Sơn La - thủ phủ trước đây của
Khu tự trị Tây Bắc - một miền quê được mệnh danh là xứ sở Hoa Ban nổi tiếng với
những làn điệu dân ca say đắm lòng người, và đặc biệt là những điệu múa vừa dịu
dàng tha thiết, vừa rộn ràng, sôi nổi…
Đến với Sơn La cảm nhận và gần
gũi với những điệu múa dân gian cổ truyền… chúng ta như được hoà mình vào cuộc
sống gắn bó với thiên nhiên của cộng đồng các dân tộc nơi đây.
Ngược đường số 6, chúng tôi
đến thảo nguyên Mộc Châu – nơi có hai dân tộc H’Mông và Dao cư trú khá tập
trung. Nếu đúng dịp mùa xuân, ta sẽ ngỡ ngàng giữa màu hồng của rừng đào xen lẫn
trong bạt ngàn màu trắng của hoa mận, nổi bật trên đồng cỏ xanh và những đồi
chè phủ đầy búp non. Có lẽ cảnh đẹp thiên nhiên ấy đã là nguồn cảm hứng của người
H’Mông để mùa xuân là mùa của lễ hội, là mùa giao duyên qua tiếng kèn lá của
các cô gái, mùa “nhảy khèn” của các chàng trai.
Chỉ với một chiếc lá cây giản
dị vậy mà các cô gái H’Mông đã thổi hồn vào đó, làm cho nó cất tiếng tâm tình: Ở
trên cành là lá - đặt lên môi em thành lời/ Lời tâm tình dịu êm, từ trong con
tim em vấn vương/ Gọi mùa xuân sang từ lung linh sắc hương/ Gọi tình yêu về từ
lòng em… Say mê!
Và trong tiếng gọi của tình
yêu như thế, các chàng trai cất lên tiếng khèn rập rìu, dồn dập… kèm theo những
động tác múa thể hiện tài năng, sự khéo léo và cả sức dẻo dai: vừa thổi khèn
liên tục, vừa quay tít nhiều vòng hoặc nhảy nhanh với những động tác chân phức
tạp, có lúc lại lăn tròn dưới đất mà điệu khèn vẫn không dứt tiếng… Các nghệ
nhân kể rằng: trước đây, trai tráng H’Mông còn thi tài quay trên lá chuối mà lá
chuối không rách, quay trên đầu ba chiếc cọc gỗ nhỏ mà không ngã, thậm chí còn
ly kỳ hơn: quay trên miếng ván bắc qua chảo nước nóng… Điểm độc đáo có một
không hai của “nhảy khèn” là các động tác múa đều mang tính ngẫu hứng rất cao với
sự sáng tạo phong phú đến bất ngờ của từng cá thể.
Ngày xưa các cô gái H‘Mông
không có múa, nhưng ngày nay, từ giao thoa văn hoá và sức cuốn của phong trào,
các cô gái cũng múa chẳng kém con trai; phổ biến nhất là điệu múa ô nổi tiếng:
những chiếc ô màu sắc rực rỡ cứ xoay tròn, lên cao, xuống thấp, quấn quýt ôm lấy
thân hình con gái tạo nên vẻ đẹp uyển chuyển và sinh động. Người phụ nữ H’Mông
nổi tiếng về đức tính kiên trì nhẫn nại qua việc biến vỏ cây Lanh thành sợi tơ
mềm mại để tạo nên những bộ trang phục lộng lẫy; và diều đó đã biến thành những
động tác tước Lanh, quận sợi thật duyên dáng, mềm mại trong các điệu múa của họ.
Tạm biệt dân tộc H’Mông, đến
với đồng bào Dao (ở Mộc Châu, đông nhất là nhánh Dao Tiền). Những lễ hội lớn nhỏ
của dân tộc Dao gắn liền với cuộc sống trong suốt cả năm và luôn thấm đẫm văn
hoá tâm linh về cội nguồn, về nhân sinh. Tiêu biểu nhất là Lễ cúng Bàn Vương (ông
tổ của người Dao), Tết nhảy, Lễ ""Lập tịnh"", Lễ
""Quá tang""(qua đèn)... Trong đó, hình ảnh Ngọn đèn
là biểu tượng tập trung, và cơn người luôn luôn là chủ thể, hoàn toàn không
mang sắc mầu mê tín, dị đoan.
Đâu phải là cúng - cầu - khấn
– vái; ""Ngọn đèn"" là nhân ảnh của ""Lửa
thiêng"": Là sức mạnh như cây rừng, đá núi/ Là tình yêu tha thiết của
tình đời/ Là trí tuệ hanh thông cùng năm tháng/ Được thắp lên trong mỗi con người.
Trong hầu hết những lễ hội ấy,
các hình thức nhảy múa khác nhau đã được sử đụng, nhưng phổ biến nhất là điệu múa
Chuông. Những chiếc chuông được lắc mạnh tạo thành nhịp đều đặn, những sợi
tua mầu được tung lên, hạ xuống, lượn tròn thật nhịp nhàng, sinh động và đẹp mắt.
Xem múa Chuông, ta có cảm giác như những chùm tua mầu tung tăng, nhảy nhót giữa
không gian cùng tiếng chuông thôi thúc... như lòng người háo hức, hân hoan. Xem
múa Chuông, người am hiểu nghệ thuật cũng phải thán phục vì người Dao Tiền đã tạo
nên tiết tấu múa bằng nhịp 5/4 và nhịp 7/4 - đó là loại nhịp ""phức""
của âm nhạc hiện đại. Độc đáo hơn, từng loại nhịp (5/4 hoặc 7/4) lại không kéo
dài mà thường đan cài với nhau thành từng cụm: cứ hai nhịp 5/4 lại đến một nhịp
7/4 và thỉnh thoảng lại xen vào một số nhịp 4/4 mở đầu cho các đoạn múa lớn. Tạm
biệt Mộc Châu, sẽ còn nhớ mãi vùng Thảo nguyên tươi đẹp, nhớ mãi những điệu múa
Khèn, múa Ô, múa Chuông độc đáo và hấp dẫn... Tiếp tục lên đường, sau khi vượt
qua vô vàn khúc quanh của đèo dốc chúng ta sẽ đến Yên Châu- một địa danh đã trở
nên quen thuộc với cả nước qua bài hát ""Người Châu Yên em bắn
máy bay"" từ thời chống Mỹ cứu nước. Đứng trên sườn núi, ta đã
nghe rộn ràng tiếng trống, tiếng cồng từ xa vọng tới, đó là âm điệu của Xoè
vòng.
Xoè vòng là hình thức
múa cộng đồng của dân tộc Thái nhưng người Yên Châu yêu thích và sử dụng điệu
Xoè này thường xuyên nhất trong đời sống văn hoá tinh thần, đặc biệt trong giao
tiếp và thể hiện niềm vui: Một ngày dân đón khách - Một ngày mùa bội thu-
Một lễ mừng nhà mới- Một lễ đón dâu- Một niềm vui giản dị của
mỗi gia đình...
Yên Châu còn là xứ sở của rượu
cần, uống đến đâu lâng lâng đến đấy, thứ rượu có vị đăng đắng như bia chứ không
ngọt lịm như rượn cần của Hoà Bình. Yên Châu có những nghệ nhân làm khèn, làm
""pí" và làm cồng rất giỏi. Thời chống Mỹ, vì thiếu đồng, có nghệ
nhân còn gò được Cồng từ vở thùng xăng mà âm thanh vẫn vang, vẫn đẹp. Có lẽ vì
thế, mà vòng Xoè ở Yên Châu bao giờ cũng đầy đủ ""lệ bộ""
hơn những bản mường khác.
Mọi người cầm tay nhau bước đi theo nhịp trống, nhịp cồng hoà cùng âm thanh của điệu khèn rộn rã... Chính giữa vòng Xoè là một chum rượu cần lớn với những ống hút toả rộng như những cành hơi, mời gọi người đến vít cần, chuốc rượu... Không phải ngẫu nhiên mà khung cảnh ấy, tình nghĩa ấy đã luôn luôn là khúc mở đầu đầy ấn tượng của những mối tình đằm thắm: Men rượu cần lan toả... Thoáng nghe hồn bay bay/Cho em hồng đôi má... Cho tình anh ngất ngây/ Nhịp trống chiêng rộn rã... Vòng xòe lướt phiêu diêu/ Để khăn ""Lêu""... cũng nghiêng vào trong gió/ Nhắn cùng anh là thương... Ngỏ cùng em lời yêu (Lời của một ca khúc)
Mọi người cầm tay nhau bước đi theo nhịp trống, nhịp cồng hoà cùng âm thanh của điệu khèn rộn rã... Chính giữa vòng Xoè là một chum rượu cần lớn với những ống hút toả rộng như những cành hơi, mời gọi người đến vít cần, chuốc rượu... Không phải ngẫu nhiên mà khung cảnh ấy, tình nghĩa ấy đã luôn luôn là khúc mở đầu đầy ấn tượng của những mối tình đằm thắm: Men rượu cần lan toả... Thoáng nghe hồn bay bay/Cho em hồng đôi má... Cho tình anh ngất ngây/ Nhịp trống chiêng rộn rã... Vòng xòe lướt phiêu diêu/ Để khăn ""Lêu""... cũng nghiêng vào trong gió/ Nhắn cùng anh là thương... Ngỏ cùng em lời yêu (Lời của một ca khúc)
Mang trong lòng ấn tượng về
vòng Xoè và âm thanh của trống cồng... chỉ cần đi một đoạn đường ngắn là chúng
ta có thể đến với tiếng ""Cống tốp""- một loại trống độc
đáo của đồng bào Kh"Mú.
Khác với chiếc trống lớn được
đánh bằng dùi trong những lễ hội lớn: Tiếng ""cống tốp""- (một
loại trống nhỡ, vỗ bằng tay vào hai mặt trống) là tiếng trống đầm ấm của
trai gái tộc người Kh" Mú. Bất cứ ở đâu, dù trong đêm trăng sáng hay bên
ánh lửa hồng, tiếng trống cứ vang lên là con trai, con gái cùng háo hức bước
chân, rạo rực nỗi lòng. Bởi trong tiếng trống đặc biệt ấy, họ tìm được bạn tình
qua vũ điệu ""nộc Dung""(chim Công), một vũ điệu được
cấu tạo qua con mắt thẩm mỹ rất độc đáo của người Kh" Mú từ ngàn xưa truyền
lại. Trong vũ điệu, người Kh" Mú không miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy bên ngoài của
chim Công mà họ tái hiện những cử chỉ của chúng thành những động tác múa sôi nổi,
quyến rũ, lôi cuốn và gợi cảm ... Để vũ điệu trở thành mê say trong sự giao
duyên đầy ý nhị của đầu, của vai, của mông, trong những bước chân nhịp nhàng, lẫn
vào ánh trăng, hoà vào bóng núi, giữa bản mường quê hương.
Điệu múa ""AU
EO"" của người Kh" Mú đã làm nên thành công của nhiều đơn vị, từ
đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp đến các đội văn nghệ quần chúng bởi vẻ đẹp mộc mạc
và sức lôi cuốn đến lạ kỳ của nó.
Ngược lên phía Bắc, chúng ta
đến vùng cư trú khá tập trung của người Thái: Mai Sự - Mường La - Thuận
Châu và Quỳnh Nhai. Ngay tại thị xã Sơn La, chúng ta đã có dịp thưởng thức
rất nhiều điệu múa dân gian của dân tộc Thái do các đội văn nghệ của các bản thực
hiện. Sau khi xem các đội văn nghệ của bản biểu diễn, nhiều vị lãnh đạo từ Hà Nội
lên thăm Sơn La đã không tin được rằng: những diễn viên xinh đẹp và hát hay,
múa giỏi đó chính là những người nông dân chân lấm tay bùn, ngày ngày vẫn lao động
trên nương rẫy, dưới ruộng đồng. Chỉ đến khi cùng nắm tay diễn viên bước và
vòng Xoè mời nhận ra những vết chai cứng trong lòng bàn tay diễn viên.
Phải nói rằng: Múa là một
năng khiếu bẩm sinh của tộc người Thái, người ta múa từ khi còn trong bụng mẹ,
múa từ tuổi thơ cho đến khi đầu bạc. Chương trình biểu diễn của các đội văn nghệ
rất phong phú với các điệu múa của đủ mọi dân tộc, nhưng nhiều nhất vẫn là
các điệu múa Thái, đã được cải biên, dàn dựng gần giống với phương thức của
đoàn chuyên nghiệp. Nếu muốn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp nguyên bản của múa Thái,
chúng ta sẽ phải vượt qua sông Đà để đến huyện Quỳnh Nhai. Nơi đó, trước đây có
một Đội Xoè nổi tiếng với những cô gái Xoè đã từng về diễn tại Đấu Xảo- Hà nội(thời
Pháp chiếm đóng) và về dự Đại hội Văn công lần thứ nhất (năm 1955-
sau khi Hoà bình lập lại).
Những điệu múa đặc sắc
trong kho tàng 32 điệu múa Thái đã từng được nghiên cứu sưu tầm để trở thành
giáo án cho việc dạy múa dân gian của các cơ sở đào tạo múa, để trở thành tiết
mục múa của các đơn vị nghệ thuật từ Trung ương tới các địa phương, được đưa đi
biểu diễn tại nhiều nước trên thế giới.
Phần lớn các điệu múa đều có
sử dụng đạo cụ, thường là những vật dụng quen thuộc trong sinh hoạt để tạo nên
một vẻ đẹp dung dị, mang tính thẩm mỹ cao, như: múa Nón- múa Quạt - múa
Nhạc - múa Khăn... Có những điệu múa thể hiện cuộc sống trong sự
hoà hợp cùng thiên nhiên hùng vĩ và gần gũi, như: múa ""Khảm
hát"" (Vượt thác)- múa ""Kếp phắc"" (Hái
rau)- múa ""Nhúm hứa"" (Đẩy thuyền)- múa
""Tớ Cáy"" (Chọi gà)...Cũng có những điệu múa mang yếu
tố tâm linh, như: múa Hương- múa Nến... Đặc biệt, có điệu múa mang
tính triết lý thật ý nhị mà sâu sắc, đó là điệu múa ""Quát bó
héo"" (Gạt hoa tàn): Cô gái nhẹ nhàng uốn thân cùng với đôi
tay đung đưa nặng nề, mang một vẻ ngậm ngùi, xót thương... trong khi đó đôi
chân nhẹ nhàng gạt trên mặt đất. Điệu múa cho ta liên tưởng về thân phận người
phụ nữ Thái ngày xưa: Hoa nở rồi hoa tàn, hãy nâng niu vun vén những bông
hoa tàn với một tình yêu thương... Một điệu múa rất đáng ngợi ca, đó là điệu
múa Nón. Những động tác đặc sắc nhất của múa Nón Thái đã được bàn tay khéo léo
của cố NSND Đỗ Minh Tiến dàn dựng thành điệu múa""Mùa hoa ban nở"". Hình
tượng những chiếc Nón Thái như những cánh hoa, tạo thành bông hoa ban từ từ nở
ra, khép lại ở đoạn mở đầu và kết thúc tác phẩm, đã trở thành hình tượng gây
xúc cảm cho công chúng nghệ thuật Việt Nam và quốc tế. Đến nay, tác phẩm vẫn được
trình diễn trong các chương trình nghệ thuật chuyên nghiệp và tính đến năm 2007
, tác phẩm múa này vừa tròn 50 năm tồn tại trên sân khấu múa Việt Nam.
Thật là khó khăn khi phải nói về nghệ thuật múa dân gian của các dân tộc Sơn La
trong phạm vi một bài viết ngắn. Chỉ biết rằng: Nếu như hoa ban - hoa đào - hoa
""bó mạ""... là biểu tượng của các dân tộc ở Sơn La, thì những
điệu múa của họ cũng làm nên một vườn hoa muôn sắc và ngát hương, mang bản sắc
văn hoá độc đáo, vẻ đẹp tâm hồn trong sáng và thấm đẫm tình người...
Vũ Hoài
Nguồn: hoidantochoc.org.vn
eva air vn
cách mua vé máy bay đi mỹ
korean airline vietnam
vé máy bay từ sài gòn đi mỹ
vé máy bay đi canada tháng nào rẻ nhất
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich