Say đắm điệu “Xường” dân tộc Mường
Ngoài những bài ca nghi lễ
như mo, cầu vía, cầu yên, hát rang, bộ mẹng, hát ru… vượt lên trên các loại dân
ca trữ tình và các loại dân ca khác, trở thành một loại dân ca tiêu biểu của
người Mường (Thanh Hóa) phải kể đến “Xường”.
Loại dân ca dùng để giao
duyên
“Xường” – là một loại
dân ca không thể thiếu được trong đời sống của người Mường. Nó thường sử dụng
trong hát giao duyên trai gái, bộc lộ những tâm tình nỗi lòng trong cuộc sống
tình cảm. Nguồn gốc của “Xường” được các già làng truyền lại rằng:
“Xưa có mụ Dạ Dần (nữ thần
sáng tạo) gánh xường đi qua miền đất xứ Thanh. Không ai biết mụ sẽ trao xường ở
đâu và cho ai. Bỗng nhiên gánh xường đứt quai, một sọt rơi xuống mường Ai, còn
đầu kia rơi xuống mường Ống, gánh xường còn rơi vãi khắp nơi, dân mường Ống, mường
Ai bèn rủ nhau ra nhặt. Vì vậy mà xường mường Ống và mường Ai được cho đó là xường
gốc.”
Với sự kiện mang đậm tính
huyền thoại này đến nay dân gian vẫn hằng nhắc nhớ: “đứt gánh mường Ai, đứt
quai mường Ống”, địa danh đứt này thuộc đồi Lai Ly, Lai Láng, mường Ai nay thuộc
xã Văn Nho, Kỳ Tân; mường Ống thuộc các xã Điền Trung, Điền Quang huyện Bá Thước,
nơi có dãy Pù Luông quanh năm mây phủ và dòng Mã giang hùng vĩ, cuồn cuộn đổ về
xuôi. Bởi vậy, người Mường Thanh Hoá từ bao đời nay rất trân trọng và tự hào với
di sản văn hoá – xường của các thế hệ cha ông truyền lại: Đất thì xường, mường
thì rang/Kẻ Chợ, Mường Ngoài còn đang có tiếng, cả một vùng Mường quê Thanh nơi
đâu cũng cất cao khúc hát tâm tình.
Hát Xường – dân ca tiêu biểu
của người Mường.
“Xường” của người Mường
khi hát giao duyên chủ yếu là về đêm. Môi trường và không gian diễn ra trên
ngôi nhà sàn. Nam ở gian ngoài, nữ ở buồng trong, có bếp lửa hồng và ngọn đèn dầu.
Người ta còn gọi đó là áng Xường. Đến với áng Xường còn có nhiều trai gái người
đứng tuổi ngồi nghe thưởng thức. Ở đó đôi trai gái lấy lời hay ý đẹp, giọng tốt
để trao đổi tình cảm. Có nhiều “bạn đôi Xường” hát với nhau cả đêm
còn chưa thấy mặt. Đó là các trường hợp trai, gái mường xa đến chơi, giữa chủ
và khách cùng hát với nhau. Trong hát đối của các đôi nam nữ, tùy thuộc vào tài
năng của chàng trai, cô gái mà lời hát là những câu hỏi ý tứ sẽ thể hiện được
thái độ vui vẻ, giận hờn, trách móc hay nũng nịu, đằm thắm. Chính vì vậy, các
chàng trai thường trổ hết tài năng của mình khi học hát xường.
Nhìn chung ở cái ngày xưa ấy,
con trai, con gái lớn lên cùng với công việc đồng áng, nương rẫy, cày cấy, chăn
tằm, con trai phải lo học thổi sáo, đàn môi, học Xường, con gái lo thêu dệt
và học Xường. Không hát Xường được, không dám đi chơi xa và cũng
không có bạn bè. Hát Xường trở thành một sinh hoạt, một nhu cầu và một
đam mê tất yếu của người Mường, nhất là ở lớp trẻ.
Trong các loại dân ca Mường,
hát “Xường” không dễ, nhất là loại Xường gốc “Xường
cân” (trừ loại Xường tự do). Bởi vì loạiXường gốc, Xường cân bản thân
nó đã có cấu tứ riêng biệt chặt chẽ. Nó đòi hỏi người hát phải tuân theo các bước,
các cung và các bậc nhất định. Trong các bậc của Xường lại có“dắt
hoa” (cái Wa), “theo tiếng chim” (pẳt siềng chim) đôi khi trong một bậc lại
có “rẽ ngang, dán cách” (T,reẻ Zán) hoặc giam bậc, chài ra (xán
xa) nghĩa là một bên muốn nhanh lên bậc trên, nhưng một bên lại muốn giữ lại,
ghìm lại, đòi hỏi“đôi bạn Xường” phải gỡ, gỡ ra được mới là tay cao Xường.
Tương tự như vậy ở cung đầu, mặc dù bên khách đã có thể bằng lòng cùng nhau hát Xường đêm
nay “cho vui áng” hát“cùng nhau cho rạng đêm”. Nhưng khi vào cuộc là “đối
tác”(nhất là bên nữ) không phải đã dễ hát ngay. Muốn bên nữ (khách) hát thì bên
nam phải có Xường chào, hỏi, mời hát. Mời chưa hát thì nài, nài không được
thì dỗ, dỗ không được thì khích:
Em có cồng vui sao em không
gióng
Em không gióng nhiều cũng nên gióng ít
Dẫu em tiếc, em kẹt cũng gióng vài dùi
Thử xem âm thanh còn vui hay đã mất tiếng!?
Em không gióng nhiều cũng nên gióng ít
Dẫu em tiếc, em kẹt cũng gióng vài dùi
Thử xem âm thanh còn vui hay đã mất tiếng!?
Kết thúc cuộc Xường có
thể là một đêm có thể là ba đêm. Buổi kết thúc có khi họ đã mê nhau thì họ hát Xường
thề, nhưng phổ biến là Xường tiễn biệt với lời thương nhớ quyến luyến,
nhắn gửi.
“Xường” của người Mường, nhất
là Xường bậc có vị trí lớn trong văn hóa dân gian Mường. Nó làm cho tiếng Mường
trở nên trong sáng, làm cho tâm hồn Mường trở nên phong phú và nâng cao giá trị
nhân văn trong văn học dân gian Mường. Nó có giá trị đóng góp vào nền văn học
dân gian của các dân tộc Việt Nam.
“Xường” Thanh Hóa có thể
phân làm các loại sau:
Xường tự do và Xường
cân, còn gọi là Xường bậc. Xường tự dothường là thể hiện sự cảm xúc tản
mạn về nhiều mặt của cuộc đời, thân phận con người. Xường tự do là
hình thức “độc” diễn phản ánh mọi sắc thái tình cảm của cư dân Mường trong cuộc
sống, người hát tự do sáng tác hoặc hát theo lời ca có sẵn được trao truyền
trong cộng đồng
Xường bậc là hình thức
hát đối đáp giữa nam và nữ, có thể thức, cung cách riêng, người hát có tài ứng
đáp và giọng hát truyền cảm, có sức lan toả và lay động tâm hồn. Xườnglà
làn điệu hát dân gian, được dùng để ca ngợi, phản ánh tâm tư tình cảm, nguyện vọng
của nhân dân, để trai gái tỏ tình, làm quen với nhiều hình thức đa dạng. Xường có
nhiều loại:
– Xường chúc
– Xường kể
– Xường Đang
– Xường trai gái – giao duyên.
– Xường kể
– Xường Đang
– Xường trai gái – giao duyên.
Xường bậc có quy mô lớn,
dài hơi hơn, có quy củ, căn cốt hơn. Ở đó có các bước, các cung bậc. Có thể thấy
ở loạiXường này có hai cung rõ rệt. Cung đầu có thể gọi đó là cung mở đầu
để đi vào Xường bậc. Người Mường gọi đó là cung “lượn áng”. Cung này thường
thấy có các bước:
– Xường chào hỏi
– Xường mời, nài
– Bước chân ra đi
– Ngoái trông
– Khen đất khen mường
– Khen giàu có
– Đánh thức Xường
– Sự tích Xường
– Trồng bông trồng hoa
– Trồng Kè
– Mở đường
– Xường mời, nài
– Bước chân ra đi
– Ngoái trông
– Khen đất khen mường
– Khen giàu có
– Đánh thức Xường
– Sự tích Xường
– Trồng bông trồng hoa
– Trồng Kè
– Mở đường
Như vậy ở cung đầu này cũng
đã ít nhất có 11 bước, từChào hỏi cho đến Mở đường. Mở đường (Phảt
Khà) được biểu tượng như là mở đường cho đường vào đêm hát, đường tình, đường
nghĩa. Khi đã phát được đường, bắc được cầu:“Nên lối em đi nên đường anh lại” thì Xường chuyển
sang cung thứ hai là “lên bậc”.
Xường có cung có bậc
thì đã rõ, nhưng có bao nhiêu bậc? Dân gian bảo rằng có 12? Cũng cần làm quen
trong FolKlore con số ít khi là con số số học, phần lớn đều là con số ước lệ. Đừng
vội tin rằng con số 3, số 9, số 12, 18 và 36 là con số chính xác. “Mười hai bà
mụ”, “mười hai bến nước”, “ba mươi sáu chước”… đó chẳng qua là để nói số nhiều
mà thôi. Cho nên nói Xường có 12 bậc cũng theo kiểu cách đó. Nhưng
nhiều bậc trong đó thì đã rõ. Tên của các bậc đều là tiếng Mường cổ mang tính
tượng hình theo một chiều cao dần phù hợp với cung bậc tình yêu hoặc gợi lên một
cái gì cụ thể. Bậc 1 có tên “góp nhặt” (cu nhu cỏp nhỏp), ở đây là sự tìm
tòi, gom góp, nhặt nhạnh những ý hay lời đẹp để hátXường với nhau.
Các bậc có tên tiếng Mường
mang tính gợi hình: Lêu lao lên lồm, poong soong poót soót, Zờm Zờm, Zằng
Zắng… Cách hát, còn có thể gọi là trình diễn ở mỗi bậc đều có gài hoa (cái
Wa) theo tiếng chim (pẳt siềng chim) khác nhau. Đôi trai gái hát
với nhau đều phải theo “căn cốt” của Xường có đối có đáp nhưng lại phải
có vận dụng, sáng tạo “theo nó mà vượt lên nó”. Đó mới là người giỏi Xường.
Cung bậc, căn cốt không làm hạn chế sự sáng tạo của người hát Xường.
Xường chúc thường được
sử dụng trong những ngày vui như vào dịp năm mới, cầu chúc cho: Dưới sân lắm
trâu nhiều bò/Trên nhà nhiều lúa chăm, lúa nếp… Có nhiều con trai/Có nhiều con
gái/Con trai đan lưới gian ngoài/Con gái dệt vải gian trong… cuộc sống sung
túc, an lành, mạnh khỏe, chúc về nhà mới, chúc mừng đám cưới, đứa trẻ chào đời…
Xường kể (mo) thường
hát khi có chuyện buồn trong tang ma. Xường kể về sự ra đời của vũ trụ,
con người, muôn vật, lời dặn của người mất đối với gia đình, làng nước, niềm
thương xót, nhớ nhung không quên đối với người đã khuất khi từ biệt cõi đời…
Trong số các loại Xường thì Xường
trai gái là hình thức phong phú và có nhiều bài hát nhất. Xường trai
gái là các bài ca trao duyên, trao tình giữa một bên là trai thanh và một
bên là gái lịch, thông qua lời hát để bén duyên nhau mà nên chồng vợ. Xường
trai gái là lời hát cất lên từ trái tim rạo rực thương yêu, không phân biệt
địa vị cao thấp trong xã hội hay hát Xường vì vật chất.
Xường giao duyên chủ yếu
là hát về đêm: Đêm nay anh lắng em Xường/Nghe chưa liền anh đường cố chấp/Em
Xường chưa liền khúc anh chớ có cười/Hát “cho vui áng” hát “cho rạng đêm”. Môi
trường và không gian diễn ra trên ngôi nhà sàn, còn gọi đó là Áng Xường.
Trong những cuộc hát Xường thường có đầy đủ trà nước, trầu, thuốc
lào… mọi người dùng chung và đèn đuốc cũng được thắp sáng để tiện cho việc trai
gái có thể nhìn mặt chọn bạn tìm hiểu lẫn nhau… nam ở gian ngoài, nữ ở buồng
trong. Đến với Áng Xường còn có người già và trẻ nhỏ ngồi nghe thưởng
thức. Hát Xường diễn ra giữa trai gái trong làng hay từ mường xa đến
chơi, giữa chủ và khách cùng hát với nhau.
Với Xường giao duyên,
thường trong cuộc hát có hai bước chính là “lượn áng” và vào bậc. Bước thứ nhất
có các chặng đó là Xường chào và Xường mời. Xường chào là
lời chào khách của chủ, thăm hỏi, thể hiện sự kính trọng lịch sự và lễ độ giữa
chủ và khách.
Xường chào thường mở đầu
bằng những lời hỏi thăm quê quán: “Em từ cửa nhà đi ra chơi áng/Em đi đến
nơi Cun Khang bán đất/ Em đi khuất chỗ Cun Khang bán đạo/ Em ở đất mường nào lắm
cun nhiều quan?…
Xường mời thông thường
bên chủ mời bên khách hát xường, nếu chủ mời không được thì chủ nài nỉ khách.
Chủ đã hátXường nài rồi mà khách vẫn chưa chịu hát thì phải dỗ, tiếp tục
nài và dỗ bằng được cho đến khi khách lên tiếng để rồi cả hai bên cùng nhau đối
đáp với lời hát vừa thăm dò vừa khiêm nhường, ý nhị:
Nữ:
Em xường chưa liền anh đừng cố chấp
Em xường chưa liền khúc anh chớ có cười
Em xường chưa liền anh đừng cố chấp
Em xường chưa liền khúc anh chớ có cười
Nam:
Lắng xường em nói chưa liền anh đâu dám chấp
Xường em chưa liền khúc anh đâu dám chê…
Lắng xường em nói chưa liền anh đâu dám chấp
Xường em chưa liền khúc anh đâu dám chê…
Xường “lượn áng” là
khúc dạo đầu của cuộc hát Xường, chưa gửi lời thương trao lời nhớ, nhiều
khi tuy chỉ mới là lời hát chào mời mà đã thâu đêm suốt sáng.
Bước hai của Xường giao
duyên là Xường lên bậc: Xường đã có căn có cốt/Tìm đặt câu đẹp lời
hay/ Để đêm nay ta lên chơi xường bậc… Xường có nhiều bậc và thường
cho là 12 bậc ứng với mười hai tháng của một năm và phải hát tuần tự. Bậc một gọi
là:
– “Cu nhu cọp nhọp” thể
hiện sự tìm tòi, thu lượm những lời hay ý đẹp để trao duyên trao tình với nhau.
– Zờm Zờm
– Poong soong poót soót
– Zằng Zắng
– Lêu lao
– Lên lồm,…
– Poong soong poót soót
– Zằng Zắng
– Lêu lao
– Lên lồm,…
Cách hát ở mỗi bậc đều có
gài hoa (cái wa) để lên bậc, trong mỗi bậc lại có phần phát triển “trẻ
zán” khác nhau làn cho cuộc hát thêm sinh động và hấp dẫn. Trai gái hát đối
đáp với nhau đều phải tuân thủ theo quy tắc của Xường vừa phải vận dụng
linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với chủ đề, cách thức mà người hát đối với mình
đưa ra.
Thông thường, cuộc Xường có
thể là một đêm, cũng có khi là ba đêm. Khi kết thúc có:
– Xường thề
– Xường dặn
– Xường tạm biệt.
– Xường dặn
– Xường tạm biệt.
Xường thề, Xường dặn thường
kết hợp với nhau, còn Xường tạm biệt hát sau cùng với lời hát gửi
thương, gửi nhớ, thiết tha sâu nặng:
Ước chi ta đi củi chung một
vác/Đi nác chung một giếng/Náu nướng chung một bóng râm/ Trời mưa lam thâm đội
chung nón kín…,
Đến lúc chia xa thì:
Em về chốn xa đất xa mường/Anh
gửi em nón trắng đi đàng/ Gửi em trầu nang ăn sá…
Và cùng hẹn nguyền kết tóc,
xe tơ:
Muốn cho tiện nẻo đi về/Anh
sang làm rể em về làm dâu…
Như vậy ta thấy ở các cuộc
hát “Xường” nổi lên ở hai điểm, đó là cuộc sinh hoạt văn hóa: thi hát
lời hay giọng tốt, đối đáp thông minh và quan trọng là đôi bạn tình tìm đến
nhau bởi cảm mến vì tình.
Khác dân tộc Thái, dân tộc
H’Mông có tục bắt vợ, hay tục ngủ thăm của một số dân tộc phía Bắc thì tục tìm
bạn đời của người Mường, Thanh Hóa trước đây lại mang một màu sắc khác. Hát “Xường” phải
luôn được sáng tạo cho phù hợp với hoàn cảnh, tình cảm của người hát.
Cồng chiêng không chỉ đơn
thuần là nhạc cụ mà đã trở thành giá trị văn hóa tinh thần không thể thiếu
trong đời sống cộng đồng của người Mường (Hòa Bình).
Cồng chiêng trong đời sống văn hóa
của người Mường, Hòa Bình
TH-Cinet-DTV
Đối với người Mường (Hòa
Bình), cồng chiêng không chỉ đơn thuần là nhạc cụ mà đã trở thành giá trị văn
hóa tinh thần không thể thiếu trong đời sống cộng đồng.
Có thể nói, cồng chiêng có mặt
ở mọi lúc, mọi nơi trong lao động, sinh hoạt đời thường; trong quyền lực của
lang đạo xưa và trong lễ nghi tín ngưỡng phong tục, trong suốt cuộc đời người
Mường từ khi sinh ra đến khi về với Mường ma.
Không gian văn hóa cồng
chiêng Mường bắt nguồn từ truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời, được khẳng định
trong quá trình lao động, sáng tạo nghệ thuật và được kế tục qua nhiều thế hệ.
Dù chưa có công trình nghiên cứu về việc chế tác chiêng của người Mường nhưng từ
xa xưa, họ đã biết thổi hồn cho cồng chiêng, sáng tác được các bản nhạc và tạo
ra những phương thức đánh chiêng phù hợp với tính cách, tâm lý đặc trưng của
dân tộc.
Một bộ cồng chiêng hoàn chỉnh
có 12 chiếc, chia đều ra làm 3 bộ (chiêng dàm, chiêng bồng, chiêng tlé), ngoài
ý nghĩa âm nhạc còn biểu hiện cho 12 tháng trong năm. Chiêng có mặt ở mọi lúc,
mọi nơi trong lao động, sinh hoạt đời thường; trong quyền lực của lang đạo xưa
và trong lễ nghi tín ngưỡng phong tục, trong suốt cuộc đời người Mường từ khi
sinh ra đến khi về với Mường ma. Chiêng còn là dụng cụ thông tin liên lạc, báo
hiệu, phát lệnh khi bản làng có cướp bóc, giặc giã để tập hợp nhân dân cùng
đoàn kết bảo vệ sự bình yên.
Một bộ cồng chiêng của người
Mường (Hòa Bình).
Cồng chiêng gắn bó với người
Mường không chỉ để thỏa mãn nhu cầu thưởng thức âm nhạc mà có vai trò lớn trong
lao động, sản xuất. Trong khi trống đồng là loại vật linh được coi là quyền sở
hữu của tầng lớp lang đạo lớn xưa thì cồng chiêng chiếm lĩnh, lan tỏa trong
không gian rộng lớn, in sâu, hòa đậm trong mỗi bản làng, gia đình một cách dung
dị.
Người Mường có tới 24 lễ hội
có sử dụng cồng chiêng như lễ mừng nhà mới, thành hôn, khai hạ… Nếu cồng chiêng
Tây Nguyên người đánh chủ yếu là nam giới thì với người Mường là nữ giới. Nhiều
tài liệu ghi lại, trước đây, người Mường đã sử dụng tới trên 1.000 cô gái với
phương thức hòa tấu, trình diễn trên 1.000 chiếc chiêng. Âm nhạc nền nếp, sôi động,
giai điệu hòa thanh chuẩn mực, động tác, đội hình chuyển động thướt tha, giàu mỹ
cảm.
Ngày nay, với phương thức
trình diễn linh hoạt, cởi mở, từ dàn chiêng nhỏ tới dàn chiêng hoành tráng hàng
ngàn chiếc phối hợp với nhiều hình thức khác tạo nên nền âm nhạc, không gian
văn hóa cồng chiêng đương đại.
Không gian văn hóa cồng
chiêng Mường hình thành, phát triển là một hiện tượng văn hóa đặc sắc, quý giá
trong nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Nó có giá trị cao, nâng đỡ sự cộng cảm,
bồi dưỡng tinh thần cộng đồng và lòng tự hào dân tộc, góp phần tạo nên bản sắc
riêng biệt đối với mảnh đất, con người Hòa Bình.
Lễ thờ cá của người Mường
Một số tín ngưỡng đặc trưng của người Mường
TH-Cinet-DTV
Với người Mường cư trú ở các
tỉnh miền núi phía Bắc, tín ngưỡng giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống
tinh thần cũng như sinh hoạt, lao động của họ.
Các dân tộc miền núi phía Bắc
có rất nhiều tín ngưỡng thờ phụng. Đối diện cuộc sống nơi núi cao hiểm trở, thời
tiết khắc nghiệt, họ càng cần nhiều hơn niềm tin tâm linh, làm chỗ dựa để vượt
qua những khó khăn. Trong số đó, phải kể đến các tín ngưỡng độc đáo của dân tộc
Mường.
Tín ngưỡng thờ đá
Người dân tộc thường thờ những
hòn đá có hình thù kỳ lạ, liên tưởng đó là các vị thần, thánh đã giúp con người
chinh phục thiên nhiên. Tục thờ đá được thể hiện rõ nét nhất ở trong lễ mừng
nhà mới với các ông đầu rau (hòn nục chủ và hai hòn nục treo), thờ các vị chư
thần thổ địa, thờ thần đá (bụt mọc).
Người dân tộc Mường ở Cao
Phong (Hòa Bình), ngày nay vẫn còn tồn tại truyền thuyết về thần đá. Bấy giờ,
khi khơi dòng lấy nước làm ruộng, gặp phải hòn đá chắn dòng, người dân bẩy đi
chỗ khác để nước tiêu thông. Hôm sau, kỳ lạ thay khi hòn đá đã trở về chỗ cũ.
Người dân lại tiếp tục đẩy xa hơn nữa nhưng liên tiếp nhiều ngày, sự lạ vẫn tiếp
diễn. Theo lời thầy cúng, người dân bèn mang đá về thờ. Từ đó cuộc sống được thần
đá phù hộ, khiến mưa thuận gió hòa. Tục thờ thần đá cũng có từ lúc đó.
Tín ngưỡng thờ cây
Người Mường cho rằng có những
loài cây có tính linh thiêng, là nơi trú ngụ của các lực lượng siêu nhiên, người
dân tộc coi việc thờ cây có ý nghĩa quan trọng. Các loại cây được tôn làm vật
thiêng và thờ cúng là si, chu đồng, đa, gạo… Thậm chí, nhiều loại cây xuất hiện
rất sớm trong các tác phẩm văn học dân gian truyền miệng. Điển hình như tác phẩm
“Đẻ đất, đẻ nước” của người Mường (Hòa Bình).
Một số dân tộc khác còn có tục
thờ mía trong các đám tang hay trở thành lễ vật trong đám cưới truyền thống.
Trong các ngày lễ mừng cơm mới, họ còn có tục thờ lúa nương, với quan niệm cây
lúa cũng có linh hồn, nếu chăm chỉ cầu khấn, lúa Mẹ sẽ gọi vía các lúa con về
sinh sôi nảy nở, giúp cho cuộc sống của người dân thêm no đủ.
Tín ngưỡng thờ động vật
Cuộc sống nơi núi rừng hàng
ngày đều đối mặt với các loài muông thú, đa phần các dân tộc đều cho rằng thú rừng
như hổ, báo, hươu, nai… đều là những con vật linh thiêng, vừa là nguồn thức ăn
quý giá, vừa là vật tế lễ, chứa đựng những sức mạnh siêu nhiên. Nếu thờ cúng,
người đi rừng sẽ tránh được tai họa khi, có thêm sức mạnh.
Ngoài động vật trong rừng,
các vật nuôi trong nhà như trâu, bò, lợn, gà… đều được cho là những con vật có
linh hồn. Các bài văn nói trong đám tang cổ truyền của một số dân tộc có những
đoạn kể tạ ơn các con vật đã gắn bó thân thiết với con người. Ví dụ khá độc
đáo, người Mường có tục thờ Cóc, là loài đã có công gọi mưa và đem lại sự sinh
sôi nảy nở cho dân bản. Hình tượng cóc đã được đúc trên mặt các trống đồng ở
Hòa Bình còn được lưu giữ đến nay. Trong các đám tang một số dân tộc, còn thấy
xuất hiện các hình tượng cờ con cá, đại diện cho nước và cờ con hươu, đại diện
cho trên cạn, cùng dẫn đường cho linh hồn người chết về với cõi trời.
Tín ngưỡng dân gian đã tác động
vào mọi mặt đời sống của người Mường, hình thành một hệ thống nghi lễ, phong tục
tập quán bền vững trong sản xuất, đời sống xã hội và tâm thức, tình cảm, nếp
nghĩ của mỗi người dân Mường. Tín ngưỡng đã đóng vai trò thiết yếu trong cuộc sống
của con người và cộng đồng dân tộc. Sinh hoạt lễ hội diễn ra thường xuyên đã
làm cho đời sống văn hóa tinh thần trở nên phong phú, góp phần quan trọng xây dựng
kho tàng văn hóa dân gian đặc sắc của người Mường.
Màn biểu diễn săn thú tại lễ
hội mở cửa rừng.
Lễ hội Mở cửa rừng của người Mường Yên Lập, Phú Thọ
TH-Cinet-DTV
Lễ hội Mở cửa rừng là lễ hội
truyền thống của người Mường huyện Yên Lập (Phú Thọ), đã ăn sâu vào tiềm thức của
mỗi con người, trở thành “món ăn tinh thần” không thể thiếu mỗi dịp xuân về.
Lễ hội Tì Sằn – đooc moong
hay còn gọi là lễ hội Đi săn – Mở cửa rừng của người Mường huyện Yên Lập thường
được tổ chức vào ngày mồng 6 hoặc mồng 7 Tết; một số nơi khác tổ chức vào 15
tháng Giêng âm lịch để bắt đầu một mùa mới vào rừng hái lượm và săn bắt thú.
Thành quả sau khi vào rừng
săn.
Theo tích xưa ghi lại: Trong
lễ hội này, một người săn giỏi (trùm săn) của mường cùng các cụ già có kinh
nghiệm bàn định hướng xuất phát làm ăn và chọn điểm săn. Mọi người tỏa ra vây
quanh, những thợ săn giỏi tìm chỗ đón lõng ở các khe, các lối mòn thú hay đi,
những người khác khép kín dần vòng vây. Những chú chó săn của mường theo hiệu lệnh
của cồng săn vượt lên sục sạo các bụi rậm đánh hơi thú. Thú rừng bị vòng vây
khép kín dồn dần vào một nơi. Trước là bị chó tấn công, sau là người ùa đến
dùng gậy nhọn, cây lao chặn đánh. Cuộc săn chấm dứt bằng hiệu lệnh cồng.
Lễ hội Mở cửa rừng luôn thu
hút nhiều người tham gia vì đây là dịp vừa để gặp gỡ, giao lưu vui vẻ vừa để cầu
mong cho một năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, thể hiện ước nguyện,
khát vọng về cuộc sống ấm no, sung túc về vật chất, tinh thần cũng như sự tuần
hoàn của quy luật để vạn vật sinh sôi, nảy nở.
Biểu diễn điệu đâm đuống
trong lễ hội Mở cửa rừng.
Tại lễ hội nhiều tiết mục
văn nghệ quần chúng, trình diễn các tiết mục diễn sướng dân gian được tổ chức
như: Múa trống đu, hò đu, múa sênh tiền, đâm đuống của dân tộc Mường, giao hữu
bóng chuyền, đi cầu kiều, chọi bi, đánh cờ tướng. Ngoài ra còn có các gian hàng
bày bán các mặt hàng đặc sản, nông sản của địa phương như nếp gà gáy, nếp
nương, mật ong, khoai, sắn, măng…
Mở cửa rừng là lễ hội truyền
thống của người Mường huyện Yên Lập, đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi con người,
trở thành “món ăn tinh thần” không thể thiếu mỗi dịp xuân về. Đây là một hình
thái sinh hoạt đặc biệt với tổng hòa văn hóa và nhiều loại hình nghệ thuật độc
đáo. Nó có vai trò quan trọng trong tích lũy, kế thừa và củng cố các giá trị về
tính cố kết cộng đồng. Trong đó, hội đi săn thú là quan trọng nhất và mang tính
cộng đồng rõ nét nhất, có ý nghĩa mở đầu cho một mùa làm ăn, lao động gặp nhiều
may mắn, đem lại những kết quả tốt đẹp.
Đây cũng là nơi gặp gỡ, vui
chơi, giải trí nên nó có ý nghĩa tinh thần to lớn với người Mường nói chung và người
Mường xã Minh Hòa nói riêng… Hi vọng lễ hội này sẽ được tổ chức thường xuyên
hàng năm để thế hệ trẻ sau này có cơ hội tìm hiểu sâu hơn, rõ hơn về lễ hội và
truyền thống văn hóa của dân tộc mình.
Nghi lễ Sắc phong và Rước
Thánh trong lễ hội Đình Cổi
Lễ hội cầu phúc Đình Cổi dân tộc Mường, Hòa Bình
TH-Cinet-DTV
Lễ hội Đình Cổi được duy trì
qua nhiều thế hệ, giờ đây đã trở thành một nét văn hóa truyền thống không thể
thiếu trong đời sống sinh hoạt của người Mường (Hòa Bình).
Nói văn hoá dân tộc ở tỉnh
Hoà Bình thì trước hết phả nói tới văn hoá của dân tộc Mường. Do những đặc điểm
về lịch sử và vị trí địa lý cho nên người Mường còn bảo lưu được nhiều giá trị
văn hoá cổ truyền. Phần lớn đồng bào Mường vẫn ở nhà sàn, uống rượu cần và có
nhiều sinh hoạt văn hoá cộng đồng trên nhà sàn. Truyền thống đạo đức gia đình
giữ được những nét đẹp: Yêu trẻ, kính già, hiếu khách. Không những thế, người
Mường nơi đây vẫn giữ được những lễ hội cổ truyền: Hội xuân Xéc bùa, hội Xuống
đồng, hội cầu Ma, lễ Rửa lá lúa, lế Cơm mới… Trong các lễ hội không thể thiếu lễ
hội Đình Cổi.
Đình Cổi xưa còn có tên gọi
là Đình Chung Điếm, được khởi dựng vào đầu thế kỷ 19, tọa lạc trên khu ruộng Cọil
Khưa, gần chân núi Khụ Bậyl. Đình làm theo kiến trúc nhà sàn của người Mường 3
gian 2 trái với 6 hàng chân cột được kê trên đá tảng, mái lợp tranh, dài khoảng
8m, rộng khoảng 5m, cao 7m, gồm cửa chính, một cửa phụ và 7 cửa voóng, gầm sàn
cao 1,4m. Mặt quay hướng Nam. Vật dụng để dựng đình chủ yếu bằng gỗ. Các vị thần
được thờ tại đình là: Quốc Mẫu Hoàng Bà, Vua Cả (Thánh Tản), Vua Cun, Vua Hai
(Cao Sơn và Quý Minh đại Vương), Thành Hoàng, ông bà Nhất Huyệt, Kem, Cai…
Vào ngày mồng 7 tháng Giêng
theo lịch Mường (tức ngày mồng 8 tháng Giêng Âm lịch hàng năm), người dân xã
Bình Chân ở huyện Lạc Sơn lại tổ chức lễ hội Đình Cổi. Bà con nơi đây không còn
nhớ lễ hội Đình Cổi có từ bao giờ, chỉ nghe các cụ già trong làng kể lại. Thời ấy,
Mẹ là Quốc Mẫu Hoàng bà cùng các vua thường qua lại đây dạy dân cách trồng trọt,
khai phá ruộng nương, cấy lúa, trồng bông dệt vải. Nhớ ơn công đức, lời dạy của
Quốc Mẫu và các vua, người dân trong vùng đã lập miếu thờ. Lễ hội Đình Cổi bắt
đầu từ đó và được duy trì qua nhiều thế hệ, giờ đây đã trở thành một nét văn
hóa truyền thống không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của người Mường.
Mâm cúng các vị thần có đầy
đủ lễ ngọt và lễ mặn.
Lễ hội được bắt đầu bằng một
hồi trống để báo hiệu cho con cháu trong Mường về tụ họp ở đình làng. Nghi lễ đầu
tiên là rước kiệu, có thầy mo đi đầu làm lễ, sau đó là đoàn khênh kiệu, cờ hội,
đoàn cò ke ống sáo, đội múa chèo và đoàn sắc bùa. Tất cả đều ăn mặc theo đúng
phong tục xưa.
Khi thầy mo làm lễ mời các
thần về dự hội thì cũng là lúc đoàn múa chèo bắt đầu biểu diễn. Điều đặc biệt
là những người múa chèo phải là con trai ở xóm Cành. Vì theo chuyện xưa những đứa
trẻ chăn trâu ở xóm Cành gặp Quốc Mẫu cùng hai con gái là vua út, vua cả từ Ba
Vì về đến đồng Khâm Mụ, xã Bình Chân thì trời đã trưa, ba mẹ con ngồi nghỉ ăn
cơm gói. Thấy trẻ trâu xóm Cành chia thành hai bên để chơi trò chơi, Quốc Mẫu
và các vua biến thành người ăn xin rồi tham gia một điệu múa. Điệu múa đó được
gọi là múa Chèo, dân làng Cổi thường tái hiện vào dịp lễ hội hàng năm, phản ánh
về quá trình sản xuất nông nghiệp, hôn nhân gia đình và truyền dạy cho đời về đạo
lý làm người.
Trong mâm cúng các vị thần
(Quốc Mẫu Hoàng bà, vua và Thành Hoàng làng) ngoài các sản vật như xôi trắng,
thịt trâu, rượu còn có các món ăn chay như chuối luộc, đu đủ luộc, mía và các
loại bánh…
Xong phần “Lễ”, phần hội được
mở ra tưng bừng, náo nhiệt mà tiêu biểu là các màn múa sơ khai nguyên thuỷ, mô
tả đời sống sinh hoạt vui tươi, lạc quan của dân Mường. Trong âm thanh rộn rã của
bài cồng “Bông trắng bông vàng” hoà nhịp với dàn nhạc sênh tiền, trống, phách;
các điệu múa bắt ếch, giáo roi, xỏ rề, đi cấy, kéo tiền và mặt mẻ… lần lượt được
biểu diễn.
Lễ hội không chỉ mang ý
nghĩa truyền thống “uống nước nhớ nguồn, mà còn là dịp để cầu phúc, cầu mùa “trồng
ngô có bắp to; trồng lúa có bông dài, hạt chắc; nuôi con cúi, con ca mau lớn;
con cháu được khỏe mạnh, học hành tiến bộ; ra đường gặp bạn bè luôn hòa nhã; đi
đường gặp bình an…
Hội Đu Xuân – một nét đẹp
trong đời sống
văn hóa của người Mường
Độc đáo Hội đu xuân của người Mường, Yên Bái
TH-Cinet-DTV
Hội đu xuân từ lâu đã trở
thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa của người Mường, huyện Văn Chấn (Yên
Bái). Đây còn là dịp để các nam thanh nữ tú qua giao duyên, đối đáp mà nên vợ
nên chồng.
Người Mường ở Văn Chấn vẫn
giữ được nhiều tập quán truyền thống trong đó có tục chơi đu ngày xuân. Cây đu
(cội đu) của người Mường chỉ được dựng vào dịp tết nguyên đán. Thời gian vui
chơi hội đu thường kéo dài từ 30 tết đến rằm tháng giêng. Hoặc do có những nơi
xưa kia chỉ làm một vụ nên sau tết là lúc nông nhàn họ có thể chơi đu hết tháng
giêng. Nhưng nếu chơi đu cả ngày chỉ có từ 30 tết đến hết mùng 4 còn lại thường
chơi vào ban đêm.
Cây đu của người Mường được
dựng trước Tết Nguyên đán vài ngày. Trước khi bước vào hội đu người già có uy
tín trong làng, bản sẽ tiến hành lễ cúng đu nhằm báo với tổ tiên trời đất rằng
mùa xuân đã về. Già làng cũng cầu khấn các vị thần linh phù hộ cho người dân
trong bản làng được mạnh khỏe, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi.
Người Mường quy định chỉ những
nam thanh nữ tú chưa có gia đình mới được tham gia vào hội đu. Bước vào hội đu,
những người chơi đu cùng nhau hát một câu khai hội:
Cứ như vậy, người hò người
đáp làm cho không khí của hội xuân diễn ra hết sức lãng mạn, bay bổng theo từng
câu hát giao duyên của những nam thanh nữ tú. Khi đáp lại tất cả mọi người đều
phải bắt đầu từ Hò gia ơi (Hò trả ơi…) đây chính là câu mời được ngân nga để mời
người khác đối đáp lại. Những người có khả năng đối đáp nhanh, có gọng hò hay
và nhớ được nhiều câu hò sẽ được những người tham quan cổ vũ, reo hò.
Nội dung của những câu hò,
câu đối trong của những cô gái chàng trai người Mường là những câu hát giao
duyên, gửi trao tình ý, tình cảm sâu sắc. Qua một vào câu hát, cô gái chàng
trai nào dường như đã hiểu được tình cảm ẩn sâu trong những lời hát đó sẽ xin
được dừng cuộc chơi và nhường chỗ đu đó cho những người khác. Họ chủ động hẹn
hò nhau, mời nhau thăm nhà, làm quen với cả gia đình và bắt đầu cuộc hẹn hò
trong mùa xuân đó.
Khi cảm thấy thực sự mến
nhau họ có thể xin cho cội đu dừng lại để xuống đu, với lý do có thể họ muốn
đưa cô gái ấy về nhà kẻo trời tối, trời mưa…bố mẹ cô gái sẽ lo. Đồng thời đó là
sự khéo léo nhường chỗ trên đu cho người khác. Xuống khỏi đu cô gái chắc chắn sẽ
còn nhiều e dè. Nhưng người con trai chủ động tiếp cận. Nếu cô gái mời về nhà
thì đó là điều kiện tốt nhất để thăm nhà cô ấy, làm quen với cả ga đình và hẹn
gặp nhau vào lúc nào đó trong hội đu xuân. Tất nhiên không dễ gì mà trong ngày
một, ngày hai đã được các cô gái mời về nhà, vì các cô gái rất thận trọng trong
việc làm quen. Hội đu xuân của người Mường là một hình thức sinh hoạt văn hóa
giao duyên trong ngày xuân, nó còn là nơi giao lưu của cộng đồng gắn chặt tình
đoàn kết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét