành vi tàn bạo đã dần dần trở
thành quen thuộc, thành phản xạ tự nhiên. Người lính vốn thường là mù quáng. Họ
như là bọn người máy chỉ hành động theo mệnh lệnh cấp trên. Nếu cấp trên của họ
là loại tàn bạo điên cuồng, thì làm sao họ không điên cuồng, tàn bạo!
Còn cái gì khác hơn, đúng hơn để giải thích cho tất cả những
gì đã xảy ra. Cho những đống xương người trưng bày trong các nhà kính, tỉnh lỵ
nào cũng có. Cho hàng triệu người đã bị bắn, bị đập đầu bằng cuốc xẻng, bị cứa
cổ bằng sóng lá thốt nốt đầy gai nhọn, bị hất xác vào những hố chôn tập thể rải
rác trên khắp những bìa rừng, những cánh đồng hoang?...
Chú thích:
1. Áo trắng! Áo trắng! Anh nhớ em không ngủ được!.
Viết xong đêm giao thừa Xuân Kỷ Mão 1999Nguyễn Thành Nhân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét