Nẻo về của Ý @1
PHẦN THỨ NHẤT
I/ POMONA là cái tên cái
nhà gỗ trong rừng của tôi đang ở. Nguyên Hưng cứ tưởng tượng một buổi sáng thức
dậy ở Phương Bối Am, lúc bảy giờ. Chim chóc hát vang rừng và ánh sáng tràn
vào thành từng vũng lớn. Tôi đến đây vào một buổi tối; xe hơi len lỏi trên những
con đường rừng thành ra không thấy gì. Sáng dậy, tôi giật mình vì tiếng chim
hót, vì căn nhà gỗ và sự yên tĩnh mà đã hơn một năm nay tôi thiếu thốn. Ở Nữu Ước
dù thức dậy lúc ba giờ khuya ta cũng vẫn nghe tiếng xe cộ đi lại. Tôi nhớ hồi mới
về Nữu Ước, suốt một tuần lễ tôi không ngủ được. Tôi than phiền với một người
quen. Anh ta mua biếu tôi một thứ bông sáp để nhét vào tai khi đi ngủ. Cố nhiên
là đỡ ồn rồi, nhưng tôi vẫn không ngủ được bởi vì không thể quên được vì không
thể quên được cái cảm giác là lạ trong hai tai. Mãi mấy hôm sau tôi mới làm
quen với tiếng ồn và mới ngủ được. Thực ra, tất cả chỉ là vấn đề thói quen. Có
người đã quen với tiếng tích tắc của đồng hồ, thiếu nó thì cũng không ngủ được.
Nguyên Hưng không nhớ hồi anh Cường lên chơi và ngủ lại Phương Bối Am sao. Đã
quen với tiếng xe cộ đường Hồng Thập Tự nên nằm ở Phương Bối anh ấy cũng không
ngủ được vì cái yên tĩnh kỳ lạ của núi rừng Đại Lão.
Tôi thức dậy trong một sự
yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là
tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác. Tôi
khoác chiếc áo nhật bình đi ra ngoài. Thật ra một cảnh tượng thần tiên. Tôi có
ngờ đâu căn nhà gỗ này nằm bên một chiếc hồ lớn - lớn hơn cả hồ Dalat. Mặt hồ
sáng loáng phản chiếu nắng buổi mai, đẹp rực rỡ như tranh thần thoại. Bờ hồ là
cây rừng; lá cành mang nhiều mầu sắc. Trời sắp ngả sang thu rồi đó, Nguyên
Hưng.
Tai tôi thoáng nghe tiếng cười
đùa. Tôi vừa đi vào con đường mòn vừa gài khuy áo, tìm tới gần chỗ phá xuất ra
tiếng nói cười trẻ em. Đi chừng hai trăm thước tôi thấy hiện ra một khu có sân
rộng, có tới mấy chục ngôi nhà gỗ như Pomona, nhưng bé hơn Pomona. Bọn trẻ con
đang rửa mặt, đánh răng. Đây là là Cherrokees, trại của các em nhỏ từ bảy
đến mười một tuổi. Rải rác trong rừng còn có năm hay sáu làng nữa, của những lứa
tuổi lớn hơn. Khu rừng mấy trăm mẫu này hiện dùng làm trại hè - trại Ockanickon,
cho học sinh. Để trốn nắng thành phố, tôi đã về đây, sống với thiên nhiên, với
rừng xanh, hồ biếc và trẻ thơ. Tôi sẽ ở lại đây vài ba tuần nữa trước khi trở về
lo công việc mùa thu.
Ngay đầu tôi đã ở chơi suốt
ngày với các cậu bé làng Cherrokees. Các cậu bắt đâu được một chú nai
con mới sinh được ba bốn ngày. Mẹ nó đã bỏ nó đi đâu mất. Các cậu bé đem nó về
trại nuôi. Ban giám đốc trại làm cho các cậu ấy một cái nhà lưới rộng, có hai
phòng, để nuôi chú nai con. Chúng đặt tên con nai là Datino. Datino có bộ
lông mầu vàng điểm nhiều chấm sao trắng rất đẹp. Datino được các cậu bé cho ăn
cháo tấm trộn với sữa tươi, và bắp cải non. Sống được tám tuần lễ ở trong trại
rồi, Datino đã lớn. Nhờ sự chăm sóc của các cậu bé, nó đã cao chừng bốn tấc
tây. Tôi cũng hay quanh quẩn với các em chung quanh cái nhà lưới của Datino và
hay hái những cành có lộc non cho Datino gặm. Pomona thanh tịnh quá khiến tôi
ít ưa đi đâu nữa. Tôi có đem về đây mấy cuốn sách nhưng không đọc. Nguyên Hưng
nghĩ đọc làm sao được khi rừng cây thanh tịnh như thế kia, hồ nước xanh mát như
thế kia, tiếng chim hót trong trẻo thế kia. Có những buổi sáng tôi đi vào trong
một khu rừng thưa và ở lại đó một mình cho đến chiều. Tôi đi thơ thẩn trong rừng
hay nằm dài trên những thảm rêu mềm mại, khoanh tay nhìn trời xanh, mây trắng.
Những lúc như thế này tôi thấy tôi đổi khác. Có thể nói là tôi tìm thấy rõ mặt
mũi chân thực của tôi thì đúng hơn. Những nhận xét, những cảm nghĩ, những quan
niệm không còn giống như những nhận xét những cảm nghĩ những quan niệm hồi tôi
còn ở Nữu Ước. Tôi thấy sự vật sáng hơn, khỏe hơn và ít tầm thường hơn. Chiều
hôm qua tôi ngồi trên một chiếc thuyền con và tự chèo lên phía Bắc của hồ, trên
một cây số. Tôi ngồi chơi giữa những bông súng cho tới khi trời nhuộm mầu tím mới
bơi về. Tối quá, tí nữa thì không tìm ra được cái bến xinh xắn của Pomona.
Rừng ở đây không có sim như ở
Phương Bối nhưng có một thứ trái cũng tìm và ngọt như sim, gọi là blueberries. Sáng
hôm nay tôi đưa hai chú bé chừng tám tuổi vào hái blueberries ăn đến chát cả mồm
cả miệng. Hai cậu bé nói chuyện huyên thuyên không ngớt. Một cậu nói chuyện ông
Ba Bị mà cậu trông thấy hồi hôm. Ông kẹ của cậu có sừng trên trán và đang lúc cậu
ngủ, trong một chiếc lều ở Cherokees, thọc tay vào cửa sổ lều định bắt cóc
cậu. Cậu nói chuyện một cách say sưa, thành thực. Có lẽ có một ông Kẹ giả nào
đó thì mới khiến cậu tin chắc như vậy được. Tôi vừa nghe vừa cười, vừa lo hái blueberries. Hồi
lâu, không thấy phản ứng chi, cậu tức quá, dừng lại, nói một cách thất vọng:
“Ông không tin lời của em”. Tôi trả lời: “Có chứ, tôi tin, nhưng tin vừa vừa
thôi”. “Tại sao?” “Tại vì khó tin quá, tôi cố gắng mới có thể tin em một ít như
vậy”. Cậu buồn xo. Chiều đến, cậu dắt tới Pomona một cậu bé để làm chứng.
Cậu này cũng kể chính cậu cũng thấy ông Ba Bị. Hai cậu tranh nhau hùng biện,
cố làm cho tôi tin. Cuối cùng tôi phải gật đầu công nhận “Thôi được, tôi tin lời
hai cậu”. Tôi nhói như vậy và đứng dậy đưa hai cậu về trại Cherrokees.
Nguyên Hưng, trong những
ngày như ngày hôm nay tôi nhớ Phương Bối quá đi. Có phải là thỉnh thoảng đến
Phương Bối, ngày xưa, chúng ta cũng hay mang một vài em bé đi thám hiểm núi rừng
Đại Lão hay không? Rừng Đại Lão Sơn hoang vu rậm rạp và nguy hiểm hơn đây nhiều.
Chẳng thế mà có bận chúng ta đã gặp cả cọp. Tôi nhớ Phương Bối Am quá cho đến nỗi
nhiều đêm nằm mơ thấy về Phương Bối. Nhưng tội nghiệp chưa, chẳng bao giừo về tới
được Phương Bối cả. cứ về gần tới Phương Bối thì y như là có một trở
lực gì ngăn chận lại. Vì thế càng nhớ, càng xót xa thêm. Quê hương chúng ta đã
không phải là Phương Bối sao? Nguyên Hưng thường nói: “Phương Bối không thuộc về
chúng ta. Chính chúng ta thuộc về Phương Bối”. Phải có những ràng buộc mật thiết
lắm với Phương Bối mới có thể nói những câu tương tợ như vậy. Phải có những gốc
rễ ăn sâu vào Phương Bối lắm mới có thể biểu lộ được tình cảm như thế ấy. Tôi
biết lắm. Người ta thường nói chỉ có những kỷ niệm đau buồn mới ở lâu với con
người. Sự thực không hẵn như vậy. Nguyên Hưng, có phải những ngày sung sướng nhất
của chúng ta là những ngày ở Phương Bối không? Và có phải vì những ngày đáng
ghi nhớ ấy mà chúng ta hướng về Phương Bối từ bất cứ phương trời nào, nhưng những
bông hoa hướng dương kia không?
Những ngày khai sinh của
Phương Bối không có mặt Nguyên Hưng. Hồi dó Nguyên Hưng còn ở Dalat. Chúng ta
đã đi từ thất vọng này sang thất vọng khác trong niềm ao ước tìm một lối thoát
cho chúng ta, cho thế hệ những người trẻ tuổi muốn đem lý tưởng đạo Phật làm đẹp
cho cuộc đời. Nguyên Hưng trẻ hơn tôi đến gần mười tuổi, nhưng mà Nguyên Hưng
cũng đã chịu biết bao nhiêu nỗi thảm nhục rồi. Chúng ta đã đau khổ vì tình trạng
chính trị của đất nước. Chúng ta lại còn đau khổ vì tình tdrạng của đạo Phật. Hồi
ấy chúng ta đã nói tới vấn đề hiện đại hóa đạo Phật. Hồi ấy chúng ta đã cố gắn
mọi cách gây ý thức về một nền Phật giáo dân tộc để mong phục hồi sinh lực dân
tộc trong ước vọng xây dựng xứ sở. Tôi dã làm báo đã viết sách. Nào báo Hướng
Thiện, nào báo Liên Hoa, nào báo Sen Hái Đầu Mùa. Năm 1955, chắc
Nguyên Hưng còn nhớ, tôi được Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam giao cho chủ bút tờ Phật
Giáo Việt Nam. Lúc đó, tôi đã có dịp gây ý thức về một nền Phật giáo nhân
bản và dân tộc. Tôi cũng đã thấy rõ tính cách rời rạc phân tán của tổ chức đạo
Phật, nên đã cố gắng viết tất cả những gì tôi nghĩ về một nền Phật giáo thống
nhất toàn vẹn. Tôi chắc Nguyên Hưng biết rõ những nguyên do gần xa trong ngoài
của sự rời rạc. Hơn hai năm sau, tờ báo bị đình bản. Lý do là hết tiền. Nhưng kỳ
thực, đó là vì các nhà lãnh đạo Phật giáo miền Trung và miền Nam không chịu đựng
được những lọat bài nói về vấn đề thống nhất thực sự. Trong một buổi họp, họ đã
lấy cớ hết tiền để kết liễu sinh mệnh của tờ báo. Họ có nói: “Ai lại tờ báo của
Tổng hội mà đi dạy Tổng hội về vấn đề thống nhất bao giờ”.
Nguyên Hưng, thế là chúng ta
mất khí giới cuối cùng. Chính trị thì khôn ngoan, tìm đủ mọi cách cho tiềm lực
dân tộc không có cơ phát hiện. Tổ chức Phật giáo thì thủ cựu, chia rẽ. Chúng
ta, những người trẻ tuổi, không có tiền bạc. Không có uy thế, không có một “miếng
đất để cắm dùi”, làm sao thực hiện được ước mộng? Sau một thời gian ốm đau tưởng
chết, tôi rút về nằm ở ngôi chùa nhỏ bé và an tĩnh ở Blao. Còn Nguyên Hưng và
các bạn thì mỗi người phiêu lưu một ngả. Lần thất bại này có lẽ là lần thất bại
to lớn nhất có phải không Nguyên Hưng?
Tôi về nằm ở chùa Blao,
nhưng cũng không được yên ổn mấy, bởi vì đây là chùa quận hội Phật giáo. thỉnh thoảng
có chị Diệu Âm ở Djiring vào đem cho thuốc men, và một ít trái cam
tươi. Chị Diệu Âm, mà công trình đối với Phương Bối không phải là nhỏ, nay đã nằm
yên dưới lòng đất rồi. Có phải chính nhờ chị mà chúng ta có đủ can đảm và kiên
nhẫn để tạo dựng nên Phương Bối phải không Nguyên Hưng?
Tôi xin trở lại câu chuyện
những ngày đầu tiên khai sanh Phương Bối. Ấy là vào khoảng Vu Lan năm 1957. tôi có
nói với chị Diệu Âm: “Chúng tôi mất chiếc neo cuối cùng rồi. Có lẽ dức chúng
tôi đang còn mỏng quá. Chúng tôi phải trở về trong một cái vỏ cứng để tu luyện
trong một thời gian đã. Chị kiếm cho chúng tôi một nơi ẩn dật đi”.
Chị Diệu Âm hồi ấy trú tại Djiring trong
một tịnh xá tên là Mai Lâm. Mai lầm tức là Rừng Mai. Chính vì vậy mà
hồi chị mất, để nhớ chị chúng ta đồng ý đặt tên cho chiếc cầu gỗ phía trước cửa
rừng Phương Bối là Cầu Mai. Cầu Mai bây giờ có lẽ đã mục nát rồi. Lâu nay,
từ Huế, có khi nào Nguyên Hưng lăn lội về ghé thăm Phương Bối và chiếc cầu xinh
đẹp đó không?
Chị Diệu Âm nói: “Tôi tiếc
không nhường Mai Lâm lại cho các chú được, bởi vì tôi không có thẩm
quyền. Chớ nếu tôi nhường được tôi sẽ nhường ngay. Tôi về Huế, ở chùa Thiên
Minh”. Quý hóa thay tấm lòng của chị Diệu Âm. Tôi cười, trả lời: “Chị mà về
Thiên Minh thì còn tệ hơn là chúng tôi không có chỗ ở”. Và Nguyên Hưng ơi,
chính trong những giờ đàm luận ấy mà chúng tôi thấy nẩy sinh trong óc các ước
muốn và dự định thành lập một khu tĩnh cư trên rừng Đại Lão. Khu ấy sẽ rất yên
tĩnh, sẽ ít ai đến được. Khu ấy sẽ rộng, sẽ có đru núi đồi, suối, vườn, tĩnh đường,
thư viện, thiền thất. Chúng ta cần một nơi như thế, có phải không Nguyên Hưng.
Chúng ta phải có một nơi như thế để quay về. Để chữa cho lành những vết thương
rướm máu. Để nuôi dưỡng bồi đắp lại những gì mà chúng ta đã phí phạm. Để chuẩn
bị cho một cuộc hành trình khác. Niềm tin, sự trong trắng của tâm hồn chúng ta
đã bị hao tổn một cách nặng nề. Chúng ta nhận thức được điều đó, và chúng ta
quyết định tìm con đường phải đi. Phải trị liệu, phải bồi đắp, phải nuôi dưỡng
trước đã. Nếu không, chúng ta sẽ mất chúng ta. Tôi đã ước ao có một nơi do
chúng ta mới thực hiện được công trình “tu luyện” cần thiết. Bởi vì chúng ta sẽ
không thể lmà được gì nếu vẫn phải sống mãi cái đời ăn gửi, nằm nhờ.
Nguyên Hưng biết, hồi đó,
chúng ta đã có vào khoảng trên hai vạn cuốn sách. Núi rừng, cây, suối, thiền thất
và thư viện hấp dẫn chúng ta như một dòng nước mát đối với kẻ bộ hành trong sa
mạc, như gói quà trong rổ chợ của bà mẹ đối với đưa con thơ. Tôi đã bàn với
Thanh Tuệ, với chị Diệu Âm. Thế là chúng tôi nhất định thực hiện cho kỳ được.
Cái đời bấp bênh của chúng ta phải được rẽ qua một hướng mới.
Đại Lão Sơn vốn là một
khu rừng núi phía trên đèo Blao, cách đèo chừng sáu cây số. Từ Saigon lên bằng
quốc lộ số 20 đến cây số 180, nhìn sang tay trái về phía những núi đồi cao nhất:
đó là rừng Đại Lão. Muốn tới Phương Bối Am, ta phải từ Blao đi về phía đèo bằng
quốc lộ. Đến cây số 180, ta phải bỏ quốc lộ băng qua chừng ba cây số đường rừng.
Hồi ấy, đất rừng ở đây được xem như là vật sở hữu của những người Thượng. Những
khu đất gần hai bên quốc lộ thì hoặc đã được khai thác trồng trọt, hoặc đang
còn là đất rừng - nhưng là thứ đất rừng của người Kinh đã mua lại từ người Thượng.
Người Thượng thường chịu bán đứt đất rừng cho người Kinh bằng một giá hạ. Vượt
ba cây số đường rừng, chị Diệu Âm, tôi và một người bạn tên là anh Điều làm trắc
nghiệm viên dừng lại để nhìn ngắm khu rừng núi hùng vĩ và huyền bí trước mặt.
Đó là Phương Bối tương lai. Phương là thơm, là quý. Bối là
lá bối đa, một thứ palmier lá dài. Ngày xưa chưa có giấy người ta viết
kinh trên thứ lá ấy. Phương Bối nói lên được ý hướng quý trọng và phụng sự nền
văn học đạo Phật của chúng ta. Phương Bối là lý tưởng của chúng ta có phải vậy
không Nguyên Hưng?
Khu rừng núi kia nằm trong địa
hạt làng B’su Danglu của người Thượng. Sau mấy tuần khó nhọc chị Diệu
Âm, anh Điều và tôi tìm được vị trí và được bản đồ của khu dất chúng tôi muốn
mua lại của người Thượng. Khu đất rộng 25 ha 9525, như vậy là gần hai
mươi sáu mẫu tây đất rừng. Mà Nguyên Hưng có biết hồi đó chúng tôi mua với giá
bao nhiêu không? Hai trăm năm mươi đồng bạc Việt Nam một mẫu. Giá của khu rừng
gần hai mươi sáu mẫu là sáu ngàn năm trăm đồng. Nguyên Hưng đừng tưởng chúng
tôi bắt ép người Thượng hiền lành để mua đất của họ bằng một giá rẻ đâu nhé. Bởi
vì đấy là giá chính thức họ bán cho mọi người. Hồi ấy, chúng tôi có tặng thêm
cho những người Thượng kia ba ngàn rưỡi bạc nữa đấy.
Nguyên Hưng có biết chúng
tôi mua bán với ai không? công tác mua bán với hai người Thượng hiền
lành. Một người tên là K’Briu. Người kia tên là K’Brôi. Cả hai đều
không biết chữ. Nhưng vị chánh tổng của họ. Chánh tổng Mã Blao, tên
là K’bres và vị quận trưởng Thượng của họ, tên K’Dinh thì
biết chữ và ký bằng bút máy. Một buổi sáng tháng tám trời nắng ấm, Tuệ và tôi
đi vào quận để làm giấy. Gặp các ông K’Briu, K’Brôi, và vài người nữa. Rồi
tôi ký tên vào mua cái văn tự bán đất (Sao lại bán nhỉ. Phải là mua mới
đúng chứ?) đầutiên trong đời. Văn tự đó như sau:
VĂN TỰ BÁN ĐẤT
Giữa hai đàng,
Những người Thượng tên
K’Briu, tên K’Brôi dân làng B’su Danglu, tổng Mã Blao quận Blao, tỉnh Đồng Nai
Thượng, bên này, và tăng sĩ Nhất Hạnh, nhà ở chùa Phật Học, bên kia.
Đã thỏa thuận như sau: Những
người Thượng, chiếu thượng, do văn tự nầy, đã bằng lòng bán đứt cho tăng sĩ Nhất
Hạnh một khoảnh đất kê khai như sau:
VỊ TRÍ: Một khoảnh đất diện
tích 25ha 9525 (hai mươi lăm mẫu tây chín ngàn năm trăm hai mươi lăm thước
vuông) tọa lạc tại làng B’su Danglu quận Blao, tỉnh Đồng Nai Thượng, ngang cây
số 180-/-900, quốc lộ 20, Bắc giáp đất ông Trương Út và đất rừng, Nam giáp đất
rừng và đất ông Trần Ngọc Quýnh.
Đông giáp đất rừng và đất
ông Trần Ngọc Quýnh, Tây giáp đất ông Đặng Văn Lân và đất ông Trương Út. (bản đồ
đính hậu).
NGUỒN GỐC: Những người
Thượng tên K’Briu, K’Brôi trước sự hiện diện của ông Phó Lý làng B’su
Danglu cam kết rằng khoảnh đất trên hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của họ, chưa hề
cầm cố, để đương hay sai áp, và cũng không phải là công điền công thổ của làng.
QUYỀN SỞ HỮU: Văn tự đoạn
mãi này xác nhận sự di chuyển quyền sở hữu và tăng sĩ Nhất Hạnh được trọn quyền
sở hữu trên khoảnh đất trên, kể từ ngày thành lập văn tự này.
GIÁ CẢ: Khoảnh đất này
đã thỏa thuận đoạn mãi với giá là 6.500đ00 (sáu ngàn năm trăm đồng bạc chẵn) và
đã giao trước sự hiện diện ông Đại Diện Hành Chánh Blao, ông Chánh Tổng Mã
Blao và ông Quận trưởng đồng bào Thượng chứng kiến cho các người bán đất đã
lãnh đủ số tiền và điểm chỉ vào văn tự này vì không biết chữ, không biết ký.
Bên mua phải đăng bộ thổ,
đóng bách phần cùng các thứ thuế khác tại bộ điền địa Đà Lạt.
Làm tại Blao ngày mùng 7
tháng 8 năm 19…
Dưới văn tự, có dấu điểm chỉ
của K’Briu, K’Brôi của phó lý làng B’su Danglu, có chữ ký của Chánh tổng Mã
Blao và K’Bres của quận trưởng Thượng K’Dinh và của ông Quận trưởng quận hành
chánh Blao nữa. Bên cạnh chữ ký của K’Brôi, K’Briu, là chữ ký của tôi, tăng sĩ
Nhất Hạnh. Thế là, Nguyên Hưng ơi, tôi đã trở thành địa chủ rồi đó. Địa
chủ của gần hai mươi sáu mẫu tây đất rừng. Tha hồ sau này cho cộng sản tố khổ.
Biết đâu trong khu rừng núi gần hai mươi sáu mẫu ấy, lại không có vài vị chúa
sơn lâm lưu trú. Ở nông trại Đại Hà các ông Ba Mươi dã chẳng thỉnh
thoảng về chơi ban đêm đó sao?
II
Mấy hôm nay mưa lớn quá.
Nguyên Hưng. Căn nhà gỗ Pomona của tôi bị dột, mưa giọt xuống ướt cả
mấy cuốn sách để trên bàn. Tôi phải dời cái bàn đi mấy lần mới tìm ra được một
chỗ bảo đảm. Tối hôm qua một đám thanh niên chừng hai chục người từ trại Rangers đã
tới thăm Pomona để nghe tôi nói chuyện về đạo Phật. Trong thời gian lưu
trú tại đây, tôi làm guest speaker cho cả trại mà. Nói cho nhóm này
nghe rồi đến nhóm khác, về đủ các thức chuyện. Tôi đã nói cho tất cả là
tám nhóm rồi kể cả một nhóm cherrokees nhỏ xíu. NhómRangers là
nhóm lớn. Họ mang tới mỗi người một ôm củi dể đót trong lò sưởi lều Pomonacủa
tôi. Trời hơi lạnh thành đốt như thế vừa ấm lại vừa vui. Họ ngồi quây
quần quanh lò sưởi nghe tôi nói chuyện. Lúc đó tôi mặc chiếc áo nhật bình
mầu khói hương, cho nên tôi bắt đầu nói về chiếc áo nhật bình để cho
họ biết đây là chiếc áo đặc biệt của những chú tiểu Việt Nam chứ không phải là
quốc phục Việt Nam như vài người đã lầm tưởng. “Đáng lẽ thì tôi mặc chiếc áo
tràng mầu nâu kia kìa”, tôi vừa nói vừa chỉ chiếc áo treo ở góc phòng,
“nhưng vì muốn có cảm giác trẻ con nên tôi ưa mặc áo nhật bình”. Thế rồi
tôi đứng dậy mặc chiếc áo tràng vào và giải thích cho họ biết ý nghĩa của mầu
nâu. Màu của khiêm nhượng của trầm lặng và của ý hướng đồng sự với người
dân quê. Nhân tiện tôi cũng khoác chiếc y màu vàng lên và giải thích cho họ
biết thế nào là giải thoát phục và trong những trường hợp nào thì cần phải mang
y. Và do đó tôi nói đến sự khác biệt của hai truyền thống Nam Tông và Bắc Tông
của đạo Phật và một vài khởi điểm của nhận thức đạo Phật. Rồi tôi chỉ cho họ biết
một ít điểm dị đồng căn bản giữa đạo Phật và Cơ đốc giáo là tôn giáo mà họ đang
theo. Thường thường những buổi nói chuyện như thế được họ theo dõi một
cách rất chăm chú và khi tôi kết thúc buổi nói chuyện, họ đặt rất nhiều câu hỏi. Nếu
chỉ cho họ hỏi mãi có lẽ họ sẽ hỏi cho đến hết ngày. Những điều họ tò mò
muốn biết thì vô cùng mà thời gian dành cho những câu hỏi thì có hạn. Họ hỏi
nhiều câu như: tại sao mái chùa lại cong lên như vậy? Tại sao lại ăn chay? Ông
Thầy tu đạo Phật cưới vợ được không? đạo Phật nghĩ về đức Jésus như
thế nào? những câu hỏi như thế tuôn ra bất tuyệt. Hồi hôm, để chấm dứt,
tôi bảo họ im lặng để tôi đọc cho họ nghe một bài kinh. Tôi đọc bào “vô
biên phiền não đoạn”.Khi họ ra về thì đã mười một giờ. Tôi cho thêm ít củi
vào lò sưởi, và còn lại một mình tôi ngồi nhìn ngọn lửa bốc cháy. Trời vẫn
còn mưa tầm tã. Chắc Saigon cũng đang mưa. Thanh Tuệ từ Đại
Hà vừa viết thư cho biết rằng Phương Bối mưa suốt mấy tuần nay, mái nhàThượng trên
đồi đã bị gió thổi bay mất một mãnh lớn. Không biết Tuệ có chịu vào chữa lại
hay không, hay là lại để cho gió tốc cả cái nhà Thượng đi mất. Chiếc nhà
Thượng cao chót vót trên đỉnh đồi chính mà chúng ta đã mất bao nhiêu công trình
mới làm nên được. Chiếc nhà ấy đẹp nhất trong những ngôi nhà rải rác ở các
núi đồi Phương Bối, có phải không Nguyên Hưng. Hai mái thật cao như hai bàn tay
người Phật tử chắp lại kiểu hiệp chưởngkhi chào nhau. Chính trong
ngôi nhà Thượng ấy chúng ta đã sống những giờ thật vui vẻ và thanh tịnh. Những
giờ học tập, hội thảo, đàm đạo, uống trà và cả nghe âm nhạc nữa. Bữa khánh
thành ngôi nhà, tôi còn nhớ, chúng ta đã nấu xôi và chè đậu xanh đãi vỏ ăn mừng.
Nhà Thượng được làm theo kiểu nhà sàn, và chúng ta đã ngồi bệt xuống
sàn nhà theo kiểu người Nhật và khi đau chân quá thì đổi ra kiểu người Miên.
Tôi ngồi ở Pomona trong
một đêm mưa mà cứ tưởng là ngồi ở Phương Bối một đêm mà cả Tuệ, cả Lý, cả
Nguyên Hưng, cả thầy Thanh Từ và cả dì Tâm Huệ nữa đều vắng mặt. Có lúc
tôi mỉm cười yên lặng một mình. Quả thực mỗi người trong chúng ta đều thuộc
về Phương Bối, như Nguyên Hưng đã nói cho tôi xem là Nguyên Hưng có nhớ Phương
Bối không nào?
Để tôi nói tiếp về câu chuyện
hai mưôi lăm mẫu chín ngàn năm trăm hai mươi lăm thước vuông đất rừng ở làng
B’su Danglu cho Nguyên Hưng nghe. Sau khi chúng tôi mua khu đất thì chúng tôi hết
cả tiền, ngay cả số tiền nhỏ dành để uống thuốc, vì hồi ấy tôi còn chưa được
bình phục. Sau khi mở vài cuộc thám hiểm khu rừng núi Đại Lão, bác Đại Hà và
tôi quyết định phá đi một khoảnh rừng chứng bốn mẫu để trông cây trà và một khoảnh
khác gần ngọn đồi cao nhất để làm một căn nhà. Phải trồng trà thì mới có phương
tiện tự túc, vì Phương Bối sẽ không phải là nơi lui tới của những người thập
phương. Phương Bối sẽ chỉ là của riêng chúng ta (Nguyên Hưng xem chúng mình chấp ngã và ngã
sở ghê chưa) và hoàn toàn do chúng ta tự do sắp đặt và định liệu. Trước hết,
phải thuê hàng chục người Thượng tới dùng xà gạc để đốn khu rừng dự định trồng
cây trà. Sau đó chừng một tháng, khi thân cây và cành lá đã khô thì đem lửa tới
đốt. Phải đốt bốn mặt để cho ngọn lửa chạy vào trung tâm, như vậy tránh được
cháy rừng. Đốt xong thì phải dọn rừng, khiên những thân cây bị cháy xém chất
thành từng đống lớn. Cành lá thì đã cháy thành tro. Đợi trận mưa đầu
mùa tới là đào lỗ chôn thành hàng và gieo hạt trà. Hạt trà thì chúng tôi
đã đi xin được rát nhiều ở các đồn điền lớn trong quận. Từng đó công việc
đòi hỏi một số tiền. Thanh Tuệ đã phải vềSaigon giao thiệp với các
nhà xuất bản và phát hành để thâu số tiền bản quyền những cuốn sách mà tôi đã
giao cho họ. Với một số tiền của chị Diệu Âm giúp nữa, chúng tôi khởi
công.
Chính bác Đại Hà một người kinh nghiệm làm rừng, đã chỉ huy công việc giúp chúng ta.Một buổi sáng có nắng cách đó chừng năm tháng, chị Diệu Âm giúp nữa, chúng tôi khởi công. Chính bác Đại Hà, một người bạn có rất nhiều kinh nghiệm làm rừng, đã chỉ huy công việc giúp chúng ta. Một buổi sáng có nắng cách đó chừng năm tháng, chị Diệu âm, Thanh Tuệ và tôi, tất cả đều nai nịt gọn ghẽ, theo bác Đại Hà đi vào khu rừng đã biến thành một đồi chè non. Con đường đi vào chưa được phát dọn và cũng chưa thành một lối đi có dấu mòn. Rừng còn ướt và vắt nhiều quá. Thỉnh thoảng chúng tôi lại phải dừng lại để xem có vắt bám vào chân hay không. Bác Đại Hà thì không ngán vắt một chút nào. Bác kể chuyện có lúc vắt bám đầy cả chân, khi về phải dùng cả một sợi lạt để gạt chúng nó xuống, trước khi rửa chân, xoa dầu khuynh diệp và sưởi lửa. Thanh Tuệ và tôi cũng chỉ hơi sợ vắt mà thôi.Mỗi khi bắt gặp một con vắt đang bám vào chân, chúng tôi ngừng lại và lấy tay rứt nó ra, hơi gớm và hơi rùng mình một tí. Nhưng chị Diệu Âm thì sợ vắt vô cùng. Mỗi khi thấy có vắt bám vào chân thì chị hét lên. Chúng tôi phải dừng lại để mà “bảo vệ” cho chị. Ấy thế mà chừng một năm sau chị không còn sợ vắt nữa.
Chính bác Đại Hà một người kinh nghiệm làm rừng, đã chỉ huy công việc giúp chúng ta.Một buổi sáng có nắng cách đó chừng năm tháng, chị Diệu Âm giúp nữa, chúng tôi khởi công. Chính bác Đại Hà, một người bạn có rất nhiều kinh nghiệm làm rừng, đã chỉ huy công việc giúp chúng ta. Một buổi sáng có nắng cách đó chừng năm tháng, chị Diệu âm, Thanh Tuệ và tôi, tất cả đều nai nịt gọn ghẽ, theo bác Đại Hà đi vào khu rừng đã biến thành một đồi chè non. Con đường đi vào chưa được phát dọn và cũng chưa thành một lối đi có dấu mòn. Rừng còn ướt và vắt nhiều quá. Thỉnh thoảng chúng tôi lại phải dừng lại để xem có vắt bám vào chân hay không. Bác Đại Hà thì không ngán vắt một chút nào. Bác kể chuyện có lúc vắt bám đầy cả chân, khi về phải dùng cả một sợi lạt để gạt chúng nó xuống, trước khi rửa chân, xoa dầu khuynh diệp và sưởi lửa. Thanh Tuệ và tôi cũng chỉ hơi sợ vắt mà thôi.Mỗi khi bắt gặp một con vắt đang bám vào chân, chúng tôi ngừng lại và lấy tay rứt nó ra, hơi gớm và hơi rùng mình một tí. Nhưng chị Diệu Âm thì sợ vắt vô cùng. Mỗi khi thấy có vắt bám vào chân thì chị hét lên. Chúng tôi phải dừng lại để mà “bảo vệ” cho chị. Ấy thế mà chừng một năm sau chị không còn sợ vắt nữa.
Mùa hè, chúng ta tha hồ đi
trong rừng không sợ vắt. Chúng nó chết tiệt đâu hết cả.Nhưng chỉ mùa mưa tới,
rừng ẩm thế là chúng xuất hiện. Bác Đại Hà nói: “Thưa thầy, chúng nó đâu có chết,
chúng nó chỉ khô teo đi thôi. Đến mùa mưa là chúng sống lại.” Rồi bác
kể chuyện một hôm bác ngồi ăn cơm trưa với công nhân trong rừng. Ăn xong,
một anh công nhân tìm một cái tăm xỉa răng. Anh vớ được một cái que suống sắn đầu
lớn đầu bé như một cái tăm. Anh thổi sạch bụi và bắt đầu xỉa. Một lát
anh có cảm giác rằng cái tăm động đậy. Thì ra đó là một con vắt chớ
không phải là một cái que. Nhờ chất nước bọt, con vắt đã được hồi sinh. Tha
hồ cho anh cômg nhân nhổ nước bọt súc miệng. Có lúc bị vắt đeo mà ta không
biết, về đến nhà máu chảy ướt, ta mới hay. Người miền núi có chế ra một thứ
thuốc bôi vào hai ống chân khiến cho vắt sợ không bám vào được. Hoặc họ
mang theo vôi ăn trầu, có vắt thì bôi vào tí vôi vắt “nhả” ra ngay.
Vui câu chuyện cùng chúng
tôi đến đồi chè mới lúc nào không hay. Đồi thật cao. Đây là ngọn đồi
cao nhất ở vùng này. Bây giờ ngọn đồi quang đãng, chúng tôi mới có thể
nhìn được cảnh vật bên dưới. Thật là một quang cảnh ngoạn mục. Nhìn từ
đây, trời xanh xanh hơn, mây trắng trắng hơn. Những ngọn núi xa có mây trắng phủ
dưới chân trông như những cùlao nổi giữa biển nước trắng xóa. Nguyên Hưng
có biết không. Suốt hai năm trời ở Phương Bối mà buổi sáng nào đứng từ đồi
Thượng ta cũng thấy Phương Bôi đẹp. Không có một buổi sáng nào giống buổi
sáng nào. Có những buổi sáng thức dậy ta chẳng trông thấy được gì ngoài cửa sổ. Bởi
vì sương mù dày đặc. Đứng cách nhau chừng năm sáu thước đã có thể không
trông thấy nhau. Có những buổi sáng đứng trên đồi Thượng ta có cảm tưởng rất
thực là ta đang đứng trên một hòn cù lao ở hải đảo. Sương mù trắng
xóa và bằng phẳng như mặt biển, dàn trải đến chân trời. Các ngọn núi xa là những
cù lao. Mãi cho đến gần mười giờ sáng sương mới tan và cảnh tượng mới lại
phô bày chân tướng. Mà thực ra ta khó nói được thế nào là chân tướng của
cảnh tượng nữa. Mỗi ngày mỗi khác. Mỗi giờ mỗi khác.Phương Bối là một
dòng tiếp nối của những cảnh tượng thần diệu. Đó, Nguyên Hưng có nhớ một
buổi sáng nọ khi chim hót vang rừng chúng ta đi từ thiền thất lên đến đỉnh đồi
Thượng không? Đứng trên đồi ta trông thấy một cặp nai tơ đùa chơi trong nắng sớm,
giữa những hàng trà. Những con nai tơ vàng mình có lốm đốm những hàng sao trắng.
Chúng ta đã đứng im bất động một lúc lâu, sợ chúng chạy mất. Nắng mai đùa giỡn
với những con nai con trên đồi trà. Một lát sau, hai con nai đuổi nhau về phía
cửa rừng phía Nam và lẩn mất vào rừng.Chúng ta chỉ còn biết nhìn
nhau.
Khu đồi hồi đó tuy đã được
trông trà nhưng còn hoang vu lắm Nguyên Hưng. Chúng tôi đi giữa những cây trà mới
lên. Các gốc cây đang còn lại nhiều; nhưng theo lời bác Đại Hà
chúng sẽ mục nát sau đó một vài năm, không cần phải đào gốc. Vấn đề là đừng
cho chúng mọc lộc mới. Mà thực ra số lớn các gốc đã bị đốt cháy không thể
nào còn đâm lộc được nữa, để có chỗ làm nhà và làm vườn.
Nguyên Hưng ơi, sau ngày đi
thăm ấy độ một năm thì Nguyên Hưng về, lúc ấy Phương Bối đương làm nhà. Bốn mẫu
trà kia đã bắt đầu sản xuất chút ít và chị Diệu Âm bàn nên trồng thêm
hai mẫu nữa. Lại thêm phải làm một cái nhà bốn gian ngay dưới chân đồi Thượng.
Một gian trên cao dùng làm thiền thất. Gian dưới là thư viện và
chỗ làm việc. Gian giữa là phòng ngủ. Gian bên là phòng ăn và
phòng khách. Khách ở đây là gia đình Đại Hà, là chị Diệu Âm, là Như Thông,
Như Ngọc, Như Khoa, Thanh Giới và ít người bạn tri kỷ khác. Kỳ dư ai mà chịu
lặn lội lên tới Phương Bối, vừa xa, vừa cao, vừa vắt, vừa nguy hiểm. Nguyên
Hưng, hồi đó chúng tôi lúng túng rất nhiều về vấn đề tiền bạc. Tôi phải bán
thêm một bản thảo nữa,và kêu gọi sự giúp đỡ của các bạn quen. Ngoài chị Diệu
Âm, những người giúp cho chúng ta nhiều nhất là Như Thông, Như Khoa và gia đình
Đại Hà. Trong thời gian làm nhà các bác thợ phải đi lên đi về rất vất vả. Chiếc xe vận
tải (bánh xe có ràng xích để leo núi khỏi trượt) phải lận đận lắm mới chở được
gỗ và nguyên liệu làm nhà đến dưới chân đồi Thượng, bò quanh theo con đường núi
đã lở lói và hư hỏng rất nhiều. Con đường này xa bằng ba con đường rừng đi tắt.
Mà từ chỗ rẽ của con đường tới chân đồi Thượng, bác Đại Hà đã phải đốt rừng làm
một con đường dài trên bốn trăm thước. Chính tôi đã cắm mộc làm thầy địa. Nguyên
Hưng này, có lẽ tôi là một ông thầy địa vụng cho nên giờ nầy chúng ta không được an trú
trong Phương Bối mà mỗi người phải lênh đênh một ngả. Tôi phải chừa làm nghề thầy
địa đi mới được, có phải không.
Hồi đó Tuệ, Hưng, tôi và chị
Diệu Âm hay rủ Như Khoa và bọn trẻ con gia đình Đại Hà vào chân đồi Thượng cắm
trại, luôn tiện xem các ông thợ làm nhà. Tội nghiệp chị Diệu Âm; vì chúng ta,
chị cứ mỗi tuần rời Mai Lâm ở Di Linh để vào Bảo Lộc một kỳ. Tuy vậy,
nhờ làm nhiều việc, leo nhiều núi, chị mạnh khỏe hẳn ra. Ai thấy chị leo núi
cũng khen. Như Khoa, nam nhi chi tướng như vậy mà đôi khi còn thua chị. “Mất
uy tín” quá, phải không Nguyên Hưng? Vì muốn về Phương Bối trước mùa an cư
cho nên chúng ta đã cố gắng rất nhiều. Lúc bấy giờ đường lên Phương Bối đã
được phát dọn quang đãng. Cái khu rừng từ cầu Mai lên đến dưới đồi Thượng,
cái khu rừng ấy mới đẹp làm sao. Tôi muốn được suốt đời đi trong một con đường
rừng như thế. Con đường thơm ngát hoa chiều. Và có một vài thứ
hoa gì nữa cũng rất thơm mà chúng ta không biết tên. Mỗi lần lên
Phương Bối mà leotới được cầu Mai là đã thấy khỏe rồi. Thấy như là mình đã tới rồi,
tới được cõi của mình rồi.Khúc đường còn lại là khúc đường rừng hấp dẫn
nhất mà tôi vừa nói đó. Thầy Thanh Từ sau này rất thích đội một cái nón lá
thật to vành và chống một chiếc gậy đi lên đi về con đường đó. Phương Bối hiện
ra một cách đột ngột từ một khúc quanh: đồi Thượng sáng lên như một chân trời
giác ngộ, một cõi bồng lai, nhất là ngày bắt đầu có chiếc nhà Thượng với hai
mái cao vừa hùng vĩ vừa e lệ.
Những cơn mưa gió đến trước
mùa an cư làm chúng ta phải cực nhọc nhiều lần. Chúng ta đã có tủ
để đựng hai vạn cuốn sách. Chúng ta đã có giường có bàn, chúng ta lại cũng
có một chiếc nhà bếp xinh xắn cách đó không xa. Và quý nhất là chúng ta đã
xây được một cái hồ đựng nước mưa chứa được chừng vài chục thước khối nước. Những
ngày ấy chúng ta rất bận rộn với ngôi nhà mới sắp hoàn thành. Tuệ lúc đó bận
dậy học ở trường Bảo Lộc cho nên ít giúp chúng ta được. Nguyên Hưng biết,
cũng khá trang nhã. Có một bữa cùng với Nguyên Hưng đứng ở lan can nhìn xuống
khu rừng phía trái mà ta thường gọi Rừng Tham Thiền tôi thấy một giải
mây giăng ngang từ cửa rừng sang đến gần chân đồi Thượng. Giải mây giống như một
giải lụa, bề rộng chừng độ hai thước. Thật là kỳ thú. Tôi với Nguyên
Hưng dã chạy xuống đi lại gần giải mây. Tới gần thì không thấy giải mây
đâu. Chúng ta thất vọng, bởi vì chúng ta muốn đứng sát một bên giải mây,
nhưng khi trèo lên lại lan can nhìn, thì giải mây vẫn còn đó, tuy đã biến hình
và loãng dần ra. Rừng Tham Thiền có lẽ là khu rừng đẹp nhứt. Khu
này có nhiều thông và nhiều cây cao, to, rất hùng vĩ. Khu rừng có vẻ
bí mật. Chúng ta đã định thuê chặt đốn tất cả những cây nhỏ và gai góc
trong rừng và làm những con đường nhỏ ngang dọc trong ấy. Chúng ta cũng định
làm những chỗ ngồi tham thiền và chiêm nghiệm. Cứ từ lâu, chừng năm bảy
hôm một, Nguyên Hưng và tôi lại đi vào Rừng Tham Thiền để hái hoa đem
về đơm trong một cái giỏ mây cúng Phật. Hoa có rất nhiều thứ, nhưng kỳ nào ta
cũng hái hoa Chiều và hoa Trang.
Chỉ còn có ba hôm nữa là đến
mùa An cư. Nguyên Hưng và tôi đã định về Phương Bối đúng ngày an cư.
Như Ngọc và Như Thông hứa là ngày ấy sẽ từ Saigon lên chơi để “khánh
thành” Phương Bối luôn thể… Trời mưa như trú nước. Mưa rồi lại tạnh. Tạnh
rồi lại mưa.Như Khoa dã mượn giúp cho Tuệ và Hưng một chiếc xe Jeep để
chở hai vạn cuốn sách vào Phương Bối. Sách đựng trong những chiếc bao tải
lớn. Chiếc Jeep leo núi một cách mệt nhọc trèo lên trượt xuống. chiếc xe
phải hỳ hục gần suốt một ngày mới chở được hết sách, Nguyên Hưng và Thanh Tuệ
trong chuyến chót đã chở vào được thêm một cái tủ, cái tủ trắng rất xinh của
Như Thông gửi tặng cho Phương Bối. Tôi còn nhớ trong chuyến ấy, nửa đường các cậu
gặp mưa. Cả hai người, Nguyên Hưng cũng giống như Thanh Tuệ. Đều ướt như
chuột lột. Thấy mà thương quá. Lúc ấy tôi đang bận bịu xếp sách vào
các ngăn tủ. Tôi ra đón Tuệ và Hưng. Tôi bắt Nguyên Hưng vào thay quần áo
lau mình thật sạch và trùm chăn kín lại. Tôi định vào đốt lò sưởi cho Tuệ
nhưng Tuệ từ chối, đòi về theo xe. Cả Hưng và Tuệ đều run rẩy. Tuệ
nói: “Phen này thì chắc ốm to. Có lẽ thương hàn là ít”. Tôi cũng thấy
sợ ghê. Các em giãi nắng dầm mưa nhiều quá. Thế nhưng mà không sao. Dì
Tâm Huệ dọn cơm chiều lúc bảy giờ tối; bữa cơm đầu tiên ở Phương Bối được dọn
ra đàng hoàng trên bàn, ngoài phòng ăn. Tôi đến nói với Nguyên Hưng: “dậy
ăn cơm đi Nguyên Hưng.” Nguyên Hưng không chịu, trả lời rằng là chắc hẳn không ăn được.
Tôi nài nỉ Nguyên Hưng ra ngồi chơi với tôi trong khi tôi ăn cơm.
Nguyên Hưng bèn chịu. Ra tới phòng ăn tôi xới cơm và ép Nguyên Hưng
ăn một chén. Nể lời Nguyên Hưng cầm đũa. Thế rồi vui miệng và vui câu
chuyện, Nguyên Hưng đã để cho dì Tâm Huệ xới cơm cho Nguyên Hưng tới ba lần.
Đêm ấy Nguyên Hưng ngủ ngon không “ốm to” cũng không “thương hàn”. Sáng mai
Tuệ lặn lội vào Phương Bối rất sớm. Thì ra cậu ta cũng chẳng “ốm to” chẳng
“thương hàn” gì cả. Hôm qua về tới chùa Bảo Lộc, Tuệ thay áo ngay và lau
khô mình mẩy. Rót một ly nước trà thật nóng cậu lấy hai viên thuốc cảm để
trên table de nuit. Rồi cậu ta trùm chăn lại thật kỹ, chờ cho ly nước
bớt nóng để uống thuốc. Trong khi chờ đợi anh ta mở chiếc radio để nghe một bản
nhạc của đài Saigon. Thế rồi trong tiếng nhạc êm đềm Tuệ đã ngủ quên. Ly
nước nguội dần, nguội dần và trở thành giá lạnh. Mười hai giờ khuya đài Saigon đã
giả từ khán giả mà Tuệ vẫn không biết. Tuệ ngủ mê mệt. Cho đến khi tỉnh
dậy thì đài Saigon đã “tái ngộ” thính giả và đang dạy thính giả tập
thể dục buổi sáng! Mỗi lần nghĩ đến chuyện đó là tôi thấy buồn cười quá đi,
Nguyên Hưng.
Trong cùng một đêm đó,
Nguyên Hưng và tôi ngủ lại Phương Bối lần đầu. Cánh cửa giữa chưa lắp, thành ra
nửa đêm bị gió thổi rơi xuống sàn nhà một cái rầm. Hai chúng tôi đều thức
giấc. Nằm bên nhau, chúng ta nghe mưa gió rào rào bên ngoài. Có lẽ là
có bão tố ở đâu ấy. Chúng ta đang nằm ngủ trên rừng, cách xa xóm
làng đô thị. Rất xa. Chúng ta đã muốn lên tận trên này, phá rừng, làm
nhà và dựng cho chúng ta một quê hương bé nhỏ. Tôi không thể nào nằm ngủ
được nữa. Tôi rủ Nguyên Hưng trở dậy. Chúng ta đi sờ soạn tìm hộp
diêm nhen, đốt một đống lửa và thức bên nhau nói chuyện, cho đến khi tiếng vượn
hú hòa với tiếng chim kêu đã vọng vang cả núi rừng. Chúng ta trèo lên đồi
thượng. Phương đông, chân trời vẫn chưa ửng hồng. Sương phủ khắp đồi
núi xa xa. Phương Bối đã trở thành một cái gì có thực. Có thực một
cách hư ảo. Các bạn ở xa chưa ai hay biết rằng ẩn mình trên núi Đại Lão,
Phương Bối đã xòe những cánh đồi hoang vu và êm dịu như một chiếc nôi lớn - một
chiếc nôi lót bằng bông đá, hoa dại, cỏ rừng - chào đón chúng tôi. Ở đây chỉ có
cây rừng, có chim có vượn. Ở đây chúng tôi sẽ xa được trong một thời gian tất cả
những xấu xa nhỏ mọn của cuộc đời…
III
Thứ tư tuần tới, tôi sẽ rời Medford để
về lại thành phố. Mùa thu đã sắp đến rồi. Ở bên này, người ta gọi
mùa Thù là Mùa Rơi, bởi vì mùa Thu cũng là mùa lá vàng rơi rụng. Cũng
như người ta gọi mùa Xuân là Mùa Tuôn Dậy. Lộc non, chồi xanh
tuôn dậy như một dòng suối tuôn từ các khe đá. Chắc là Công Viên Bờ
Sông cũng đã bắt đầu đẹp. Princeton mùa Thu thì nhất định là đẹp
lắm rồi. Nguyên Hưng cứ tưởng tượng một buổi sáng lành lạnh, có nắng, đi
trên những thảm cỏ xanh, rất xanh. Chỉ cần một tí gió thôi là bao nhiêu lá
phong rụng xuống, rơi vào đầu, vào cổ, vào áo của mình. Mà lá phong rụng
không phải chỉ là những lá mang độc một mầu hỏa hoàng thôi đâu nhé. Có thể
nói là có những chiếc lá thật là đỏ, đỏ thắm như son. Và từ mầu xanh qua mầu
vàng đến mầu đỏ thắm là biết bao nhiêu mầu sắc! Những trận mưa là như thế
thật là ngoạn mục. Tôi rất ưa những loại cây thay lá.Như cây bàng ở quê
hương ta chẳng hạn. Ở Phương Bối rừng núi mang mầu xanh suốt năm, kể cả
mùa đông rét mướt và mưa gió. Chỉ có một số ít cây thuộc về loại cây thay lá mà
thôi, và các cây ấy không đủ nhiều để tạo nên một mùa thu, một mùa rơi rụng,
Princeton thật là đẹp, nhưng mà Princeton không có được những nét độc đáo của
Phương Bối.Princeton không có những buổi sương mù bao trùm núi đồi và gây
cho ta cảm tưởng đang đứng trên mặt biển. Princeton không phản phất hương
của hoa Chiều, không có tiếng chim kêu vượn hú vang rừng, không có
huyền bí hoang dại như Phương Bối. Tôi không thể nào quên được những đêm
trăng rừng Phương Bối. Nguyên Hưng cũng biết là buổi tối ở trên rừng không
giống gì với buổi tối ở đồng quê hay ở thành thị. Mới từng tám giờ tối
thôi, ta đã có cảm tưởng như là đêm đã khuya lắm rồi. Màn đêm dày đặc hơn,
huyền bí hơn.
Xung quanh Phương Bối quyền uy của rừng núi quả đã khôi phục được quyền hành của nó. Ta có thể cảm thấy được những bước chân chậm rãi của chùa sơn lâm và tiếng xào xạc của khu rừng tranh cao quá đầu người khi chúa sơn lâm đi ngang. Rừng núi hết sức yên lặng.Nhưng cũng hết sức linh động. Những đêm có trăng, nhất là trăng khuya, ở Phương Bối hình như ít ai ngủ được. Có một bữa, ham viết cho đến một giờ khuya tôi không biết rằng Thanh Tuệ đã thức giấc và đang đứng lặng yên sau cửa sổ nhìn ra khu rừng ẩm ướt ánh trăng. Tôi cũng tắt cây đèn bát đi, và lại đứng gần bên Thanh Tuệ. Cả trăng cả rừng đều huyền bí đều mầu nhiệm, và cùng tạo nên một khung cảnh mà chúng ta chưa hề thấy bao giờ trong đời trừ ở Phương Bối. Trăng cũng tuyệt đối yên lặng. Nhưng mà trăng với rừng quả là đang nói chuyện với nhau, nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ gì chúng ta không thể nào biết được. Trăng và rừng trong lúc này không phải là hai mà chỉ là một. Thí dụ ta lấy trăng đi, thì rừng cũng mất. Hoặc giả nếu ta lấy rừng đi thì trăng cũng tan biến. Và chính chúng tôi nữa, chúng tôi là gì lúc ấy? Chúng tôi có thể hiện hữu bên nhau sau khung cửa sáng ấy không nếu một trong hai thứ trăng và rừng kia không hiện hữu? Nguyên Hưng cũng đã từng say mê những đêm trăng như thế. Riêng tôi, tôi thấy trăng từ mười sáu trở đi mới già dặn mới đủ sức nói chuyện với rừng. Có những buổi khuya tôi đứng một mình - cũng sau cửa sổ lớn đó - nhìn ra khu rừng trước mặt. Hồi đó khu rừng chỉ cách ta độ năm sáu mươi thước. Khu rừng hùng mạnh, và dưới ảnh hưởng của trăng khuya, tự tạo cho mình một hấp dẫn lực kỳ lạ. Có một sức gì thu hút phát xuất từ khu rừng, một cái gì rất hoang dại và cũng rất hùng biện. Tôi thấy hình như thấp thoáng ở cửa rừng có bóng một người Thượng thân hình đen cháy, hai mắt long lanh, có một người Thượng của hàng ngàn năm về trước chứ không phải như những người thượng bây giờ hay đi ngang qua Phương Bối để tìm rau Rịa. Tôi thấy thức dậy ở trong tôi con người cổ sơ. Tôi muốn liệng bỏ hết chữ nghĩa, liệng bỏ hết văn minh, liệng bỏ hết những áo xống rắc rối trên mình để trần truồng đi vào trong rừng. Đi vào trong rừng làm gì, tôi không biết, nhưng là đi vào thật sâu, đi mãi, đi mãi, dù là trời tối đen, dù là rừng đầy dã thú, đầy gai góc. Tôi thấy nếu tôi bị dã thú ăn thịt mà cũng không sao. Không đau đớn, không hãi hùng, không luyến tiếc. Có thể gọi là êm ái nữa cũng không biết chừng. Tôi đứng như thế, sau khung cửa, rất lâu, để chống lại với tiếng gọi của rừng, của trăng.
Xung quanh Phương Bối quyền uy của rừng núi quả đã khôi phục được quyền hành của nó. Ta có thể cảm thấy được những bước chân chậm rãi của chùa sơn lâm và tiếng xào xạc của khu rừng tranh cao quá đầu người khi chúa sơn lâm đi ngang. Rừng núi hết sức yên lặng.Nhưng cũng hết sức linh động. Những đêm có trăng, nhất là trăng khuya, ở Phương Bối hình như ít ai ngủ được. Có một bữa, ham viết cho đến một giờ khuya tôi không biết rằng Thanh Tuệ đã thức giấc và đang đứng lặng yên sau cửa sổ nhìn ra khu rừng ẩm ướt ánh trăng. Tôi cũng tắt cây đèn bát đi, và lại đứng gần bên Thanh Tuệ. Cả trăng cả rừng đều huyền bí đều mầu nhiệm, và cùng tạo nên một khung cảnh mà chúng ta chưa hề thấy bao giờ trong đời trừ ở Phương Bối. Trăng cũng tuyệt đối yên lặng. Nhưng mà trăng với rừng quả là đang nói chuyện với nhau, nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ gì chúng ta không thể nào biết được. Trăng và rừng trong lúc này không phải là hai mà chỉ là một. Thí dụ ta lấy trăng đi, thì rừng cũng mất. Hoặc giả nếu ta lấy rừng đi thì trăng cũng tan biến. Và chính chúng tôi nữa, chúng tôi là gì lúc ấy? Chúng tôi có thể hiện hữu bên nhau sau khung cửa sáng ấy không nếu một trong hai thứ trăng và rừng kia không hiện hữu? Nguyên Hưng cũng đã từng say mê những đêm trăng như thế. Riêng tôi, tôi thấy trăng từ mười sáu trở đi mới già dặn mới đủ sức nói chuyện với rừng. Có những buổi khuya tôi đứng một mình - cũng sau cửa sổ lớn đó - nhìn ra khu rừng trước mặt. Hồi đó khu rừng chỉ cách ta độ năm sáu mươi thước. Khu rừng hùng mạnh, và dưới ảnh hưởng của trăng khuya, tự tạo cho mình một hấp dẫn lực kỳ lạ. Có một sức gì thu hút phát xuất từ khu rừng, một cái gì rất hoang dại và cũng rất hùng biện. Tôi thấy hình như thấp thoáng ở cửa rừng có bóng một người Thượng thân hình đen cháy, hai mắt long lanh, có một người Thượng của hàng ngàn năm về trước chứ không phải như những người thượng bây giờ hay đi ngang qua Phương Bối để tìm rau Rịa. Tôi thấy thức dậy ở trong tôi con người cổ sơ. Tôi muốn liệng bỏ hết chữ nghĩa, liệng bỏ hết văn minh, liệng bỏ hết những áo xống rắc rối trên mình để trần truồng đi vào trong rừng. Đi vào trong rừng làm gì, tôi không biết, nhưng là đi vào thật sâu, đi mãi, đi mãi, dù là trời tối đen, dù là rừng đầy dã thú, đầy gai góc. Tôi thấy nếu tôi bị dã thú ăn thịt mà cũng không sao. Không đau đớn, không hãi hùng, không luyến tiếc. Có thể gọi là êm ái nữa cũng không biết chừng. Tôi đứng như thế, sau khung cửa, rất lâu, để chống lại với tiếng gọi của rừng, của trăng.
Rừng ở Medford hiền
quá đi. Tôi nhớ trăng rừng Phương Bối lạ lùng; mình xa cách Phương Bối đã
lâu rồi, Nguyên Hưng nhỉ. Nhưng mà từ ngày tôi rời xứ sở đến nay, đã mười sáu
tháng qua. Ngày hôm kia tôi làm một bài thơ hai câu như sau:
“gối khuya rừng mộng
trăng mười sáu
mười sáu trăng rồi, người
biết không?”
Tôi thích hai câu ấy lắm,
Nguyên Hưng. Nguyên Hưng cứ nghĩ là rừng Phương Bối trong một đêm không trăng,
gồi đầu lên đêm khuya để mà nhớ, để mà thấy trong giấc mơ mặt trăng tròn đầy của
ngày mười sáu. Từ ngày xa cách, có phải là mười sáu mùa trăng đã qua rồi hay
không? Tôi ưa những tiếng “trăng mười sáu” và “mười sáu trăng” nối theo nhau
làm cho hai câu trở thành như một. Như một mà kỳ thực là hai.
Nguyên Hưng, vào cái ngày bắt
đầu mùa an cư năm xưa ấy, trời bỗng tạnh mưa. Vào khoảng chín giờ sáng thì Như
Thông, Như Ngọc và thầy Châu Toàn lên. Họ mang theo rất nhiều thứ quà
để tặng Phương Bối. Tôi còn nhớ đến chiếc giỏ mây thật đẹp mà chúng ta thường
dùng để đơm hoa rừng cúng Phật. Và nào là chén, là đĩa, là đũa,
là thức ăn. Hồi đó đồi Thượng chưa được dọn sạch nên không thể ăn bữu cơm đầu hạ
trên ấy như chúng ta ước muốn. Tuệ cũng đã vào từ lúc sáng sớm. Nguyên Hưng và
tôi vẫn còn đang phải loay hoay dọn dẹp thiền thất. Toàn đã vào Rừng Tham
Thiền một mình để hai hoa. Một lát sau chị Diệu Âm và cô Lưu Phương vào,
cùng đi hái hoa với Toàn. Chị hái được rất nhiều bông Chiều, những chùm hoa lớn
trắng như tuyết. Còn Toàn thì sau khi hái được một ít hoa mẫu đơn đã bị rừng
Sim lôi cuốn. Thế là từ lúc đó. Toàn hái toàn những cành hoa Sim. Tôi nhớ
ngày hôm đó ở Phương Bối có rất nhiều bình hoa nhỏ mà phần lớn là những bình hoa
Sim - nhưng vì Toàn đã trẩy gần hết lá Sim nên các bình hoa kia trông như
những bình hoa đào. Cái giỏ mây đầy cả hoa Chiều. Hoa Mẫu Đơn, và một
vài thứ hoa khác nữa mà chúng ta không biết được tên họ. Toàn còn chặt cả một đọt
thông lớn để cắm vào chiếc ché Thượng men nâu để trên thiền thất. Như Khoa và
Thanh Giới cũng đã băng rừng băng núi tìm vào. Các bạn của Phương Bối như thế,
cũng đã khá đông. Sau buổi lễ Phật trang nghiêm và ấm áp, chúng ta đưa mọi người
đi một vòng ở Phương Bối. Tuy nói một vòng nhưng kỳ thực chỉ là một vòng nhỏ, bởi
vì phần lớn đồi núi ở Phương Bối vẫn là hoang vu, không đặt chân đến được.
Những người bạn của Phương Bối
đã ở lại đến ba giờ chiều để đàm đạo về những dự tính cho Phương Bối trong
tương lai. Rồi thì Toàn cùng với Như Ngọc và Như Thông từ giả chúng ta trước. Họ
phải về Saigon và trước khi đi tìm tới xe, họ phải băng rừng đến Đại Hà, rồi
Như Khoa và Thanh Giới cũng về, Thanh Tuệ cũng về, bởi vì Thanh Tuệ chưa vào Phương
Bối luôn với chúng ta được - lý do là Tuệ còn cưu mang dỡ dang mấy lớp học ở
Blao. Buổi chiều ấy, sau khi họ ra về hết rồi, Phương Bối thật vắng lặng và
thanh tịnh. Đưa Tuệ và chị Diệu Âm về xong, chúng ta từ rừng Tham Thiền - nơi
có mấy chữ nho viết dọc theo một bảng gỗ đóng trên một thân cây “Đại Lão Sơn
Phương Bối Am” - thong thả đi vào. Phương Bối là một thực tại rồi đó,
nhưng mà cũng như chiều hôm trước, chúng ta vẫn không chắc là nó có thực. Nó hiện
hữu như một cái ráng trời. Ta có thể nghĩ rằng nó muốn tan biến đi lúc nào thì
nó tan biến. Có lẽ vì Phương Bối không giống bất cứ một cái gì chúng ta đã gặp,
đã thân thiết. Cũng có lẽ vì Phương Bối đối với ta còn mới mẽ quá, nhưng đã
thân thiết quá. Lại cũng có lẽ Phương Bối đẹp không cùng. Ta chưa hề nghĩ rằng
số kiếp của ta mà lại có thể liên hệ đến một thực hữu kỳ diệu như Phương Bối. Vậy
cho nên Phương Bối nửa như là thực nửa như là hư. Ta không nghĩ rằng Phương Bối
thuộc về ta. Tôi không bao giờ nghĩ như vậy. Cho nên tôi rất đồng ý với Nguyên
Hưng khi Nguyên Hưng nói: Chúng ta thuộc về Phương Bối. Vì câu nói ấy mà sau
này Lý thêu dệt thêm ra. Lý nói Phương Bối là “thánh địa”. Chúng ta là “dân” của
thánh địa, đi đâu cũng thuộc về thánh địa. Cái tính của Lý thì hay “ăn to nói lớn”
như vậy đó mà, Nguyên Hưng.
Tôi còn nhớ buổi chiều hôm ấy,
khi đưa Tuệ và chị Diệu Âm ra về, chúng ta đã đi thẳng lên đồi Thượng, nhìn ra
bốn phía. Rồi chúng ta đi vào trong những hàng trà. Đất rất mềm và xốp. Chúng
ta men theo bờ rừng và đi mãi xuống gần thung lũng. Bỗng dưng Nguyên Hưng chỉ
cho tôi những dấu chân cọp rất mới, in rõ ràng trên nền đất xốp sau những trận
mưa hồi hôm. Dấu chân ấy hướng về phía lối cầu Mai. Trời cũng đã chiều rồi.
Thanh vắng quá. Tôi hơi ngài ngại, liền rủ Nguyên Hưng trở về. Chúng ta băng
qua những đồi chè để trèo lên đỉnh đồi Thượng. Khi vào tới nhà, chúng ta đi đốt
lửa, và trời đã rét. Dì Tâm Huệ ngày hôm ấy chưa ở lại được với chúng ta, nên
đêm ấy chỉ có một mình tôi với Nguyên Hưng. Chúng ta soạn một bữa cơm chiều rất
giản dị, rồi ngồi ăn bên nhau dưới ánh sáng của bốn ngọn đèn nến. Đêm ấy, tôi
đã nói cho Nguyên Hưng nghe về những dự liệu văn hóa chúng ta sẽ thực hiện sau
này. Trước khi đi ngủ chúng ta đã có một buổi “công phu” ngắn và cảm động.
Tôi đã nhắc Nguyên Hưng nhớ
lại những cảnh trăng rừng Phương Bối. Tôi tưởng cũng phải nhắc Nguyên Hưng nhớ
lại thêm về những buổi sáng mai trên rừng núi Đại Lão. Hồi đó, chúng ta thường
ưa làm việc tay chân vào các buổi sáng. Chỉ trong vòng ba tháng sau ngày chúng
ta về, Phương Bối đã trở nên quang đãng và đẹp đẽ. Bởi vì sáng nào chúng ta
cũng làm việc tay chân và ngày nào chúng ta cũng có ít ra một người bạn Thượng
làm việc trong phạm vi Phương Bối. Sau này ta lại có anh Năm, người con trai hiền
lành từ xứ Quảng di cư vào - Năm đã ở lại với chúng ta trong suốt thời gian
hưng thịnh của Phương Bối.
Chỉ trừ những ngày mưa, còn
thì buổi sáng nào ở Phương Bối cũng đẹp. Buổi sáng Phương Bối thật là linh động.
Sáng nào Phương Bối cũng vang động tiếng chim tiếng vượn. Trời Phương Bối rét
nên chúng ta không dậy sớm. Thường thường tôi chong đèn ngồi viết đến nửa đêm.
Buổi sáng tôi thường thức dậy giữa tiếng chim tiếng vượn. Chính Tuệ và Nguyên
Hưng biết rằng tôi chưa khôi phục lại được sức khỏe ngày xưa nên hai người cứ lẳng
lặng dậy trước, để yên cho tôi ngủ. Còn dì Tâm Huệ thì ngủ rất ít. Thường thường
khi tôi dậy thì đã có nước trà để uống cho ấm bụng. Nồi cháo trắng đỗ xanh lúc ấy
đã chín rồi; thường thường chúng ta hay chạy vào bếp sưởi ấm, uống nước và ăn
điểm tâm ngay trong cái nhà bếp nghèo nàn nhưng ấm cúng đó, Nguyên Hưng nhớ
không.
Nắng mai tuy rất trong và đẹp
nhưng không đủ ấm. Cho nên chúng ta phải bắt đầu mỗi ngày bằng công việc tay
chân. Làm như thế thì chỉ trong mười phút thì đã thấy ấm người rồi. Hồi đó tôi
cũng biết xử dụng phảng, cuốc và mai không kém gì Nguyên Hưng vậy. Nguyên
khu đồi Thượng, chúng ta cũng phải để ra hàng tháng mới dọn xong. Bao nhiêu là
gốc cây. Bao nhiêu là giây chằng. Bao nhiêu là gai góc. Chúng ta đã làm được
không biết bao nhiêu là ghế, là bàn, bằng những nguyên liệu của rừng như mây,
như gỗ, ngay trên đồi Thượng. Lại còn có những chiếc ghế treo nữa. Các thầy ở
Huế hay ở Sàigon mỗi khi lên thì cứ ưa ngồi hàng giờ trên đồi Thượng và dù lớn
cách mấy, vị nào cũng thích ngồi đu trên những chiếc ghế treo.
Buổi mai ở Phương Bối đẹp
như một tờ giấy trắng tinh, nguyên vẹn, một tờ giấy trắng tinh có ửng mầu hồng ở
góc. Thực vậy, Nguyên Hưng. Chúng ta thức dậy ở Phương Bối với ý thức là chúng
ta có trước mặt một ngày trọn vẹn không bị ai xâm phạm. Không phải đi hội họp
không phải chờ xe buýt, không phải ngồi ở phòng đợi, không phải thao thức vì những
cái rendez-vous. Một ngày trọn vẹn có đủ sáng, trưa, chiều tối, và đẹp như
mầu hồng của bình minh. Một ngày trọn vẹn mà ta muốn xử dụng như thế nào cũng
được. Nguyên Hưng có thể làm cỏ ở đồi trà, hoặc dọn thêm khu rừng trước mặt, hoặc
trồng thêm cây ăn trái, hoặc viết lách hay nghiên cứu. Chúng ta làm được thật
nhiều việc, nhưng không bao giờ chúng ta chán việc, bởi vì tất cả những gì ta
làm đều do sở thích. Nếu ta không làm cỏ ở đồi chè chẳng hạn, thì anh Năm cũng
chịu khó làm và thế nào đồi chè cũng sạch cỏ. Nếu ta không dọn thêm được khu rừng
trước mặt hôm nay thì ta có thể làm vào một lúc khác. Chúng ta, tóm lại, muốn
làm gì thì làm. Buổi sáng, sau khi ăn điểm tâm, thế nào trong chúng ta cũng có
một người đề nghị, là nên đi làm việc sáng hôm nay. Tôi nhớ hồi đó Phương Bối
có Nguyên Hưng, có Tuệ, có Triều Quang, có Lý, có Năm, có Phú, có dì Tâm Huệ và
có Tôi. Nếu Nguyên Hưng đề nghị “sáng nay dọn thêm ở khu đồi Thượng” thì ít nhất
cũng có ba người hưởng ứng. Hoặc nếu Lý đề nghị “sáng nay làm một con đường xuống
thung lủng” thì Lý chắc chắn cũng có người hưởng ứng. Thường thường các đề nghị
đều được tất cả mọi người tán thành. Có khi hai người cùng đề nghị một lần, và
chúng ta chia ra hai nhóm theo sở thích. Lâu lâu chúng ta lại có một cuộc thám
hiểm núi rừng. Ai nấy đều chuẩn bị kỹ lưỡng. Thường thường những cuộc “thám hiểm”
như thế kéo dài cả ngày. Chúng ta hay dừng lại ăn trưa và nghỉ ngơi bên một
dòng suối. Nhiều hôm Nguyên Hưng và Triều Quang mang về những cây phong lan tuyệt
đẹp. Ai nấy đều mệt nhoài. Đêm đến chúng ta ngủ rất ngon.
Trong những buổi đi rừng phục
sức của tất cả mọi người đều rất kỳ dị. Nguyên Hưng có nhớ không? ở Phương
Bối chúng ta không cần vâng theo luật lệ của… người phàm. Ta có thể đội bất cứ
thứ mũ nào, mang bất cứ thứ giầy ủng nào, dùng bất cứ thứ thắt lưng nào. Có khi
nhìn vào tấm gương tôi thấy tôi giống như một ông ngáo ộp. Râu thì có khi một
tuần chưa cạo một lần. Không phải vì làm biếng mà vì chúng ta có những việc
khác ưa làm hơn! Áo thì bằng da dày cộm để gai rừng không bấu rách. Ống quần
thì túm lại bỏi vào đôi ủng cao su để khỏi bị vắt xâm nhập. Vai thì mang một
cái xách đựng hoặc cơm trưa, hoặc chiếc võng đay, hoặc hộp cứu thương. Tay thì
cầm một cái xà gạc hoặc một cây gậy. Những người học tò của tôi ngày xưa nếu có
trông thấy tôi trong hình dáng ngáo ộp ấy chắc cũng không thể nào không kinh ngạc
cho được. Ăn mặc như thế này để vào lớp giảng thơ Nguyễn Du thì chắc là không
được đâu, phải không Nguyên Hưng? Ở rừng núi chúng ta đi đứng mạnh bạo hơn.
Chào nhau ở cửa rừng đôi khi chúng ta không chắp tay trước ngực mà chúng ta đưa
một cánh tay thẳng lên trời. Đi lại trên các con đường rừng núi thì không cần
bước từng bước đĩnh đạc bệ vệ nữa; chúng ta đi rất mau, hoặc là chúng ta chạy.
Từ đồi này chúng ta la hét sang đồi kia. Nguyên Hưng hét to hơn ai hết, như một
cái còi xe lửa. Có một điều mà ta thấy rất rõ là ai lên Phương Bối cũng ưa la
hét thật to. Tôi nhớ có một lần trèo lên cây thông cao ở Rừng Tham Thiền để
đốn một cành thông xanh, Nguyên Hưng hét vang cả núi rừng. Tôi lúc đó đang dọn
dẹp thiền thất cũng bị tiếng hét của Nguyên Hưng kích động. Tôi bỏ chiếc chổi
lau, chạy ra, nhìn về phía Rừng Tham Thiền. Và buồn cười chưa, tôi cũng
hét to để hỏi và để trả lời Nguyên Hưng. Rừng núi lớn lao quá khiến ta có cảm
tưởng là bị nhỏ bé lại và vì thế tiếng hét của ta là để phá tan cái mặc cảm là
chúng ta bé nhỏ. Có phải không Nguyên Hưng? Lại cũng có lẽ là vì chúng ta muốn
trả thù những công thức giao tiếp của cái xã hội cũ. Trong xã hội đó, nói thì
phải nói với giọng giữ gìn, để ý từng câu từng chữ. Xã hội quy định ta phải ăn
như thế nào, chào như thế nào. Vì vậy khi lên Phương Bối chúng ta đã có khuynh
hướng lật nhào tất cả những luật lệ đó. Và chúng ta chạy hoặc hét là để phá vỡ
cái mặc cảm chúng ta bị nô lệ, để chứng tỏ chúng ta có “tự do”. Cũng như ở bên
này người ta có cái kiểu chào nhau “How are you” lạt như nước ốc. Câu chào ấy
ai cũng thấy vô ích, thế mà không chào thì lại thấy thiếu một cái gì. Có thì là
dư, mà không thì lại là thiếu. Buồn cười nhất là khi một người bệnh tới khám bệnh.
Bác sĩ hỏi: “ông mạnh giỏi không?” một cách vô ý thức. Và bệnh nhân cũng trả lời
“mạnh” một cách vô ý thức. Trong khi đó, ta biết rằng nếu “mạnh” thì bệnh nhân
đâu có cần tới bác sĩ làm gì.
Nguyên Hưng, giữa ta và vũ
trụ có những liên hệ nào mà mỗi khi vũ trụ kêu gọi, không thể nào cưỡng lại được?
Tôi vừa mới viết cho Hưng về trăng rừng, một tiếng gọi hết
sức thiết tha ít khi tôi có thể làm ngơ được. Tôi muốn kể cho Nguyên Hưng nghe về
những trận mưa đầu mùa. Từ hồi còn bé thơ, tôi đã bị những trận mưa đầu mùa quyến
rũ rồi. Hồi đó tôi còn ở đồng quê. Tiếng sấm động. Trời sa sầm xuống thấp. Những
giọt nước to nặng đầu tiên rơi lộp độp trên mái ngói. Vài ngọn gió thổi tới đập
các cánh cửa sổ ầm ầm. Tôi đã bị kích động ngay sau những hiện tượng đó. Thật
giống như prélude của một bản hùng ca vĩ đại. Thế rồi sau một tiếng sấm
long trời lỡ đất, mưa trút xuống rào rào như thác đổ. Những lúc như thế, đố mà
tôi ngồi yên cho được. Tôi phải chạy ra, vén màn, dán mắt vào cửa kính. Những đọt
cau xa oằn oại. Trong lúc trời đất thét gào. Vũ rụ rung chuyển. Những chiếc lá
to bị gió hắt mạnh vào cửa sổ và vách tường. Nước trút xuống ào ào và chảy ồ ồ
ngoài sân, trước rãnh. Trong màn mưa bạc, có những con chim quật cánh chống lại
với gió với mưa. Trong bản hùng ca đó, tôi cảm nghe thấy rõ rệt tiếng gọi của hồn
vũ trụ. Tôi muốn trở thành một đọt cau hay một cây nghiêng ngả oằn oại trong
mưa. Tôi muốn trở thành một con chim bay quằn quại giữa trời để chịu đựng sức
mưa sức gió. Tôi muốn chạy ra giữa mưa mà hét, mà múa mà quay cuồng, mà cười, mà
khóc.
Nhưng mà tôi không dám. Bởi vì tôi sợ mẹ tôi mắng. Trong tiếng ào ạt rạt rào của mưa và gió, tôi ráng lấy tất cả gân cổ hát một bài. Dù tôi có hét to đến mấy người ta cũng không nghe được, bởi vì bản nhạc long trời lở đất đã lấn át hết. Trong khi tôi hát như thế, mắt tôi vẫn không rời cảnh tượng hùng vĩ của trời mưa, thần trí tôi như bị hút vào cảnh tượng hùng vĩ của trời mưa, và tôi cảm thấy tôi được hòa mình vào trong bản hòa tấu vĩ đại. Tôi thấy dễ chịu. Tôi hát bài hát này rồi bài khác. Sau đó, trời tạnh, hơi đột ngột. Tôi cũng dừng tiếng hát. Thần kinh tôi êm dịu lại và tôi nhận ra rằng trên mi tôi còn đọng một vài giọt nước mắt.
Nhưng mà tôi không dám. Bởi vì tôi sợ mẹ tôi mắng. Trong tiếng ào ạt rạt rào của mưa và gió, tôi ráng lấy tất cả gân cổ hát một bài. Dù tôi có hét to đến mấy người ta cũng không nghe được, bởi vì bản nhạc long trời lở đất đã lấn át hết. Trong khi tôi hát như thế, mắt tôi vẫn không rời cảnh tượng hùng vĩ của trời mưa, thần trí tôi như bị hút vào cảnh tượng hùng vĩ của trời mưa, và tôi cảm thấy tôi được hòa mình vào trong bản hòa tấu vĩ đại. Tôi thấy dễ chịu. Tôi hát bài hát này rồi bài khác. Sau đó, trời tạnh, hơi đột ngột. Tôi cũng dừng tiếng hát. Thần kinh tôi êm dịu lại và tôi nhận ra rằng trên mi tôi còn đọng một vài giọt nước mắt.
Cho mãi tới ngày nay, tôi
cũng vẫn còn giữ cái thói làm như vậy, Nguyên Hưng, tuy rằng có đôi khác chút
ít. Tiếng gọi của đất trời vẫn tha thiết và rõ rệt như ngày xưa. Mỗi khi văng vẳng
có tiếng gọi ây là tôi lại giật mình, và với tất cả với bản thể của tôi, với tất
cả mọi nguyên tử của sinh lý tôi, với mọi đường máu, mọi đường giâythần kinh của
thân thể tôi, tôi lắng nghe một cách kính cẩn và thiết tha. Nguyên Hưng cứ tưởng
tượng một người mất mẹ đã mười năm, một hôm bất giác nghe tiếng mẹ gọi. Tâm trạng
của tôi là như thế đó, mỗi khi tôi nghe tiếng gọi của đất trời. Mới vừa hôm qua
đay, trong cảnh rừng mưa, tôi quỳ dưới cửa sổ để nghe bản nhạc hùng của tời, của
đất, của rừng, của gió. Cửa sổ để ngỏ, nhưng tôi không đứng dậy đống lại. Tôi
qùy đó, thành kính, đầu hơi cúi thấp, trong khi gió tạt mưa vào ướt cả đầu cả cổ
cả áo tôi. Tôi thấy rất được dễ chịu, rất được yên lành trong cử chỉ ấy. Mãi
cho dến khi rùng mình, thấy lạnh, tôi mới đứng dậy, đóng cửa và đi thay áo, đốt
lò sưởi, trong lúc rừng Medford vẫn cuồng nhiệt gào thét trong cơn mưa…
PHẦN THỨ NHẤT
IV
Nguyên Hưng, không phải tôi
chỉ nghe tiếng gọi mầu nhiệm kia trong lúc trăng và rừng nói chuyện hay trong
những cơn mưa lớn đầu mùa. Tôi lại còn nghe tiếng gọi ấy và những buổi trưa rất
là yên lặng nữa. Những buổi trưa ở quê hương ta, những buổi trưa mà Lưu Trọng
Lư nghe thấy cả tiếng gà não nùng xao xác gáy, những buổi trưa mà Vũ Anh Khanh
thấy cả nắng lổ đổ rụng lên đầu người viễn khách ở xóm đạo vắng người. Những buổi
trưa ấy miền Bắc cũng có, miền Trung cũng có, mà miền Nam cũng có. Tôi không
tin rằng buổi chiều, dù rằng những buổi chiều nhìn ra cửa biển, là lúc gợi buồn
nhiều nhất.
Buổi chiều đối với tôi dù là ở đâu cũng chỉ là đẹp thôi,
chứ không buồn. Chỉ có một lúc duy nhất trong ngày có thể gọi là buồn: đó là buổi
trưa, vào khoảng một giờ, hay trễ hơn một chút. Buổi chiều cũng như buổi mai,
bao giờ cũng linh động, biến ảo và tràn đầy sức sống. Buổi chiều đã không mang
màu sắc tàn tạ như người ta thường tưởng, mà trái lại còn hứa hẹn một sức sống
rạt rào vào đêm. Tôi thấy vũ trụ sống về ban đêm nhiều hơn. Ban đêm, cái gì
cũng linh động, cũng mầu nhiệm, cũng hùng mạnh. Chỉ có loài người mới ngừng hoạt
động trong đêm, chớ vũ trụ, từ trăng sao nước mây đến trùng dế cây cỏ đều rì
rào mầu nhiệm. Nếu nói đến giờ ngưng đọng, ấy phải là giờ buổi trưa, lúc quá ngọ
một chút. Không có một giọt gió. Trời cao cao quá, cao đến im lìm,
cao cho đến nỗi trở nên vô cùng sâu thẳm. Cây cối như chết đứng; không nói năng
được một lời nào trong giây phút ấy. Mặt trời như thôi miên trái đất và điểm
huyệt trái đất bằng con mắt lửa hung hãn của nó khiến trái đất và muôn loài
trên trái đất trở thành bất động không còn cựa quậy được nữa. Tôi dám chắc rằng
đúng vào giờ phút ấy trái đất không thể nào còn quay được. Phải đợi
cho đến khi nào có một đám mây hoặc một tí gió tới cứu vãn thì trái đất mới
thoát khỏi được tình trạng bị điểm huyệt và mới có thể tiếp tục cuộc hành
trình. Nếu ta thiếp đi vào buổi trưa trong một giấc ngủ ngắn mà thức dậy đúng
vào giờ phút ngưng đọng ấy, thì lập tức ta nghe tiếng gọi. Tôi nghe tiếng
gọi như thế đã có đến hàng trăm lần rồi Nguyên Hưng, mà lần nào trái tim
tôi cũng hồi hộp như nhau. Mà vì vừa mới thiếp đi cho đến lúc chợt tỉnh tôi
nghe nó không phải với lý trí của tôi mà với tất cả biển tiềm thức còn đương
dâng tràn, còn chưa kịp rút xuống khỏi lằn mức ý thức. Tôi nghe tiếng vũ trụ gọi tôi về,
và tất cả bản thể tôi rung động đáp lại tiếng gọi ấy.
Nguyên Hưng, ơ û Phương Bối
tôi cũng trải qua bốn lần nghe như vậy. Rừng cây ít khi nào đứng chết
lặng như trong những lúc ấy và trời không bao giờ cao như thế, sâu như thế.
Trong giây phút kia, tôi thấy lòng ngập nhớ nhung và một niềm thao thức muốn trở
về. Trở về theo tiếng gọi mầu nhiệm. Những lúc ấy tôi có cảm giác như
đứng ở một biên giới có sương mù. Nếu tôi làm tan được sương mù ấy, tôi có cảm
tưởng nó có thể tan biến trong bất cứ một sát na nào, dễ như không, dễ như nó
chưa bao giờ từng hiện hữu, em ơi.
Nguyên Hưng, để tôi nhắc lại
cho Nguyên Hưng nghe về đem giao thừa đầu tiên ở Phương Bối. Từ hôm hai mươi
sáu Tết, Triều Quang, Từ Mẫn và Thanh Hiện đã tự động kéo về Phương Bối, như
con trở về nhà cha mẹ vào những ngày giỗ lớn. Quang ở Dalat về mang theo rất
nhiều nhánh bạch mai thật đẹp. (Trước đó, chị Diệu Âm đã cho Như Hiền đem tặng
cho chúng ta rất nhiều cây bạch mai con để trồng quanh nhà). Chúng ta bàn với
nhau ăn một cái Tết lớn nhất trong đời chúng ta, và ăn tại Phương Bối.
Sau một đêm bàn luận, chúng ta đồng ý như sau:
1) Đốt một đống lữa vĩ đại
ngay trên đồi Thượng.
2) Cắm trại ở đồi Thượng.
3) Nấu một thùng bánh chưng ở
trên đồi Thượng.
4) Cúng giao thừa, đốt pháo ở
đồi Thượng.
5) Hội họp ăn bánh chưng,
chúc Tết và bình văn ở đồi Thượng.
Cái đống lữa vĩ đại ấy, chắc
trong chúng ta không ai có thể quên được. Nguyên Hưng cũng nhớ là để phá rừng
trồng trà chúng ta phải đốn ngã hàng trăm cây rừng thật lớn. Những cây ấy, sau
khi chúng ta đốt rừng, đã bị cháy xém và khiêng chất thành lại thành đống.
Chúng ta đã tốn hết hơn hai ngày mới chất được đống củi. Vì vậy đống củi lửa trại
to lớn như một cái nhà và đã được chất lên một cách rất công phu. Trong lòng đống
củi vĩ đại, chúng ta đã đặt rất nhiều cỏ khô, lá khô và các cành củi rất dễ bén
lửa. Đống củi đã cháy suốt đêm giao thừa và mãi đến sáng ngày mồng hai vẫn còn
cho ta than hồng. Nguyên Hưng nhớ không?
Ban đầu thì một số trong
chúng ta không tán thành ý kiến cắm trại trên đồi Thượng vì sự sương khuya.
Nhưng sau lại, chúng ta quyết định cứ căng lều trên đồi, bởi vì đống lửa vĩ đại
sẽ làm tan sương và ấm cả khu đồi. Mà thực vậy, Nguyên Hưng. Không những chúng
ta thấy ấm mà nhiều khi còn thấy nóng bức là khác nữa.
Còn bánh chưng, Lý là người
Bắc và lý tuyên bố có thể gọi bánh chưng vào hạng đẹp nhất Bắc Hà. Ban đầu ai
cũng tưởng là Lý chỉ “ăn to nói lớn” theo kiểu một nhà văn như Lý, nhưng sau
khi thấy Lý trổ tài, ai cũng phục lắm. Dì Tâm Huệ mua nếp, đỗ xanh và cung cấp
lá rong tươi cho Lý. Hôm gói bánh tôi cũng làm phụ tá cho Lý trong việc lau lá,
xếp lá, rọc lá. Lý làm một cái khuôn nhỏ và gói những chiếc bánh chưng nhỏ xíu,
vuông vắn, thật đẹp. Bánh chưng được nấu từ lúc năm giờ rưỡi chiều để kịp chín
nữa giờ trước giờ Giao Thừa. Mẫn và Hiện đã bắc hai bếp gần dưới chân đồi Thượng,
một bếp để luộc bánh chưng, một bếp khác để nấu nước sôi tiếp cho nồi bánh. Bếp
phải đặt phía dưới, bởi vì gần đỉnh đồi quá thì sẽ nóng vì đống lửa đỉnh đồi.
Cả nhà chuẩn bị ăn Tết một
cách rộn rịp và chính sự chuẩn bị rộn rịp để ăn Tết ấy quả đã là Tết một
cách đích thực rồi. Từ lúc ba giờ chiều, Nguyên Hưng và Triều Quang đã vào rừng
đốn về những cây tre lớn và cưa ra từng ống một, chất đầy bên lều. Khi thùng
bánh chưng sôi, tất cả chúng ta đều tắm rửa, quây quần trong chiếc lều lớn nhất
cắm trên đồi, nghỉ ngơi, nghe chương trình phát thanh cuối năm của đài Saigon từ
chiếc Sony quen thuộc và ăn cơm, một bữa cơm chiều thật đơn giản. Tha hồ cho
chúng ta nói chuyện bốn phương. Hồi ấy thường trú tại Phương Bối mới chỉ có
Nguyên Hưng, Lý, Tuệ, dì Tâm Huệ và tôi, còn những người khác là “chim bốn
phương bay về đây cả”. Những con chim ấy bay về Phương Bối và tíu tít kể cho
nhau nghe những mẩu sinh hoạt những câu chuyện những biến cố đã xảy ra cho
chúng từ những phương trời khác nhau. Không ai là không thấy rõ rằng Phương Bối
chính là alma maier của mình.
Trên những cây cao còn lại của
đồi Thượng và cả trên lan can của thiền thất nữa, Mẫn và Lý đã treo đèn. Vào
lúc mười giờ rưỡi, Nguyên Hưng ra lệnh đốt lửa. Thế là chỉ trong nửa giờ sau, đống
lửa cháy rực trời trên đồi Thượng. Tàn lửa lên cao, cao ngất, khiến cho một vài
người trong số chúng ta tỏ ý lo ngại cho sự cháy rừng. Nguyên Hưng nghĩ, cháy rừng
làm sao được khi tàn lửa phải bay lên được bốn trăm thước mưói tới được cửa rừng?
Tuy vậy, đống lửa vĩ đại soi sáng rực rỡ cả một vùng núi hoang dại. Bởi vì đồi
Thượng là chiếc đồi cao nhất trong vùng. Chúng ta trông rõ tất cả những vùng
núi bao quanh Phương Bối nhờ ánh lửa rực trời trên đồi Thượng. Có lẽ tất cả thú
vật, dân chúng của núi rừng đang ngạc nhiên, và qua kẻ lá, đang hướng những cặp
mắt nhìn về đồi Thượng. Xa xa, ta có thể trông thấy ngôi nhà của Đại Hà thấp
thoáng trong đồi núi chập chùng. Mười một giờ rưỡi khuya rồi và đống lửa đã
cháy lên rất cao. Chúng ta trở về thiền thất cúng giao thừa. Chiếc bánh đầu
tiên vớt ra đã được đem lên cúng Phật. Buổi lễ đơn giản và ấm áp chỉ kéo dài
vào khoảng 20 phút. Giao thừa đến Mẫn, Hưng, Quang, Hiện, Lý, tất cả đều mang
các ống tre liệng dần vào đống lửa vĩ đại. Đó là pháo lệnh giao thừa của Hưng đấy.
Các ông tre liên tiếp nổ lớn vang động cả núi rừng và có lẽ làm kinh hoàng cả mọi
loài ẩn náu trong rừng. Tôi còn nhớ là các cậu đã quăng vào đống lửa năm mươi mấy
ống pháo tre như thế, và không có ống tre nào là không nổ lớn.
Bánh chưng của Lý quả thật
là rất ngon - có lẽ cũng ngon nhờ những điều kiện khác nữa, như là không khí đặc
biệt của Phương Bối, sự hiểu biết của mọi người, vui vẻ của mọi người và nhất
là sự… đói bụng của mọi người. Nói như thế không có hại gì đến cái “uy tín” gói
bánh của Lý cả. Mỗi người trong chúng ta phải chúc tất cả mọi người và như thế
chúng ta nghe tất cả đến năm mươi bốn câu chúc tết. Dì Tâm Huệ tỏ vẻ nhiều e thẹn
nhất dù dì lớn tuổi bằng dì của tất cả chúng ta, và dì đã chúc cho tất cả những
câu chúc đơn sơ mà chân thành cảm động.
Tôi nhớ suốt ngày mồng một tết
các cậu dã chia thành hai ba toán rủ nhau đi chơi thám hiểm núi rừng. Đến đâu
cũng đốt lửa, chặt tre làm pháo đốt vang cả rừng. Thầy Thanh Từ chưa có mặt ở
Phương Bối trong cái tết thứ nhất ấy. Nhưng trong cái tết thứ hai, thầy cũng
tham dự những trò nghịch ngợm nhất của mọi người. Ở đây ai cũng dễ dàng sẵn
sàng để mà “đồng sự”. Kiểu chào của thầy Thanh Từ cũng thay đổi như tất cả mọi
người và cả đến những kiểu sinh hoạt khác như đi núi, trồng cây, cắm trại nữa.
Lần đầu lên Phương Bối thăm,
thầy Thanh Từ đã tỏ sự ưa thích Phương Bối một cách mặn nồng. Thầy bảo chúng ta
nhường cho thầy một ít vùng núi để làm thiền thất. Tôi nói: tất cả rừng núi
Phương Bối là của thầy. Thế là sau đó vài ba tháng, nhờ sự giúp đỡ của vài người
bạn thân của thầy, chúng ta đã dựng nên một thiền thất ở triền Đông Bắc của đồi
Thượng. Nhà thiền này được đặt tên là Thiền Duyệt Thất. Duyệt có nghĩa là
sự vui vẻ hoan lạc về tinh thần. Trong bài cúng dường của Nhị Thời
Khóa tụng, ta thấy có câu thiền duyệt vi thực nghĩa là thức ăn
làm bằng sự hoan lạc của thiền định. Thầy Thanh Từ nghe đặt tên cho nhà thiền
như thế thì chịu lắm bèn chấp nhận ngay.
Bên cạnh Thiền Duyệt Thất,
chúng ta còn xây thêm một cái hồ chứa nước nữa và thầy Thanh Từ đã tự tay làm một
chiếc giàn hoa leo thật đẹp phía trước. Hai bên con đường từ dưới đồi đi lên,
thầy đã trồng những cây thông con bứng về từ Djiring. Thầy lại còn trồng thêm
bao nhiêu là thứ hoa nữa xung quanh thất. Lúc Thiền Duyệt Thất làm xong, thì
chiếc nhà Thượng cũng được khởi công dựng trên chót vót đỉnh đồi. Hai người có
công nhất là Triều Quang và Nguyên Hưng. Hợp tác với anh Phương ở ngoài xóm và
với hai người Thượng nữa Quang và Hưng đã hoàn thành được chiếc nhà duyên dáng ấy
trong vòng một tháng. Vì đứng chót vót trên đỉnh đồi nên nhà Thượng phải được tạo
dựng vững chãi. Tôi biết Nguyên Hưng đã tốn rất nhiều công phu vào ngôi nhà ấy.
Tôi đã cùng Nguyên Hưng trang trí bên trong và bên ngoài nhà Thượng. Sau này
chính nhà Thượng trở thành hình ảnh tượng trưng nhất của Phương Bối. Buổi chiều
chúng ta hay quây quần bên nhà Thượng cho đến tối, và nhiều đêm chúng ta đem
chăn ngủ ngay ở sàn nhà Thượng. Có đêm rét quá mà trên đồi thì nhiều gió, chúng
ta bắt buộc ôm chăn rời nhà Thượng nửa đêm để về nhà cũ. Tôi không quên được những
đêm chúng ta đứng trên lan can nhà Thượng ngắm sao ngắm trăng. Những đêm như thế
thật là huyền diệu. Sao và trăng gần chúng ta quá. Nhất là sao Mai. Lớn gần bằng
một mặt trăng. Không biết ở những nơi như Trúc Lâm, Toàn có thấy sao Mai lớn
như thế không. Có những đêm tôi kéo Lý ra khỏi những đống bản thảo dày cộm của
Lý để chỉ cho Lý thấy trăng sao thấy sao. Tôi thì cũng ham viết lắm, nhưng vào
những đêm nhiều sao như thế này, tôi không thể nào viết được.
Nguyên Hưng, tôi nghe Phương
Bối đã trở nên bất an quá, cho nên thầy Thanh Từ cũng đã rời Thiền Duyệt Thất
mà về Phú Lâm rồi. Thật là buồn. Hôm tôi từ giả Phương Bối, tôi tưởng thầy
Thanh Từ có thể ở lại Phương Bối bình yên. Nhưng mà không. Lâu nay Nguyên Hưng
có tiếp xúc với thầy Thanh Từ bằng thư không? Hôm qua, tôi có viết cho thầy
Thanh Từ một lá thư. Lá thư còn để đây, chưa có dịp gởi nhà giây thép. Tôi đã
viết lá thư ấy trong một tâm trạng bình yên và yêu thương. Nhưng chỉ những người
thuộc về “thánh địa” Phương Bối như thầy Thanh Từ, như Hưng, như Lý mới hiểu được
tại sao tôi có thể viết như thế mà thôi. Thôi để tôi chép cho Nguyên Hưng đọc một
đoạn trong lá thư đó. Đoạn này nằm ở giữa lá thư.
“Tôi đã tìm ra chân lý rồi.
Trời ơi có phải là nghe câu ấy thầy đang ôm bụng cười tôi phải không? Tôi nói
thật đó mà. Khi tôi thấy nó, tôi giật mình. Nó không phải là ai xa lạ cả. Nó
là, thầy ơi, nó là kẻ mà tôi đã gặp từ lâu, đã biết rõ mặt mũi từ lâu. Nó không
có chi mới lạ đối với tôi cả. Thế mà tại sao lâu nay, có tới ngàn vạn kiếp rồi,
tôi không nhận diện được nó. Lần này thấy nó, tôi ngạc nhiên đến nỗi không biết
làm gì hơn là phá lên cười. Cũng giống như bây giờ thầy đang ôm bụng cười tôi vậy.
Tôi hỏi: “Tôi tưởng tên của
cậu mày hay như thế thì mặt mũi cậu phải đẹp lắm kia chứ?”.
Nó hỏi lại: “Vậy thầy thấy
tôi xấu hay sao?”.
Tôi giật mình nó lại, thì quả
thực nó không xấu.
Nó lại hỏi: “Hởi người đã
tìm thấy tôi, người sẽ làm gì chiều hôm nay?”
Tôi nghiêm trọng trả lời:
“Ta sẽ đi ăn cơm khi ta thấy đói bụng, và sẽ ngủ khi ta thấy buồn ngủ.”
Thầy ơi, hôm từ giã phi trường
Tân Sơn Nhất, tôi có mang theo một cái hột gà. Tôi như một con gà ấp trứng, và
luôn luôn có một cái hột gà để ấp, đêm và ngày. Tôi mang theo qua bên này một
cái hột gà đã ấp từ sáu bảy hôm nay, và những kẻ đưa tôi ra phi trường không có
ai hay biết. Họ chỉ biết tôi mang theo một cái áo lạnh và một cây viết Pilot.
Nhân viên quan thuế không biết, mà tôi cũng không biết phải khai báo ra làm
sao. Tôi nín thinh. Nhưng mà tôi tin ngồi ở Thiền Duyệt Thất, thầy có thể biết.
Tôi nhớ cũng đã từng nói cho thầy nghe và hứa với thầy là khi nào hột gà nở ra
con gà thì tôi tin cho thầy hay. Thầy có nhớ điều đó không? Hôm nay tôi có thể
tin cho thầy biết là thêm một năm ấp ủ, và do khí hậu thuận lợi, con gà đã mổ
được vỏ quả trứng và chui ra ánh sáng. Ra khỏi vỏ nó lớn rất mau chóng, không
khác gì cậu bé Phù Đổng năm xưa.
Đêm mồng bảy tháng năm vừa
qua, tôi được chứng kiến một cuộc đàm thoại giữa Đức Phật và Ma Vương Ba
Tuần, Đức Thế Tôn tiếp Ma Vương Ba Tuần tại núi Linh Thứu với tư cách một
thượng khách của Ngài. Thầy nghe không, một thượng khách của Ngài. Tôi thích
thú lắm. Tôi định sẽ ghi tất cả nội dung của cuộc đàm thoại đó làm thành một cuốn
kinh:
“Đức Phật: Xin mời Ngài ngồi.
Ba Tuần: Xin cám ơn Ngài. Gớm
cái ông thị giả của Ngài khó tính quá. Khi tôi xưng danh hiệu, ông ta nhất định
không cho tôi vào. Ông nói: Nhà ngươi còn đến đây làm gì? Ngươi không nhớ năm
xưa dưới gốc cây Bồ Đề, ngươi đã bị đức Thế Tôn đánh bại hay sao? Ngài sẽ không
tiếp nhà ngươi đâu. Nhà ngươi là kẻ thù của Đức Phật”. Tôi phải nói khích một
câu ông ấy mới cho vào.
Đức Phật (cười): Ngài nói
khích như thế nào?
Ba Tuần: Tôi nói: “Phật thì
làm gì có kẻ thù. Phật mà còn phân biệt kẻ oán người thân thì đâu có phải là Phật”.
Chừng ông ta đã được nghe đâu cái câu ấy của Ngài một vài lần rồi cho nên khi
nghe tôi nói khích ông ta động lòng tự ái, cho tôi vào ngay.
Đức Phật: Cái kiểu của ngài
thì muôn đời như vậy. Và cứ phải mưu mô mà đi đường cong như vậy thì mới thắng
được thiên hạ. Nhưng mà thực ra có dám làm như thế mới được gọi là Ma Vương.
Ba Tuần: Đúng lắm thưa Ngài.
Làm Ma Vương bực lắm. Mặc áo thì luôn luôn phải mặc áo giấy. Vẻ mặt thì khi nào
cũng phải hoặc nham hiểm, hoặc độc ác hoặc u mê. Thở thì phải thở toàn khói
nghi ngờ đen nghịt. Để có hình thức phù hợp. Để cho danh chánh ngôn thuân là Ma
Vương mà. Đi đâu thiên hạ cũng tránh, cũng ghét, cũng sợ. Làm Ma Vương quả thực
bực lắm.
Đức Phật: Vậy ngài tưởng làm
Phật sung sướng lắm hay sao? Thiên hạ dán vào lưng tôi nhiều nhãn hiệu mà tôi
không hề tự xưng bao giờ. Thiên hạ đem tôi ra bán buôn. Và cứ tưởng tượng ngồi
trên xe hoa để thiên hạ rước đi từng bước gật gù qua các phố bán than, bán thực
phẩm, bán nước mắm v.v… thì tôi tưởng Ngài sẽ chẳng bao giờ ước muốn làm Phật,
Thế Tôn của nhân loại.
Nghe đức Thế Tôn nói xong,
Ba Tuần cười ha hả…”
Nguyên Hưng ơi, tôi chỉ chép
Nguyên Hưng đọc từng đó mà thôi nghe.
Không phải tôi sợ rằng
Nguyên Hưng nhìn tôi bằng cặp mắt thương hại hay trách móc đâu. Tôi đã nói với
Nguyên Hưng rằng tôi viết lá thư đó trong tâm niệm an lành và thương yêu rồi
mà. Mai sau nếu chúng ta được trở về Phương Bối thì bản thảo cuốn kinh kia sẽ
được để trên bàn giữa của chiếc nhà Thượng. Và sẽ chỉ có những người có căn cơ đại
thừa của đại thừa mới được đọc cuốn kinh đại thừa của đại thừa ấy có phải
không?…
Mấy hôm này trời khá lạnh.
Ngày mốt tôi đã phải rời bỏ nơi đây rồi. Tôi sẽ ghé Princeton thăm và ở lại đây
vài hôm trước khi về Nữu Ước. Những ngày sống nơi đây thật là an tĩnh và mạnh
khỏe. Tôi đã chơi rừng, đã chèo thuyền, đã bơi lội với bọn trẻ. Tôi làm tất cả
những công việc bọn trẻ làm: đi quan sát các hiện tượng thiên nhiên, tập làm thủ
công, chơi bóng bàn, bóng chuyền, chạy đua, đóng kịch, hát, chơi trò chơi lớn…
Bọn trẻ thích nhất nói chuyện với tôi và ưa đi theo về Pomona trong
những giờ tự do. Tôi đã nói chuyện nhiều lần cho từng nhóm ba bốn chục người. Tối
hôm qua người ta làm lễ bế mạc trại theo hình thức của người thổ dân bản xứ. Họ
mời tôi tới dự: và bởi vì là khách “quý” tôi được trao tặng lông chim xanh danh
dự. Có những màn khiêu vũ kiểu thổ dân rất ngoạn mục. Buổi lễ được tổ chức
trong một khu rừng âm u vào lúc mười giờ đêm. Để tôi kể cho Nguyên Hưng nghe.
Từ những khu trại khác nhau.
Lúc chín giờ rưỡi đêm, các trại sinh từ bé tới lớn sắp hàng đi lặng lẽ về địa
điểm làm lễ. Có những con đường mòn khác nhau dẫn tới khu rừng đã được chọn làm
địa điểm ấy, và từng đoàn người trong bóng đêm đi im lặng như những bóng ma.
Không ai được đốt đuốc cả. Người đi đầu mỗi đoàn đã phải học thuộc đường rồi và
như thế cả đoàn cứ việc đi theo anh ta không sợ vấp, vướng hay đâm nhào vào bụi.
Có trên năm trăm trại sinh trong toàn trại, và im lặng được tuyệt đối tôn trọng.
Tôi thấy họ dạy dỗ trẻ con tài quá. Mỗi đoàn, khi tới địa điểm, im lặng tìm đến
chỗ ngồi của mình. Nơi làm lễ là một khoảng đất trống. Dưới ánh sao, người ta
chỉ trông thấy lờ mờ một đống củi. Tất cả đều lặng lẽ chờ.
Đúng mười giờ. Từ một góc rừng
vọt ra một âm thanh lạ kỳ, một âm thanh có tính nguyên thỉ và man rợ. Tiếp theo
là tiếng trống báo hiệu người tù trưởng đến. Một lúc sau xuất hiện ba bóng đen
trước đống củi lớn. Một bóng đưa tay làm phép trên đống củi và đọc một đoạn cầu
nguyện cho lửa thiêng trở về. Giọng hắn nghe mọi rợ và ghê rợn. Người ta chờ đợi.
Vài phút sau có tiếng rẹt rẹt trong đống củi, và một tia lửa xanh xẹt lên. Đống
củi bừng cháy.
Lửa càng lúc càng sáng và
soi rõ hình dáng ba người thổ dân, cố nhiên là do trại sinh trá hình. Tất cả đều
đóng khố. Thân hình đen thui đen thủi, vì đã được bôi thuốc. Mặt mày cũng thế.
Lại có thêm nét rạch. Đầu đội lông chim. Tên đứng giữa ra lệnh khai mạc buổi lễ.
Những màn múa bắt đầu. Trại sinh đã tập luyện rất kỹ lưỡng. Người nào người ấy
đều phục sức như thổ dân, và những màn múa cố gắng diễn tả nếp sống tôn giáo
tín ngưỡng của các bộ lạc. Tất cả trại sinh dự kiến đều im lặng. Không ai xuýt
xoa một tiếng nào, và màn vũ đặc sắc cách mấy cũng không được vỗ tay. Tôi ưa nhất
là cảnh đánh nhau bằng đuốc. Để cướp một người đàn bà, hai thanh niên đã phải đấu
đuốc với nhau. Họ cầm những cây đuốc sáng rực và tấn công nhau một cách mãnh liệt.
Tất cả mọi người đều hồi hộp cho đến khi cuộc đầu kết thúc và một trong hai người
được phép chiếm hữu người đàn bà.
Tiếp đến là lễ tặng lông
chim xanh danh dự cho những người có công trong “vương quốc” Ockanickon, nghĩa
là cho những trại sinh xuất sắc của trại hè. Khi tù trưởng gọi đến tên một người
nào được tặng lông chim danh dự, thì từ bốn phía rừng Đông rồi Tây rồi Nam rồi
Bắc, vọng lên tiếng tên họ của người ấy kèm theo tiếng mõ ngắn. Tiếng vọng có vẻ
huyền bí như tiếng của các thần linh đang đứng ở bốn phía để chứng kiến buổi lễ.
Tôi không thể nhớ đến những
người bạn Thượng của chúng ta ở B’su Danglu, những người bạn Thượng thường
hay đi qua Phương Bối để hái rau rịa. Rau rịa là một thứ rau rừng ăn rất
ngon; người thượng nào cũng ưa thích. Thứ cây này có rất nhiều ở Phương Bối, nhất
là trong khu rừng ở phía Tây Nam. Ta chỉ có thể hái được những đọt lá non mầu hồng
tím. Lá rịa mọc song đôi trên đọt cho nên Lý đặt tên thứ rau này là song
diệp thái. Người Thượng có thể bán cho người kinh bất cứ thứ gì họ kiếm được
ở rừng: tre, mây, phong lan, thịt nai, măng, v.v… nhưng không bao giờ bán lại rau
rịa. Họ nói không ăn rau rịa thì hai chân sẽ nhức mỏi; đi rừng nhắc chân không
nổi. Tôi chắc thứ rau ấy có được tính trừ được tê thấp, hay gì đó. Bác Đại Hà
nói những người mất ngủ nếu ăn rau rịa thì sẽ ngủ được. Chúng ta ai cũng thấy
điều đó là đúng, và lâu lâu lại đi vào rừng đi hái thứ rau quý giá đó về để cho
dì Tâm Huệ nấu canh. Những người bạn Thượng không nấu canh rau rịa theo kiểu dì
Tâm Huệ. Họ đem rau rịa giã nát ra, rồi trộn với ít muối. Xong họ đổ thêm nước
và đun sôi lên. Thế là họ có món ăn mà họ ưa thích nhất. Có một bữa Phượng từ
Saigon lên ở lại, không nhận mặt được rau rịa cho nên hái nhầm những đọt lá
không phải là rau rịa. Ăn món canh rau rịa chiều hôm ấy ai cũng thấy say say.
Và chúng ta lại có dịp chế riễu cái côbotaniste hiền hậu đó.
Thỉnh thoảng gặp những người
Thượng đi ngang Phương Bối, chúng ta hay ra mời mọc họ vào chơi uống nước. Những
người thượng như thế ít nhiều cũng nói được tiếng Kinh. Còn tiếng Thượng thì
chúng ta chỉ biết một vài câu xã giao mà thôi. Bác Đại Hà nói tiếng Thượng thật
giỏi, nhưng không có dịp dạy chúng ta. Tôi đã kiếm được một tập tự điểnThượng
Kinh Kinh Thượng in bằng ronéo, nhưng cũng chưa có dịp thuận lợi để học. Tập
tự điển ấy, tôi nhớ còn để ở hộc tủ bên trái trong thư viện, Nguyên Hưng.
Trong chúng ta, ai cũng có
nhiều cảm tình với người Thượng. Họ chất phát và thực thà, cho nên nhiều khi bị
lợi dụng. Nhưng, càng bị lợi dụng họ lại càng khôn hơn lên, và bây giờ đây đã
có những người Thượng mà tôi tưởng không ai còn có thể lợi dụng được nữa.
Người thượng có sức chịu đựng
rất dẻo dai. Thân thể họ có nhiều năng lực kháng độc hơn chúng ta, và những điều
chúng ta làm gọi là để mà “giữ vệ sinh” ấy, người Thượng không hề làm, hoặc không
cần làm. Họ ít khi ốm đau vặt, và nếu bị ốm thì là bị ốm nặng mà thôi. Mà một
khi đã ốm nặng là khó lòng qua khỏi. Có lần tôi gặp một gia đình người Thượng
cõng một người ốm đi ngang Phương Bối. Người này đã già, và chân tay gầy tong
teo như những cây sậy. Hỏi ra thì người này ốm già, chứ không phải là ốm bệnh.
Ông ta sắp chết, không phải vì tật bệnh gì, mà chỉ vì già. Biết rằng ông ta sắp
chết cho nên gia đình ông ta cõng về nơi mà ông ta sẽ nằm chết để chết.
Có một lần khác tôi trông thấy
một người đàn bà Thượng tắm cho con trong một dòng suối. Tôi rùng mình. Đứa bé
chỉ vào khoảng hai tuổi, tôi phải mặc áo ấm, thế mà đứa bé chịu đựng được,
không hề kêu khóc. Tôi biết là đứa bé nào ở thành phố mà cho về tắm dưới suối
kia theo kiểu người đàn bà Thượng thì cũng ít nhất là bị sưng phổi. Da thịt của
hai mẹ con hình như bằng đồng thì phải. Dì Tâm Huệ còn nói rằng người Thượng
còn tắm nước mát lạnh cho cả những đứa bé sơ sinh nữa. Người ta nhúng những đứa
bé xuống nước vài lần. Những đứa nào chịu được thì sẽ sống mạnh khỏe. Những đứa
nào không chịu được thì sẽ chết. Không biết điều này có thực không. Nếu thực
thì ta có thể có thêm một lý do để hiểu tại sao dân số Thượng hầu như không
tăng không giảm.
Nguyên Hưng có nhớ một buổi
chiều cùng với bác Đại Hà trồng bạch mai trước sân, chúng ta đón một đoàn người
Thượng đi ngang Phương Bối hay không? họ mang cung tên, trong đó có
những mũi tên tẩm thuốc độc. Chúng ta đã ngừng tay và nói chuyện với họ, qua
tài nói tiếng Thượng của bác Đại Hà. Lần đầu tiên tôi được mân mê trong tay những
mũi tên có tẩm thuốc độc. Bác Đại Hà cắt nghĩa về cái chất vàng vàng ở đầu mũi
tên đó. Để chứng kiến tài nghệ của những người Thượng, Lý yêu cầu họ bắn một
mũi tên lên cành cây cong ở khu rừng trước mặt. Bác Đại Hà thông ngôn xong, họ
nhận lời ngay một người trong đoàn lấy ra một mũi tên - không có thuốc độc - và
lắp vào cung. Tiếng giật của giây cung và tiếng mũi tên xé gió đi tới làm cho
tôi có cảm nghỉ rằng mũi tên thế nào cũng đi lạc. Nhưng không, sau một âm thanh
khô cứng và bén nhọn, tất cả chúng ta đều reo mừng khi thấy mũi tên đã cắm trên
cành cây cong, thân tên vẫn còn rung rung.
Đối với chúng ta, đoàn người
Thượng hôm ấy là một đoàn người Thượng có phong thái hơn cả, và có tính cách
Thượng hơn cả. Một đoàn người như thế thì đi bất cứ khu rừng nào cũng không còn
phải sợ hãi gì nữa. Chắc lúc ấy Triều Quang đang tưởng tượng trong óc những lúc
đoàn người này gặp cọp giữa rừng và hình dung ra những trận ác chiến ghê gớm giữa
người và cọp. Quang hỏi: “Khi gặp cọp trong rừng các ông làm gì?” và đợi nghe
những bí thuật, những chiến lược đặc biệt của người Thượng để đối phó với cọp.
Bác Đại Hà vừa thông ngôn xong thì câu trả lời bằng tiếng Thượng của người vừa
bắn mũi tên trổ tài cũng tới ngay, và rất ngắn. Bác Đại Hà dịch lại: “Khi gặp cọp
thì chúng tôi… chạy.” Tất cả chúng ta đều rũ ra cười, phá lên cười, ôm bụng mà
cười vì không có ai chờ đợi một câu trả lời như thế, có lẽ trừ bác Đại Hà, người
thông hiểu về đời sống của người Thượng hơn hết. Những người khách Thượng ngơ
ngác không biết chúng tôi cười vì duyên cớ nào. Họ đã trả lời một cách giản dị
và thành thực. Điều đó không có gì đáng cho là khó hiểu hay buồn cười cả. Họ
không ngờ chúng tôi cười chỉ vì đã tưởng tượng nhiều quá trong óc chúng tôi về
những trận ác chiến với cọp.
Bác Đại Hà cắt nghĩa: “Cọp ở
miền này không có ý hại người, không hay giết người ăn thịt. Vì hươu nai và các
thú rừng rất nhiều, rừng không nghèo như ở miền rừng Quảng Bình, Quảng Trị. Cọp
chỉ xông vào vồ người hoặc kịch chiến với người khi nào cọp bị dồn vào một thế
bí. Vì vậy gặp cọp trong rừng thì chỉ cần tránh ra khỏi con đường cọp đi, thế
là yên. Chạy có nghĩa là tránh đừng gặp mặt cọp trên đường cọp đi”.
Tuệ cười đến chảy nước mắt,
phải lấy khăn lau. May là chúng tôi gặp những người Thượng chất phát cho nên
chúng tôi mới có thể cười thẳng thắng như vậy mà không sao, chứ gặp những người
dưới phố mà cười như thế thì chắc là phải có gây gổ với nhau rồi. Muốn tránh sự
gây gổ thì phải bóp bụng lại, đừng cười. Mà làm sao có thể nín cười trong một
trường hợp như thế, hả Nguyên Hưng.
Có một hôm, anh Phương con
dì Tâm Huệ một mình với chiếc xe đạp cũ leo theo con đường mòn để vào Phương Bối.
Qua rừng Tham Thiền chưa được mười thước, anh thấy một ông Ba Mươi rất
to lớn nằm ngay giữa đường, xoay lưng về phía anh đang mơ mộng nhìn về giải núi
xa xa trước mặt. Thật là bất thần. Không biết là nếu ở vào trường hợp của
Phương, Nguyên Hưng hay tôi có chết khiếp đi không chứ theo lời Phương kể lại
hôm đó thì Phương thấy lạnh hết xương sống. Ông Ba Mươi vẫn nằm đó,
như không hay không biết, chi cách Phương có ba bước. Quay xe đạp chạy trốn là
một điều nguy hiểm vì Phương biết nếu ông Ba Mươi nghe tiếng động
quay lại, ông ta sẽ vồ ngay Phương. Thật là tiến thối lưỡng nan. Phương liền
thi hành kế sách làm cho ông Ba Mươi giật mình để ông ta phóng vào rừng.
Cậu ta liệng chiếc xe đạp ngay sau lưng con cọp một cái rầm vừa la “ối
trời ôi, ối trời ôi” vang cả rừng, tôi giật mình tìm ra tới chỗ Phương. Lúc ấy
thì ông Ba Mươi đã đi rồi, và Phương ngất xỉu giữa đường với chiếc xe
đạp. Thì ra nghe tiếng rầm của chiếc xe đạp và tiếng hò hét của Phương ông
Ba Mươi không “giật mình phóng vào rừng” như Phương dự tưởng. Ông ta từ từ
đứng dậy, không thèm ngoái lại, và uể oải đi từng bước vào rừng. Tôi ra, gặp một
anh Phương xám xanh như gà cắt tiết. Tôi vội gọi dì Tâm Huệ và chúng tôi dìu
Phương vào. Suốt ba ngày, Phương chưa lấy lại đủ ba hồn, bảy vía.
Nguyên Hưng ơi cũng là may ở B’su
Danglu cọp không ăn thịt người nên mấy lần gặp cọp chúng ta cũng chẳng bị
hề hấn chi. Ngày xưa có người đành lòng lên ở chỗ nhiều thú dữ để dù rằng có bị
thú dữ ăn thịt đi nữa thì cũng không đau khổ bằng sống dưới một sự cai trị hà
khắc nhiều khốn đốn. Phương Bối tuy rằng không phải là một nơi đầy thú dữ, một
nơi sơn lam chướng khí độc địa - trái lại; là một nơi rất đẹp, rất yên tĩnh, rất
kỳ thú - nhưng còn chúng ta, cái gì đã khiến chúng ta bỏ thành thị bỏ xóm làng
mà lên đây? chúng ta nhất là Lý và tôi, không được chế độ chấp nhận.
Mà không được chế độ chấp nhận là bởi vì chúng tôi thao thức muốn nói những điều
mà chúng tôi cho là sự thực. Nguyên Hưng ơi, tôi thấy rằng cái Chân hoặc
cái Thiện bao giờ cũng phải đi với cái Cường nữa thì mới có
thể có chỗ đứng trên trái đất này. Ngày xưa học thơ ngụ ngôn của La
Fontaine, tôi rất bất bình khi nghe nói rằng lý luận của kẻ mạnh là lý luận hay
hơn cả. La raison du phus fort est toujours la meilleure! Tôi giận ứ
cả cổ. Tôi ghét con chó sói lắm. Tôi vẫn tin rằng câu ấy là một câu nói mĩa
mai, chớ không phải là một chân lý. Nhưng mà đã mấy mươi năm qua rồi, cuộc đời
đã bao nhiêu lần cho tôi biết rằng đó là một chân lý, dù là một chân lý đáng
ghét. Chân lý mà không có sức mạnh thì không có chỗ đứng. Sức mạnh không hẳn là
bạo lực. Nhưng mà anh phải mạnh. Chúng ta chỉ có những cây bút nhỏ, làm sao
chúng tôi chống chọi lại với một chế độ, hả Nguyên Hưng.
Và tất cả chúng ta, nào Mẫn,
nào Hiện, nào Hương, nào Tuệ, nào Hưng, và bao nhiêu người khác nữa cũng không
tìm được chỗ đứng của chúng ta trong tổ chức Phật giáo. Chúng ta đã mang tiếng
là những người gieo rắc tư tưởng phản giáo lý truyền thống, những người quá
khích, những người chỉ biết phá hoại. Chế độ không dung được ta mà truyền thống
cũng không dung được ta. Cổ họng chúng ta bé bỏng. Nói chuyện thống nhất Phật
giáo, nói chuyện hiện đại hóa lễ nhạc, giáo dục, hoằng pháp, nói chuyện về một
nền Phật giáo nhân bản và dân tộc, những điều ấy chúng ta đã đeo đuổi từ gần
tám năm nay. Những hạt giống đã gieo, một cách vô cùng khó khăn. Trong khi chờ
đợi, chúng ta gặp toàn những giông tố, những ghen ghét, những thành trì cố chấp
hủ bại, tuy nhiên chúng ta không nản chí, không thất vọng. Một số hạt giống đã
lưa thưa mọc lên. Cùng với sự bất mãn chế độ, ý thức về một nền Phật giáo dân tộc
dần dần tượng hình. Nguyên Hưng không ngờ được rằng ảnh hưởng của những tư tưởng
kia đã sâu đậm như thế nào ở miền Trung. Một buổi chiều đi với Như Huệ và Như Vạn
trong một xóm nghèo ở Quảng Nam, tôi nghe tiếng võng kẽo kẹt hòa theo tiếng ru
em, những câu ca dao của Tâm Kiên! Tôi muốn chảy nước mắt.
Có lẽ là chúng ta không nên
ngạc nhiên quá, và không nên đòi hỏi quá. Sự vùng dậy để thoát xác của một nền
văn hóa không phải là một cái gì có thể thực hiện một cách dễ dàng và êm đềm. Sự
dễ dàng và êm đềm đó chi có thể đi đôi với tinh thần nô dịch. Mà đã là nô dịch
thì văn hóa không còn là văn hóa nữa, mà chỉ còn là một dụng cụ. Những mâu thuẫn
và khổ đau gây nên do sự va chạm giữa cái cũ và cái mới vốn là những gì không
tránh được. Chỉ có một con đường phải đi - con đường của sự tranh đấu bền bỉ và
gian khổ.
Nguyên Hưng ơi, vì nghĩ như
thế nên chúng ta đã làm việc tích cực trong thời gian ở Phương Bối. Tuy rằng
chúng ta có những buổi thám hiểm núi rừng, những ngày cắm trại, những buổi bình
văn, và tuy rằng tất cả những sinh hoạt ấy đều rất thú vị, chúng ta cũng đã để
rất nhiều thì giờ vào việc học tập, tra cứu, viết lách. Lý thường thức rất
khuya trên đống bản thảo. Còn tôi tuy sức khỏe không cho thức khuya, tôi cũng
làm thật nhiều việc. Ngoài sự sưu tầm, viết lách tôi đã khởi thảo bộ Phật Học Từ
Điển. Công việc này dỡ dang; trước khi đi, tôi đã giao lại cho một số các bạn
trẻ ở Phật học viện Nha Trang tiếp tục. Tôi rất sung sướng nghĩ đến những buổi
học nơi nhà Thượng hay ở thư viện. Nguyên Hưng và Thanh Tuệ đã làm việc rất
siêng năng. Ngoài những môn học thường nhật, thỉnh thoảng tôi ưa giảng cho Hưng
và Tuệ về những đề tại đặc biệt. Tôi chắc Nguyên Hưng còn nhớ hôm tôi đem giảng
những đoạn trong Cựu Ước. Những cuộc hội thảo xảy ra luôn luôn, một cách tự
nhiên và Lý có vẻ hùng biện hơn ai hết. Nói thế chứ nhiều khi tôi cũng hay “bắt
nạt” Lý lắm, phải không Nguyên Hưng? Thầy Thanh Từ thì ít nói, hay cười hiền
lành. Tuy vậy thỉnh thoảng chúng tôi cũng bắt thầy điều khiển những buổi hội thảo.
Tôi nhớ chó một lần thầy hướng dẫn hội thảo về thiền. Lần này có một nhóm sinh
viên Phật tử ở Saigon lên thăm và tham dự.
Triều Quang ít nói trong các
buổi hội thảo, nhưng hễ nói thì nói những điều có thể gây nên những “vấn đề lớn”.
Quang rất say mê làm việc ngoài rừng. Cậu ta dọn một khoảng thật đẹp ở khu rừng
trước mặt, sửa sang cho thật xinh, và gọi đó là nội cỏ thiên đường. Quang
rất thích nuôi một con bò, ý định ấy được vài người trong chúng ta tán thành.
Tuệ cười nói: “vậy thì sẽ có sữa nóng uống buổi sáng”. Còn tôi thì ngại ông
Ba Mươi. Nuôi một con bò con tức là mời các ông Ba Mươi tới viếng
thăm ban đêm.
Một hôm Quang trông thấy những
người Thượng đi ngang, mang theo một con nai nhỏ. Con nai bị trói lại trông rất
đáng thương. Quang nhất định mua con nai ấy để nuôi trongnội cỏ thiên đường. Lần
này không ai ngăn cản Quang cả. Nhưng con vật, tuy được cởi trói và đối đãi thật
tử tế, vẫn không chịu ăn bất cứ một thứ gì. Ba bốn hôm liền như vậy. Đến hôm thứ
tư, Quang thử cho uống sữa. Con vật thích lắm. Nó uống sữa xong, đi chơi quanh
quẩn trong nội cỏ. Nhưng đến sáng mai, không ai tìm thấy nó nữa. Nó
đã trở lại núi rừng.
Viết cho Nguyên Hưng đến đây
tôi lại nhớ đến Datino, con nai nhỏ bé của bọnCherrokeesi, Datino lớn
như thổi. Đứa trẻ nào cũng ao ước được mang Datino về nhà. Tôi đã đề
nghị trả Datino về rừng. Một số các em tỏ vẻ luyến tiếc, nhưng phần lớn
đều tán thành.
Nguyên Hưng ơi, mùa hè năm ấy,
bao nhiêu việc buồn đã xảy đến cho chúng ta. Chị Diệu Âm ốm nặng phải chở lên
điều trị tại bệnh viện của bác sĩ Sohier. Lý bị bắt. Tôi phải trốn về Saigon.
Phương Bối bị đe dọa. Tuệ Hưng và tất cả những người ở Phương Bối bị bắt buộc
phải rời bỏ Phương Bối để vào trong ấp Chiến Lược. Công an nghi rằng chúng ta
đang làm gì ở miền núi rừng nên cứ đến Phương Bối để hỏi thăm, dò la. Những người
công an này lộ liễu lắm bởi vì trông tướng mạo họ và nghe một vài câu hỏi của họ,
ta đã có thể biết ngay rằng họ là công an rồi. Đột nhiên chúng ta mất hết những
an tĩnh của chúng ta. Phương Bối bị đe dọa trầm trọng. Chúng ta chứng kiến cảnh thiên
đường bị mất dần dần.
Tôi tin rằng không ai trong
chúng ta mà không nhớ rõ từng chi tiết của giai đoạn khó khăn ấy. Ba ngày hôm
sau Như Hiền báo tin bệnh chị Diệu Âm đã được thuyên giảm trong khi điều trị ở
bệnh viện Sohier, chúng ta nhận được tin cấp báo ở Dalat cho biết rằng bệnh
tình chị trở lại trầm trọng hơn bao giờ hết. Hoảng kinh, Nguyên Hưng và tôi vượt
rừng tìm về xa lộ, đón xe ngược Dalat. Từ mười giờ sáng đến bốn giờ chiều chúng
ta không đón được một chiếc xe nào cả. Xe đò chiếc nào cũng đầy ăm ắp. Chúng ta
đưa tay lên đón theo kiểuauto-stop bất cứ một chiếc xe nào. Chúng ta quên
đói, quên mệt, mà chỉ lo lắng. Bốn giờ hơn, may mắn chúng ta đón được xe của một
người quen. Xe của Nghĩa. Mừng quá, chúng ta hối thúc Nghĩa chạy thật nhanh.
Con đường như dài vô tận. Đến Dalat, Nghĩa đưa chúng ta đến thẳng bệnh viện
Sohier. Chị Âm đã tĩnh rồi, và cơn nguy hiểm đã qua rồi. Chị cười yếu ớt. Mắt
chị sáng lên khi trông thấy chúng ta.
Chắc Nguyên Hưng cũng nhớ rằng,
sau thời gian điều trị ở Dalat, chị đã được chúng ta mang về Saigon, điều trị ở Grall, và
sau đó về Huế. Bởi vì Dalat rét quá, không thích hợp với bệnh của chị. Chị đã lấy
lại được sức khỏe trong thời gian ba tháng. Khi tôi ra đi, chị có vẻ tin tưởng
và hy vọng. Tôi ngồi bên giường chị, ở Thiên minh, và nói chuyện vói chị về
những dự tính cho công việc sau này. Chị hơi mệt, nhưng nụ cười của chị rất
tươi. Tôi nói tôi chỉ vắng mặt chín tháng thôi, rồi tôi lại trở về. Mà khi tôi
về thì tình hình sẽ sáng sủa hơn, chúng ta sẽ làm được nhiều việc hơn. Chị chăm
chú nghe tôi nói và sẵn sàng tin nơi những điều tôi nói. Tôi có cảm tưởng rằng
trong khi nói chuyện với chị, tôi tưới được thêm những chất liệu của niềm tin
trên tâm hồn chị. Tội nghiệp cho chị. Chị mất sau đó không lâu, nghĩa là khoảng
ba tháng sau. Lúc ấy tôi ở Princeton. Điện tín do Hoàng Phong ở Huế gửi sang.
Tôi bàng hoàng và lặng người đi. Bởi vì tôi đã tin rằng chị có thể qua khỏi.
Tôi ghi chầm chậm trên tập bản
thảo của tôi mấy chữ đơn sơ: thương tiếc chị. Rồi tôi quỳ xuống cầu
nguyện cho chị. Giờ chị ra đi chắc chị nghĩ đến chúng ta đến Mai
Lâm và đến Phương Bối thân yêu. Rất an ủi cho tôi là lúc chị ra đi, vẫn
còn có Nguyên Hưng ở Huế. Có cả Thanh Hiện. Như Hiền và Như Liên nữa. Mai mốt
tôi về thì đã không còn chị. Bây giờ tôi ước ao ngồi bên tháp chị ở Từ Quang, để
nghĩ đến chị, để tâm hồn tôi có thể nói chuyện với chị. Cố nhiên là chị không
chết, người như thế làm sao chết được. Chị đã sống một cuộc đời đẹp, hoạt động
và giàu tin tưởng. Trong chúng ta, ai cũng mang hình bóng của chị. Ta thương
xót chị, nhưng ta vẫn có thể nở một nụ cười thương yêu khi nghĩ tới chị. Để tôi
kể chuyện hôm vào thăm chị ở nhà thương Grall Saigon. Chiều hôm ấy là chiều cuối
năm. Tết năm nay có lẽ buồn nhất ở Phương Bối. Nguyên Hưng đã phải phiêu dạt về
Huế rồi, và những người khác cũng đã phải đi mỗi người một ngả, chỉ duy còn thầy
Thanh Từ, chú Thanh Tuệ và dì Tâm Huệ là còn gan ở lại. Tôi thì cũng không sợ
gì, nhưng mọi người ai cũng bắt tôi phải rời Phương Bối cả.
Ai cũng lo cho tôi. Tôi phải vào Saigon, và ở lại Trúc Lâm. Độ ấy tôi bắt đầu hướng dẫn cho một số sinh viên các phân khoa thành lập hội Sinh viên Phật tử Việt Nam. Công việc gặp khá nhiều trở lực, từ ngoài đi vào cũng như từ trong đi ra điều này chắc Nguyên Hưng không thấy. Hồi ấy có Khanh, Dương, Chiểu, Phượng, Chi, Nhiên và Cương là những người có thiện chí nhất. Họ biết rất rõ điều ấy. Chiều ba mươi tết đáng lẽ đến dự buổi họp mặt của họ, thì tôi đi thăm chị Diệu Âm. Tôi nói chuyện và đọc báo xuân cho chị nghe, rồi ở lại với chị cho đến khi giao thừa trở về. Hồi đó người ta cấm đốt pháo, và chắc bây giờ cũng vậy. Tôi thắp những cây nến hồng bên cạnh những chậu hoa tôi mang đến tặng chị. Một giờ khuya, tôi chúc tết chị, và yêu cầu chị đi ngủ trước khi tôi từ giã chị. Một mình tôi đi bộ từ nhà thương Đồn Đất về tới chùa. Giờ này không còn xe cộ gì nữa cả. Sương xuống, tôi phải trùm vạt áo lên đầu. Tôi dang ngang qua tổng thống phủ, sáng rặc với những hàng bóng điện viền quanh mái nhà, và mĩm cười trước sự kiêu hãnh của ngôi nhà. Tôi biết là ngôi chùa gần nhất là chùa Xá Lợi, Và giờ này thì khách thập phương cũng đã đến lễ bái đông đảo như ở Lăng Ông Bà Chiểu rồi.
Ai cũng lo cho tôi. Tôi phải vào Saigon, và ở lại Trúc Lâm. Độ ấy tôi bắt đầu hướng dẫn cho một số sinh viên các phân khoa thành lập hội Sinh viên Phật tử Việt Nam. Công việc gặp khá nhiều trở lực, từ ngoài đi vào cũng như từ trong đi ra điều này chắc Nguyên Hưng không thấy. Hồi ấy có Khanh, Dương, Chiểu, Phượng, Chi, Nhiên và Cương là những người có thiện chí nhất. Họ biết rất rõ điều ấy. Chiều ba mươi tết đáng lẽ đến dự buổi họp mặt của họ, thì tôi đi thăm chị Diệu Âm. Tôi nói chuyện và đọc báo xuân cho chị nghe, rồi ở lại với chị cho đến khi giao thừa trở về. Hồi đó người ta cấm đốt pháo, và chắc bây giờ cũng vậy. Tôi thắp những cây nến hồng bên cạnh những chậu hoa tôi mang đến tặng chị. Một giờ khuya, tôi chúc tết chị, và yêu cầu chị đi ngủ trước khi tôi từ giã chị. Một mình tôi đi bộ từ nhà thương Đồn Đất về tới chùa. Giờ này không còn xe cộ gì nữa cả. Sương xuống, tôi phải trùm vạt áo lên đầu. Tôi dang ngang qua tổng thống phủ, sáng rặc với những hàng bóng điện viền quanh mái nhà, và mĩm cười trước sự kiêu hãnh của ngôi nhà. Tôi biết là ngôi chùa gần nhất là chùa Xá Lợi, Và giờ này thì khách thập phương cũng đã đến lễ bái đông đảo như ở Lăng Ông Bà Chiểu rồi.
Năm tháng sau thì Lý cũng được
chở vào điều trị ở bệnh viện Cơ Đốc Phú Nhận. Chứng bệnh nhức đầu ghê gớm của
Lý ngày xưa đã trở lại. Lý là một người có nghị lực, thế mà khi đau quá, Lý phải
hét như một người điên và nước mắt của Lý chảy ràn rụa. Nếu Lý không bị bắt thì
chắc chứng bệnh cũ không đến nỗi trở lại như thế đâu. Một hôm có người khách
quen, thầy Đức Nhuận, từ Saigon lên thăm Phương Bối, Lý và Nguyên Hưng sau khi
đưa khách vượt rừng ra xa lộ đã vui chân đi bảy cây số đường bộ về tới Bảo Lộc.
Hai người đang đi mua ít vật dụng trong chợ, thì người công an tới đưa giấy tờ
cho Lý xem và mời Lý về ty. Thế là Nguyên Hưng cũng phải đi theo Lý về ty công
an. Nguyên Hưng nhất định không ra về nếu Lý không về. Họ bảo Lý khai, Lý đòi
giấy bút. Thế là Lý ngồi viết cho đến chiều. Viết cho đến chiều hết giấy, Lý
xin thêm giấy nữa. Họ đưa Lý và Hưng về chùa Bảo Lộc. Rồi sáng mai, họ trở lại
mời Lý vào ty. Có lẽ để viết thêm.
Lúc ấy đang loay hoay với mấy
cái danh từ Phật học, tôi thấy Nguyên Hưng về. Sau khi kể lại mọi chuyện,
Nguyên Hưng đưa cho tôi mảnh giấy của Lýviết: nếu tôi không về nữa thì thầy
sẽ viết cho hết cuốn sách giùm tôi. Tôi cảm động quá. Mọi người ở Phương Bối ai
cũng bảo tôi nên đi Saigon để tránh. Tôi có làm gì mà phải đi tránh. Có lẽ
chúng tôi bị họ để ý chăng. Hoặc giả họ ghét và muốn trả thù vì chúng tôi đã viết
lách chống báng họ chăng. Cái thời đại này, hễ ghét ai thì cứ gán cho họ tội
làm “Việt cộng” dù họ là người quốc gia. Ở đây thấp cổ bé miệng làm sao nói được
cho ai nghe. Nghĩ như thế tôi liền thu xếp về Saigon xem ra có thể giúp gì được
cho Lý. Tôi dặn Tuệ nếu tối nay chúng không thả Lý thì đánh điện cho tôi biết.
Còn nếu chúng thả Lý thì cũng đánh điện cho tôi biết.
Đợi mãi cho đến trưa hôm sau
nữa điện tín mới về. Nội dung bức điện như sau: “Xin cho biết bệnh tình chị Diệu
Âm có thuyên giảm không”. Tôi mừng rỡ vì có nghĩa là chúng đã buông Lý. Mà tôi
đã dặn nếu Lý được ra thì phải cho Lý về Saigon ngay.
Lý về Saigon được ít lâu thì
chứng nhức đầu tái phát. Hồi ấy, Nguyên Hưng đã ở Huế rồi. Tôi phải đưa Lý vào
bệnh viện và phú thác cho Phượng chăm lo cho Lý. Cũng may mà Lý bình phục sau
đó gần một tháng trời. Hôm tôi ra đi, Lý rất băn khoăn. Chính Lý cũng như mọi
người đã khuyên tôi nên đi. Ở nhà cũng không làm được gì, Lý và cả Nguyên Hưng
cũng nói như vậy. Lý có mua cho tôi một cuốn sách. Mãi đến khi sang bên này tôi
mới mở ra xem. Trang cuối có hai giòng chữ của Lý:
“Nếu ngày về thấy khung trời
đổ nát
thì tìm em nơi tận đáy
lòng anh”.
Khi tôi phát giác ra hai câu
ấy, tôi giật mình và lo sợ. Tình thế càng lúc càng căng thẳng. Chế độ đã tàn bạo
nên bao nhiêu bất mãn và oán thù. Phương Bối đã coi như vượt khỏi tầm tay của
chúng ta rồi. Lý đã tiên đoán một cuộc đổ vỡ ghê gớm. Tôi rùng mình, nghĩ đến
ngày về, và tôi cầu nguyện cho những người thân yêu, cầu nguyện cho tất cả
chúng ta.
Tuệ đã lại đi dạy học lại và
chỉ về Phương Bối vài lần trong một tuần. Ấp chiến lược được thiết lập bên xa lộ.
Ban đầu thầy Thanh Từ, Tuệ và dì Tâm Huệ còn nán ở lại, nhưng sau đó ít lâu, mỗi
người cũng phải tản mát một nẻo. Thầy Thanh Từ cũng đã về Phú Lâm lâu rồi.
Thanh Tuệ và dì Tâm Huệ cũng phải tạm trú ở Đại Hà thỉnh thoảng mới vào thăm
Phương Bối. Tội nghiệp cho Thiền Duyệt Thất. Tội nghiệp cho nhà Thượng. Tội
nghiệp cho từng lá cây ngọn cỏ.
Tôi nhớ trước ngày đi, tôi
có lên Phương Bối thăm một cách đột ngột. Tôi ngủ lại một đêm. Buổi sáng hôm ấy
trời đầy sương lạnh lẽo. Tôi giã từ thầy Thanh Từ, giã từ Phương Bối, giã từ những
cuốn sách của tôi, tôi để lại cho thầy Thanh Từ một bài ngũ ngôn, như một bài
chúc tụng như sau:
“Gối nhẹ mây đầu núi
Nghe gió thoảng hương trà
Thiền duyệt tâm bất động
Rừng cây dâng hương hoa
Một sáng ta thức dậy
Sương lam phủ mái nhà
Hồn nhiên cười tiễn biệt
Chim chóc vang lời ca
Đời đi về muôn lối
Quan san rộng hãi hà
Chút lửa hồng bếp cũ
Ấm áp bóng chiều sa
Đời vô thường vô ngã
Người khẩu Phật tâm xà
Niềm tin còn gửi gắm
Ta vui lòng đi xa
Thế sự như đại mộng
Quên tuế nguyệt ta đà
Tan biến dòng sinh tử
Duy còn Ngươi với Ta.
Thầy Thanh Từ xem xong rất cảm
động. Tôi nói: “Tôi đi rồi lại về”. Và ở bên này có rất nhìêu khi tôi nhớ thầy,
một hôm đọc Ngữ lục tôi thấy có câu:
Trương kiến kha kha tiếu
Viên lâm lạc diệp đa.
Và bất giác nhớ hình ảnh
Phương Bối quá. Tôi dịch hai câu ấy ra như sau:
“Gặp nhau cười ha hả
Lá rụng ngập vườn rừng”
Có phải là khi nào đi từ cầu
Mai đến đồi Thượng mà gặp nhau, chúng ta cũng thấy như thế phải không Nguyên
Hưng?
Nhưng hết rồi, hết rồi,
Phương Bối đã lọt ra khỏi tầm tay của chúng ta rồi. Tội nghiệp cho từng gốc
cây, từng bụi cỏ, từng lối mòn. Một người hiền hòa như thầy Thanh Từ mà cũng
không được ngồi yên để tọa thiền trong lòng Phương Bối nữa! Chúng ta còn lại gì
cho ngày mai? Mỗi người một ngả. Phương Bối đã tủi thân đến mức độ nào? Chiếc
nhà Thượng có đứng vững được trước gió mưa cho đến khi chúng ta trở về hay
không?
Nhưng mà Nguyên Hưng, không
biết sao tôi cứ tin rằng chúng ta không bao giờ mất Phương Bối. Phương Bối vẫn
còn đó, vẫn chịu đựng biệt ly cũng như tất cả chúng ta hiện đang mỗi người một
nẻo, cũng chịu biệt ly. Phương Bối đã trở nên thực tại trong lòng người. Phương
Bối đã chiếm chỗ linh thiêng trong lòng chúng ta. Ở bất cứ phương trời nào,
nghe đến Phương Bối là ta cảm động. Bữa trước viết cho Mẫn tôi nói: “dù cho
phong ba bão táp có đánh bạt chúng ta mỗi người một ngã thì niềm tin vẫn đưa
chúng ta về trả lại cho nhau”.
Nguyên Hưng, Medford đã rét
rồi. Bọn trẻ con đã về hết. Rừng Medford trở nên im lặng thêm. Tôi
đã để nhiều thì giờ nghĩ đến Phương Bối. Và càng nghĩ tới Phương Bối tôi lại
thấy tâm hồn tôi êm dịu hơn lên, giàu có hơn lên. Tôi tin giờ này ở khắp nơi những
con chim của Phương Bối đều đang nghĩ về Phương Bối, rừng Medford đã
cho tôi sống những giờ thanh tịnh. Mai mốt về đô thị, có lẽ trên hình bóng
Phương Bối, tôi cũng sẽ thấp thoáng bóng của Medford…
VI
Hiện tôi đang ngồi ở Brown
Hall viết cho Nguyên Hưng, Đại học Princeton hiện giờ vắng vẻ lắm: ngoại trừ
năm bảy người, tất cả đều đã về nhà ăn tết và lễ Giáng sinh. Ngoài
trời tuyết đang rơi và Brown Hall ngôi nhà cũ kỹ và thân yêu này của tôi đang
chìm trong yên lặng tuyệt đối của một buổi chiều cuối năm.
Tôi về đây ngày hôm kia,
tức là hôm hai mươi mốt tháng chạp. Suốt một mùa Thu và gần hết mùa Đông
tôi không viết tiếp được cho Nguyên Hưng. Thực ra tôi không bận rộn gì lắm để đến
nỗi không có thì giờ viết cho em. Nhưng tôi không thể viết cho Nguyên Hưng
chỉ một vài câu thăm hỏi. Ngồi viết cho Nguyên Hưng, tôi cần phải có một
ít không gian và một ít thời gian, như người sắp sửa đi chơi dã cầu vậy mà. Tôi
không muốn những công việc vụn vặt tới làm gián đoạn câu chuyện của chúng ta. Tôi
có trước mặt đến ba tuần lễ và cảPrinceton rộng lớn sáng sủa. Có lẽ
là đó là món quà Giáng sinh quý nhất mà cái xứ này có thể tặng cho tôi. Nói
cho đúng thì trong những ngày vừa qua, tôi cũng có bận bịu thật. Ý nghĩ được rời
bỏ tất cả những bận rộn của mình trong ba tuần lễ về Princeton làm
tôi sung sướng quá. Buổi sáng ngày hai mươi mốt sửa soạn hành trang xong, tôi đến
thăm một vài người bạn, trong đó có giáo sư Friess, giáo sư Cerbu rồi ghé về
anh Bính và chị Bạch Lan để ẵm cháu Tâm Tuyền một lát. Lâu nay bận rộn tôi
đã không có những thì giờ để làm việc ấy.Rồi tôi đến văn phòng của tôi trong
phân khoa để xem có thư từ gì không. Ghé trụ sở thì thấy cô Mirriam, thư ký,
đang sửa soạn bữa tiệc trà cuối năm cho ban giảng huấn, Mirriam nói “Ông khoa
trưởng dặn mời thầy chiều nay đến”. Tôi nói: “Chiều nay tôi đi Princetonrồi”.
Cô nói: “Tiếc quá; thế thì bây giờ mời thầy ăn trước một miếng bánh vậy”.
Rồi cô cắt bánh cho tôi: bánh và rượu đỏ để dành cho bữa tiệc trà buổi chiều.
Tôi vừa đi lại trong phòng vừa ăn bánh vừa xuýt xoa vì lạnh. Thực ra
trong phòng khá ấm, nhưng vì ở ngoài mới vào cho nên tôi còn run. Mirriam nói:
“Thôi thầy uống tí rượu cho ấm nhé”. Tôi nói “Tôi chẳng sợ gì rượu, nhưng
uống vào vài giọt thì đỏ mặt và cô sẽ không nhìn ra được tôi đâu”. Tôi gọi
điện thoại nhờ một người bạn đem xe tới đưa tôi ra bến xe bus.
Bến xe đông thật
là đông. Thiên hạ như kiến. Lấy vé xong tôi phải đứng nối đuôi gần nửa
giờ đồng hồ mới lên được xe. Bên trong xe, nhờ có máy phóng nhiệt nên
ấm lắm. Thôi giã từ thành phố rộn rịp.
Đây là lần thứ hai tôi ngồi
trên một chiếc xe bus về Priceton. Xe phải đi gần hai giờ trên
xa lộ New Jersey. Sông, hồ, suối, tất cả đều đông đặc. Khói
sương che lấp những vùng xa.Khi về tới New Bruhgswich thì tuyết bắt đầu rơi. Mọi
người trên xe ai cũng yên lặng. Ai cũng nghĩ đến bếp lửa gia
đình đêm Giáng sinh. Ai cũng nghĩ đến đoàn tụ. Người nào cũng mang theo những
gói quà xinh thắt giải đỏ, những gói quà Giáng sinh cho con, cháu, anh, em,
cha, mẹ, bà con. Ngoài xe, tuyết rơi thật nhẹ nhàng, thật êm đềm, không có
một tiếng động. Chỉ có tiếng động cơ của xe đều đều, nho nhỏ, trên xa
lộ êm đềm. Tôi cũng bị ảnh hưởng cái nao nao của những ngày cuối năm ở
đây. Nghĩ đến những thúng gạo nếp trắng tinh và đầy ngọn quê nhà. Những
câu đối giấy hồng điều mới dán trước cửa. Những trái dưa hấu tròn và đẹp. Những
cành đào, những cành mai góc chợ, buổi chiều. Những anh xích lô vui vẻ vì
luôn luôn có khách. Và những người lính ở biên giới, ở núi rừng, đêm khuya
nghe tiếng súng nhớ nhà.
Xe đỗ ở Priceton. Tôi
bước xuống, hai tay xách hai cái xắc đi trong mùa mưa tuyết để về
Brown Hall, nơi mà tôi đã ở trọn suốt một năm ngoái. Campus buồn thật đẹp. Tuyết
rơi phơi phới. Tuyết rơi trên đầu, trên cổ, trên áo tôi. Mặc đủ thứ áo, đội
mũ, quàng khăn, mang găng, thế mà tôi vẫn thấy rét. Campus vắng teo. Tôi
đến Brown Hall chẳng thấy ai, ngoại trừ Jack. Tôi đi tìm Saphir, người bạn Ấn Độ
dễ thương của tôi, để lấy chìa khóa phòng 115. Và tôi sung sướng cởi áo, soạn
những đồ vật tôi mang theo trong hai cái xắc và bày biện trong phòng.
Tôi mở hết máy phóng nhiệt, làm giường, và ra đứng trước cửa sổ ngắm tuyết rơi
trên Campus. Được về Princeton tôi sung sướng quá và cảm thấy tâm hồn
thật êm dịu.
Chiều hôm qua tôi đi chợ với
Saphir trong chiếc Wolkswagen nhỏ xíu và cũ kỹ của anh.Phòng ăn của
trường đại học đóng cửa; cả chiếc quán bán hàng cũng vậy. Vì vậy những người ở
lại trường phải ra ăn ngoài phố. Tuy vậy cái quán bán hàng gần sát
Campus center vẫn sẵn sàng để cho những người ở lại nấu ăn. Tôi và Saphir mua gạo,
bắp cải, sữa và nhiều thức ăn khác. Buổi chiều chúng tôi nấu cơm và
ngồi ăn trong quán.
Trời rét ghê lắm. Nguyên
Hưng. Hồi sáng không có tuyết rơi nhưng tôi cũng không dám đi ra dạo chơi ngoài
Campus. Bài phát thanh WPRT dặn: Sáng nay lạnh 18 độ dưới không độ, nếu không
có việc gì cần kíp lắm thì không nên đi ra ngoài. Cho nên từ sáng đến giờ tôi cứ
ở mãi trong phòng. Buổi trưa Saphir đem đến cho tôi một ít thức ăn khô
và một bình sữa. Chiều nay có tuyết, chắc rằng bớt lạnh. Thế nào tôi và Saphir
cũng tới Campus center để nấu vài món nóng ăn cho ấm bụng. Campus
center cũng gần đây thôi, Nguyên Hưng. Xa Brown Hall chừng ba bốn mươi thước.
Mùa Đông sẽ còn kéo dài mãi
đến cuối tháng ba. Tuyết rơi thì đẹp thật nhưng ba bốn ngày sau lại trông
rất xấu xí. Bởi vì tuyết đã đóng cứng lại và trộn lẫn với đất và bùn rồi.Nhưng
một miền xơ xác đầy rác rến và vũng bùn như các xóm nghèo ở xứ ta mà sau một
đêm tuyết rơi cũng sẽ trở thành diễm lệ không cùng cho xem Nguyên Hưng ạ. Nhưng
mà thôi, quê hương ta tuy không có tuyết nhưng cũng có những cảnh đẹp mà các xứ
như xứ nầy không có được: những thôn quê có từng hàng dừa in bóng trên các dòng
sông, những thành phố sáng chói hoa phượng vĩ… Mùa Đông ở đây có khi quá
dài quá thành thử ai cũng trông ngóng cho nó đi qua để cho mùa xuân trở về. Sau
những đêm tuyết rơi nhiều quá, buổi sángxe cộ không thể lưu thông được. Xe
xúc tuyết phải được huy động gấp để dọn đường. Trời rét quá khiến tuyết
không tan và phải đóng thành băng: những tai nạn gãy tay gãy chân vì
trượt ngã trên những nẻo đường trơn vì băng không phải là hiếm. Đi trên những
con đường như thế còn khó chịu và gặp nguy hiểm gấp mấy lần đi ở các con đường
vũng nước hoặc lầy lội nữa, Nguyên Hưng. Những bữa nhiều tuyết, tôi phải mang
thêm một đôi ủng cao su ra ngoài đôi giầy thường nhật nữa. Bởi vì nếu chân mà bị
ướt sũng thì thế nào khi về nhà cũng bị cảm mạo. Ở bên này mà ốm thì thật là khổ,
không có lấy một người thân săn sóc. Vậy cho nên tôi phải giữ gìn cẩn thận lắm,
Nguyên Hưng.
Ngoài mầu tuyết tươi sáng,
mùa Đông chỉ còn mang có một màu xám buồn tẻ. Những thảm có xanh không còn
nữa. Cây cối trơ những cành gầy không lá ra mà chịu đựng.
Sức sống của đất trời như bị bóp chẹt lại. Nguyên Hưng, cái hồi cuối thu, khi lá đã rụng hết rồi mà trời quả chưa có gì là lạnh ấy, một hôm ngồi nhìn ra những hàng cây trụi lá bỗng nhiên tôi thấy cảm thương dâng ngập tâm hồn. Tôi thấy như là cây cối cũng ngang hàng với những sinh vật có linh hồn, có hiểu biết, có lo lắng, có chuẩn bị. Lá rụng dần, rụng dần cho đến khi cành hoàn toàn trơ trụi. Mới ngày nào đây tàn lá xanh của chúng làm tươi cả một vùng và che lấp những dãy nhà phía sau chúng: bây giờ chúng đứng trơ trụi và khổ hạnh sẵn sàng chờ đợi và chịu đựng một mùa Đông băng giá dài đặc sẽ đến. Những chiếc cành xương xẩu của chúng in rõ trên nền trời xám, nền trời mà trong suốt mùa Hạ đã hoàn toàn bị che lấp sau tàn lá xanh. Một mùa Đông băng giá sẽ tới và không thể dung tha những gì non nớt, bé bỏng và phù hoa. Phải vượt qua những giai đoạn còn non nớt bé bỏng phù hoa đi để mà chịu đựng. Phải già dặn, phải cô độc, phải sẵn sàng nghiến răng mà chịu đựng. Nhìn những hàng cây trụi lá đứng đợi chờ một cách anh dũng và bền bỉ mùa Đông sẽ tới, tôi cảm nhận được tất cả ý nghĩa của bài học về sự chuẩn bị chịu đựng. Nhớ lại hai câu thơ của Lý, tôi lại rùng mình. Đất nước chúng ta thế nào rồi cũng phải trải qua một cơn bảo táp tàn khốc. Chế độ đã gây nên quá nhiều bất công và áp bức, đã sử dụng tiền bạc và bạo lực để thực hiện những tham vọng của mình. Bất mãn và căm thù càng lúc càng tăng và hiện những phần tử vì phẩn uất gia nhập hàng ngủ Mặt trận giải phóng Miền Nam để chống đối đã không phải là ít. Chất liệu bất công, tàn ác và thối nát đã nuôi dưỡng và làm cho lực lượng chống đối càng lúc càng mạnh. Nay thì chính phủ đã ban bố tình trạng khẩn trương rồi. Chín năm trời, Nguyên Hưng ơi, đã chín năm trời rồi mà rốt cuộc chúng ta lai đi vào tình trạng này. Một cơ hội tốt đã mất. Sóng gió sẽ đến bất cứ vào lúc nào. chúng ta không thể vô tâm vô tư được. Phải bắt chước những hàng cây kia, rụng hết tất cả mọi lá phù hoa đi để sửa soạn chịu đựng bảo táp, mưa gió, tuyết sương. Chúng ta không thể nào còn bé bỏng và non nớt gì nữa. Chúng ta phải già dặn, phải khổ hạnh, phải vững chãi để mà vượt qua cơn thử thách sắp đến.
Sức sống của đất trời như bị bóp chẹt lại. Nguyên Hưng, cái hồi cuối thu, khi lá đã rụng hết rồi mà trời quả chưa có gì là lạnh ấy, một hôm ngồi nhìn ra những hàng cây trụi lá bỗng nhiên tôi thấy cảm thương dâng ngập tâm hồn. Tôi thấy như là cây cối cũng ngang hàng với những sinh vật có linh hồn, có hiểu biết, có lo lắng, có chuẩn bị. Lá rụng dần, rụng dần cho đến khi cành hoàn toàn trơ trụi. Mới ngày nào đây tàn lá xanh của chúng làm tươi cả một vùng và che lấp những dãy nhà phía sau chúng: bây giờ chúng đứng trơ trụi và khổ hạnh sẵn sàng chờ đợi và chịu đựng một mùa Đông băng giá dài đặc sẽ đến. Những chiếc cành xương xẩu của chúng in rõ trên nền trời xám, nền trời mà trong suốt mùa Hạ đã hoàn toàn bị che lấp sau tàn lá xanh. Một mùa Đông băng giá sẽ tới và không thể dung tha những gì non nớt, bé bỏng và phù hoa. Phải vượt qua những giai đoạn còn non nớt bé bỏng phù hoa đi để mà chịu đựng. Phải già dặn, phải cô độc, phải sẵn sàng nghiến răng mà chịu đựng. Nhìn những hàng cây trụi lá đứng đợi chờ một cách anh dũng và bền bỉ mùa Đông sẽ tới, tôi cảm nhận được tất cả ý nghĩa của bài học về sự chuẩn bị chịu đựng. Nhớ lại hai câu thơ của Lý, tôi lại rùng mình. Đất nước chúng ta thế nào rồi cũng phải trải qua một cơn bảo táp tàn khốc. Chế độ đã gây nên quá nhiều bất công và áp bức, đã sử dụng tiền bạc và bạo lực để thực hiện những tham vọng của mình. Bất mãn và căm thù càng lúc càng tăng và hiện những phần tử vì phẩn uất gia nhập hàng ngủ Mặt trận giải phóng Miền Nam để chống đối đã không phải là ít. Chất liệu bất công, tàn ác và thối nát đã nuôi dưỡng và làm cho lực lượng chống đối càng lúc càng mạnh. Nay thì chính phủ đã ban bố tình trạng khẩn trương rồi. Chín năm trời, Nguyên Hưng ơi, đã chín năm trời rồi mà rốt cuộc chúng ta lai đi vào tình trạng này. Một cơ hội tốt đã mất. Sóng gió sẽ đến bất cứ vào lúc nào. chúng ta không thể vô tâm vô tư được. Phải bắt chước những hàng cây kia, rụng hết tất cả mọi lá phù hoa đi để sửa soạn chịu đựng bảo táp, mưa gió, tuyết sương. Chúng ta không thể nào còn bé bỏng và non nớt gì nữa. Chúng ta phải già dặn, phải khổ hạnh, phải vững chãi để mà vượt qua cơn thử thách sắp đến.
Nguyên Hưng, trong những tuần
lễ theo sau ngày mà tôi học được bài học của những hàng cây trụi lá
áy, ban đêm tôi thường có những ác mộng kỳ lạ. Để tôi kể cho Nguyên Hưng nghe
vài giấc mộng mà bây giờ nghĩ đến tôi còn rùng mình. Hai giấc mộng mà tôi
còn nhớ rõ. Giấc mộng sau với giấc mộng trước gần như là cách xa có một
phút, trong cùng một giấc ngủ.
Tối đó tôi bị cảm, và vì đã
uống thuốc rồi mà không bớt nên tôi nhờ Steve cạo gió cho tôi bằng Vicks, thứ dầu
cù là địa phương. Thật ra Steve chỉ biết xoa thôi, nhưng tôi dạy cho chú
ta dùng một cái thìa để cạo gió theo kiểu Miền Nam, cho đến khi nào
lưng tôi đỏ lên mới thôi. Vì có như thế tôi mới thấy ấm áp thật sự và cảm giác ớn
lạnh sau lưng mới tan biến đi. Steve cho đó là một điều kỳ quặc, bởi vì bên này
không ai chữa bệnh mà phải làm cho da thịt bầm tím như thế bao giờ. Tuy vậy
Steve vẫn chìu theo ý tôi. Ấm lưng rồi, tôi mới uống thêm một
viên Corricidin nữa, với nước nóng, và đắp chăn lại, chai dầu cù là và bình nước
vẫn để đầu giường. Đêm đó, trong giấc mộng thứ nhất, tôi thấy một người em
thân thuộc của tôi, đứng ở gần cửa ra vào của một căn phòng rất rộng rãi. Xa
tôi đến chừng mười mấy thước. Người em đó là ai, quả thật tôi không biết
rõ. Tôi chỉ biết một cách rất mơ hồ rằng đó là người tôi yêu mến nhất, còn thơ
dại, còn yếu đuối và cần phải bảo vệ. Bây giờ nếu ngồi kỹ lại để xét từng
người quen thuộc thì tôi cũng không thể đồng người trong giấc mộng ấy với ai cả. Với
Hưng chăng? Châu chăng? Phượng chăng? Tuệ chăng? Toàn
chăng? Có lẽ đều không phải. Hoặc có lẽ là hình bóng tổng hợp của tất
cả, và nhiều nữa. Trong lúc ấy, một người khổng lồ từ ngoài cửa đi vào, một người
dữ dằn cao lớn, như một hung thần, như một con quái vật; với hai bàn tay khổng
lồ, kẻ đó sắp túm lấy em tôi, túm lấy để tiêu diệt. Khoảng cách giữa tôi và kẻ
đó rộng quá, tôi không thể chạy tới để can thiệp kịp lúc được.Mà tại sao chân
tôi như dính cứng vào đất như thế này? Trong giây phút nguy nan đó, bản
năng tự vệ - tự vệ đây có nghĩa là bảo vệ cho em tôi, khiến tôi liệng ngay vào
kẻ hung dữ kia một vật gì mà tôi có sẵn trong tay, một vật nằng nặng ấy vào kẻ
kia với tất cả sức lực bình sinh của tôi. Nhưng hắn tài quá: hắn đưa tay bắt
được vật ấy rồi tôi mới biết được rằng đó là một chiếc cưa tay, hình vòng cung,
ta thường dùng để cưa những tấm ván nhỏ. Nguy quá, như thế là tôi giúp cho một
khí giới để tàn hạn em tôi! Trước sự đau đớn vô biên của tôi, kẻkia cười sằng
sặc và cưa em tôi ra làm hai mảnh như cưa một cây chuối non dại.
Tôi đang đau thảm thiết thì
bổng thức dậy. Đầu óc tôi nặng trĩu. Nhưng tôi lại thiếp đi ngay và
mơ thấy giấc mơ thứ hai, ngay sau đó. Tôi thấy tôi đang đứng ở trong một căn
phòng khá rộng có bày biện bàn ghế hẳn hòi chứ không phải là một căn phòng trống
trải như trong giấc mơ trước nữa. Tôi thấy một con rùa nhỏ bé bằng đồng, con
rùa theo hình dáng những cặp rùa mang trên lưng những chân đèn cắm nến
thấy trên các bàn thờ ở quê nhà. Con rùa ấy thì tượng trưng cho gì thì tôi
không biết rõ, nhưng tôi nghĩ là rất thân thiết và thiêng liêng đối với tôi.
Không hiểu do đâu mà tôi biết được rằng nó đang lâm nguy, đang bị ốm nặng và sẽ
phải chết. Mà cái chết của nó có liên hệ mật thiết đến cả hiện hữu tôi. Lo
cho con rùa tôi mới đi lấy dầu cù là xoa vào lưng nó và đánh gió cho nó (Nguyên
Hưng đừng cười). Tôi làm công việc ấy với tất cả thận trọng, sốt sắng trang
nghiêm và tin tưởng. Nhưng bỗng nhiên con rùa kêu khóc. Kêu khóc bằng cách
nào thì tôi không biết. Tôi chỉ biết là bệnh tình nó trở nên trầm trọng do
một sự vụng về nào đó của tôi. Tôi xem xét lại thì thấy có một đường nứt trên
lưng con rùa. Tôi hoảng hốt nghĩ rằng có lẽ dầu cù là thấm vào đường nứt ấy đã
gây tác động nguy hại cho lục phủ ngũ tạng của rùa. Và con rùa sắp chết.
Tôi hoảng hốt thêm, định lấy một cây tăm khươi bớt chất dầu cù là ở trong kẻ nứt
ra, nhưng chậm mất rồi. Có một âm thanh kỳ bí nào nói thẳng tới tâm hồn tôi,
cho tôi biết con rùa đang dẫy chết. Lúc đó trong trạng thái tuyệt vọng và hối hận
vô song, tự nhiên tôi quỳ xuống trong tư thế cầu nguyện. Cầu nguyện ai tôi
không biết. Tôi chỉ biết là chỉ trong dáng điệu ấy tôi mới thấy thích hợp
với tâm trạng tuyệt vọng đang ngự trị trong tôi. Nhưng con rùa đã quằn quại
dẫy chết. Nó uốn éo như một chiếc bong bóng cao su bị dằn ép và không biết vỡ
khi nào. Rồi bổng nhiên nó vỡ tung vàc các tia nước từ nó bắn ra tứ tung,
một tia nước bắn thẳng về phía tôi. Tôi nhẩy lùi một bước tránh tia nước
đó. Tia nước rơi xuống trước mặt tôi và biến thành một vật gì nhỏ bằng một cái
khuy, xoay tít như chong chóng. Đến khi vật ấy hết quay, tôi nhìn rõ thì ra là
một bông hoa bốn cánh như hoa lan. Rồi bổng nhiên tôi thấy đứng ở ngoài đường:
một số người bị ôm liệng vào phía sau một chiếc xe cam nhông to lớn.
Những người này bị liệng lên xe một cách tàn nhẫn quá khiến cho có rất
nhiều người trong đó bị gẫy đôi, gẫy đôi một cách dễ dàng như những con người
làm bằng chất sành chất sứ.
Thế rồi những chiếc xe cam
nhông rồ máy chạy vút đi như bay để lại cho tôi một khoảng không gian rộng lớn
đầy những bụi mù đỏ chạch. Lúc đó tôi thức dậy. Tim tôi đập thình thịch. Đau
khổ trong giấc mơ còn làm cho tôi tê dại cả người. Tôi đưa tay lên
vỗ nhẹ trên trán và cố gắng mỉm cười. Nụ cười đến trên môi tôi thực như
tôi đã ước muốn. Nhưng gian phòng im lặng của tôi vẫn còn phảng phất không
khí rùng rợn của giấc mơ. Mồ hôi ướt đẫm cả trán cả gối, cả áo. Tôi làm một
ít cử động. Cố sức ngồi dậy, lấy khăn lau sạch mồ hôi và đi thay áo. Tôi
không ngủ nữa. Tôi thắp một cây nến, bởi vì ánh sáng điện sẽ sáng quá và sẽ
làm tôi mệt, và ngồi làm massage cho máu trong người chảy đều. Tôi ôn lại
những chi tiết của hai giấc mơ (hay là một giấc mơ?) và cố tìm cách giải thích. Nhưng
tôi không giải thích được.
Mấy hôm sau đó tôi đem những
giấc mơ kể lại cho một số người quen. Gordon đã hùng biện giải thích bằng
nhiều cách, nhưng chẳng có cách giải thích nào phù hợp với thực trạng tâm linh
của tôi cả. Có thể đó là phát biểu của những lo ngại tập thể, hoặc cũng có thể
chỉ là những hình ảnh chắp nối đầu Ngô mình Sở trong một tình trạng thân thể
còn bị đau ốm đang chịu tác động của thuốc men, chẳng có nghĩa lý gì cả.
Dù sao, Nguyên Hưng ơi, tôi
vẫn thấy mang máng rằng những giấc mộng kia có liên hệ xa gần với những
câu thơ của Lý. Nếu phong ba bão táp đến, thì tôi ước muốn được có mặt để cùng
được chịu đựng với tất cả mọi người. Đừng để đến khi tôi về, thì chỉ còn “một
khung trời đổ nát” trong đó tôi chỉ tìm được hình bóng của những người thân yêu
ở “trong tận đáy lòng” của tôi.
Nguyên Hưng ơi, hồi tôi rời
Madford và những khu rừng hiền lành, những chiếc hồ rộng lớn của nó thì tôi chỉ
kịp ghé Princeton có hai ngày trước khi tôi về Nữu Ước lại… Cái thành phố
có những chiếc nhà chọc trời ấy không thích hợp với tôi chút nào. Ở đấy
thì chỉ có một cái lợi là được gần gũi những sinh hoạt văn hóa. Luôn
luôn có diễn thuyết hay, có triển lãm giá trị. Luôn luôn có những buổi đại
hòa tấu. Nữu Ước có bao nhiêu thư viện, bảo tàng viện và bác cổ
viện lớn. Kỷ niệm ngày đầu tiên tới Nữu Ước vừa buồn cười vừa bực bội. Ngày
ấy Gordon đưa tôi từ Princeton tới Nữu Ước bằng chiếc xe rộng
rãi của anh. Sau khi nhà cửa lo xong, chúng tôi đem đồ đạc lên rồi, tôi mới
cùng Gordon đi phố để mua ít vật dụng cần thiết. Tôi nhớ là khi chúng tôi
đang đi trên hè phố Amsterdam, thì có một người vào khoảng bốn mươi, ăn mặc
chững chạc chạy lại gần chúng tôi. Người ấy nói giọng bô bô có vẻ như quen
thân với nhau trong xóm làng lâu rồi. Ông ta reo lên: “A! mặc cái
áo gì mà ngộ quá vậy? Có phải cái áo thầy tu đạo Phật không”. Nguyên
Hưng cũng biết là khi đi ra ngoài phố tôi thường mặc áo nâu chứ ít khi mặc áo
xám. Gordon trả lời thay tôi: “Phải đấy thưa ông”. Chúng tôi dừng lại bên
hè đường nói chuyện. Vẫn bô bô, ông ta hỏi tôi từ xứ nào đến. Khi
nghe tôi nói từ Việt Nam, ông ta có vẻ ngơ ngẩn không biết Việt Nam là
xứ nào, nằm ở góc nào trong bản đồ thế giới. Thế rồi ông ta hỏi. “Thế
thì đạo Phật có tin đức chúa Jésus không?” Câu hỏi hướng về tôi. Tôi
trả lời “có chứ” Ông ta ngạc nhiên hỏi tại vì sao.Tôi có cảm giác khó chịu, bởi
vì đứng ngoài đường thập mục sở thị không tiện đàm luận những vấn đề như thế.
Gordon đỡ lời: “Thực đấy mà, thầy ấy nói thực đấy mà”. Ông ta phân bua với tôi:
“Ở đây thiên hạ bày ra điều này, điều nọ, và cho đó là lời của chúa Ki tô. Họ
bán Trời bán Phật mà ăn đấy, các ông ạ.” Rồi ông ta còn thao thao bất tuyệt
các vấn đề ông ta vừa nêu ra. Để cắt đứt. Tôi mới hỏi: “Thế ông theo đạo
nào thưa ông?” Ông ta nghiêm trang rút ví da ra và nói: “Tôi theo đạo
này”. Rồi ông ta loay hoay mở ví, có lẽ đưa tôi xem một chứng minh thư hay
một thẻ tín đồ của một giáo phái nào đó. Kỳ thực, ông ta chỉ rút ra một xấp giấy
bạc đô la và lập lại: “Tôi theo đạo này”. Thì ra ông ta theo đạo
tiền.Gordon cười ha hả. Tôi cười đến chảy nước mắt. Tôi chào người bạn
ngộ nghĩnh vừa gặp và kéo theo Gordon đi theo. Tôi nói “Tuy vậy
nhưng cũng khá khen ông ta là người chân thật, dám nói những điều mình nghĩ.”
Không biết Gordon nghĩ gì
khi tôi cho anh biết rằng người kia là người dân Nữu Ước đầu tiên mà
tôi gặp và nói chuyện. Chúng tôi ghé vào một tiệm hấp nhuộm y phục, bởi vì tôi
muốn thuê nhuộm lai mấy cái áo tràng nâu của tôi bây giờ đã bạc mầu rồi. Tiền
nhuộm đắt quá khiến tôi ngần ngại. Một lúc sau ông chủ tiệm nói với tôi:
“Mà ông nhuộm làm gì đã chứ. Tôi biết là trong vòng vài ba tuần lễ ông sẽ
liệng những cái áo rắc rối ấy để mặc đồ tây cho mà xem. Những người ngoại
quốc đến đây lúc đầu thì mặc quốc phục họ, nhưng sau đều mặc đồ Tây cả”. Tôi
cũng không buồn cho ông ta biết là áo tôi đang mặc không là quốc phục nào cả,
và tôi không phải là một người chân ước chân ráo tới cái xứ này. Chúng tôi
nói lời cám ơn và bỏ đi.
Buổi chiều hôm ấy tôi rủ
Gordon về tiệm ăn người Việt Nam ở đường Amsterdam, tiệm ăn duy nhất bán thức
ăn Việt Nam ở đây. Chúng tôi đi bộ ngược lên đường 21 mới tìm ra được tiệm. Khi
chúng tôi vào thì tiệm vắng người. Có hai người sinh viên Việt Nam hầu
bàn, một nam một nữ, đang ngồi nói chuyện. Thấy chúng tôi vào liền chạy ra
mời. Chúng tôi tìm một góc để ngồi. Có lẽ cả hai đều phải xa nhà từ hồi
còn bé nên không nhận được ra tôi, người đồng hương trong chiếc áo nâu. Người
con gái nói tiếng Anh thật hay, hỏi tôi có phải người Miến Điện không. Tôi
cười gật đầu. Gordon cũng cười. Chúng tôi gọi vài thức ăn chay, rồi
nói chuyện hai người về lai lịch cái tiệm ăn này. Mãi đến khi
giã từ tôi mới cho hai người biết là tôi là người Việt. Cả hai đều mừng rỡ
vì họ cũng thuộc về một gia đình Phật tử. Say này tôi biết chính chị Lan điều
khiển quán ăn. Chị nói chị cũng bận dạy học ở trường nên không có nhiều
thì giờ chăm sóc quán. Cái quán ăn, chị nói, vậy mà có giá trị tương đương
với cơ sở văn hóa của tòa đại sứ. Người đến ăn phần lớn là những người
trí thức. Những món ăn, những bức họa, những đĩa nhạc và nhất là những câu chuyện
cùng những người hầu bàn đã giúp cho khách hiểu biết và yêu mến Việt Nam.
Mà cái quán ăn ấy cũng oai thật đấy, Nguyên Hưng. Người hầu bàn nào cũng nói được
tiếng Anh và tiếng Pháp rất thông thạo, và có thể nói từ những câu chuyện thời
sự, chính trị, văn minh, rất đứng đắn. Cậu sinh viên tôi gặp hôm ấy nói tiếng
Đức rất giỏi.
Đó là những gì tôi không
quên về ngày đầu tiên tôi đến với thành phố nhộn nhịp kia. Mùa thu năm
nay khi trở về, tôi quen thuộc với khung cảnh hơn, dù vẫn thấy rằng những ngày ở
rừng Mendford quá ngắn. Từ đầu mùa thu tôi được nhận làm việc tại trường
đại họcColumbia. Tôi dạy mỗi tuần năm giờ, ngoài ra còn có một số giờ phải ngồi
văn phòng để tiếp sinh viên và giúp đỡ cho họ về việc sưu tầm tài liệu. Lương
tôi được ba trăm năm chục đồng; như thế là tương đối khá “giàu”. Trong những
người sinh viên của tôi có một cặp bạn rất thân, đó là David và Steve. Steve
thích tôi lắm và đề nghị thuê chung một cái nhà với tôi.Tôi bằng lòng
ngay. David thường đến chơi và ở lại ăn cơm với chúng tôi. Chúng
tôi có những buổi tối thân mật, có lẽ êm thắm hơn cả những buổi tối gia đình.
Cái chú Steve ấy, để tôi nói
cho Nguyên Hưng nghe, đã ăn chay trường với tôi trong suốt mùa thu qua
cả nữa mùa đông này nữa. Tôi hỏi ăn chay có yếu đi không. “Trái
lại còn thấy khỏe mạnh thêm”. Từ ngày có Steve, chúng tôi tự nấu ăn lấy mỗi
ngày và ngày nào cũng được hai lần ăn cơm, bằng đũa. Steve cầm đũa khá vững
vì đã được ở lại Nhật Bản mấy tháng mùa hè năm ngoái.
Chỉ sau mấy ngày gặp Steve
tôi mến chú ta liền, cũng thân thiết như với Hưng và Tuệ vậy. Steve cao bằng
tôi, tóc hơi vàng và rất mềm, cằm anh ta hơi nhọn. Mắt mầu nâu. Rất
giàu tình cảm và tính cách nghệ sĩ. Steve rất ham triết học đông phương; từ
mùa thu chú ta đã ghi tên học những lớp đông phương học, kể cả một lớp
Hoa ngữ. Cứ nhìn thấy cậu ta ngồi tập viết chữ nho cũng đã thấy thương. Không
có sự vui buồn nào trong đời mà Steve lại không về kể lại với tôi. Tôi hay
có những nhận xét về suy tư của Steve và anh chàng thường hay ngồi chăm chú để
mà nghe; đôi khi nhíu lông mày đê làm nhăn một ít cái trán thông minh của nó. Thỉnh
thoảng chúng tôi cũng có hơi giận nhau, nguyên do là vì Steve vẫn còn quen cái
thói tiếp nhận theo đầu óc Tây phương, và tôi cứ nghĩ rằng tôi không
diễn tả bằng bằng cách nào hơn là bằng cách đông phương của tôi. Tôi chắc Steve
nhiễm cái đường lối của giáo sư Cerbu “go East but stay West” rồi. Stay
West thì làm chi có thể thực sự go Easthả Nguyên Hưng.
Cái nhà chúng tôi thuê với
giá 150 đồng bạc mỗi tháng có 1 phòng ngủ, một phòng làm việc, một phòng tắm, một
cái bếp và một cái hành lang. Đó là địa chỉ của tôi bây giờ: 306 west 109 th
Street. Chúng tôi ở từng thứ năm, có hai cửa sổ lớn nhìn ra đường. Phải nhìn
nghiêng mới thấy được một mảnh trời, về phía Morning Side. Những bàn ghế, giường
nệm, chén bát và soong chảo đều do Steve chở về, nên khi thuê nhà tôi
chẳng thể lo lắng gì cả. Steve là con của một ông khoa trưởng một trường kỹ thuật
nổi tiếng, dòng giỏi thông minh nhưng không thích khoa học, kỹ thuật. Mẹ của
Steve có đến thăm một lần cách đây chừng nữa tháng và mang cho chúng tôi vô số
thức ăn ngon.
Người tôi phân chia công việc
như thế này: tôi thì lãnh phần nấu ăn và rửa bát. Còn Steve thì
đi chợ và dọn dẹp lau chùa nhà cửa. Steve phải đi học nhiều nên tôi phải
ra taylàm nội trợ. Mỗi ngày tôi chỉ cần có mặt ở trường vài giờ đồng hồ,
những giờ dạy và những giờ ngồi ở văn phòng - Từ khi thuê được nhà, tôi hay ở
nhà làm việc, thiếu tài liệu gì thì nhờ Steve mượn ở thư viện giúp. Tôi có
cái thẻ có thể mượn một lần hàng mấy chục cuốn sách và mượn như thế trong nửa
tháng. Ngồi ở nhà ấm áp một mình, tôi làm được nhiều việc hơn. Nấu ăn cho
Steve cũng là một sự thích thú. Có thể là món gì do tôi nấu ra Steve cũng khen
ngon cả - tôi nghĩ Steve có thể ăn chay suốt đời mà không biết chán và tôi có
thể nấu cho Steve ăn hoài mà không sợ tốn công.
Cố nhiên là cậu ta không biết
đi chợ - tôi phải dẫn Steve đến một tiệm bán thực phẩm đông phương ở gần đấy và
chỉ cho cậu “đi chợ” trong những lần đầu. Chúng tôi mua nấm hương, tàu yểu,
đậu phụ, củ cải, khổ qua, dưa cải v.v… Rau đậu tươi thì Steve có thể tự đi
mua ở bất cứ một nhà bán thực phẩm nào khác dọc đại lộ Broadway. Chúng tôi
tìm được chỗ mua gạo thật ngon và mua từng chục ký chứ không mua từng hộp nhỏ
như những gia đình khác. Thường thường những hôm đi học về sớm. Steve
ghé chợ mua hai giỏ thức ăn về chất đầy chiếc tủ lạnh lớn đặt trong
nhà bếp. Cái nhà bếp chúng tôi thật sạch sẽ và trang nhã. Steve lau
chùi nhà bếp và nhà tắm gần như mỗi ngày. Bếp nấu gaz cho nên rất tiện lợi.Sáng
nào tôi cũng dậy sớm và sửa soạn điểm tâm cho hai người. Thường thường,
Steve thức khuya và chỉ dạy đủ sớm để ăn điểm tâm rồi đi học ngay. Có
bữa tôi cũng đến trường cùng với Steve một lần nhưng chỉ độ mười một giờ là tôi
trở về. Tôi làm việc một lát rồi đi thổi cơm và làm thức ăn. Mười hai
giờ mười lăm thì Steve về, lần nào cũng đói mèm, và chúng tôi ngồi vào bàn ăn.
Thức ăn bao giờ tôi cũng làm chung cho cả buổi chiều trong tủ lạnh; đến
tối tôi chỉ cần thổi cơm và hâm lại thức ăn cho nóng thôi.
Buổi chiều tôi thường không
đi ra ngoài. Tôi viết lách, đọc, soạn bài, trả lời những thưtừ. Có việc
cần tôi mới đi vào trường hoặc vào thư viện. Thỉnh thoảng David cùng
về với Steve, và chúng tôi ăn cơm với nhau trong phòng khách một cách im lặng,
trang nghiêm.Sau những bữa như thế, tôi để cho Steve nói chuyện với David và đi
rửa chén bát. Tôi rất thích công việc này vì tôi thấy trong khi rửa chén
bát tâm hồn tôi luôn luôn an tĩnh, vui vui. Có khi tôi bất chợt đang nghịch với
những chiếc bóng xà phòng và hát nhỏ những bài hát học được hồi còn bé thơ. Nước
vừa ấm thật dễ chịu. Tôi lau chùi cái bếp gaz thật sạch sẽ, soạn lại đồ đạc,
đi tắm ngâm mình trong nước nóng, thay áo và ra ngồi góp chuyện với hai người
trẻ tuổi. Những buổi như thế thật êm đềm. Steve biết tính tôi, đi tắt
điện, thắp lên vài ngọn đèn nến cho mát mắt và để cho chúng tôi nghe một ít những
bản nhạc êm dịu ưa thích.Những lúc đó chúng tôi thường không nói chuyện nữa, chỉ
ngồi yên mà theo dõi những giòng suy tư của mình.
David thường ở với Steve rất
khuya; thường thường khi nào tôi bảo về mới về. Có lúc hai người bạn đi với
nhau suốt ngày và tôi ở nhà một mình, nấu cơm một mình, ngồi vào bàn ăn một
mình.
Nguyên Hưng, tôi biết Steve
mến tôi thật sự. Steve nghe tôi nói về tình trạng đất nước chúng ta với tất
cả sự chăm chú và xót xa. Tự nhiên Steve muốn dùng tiếng Việt Nam, và nếu
có thể được, cùng nuôi ước mộng tìm lai Phương Bối. Tôi đã nói cho Steve
nghe về tình của chúng ta đối với Phương Bối. Tôi đã nói đến Phương Bối
như một chút lửa hồng không bao giờ tắt trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Tôi
đã nói Phương Bối như một chất liệu tâm linh cần thiết cho mọi ước ao, mọi xây
dựng. Có thể là tôi đã quan trọng hóa Phương Bối quá, nhưng mà tại sao mắt
Steve lại sáng lên như thế mỗi lần nó nghe tôi nói đến Phương Bối? Steve
quyết sẽ học tiếng Việt và tôi cũng bắt đầu dạy cho Steve những câu đàm thoại đầu
tiên. Steve rất ham học ngoại ngữ. Nói tiếng Pháp còn chập chững mà
đòi làm thơ. Rồi trong những lúc đi chợ mua thức ăn, cứ nấn ná ở lại để tập
nói tiếng Tàu với cái cô bán hàng người Trung Hoa. Steve đã bập bẹ
nói tiếng quan thoại rồi đấy. Steve bảo nhất định phải học nói cho được tiếng
Việt bởi vì anh chàng rất thích dự tính của tôi về làm một cáilàng dễ
thương ở miền quê, trong đó một số anh em sống thật têm ái với nhau và thật hữu
ích cho mọi người.
Steve dành làm tất cả những
công việc khó nhọc. Biết tôi rất có thể bị cảm khi ra ngoài lạnh nên Steve
dành đi những công việc mà Steve có thể làm thay tôi được. Tội nghiệp, những
hôm tôi bị cảm, Steve phải “cạo gió”, và vì hai tay của Steve khá mạnh, chẳng mấy
chốc mà tôi đã thấy ấm áp. Nếu tôi không bớt thì Steve lại gọi điện thoại
cho bác sĩ Cusbman.
Steve không được sung sướng
mấy khi nghĩ đến gia đình. Hè năm ngoài trong khi ở Nhật Bản, anh chàng có làm
quen được với một thiếu nữ Nhật và hai người đã trao đổi thư từ thân
mật từ đầu mùa thu đến nay. Người bạn gái Phù tang tên là Hạnh Trí Tử, hẹn sẽ
sang thăm trong mùa Xuân tới và Steve cứ nhắc hoài đến dịp ấy. Néu không bị gia
đình gọi thì Steve đã có thể theo tôi về Priceton trong dịp lễ giáng
sinh này rồi. Nó đã về quê bằng máy bay hai hôm trước khi tôi rời Nữu Ước. Căn
nhà chúng tôi hiện giờ ở đường 109 có lẽ đang lạnh lẽo, không đèn, không đuốc,
không hơi ấm. Còn tôi, tôi đang ngồi đây, giữa lòng Princeton quen thuộc. Trời
đã chạng vạng rồi. Ngoài kia, tuyết vẫn rơi. Tôi sẽ đi tìm Saphir -
chúng tôi sẽ đi làm một thức ăn gì để ăn cho thật nóng, và sau đó, về campus
center ngồi nói chuyện và nghe bản phóng sự bảy giờ rưỡi tối nưoi chiếc
máy truyền hình đặt ở góc phòng.
Nhất Hạnh
Trả lờiXóaeva airline
săn vé máy bay đi mỹ giá rẻ
korean air
vé máy bay đi mỹ mùa nào rẻ nhất
mua vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch