Dân ca dân nhạc Việt Nam - Dân ca Lào
Người Lào (tiếng Lào: ລາວ, tiếng Isan: ลาว, IPA: láːw) là một phân nhóm của
các sắc tộc Thái tại Đông Nam Á.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Lào ở Việt
Nam có dân số 14.928 người, cư trú tại 42 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người
Lào cư trú tập trung tại các tỉnh: Lai Châu (5.760 người, chiếm 38,6% tổng số
người Lào tại Việt Nam), Điện Biên (4.564 người, chiếm 30,6% tổng số người Lào
tại Việt Nam), Sơn La (3.380 người, chiếm 22,6% tổng số người Lào tại Việt
Nam), Hà Tĩnh (433 người), Đắk Lắk (275 người).
Từ nguyên của từ Lào chưa được biết một cách rõ
ràng, song nó có thể liên hệ với các bộ tộc được gọi là Ai Lao(tiếng Lào: ອ້າຽລາວ, tiếng Isan: อ้ายลาว, tiếng Trung: 哀牢; bính
âm: Āiláo) xuất hiện trong các ghi chép từ thời nhà Hán tại khu vực mà nay
là tỉnh Vân Nam. Các bộ tộc có nguồn gốc từ người Ai Lao bao gồm các sắc tộc
Thái đã di cư xuống Đông Nam Á. Người Lào, giống như nhiều sắc tộc Thái khác
cũng tự gọi mình là Thái (Lào: ໄທ, Isan: ไท, IPA:tʰáj) và cụ thể hơn là Thái
Lào (ໄທລາວ, ไทลาว). Tại Thái Lan, người Lào bản địa được
phân biệt với người Lào tại Lào và các sắc tộc Thái khác bằng thuật ngữ Thái
Isan (tiếng Lào:ໄທຍ໌ອີສານ, tiếng Isan: ไทยอีสาน, IPA: i: să:n), một thuật ngữ bắt
nguồn từ tiếng Phạn có nghĩa là Đông Bắc, song Lào vẫn dược sử dụng.
Cánh đồng chum ở Xieng khuang (Lào)
có niên đại từ
1.500-2.000 năm trước.
Theo một thần thoại chung của các sắc tộc Thái, một vị vua có
thể là thần thoại, Khun Borom Rachathiriat (ຂຸນບໍຣົມຣາຊາທິຣາດ, ขุนบรมราชาธิราช, [kʰǔn bɔ̄ː lóm láː sáː tʰī lâːt]) của Mueang
Thaen (ເມືອງແຖນ, เมืองแถน, [mɯ́əŋ tʰɛ̌ːn], Mường Thanh) (nay
là Điện Biên Phủ) là cha của một số người con trai và những người con này đã định
cư và cai trị các mường khác nhau trên khắp Đông Nam Á và miền Nam Trung Quốc.
Là sắc dân có nguồn gốc từ những người cổ đại được người Hán gọi là Việt và Ai
Lao, các sắc tộc Thái bắt đầu di cư đến Đông Nam Á vào đầu thiên niên kỷ thứ 1,
song hoạt động di cư quy mô lớn chỉ diễn ra từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13, đặc biệt
là từ nơi mà nay là Tây Song Bản Nạp của Vân Nam và Quảng Tây. Lý do
khiến người Thái phải di cư là vì sức ép từ sự bành trướng của người Hán, những
cuộc xâm lược của người Mông Cổ, tìm kiếm những vùng đất phù hợp với canh tác
lúa nước và sự sụp đổ của các quốc gia như Nam Chiếu.
Người Thái đã đồng hóa hoặc đẩy lui những người Môn-Khmer Nam
Á, và định cư ở ven rìa các vương quốc Ấn hóa của người Môn và Đế quốc Khmer.
Đã có sự pha trộn giữa các sắc tộc và người Thái đã tiếp nhận triết học, tôn
giáo, ngôn ngữ và phong tục Ấn Độ cùng một số yếu tố Nam Á thông qua các sắc tộc
láng giềng, song họ vẫn duy trì liên hệ với các mường Thái khác.
Các nhà nước của người Thái đã tận dụng thời cơ đế quốc Khmer
suy yếu và nổi lên với vị thế độc lập. Người Lào coi đây là thời điểm bắt đầu lịch
sử quốc gia của họ, với nhiều di tích, đền chùa, tác phẩm nghệ thuật, và các
khía cạnh khác của văn hóa Lào bắt nguồn từ thời kỳ này. Từ đó, người ta có thể
gọi các nhà nước Thái ở thung lũng sông Chao Phraya là Xiêm và Lan
Xang là Lào.
Vương quốc Lan Xang (ອານາຈັກລ້ານຊ້າງ, อาณาจักรล้านช้าง, [ʔaː náː tʃák lâːn sâːŋ]), hay Vạn
Tượng, khởi đầu từ năm 1354, khi Somdej Phra Chao Fa Ngum (ສົມເດດພຣະເຈົ້າຝ້າງູ່ມ, สมเด็จพระเจ้าฝ้างู่ม) (1354 – 1373 AD) trở về Mueang Sua
(ເມືອງຊວາ, เมืองซวา), đổi tên thành Xieng Thong (ຊຽງທອງ, เซียงทอง).
Từ căn cứ này, Lan Xang đã mở rộng lãnh thổ ra toàn
bộ nước Lào ngày nay cùng cao nguyên Khorat và nhiều phần của Tây
Song Bản Nạp (Sipsongbanna, ສິບສອງພັນນາ, สิบสองพันนา), Sipsong Chu Tai (ສິບສອງຈຸໃທ, สิบสองจุไทย), Xieng Tung (ຊຽງຕຸງ, เซียงตุง), và Xieng Taeng (ຊຽງແຕງ, เซียงแตรง) cùng nhiều phần ở Tây Bắc Việt Nam.
Vương quốc Lan Xang hùng mạnh, giàu có và có ảnh hưởng
do kinh đô của nó nằm ở nơi giao nhau của tuyến đường tơ lụa và là trung tâm của
Phật giáo tại Đông Nam Á. Vương quốc thịnh vượng này có hoạt động vận tải đường
thủy dọc theo Mê Kông và các tuyến đường lữ hành trên bộ đến các cảng của Xiêm.
Những vị khách phương Tây đầu tiên đã đến trong thời gian trị vì của Phra Chao
Sourigna Vongsa (ພຣະເຈົ້າສຸຣິຍະວົງສາທັມມິກຣາດ, พระเจ้าสุริยวงศาธรรมิกราช) (1634 – 1697), họ ghi chép cách
vương quốc thịnh vượng này xuất khẩu vàng, nhựa thông benzoin, đồ sơn mài, thảo
dược, ngà voi, tơ lụa và quần áo tơ lụa, và gỗ. Nhiều đền chùa, đặc biệt là tại
Xieng Thong (nay là Luang Phrabang) và Vientiane đã chứng thực cho giai đoạn thịnh
vượng này. Trong thời kỳ này, những truyền thuyết về “Khun Borom” đã được ghi lại
trên lá cọ và sử thi cổ xưa “Sin Xay” của người Lào cũng được sáng tác ra.
Phật giáo tiểu thừa trở thành quốc giáo, và Vientiane là một
thành phố quan trọng của việc học tập giáo lý Phật giáo. Bên cạnh Phật giáo,
người Lào còn chịu ảnh hưởng văn hóa từ những nơi định cư xa xôi của người Môn
(mà về sau đồng hóa vào Lan Xang) và từ người Khmer.
Một triều đại liên minh giữa Lannathai và Lanxang dưới thời
Phra Chao Sai Sethathirath (ພຣະເຈົ້າໄຊເສດຖາທິຣາດ, พระเจ้าไชยเชษฐาธิราช) (1548 – 1572) đã giúp phát triển kiến
trúc và mỹ thuật, phỏng theo phong cách Lannathai. Các loại sách của Lannathai
được Lan Xang sao chép, bao gồm nhiều tài liệu tôn giáo. Điều này có thể đã dẫn
đến việc tiếp nhận, hoặc thậm chí là tái tiếp nhận chữ “Tua Tham” dựa trên tiếng
Môn, hoặc ‘chữ cái Phật pháp’ đối với các tác phẩm tôn giáo.
Sau đó, Lan Xang bị phân chia thành ba thế lực kình địch, cai
trị từ Luang Phra Bang, Vientiane, và Champasak (ຈຳປາສັກ, จำปาศักดิ์). Các vương quốc nhanh chóng rơi vào
tay Xiêm. Những tàn dư của Lan Xang đã gặp phải tai họa vào thế kỷ 18 và 19,
trong các chiến dịch do vua Taksin của Xiêm tiến hành để trừng phạt “Nổi dậy
Lào” chống lại Xiêm của Chao Anouvong (ເຈົ້າອນຸວົງ, เจ้าอนุวงศ์) trong thời gian trị vì của Rama
III.
Trong cả hai thời kỳ này, Vientiane và các thành phố khác đã
bị cướp phá và các bức tượng và tác phẩm nghệ thuật Phật giáo đã bị đưa đến
Thái Lan. Các thành phố, phần lớn cư dân bị ép buộc phải di dời và đến định cư
tại các vùng dân cư thưa thớt hơn của Isan và miền Trung Thái Lan và những người
khác bị bắt làm nô lệ để phục dịch trong các công việc nặng nhọc dẫn đến nghệ
thuật và ngôn ngữ Lào đã tiến vào miền Trung Thái Lan. Vào lúc người Pháp đến
Lào vào năm 1868, họ chỉ thấy một khu vực với dân cư giảm sút và thậm chí thành
phố Vientiane cũng biến mất trong các cánh rừng.
Lào sau đó đã bị sáp nhập vào Xiêm, tuy nhiên,
trong cuộc thám hiểm của Auguste Pavie, người Pháp đã quan tâm đến việc kiểm
soát Mê Kông. Khi đó, người Pháp đã đô hộ Việt Nam và muốn chiếm cứ tất cả các
chư hầu của nhà Nguyễn, bao gồm cả các vùng lãnh thổ còn lại của Lan Xang. Điều
này đã khiến Pháp tiến hành ngoại giao pháo hạm và những vụ đụng độ biên giới với
tên gọi Chiến tranh Pháp-Xiêm vào năm 1893, khiến Xiêm buộc phải từ bỏ tuyên bố
chủ quyền đối với hầu hết nước Lào ngày nay. Người Pháp đã ngăn chặn và giữ cho
người Lào không trở thành một phân nhóm của dân tộc Thái (Thái Lan), như đồng
bào của họ tại Isan, hay còn gọi là ‘người Thái Đông Bắc’.
Có khoảng 3,6 triệu người Lào tại Lào, chiếm xấp xỉ 68% dân số
(còn lại chủ yếu là các bộ tộc vùng cao). Người dân tộc Lào tại Lào tạo thành
nhóm “Lào Lùm” (“người Lào vùng thấp”) (tiếng Lào: ລາວລຸ່ມ, tiếng Thái: ลาวลุ่ม, IPA: laːw lum). Một cộng đồng nhỏ người
Lào xuất hiện tại Thái Lan và Campuchia, sinh sống chủ yếu tại vùng trước khi
thuộc về Lào là Stung Treng (Xieng Teng trong tiếng Lào), và tại Việt Nam.
Tiếng Lào là một ngôn ngữ có thanh điệu thuộc Ngữ hệ
Thái-Kadai, có quan hệ gần gũi với tiếng Thái và các ngôn ngữ của các sắc tộc
Thái khác. Hầu hết từ vựng trong tiếng Lào có nguồn gốc Thái bản địa, song cũng
có những đóng góp quan trọng từ tiếng Pali và tiếng Phạn cũng như các ngôn ngữ
Môn-Khmer. Chữ cái tiếng Lào dựa trên chữ cái Ấn. Mặc dù tiếng Lào có năm
phương ngữ chính, những người sử dụng các phương ngữ khác nhau đều có thể hiểu
lẫn nhau và người Lào tin rằng họ đang nói các biến thể của cùng một thứ ngôn
ngữ.
Tôn giáo tại Lào mang tính hổ lốn cao, và bắt nguồn từ ba nguồn
chính, hầu hết người Lào tự xem mình là tín đồ Phật giáo tiểu thừa, nhiều truyền
thống của họ bắt nguồn từ Ấn Độ giáo và Phật giáo.
Phật giáo (ພຣະພຸດທະສາສນາ, พุทธศาสนา, [pʰā pʰūt tʰāʔ sàːt sáʔ nǎː]) là
tôn giáo phổ biến nhất tại Lào, được 67% dân số nước này và gần như toàn bộ dân
tộc Lào tin theo. Con số “Phật tử” có thể còn cao hơn, do Phật giáo cũng có ảnh
hưởng đến nhiều nhóm bộ tộc khác, song những nhóm này lại thường tự xem mình là
người theo thuyết vật linh. Phật giáo cũng là tôn giáo chiếm ưu thế tại Isan và
hầu hết các quốc gia láng giềng của Lào. Bên trong Phật giáo, hầu hết người Lào
theo phái tiểu thừa (ເຖຣະວາດ, เถรวาท, [tʰěː rā wâːt]) song vẫn có ảnh hưởng
lịch sử từ Đại thừa.
Trong cộng đồng người Lào, đền chùa là trung tâm của các hoạt
động cộng đồng, nơi dân làng tập hợp để thảo luận về các mối quan tâm hoặc thỉnh
cầu nhà sư suy xét và hướng dẫn cho họ, và hầu hết đàn ông sẽ vào chùa ở trong
một số thời điểm nhất định để tiếp nhận thêm kiến thức tôn giáo và để làm công
đức.
Các ngày lễ có liên quan đến Phật giáo bao gồm Boun Phra Vet
(Phật hóa thân, ບຸນພຣະເວດ, บุญพระเวส, [bun pʰaʔ vet]), Magha Puja (Tăng
đoàn, ມະຄະບູຊາ, มาฆบูชา), Songkhan (tết, ສັງຂານ, สงกรานต์), Phật đản (ວິສາຂະບູຊາ, วิศาขบูซา), Vassa (an cư, ວັນເຂົ້າພັນສາ, วันเข้าพรรษา), Wan Awk Pansa (ວັນອອກພັນສາ วันออกพรรษา), Kathina (ກະຖິນ, กฐิน). Ngoài những ngày này, các ngày an
tức nguyệt của Phật giáo (ວັນພຣະ, วันพระ, [van pʰaʔ]), trong các tuần trăng,
và hội chùa cũng là những lúc người ta đến viếng thăm các chùa để cầu nguyện và
thỉnh cầu lời giáo huấn của các nhà sư về các mối quan tâm tinh thần, và cúng
thực phẩm, tiền hoặc giúp đỡ các công việc của nhà chùa, được gọi trong tiếng
Lào là tambun (ທຳບຸນ, ทำบุญ, [tʰam bun]).
Người Lào còn tin vào ba mươi hai vị thần linh được gọi là
Khwan (ຂວັນ, ขวัญ, [kʰwan]) bảo vệ thể xác con người,
và các nghi lễ Basi (ບາສີ, [baː siː], ใบสี, [bɑj siː]) được thực hiện trong các sự kiện quan trọng
hoặc trong những lúc lo lắng để trói buộc các linh hồn và thể xác, nếu thiếu vắng
chúng thì người ta sẽ tin rằng đã mời bệnh tật hoặc tai họa đến.
Trong cuộc sống hàng ngày, hầu hết người Lào phải cúng tế các
thần linh được cho là cư trú trong các điện thờ để mong được bình an. Đồ cúng gồm
hoa, hương, và nến, và người ta sẽ cầu nguyện các thần linh phù hộ.
Người Lào đã tiếp nhận và phỏng tác “Ramayana” thành một
phiên bản địa phương, được gọi là “Phra Lak Phra Ram” (ພຣະລັກພຣະຣາມ, พระลักษมณ์พระราม, [pʰaʔ lak pʰaʔ laːm]). Phiên bản
Lào của sử thi được xen vào những thần thoại của người Lào, và bản sinh kinh
cũng được coi trọng. Nhiều điệu múa cung đình dựa trên các tình tiết của câu
chuyện. Ấn Độ giáo đã đan xen một cách dễ dàng vào cả thuyết vật linh và Phật
giáo, do đó nhiều vị thần Ấn Độ giáo được coi là Thaen và các nhà sư Phật giáo
đã kết hợp nhiều nghi thức Bà-la-môn. Người dân Lào đặc biệt tôn kính Naga, các
á thần giống con rắn và cai trị các tuyến đường thủy.
Phần đông người Lào làm ruộng nước là chính, với kỹ thuật
canh tác dùng cày, bừa và làm thủy lợi. Nghề phụ gia đình của người Lào như: dệt,
rèn, gốm, làm đồ bạc khá phát triển.
Người Lào thường mang các họ Lò, Lường, Vi… như người Thái, mỗi
họ có kiêng kỵ riêng. Con cái lấy họ theo cha. Tàn dư gia đình lớn chỉ còn thấy
ở một số nơi hẻo lánh. Phổ biến là hình thức gia đình nhỏ, một vợ một chồng.
Theo tục cũ các chàng trai phải ở rể vài năm rồi mới được đưa vợ về nhà mình,
hoặc ra ở riêng. Lâu nay thời hạn ở rể đã giảm dần.
Trong phong tục ma chay, người chết được làm lễ và chôn cất
chu đáo. Riêng người đứng đầu mường, bản dưới chế độ cũ khi chết thì thiêu xác.
Người Lào sống định cư, có bản đông tới cả trăm nhà. Nhà ở
thường rộng lòng, thoáng đãng, chắc chắn, cây cột chính ở cạnh bếp đun và các cột,
kèo, được trạm khắc trang trí. Nóc nhà có mái cao, uốn khum hai đầu hồi, tạo
dáng hình mai rùa.
Phong cách trang phục gần giống người Thái, ít cá tính tộc
người (là tộc thiểu số ở Việt Nam, nhưng lại là đa số ở bên Lào) không tiêu biểu
cho một phong cách về trang phục. Hoặc có những bộ trang phục mang phong cách
khác lạ.
Đàn ông Lào thường xăm hình chữ “vạn” vào cổ tay và thường
xăm hình con vật vào đùi. Phụ nữ Lào nổi tiếng là những người dệt vải khéo tay.
Họ mặc váy đen quấn cao đến ngực, gấu váy thuê nhiều hoa văn sặc sỡ. Kiểu áo
cánh ngắn bó thân với hàng khuy bạc phổ biến ở vùng Sông Mã. Ở vùng Điện Biên
áo giống với áo cùng loại của người Khơ Mú láng giềng. Cô gái Lào chưa chồng
thường búi tóc lệch về bên trái. Phụ nữ Lào dùng khăn Piêu. Khi không đội khăn,
phụ nữ Lào thích cài nhiều trâm bạc và búi tóc. Phụ nữ đeo nhiều vòng ở cổ tay,
xăm hình “một loại cây rau” ở mu bàn tay.
Trong xã hội người Lào, những ông Mo Lăm là lớp người giỏi chữ
và biết nhiều truyện cổ, dân ca. Họ ghi chép lại truyện cổ và các điệu dân ca
quen thuộc. Trong vốn văn nghệ dân gian Lào có cả ảnh hưởng văn nghệ dân gian
Thái. Người Lào múa Lăm vông… trong các dịp liên hoan, lễ hội…
Âm nhạc truyền thống của người Lào được gọi là Lam lao (ລຳລາວ, ลำลาว, [lám láːw]), mặc dù nó cũng được biết
đến với tên Morlam (Lào: ໝໍລຳ, Isan: หมอลำ,[mɔ̌ːlám]) một thuật ngữ được ưa chuộng trong tiếng
Isan. Các nghệ sĩ đến từ Thái Lan nổi tiếng tại Lào và ngược lại, trong khi văn
hóa Lào tại Isan chịu ảnh hưởng mạnh của chính sách Thái hóa. Âm nhạc truyền thống
Lào nổi bật với việc sử dụng nhạc cụ khaen (khèn), Lào: ແຄນ, Isan: แคน, [kʰɛːn]).
Dân tộc Lào rất thích ca múa, đặc biệt là các làn điệu dân ca
truyền thống. Không chỉ trong những ngày lễ hội, vui chơi hợp quần… người Lào
còn hay ca hát trong sản xuất ngoài ruộng nương, đi hái lượm trong rừng, xuôi
ngược trên các dòng sông.
Dân ca Lào rất phong phú, giàu âm điệu, mang đậm bản sắc dân
tộc được phổ biến rộng rãi từ nông thôn đến thành thị. Người có công lớn trong
việc sưu tầm, phổ biến và nâng cao các làn điệu dân ca là các “mỏ-lăm” (ca sĩ),
“mỏ khen” (nhạc công, thổi khèn bè). Đội ngũ “mỏ lăm, mỏ khen” ngày càng phát
triển trước yêu cầu thưởng thức ca múa của người dân ở các bản mường, trong đó
có nhiều nghệ sĩ tài ba nổi tiếng vừa có thể sáng tác vừa biểu diễn rất được ưu
ái, mến mộ.
Dân ca của Lào có nhiều loại như lăm, khắp, xỡng, kạp, ăn nẳng-xử…
Mỗi loại lại mang sắc thái riêng của từng miền, từng dân tộc, từng địa phương.
“Lăm” sử dụng nhiều thể loại thơ nhất được quần chúng ưa thích nhất rất phổ biến.
Các điệu múa xuất hiện sớm nhất ở Lào là múa “Bẵng phay”,
“Lăm phen”, rồi đến điệu múa “Xỉ nuôn”, “Kò thạt”, “Đoọc bua” (hoa sen)… Múa “Bẵng
phay” là điệu múa tập thể trong ngày lễ hội Pháo thăng thiên (Bẵng phay). Múa
“Lăm-phen” giống múa tiên ở Ấn Độ, Cam-pu-chia, In-đô-nê-xia. Múa “Kò-thạt” là
múa tập thể xung quanh ngọn tháp trong các ngày lễ hội tôn giáo.
Đặc biệt là múa “Lăm vong” (múa vòng tròn) tuy xuất hiện sau
nhưng được phổ biến rộng rãi, và được coi như điệu múa tập thể tiêu biểu của
dân tộc. Múa “Lăm vong” xuất hiện vào thời điểm nào của lịch sử, đến nay chưa
có lời giải đáp thống nhất của các nhà nghiên cứu văn hóa Lào, nhưng nó đã tồn
tại nhiều thập kỷ qua và ngày nay nó vẫn có vai trò thật đặc biệt. Trong các
ngày lễ hội, dịp vui chơi tập thể, các buổi liên hoan đều mở đầu và kết thúc bằng
“Lăm vong”. Từng đôi nam nữ (có thể cả hai đều là gái hoặc trai) múa vòng tròn
theo nhịp trống (nhịp 2/4 hoặc 4/4). “Lăm vong” dễ múa, động tác sinh động,
duyên dáng, uyển chuyển. Có thể “Lăm vong” xuất phát từ điệu múa “Lăm thôn”
(múa 1 người).
Múa cung đình có múa đơn, múa đôi hoặc tập thể. Các vũ nữ múa
cung đình được tuyển chọn kỹ và tập luyện khá công phu do một số nghệ sĩ được
đào tạo ở nước ngoài (thường ở Ấn Độ hoặc Khmer) hướng dẫn. Khi biểu diễn các
vũ nữ được ăn mặc hết sức lộng lẫy, sang trọng. Múa cung đình ít di chuyển, mà
thường múa tại chỗ, kết hợp biểu diễn nhiều động tác mềm mại, dịu dàng, uốn lượn
của ngón tay, bàn tay, cánh tay, vai, cổ, đầu, bàn chân cho đến ánh mắt, nụ cười,
nét mặt theo tiếng đàn “La nát”. Múa cung đình là dịp mua vui cho nhà vua,
hoàng tộc và số quan chức gần gũi nhà vua. Một số điệu múa cung đình Lào được
mô phỏng theo các điệu múa cổ Ấn Độ, Khmer và xoay quanh đề tài đề cao, chúc tụng,
sùng bái nhà vua.
Cả truyền thuyết và giả thuyết khoa học vẫn
chưa đưa ra được
những câu trả lời thỏa đáng
về nguồn gốc của những chiếc chum đá.
Về nhạc cụ người dân Lào thường dùng các loại sau:
– Khèn bè (Khaen): Là loại nhạc cụ phổ biến nhất ở các bản
làng từ Bắc xuống Nam. Khèn bè dễ làm, dùng nguyên liệu ngay trong rừng, dưới sự
hướng dẫn của “mỏ-khèn”, các tràng trai trong bản có thể tự làm được. Nhưng để
có chiếc khèn bè âm thanh chuẩn phải tìm mua ở các chợ phiên, do các nghệ nhân
chuyên sản xuất bày bán. Từ lúc còn tuổi thiếu niên con trai Lào đã học thổi
khèn.
– Trống (Kong): Trống cũng là nhạc cụ phổ biến ở Lào. Có
thể nói rằng không có bản làng nào ở Lào không có trống và không ngày nào vắng
tiếng trống, tiếng mõ ngân vang (bản có chùa). Có nhiều loại trống như trống
cái, trống cơm, trống con…
– Trống cơm (Koong tũm): Trống cơm được đánh cùng với một
số nhạc cụ khác để múa tập thể trong ngày lễ hội “Bẵng phay” (pháo thăng
thiên).
– Trống con (Koong kình) được đánh trong các buổi lễ cầu
phúc.
Ngoài ra còn nhiều loại nhạc cụ khác được dùng phổ biến trong
các ngày lễ hội sản xuất, tôn giáo, ma chay như:
– Khoọng (chiêng)
– Xình (rạo bạt)
– Pì (sáo)
– Khùi (tiêu)
– Mạc chặp pì (đàn)
– Xo (nhị)
– Pôông (mõ)
– Xèng” (thanh la)…
– Xình (rạo bạt)
– Pì (sáo)
– Khùi (tiêu)
– Mạc chặp pì (đàn)
– Xo (nhị)
– Pôông (mõ)
– Xèng” (thanh la)…
Dưới đây mình có các bài:
– Nhạc Cụ Truyền Thống Của Lào
– Điệu nhảy Lam Vong-Laos, nét quyến rũ
– Ấn tượng nghệ thuật múa nước bạn Lào
– Đặc sắc Lễ hội Bunpimay của người Lào ở Đắk Lắk
– Lễ hội Căm Mường của người Lào ở Điện Biên
– Trang phục dân tộc Lào
– Điệu nhảy Lam Vong-Laos, nét quyến rũ
– Ấn tượng nghệ thuật múa nước bạn Lào
– Đặc sắc Lễ hội Bunpimay của người Lào ở Đắk Lắk
– Lễ hội Căm Mường của người Lào ở Điện Biên
– Trang phục dân tộc Lào
Cùng với 6 clips tổng thể văn hóa của dân tộc xứ Vạn Tượng
(Triệu Voi) để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
Ký Sự Tết
Lào
Dân Tộc
Lào Tây Bắc Lai Châu
FONE LAM
VONG (Múa Lăm Vong)
Saravan
Lam Vong – Múa Lăm Vong
Điệu múa
của Đất nước Lào
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét