Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2016

Tiếng khèn gọi xuân trên bản Mông

Tiếng khèn gọi xuân trên bản Mông
Khi tiếng chày giã bánh dày của đồng bào dân tộc Mông vang lên cũng là lúc tiếng khèn Mông với những bản tình ca mang đậm bản sắc dân tộc vang vọng khắp núi rừng, gọi mùa xuân về.
Chúng tôi có dịp đến với đồng bào dân tộc Mông hai xã Sơn Thủy và Na Mèo (huyện Quan Sơn) vào dịp đầu xuân. Con đường vắt vẻo lưng sườn núi, ẩn hiện trong sương mù đưa chúng tôi đến với bản Mông khi trời đã xế trưa. Hít căng bầu không khí chốn vùng cao thanh bình, chúng tôi, những lữ khách lần đầu đến với bản người Mông cũng thấy xuân đang ùa về trong lòng. Theo triền dốc, chúng tôi đến thăm gia đình Thao Sấy Dế, một “thần khèn” của bản Mùa Xuân (Sơn Thủy). Thao Sấy Dế vừa rót rượu mời khách, vừa nói: Tiếng khèn là món ăn tinh thần của người Mông ta. Nó xuất hiện gần như trong tất cả các hoạt động đời sống hàng ngày của người dân trong bản. Với những chàng trai người Mông, tiếng khèn sẽ mang lại sức mạnh cả thể chất và tinh thần. Vì thế, ngay từ khi còn trẻ họ đã bắt đầu lắng nghe và đi theo tiếng gọi của khèn. Theo ông Dế và những người già trong bản, đã là con trai người Mông khi biết cầm cái cuốc lên nương, cầm con dao lên rẫy cũng là lúc biết cầm cái khèn. Câu chuyện thêm phần hấp dẫn khi Thao Sấy Dế chỉnh trang lại cây khèn và tấu lên một bản nhạc rộn ràng cùng với những bước nhảy điêu luyện, uyển chuyển như hội tụ tinh hoa của cuộc sống lao động. Với người Mông, thổi khèn không đơn giản là để giải trí, mà còn là thể hiện tài nghệ của mình và thông qua tiếng khèn réo rắt, nhiều chàng trai, cô gái đã tìm được “một nửa” của mình để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.
Khèn Mông là nhạc cụ đa thanh, đa âm sắc với tiết tấu linh hoạt, cùng một lúc người chơi có thể thổi được nhiều âm, nhiều bè, khi trầm, khi bổng. Ông Dế cho biết, muốn có một cây khèn mang đúng những âm thanh của người Mông thì phải chọn được thân gỗ Pơmu vừa ý, chọn được những gióng trúc vừa tầm và không thể thiếu kinh nghiệm và tính kiên nhẫn của người làm ra nó. Trải qua thời gian, cuộc sống nay đã có nhiều đổi thay, nhưng tình yêu và sự gắn bó của người Mông với cây khèn vẫn vậy, tiếng khèn được lưu truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác. Tiếng khèn theo đồng bào Mông lên nương, xua tan những nhọc nhằn, vất vả; tiếng khèn tha thiết gọi bạn tình đến bên nhau và đặc biệt mỗi dịp Tết đến, xuân về tiếng khèn càng thêm rộn rã để gắn kết những tâm hồn, hòa quyện con người với thiên nhiên.

Ở những bản Mông như bản Mùa Xuân, Xía Nọi, xã Sơn Thủy hay bản Ché Lầu, xã Na Mèo, trong ngày hội xuân, chàng trai nào thổi khèn hay, múa khèn dẻo, không chỉ được các cô gái thầm yêu trộm nhớ mà còn nhận được sự quý mến của dân bản. Khi thổi khèn, các chàng trai thường kết hợp với một điệu múa hay một điệu nhảy nào đó. Để thể hiện được một điệu múa khèn, các chàng trai phải có sự tập luyện, có sức khỏe dẻo dai và phải khéo léo trong từng động tác. Trong các điệu múa khèn, điệu khèn Pá Hộc vui nhộn, khỏe khoắn được người Mông sử dụng nhiều hơn cả và điệu múa này bao giờ cũng được bà con dân bản cổ vũ nồng nhiệt. Anh Sung Tông Pó, một “tay” khèn giỏi của bản Xía Nọi cho biết, điệu khèn Pá Hộc được xem là “độc chiêu” của người Mông ở Quan Sơn nói riêng và ở xứ Thanh nói chung, chỉ có người Mông Thanh Hóa mới thể hiện được cái “hồn” của điệu múa này.
Giữa muôn ngàn thanh âm, sắc màu và hơi ấm nồng nàn của núi rừng hòa quyện trong tiếng khèn Mông da diết, lắng lòng mình trong giây lát, tôi cảm nhận nhịp sống bất tận của mùa xuân đang về nơi vùng cao, biên giới. Chia tay bản Mông khi ráng chiều đã đổ, tiếng khèn gọi bạn, gọi tình yêu, tiếng khèn xua tan mệt nhọc sau những giờ lao động vất vả, tiếng khèn gọi mùa xuân đến với núi rừng nơi vùng cao yên bình như vẫn réo rắt trong tôi. Một mùa xuân mới lại về trên những dãy núi cheo leo và “Rượu ngô anh uống khèn anh thổi - Váy hoa em múa hòa sắc xuân”.

Phong Sắc
Bếp lửa ngày đông
Những khoảnh khắc giao mùa tạo ra bao cung bậc, bao ấn tượng về sắc màu hoa lá, cỏ cây. Và chớm đông khi cái rét ngọt đã thấm về thì bếp lửa bập bùng vun lên trong ta bao ký ức…
Bếp lửa ngày đông chính là điểm nhấn hội tụ vừa bập bùng ảo ảnh cũng chính là nơi vun lên những nhỏ nhoi niềm vui tí tách len lỏi vào tâm tư, lan tỏa vào mạch giao cảm khi đốt những lụi tàn, nhen nhóm những tro than, thổi bùng lên hy vọng. Bếp lửa là nơi ta trở về với tuổi ấu thơ mà “chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu - đến bây giờ sống mũi vẫn còn cay” (Bằng Việt).
Không hiểu sao tôi vẫn thích “Bếp lửa ngày đông” hơn là “Bếp lửa mùa đông” những khoảnh khắc bất chợt với những ngấn thời gian chia nhỏ như lóng mía, đốt cau cứ từng tấc một để vươn cao và bùi ngọt. Vị ngọt của hương đất, hương đời, trong ngọt có cả bùi và ấm. Có cả chút đắng đót để miếng trầu thêm đậm cho sắc da thêm đỏ, cái kẹo mía thêm giòn, những sợi mật thêm dai. Một sự dẻo dai quyến luyến hòa nhau đánh thức mọi khứu giác chứ không phải bọt bèo hòa tan, nông nổi nhạt nhẽo. Bếp lửa ngày đông có gì lạ đâu mà sao cứ rưng rưng lạ lùng, cứ làm nhẹ nhõm cả người như nâng bổng ta lên mà không hời hợt bãng lãng cứ bập bùng quấn quýt thật độ lượng và tin cậy biết bao.
Khác với ánh lửa gas xanh lè hay ngọn lửa hồ quang nhức mắt của hơi thở công nghiệp lạnh lùng, có chút gì đó vô cảm. Hơi lửa có sóng điện riêng, có tần số riêng bằng sự đồng điệu của những nhịp đập trái tim đỏ thắm sắc hồng cầu tình cảm.
Có hai câu thơ của nhà thơ Hữu Thỉnh thật ám ảnh day dứt trong tôi: “Còn một chút hoa dong riềng cuối dậu/Có một ngày sương muối đến mang đi”. Màu hoa dong riềng như một ánh lửa thiên nhiên lẻ loi thắp lên từ đất, tự dâng hiến mình để củ khoai bụ bẫm hơn, thơm bùi hơn giấu sau màu đất giá lạnh sương muối của mùa đông khắc nghiệt. Mới biết sức sống của thiên nhiên lớn lao hết mình thì sao ta lại không truyền giữ và khơi bùng bếp lửa như một hồi âm đồng vọng giữa héo khô và tươi cháy, giữa mộc đến hỏa đúc cho người một khối kim trong veo, không đọng cặn cát bụi đời thường. Mà kết tụ thành “Bông hồng vàng” như tên một thiên truyện nổi tiếng của nhà văn Nga Pau-tốp-xít-ki, những cám vàng li ti, in hình vảy lửa của thổn thức tình người.

Trong những ngày giá lạnh đầu đông này, ta lại bùi ngùi khi thấy những người bán hàng rong nhen bếp lửa bên hè phố để tiếng rao không khản giọng. Rồi bếp lửa vùng cao các em học sinh đến lớp hơ những con chữ mỏng manh, xiêu vẹo trên chính hơi ấm của rừng. Và ngoài đảo khơi xa các chiến sĩ hải quân tựa lưng tìm hơi ấm vào nhau trong nhà giàn heo hút gió, thèm nghe tiếng lửa ấp úng cơm sôi với bóng dáng mẹ già. Bếp lửa ngày đông – bếp lửa mùa đông đang nhóm trong ta bao niềm tin cuộc sống. Đừng để ngày xưa ấy lụi tàn – ai đã từng nói thế! Trong ánh sáng quang phổ mặt trời ta thấy cả diệp lục màu xanh. Trong ánh sáng điện gần như không trọng lượng ta thấy cả quang hợp màu sáng và trong ánh sáng của bếp lửa ta thấy cả màu ấm tình người…
Nguyễn Ngọc Phú
Cảm xúc xuân
Không còn bao nhiêu ngày nữa, tết lại về. Mùa đông năm nay không lạnh lắm, chỉ thoáng hơi sương mỏng mảnh để các nàng làm điệu với áo khoác, với phu la (khăn choàng cổ) nhưng cũng không giấu được rằng xuân đã cận kề.
Ngoài vườn, những chiếc lá mai già cỗi đang cố khoe chút sắc xanh cuối cùng để chờ bàn tay người lặt lá. Lác đác mấy cành ra nụ sớm khiến ai nghe lòng nao nao. Mấy trái mận vừa rũ xong những tia bông trắng muốt và đang dần hồng lên để đón tết. Trên cành bàng, chiếc lá mới thay nghe chừng xanh lắm màu cốm ngọt. Lũ én cứ xôn xao trên những dây đèn đường như hình những nốt nhạc xuân. Bên rào, ai phơi tấm lụa màu, vắt ngang lòng chút dịu nhẹ cuối đông.
Bước ra phố, bắt gặp sự lấp lánh, lung linh của những chùm đèn, những dây kim tuyến, của ngồn ngộn hàng hóa chờ người mua. Phố đã mang một vẻ đẹp khác, không diêm dúa nhưng lộng lẫy, huy hoàng. Chợt thấy mình như hạt bụi giữa dòng chảy xô bồ, náo nhiệt. Người, xe nhoáng nhoàng qua lại, bán mua. Chỉ riêng mình đứng nép bên lề, ngắm nhìn và hân hoan. Nỗi hân hoan vì hạnh phúc đến bất chợt giữa những bộn bề lo toan thường nhật.
Trời không nhiều mây trắng. Nắng cũng nhẹ nhàng hơn. Ba ngày mưa giữa mùa đông đã rửa trôi những nặng nề của ngày tháng cũ để tết đến thanh sạch, lắng đọng hơn. Chỉ mong sao chiều trôi thật chậm, đêm qua bình yên, giấc mơ thấm đẫm nồng nàn để níu kéo mùa đông ấm. Tiếng còi tàu những ngày cuối năm như chùng xuống, kéo dài như muốn ngân nga rồi tan loãng nhanh trong tâm thất. Những cảm xúc cũ mới lẫn lộn, đan xen. Những hồi ức của ngày mười tám tuổi cựa quậy, xôn xao…
Khuya. Sương không buông. Những chiếc lá thấp thoáng ánh trăng cuối cùng của một năm. Mùa treo bên song thưa. Chiếc áo cũ như một nốt lặng giữa không gian tĩnh mịch. Ngày mai thay áo mới, dấu hiệu của mùa xuân vĩnh cửu và an nhiên. Hoa cũng vàng ươm theo nắng, gieo rắc ánh vàng trên đồi hương.
Tết này lại có chợ đêm. Luồn tay vào áo đan nghe mùa xuân đang về. Tìm bàn tay ai, nắm chặt, sợ lạc giữa thinh không ồn ã. Nải chuối, buồng cau, quả sa bô chê, trái dưa hấu… nổi bật lên trong sợi khói lan man trên bàn thờ. Nghe lòng ấm và êm. Biết tình còn vương.
Không biết cành lộc năm nay bao nhiêu lá. Không biết hướng xuất hành ngày đầu năm. Nhưng biết mùa xuân không bỏ quên một ai. Một ít hương hoa. Một ít tin lành. Lời cầu chúc luôn ở trên môi. Xuân muôn hướng. 
Mai Kim Dung
Nhớ tết xưa
Nhớ lại tết xưa, cứ nhằm từ 23 tháng chạp là tiếng quạ kêu oàng oạc, quạ khoang, quạ đen bay vắt bụi tre này sang bụi tre khác trong xóm ngoài làng, ngó nghiêng, ngóng xuống từng nhà mổ lợn để kiếm tí mỡ chài, mẩu lòng vụn. Qụa cũng có những ngày tết đúng nghĩa của nó: có món tươi, no nê mấy ngày, dù chỉ là nhặt nhạnh.
Những năm trời ấm thì có nhà vẫn tranh thủ đổ ải, bắt nước vào những chân ruộng cao, cấy vội cho mạ ấm chân trước tết thì mới yên mà ăn tết! Lúc này nhiều nhà nhà chăm lo vào lá dong, củi gộc chuẩn bị nồi bánh chưng cho ngày tất niên nên nước nôi đỡ bị tranh giành. Những con chìa vôi, từng đàn sáo thấy mặt ruộng sóng sánh nước thì bay về sà xuống nhặt con dế, con cập cậy con nhện và các loài sâu bọ chui lên khi sặc nước. No ơi là no. Chúng cũng có những ngày tết no nê cùng với con người.
Bố tôi chuẩn bị thịt lợn, nhưng thường là vào hai tám tết cơ.
Ngày ấy, lợn chăn thân chuối băm với ít cám. Ăn chẳng có gì nên có con nuôi cả năm chỉ còi cọc vài ba chục cân. Gía như ngày nay, con lợn ấy có giá phải biết. Nhưng thời mới hòa bình lập lại thì bố chỉ biết than thở, nuôi cả năm ba chục kí là lợn sán mới thế.
Những năm ấy chưa ai biết bao cấp là gì, Tem phiếu là sáng kiến đẻ ra trong những năm đánh nhau với Mĩ. Còn trước đó thì dân chỉ có trách nhiệm đóng thuế nông nghiệp, giết trâu bò lợn thì nộp thuế sát sinh. Ngưồn thu của Chính phủ có nhõn mấy thứ. Chính quyền và dân, thân ai nấy lo. Cán bộ xã không có lương, chẳng biết nhà nước trợ cấp bằng gì , nhưng khối xã chỉ dăm mống chứ không hàng đàn hàng lũ ban ngành lên hàng trăm người như bây giờ. Khi ấy chính quyền với dân gần nhau nhưng đều nghèo rơi nghèo vãi. Đến rau muống cho bữa ăn cũng còn tiềm tiệm, lấy gì mà đầy bùn đầy vữa như ngày nay!

Những năm ấy chờ mãi mới thấy tết. Mỗi cái tết cách nhau đến hàng mấy năm hay sao í. Chả bù bây giờ vèo cái đã tết. Người già thấy tết mau hơn trẻ thơ mấy lần.
Tết ở thôn quê là của trẻ thơ mới đúng. Mỗi đứa trẻ thế nào được mẹ may cho bộ quần áo mới. Chưa đến tết là chưa có! Ngày trước ai cũng chỉ hai bộ quần áo. Bộ này thay giặt thì mặc bộ khác. Chẳng như bây giờ, có người mặc chục năm mà áo không sờn cổ, hỏi ra năm mặc có hai ba lần , còn thay áo khác.
Quay lại chuyện tết.
Hai tám tết, con lợn mổ ra thì ăn bộ lòng, cái thủ, chân giò, lá mỡ rán cất đi dự trữ được mấy tháng xào rau. Thịt pha ra lấy ít nạc vai ướp nhân bánh chưng, còn lại cắt miếng cho vào chum ướp muối để dành cho cả năm. Miếng thịt ngày đó hiếm nên mùi thơm nó cũng kéo dài hơn hôm nay. Tất nhiên lúc ấy không ai viết nó là “ thịt sạch”. Khi nghèo cái gì cũng sạch, thịt sach, rau sạch, gạo sạch, hoa quả thực phẩm toàn sạch. Tinh thần con người cũng sạch nốt! Mãi sau những năm sáu mươi thì những phuy DDT sữa dùng phun trừ sâu mới thấy lăn về thôn xóm. DDT là thuốc độc đầu bảng. Lúc ấy nó là quả bom hạt nhân với các loài sâu bọ. Thày thuốc trên cánh đồng là đàn sáo mất dần vai trò… Giống như ngày nay có cày bừa máy thì con trâu mất vị trí đầu cơ nghiệp.
Con người đi một chặng đường dài tìm cách tăng trọng lợn cùng tăng sản lượng các loại lương thực, phát triển đủ thứ cho năng suất cao… Để rồi hôm nay bối rối với các loại thực phẩm bẩn tấn công vào sức khỏe của mọi người. Của đáng tội, khoa học kĩ thuật đâu có lỗi. Lỗi ở sự lạm dụng đến thái quá. Trên đời các cụ tổng kết bằng bốn chữ “ thái quá bất cập”. Sự lạm dụng bây giờ trên đủ phương diện từ chính trị đến khoa học kĩ thuật, văn học nghệ thuật, nhiều cái đi quá giới hạn. Hỏi thế nào là quá giới hạn? Cái gì bắt đầu tác hại đến con người, làm cho người ta sống không yên là quá giới hạn chứ còn gì nữa!
Có lẽ đã đến lúc hình thành một thành ngữ mới, thành ngữ của thế kỉ 21: “đói quá chết/ no quá cũng chết/ vừa đủ thì sống”.
Nhớ lại hay ngoái lại quá khứ là việc cần lắm. Có người bảo khi sống với kí ức thì con người đã chết. Cái đó đúng nhưng đúng với người chỉ sống với nó. Còn kí ức chính là sự nhắc nhở tươi rói để con người điều chỉnh cuộc sống hôm nay. Mất quá khứ thì còn gì để so, để rút kinh nghiệm, để thấy cái sai mà tránh vấp lại những lỗi lầm đã mắc ở quá khứ. Mất quá khứ, khi ấy con người sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn.
Mỗi năm. Cứ giáp tết ai cũng thời gian chững lại. Thời gian chầm chậm thì con người có dịp ngoái nhìn quá khứ. Tết là ngày “vọng” của năm. Nhớ một lần được nghe ông Vũ Kì nói cụ Hồ giảng giải về việc thắp hương mồng một và ngày rằm. Cụ bảo “đó là sóc và vọng. Sóc là ngày đầu tháng, thắp nén nhang cắm vào bát hương để định việc trong tháng. Còn ngày rằm giữa tháng là ngày nhìn lại những gì làm được từ đầu tháng đến giờ để tính hoàn thành nốt phần còn lại”. Cụ Hồ lý giải với tinh thần cách mạng, nhưng ta hiểu rằng cái ý đó rất hay. Năm có cái tết chính là ngày vọng để cùng nhau nhìn lại thành quả năm qua, hoạch định cho công việc năm tới , cần lắm chứ.
Nhớ…
Những ngày cuối năm này mỗi người đều có nỗi nhớ của mình, nhớ cái mình quan tâm nhất cho một năm mới tới vun vén cho thêm đầy để năm sau lại vọng thấy cuộc sống thêm ý nghĩa đáng sống.
16/1/2016
ĐỖ ĐỨC
Một năm mới

Từng tờ lịch cuối cùng của năm cũ lần lượt rời đi và chuẩn bị cho một ngày mới, tháng mới, năm mới. 365 ngày thấm thoát trôi xa với bao việc đã làm và những việc dở dang ở mỗi người, mỗi gia đình. Năm nay, mưa thuận gió hòa không bão lũ thì năm tới sẽ không hề giản đơn với thời tiết đỏng đảnh ở mỗi vùng đất có nhiều sông ngòi lẫn biển biếc.
Tờ lịch đầu tiên mở đầu một năm của hy vọng, cũng như các nhà vườn đang chăm chút cho từng cánh hoa để trong nắng se lạnh đầu mùa sẽ bừng nở đầy sắc thắm, lung linh theo gió mà tràn ngập các loại hoa xuân. Đồng lúa vàng là ước ao của bao đời người bắt đầu vào mùa gieo sạ với niềm tin là ngọn lúa trĩu bông đến với từng vụ; những nhà máy hay cả công trường luôn mong tiếng máy reo vui và những công nhân cười tươi vào, ra rộn rã. Một năm dần qua và một năm đang đến trong nắng se lạnh với từng cánh hoa bừng sắc.
Buổi sáng cuối tuần, nơi góc phố còn mờ sương. Ngồi bên những người bạn ở xa và cả gần bên ly cà phê tỏa hương thì câu chuyện vẫn rôm rả một đề tài: Tết đã về. Vâng, tết đã về khi tờ lịch đầu tiên thơm xực đầy mới mẽ đã ở trước mặt ta. Và sau tờ lịch ấy, lần lượt sẽ đến một cái tết dân tộc an vui, ấm áp nhưng trước đó cũng có bao nỗi lo toan; lo toan trong một hạnh phúc: tàu xe cho con về từ một mái trường, từ một nhà máy, từ một tiền thưởng, từ những ngày nghỉ, từ vật giá của những món hàng đón tết...
Dù gì, thì tết đã về, năm mới đã đến lúc thời tiết dần thay đổi cho những cánh chim thiên di lần lượt bay về vùng nắng ấm. Nắng se vàng dịu ngọt, dịu ngọt trên từng khuôn mặt, từng nụ cười, trong từng gia đình, trong những con phố cùng với dòng sông, cánh đồng, nhà máy, công trường… khi một mùa xuân, một cái tết dân tộc đang chầm chậm đến…

Huỳnh Thạch Thảo

Theo http://www.lengoctrac.com/




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...