Thứ Tư, 16 tháng 12, 2020

Lê Khánh Mai - Nhọc nhằn phận thơ, phận đời

Lê Khánh Mai
Nhọc nhằn phận thơ, phận đời

Lê Khánh Mai là nhà thơ có nhiều trăn trở về thơ ca và cuộc đời. Khát vọng dấn thân cho đổi mới và sáng tạo của một nhà thơ nữ Việt Nam đã tạo nên những vần thơ nhọc nhằn phận thơ, phận đời. Đó là những thi phẩm thơ viết về thơ. Bài viết tiếp cận những diễn ngôn ấy dưới góc độ nữ quyền luận và chủ nghĩa hiện sinh.
1. Dẫn nhập
Lê Khánh Mai thuộc thế hệ nhà thơ bước vào làng thơ khi thơ ca sau 1975 đã đi qua chặng đường đổi mới về nội dung để bắt đầu có những thể nghiệm dò sâu vào cách tân lối viết. Khát vọng dấn thân cho đổi mới và sáng tạo đối với một nhà thơ nữ mang nhiều bổn phận trong cuộc đời đã kết thành những vần thơ nhọc nhằn phận thơ, phận đời. Đó là những thi phẩm thơ viết về thơ. Chúng tôi gọi những bài thơ có chủ thể trữ tình và đối tượng trữ tình đều thuộc về cái tôi tác giả ấy là những bài “siêu thơ”. Mạch siêu thơ nói trên đã mang đến cho thơ Lê Khánh Mai những thông điệp nhân văn về khát vọng sáng tạo và khát vọng khẳng định bản thể. Dưới góc độ nữ quyền luận hay chủ nghĩa hiện sinh chúng ta đều nhận thấy ở các bài thơ này những diễn ngôn đẹp, mang hơi thở thời đại của thơ ca.
2. Nội dung
Khát vọng được thăng hoa sáng tạo và khát vọng khẳng định cái tôi bản thể là những nỗi ám ảnh thường trực đối với Lê Khánh Mai. Mạch cảm xúc này được thể hiện nhất quán từ quan niệm văn chương đến diễn ngôn tác phẩm. Lê Khánh Mai từng vận vào người và thơ quan niệm này:
“Tôi cho rằng thơ cũng như con người có bổn phận và thân phận.
Bổn phận của thơ là đồng cảm, chia sẻ, yêu thương, bênh vực và dự báo.
Thân phận thơ là trải nghiệm, tìm kiếm chính mình; là nước mắt, tiếng kêu, lời tự thú, sự cứu rỗi; là nỗi khắc khoải không nguôi về ẩn  ức trong tiền kiếp và ký thác cho mai sau.
Con người sinh ra, bổn phận cơ bản giống nhau nhưng thân phận thì hoàn toàn khác biệt” [4].
Và chị chung thủy với quan niệm ấy qua suốt chín tập thơ, kết quả của hơn một phần tư thế kỷ sáng tác. Chảy dọc suốt hành trình thơ ca Lê Khánh Mai, người đọc bắt gặp một mạch chủ đề tiềm tàng và nổi trội, đó là những suy tư, thổn thức về thơ ca, về nhà thơ và thân phận người phụ nữ. Gia tài thơ ca Lê Khánh Mai với những chủ đề khá rộng, khá phong phú, lại có đến một số lượng không nhỏ những tác phẩm “siêu thơ” này. Ở đó, chúng ta bắt gặp những ưu tư, giằng xé có khi đến vật vã, khổ đau trong khát vọng vượt thoát khỏi bổn phận đời thường để được dấn thân cho thơ ca và đi tìm bản thể cho chính mình. Có thể gọi đó là khát vọng đi tìm sinh mệnh cho thơ ca và sinh mệnh của chính nhà thơ.
2.1. Thơ ca và khát vọng dấn thân
Với thơ ca, Lê khánh Mai đã nhiều lần dùng chữ “trót”:
“Trót dan díu với mưa nguồn
Trái tim chớp bể
Mãi còn đa đoan”
(Tự cảm)
“Trót sinh làm giống đa tình
Thì yêu đến nát đời mình mới thôi”
(Duyên nợ)
Nghĩa là Lê Khánh Mai đã chọn thơ ca và chính thơ ca cũng lựa chọn chị. Hơn ai hết, chị tự suy, tự nghiệm về kiếp đa đoan, đa tình; về nghiệp “giời đày” của nhà thơ. Nhưng có đa đoan chị mới gặp nàng thơ và với nàng thơ chị được giãi tỏa, được thăng hoa nỗi niềm đa đoan của mình. Chị ý thức rằng, đó là duyên, là nợ chứ không phải là sự lựa chọn đơn thuần. Đã “trót” làm bạn với thơ ca, chị xác định một con đường duy nhất là dấn thân. Hơn một lần nhà thơ tự nguyện gánh vác thiên mệnh của văn chương trên hành trình dài đơn độc tìm đến cái Đẹp:
“Thánh giá của riêng mình
Mang trong tim khó nhọc
Cuộc hành trình đơn độc
La Mã vời vợi xa”
(Nhà thơ)
“Đường về La Mã vời xa
Vác cây thánh giá vượt qua phận mình”
(Ơi người)
Nhà thơ cũng tự vận mình vào số kiếp Trương Chi để hát bài ca đơn độc: “Sao ta lại mang số phận Trương Chi/ để suốt đời gánh nỗi đau cô độc” (Trương Chi). Nhưng với Lê Khánh Mai, nếu làm lá thì lá phải xanh, làm cỏ thì cỏ phải đầy nhựa sống: “dẫu là một kiếp phù sinh/vẫn xanh vật vã hết mình thì thôi” (Lá). Chị sống hết mình vì thơ, cho thơ. Trái tim đa cảm của người phụ nữ nhỏ bé ấy đã bao lần tự vắt kiệt lấy sức mình: “có ai biết/tôi đã vắt kiệt sức mình/ để nuôi một giấc mơ” (Giấc mơ tôi hái); “tôi đã đổi bằng bao cay đắng/ có khi như vắt kiệt sức mình” (Tâm sự thơ ca). Diễn ngôn của nữ quyền hay dấu ấn của sự hiện sinh phôi thai ngay từ những bài thơ thế này.
Chính khát vọng dấn thân đã làm cho thơ Lê Khánh Mai tràn đầy năng lượng sống. Khát vọng dấn thân trở thành dưỡng chất để những mầm xanh thơ ca nảy lộc, đâm chồi. Nhà thơ bất chấp những hệ lụy có thể xảy đến, chấp nhận cả sự tổn thương, điều tàn nhẫn, sự huyễn hoặc hay cái giá của sự lưu đày để gửi hồn mình lên cõi cao xanh:
“Thắp lên niềm kì vọng bầu trời
Tôi kí thác hồn mình nơi cao xanh vời vợi”
Người không đa đoan sẽ ngạc nhiên trước những điều tưởng như mâu thuẫn, vô lý thế này: “Điều huyễn hoặc vốn là điều tàn nhẫn/nhưng đôi khi cứu vớt được linh hồn”; rồi “cơn xót đắng mình tôi thanh lọc/cơn mê này buốt trong”. Sự huyễn hoặc một cách tàn nhẫn lại trở thành niềm cứu rỗi; còn cơn đau xót đắng thì thanh lọc tâm hồn để cơn mê kia trở nên buốt trong. Sự kí thác đến cuối bài thơ đã chuyển sang nghĩa phó thác vì nó gửi gắm một cách vô điều kiện. Dù biết sau khoảng trời cao xanh vời vợi kia là cả một miền trống trải đến hoang hoải, nhà thơ cũng bằng lòng cam tâm tình nguyện. Thế mới thấy năng lượng thơ ca trong trái tim ấy dạt dào biết bao nhiêu. Năng lượng ấy kết tụ thành những câu thơ mang chiều kích của đại ngàn và vó ngựa:
“Những câu thơ
Như chú ngựa bất kham trong lồng ngực
Mơ một ngày tung vó thảo nguyên”
(Khát)
Với người đọc, không cần phải mơ đâu xa, chính những câu thơ như trên đã đủ sức đưa thơ Lê Khánh Mai sải cánh rộng trong bầu trời sáng tạo.
2.2. Sự giằng xé của bổn phận
Mối quan hệ giữa cuộc sống đời thường và cái nghiệp văn chương vốn đã trở thành những thao thức, trăn trở bấy lâu của người cầm bút. Thân phận nhà thơ đã lắm truân chuyên, thân phận phụ nữ làm thơ lại càng đa đoan gấp bội. Nữ nhà thơ thời văn học đổi mới sau 1975 cũng không thể khác. Thiên mệnh thơ ca là thế, khát vọng muốn cháy hết mình cho thơ ca là thế; nhưng bên cạnh thơ, chị còn có bổn phận làm vợ, làm mẹ, làm một người phụ nữ phương Đông thuần túy,… Va chạm với thực tại đời thường không phải lúc nào cũng thơ, những ước ao, khao khát kia bỗng chùng xuống như một nốt lặng; ngọn lửa dấn thân hóa thành những dấu chấm hỏi chứa đầy sự thao thức, ưu tư. Giấc mơ “tung vó thảo nguyên” bây giờ trở thành niềm khát vọng:
“Trái tim – một tù nhân khốn khổ
Đập không nguôi sau cánh cửa vô hình
Chết vùi đi, hay là thắp lửa?
đơn giản vô cùng sao cứ mãi phân vân”
(Khát vọng)
Một lần khác, ngọn lửa ấy vừa được nhen nhúm lên đã tắt lịm để rồi hóa thành những dòng lệ âm thầm nhỏ xuống bóng đêm:
“Đôi khi muốn làm ngọn đuốc
Cháy lên chạy trốn bóng mình
Đôi khi ngùi ngùi nến khóc”
Lửa thầm, nhỏ lệ vào đêm”
(Đôi khi)
Trong những suy tư giữa thơ và bổn phận, thơ Lê khánh Mai mang một nỗi niềm đau đáu đi tìm bản thể. Sống hết mình hay tự xóa tên mình, là than lửa hay là tàn tro, làm chiếc lá xanh vật vã hay làm phận lá mỏng manh,…? Đúng là con thuyền nhỏ của nữ sĩ “chòng chành” giữa “hai phía sóng”. Trong bài thơ Dị bản, tác giả đã trực tiếp đề cập đến hành trình đau khổ ấy: “Một mình giằng xé tự phân đôi”. Với những bài thơ này, người đọc bắt gặp chủ thể trữ tình mang một khối mâu thuẫn lớn. Ở Dị bản là sự giằng xé giữa xóa bóng và khắc tên, lao ra và neo về, đánh mất và kiếm tìm. Nhà thơ vừa tuyến bố hùng hồn “em muốn xóa bóng mình - dị bản/ để chỉ còn đích thực em thôi”. Và cũng đã một mình dấn bước: “Em như con tàu lao ra biển rộng”; nhưng ngay lập tức con tàu ấy lại thổn thức quay trở về neo đậu chốn bình yên: “lại neo về bến cảng giữa trùng khơi”. Con tàu đã trở về bến bờ neo đậu nhưng lòng tàu thì lại dấy lên niềm thổn thức tiếc nuối khơi xa: “phận dã tràng đánh mất rồi ngọc báu/cứ loay hoay tìm kiếm một đời”. Muốn đi đến tận cùng đích thực trái tim mình, muốn bứt ra khỏi bóng hình mang tên dị bản của chính mình nhưng cuối cùng tác giả lại trở về với kiếp dã tràng để cứ mãi loay hoay trong những lâu đài vừa mới xây lên đã bị biển khơi đánh cho tan tành vỡ nát. Có thế nên nhà thơ mới tự nhận mình là người đa cảm, đa mang. Trong khát vọng được thể hiện chính mình, bài thơ Đơn sơ trở thành niềm hờn dỗi đầy nữ tính của Lê Khánh Mai:
“Ta đơn sơ như cỏ thôi
Phải đâu dấu hỏi mà đời phân vân
Có ta trời thản nhiên xanh
Không ta mây trắng yên lành vẫn trôi”
Suy tư nhiều về sự hiện sinh của mình giữa cuộc đời nên nhà thơ cũng tự đặt ra một giả thiết khi trần gian không còn có mình: “Mai kia vắng bóng ta rồi/ trời mây ở lại cõi người muôn sau”. Đó thực sự là một sự tự nghiệm xót xa và mang đậm chất hiện sinh của chủ thể trữ tình.
Càng ý thức về sự sáng tạo nhà thơ càng nung nấu nhu cầu bứt ra khỏi các mối dây bó buộc của bổn phận:
“Bạn cùng ta “bứt phá”
Lang thang quên mình là đàn bà”
Từ sức sống khỏe khoắn của nữ quyền, tự trong đáy sâu tâm hồn nhà thơ vang lên khát khao vượt lên vòng quay cũ mèm của cuộc sống hàng ngày với những câu thơ hiền lành, đều chằn chặn: “vang tự hồn sâu phải sống khác thôi/không sống khác không thể nào viết được”. Nhưng con diều ấy vừa cất cánh bay lên đã vướng phải bao nhiêu sợi dây vô hình níu kéo về mặt đất. Bởi ở dưới kia còn ánh mắt vui của con khi mâm cơm chiều có mẹ, có cái “ngun ngún buồn” của chồng khi chị vắng nhà lâu. Thế là, con diều ấy không còn vi vu giấc mơ trời xanh mà quay về với giai điệu lời ru ngày thường. Bài thơ mở đầu bằng một quyết tâm “bứt phá” nhưng lại kết thúc trong tiếng kêu đau đớn của phận thơ oan nghiệt:
“Về nhà con vui thoát việc bếp núc
mắt ai ngun ngún buồn
ta ru bình yên ngày thường
oan nghiệt phận thơ - tiếng kêu máu vỡ”.
Tiếng kêu máu vỡ là tiếng kêu của “loài thi sĩ” đi tìm nơi nương náu cho bản thể nhà thơ và cho chính bản thể của thơ. Thơ Lê Khánh Mai tìm gặp chủ nghĩa hiện sinh và nữ quyền luận ở phương diện đó.
Cùng mạch chủ đề trên, bài thơ có nhan đề Khát bộc lộ đầy đủ nên cũng xót xa về thân phận của người phụ nữ làm thơ. Bài thơ được cấu tứ thành ít nhất là hai cực đối lập: bứt phá và neo giữ. Ở giữa hai cực ấy là các trạng thái tâm lý chênh vênh, giằng xé, chòng chành,… của chủ thể trữ tình. Với Khát, cuộc đời bắt buộc nữ thi nhân phải chọn lựa. Đó lại là sự chọn lựa đúng nghĩa của bi kịch. Từ đầu đến cuối bài thơ, các lớp sóng bứt phá và neo giữ cứ luân phiên dội vào trái tim đa mang, giàu thổn thức của nhà thơ. Bài thơ mở đầu bằng lời xác nhận hồn hậu, chân thành của Lê Khánh Mai về sự “xung đột” giữa hồn thơ và tổ ấm: “thơ em gọi mưa nguồn chớp bể/ nên mong manh chiếc tổ lứa đôi”. Tình yêu thơ và tình yêu gia đình không phải là những thực thể giản đơn có thể đem ra đong đếm. Nên đã có lúc con thuyền nhỏ chao nghiêng trước những đợt sóng của lòng mình: “thơ và anh/em giằng xé thân phận/ con thuyền nhỏ chòng chành hai phía sóng”. Đã có lúc ta ngỡ rằng thi nhân chặc lưỡi rũ bỏ tất cả để đến với những khát khao bỏng cháy đang thúc bách trái tim mình:
“Em khát sống
những gì chưa kịp sống
và vội yêu
những gì chưa được yêu
em thất thường, nắng sớm, mưa chiều
và hoang tưởng như cầu vồng bảy sắc”
Dấn thêm bước nữa, đã có lúc người đọc ngỡ rằng cơn khát ấy đã vỡ tung ra theo chiều kích của vó ngựa trên dặm dài thảo nguyên:
“Những câu thơ
Như chú ngựa bất kham trong lòng ngực
Mơ một ngày tung vó thảo nguyên”
Nhưng chính lúc năng lượng sống hết mình vươn cao đến đỉnh điểm, chính lúc tâm hồn bay bổng, xao động nhất, nhà thơ lại chùng bước, chùng lòng để trở về với bẩm năng của một người đàn bà rất cần sự nương tựa chở che, rất cần sự bình yên ngày thường:
“Cho em về nương tựa vào anh
nối kết buồn vui làm cánh võng
gọi ngọn gió xanh từ ngực em nóng bỏng
ru êm đềm tình ta giữa trần gian”
Chưa hết, khi đã cam tâm trở về với bình yên ngày thường, ta nghĩ rằng trái tim người phụ nữ ấy sẽ ngủ vùi trong niềm vui bổn phận. Nhưng không, bài thơ kết thúc khi trái tim con người đa đoan ấy lại thổn thức khôn khuây:
“Sao bây giờ
yên ổn vòng tay anh
em vẫn khát viết vần thơ định mệnh”
Khát là một diễn trình tâm lý đa dạng, phức tạp. Bài thơ cho thấy quá trình đấu tranh đau đớn của người phụ nữ khi đứng giữa bổn phận đời thường và bổn phận thi ca.
Yêu thơ, thấy được sứ mệnh của thơ và tràn đầy sinh lực sáng tạo, nhưng nhà thơ cũng không thể dằn lòng trước bổn phận của một người phụ nữ. Chị như cánh diều trẻ nhỏ, muốn bay lên nhưng lại bị níu kéo trở về. Chị như con thuyền buồm căng gió, muốn lướt sóng ra khơi nhưng lại chạnh lòng bởi lời réo gọi của bến bờ. Sự chông chênh giữa hai thái cực đã tạo nên trong thơ Lê Khánh Mai những hình ảnh thơ đối lập; đi cùng với nó là một trái tim ấm nóng trước thơ, trước cuộc đời và do vậy mà luôn suy tư, day dứt, trăn trở.
3. Kết luận
Trong hành trình thơ Lê Khánh Mai, có một con đường luôn song hành qua suốt dặm dài, đó là thao thức sáng tạo và khẳng định bản thể. Chị thao thiết truy tìm có lúc đến vật vã, tội nghiệp. Ở mảng thơ này, người đọc đồng cảm với những trạng thái của một tâm hồn trở gió, không phút giây nào được sống bình yên. Nhưng đó là sự suy tư, sự day dứt, sự chọn lựa của những hồn thơ đa đoan và đa mang, sự chọn lựa giữa những giá trị sống để không làm hao hụt, tổn thương đến bất cứ giá trị nào. Chị tự đặt ra cho mình một bài toán khó điều hóa giải và tự mang vác một mình như một tín đồ đối với đức tin. Người đọc mẫn cảm luôn nhận ra rằng: mạch thơ ấy đã kết tụ thành một diễn ngôn đặc biệt trong thơ Lê Khánh Mai: diễn ngôn đi tìm cái Đẹp và sự dấn thân cho thơ ca. Vậy nên, cần một lần nữa nhắc lại rằng: chính những câu thơ này có thể tung vó trong bất cứ miền thảo nguyên bao la lộng gió nào:
“Những câu thơ
Như chú ngựa bất kham trong lồng ngực
Mơ một ngày tung vó thảo nguyên”
(Khát)
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Phạm Đình Ân, “Nhà thơ Lê Khánh Mai với khát vọng bứt phá mạnh mẽ”, Phụ nữ Việt Nam, số 6, tháng 1/2008.
2. Phạm Đình Ân, “Lê Khánh Mai không chỉ là giọng biển”, Văn Nghệ, số tháng 5/2007.
3. Lê Khánh Mai (2009), Vọng âm của mạch ngầm, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
4. Lê Khánh Mai, Giới thiệu chùm thơ Lê Khánh Mai, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Số 609, tháng 11/2004.
5. Nguyễn Đức Quang, “Lê Khánh Mai, Thơ và đời”, Tạp chí Nha Trang, tháng 03/2003.
6. Lê Khánh Mai (2008), Tuyển tập thơ Giấc mơ hái từ cơn giông, NXB Hội Nhà văn.
7. Hoàng Quảng Uyên, “Lê Khánh Mai, Khai mở những con đường”, Tạp chí Sông Hương, số 162, tháng 8/2012.
13/3/2019
Trần Viết Thiện
Theo http://ukh.edu.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...