"Mảnh vườn thao thức" - Sự thao thức
Tập thơ gồm 39 bài thơ do Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành
năm 2014, phần lớn được làm theo thể thơ tự do, ghi lại tiếng lòng của tác giả
về con người, cảnh vật và tình yêu thương của tác giả với quê hương, gia đình.
Tất cả đều ấm áp, chân thành và tha thiết
Nhan đề tập thơ là Mảnh vườn thao thức, cái tên rất thơ,
nó gợi nhắc một sự không bình yên trong tâm hồn và người đọc sẽ cảm nhận được
đó chính là sự thao thức trong tâm hồn tác giả. Vâng, sinh ra và lớn lên trên mảnh
đất Cẩm Khê anh hùng nhưng cuộc sống của người dân nói chung và gia đình tác giả
nói riêng còn nghèo khó. Thuở ấu thơ, bát cơm độn sắn đến trường làng, tác giả
lúc đó chưa biết làm thơ nhưng hình như tâm hồn thi sỹ đã như một dòng chảy
thao thiết và lẩn khuất trong cõi lòng, để đến tuổi ngũ tuần thì “anh hoa phát
tiết”. Trước Mảnh vườn thao thức, anh đã có tập thơ Giọt lắng. Nhan đề
cả hai tập thơ đều gợi nhiều suy tư… Có thể gọi đó là những vần thơ của một
“trái tim không ngủ yên”. Không ngủ yên để nghe tiếng của Vườn khuya:
Gió bấc đi qua/ vườn tàn lá/ cây khẳng khiu cô quạnh dưới
trăng tà/ sương đẫm gốc/ lá nằm run rẩy/ ủ lòng sâu/ cho những bắt đầu mùa…
Là thơ tự do, là câu thơ vắt dòng, phải như thế mới diễn tả
được tiếng lòng mình cảm nhận tiếng của vườn khuya. Đoạn thơ mở đầu của bài thơ
thứ nhất trong tập thơ bắt đầu như thế đấy, là cảnh tượng khi gió bấc tràn qua
thì vườn cây rụng lá, thậm chí “tàn lá”. Cành cây thì khô gầy, cóng lạnh bởi
sương sa, lá cây thì rụng xuống vẫn còn run rẩy bởi sự khắc nghiệt của gió bấc.
Nhưng, nếu dừng ở đó thì chỉ đơn thuần là phản ánh cái giá lạnh, sự khắc nghiệt
của thời tiết mà thôi. Không, đoạn thơ được chốt lại bởi câu thơ:
Thì ra, tác giả đã cảm nhận được sự tàn lụi của cây lá hôm
nay là để ươm mầm cho tương lai, đó chính là quy luật “tre già măng mọc”. Nhìn
ra quy luật đã khó, cảm nhận và chấp nhận quy luật một cách nhẹ nhàng còn khó
hơn. Thơ của Nguyễn Thế Yên có sắc màu, có dư vị triết lý ngay từ đoạn thơ, bài
thơ mở đầu như thế. Và, vì thế mà nó có sức dẫn dụ người đọc tìm hiểu, khám phá
những bài thơ tiếp theo…
Tình xuân, bài thơ tiếp theo có cảnh mưa xuân, có hoa xoan,
có hội xuân và có nỗi niềm trai gái nhớ nhung, hẹn thề, chờ đợi. Đọc bài thơ
này, cứ có cảm giác gần, rất gần với không gian thơ của Nguyễn Bính trong phong
trào thơ mới thuở nào:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy…
Nhưng có lẽ
thơ Nguyễn Bính là thơ về xuân giữa độ, thơ của Nguyễn Thế Yên là thơ chớm
xuân, bởi thế mà:
Hoa
xoan/ hé nụ mong manh/ Đã mơ ngày rụng/ vá lành ngõ quê
Làm thơ về mùa xuân, tác giả còn làm thơ về dòng sông, nơi nối nhịp cầu cho
tình yêu đôi lứa:
Anh
đón em qua sông/ về làm dâu đất bãi/ đất bãi quê anh bốn mùa hoa
trái/ sông yêu bờ, sông để lại phù sa. (Đón em qua sông)
Tôi cứ có cảm giác những vần thơ này hiền hòa như chính con
người tác giả vậy, nhẹ nhàng, tình cảm, lời thơ giản dị nhưng chân thành. Sự
chân thành làm nên giá trị cho lời thơ và sự chân thành khiến tiếng lòng của
người làm thơ đi vào lòng người một cách tự nhiên, sâu lắng. Vâng, Nguyễn Thế
Yên làm thơ bằng tiếng lòng chân thành, tha thiết. Thơ của anh là tình cảm,
tình thương yêu sâu nặng anh dành cho cha mẹ, anh chị em, vợ con, bạn bè, đồng
nghiệp, làng xóm, quê hương và cảnh vật thân thương, gần gũi với cuộc sống của
quê hương Cẩm Khê - nơi anh được sinh ra và thành phố Việt Trì - nơi anh đang
sinh sống.
“Bên nồi bánh chưng quê” là một bài thơ mộc mạc, giản dị mà
thấm đẫm hồn quê, tình quê, tình người, tình gia đình ấm cúng, đằm sâu những kỷ
niệm đáng nhớ một thời. Kỷ niệm thuở ký ức xa xưa hòa quyện cùng tâm trạng và nỗi
niềm hiện tại. Bài thơ được viết như dòng tâm sự gửi người anh trai đang sinh sống
ở “Trời tây”.
“Tết xưa/ nhà mình đông vui lắm/ nồi bánh chưng còn có hai cặp
bánh con con/ bố gói cho anh em mình làm quà đón tết/ xóm làng eng éc lợn kêu/
giao thừa/ chúng mình ra vườn hái hoa cúc vàng cho mẹ thắp hương/ anh trèo lên
cây cau đốt pháo nổ cho to/ em chạy vòng quanh / nhặt từng con pháo xịt. (Bên
nồi bánh chưng quê)
Dẫu chưa phải tết, bây giờ là giữa tháng 5, cái nắng nóng của
mùa hè oi ả không hề giống, thậm chí khác xa với không khí ngày xuân, không khí
tết. Vậy mà, đọc thơ Nguyễn Thế Yên, tôi cảm thấy rất rõ không khí tết của quê
hương những năm 80 của thế kỷ XX: ấm cúng, hiền hòa, bình dị, thân thương. Hoài
Thanh từng nói “Trong mỗi chúng ta đều có một người nhà quê”, có điều, con người
nhà quê ấy hiện diện như thế nào mà thôi. Biết trân trọng quê hương, biết trân
trọng và hoài niệm quá khứ mới “lớn nổi thành người” như lời bài hát “Quê
hương” được phổ nhạc từ thơ Đỗ Trung Quân đã từng ngân nga trong lòng bao người
con đất Việt. Vẫn “Bên nồi bánh chưng quê” Nguyễn Thế Yên sống với hiện tại,
người anh trai năm xưa “trèo lên cây cau đốt pháo nổ cho to”thuở xưa giờ đã trưởng
thành và sống xa quê hương đến nửa vòng trái đất:
Tết này/ anh về thúc lửa!/ ôm nồi bánh chưng/ chín nhừ ngày
li biệt./ Trời tây/ lại tuyết rơi…/ khoảng trời quê/ lá rơi…
Bài thơ ấm cúng một tình cảm gia đình và cách thể hiện cũng
đã mang màu sắc riêng, để lại dấu ấn trong lòng độc giả. Nhưng, tình cảm của
tác giả Nguyễn Thế Yên không chỉ bó hẹp trong tình gia đình. Bài thơ “Chị tôi”
cũng là một minh chứng tiêu biểu cho tình yêu thương mà anh dành cho những người
phụ nữ Việt Nam sinh sống tại những miền quê nghèo khó, những người phụ nữ tảo
tần, lam lũ trong cuộc mưu sinh:
Sinh ra giữa thời đạn
lửa/ lớn lên trong mái tranh nghèo/ trường làng dở dang giữa cấp/ ruộng đồng
cùng nắng tận mưa/ Ngửa mặt mỏi cánh cò bay/ cúi đầu bờ tre rủ rỉ/ lấy chồng
chiến binh cạn lực/ chông chênh một mảnh trăng làng
Tôi yêu lắm câu thơ “chông chênh một mảnh trăng làng”, đó là
một hình ảnh đẹp, đó cũng là một hình ảnh giàu sức biểu trưng, nó biểu đạt đầy
đủ tình người nhân hậu, thương cho phận đời phụ nữ chông chênh…
Với các cháu nội bé bỏng, Nguyễn Thế Yên có hai bài thơ mà
ngay từ nhan đề đã bao trọn tình yêu thương sâu sắc, vẹn toàn. “Với cô nương
trên lưng” là bài thơ cho cháu Trang, đứa cháu nội đầu tiên:
Mùa thu ông yêu nhất/ là mùa cháu chào đời/ trong nách
lá vội rơi/ một mùa xuân dần lớn
“Cánh diều mơ ước” là bài thơ cho Sơn, em trai của Trang, cháu nội thứ hai của
tác giả, khi đưa nôi, tác giả thầm mơ ước cánh diều hồng trong trí tưởng tượng
sẽ bay tới những chân trời xa, những miền đất mới. Thuở xưa, trong gia đình có
con trai, cha mẹ thường trông đợi con cái lớn lên được thỏa chí “tang bồng hồ
thỉ”… với cháu nội yêu thương, tác giả thầm mong rồi hiện thực sẽ là một “Chân
trời mới rạng ngời” đón cháu vững bước vào tương lai:
Hãy
lớn lên/ theo cánh diều ông thả/ cháu yêu thương!/ chân trời mới rạng ngời
Dù cuộc sống còn nhiều gian khó, nhưng với niềm tin yêu, với
khát vọng cao đẹp, con người sẽ vượt qua. Từ lâu, tôi tâm đắc với câu thơ
của Kahlil Gibran:
“Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy/ Ta có thêm ngày nữa để yêu
thương”
Chỉ có tình yêu thương mới làm nên sức mạnh để con người vượt
qua gian khó. Đọc tập thơ của tác giả Nguyễn Thế Yên, có thể dễ dàng nhận thấy
thơ anh là tiếng lòng của một con người rất giàu tình cảm, giàu sự suy ngẫm
trên thực tế cuộc sống mà anh được trải nghiệm. Dẫu đây đó còn có những câu chữ
cần thay đổi để khổ thơ, bài thơ đạt được hiệu quả cao hơn khi chuyển tải nỗi
lòng, ví như đoạn cuối bài “Với cô nương trên lưng”:
Thu nay vừa bốn
tuổi/ vai ông - bờ vai cha/ cõng cô nương bé nhỏ/ tới miền xa ước mơ…
Nên đổi lại là “Tới miền mơ ước xa…” thì âm điệu sẽ khác và
hiệu quả diễn đạt cũng sẽ được nâng lên. Hay bài thơ “Vũng Tàu đêm ngược sóng”,
một bài thơ khá cảm động và giàu ý nghĩa nhân văn, có đoạn:
Đêm đã cạn/ gió vẫn đầy phía ấy/ hỡi đảo xanh ôm hồn nước non
nhà/ lòng ta vẫn hướng mù xa lặng lẽ/ cánh chim rừng/ ngược sóng khơi xa
Tôi thiết nghĩ nếu bỏ chữ ta trong câu “Lòng ta vẫn
hướng mù xa lặng lẽ”, câu thơ chỉ còn “Lòng vẫn hướng mù xa lặng lẽ”thì vừa
hợp khuôn vần, vừa đảm bảo âm điệu cho cả đoạn thơ.
Dẫu thế, không thể phủ nhận tập thơ Mảnh vườn thao thức đã
đánh dấu một sự trưởng thành trong thơ Nguyễn Thế Yên, so với tập thơ Giọt
lắng của anh trước đó. Tập thơ gọn gàng, xinh xắn, bìa đẹp, trang nhã.
Nhưng, đẹp hơn cả chính là tiếng thơ - tiếng lòng đằm thắm và chân thành của
tác giả. Tôi tin Trần Đăng Khoa đã đúng khi đặt ra tiêu chí “Thơ hay là thơ giản
dị, xúc động và ám ảnh”. Thơ của Nguyễn Thế Yên thật sự giản dị, xúc động và đã
có nhiều câu chữ đạt đến độ ám ảnh; Tin rằng, thơ anh đã, đang và sẽ đạt tới
tiêu chí mà Trần Đăng Khoa đưa ra. Mong và chúc cho anh có thêm nhiều sáng tạo
trên con đường thơ mà anh đã lựa chọn!.
Đỗ Nguyên Thương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét