Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2016

Sơn La: những điệu múa say đắm lòng người

Sơn La: những điệu múa say đắm lòng người
Sơn La - thủ phủ trước đây của Khu tự trị Tây Bắc - một miền quê được mệnh danh là xứ sở Hoa Ban nổi tiếng với những làn điệu dân ca say đắm lòng người, và đặc biệt là những điệu múa vừa dịu dàng tha thiết, vừa rộn ràng, sôi nổi…
Đến với Sơn La cảm nhận và gần gũi với những điệu múa dân gian cổ truyền… chúng ta như được hoà mình vào cuộc sống gắn bó với thiên nhiên của cộng đồng các dân tộc nơi đây.
Ngược đường số 6, chúng tôi đến thảo nguyên Mộc Châu  – nơi có hai dân tộc H’Mông và Dao cư trú khá tập trung. Nếu đúng dịp mùa xuân, ta sẽ ngỡ ngàng giữa màu hồng của rừng đào xen lẫn trong bạt ngàn màu trắng của hoa mận, nổi bật trên đồng cỏ xanh và những đồi chè phủ đầy búp non. Có lẽ cảnh đẹp thiên nhiên ấy đã là nguồn cảm hứng của người H’Mông để mùa xuân là mùa của lễ hội, là mùa giao duyên qua tiếng kèn lá của các cô gái, mùa “nhảy khèn” của các chàng trai.
Chỉ với một chiếc lá cây giản dị vậy mà các cô gái H’Mông đã thổi hồn vào đó, làm cho nó cất tiếng tâm tình: Ở trên cành là lá - đặt lên môi em thành lời/ Lời tâm tình dịu êm, từ trong con tim em vấn vương/ Gọi mùa xuân sang từ lung linh sắc hương/ Gọi tình yêu về từ lòng em… Say mê!
Và trong tiếng gọi của tình yêu như thế, các chàng trai cất lên tiếng khèn rập rìu, dồn dập… kèm theo những động tác múa thể hiện tài năng, sự khéo léo và cả sức dẻo dai: vừa thổi khèn liên tục, vừa quay tít nhiều vòng hoặc nhảy nhanh với những động tác chân phức tạp, có lúc lại lăn tròn dưới đất mà điệu khèn vẫn không dứt tiếng… Các nghệ nhân kể rằng: trước đây, trai tráng H’Mông còn thi tài quay trên lá chuối mà lá chuối không rách, quay trên đầu ba chiếc cọc gỗ nhỏ mà không ngã, thậm chí còn ly kỳ hơn: quay trên miếng ván bắc qua chảo nước nóng… Điểm độc đáo có một không hai của “nhảy khèn” là các động tác múa đều mang tính ngẫu hứng rất cao với sự sáng tạo phong phú đến bất ngờ của từng cá thể.
Ngày xưa các cô gái H‘Mông không có múa, nhưng ngày nay, từ giao thoa văn hoá và sức cuốn của phong trào, các cô gái cũng múa chẳng kém con trai; phổ biến nhất là điệu múa ô nổi tiếng: những chiếc ô màu sắc rực rỡ cứ xoay tròn, lên cao, xuống thấp, quấn quýt ôm lấy thân hình con gái tạo nên vẻ đẹp uyển chuyển và sinh động. Người phụ nữ H’Mông nổi tiếng về đức tính kiên trì nhẫn nại qua việc biến vỏ cây Lanh thành sợi tơ mềm mại để tạo nên những bộ trang phục lộng lẫy; và diều đó đã biến thành những động tác tước Lanh, quận sợi thật duyên dáng, mềm mại trong các điệu múa của họ.
Tạm biệt dân tộc H’Mông, đến với đồng bào Dao (ở Mộc Châu, đông nhất là nhánh Dao Tiền). Những lễ hội lớn nhỏ của dân tộc Dao gắn liền với cuộc sống trong suốt cả năm và luôn thấm đẫm văn hoá tâm linh về cội nguồn, về nhân sinh. Tiêu biểu nhất là Lễ cúng Bàn Vương (ông tổ của người Dao), Tết nhảy, Lễ ""Lập tịnh"", Lễ ""Quá tang""(qua đèn)... Trong đó, hình ảnh Ngọn đèn là biểu tượng tập trung, và cơn người luôn luôn là chủ thể, hoàn toàn không mang sắc mầu mê tín, dị đoan.
Đâu phải là cúng - cầu - khấn – vái; ""Ngọn đèn"" là nhân ảnh của ""Lửa thiêng"": Là sức mạnh như cây rừng, đá núi/ Là tình yêu tha thiết của tình đời/ Là trí tuệ hanh thông cùng năm tháng/ Được thắp lên trong mỗi con người.
Trong hầu hết những lễ hội ấy, các hình thức nhảy múa khác nhau đã được sử đụng, nhưng phổ biến nhất là điệu múa Chuông. Những chiếc chuông được lắc mạnh tạo thành nhịp đều đặn, những sợi tua mầu được tung lên, hạ xuống, lượn tròn thật nhịp nhàng, sinh động và đẹp mắt. Xem múa Chuông, ta có cảm giác như những chùm tua mầu tung tăng, nhảy nhót giữa không gian cùng tiếng chuông thôi thúc... như lòng người háo hức, hân hoan. Xem múa Chuông, người am hiểu nghệ thuật cũng phải thán phục vì người Dao Tiền đã tạo nên tiết tấu múa bằng nhịp 5/4 và nhịp 7/4 - đó là loại nhịp ""phức"" của âm nhạc hiện đại. Độc đáo hơn, từng loại nhịp (5/4 hoặc 7/4) lại không kéo dài mà thường đan cài với nhau thành từng cụm: cứ hai nhịp 5/4 lại đến một nhịp 7/4 và thỉnh thoảng lại xen vào một số nhịp 4/4 mở đầu cho các đoạn múa lớn. Tạm biệt Mộc Châu, sẽ còn nhớ mãi vùng Thảo nguyên tươi đẹp, nhớ mãi những điệu múa Khèn, múa Ô, múa Chuông độc đáo và hấp dẫn... Tiếp tục lên đường, sau khi vượt qua vô vàn khúc quanh của đèo dốc chúng ta sẽ đến Yên Châu- một địa danh đã trở nên quen thuộc với cả nước qua bài hát ""Người Châu Yên em bắn máy bay"" từ thời chống Mỹ cứu nước. Đứng trên sườn núi, ta đã nghe rộn ràng tiếng trống, tiếng cồng từ xa vọng tới, đó là âm điệu của Xoè vòng.
Xoè vòng là hình thức múa cộng đồng của dân tộc Thái nhưng người Yên Châu yêu thích và sử dụng điệu Xoè này thường xuyên nhất trong đời sống văn hoá tinh thần, đặc biệt trong giao tiếp và thể hiện niềm vui: Một ngày dân đón khách - Một ngày mùa bội thu- Một lễ mừng nhà mới- Một lễ đón dâu- Một niềm vui giản dị của mỗi gia đình...
Yên Châu còn là xứ sở của rượu cần, uống đến đâu lâng lâng đến đấy, thứ rượu có vị đăng đắng như bia chứ không ngọt lịm như rượn cần của Hoà Bình. Yên Châu có những nghệ nhân làm khèn, làm ""pí" và làm cồng rất giỏi. Thời chống Mỹ, vì thiếu đồng, có nghệ nhân còn gò được Cồng từ vở thùng xăng mà âm thanh vẫn vang, vẫn đẹp. Có lẽ vì thế, mà vòng Xoè ở Yên Châu bao giờ cũng đầy đủ ""lệ bộ"" hơn những bản mường khác.
Mọi người cầm tay nhau bước đi theo nhịp trống, nhịp cồng hoà cùng âm thanh của điệu khèn rộn rã... Chính giữa vòng Xoè là một chum rượu cần lớn với những ống hút toả rộng như những cành hơi, mời gọi người đến vít cần, chuốc rượu... Không phải ngẫu nhiên mà khung cảnh ấy, tình nghĩa ấy đã luôn luôn là khúc mở đầu đầy ấn tượng của những mối tình đằm thắm: Men rượu cần lan toả... Thoáng nghe hồn bay bay/Cho em hồng đôi má... Cho tình anh ngất ngây/ Nhịp trống chiêng rộn rã... Vòng xòe lướt phiêu diêu/ Để khăn ""Lêu""... cũng nghiêng vào trong gió/ Nhắn cùng anh là thương... Ngỏ cùng em lời yêu (Lời của một ca khúc)
Mang trong lòng ấn tượng về vòng Xoè và âm thanh của trống cồng... chỉ cần đi một đoạn đường ngắn là chúng ta có thể đến với tiếng ""Cống tốp""- một loại trống độc đáo của đồng bào Kh"Mú.
Khác với chiếc trống lớn được đánh bằng dùi trong những lễ hội lớn: Tiếng ""cống tốp""- (một loại trống nhỡ, vỗ bằng tay vào hai mặt trống) là tiếng trống đầm ấm của trai gái tộc người Kh" Mú. Bất cứ ở đâu, dù trong đêm trăng sáng hay bên ánh lửa hồng, tiếng trống cứ vang lên là con trai, con gái cùng háo hức bước chân, rạo rực nỗi lòng. Bởi trong tiếng trống đặc biệt ấy, họ tìm được bạn tình qua vũ điệu ""nộc Dung""(chim Công), một vũ điệu được cấu tạo qua con mắt thẩm mỹ rất độc đáo của người Kh" Mú từ ngàn xưa truyền lại. Trong vũ điệu, người Kh" Mú không miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy bên ngoài của chim Công mà họ tái hiện những cử chỉ của chúng thành những động tác múa sôi nổi, quyến rũ, lôi cuốn và gợi cảm ... Để vũ điệu trở thành mê say trong sự giao duyên đầy ý nhị của đầu, của vai, của mông, trong những bước chân nhịp nhàng, lẫn vào ánh trăng, hoà vào bóng núi, giữa bản mường quê hương.
Điệu múa ""AU EO"" của người Kh" Mú đã làm nên thành công của nhiều đơn vị, từ đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp đến các đội văn nghệ quần chúng bởi vẻ đẹp mộc mạc và sức lôi cuốn đến lạ kỳ của nó.
Ngược lên phía Bắc, chúng ta đến vùng cư trú khá tập trung của người Thái: Mai Sự - Mường La - Thuận Châu và Quỳnh Nhai. Ngay tại thị xã Sơn La, chúng ta đã có dịp thưởng thức rất nhiều điệu múa dân gian của dân tộc Thái do các đội văn nghệ của các bản thực hiện. Sau khi xem các đội văn nghệ của bản biểu diễn, nhiều vị lãnh đạo từ Hà Nội lên thăm Sơn La đã không tin được rằng: những diễn viên xinh đẹp và hát hay, múa giỏi đó chính là những người nông dân chân lấm tay bùn, ngày ngày vẫn lao động trên nương rẫy, dưới ruộng đồng. Chỉ đến khi cùng nắm tay diễn viên bước và vòng Xoè mời nhận ra những vết chai cứng trong lòng bàn tay diễn viên.
Phải nói rằng: Múa là một năng khiếu bẩm sinh của tộc người Thái, người ta múa từ khi còn trong bụng mẹ, múa từ tuổi thơ cho đến khi đầu bạc. Chương trình biểu diễn của các đội văn nghệ rất phong phú với các điệu múa của đủ mọi dân tộc, nhưng nhiều nhất vẫn là các điệu múa Thái, đã được cải biên, dàn dựng gần giống với phương thức của đoàn chuyên nghiệp. Nếu muốn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp nguyên bản của múa Thái, chúng ta sẽ phải vượt qua sông Đà để đến huyện Quỳnh Nhai. Nơi đó, trước đây có một Đội Xoè nổi tiếng với những cô gái Xoè đã từng về diễn tại Đấu Xảo- Hà nội(thời Pháp chiếm đóng) và về dự Đại hội Văn công lần thứ nhất (năm 1955- sau khi Hoà bình lập lại).
 Những điệu múa đặc sắc trong kho tàng 32 điệu múa Thái đã từng được nghiên cứu sưu tầm để trở thành giáo án cho việc dạy múa dân gian của các cơ sở đào tạo múa, để trở thành tiết mục múa của các đơn vị nghệ thuật từ Trung ương tới các địa phương, được đưa đi biểu diễn tại nhiều nước trên thế giới.
Phần lớn các điệu múa đều có sử dụng đạo cụ, thường là những vật dụng quen thuộc trong sinh hoạt để tạo nên một vẻ đẹp dung dị, mang tính thẩm mỹ cao, như: múa Nón- múa Quạt - múa Nhạc - múa Khăn... Có những điệu múa thể hiện cuộc sống trong sự hoà hợp cùng thiên nhiên hùng vĩ và gần gũi, như: múa ""Khảm hát"" (Vượt thác)- múa ""Kếp phắc"" (Hái rau)- múa ""Nhúm hứa"" (Đẩy thuyền)- múa ""Tớ Cáy"" (Chọi gà)...Cũng có những điệu múa mang yếu tố tâm linh, như: múa Hương- múa Nến... Đặc biệt, có điệu múa mang tính triết lý thật ý nhị mà sâu sắc, đó là điệu múa ""Quát bó héo"" (Gạt hoa tàn): Cô gái nhẹ nhàng uốn thân cùng với đôi tay đung đưa nặng nề, mang một vẻ ngậm ngùi, xót thương... trong khi đó đôi chân nhẹ nhàng gạt trên mặt đất. Điệu múa cho ta liên tưởng về thân phận người phụ nữ Thái ngày xưa: Hoa nở rồi hoa tàn, hãy nâng niu vun vén những bông hoa tàn với một tình yêu thương... Một điệu múa rất đáng ngợi ca, đó là điệu múa Nón. Những động tác đặc sắc nhất của múa Nón Thái đã được bàn tay khéo léo của cố NSND Đỗ Minh Tiến dàn dựng thành điệu múa""Mùa hoa ban nở"". Hình tượng những chiếc Nón Thái như những cánh hoa, tạo thành bông hoa ban từ từ nở ra, khép lại ở đoạn mở đầu và kết thúc tác phẩm, đã trở thành hình tượng gây xúc cảm cho công chúng nghệ thuật Việt Nam và quốc tế. Đến nay, tác phẩm vẫn được trình diễn trong các chương trình nghệ thuật chuyên nghiệp và tính đến năm 2007 , tác phẩm múa này vừa tròn 50 năm tồn tại trên sân khấu múa Việt Nam.
Thật là khó khăn khi phải nói về nghệ thuật múa dân gian của các dân tộc Sơn La trong phạm vi một bài viết ngắn. Chỉ biết rằng: Nếu như hoa ban - hoa đào - hoa ""bó mạ""... là biểu tượng của các dân tộc ở Sơn La, thì những điệu múa của họ cũng làm nên một vườn hoa muôn sắc và ngát hương, mang bản sắc văn hoá độc đáo, vẻ đẹp tâm hồn trong sáng và thấm đẫm tình người...
Vũ Hoài
Nguồn: hoidantochoc.org.vn 
Theo http://www.vusta.vn/


1 nhận xét:

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...