Cảm
nhận văn chương ngôi thứ tư số ít
Cùng trong một tiếng ...
(Thay lời tựa)
Cùng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
Thưởng thức tiếng đàn Kiều trong tiệc đón Thúc Sinh nhưng mỗi người (Kiều, Thúc Sinh, Hoạn Thư) có nhlĩng niềm nỗi khác, thậm chí ngược trái nhau. Và rồi, nhiều trăm năm sau, nghe cung đàn năm cũ, mỗi bạn đọc Nguyễn Du lại thấu trong Bốn dây như khóc như than ấy là Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!...
Lawrence Ferlinghetti(*) đã nêu "52 định nghĩa về thơ để sử dụng trong thế kỷ 21". Xin trích một số câu:
- Thơ đó là cách đi tới nơi tận cùng của ý thức.
- Bài thơ là một tấm gương thả bộ theo một đường phố đầy những lạc thú thị giác.
- Thơ là chiếc lá chói lọi của tưởng tượng. Nó phải rực sáng và làm cho bạn gần như mù quáng.
- Thơ là ánh sáng mặt trời tràn qua mắt lưới vào buổi sáng.
- Thơ được tạo thành bởi những quầng sáng tan dần trong một đại dương âm thanh.
- Thơ là tất cả những gì được sinh ra với đôi cánh và cất lên tiếng hát.
- Thơ là cái gì tồn tại giữa các đòng chữ.
- Thơ được tạo nên bởi âm tiết của những giấc mơ.
- Thơ là sự đối thoại của những pho tượng.
- Một bài thơ không cần được giải thích.
- Thơ la tiếng nói của ngôi thứ tư số ít.
Rõ ràng là ta đã lạc vào mê hồn trận! Nhưng thử đặt lại vấn đề, nếu chỉ có một định nghĩa duy nhất đúng, rõ ràng và dễ hiểu về thơ (và nghệ thuật nói chung), thì tình hình sẽ tồi tệ đi rất nhiều. Và có khả năng, nghệ thuật sẽ tự hủy diệt.
Vì thế, cảm nhận văn chương là gửi mình vào một thế giới hư huyền, mà ở đó, tuỳ theo tâm cảm, văn hoá, năng lực..., mỗi người sẽ đi tìm và chiếm lĩnh một văn bản khác lung linh hơn, ý nghĩa hơn văn bản duy nhất, cố định bằng ngôn ngữ của tác giả. Harold Bloom, trong cuốn sách Bản đồ đọc nhầm (1975), quan niệm rằng, mọi sư đọc đều là "xuyên tạc" văn bản (mà người đọc nhà thơ là kẻ có khả năng "xuyên tạc" nhiều nhất). Đương nhiên, Bloom không hề biện minh cho việc đọc tuỳ tiện xuyên tạc, thoát ra ngoài ngôn ngữ và lối viết của mỗi tác giả.
Tập sách nhỏ này chỉ muốn tự giới thiệu một cách cảm nhận văn chương, mà những khi chấp bút, người viết lại ở trong mỗi tâm trạng, mỗi khả năng không giống nhau và không phải lúc nào cũng biết mình tỉnh táo. Vì lẽ đó, nhiều bài viết chọn vào tập sách này cũng được soi ngắm lại, khi thêm một lần bước vào âm tiết của những giấc mơ để cất công đi tìm cái gì tồn tại giữa các dòng chữ.
Có giấc mơ nào giống giấc mơ nào?! Có tồn tại nào là không đổi?!...
Nếu nhỡ đâu đó tôi có "đọc nhầm", có "xuyên tạc" thì mong bạn đọc hãy lượng thứ. Và đã nhỡ như thế, tác giả những trang sách mỏng manh này vẫn cảm thấy mình có ích cho bạn đọc, cho chính mình; để kỳ vọng bạn và tôi sẽ tiếp tục rẽ sang một lối khác trong cơ man nẻo đường đi tìm ngôi thứ tư số ít.
Những chiếc bóng trong...
Mùa xuân chín
Trong làn nắng ửng khói mơ tan .
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gọn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi.
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây.
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Trông ra ý vị và thơ ngây.
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc,
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang...
(Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử)
1. Bóng xuân
Bài thơ có tên Mùa xuân chín, vậy mà nhà thơ chỉ dành có 5 dòng để tả cảnh
xuân. Đúng hơn, tả một chiếc bóng: bóng xuân. Nàng xuân đến thật
diễm ảo. Áo biếc thướt tha, nàng bước chân trên thảm cỏ xanh non; nàng không đến
gần ai mà thấp thoáng mơ hồ trên giàn thiên lý; chung quanh nàng là nắng ửng
khói mơ huyễn hoặc...Xuân Diệu trong Đây mùa thu tới, tả nàng thu như
một thiếu phụ đang tang chế cho một mùa hè rực rỡ đã lâm chung:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới! Mùa thu tới!
Với áo mơ phai dệt lá vàng...
Không, nàng xuân của Hàn Mặc Tử có vẻ tươi tắn và tràn trề sức sống. Nhưng đấy
cũng chỉ là một chiếc bóng, chợt ẩn chợt hiện đến là mong manh!...
2. Bóng người
Tôi đã từng thắc mắc rằng, như nhiều người đã nói, thời điểm mô tả (thời gian
nghệ thuật) trong bài thơ là những ngày cuối xuân, khác với Nguyễn Bính có Mùa
xuân xanh; nhưng sao ở khổ mở đầu lại bảo bóng xuân sang; bóng xuân qua mới
phù hợp chứ? Hình như từ chínkhông có ý nhấn mạnh về sắc xuân của thời
gian mà muốn nói về xuân sắc của đời người. Vì vậy, 11 dòng thơ
còn lại gần như tập trung khắc họa bóng dáng những con người. Ai vậy?!
Bóng người đầu tiên được nhà thơ cảm nhận là một...đám xuân xanh. Đấy là bao
cô thôn nữhiện ra trong tiếng hát. Hãy chú ý nơi vọng ra khúc ca xuân. Tiếng
hát trên đồi, vắt vẻo lưng chừng núi, giọng điệu hổn hển như
người đang chạy đua với đèo dốc; lời ca như giữa mộng, như có như không, dễ
bay biến giữa không gian xa vời, giữa thời gian khoảnh khắc. Đám xuân xanh ấy
vô tư quá trong phút giây xuân chín! Khách tha hương đành buột miệng: Trông
ra ý vị và thơ ngây. Đấy không phải lời tán thưởng giọng hát, mà nỗi than
thầm về một bi kịch báo trước bước đi biến đổi lạnh lùng của kẻ trót mang xuân
sắc!
Nếu những chiếc bóng nói trên còn chung chung mơ hồ thì hình bóng Chị ấy ở
cuối bài thơ bỗng dưng xác định cụ thể trong tâm tưởng thi nhân phút giây hoài
nhớ một quê nhà:
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc,
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang...
Đây là một trong những câu thơ hoài hương có thể ở chung với Nhật mộ hương
quan hà xứ thị - Yên ba giang thượng sử nhân sầu (Thôi Hiệu) (*), với Cử
đầu vọng minh nguyệt - Đê đầu tư cố hương (Lý Bạch) (*), với Lòng quê
dờn dợn vời con nước (Huy Cận)... Nhưng nhớ quê thì ít mà nhớ về chị ấy thì
nhiều. Tiếng gọi thầm sao mà tha thiết, mênh mang. Hình bóng chị được đóng
khung trong đường viền của không gian dòng sông vừa cụ thể vừa mang chất tượng
trưng. Phải chăng, Chị ấy chính là một thiếu nữ của ngày này năm cũ,
đã khởi đi từđám xuân xanh thuở vô tư tiếng hát. Chao ôi là bước đi khắc
nghiệt của thời gian! Thấp thoáng trong đám xuân xanh ấy, trong Chị ấy là
chiếc bóng thi sĩ Hàn lẻ loi giữa phút giây xuân chín với một dự cảm ngậm ngùi
về sự giới hạn của đời anh, đời người không thể nào khác được.
Cuối thiên kỷ thứ hai
(*) (*) - Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Tản Đà dịch)
- Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương.
Một khoảng không của Huy Cận
Thơ nói chung, Thơ mới nói riêng, có quá nhiều ly biệt; trong ly biệt
quá quen bóng dáng con thuyền: Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền (Chinh
phụ ngâm), Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm... (Nguyễn Bính), Thuyền
ơi thuyền xin ghé bến lênh đênh... (Vũ Hoàng Chương). Thơ Huy Cận cũng
không hiếm cánh buồm viễn xứ: Thuyền về nước lại sầu trăm ngả... (Tràng
giang), Thuyền người đi một tuần trăng... (Thuyền đi) Vạn thuở
chờ mong một cánh buồm... (Đảo). Tất cả đều là thuyền trôi thuyền dạt bơ
vơ, người đi mất hút xa tít mù khơi...
Nhưng với Em về nhà thì nỗi vô định lại không phải ở phía người trên
sóng nước:
Thôi sáng hung rồi; em hãy đi
Tự nhiên em nhé! Chớ buồn
chi.
Suốt ngày nhắc nhở em từng
phút,
Anh đoán thuyền em đến bến
gì.
Này lúc bên đường bóng đứng
trưa,
Thuyền em qua thác sóng xô
lùa.
Sông êm, bãi cát con cò đứng
Khỏi vực, lòng em hết sợ
chưa?
Tới ngã ba sông, nước bốn bề,
Nửa chiều gà lạ gáy ven đê.
Làng xa lặng lẽ sau tre
trúc;
Bến cũ thuyền em sắp ghé về.
Khi bóng hoàng hôn phủ núi
xa
Khi niềm tơ tưởng vướng
chân, và
Khi cầm không được anh ngồi
khóc:
Ấy lúc em tôi đã tới nhà.
(Theo Huy Cận đời và
thơ,
Nxb Văn học, Hà Nội, 1999)
Lời mở đầu cuộc chia tay thật tỉnh táo. như là một lời khuyên thiệt thà, một nhắc
nhở chẳng hề cơn cớ chi. Mà xem ra nào có chuyện gì đâu?!
Thôi sáng hung rồi; em hãy đi
Tự nhiên em nhé! Chớ buồn
chi.
Như ông anh miền Trung nhắc cô em gái về lại luỹ tre làng, đơn giản, hơi chút lạnh
lùng lại còn thúc giục. Thế rồi, khi người ấy dời chân (có lẽ?), mười bốn dòng
thơ còn lại làm thành những đợt sóng tuôn trào trong lòng người ở lại. Thuyền
em bắt đầu trôi trong tâm tưởng:Suốt ngày nhắc nhở em từng phút - Anh đoán thuyền
em đến bến gì...
Thuyền em dần tái hiện trong những thời gian, không gian thắc thỏm lòng người. Em một
mình dong ruổi, lên thác xuống ghềnh trong hành trình quy cố hương đơn lẻ:
Này lúc bên đường bóng đứng trưa,
Thuyền em qua thác sóng xô
lùa.
Sông êm, bãi cát con cò đứng
Khỏi vực, lòng em hết sợ
chưa?
Tới ngã ba sông, nước bốn bề,
Nửa chiều gà lạ gáy ven đê.
Làng xa lặng lẽ sau tre
trúc;
Bến cũ thuyền em sắp ghé về.
Một không gian quạnh vắng đìu hiu nhưng không đến nỗi Ầm ầm tiếng sóng kêu
quanh ghế ngồi (Truyện Kiều), không phải là một chuyến hải trình đầy bất
trắc. Bất trắc không ở nơi sông nước. Sông nước không nguy hiểm mấy, nếu
như không muốn nói ngược lại, là quá nên thơ! Bất trắc đang tích tụ phía lòng
người kia!...
Mọi việc bắt đầu từ đây, từ ngay lúc này đây:
Khi bóng hoàng hôn phủ núi xa
Khi niềm tơ tưởng vướng
chân, và
Khi cầm không được anh ngồi
khóc:
Ấy lúc em tôi đã tới
nhà.
Thế là kết thúc một chuyến đi (hay một lần gặp gỡ?) - Ấy lúc em tôi đã tới
nhà...Mọi việc ngỡ đà xong hết. Nỗi đau ly biệt trong thơ trước đó (và sau này)
thường dâng ngập hồn người lúcTrông vời, gạt lệ, phân tay (Truyện Kiều);
nhưng ở bài thơ này thì ngược lại, bỗng nổi giông gió cuồng phong ở phút giây
thuyền đỗ bến.
Bài thơ là một khoảnh khắc dồn tụ vào một thời điểm khốc liệt. Và, không nói
thêm gì khác nữa. Em về nhà còn quá nhiều những - khoảng - không cho
người đọc mặc sức tưởng tượng, mặc sức đưa mình vào một chuyến ra đi mới.
Thơ Huy Cận là "linh hồn trời đất" (Xuân Diệu), "với một ít cát
bụi tầm thường thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu ngọc" (Hoài
Thanh), hoặc nói kiểu Bùi Giáng là "cõi miền huyền bí nhất của tinh thể
Đông Phương"... Thơ Huy Cận còn đặc sắc ở một chỗ khác. đó là khoảng
không của ngôn ngữ thơ.
Theo dõi đời thơ Huy Cận (tập trung ở Thơ mới) những bài thơ hay của ông
bao giờ cũng gắn với những khoảng không, những trống vẳng lặng im kỳ lạ.
Huy Cận là thi sĩ của những điều không nói rõ, không muốn nói hết, và có thể,
không nói hết được. Người đọc cũng chẳng bao giờ hiểu hết - hiểu hết thì hết
thơ... Khi Huy Cận xa rời đặc điểm đó, thơ ông có thể vẫn được chấp nhận nhưng
không sống được lâu. Điều đó góp phần lý giải vì sao, vẫn hồn thơ ấy, vẫn tài
hoa ấy, vẫn câu chữ uyên áo ấy mà thơ Huy Cận có lúc không còn là một ngọn Lửa
thiêng (*)
Trở về Màu tím hoa sim
MÀU TÍM HOA SIM
Hữu Loan
Nàng có ba người anh di bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xin
bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy
bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giâyphút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim
tính
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường
Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng;
Gió sớm thu về rờn rợn nước
sông
Đứa em nhỏ lớn lên
ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về cỏ vàng
chân mộ chí.
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong
chiều không hết
Màu tính hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao
nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường
tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa
khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với
nhau
Chiều hoang tím có chiều
hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu
da diết.
Nhìn áo rách vai
Áo anh sứt chỉ đường
tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa
khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình
trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu
quân hành
Vang vọng chập chờn theo
bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm
thẳm chiều
hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
1. Văn bản tin cậy
Toàn văn bản chép tay bài thơ Màu tím hoa sim có chữ ký của nhà thơ Hữu
Loan (ghi ngày 12/10/2004) và có dấu đăng ký của Cục tác quyền (ngày
19/10/2004) do Công ty cổ phần Công nghệ Việt (Vitek) vừa công bố đã hoàn
thành thủ tục hợp đồng chuyển nhượng bán quyền với số tiền 100 triệu đồng. So với
các bản đã in từ trước đến nay, bản mới đã có thay đổi ít nhiều. Vậy đâu là bản
đáng tin cậy nhất?!
Bài thơ vừa công bố có một đoạn cuối do chính nhà thơ Hữu Loan bổ sung, mà theo
ông, nó đã viết thêm từ rất lâu:
...Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Nghiêng đồi hoa sim.
những đồi hoa sim dài trong
chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao
nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa
khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với
nhau
Chiều hoang tím có chiều
hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu
da diết.
Nhìn áo rách vai
tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
vợ anh mất sớm, mẹ già chưa
khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình
trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu
quân hành
Vang vọng chập chờn theo
bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm
thẳm chiều
hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
So sánh với bản thường lưu
hành, ta thấy bài mới công bố có thêm mười bốn dòng. Mười bốn dòng thêm cho cái
kết một bài thơ, đâu phải chuyện nhỏ!? Có thề do mấy nguyên nhân:
Theo Hữu Loan xác nhận, bài thơ được sáng tác ngay tại mộ người vợ trẻ, rồi được
ghi vào chiếc quạt giấy; sau đó chiếc quạt được gửi lại nhà một người bạn ở
Thanh Hóa, người bạn ấy đã chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm tháng ấy.
Chiếc quạt giấy bây giờ chắc là không còn. Việc chép lại, rồi chuyền tay nhau
trong những năm tháng chinh chiến của hơn 50 năm trước, làm
sao không có chuyện sai lệch?!
Hoàng Cầm cũng từng không thể nhớ thật chính xác về toàn văn bài thơ Bên
kia sông Đuống của mình...
Trong quá trình sáng tạo, hầu như rất hiếm có bài thơ nào được viết một mạch
không hề chỉnh sửa hoặc biên tập gì. Đất nước của Nguyễn Đình Thi là
ghép từ hai, ba bài thơ khác trước đó. Tràng giang của Huy Cận có nhiều
cách chọn lựa ở khổ đầu và khổ cuối. Tống biệt hành của Thâm Tâm còn
có thêm một khổ nữa... Cũng còn một lẽ, khi in sách báo hoặc lúc chép tay chuyền
nhau ai đó đã "biên tập" hoặc "lượt bớt" những dòng mà họ
cho là... thừa trong đoạn kết. Thực tiễn tiếp nhận có khả năng chọn lọc văn bản
theo cách đó.
Dẫu nguyên nhân nào chăng nữa, thì người đọc vẫn phải đối diện với một thực tế:
Có ít nhất hai văn bản đang tồn tại. So sánh hai đoạn kết, rõ ràng là bản mới
công bố tỏ ra dềnh dàng, kể lể mà không có sự đột biến hay âm vang vốn cần có
cho một đoạn kết thơ. Giữa một văn bản của lòng mình và một văn bản của tác giả
mới công bố, người đọc có quyền tiếp nhận theo cảm xúc riêng - một mỹ cảm vốn
được hình thành và hoá thành dấu hằn ký ức từ hơn nửa thế kỷ cho một tác phẩm
nghệ thuật. Mấy năm trước, có người muốn khôi phục lại khổ cuối cho Tống
biệt hành (... Ly khách ven trời nghe muốn khóc...) nhưng không thể,
bởi đối với người đọc, bài thơ cần phải dừng đúng ở dòng Em thà coi như
hơi rượu say... Thơ như một hình ảnh không dịch chuyển của hoài niệm - nó
là nó chứ không ai khác, không thể thêm bớt...
2. Số phận một bài thơ - một đời thơ
Màu tím hoa sim được xem là "một trong những bài thơ tình hay nhất cửa
thế kỷ 20" và cũng là bài thơ có số phận nghiệt ngã nhất. Sau khi được
công bố: bài thơ càng được người đọc đón nhận, yêu mến bao nhiêu thì tác giả của
nó càng vướng vào bấy nhiêu hệ lụy: từ đây, cuộc đời riêng và cuộc đời nghệ thuật
của Hữu Loan bỗng rẽ sang một bước ngoặt khác. Trong một thời gian dài, dễ chừng
cũng trên dưới 30 năm, ở miền Bắc, Màu tím hoa simkhông được phổ biến. nếu
không muốn nói là cấm in, cấm đọc. Tác giả của bài thơ sống lặng lẽ âm thầm,
lao động cật lực để nuôi sống gia đình. Và có lẽ, từ đấy, người đọc dường như bị
đánh mất cơ hội được tiếp tục chiêm ngưỡng một hồn thơ hào sảng, bi tráng, mới
mẻ, đằm thắm của Hữu Loan - một hồn thơ có lúc đạt đến sự tổng hoà tinh anh giữa
Phạm Huy Thông của Thơ mới, Hoàng Cầm và Quang Dũng trong những ngày đầu
kháng chiến, một giọng thơ thô ráp mà tinh vi với kiểu bậc thang gân guốc mang
dáng dấp một Maiakovski . Lý do bài thơ không được phổ biến thật đơn giản:. Đấy
là thơ buồn, thơ mất mát, bi thương, không có lợi cho cuộc kháng chiến đang hồi
khốc liệt... Khi đã xem sự lợi hại trên hết vì cuộc kháng chiến, vì lợi ích của
giai cấp, của một cộng đồng thì cái đẹp có lúc không thể thoát khỏi số
phận bi kịch.
Nhưng con đường thơ từ một người đến muôn người lại có quy luật riêng của nó -
thứ "quy luật phản quy luật ". Màu tím hoa sim thay vì chìm
vào quên lãng thì lại được cất giữ trong lòng người sâu kín hơn: thay vì công
khai trên đài báo, trên sách giáo khoa thì nó lại "rút vào bí mật" để
rồi băng qua con đường vốn là đại lộ của thi ca đích thực - lối đi của kẻ mang
thông điệp từ một trái tim đến một trái tim, tưởng nhỏ bé mỏng manh lại hoá ra
vàng đá. Cái gì còn sẽ còn nguyên - Cái gì tan ngỡ vững bền cũng tan
...(Trần Đăng Khoa). Ở trường hợp này, không chỉ còn nguyên, mà bài thơ bỗng nhận
thêm những giá trị, thêm những thử thách và thêm những che chở, thương yêu, bù
đắp. Khi che khuất ánh sáng, hồng ngọc bỗng bất ngờ ánh chiếu một thứ màu sắc ảo
huyền...Thử nghĩ ngược lại, nếu Màu tím hoa sim bình yên vô sự, thì
chắc chắn, nó đã có một thân phận khác. Và trong trường hợp ấy, biết đâu, ta có
một - Hữu Loan - khác chứ không phải một Hữu Loan của Đèo cả, Những làng
đi qua, Hoa lúa... và nhất là Hữu Loan của Màu tím hoa sim...
3. Trong màu sim tím
Sức hấp dẫn của Màu tím hoa sim, trước hết như đã nói, là ở phần số có vẻ
không may của nó. Nhưng để trở thành một trong những bài thơ đáng nhớ: không thể
chỉ là chuyện rủi may.
Màu tím hoa sim lôi cuốn người đọc ngay từ hoàn cảnh sáng tạo: Cái chết đột
ngột của người vợ trẻ ở hậu phương. Lê Đỗ Thị Ninh (sinh năm l932) vốn là học
trò của Hữu Loan khi ông còn học Collège Đào Duy Từ ở Thanh Hóa. Rồi Hữu Loan
ra Hà Nội học Tú tài. Tại đây, ông gặp lại cô học trò ngày xưa, và kết
duyên vào năm 1948. Cưới xong đâu có mấy ngày, Hữu Loan phải tức tốc hành
quân theo Sư đoàn 304. Mấy tháng sau ngày cưới, ông nhận được tin vợ
bị nước cuốn trôi - Gió sớm thu về rờn rợn nước sông...
Như phần đầu bài thơ đã kể, đôi vợ chồng trẻ không có được nhiều thời gian hạnh
phúc của thời chiến chinh, họ cưới nhau xong là đi. Nhưng điều ngang
trái là ở chỗ, không chết người trai khói lửa - mà chết người
gái nhỏ hậu phương... Càng ngang trái bẽ bàng là nàng không chết vì bom đạn
quân thù mà chết vì một nguyên nhân khác. Nghịch cảnh phi lý ấy đã bộc phát
sáng tạo thơ ca. Lời kể tự nhiên, vỡ oà, mê tưởng...réo gọi người đọc bằng
cơn thống thiết của một tâm hồn giữa phút giây tuyệt vọng.
Mà cái đẹp của sự tuyệt vọng
lại chính là một trong những chân giá trị của nghệ thuật. Màu tím hoa sim,
vì thế, như một một bức khốc văn đọc trước mộ người bạc mệnh, thiệt
thà mà tài hoa, đắng cay mà đằm thắm, hát ca mà chứa chan nước mắt...Nó mang
dáng vẻ hiện đại của thế kỷ chiến tranh thế giới nhưng lại tiếp mạch tự tình
dân tộc theo kiểu một Phạm Thái - Trương Quỳnh Như. Người đọc không đọc theo
thơ mà đọc theo lòng; bước lên nhịp cầu cảm thông niềm đau mất để đặt chân
đến ngưỡng cửa sự chiêm bái cái đẹp bi ai. Không có hoàn cảnh riêng, biết có Màu
tím hoa sim, biết có một Hữu Loan?! Hoặc có thể vẫn có một Hữu Loan, nhưng chắc
không phải là người - của - màu - hoa - tím - ấy... Chính cuộc sống đã sáng tạo
ra thi sĩ, và thi sĩ, không ai khác, mang lại cuộc sống cho thơ...
Hoàn cảnh sáng tạo là chiếc nôi đưa ru tinh thần nhân bản của bài thơ. Một thời,
do ngộ nhận về chức năng và giá trị của văn học hoặc do sự cảm nhận chủ quan đã
dẫn đến việc hiểu không đúng nội dung tác phẩm. Cho rằng bài thơ lên án chiến
tranh, thể hiện khát vọng hạnh phúc thông qua tiếng kêu xé lòng của lứa đôi
trong bom đạn. Thực ra, Màu tím hoa sim còn đề cập đến một khía cạnh
khác của cuộc đời. Tất cả nằm trong "câu chủ đề" này:
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
Vậy thì đâu chỉ chiến tranh?! Chiến tranh thường chết Người trai khói lửa chứ
(Lấy chồng thời chiến chinh mấy người trở lại - Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi),
hoặc chết cả hai người, ở đây chỉ chết nguời gái nhỏ hậu phương, mà lại chết
đuối, không phải do giặc bắn em rồi quăng mất xác (Quê hương - Giang
Nam)?! Rõ ràng, cảm hứng Hữu Loan hướng về cái ngang trái bất thần giáng
xuống lứa đôi, giáng xuống hạnh phúc con người, cái nỗi cổ kim hận sự không ai
lường được trong cõi người ta đầy bất trắc này, ở đâu cũng có và đời nào cũng
không thể tránh khỏi !... Thế mới đau, mới không thể nào hiểu thấu, mới thấy những
đồi hoa sim dài trong chiều không hết. Thế mới có thêm trong thi ca cái màu tím
chiều hoang biền biệt bên cạnh màu quan san biệt ly một thuở...
Sau Màu tím hoa sim, ta thấy xuất hiện Núi đôi của Vũ Cao, Quê
hương của Giang Nam - những bài thơ mà nhiều người cho rằng, cùng viết về
một đề tài nhưng đã vượt qua hạn chế về tư tưởng của Màu tím hoa sim. Cả
hai bài thơ vừa nói đều ảnh hưởng rõ ràng motype của Hữu Loan về đề tài, kết cấu,
cách kể (yêu nhau - tôi đi bộ đội - em ở nhà chết - tôi về đau xót). Thực ra,
hai bài thơ vừa nói đã đặt một vấn đề hoàn toàn khác với Màu tím hoa sim.
Núi đôivà Quê hương thể hiện tình yêu gắn bó với tình đồng chí,
hoà quyện với lòng căm thù và tinh thần chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc. Màu
tím hoa sim không đặt vấn đề về tổ quốc, về tình đồng chí, về lòng căm
thù giặc... Tác giả muốn khóc than bất hạnh để ca ngợi hạnh phúc muôn năm của
con người, để vĩnh hằng hoá tình yêu.
Sức hấp dẫn của Màu tím hoa sim còn ở và chủ yếu là ở trong hệ thống
nghệ thuật của bài thơ. Cả bài thơ là sự hồi tưởng qua giọng kể của chính tác
giả. Tự nhiên mà chắt lọc, hơi thơ mãnh liệt nhưng liền mạch, không thấy gãy vỡ
cấu trúc. Bài thơ như một vở kịch, như một cuốn phim được quay theo thủ pháp hồi
nhớ có khả năng đan quyện cái đau với cái vui; niềm thương với nỗi tiếc, có diễn
biến và cao trào, khiến người đọc cuốn theo cuộc nhân duyên ngắn ngủi của hai
hình tượng - tôi và nàng. Thủ pháp ấy khiến liên tưởng đến kiểu điếu văn nhằm tạo
ra âm điệu tưởng tiếc với trường cảm xúc cộng hưởng vô cùng. Giọng kể ấy lại gắn
với kiểu câu thơ tự do rất mới lúc ấy, xuống dòng nhiều chỗ rất "tức"
(gần giống như thơ bậc thang), góp phần làm cho ngôn ngữ kể như tiếng nấc,
tiếng kêu uất nghẹn của kẻ đau thấu trời xanh...
Vẻ đẹp của bài thơ còn là cách sử dụng thủ pháp tương đồng - đối lập tạo hiệu
quả nghệ thuật rất cao. Hữu Loàn có năng lực thiên phú trong xâu chuỗi những
nét tương đồng: Yêu nàng như tình yêu em gái (ân tình, nồng thắm), nàng
không đòi may áo mới - tôi mặc đồ quân nhân(yêu thì chẳng câu nệ gì), ngày
xưa nàng yêu hoa sim tím - áo nàng màu tím hoa sim - chiều hành quân qua những
đồi sim (thương nhớ, thuỷ chung), nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa -
nhìn áo rách vai - tôi hát trong màu hoa (nỗi đau mất mát)... Đặc biệt.
các hình ảnh đối lập là sáng tạo độc đáo nhất của Hữu Loan, tạo sức gợi mạnh mẽ
và có "độ không nói" có "sự im lặng giữa các từ", sự dồn
nén cao ngất: Không chết người trai khói lửa - mà chết người gái nhỏ hậu
phương (oan khiên), chiếc bình hoa ngày cưới - thành bình hương tàn lạnh
vây quanh (trớ trêu), được tin em gái mất - trước tin em lấy chồng (ngang
trái)...
Màu tím hoa sim là tình ca, không phải tráng ca. Bài thơ không viết về chiến
tranh mà nói về thân phận con người. Mỗi lần đọc Màu tím hoa sim ta
thấy lòng mình như dao cứa là nhờ Hữu Loan đã xuất thần góp một khúc đoạn
trường nữa cho nền văn chương giàu nỗi nhân tình của đất nước Việt Nam. Màu
tím hoa sim là một tài sản mỹ học, đó mới là một giá trị đích thực. Bỗng
nhớ Joseph Brodsky (Nobel 1987): "Tài sản mỹ học của cá nhân càng giàu có
bao nhiêu, thì khiếu thẩm mỹ càng vững chắc bấy nhiêu và quan điểm đạo lý càng
rõ ràng hơn. Do đó, anh ta càng có tự do hơn mặc dù cũng có thể, chưa chắc đã hạnh
phúc hơn".
Nỗi nhớ trong Tây Tiến và Bên kia Sông Đuống
Tây Tiến của Quang Dũng và Bên kia Sông Đuống của Hoàng Cầm được
sáng tác vào năm 1948. Đấy là một trong những thời điểm khắc nghiệt và thử
thách nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cảm hứng mất mát, bi thương đều hiện
ra trong các sáng tác tuỳ theo góc nhìn của từng nghệ sĩ - chiến sĩ trong vạn
ngàn ngày đạn lửa (Tố Hữu). Cả hai bài thơ đều có cùng hoài niệm về một
quá khứ dần xa mà khả năng có thể một đi không trở lại.
Quang Dũng "bồi hồi Nhớ Tây Tiến" (1) ; còn Hoàng Cầm thì
"tâm tư chồng chất những nhớ thương, tiếc nuối..." (2). Nhưng dường
như, đọc lại hai bài thơ này, cảm giác hãy còn một điều gì ẩn chứa bên trong mà
tác giả không nói hết, hoặc người đọc chưa kịp nhận ra?! Nhớ trong
hai bài thơ ấy là nhớ những gì, quan trọng hơn là nhớ cái gì sâu sắc nhất, quán
xuyến nhất của kẻ để hồn về Sầm Nứa và người muốn hành hương trở lại Bên
kia Sông Đuống?!...
1. Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
"Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào về Hoà Bình thành lập
Trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948, rồi được chuyển
sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh, anh viết
bài thơ bồi hồi "Nhớ Tây Tiến" (3). Bốn đoạn thơ dài ngắn khác nhau,
bàng bạc nhớ thương. Đoạn 1: Nhớ một vùng núi rừng mà đoàn binh Tây Tiến
đã đi qua: Đoạn 2: Nhớ những kỉ niệm hân hoan đời lính. Đoạn 3: Nhớ đời
lính lãng mạn, bi hùng. Đoạn kết: Gửi trọn lòng mình về Tây Tiến.
Cách phân đoạn, phân ý như trên cho thấy cái khó, nếu xét về lôgic cấu trúc ý tứ
bài thơ. Và nếu tìm cảm hứng chủ đạo của mỗi đoạn thơ thì lại không nhìn được
tính nhất quán của trục liên tưởng - hoài niệm. Toàn bộ hình ảnh, chi tiết,
ngôn ngữ, giọng điệu được tái hiện qua kí ức tựa như những thước phim quay chậm,
vừa đặc tả cận cảnh vừa lướt thoáng mờ nhoè, vừa liên tục triền miên vừa đứt nối
đột ngột. Vì thế, có những hình ảnh, ngôn từ không thể đi đến tận cùng hoặc xác
định cách hiểu rõ ràng, kiểu như : hội đuốc loa, kìa em xiêm áo, đoàn binh
không mọc tóc, quân xanh mau lá, áo bào thay chiếu, dáng người trên độc mộc...
Thơ tựa một giấc mơ được nhớ lại. Giấc mơ ấy có qui luật riêng của nó. Đã nhiều
lần Tây Tiến trực tiếp gọi tên nỗi nhớ nhưng cũng chỉ biết đấy là một
nỗi nhớ chơi vơi:
- Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
- Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên
khói
- Có nhớ dáng người trên độc
mộc
Nhớ cảnh, nhớ người, nhớ
gian khổ bi thương, nhớ niềm vui khoảnh khắc, nhớ mơ mộng một thời trai trẻ...Đủ
cả cung bậc. "Nỗi nhớ dường như xua tan dần sương khói của thời gian,
không gian xa cách, làm hiện hình ngày càng rõ nét những kỉ niệm của đoàn quân
Tây Tiến trên núi rừng Tây Bắc ngày nào" (4).
Nhưng đâu là nỗi nhớ bao trùm nhất, lớn nhất làm nên chất bi tráng đầy ám ảnh
trong bài thơ được xem như là đỉnh cao nhất của thơ Quang Dũng? Phải chăng, nhà
thơ muốn tập trung "làm hiện hình ngày càng rõ nét những kỉ niệm của đoàn
quân Tây Tiến"?
Trước hết hãy trở về với cái tôi trữ tình tác giả trong bài thơ: Nguyên Đại đội
trưởng Quang Dũng - thi sĩ Quang Dũng - đang hồi tưởng, đang ngược dòng chảy xiết
thời gian để trở về vùng kỉ niệm. Vùng kỉ niệm ấy không được mô tả như nó vốn
có trong thực tại quá vãng mà được giãi bày như nó đang tồn tại trong hồn mình
vào thời điểm đang nói. Có hai Quang Dũng, một Đại đội trưởng đoàn binh Tây Tiến
của ngày ấy và một thi sĩ Quang Dũng của hiện tại. Người này đang thương nhớ
người kia? Hiện tượng này xét ở góc độ tâm lí là bình thường. Cái khác thường
là ở chỗ, từ hiện tượng đó, thơ ca đã cất lên tiếng nói nào - đúng hơn, bằng
cách nói độc đáo không lặp lại như thế nào?!
Tố Hữu, trong bài Nhớ đồng, đã viết: Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi.
Rồi đến Việt Bắc: Mình đi mình có nhớ mình. Xuân Diệu cũng đã từng tự phân
thân: Xin đừng tìm biết rõ chàng ta, Từ tôi phút ấy sang tôi phút này...Rất
có khả năng, hai cái tôi ấy đang nới dần khoảng cách thời gian, không
gian, đang dự báo lo âu về cái ngày mình không còn là mình của ngày xưa nữa nữa.
Cho nên, cái tôi của ngày cũ bỗng hiện lên chấp chới bao màu sắc, trong ánh hào
quang rực rỡ của tưởng tượng được nhân lên: Trong sự "tha hóa" của
chính mình đó, chiếc áo thô mộc đơn giản của cô gái miền núi bỗng thành xiêm
áo tự bao giờ, tiếng khèn điệu nhảy thô sơ bỗng trở nên man điệu ảo
huyền, những người lính rụng tóc hoặc cạo đầu, da xanh vì sốt rét bỗng thành
đoàn binh không mọc tóc...dữ oai hùm; mộ hoang u tịch bên đường hoá thành rải
rác biên cương mồ viễn xứ; trang phục người lính thiếu thốn, chằm vá trở thành áo
bào như trong trí tưởng người chinh phụ ngày Chàng từ đi vào nơi gió
cát...Ngôn ngữ được cách điệu với nhiều từ Hán Việt trang trọng, cổ điển, giọng
điệu pha chút tráng ca thời cổ lai chinh chiến...Dễ thấy, thiên nhiên Tây
Bắc hoang liêu được tô đậm vẻ dữ dằn. khốc liệt nhưng lại thiên trọng về vẻ phi
thường, lãng mạn của sự dữ dằn khốc liệt ấy...Tất cả nhằm vẽ vời hình ảnh người
lính - cái tôi hoá thân của nhà thơ trong không - thời gian quá khứ có một
không hai ấy.
Như vậy nhớ - một - tôi - thời - Tây - Tiến chính là nỗi nhớ mãnh liệt nhất, là
hoài mong vô vọng mà tràn đầy niềm tin một khi Sông Mã xa rồi...Nỗi nhớ ấy
luôn làm con người thấy mình bé lại và người khác nhận ra mình lớn lên: Đó là
nơi nương tựa vĩnh cửu và mơ hồ nhưng vững chãi, mãnh liệt.
Quên mới đáng sợ, và quên
chính mình hôm qua mới là cái đáng sợ nhất! Khổ cuối bài thơ bộc lộ tư tưởng
nghệ thuật ấy. Từ Tây Tiến được nhắc hai lần trong hai hàm nghĩa
khác nhau:
Tây Tiến người đi không hẹn
ước
Đường lên thăm thẳm một chia
phôi
Đấy là Tây Tiến của người đi, của người đã xa. Tây Tiến trong
ký ức, Tây Tiến trong thăm thẳm một chia phôi. Câu thơ Một
mình làm cả cuộc phân li (5), buồn nhớ đến mênh mang...
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về
xuôi.
Và đấy là Tây Tiến của hồn về, của người nỗ lực mong trở lại. Tây
Tiến trong thề hứa muôn đời chung thủy với một tôi một thủa , mặc
dòng sông đời thác cuốn vẫn chấp nhận chẳng về xuôi. Câu thơ ngân lên phẩm
chất người đẹp đến nao lòng...
Gẫm lại những bài thơ hay một thời, hình như đều có nỗi nhớ kì lạ ấy - Vu
vơ, Quê hương của Tế Hanh, Nhớ rừng của Thế Lữ, Màu tím hoa
sim của Hữu Loan, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử...
Nhân đây, xin trích các hướng dẫn giảng dạy hơi lạ của Sách Giáo viên Văn
12 (Nxb Giáo dục - 2000) về khổ cuối nói trên: "Hình ảnh Hồn
về Sầm Nứa chẳng về xuôi: chẳng về xuôi nghĩa là bỏ mình trên đường
hành quân; còn Hồn về Sầm Nứa có thể hiểu: chí nguyện của các
chiến sĩ sang nước bạn, hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực
dân Pháp, họ quyết tâm thực hiện lí tưởng ấy đến cùng. Cho nên, dù đã ngã
xuống trên đường hành quân, hồn (tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn
sống trong lòng đồng đội..." (trang 62). Thật vậy chăng?!...
2. Những chuyện muôn đời không nói năng
Bên kia Sông Đuống là nỗi đau mất mát, là niềm thương tiếc không nguôi về
một miền quê đang chìm trong bóng giặc. Sông Đuống - linh hồn quê hương
Kinh Bắc đang nằm nghiêng nghiêng trong hồi tưởng của đứa con xa. Quê
nhà dần dần hiện ra trong mạch cảm xúc tuôn trào không kìm chế của khúc ly
quê hương.
Hoàng Cầm nhớ cảnh đẹp, trù phú:
- Ngày xưa cát trắng phẳng
lì...
- Một dòng lấp lánh...
- Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc...
- Quê hương ta lúa nếp thơm
nồng...
Cảnh ấy có thể bắt gặp trên nhiều trang thơ khác, ở nhiều miền quê khác. Có gì
gây ấn tượng?!
Rồi Hoàng Cầm nhớ người thân yêu: những nàng, những em, những cô hàng xén,
những cụ già phơ phơ tóc trắng, những mẹ già nua còm cõi...
Từng ấy cảnh, từng ấy người vẫn chưa làm thành nỗi nhớ sâu lắng mang dấu ấn
tình cảm và sáng tạo của thi nhân. Cho đến khi, những cảnh, những người
kia gắn chặt với một vùng văn hóa mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên thì Bên
kia Sông Đuống mới sáng bừng lên tư tưởng nghệ thuật của nó. Những hình tượng
thành công nhất của bài thơ này luôn gắn liền giữa nỗi nhớ cảnh
nhớ người với những giá trị
tinh thần muôn đời Kinh Bắc. Không nghi ngờ gì nữa, tiếc thương lớn nhất, nỗi
đau lớn nhất chính là sự tan vỡ những giá trị tinh thần, khi Giặc kéo
lên ngùn ngụt lửa hung tàn. Hòa bình rồi sẽ trở lại; con sẽ được về bên mẹ,
kẻ ly hương sẽ trở về mái nhà xưa; nhưng những giá trị mấy trăm năm ấy
không thể cùng lúc hồi hương. Mất văn hóa, con người tha hương ngay trên chính nơi chôn rau cắt
rốn của mình.
Khó có thể vẽ bức tranh tang thương dâu bể này lần thứ hai:
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngã
Đám cưới chuột đang tưng bừng
rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu.
Không thể miêu tả nỗi nhớ về nụ cười gái quê nào dung dị mà nồng ấm, chói lòa đến
thế, đấy là nụ cười thiếu nữ Việt Nam của mấy thế kỉ:
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng...
Và không bao giờ có thể tả được gương mặt người mẹ trong trạng huống có một
không hai này:
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm
kể
Những chuyện muôn đời không
nói năng...
Với bốn dòng thơ trên, Hoàng Cầm đã ghi tên mình vào những nhà thơ có câu thơ
viết về mẹ hay nhất của văn học Việt Nam xưa nay.
Những câu thơ trích trên như những chuỗi ngọc lấp lóa không thể nào nhận rõ từng
sắc màu phản chiếu. Đấy là những dòng thơ tuôn chảy từ trong vô thức,
" được tạo nên bởi âm tiết của những giấc mơ" (Lawrence Ferlinghetti
- Sđd). Hình như tác giả không có chủ định làm thơ. Như Hoàng Cầm đã kể,
có một người con gái mơ hồ nào đó đứng đọc cho ông viết một mạch những câu
thơ ấy giữa đêm khuya. Đấy cũng là một đặc điểm trong quá trình sáng tạo của
tác giả Lá diêu bông. Lúc nào ông xa rời điều ấy, lúc ông "cố ý
làm thơ" thì thơ lại trở nên "vô tình" với mong muốn của thi
nhân. Bên kia Sông Đuống là bài thơ hay, nhưng Bên kia Sông
Đuống lại là bài thơ có không ít những khổ thừa,. những chữ dễ dãi cũng là
vì lẽ ấy: Ví như :Dao loé giữa chợ - Gậy lùa cuối thôn - Lúa chín vàng
hoe, giặc mất hồn - Ăn không ngon - Ngủ không yên - Lòng không vững - Chúng mày
phát điên, Để con đi giết giặc - Lấy máu nó rửa thù này - Lấy súng nó cầm
trong tay - Mỗi đêm một lần mở hội - Trong lồng con chim múa hoa cười, À ơi...
Cha con chết trận từ lâu - Con càng khôn lớn càng sâu mối thù - Tiếng em cắt
cỏ trại tù v.v... Những câu thơ trên là những câu thơ thật, nhưng
thông điệp thẩm mĩ thấp; ý vừa lộ vừa thừa: kể lể nhiều mà sự cộng hưởng lan toả
không bao nhiêu. Khi viết nhưng câu thơ vừa kể: "người con gái mơ hồ"
ấy hình như vừa đi vắng...
Tây Tiến của Quang Dũng và Bên kia Sông Đuống của Hoàng Cầm đã
quát hiện từ nửa thế kỉ trước: Sự tiếp nhận của bạn đọc ngày ấy và bây giờ
về hai thi phẩm này đương nhiên khác nhau - cái khác của sự phát triển hình tượng
thơ trong tâm lý và hoàn cảnh thưởng thức của công chúng nghệ thuật mỗi
giai đoạn. Hình tượng thơ bao giờ cũng được tồn tại trong thế vừa ổn định vừa dịch
chuyển. Nó vừa ở lại vừa ra đi...
Ngộ nhận Bùi Giáng
Bùi Giáng là một hiện tượng văn học đặc biệt. Đặc biệt khác với vĩ đại. Mặc dù
nhà văn và tác phẩm lớn lao nào cũng rất đặc biệt, cá biệt. Chung quanh cuộc đời
và tác phầm của ông là những nhận định không thống nhất.
Ông tự gây ra và không tự gây ra những trớ trêu đáng có và không đáng có cho
người yêu ông mê mệt, cho những ai thích phiếm luận văn chương nhưng không đọc
ông đến độ, và cho cả những người không dính líu với trang viết nhưng lại bận
lòng với cuộc đời riêng tư của nghệ sĩ...
Con người thật và chân dung tinh thần trên trang viết Bùi Giáng là một (quan hệ
phức hợp đưa đến những cảm nhận khác nhau. Tác giả với tư cách là con người và
tác già với tư cách cái - tôi - nghệ - sĩ được cam thấu qua trang viết tuy là một
nhưng không phải là một, không bao giờ là một. Một ở cõi người ta còn
một ở trong thế giới nghệ thuật: Một thì ăn ở với đời, một thì sống trong giây
phút thăng hoa. Một này có khi (thường là rất ít khi.) hoàn toàn là một kia,
nhưng lắm khi, một kia chính là sự gạn lọc, là sự phát tiết tinh anh, là tất cả
năng lượng tiềm ẩn phút giây bộc phát không lặp lại, là cấp số nhân những ước
mơ hiển hiện của một này... Oái oăm, Bùi Giáng phải chăng là sự ngộ nhận giữa
hai (hoặc nhiều hơn?) con người ấy; oái oăm, sự ngộ nhận đó lại nhiều khi làm
ông nổi tiếng và "vĩ đại" không kém sản phẩm nghệ thuật (tiếng nói cuối
cùng, giá trị duy nhất của nhà văn) mang lại?! Nghe ông nói, nhìn ông hành xử,
đọc ông viết (thời điểm này với thời điểm kia, trang trước với trang sau, câu
trên với dòng dưới...) bao giờ cũng là sự không nhất quán mà lại thống nhất
trong cái nhìn vừa tổng thể vừa chi tiết của các tư cách trên. Ông như một..."cô
đồng"! Điệu nhảy của ông Bùi trở nên thiêng liêng huyễn hoặc khi
có tiên thánh giáng vào. Nhưng khi ông múa may ở giữa ngã tư đường phố
trong trạng thái thần kinh không kiểm soát hành động, lúc ấy tiên thánh đãthăng rồi!...(xin
bỏ qua sự khập khiễng vốn có). Hại thay, sự thăng - giáng này lại vô
hồi bất tận, khoảnh khắc lẫn lộn và thiếu thời gian biểu để người đọc biết mà lạy
những câu thơ xuất thần khi ông Bùi...giáng. Đọc thơ ông (sáng tác
cũng như dịch thuật), văn ông (khảo luận, văn dịch) có sự nhập nhòa không phân
định đó. Nó tăng trưởng theo chiều tuổi tác, theo thời thế, theo bệnh tật và
theo tài năng (bên này của sự phát triển và bên kia dốc trượt của đỉnh điểm mà
nghệ sĩ nào rồi phải bước qua). Từ Mưa nguồn đến Sa mạc phát tiết,
rồi tới Rong rêu vàĐêm ngắm trăng chính là chặng đường đau khổ ấy.
Vì thế, Bùi Giáng mở đầu cho một "trường phái." mà kẻ bắt chước
ông, tự xưng là môn đệ của ông, chẳng bao giờ có thể vượt qua bậc thầy khả kính
của mình ở mọi phương diện.
Thật khó diễn đạt điều này nữa...Không loại trừ nhưng lúc ông mất kiểm soát (với
tư cách con người bệnh tật) thì nó lại giúp ông xuất thần xuất chiêu (với tư
cách con người nghệ sĩ) những dòng thơ (thường là lục bát - thể thơ thành công
hơn cả và gắn với máu thịt hồn quê kiểng trong ông) đầy ma lực. Đảo lộn mọi trật
tự ngôn ngữ thông lệ, chồng lấp khép mở hình ảnh, nhạc tính lạ lùng ngân rung,
cộng hưởng nhiều yếu tố ngẫu nhiên...để có những câu thơ "trời cho",
mà ai cũng phải kinh ngạc.
Lục bát của ca đao mượt mà; lục bát thời Thơ mới thêm nỗi đắm say; đến Bùi Giáng, lục bát đã thành diễm ảo. Cũng cái cách ấy, nhưng khi thần xuất thì những câu thơ ông (kể cả những câu...dịch) có lúc là mớ chữ sắp xếp vụn vỡ, không biết đâu vào đâu, chỉ còn chút âm điệu kêu vang vốn có của tiếng Việt giàu âm thanh, (Một hôm gầu guộc gầm ghì. - Bồm gao gạo đỏ bỏ buồm gạo đen...). Chính Bùi Giáng cũng đã thức tỉnh điều ấy, mặc dầu ông còn bao biện đôi phút, xưng tụng đôi chút trong câu thơ này: Người điên ngôn ngữ điệp trùng - Nử chừng như mộng nửa chừng như mê...
Lục bát của ca đao mượt mà; lục bát thời Thơ mới thêm nỗi đắm say; đến Bùi Giáng, lục bát đã thành diễm ảo. Cũng cái cách ấy, nhưng khi thần xuất thì những câu thơ ông (kể cả những câu...dịch) có lúc là mớ chữ sắp xếp vụn vỡ, không biết đâu vào đâu, chỉ còn chút âm điệu kêu vang vốn có của tiếng Việt giàu âm thanh, (Một hôm gầu guộc gầm ghì. - Bồm gao gạo đỏ bỏ buồm gạo đen...). Chính Bùi Giáng cũng đã thức tỉnh điều ấy, mặc dầu ông còn bao biện đôi phút, xưng tụng đôi chút trong câu thơ này: Người điên ngôn ngữ điệp trùng - Nử chừng như mộng nửa chừng như mê...
Một câu hỏi đặt ra, nếu không điên (hiểu là một loại bệnh tâm thần)
liệu Bùi Giáng có viết hay như thế không, có viết hay hơn thế không?! Chưa có
câu trả lời xác đáng; bởi những gì chưa xảy ra hoặc nếu thay đổi đi sự cố quá
khứ đối với người nghệ sĩ thì hoàn toàn không ai biết chính xác tác phẩm của họ
sẽ đi đến đâu. Nhưng chắc chắn rằng, người đọc sẽ không bận lòng với những
trang, những dòng kì dị khác người nhưng không thể cho là sự độc đáo đáng tồn tại
của nghệ thuật. Và người đời chắc không chứng kiến và thêu dệt những kiểu hành
xử lạ lùng tội nghiệp của Bùi Giáng khi cơn bệnh giày vò ông.
Có người đã đặt ra câu hỏi với Hàn Mặc Tử, nếu không mắc bệnh nan y thì thi sĩ
Hàn có tồn tại được thế? Nỗi đau, bệnh tật, nỗi đời riêng bất hạnh của nghệ sĩ
rất nhiều khi là nguồn năng lượng kỳ lạ làm "bệ phóng" ghê gớm thúc đẩy
những sáng tạo tung vỡ đột biến. Nhưng cũng không loại trừ khả năng, những tai
ương đó níu cánh đường bay sáng tạo lẽ ra không chỉ dừng lại nửa chừng đầy tiếc
nuối như ta đã biết...
Bùi Giáng không phải nhà tư tưởng, không phải triết gia, không là đạo sĩ nguyên
nghĩa...Cuồng sĩ, quậy sĩ càng không đúng với ông...Bùi Giáng là Bùi Giáng, duy
nhất không giống ai mà không ai có thể giống mình. Ông là một tài năng vốn có
là hiếm có bằng sự bẩm sinh bằng con đường tự học là tự "đốn ngộ".
Ông đem đến cho thơ thêm một hơi thở mới lạ mà dễ chừng một thế kỷ chỉ xuất hiện
mấy người. Ông là một dịch giả tài hoa trên lĩnh vực thơ văn là triết học. Ông
là người có phong cách và có những ý tưởng độc đáo với những trang khảo luận
văn chương nhiều hấp lực. Ông không thuộc những nhân cách vĩ đại nhưng là người
không hề mưu cầu và không biết mưu cầu, không hề cơ hội và không biết cơ hội,
không hề nửa vời và không biết nửa vời...ông sống hết mình với đúng - sai - hoảng
- loạn...Văn đàn đất Việt ông ngồi riêng một chiếu! Ai ghé vào, giỏi lắm cũng
chỉ làm người hầu kẻ hạ cho ông mà thôi! Mà hầu hạ được ông, cũng là một vinh dự,
một lạc thú!...
... Làm cho cho hại, cho tàn, cho cân !... (Truyện Kiều)
... Làm cho cho hại, cho tàn, cho cân !... (Truyện Kiều)
Nguyễn Minh Hùng
đặt vé eva airline
mua ve may bay eva di my
đại lý vé máy bay korean air
đặt vé máy bay đi mỹ
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch