Alexandre Soljenitsyne:
Tác phẩm - Con người và cuộc đời
Tác phẩm - Con người và cuộc đời
Lời nói đầu
Giải thưởng Nobel dành cho nhà văn Nga Alexandre Soljenitsyne [1]?.
Vì sao chúng tôi xuất bản cuốn sách ghi lại cuộc tranh luận giữa nhà văn Soljenitsyne với Thư ký đoàn Hội Liên hiệp Các nhà văn Liên Xô?
Giải thưởng Văn chương Nobel 1970 được trao cho một con người, một nhà văn đặc biệt Alexandre Soljenitsyne, người Nga!
Và trao vì những lý do đặc biệt, Hàn lâm Viện Thụy Điển đã nhấn mạnh rằng giải thưởng Nobel được trao tặng cho Soljenitsyne vì toàn bộ tác phẩm của ông và sự im lặng không kém hùng hồn của một nhà văn phải câm nín vì miệng đã bị bịt lại! Lý do trao giải như vậy đã có nhiều ý nghĩa rồi. Phản ứng của nhà văn lại còn nhiều ý nghĩa hơn nữa.
Soljenitsyne tuyên bố rằng ông nhận giải và sẵn sàng đi lãnh giải! Nhận giải xong là ông sẽ trở về Nga để giam mình vào trong một sự cô lập nặng nề do chế độ bố trí xung quanh. Ông đã khước từ tất cả những vinh quang mà chế độ sẽ đem lại cho ông qua đề nghị mà lãnh tụ Kroutchev đã đưa ra khuyến cáo của một nhà văn Nga Cholokhov (giải Nobel 1965); khước từ luôn cái đề nghị “tự động lưu vong” cũng do chế độ đưa ra khi không thuyết phục được ông!
Soljenitsyne quyết đi lãnh giải và sau đó sẽ trở về lại, bất chấp phản ứng của chính quyền Nga là một cái gì thực sự có ý nghĩa khi ta nhớ lại rằng trước đây, nhà văn Boris Pasternak đã phải khước từ giải Nobel theo ý muốn của các lãnh tụ chính phủ Nga chỉ để được ở lại trên quê hương Nga! Soljenitsyne bất chấp phản ứng của chính quyền Nga và cũng quyết ở lại trên đất Nga!
Cái ý nghĩa ấy là văn phong Soljenitsyne, một văn phong quá độc đáo, quá khó có trong khung trời xã hội chủ nghĩa về chính trị và trong khuôn khổ của hiện thực xã hội chủ nghĩa về văn nghệ.
“Hãy nói rằng ở đây có một thiên tài số một của văn giới Nga. Thiên tài ấy là Soljenitsyne.”
Lời tuyên bố của một nhà văn, tác giả một tác phẩm lớn, Trong những chiến hào Stalingrad, giải thưởng Staline, nghĩa là nhà văn được chế độ chiều đãi một thời nhưng bây giờ đã can đảm tự phủ nhận mình bằng cách trốn vào rượu Vodka, nói về một nhà văn nguyên tù biệt xứ, và đang bị cô lập trong một thành phố nhỏ, một nhà văn bị các lãnh tụ văn nghệ của Đảng lên án là “làm hại uy tín chế độ nặng nề hơn Pasternak bi quan yếm thế, vì Soljenitsyne là một con người nhiều đấu tranh tính, tích cực và là người có tài”.
... Đủ cho phép ta nghĩ rằng văn phong Soljenitsyne phải có một cái gì đối đáp.
Hơn ai hết, chỉ có Soljenitsyne nhà văn Nga duy nhất dám trung thực với mình, dám coi bổn phận của nhà văn đối với một người cũng nặng nhưng kém bổn phận đối với xã hội. Soljenitsyne là nhà văn Nga duy nhất cho rằng nhà văn có một thiên chức nặng nề hơn thiên chức của nhà văn chiếu theo chủ nghĩa hiện thực xã hội làm gạch nối giữa hiện tại và thời gian vô thủy vô chung, đi sâu vào tâm duy và tư duy của con người trước cái chết và sự sống – những vấn đề đang đeo đẳng lấy đời sống của nhân loại từ bao giờ đến nay.
Hơn ai hết, Soljenitsyne phủ nhận nguyên tắc phải viết theo hướng đi lên khi đề cập đến đối tượng phục vụ của hiện thực xã hội chủ nghĩa và đòi hỏi nhà văn Nga phải đề cao và nối tiếp tinh thần hiện thực Nga: hướng đến quần chúng đau khổ và coi một ngày trong cuộc đời của một người nông dân Nga bình thường mà thôi cũng đủ là đề tài cho một tác phẩm lớn, chẳng khác gì “mấy chục thế kỷ của lịch sử Âu châu cũng chỉ đủ làm đề tài cho một tác phẩm theo Tolstoi.”
Chúng tôi muốn nói là văn phong Soljenitsyne là một văn phong tạo thành bởi yếu tố chính là sự tự do – Tự do hiểu theo ý nghĩa cao quý của nó, khác với danh từ Tự do, sản phẩm của chiến tranh lạnh giữa hai khối chính trị và kinh tế trên thế giới sau chiến tranh II.
Tự do, nơi con người của Soljenitsyne nhà văn có nghĩa là nhà văn phải giữ cho được một tư thế sáng tạo giữa hiện tại và thời gian vô cùng! Không thể chỉ biết hiện tại để cho tác phẩm thiếu cái giá trị dài hạn của nó, nếu không muốn nói là vĩnh cửu. Và cũng không thể coi nhẹ hiện tại mà chỉ biết thời gian thôi để cho tác phẩm èo ọt thiếu sinh khí, thiếu khả năng tác dụng đối với con người…
Thực vậy, nơi cuốn sách nhỏ này, lập trường, thái độ và tinh thần quả cảm của Soljenitsyne trước những ông tòa quyết định số phận của nhà văn và của tác phẩm là các ông nhà văn lãnh đạo Hội Liên hiệp Các nhà văn Xôviết đã làm nổi bật tinh thần quả cảm của một nhà văn – bắt buộc phải trung thực với mình, không được có cái thái độ gọi là “compromis” với những người tiêu biểu cho quyền uy, không ghép mình vào một tinh thần nguyên tắc cứng nhắc và phản bội lại mình…
Giải thưởng Nobel dành cho nhà văn Nga Alexandre Soljenitsyne [1]?.
Vì sao chúng tôi xuất bản cuốn sách ghi lại cuộc tranh luận giữa nhà văn Soljenitsyne với Thư ký đoàn Hội Liên hiệp Các nhà văn Liên Xô?
Giải thưởng Văn chương Nobel 1970 được trao cho một con người, một nhà văn đặc biệt Alexandre Soljenitsyne, người Nga!
Và trao vì những lý do đặc biệt, Hàn lâm Viện Thụy Điển đã nhấn mạnh rằng giải thưởng Nobel được trao tặng cho Soljenitsyne vì toàn bộ tác phẩm của ông và sự im lặng không kém hùng hồn của một nhà văn phải câm nín vì miệng đã bị bịt lại! Lý do trao giải như vậy đã có nhiều ý nghĩa rồi. Phản ứng của nhà văn lại còn nhiều ý nghĩa hơn nữa.
Soljenitsyne tuyên bố rằng ông nhận giải và sẵn sàng đi lãnh giải! Nhận giải xong là ông sẽ trở về Nga để giam mình vào trong một sự cô lập nặng nề do chế độ bố trí xung quanh. Ông đã khước từ tất cả những vinh quang mà chế độ sẽ đem lại cho ông qua đề nghị mà lãnh tụ Kroutchev đã đưa ra khuyến cáo của một nhà văn Nga Cholokhov (giải Nobel 1965); khước từ luôn cái đề nghị “tự động lưu vong” cũng do chế độ đưa ra khi không thuyết phục được ông!
Soljenitsyne quyết đi lãnh giải và sau đó sẽ trở về lại, bất chấp phản ứng của chính quyền Nga là một cái gì thực sự có ý nghĩa khi ta nhớ lại rằng trước đây, nhà văn Boris Pasternak đã phải khước từ giải Nobel theo ý muốn của các lãnh tụ chính phủ Nga chỉ để được ở lại trên quê hương Nga! Soljenitsyne bất chấp phản ứng của chính quyền Nga và cũng quyết ở lại trên đất Nga!
Cái ý nghĩa ấy là văn phong Soljenitsyne, một văn phong quá độc đáo, quá khó có trong khung trời xã hội chủ nghĩa về chính trị và trong khuôn khổ của hiện thực xã hội chủ nghĩa về văn nghệ.
“Hãy nói rằng ở đây có một thiên tài số một của văn giới Nga. Thiên tài ấy là Soljenitsyne.”
Lời tuyên bố của một nhà văn, tác giả một tác phẩm lớn, Trong những chiến hào Stalingrad, giải thưởng Staline, nghĩa là nhà văn được chế độ chiều đãi một thời nhưng bây giờ đã can đảm tự phủ nhận mình bằng cách trốn vào rượu Vodka, nói về một nhà văn nguyên tù biệt xứ, và đang bị cô lập trong một thành phố nhỏ, một nhà văn bị các lãnh tụ văn nghệ của Đảng lên án là “làm hại uy tín chế độ nặng nề hơn Pasternak bi quan yếm thế, vì Soljenitsyne là một con người nhiều đấu tranh tính, tích cực và là người có tài”.
... Đủ cho phép ta nghĩ rằng văn phong Soljenitsyne phải có một cái gì đối đáp.
Hơn ai hết, chỉ có Soljenitsyne nhà văn Nga duy nhất dám trung thực với mình, dám coi bổn phận của nhà văn đối với một người cũng nặng nhưng kém bổn phận đối với xã hội. Soljenitsyne là nhà văn Nga duy nhất cho rằng nhà văn có một thiên chức nặng nề hơn thiên chức của nhà văn chiếu theo chủ nghĩa hiện thực xã hội làm gạch nối giữa hiện tại và thời gian vô thủy vô chung, đi sâu vào tâm duy và tư duy của con người trước cái chết và sự sống – những vấn đề đang đeo đẳng lấy đời sống của nhân loại từ bao giờ đến nay.
Hơn ai hết, Soljenitsyne phủ nhận nguyên tắc phải viết theo hướng đi lên khi đề cập đến đối tượng phục vụ của hiện thực xã hội chủ nghĩa và đòi hỏi nhà văn Nga phải đề cao và nối tiếp tinh thần hiện thực Nga: hướng đến quần chúng đau khổ và coi một ngày trong cuộc đời của một người nông dân Nga bình thường mà thôi cũng đủ là đề tài cho một tác phẩm lớn, chẳng khác gì “mấy chục thế kỷ của lịch sử Âu châu cũng chỉ đủ làm đề tài cho một tác phẩm theo Tolstoi.”
Chúng tôi muốn nói là văn phong Soljenitsyne là một văn phong tạo thành bởi yếu tố chính là sự tự do – Tự do hiểu theo ý nghĩa cao quý của nó, khác với danh từ Tự do, sản phẩm của chiến tranh lạnh giữa hai khối chính trị và kinh tế trên thế giới sau chiến tranh II.
Tự do, nơi con người của Soljenitsyne nhà văn có nghĩa là nhà văn phải giữ cho được một tư thế sáng tạo giữa hiện tại và thời gian vô cùng! Không thể chỉ biết hiện tại để cho tác phẩm thiếu cái giá trị dài hạn của nó, nếu không muốn nói là vĩnh cửu. Và cũng không thể coi nhẹ hiện tại mà chỉ biết thời gian thôi để cho tác phẩm èo ọt thiếu sinh khí, thiếu khả năng tác dụng đối với con người…
Thực vậy, nơi cuốn sách nhỏ này, lập trường, thái độ và tinh thần quả cảm của Soljenitsyne trước những ông tòa quyết định số phận của nhà văn và của tác phẩm là các ông nhà văn lãnh đạo Hội Liên hiệp Các nhà văn Xôviết đã làm nổi bật tinh thần quả cảm của một nhà văn – bắt buộc phải trung thực với mình, không được có cái thái độ gọi là “compromis” với những người tiêu biểu cho quyền uy, không ghép mình vào một tinh thần nguyên tắc cứng nhắc và phản bội lại mình…
Nền văn nghệ Việt Nam – trong hiện tại – hình như đang bị lay chuyển bởi những
làn sóng băng hoại trong giai đoạn đại khủng hoảng của xã hội.
Ở bên kia sự sa sút của những nhà văn đã từng tạo cho Việt Nam những công trình nghệ thuật sống động, khởi sắc đã nói lên rõ ràng sự bế tắc của văn nghệ “hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu hạn chế, đề tài chật hẹp và nguồn cảm hứng khô cạn: Chỉ có đời sống và cuộc chiến đấu của vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng trong một sinh hoạt xã hội nhất thiết phải là hậu quả của sự đấu tranh giai cấp – đã làm cho nhà văn miền Bắc bị bế tắc trông thấy.
Nhà văn Bắc Việt cũng như nhà văn Nga rất hăng hái và vững vàng trong những cuộc diễn thuyết, trong những công trình biên khảo chứng minh nền văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa nhất định phải đẻ ra những tác phẩm rất giá trị, nhờ ánh sáng của chủ nghĩa chỉ đạo, nhưng lại không có tác phẩm giá trị, không có nhà văn viết nên những tác phẩm giá trị; ngoại trừ một vài tác phẩm viết trong cuộc kháng chiến chống Pháp mà nội dung không phải là lập trường vô sản, tinh thần giai cấp! Thơ Cải cách Ruộng đất của nhà văn đã đồng diễn tả cao trào lòng mến của thanh niên Việt Nam thời tiền chiến – Xuân Diệu – là một cái gì thực thê thảm, buồn bã, chẳng có qua một chút khí thế đấu tranh nào hết.
Soljenitsyne đã trả lời các nhà văn hiện thực xã hội Nga một cách lặng lẽ mà hết sức hùng hồn bằng tác phẩm. Bằng một quan điểm văn nghệ coi nhẹ vấn đề chế độ hay dân chủ nhẹ hơn con người, con người của mọi chế độ đang đau khổ.
Nhà văn miền Nam từ chối hiện thực xã hội chủ nghĩa nhưng lại bế tắc, không tìm đường hướng chỉ đạo cho sự sáng tạo những công trình có một giá trị toàn diện vĩnh cửu. Chẳng những thế mà thôi, giới văn nghệ miền Nam, trong cuộc khủng hoảng xã hội vì chiến cuộc kéo dài, hình như đã đánh mất nguồn cảm hứng – hay nói khác hơn – chưa tìm được vị trí thích đáng để tìm cảm hứng nên chỉ tạo được những nghệ phẩm kích thước quá nhỏ so với thiên chức, những nghệ phẩm phản ảnh tình trạng bế tắc tư tưởng và cô đơn về mặt tình cảm, cô đơn và chán chường…
… Và có thể tìm thấy nơi tập sách mỏng này một vài kinh nghiệm, một ý nghĩ có liên quan đến sứ mạng, đến thiên chức mà nhà văn Soljenitsyne đưa ra với dụng ý trao đổi… với giới cầm bút.
Những người xuất bản tập sách mỏng này quan niệm rằng những kinh nghiệm, những ý nghĩ của một nhà văn như Soljenitsyne, người đã vượt ngoài khuôn khổ của hiện thực xã hội chủ nghĩa không vì lý do chính trị và quyền lợi chính trị mà chỉ vì văn nghệ, vì thiên chức nhà văn mà thôi, người hoàn toàn tin tưởng ở đường hướng sáng tạo của mình và đường hướng này đã được tác phẩm đảm bảo giá trị – cũng đáng được người cầm bút nghiên cứu và suy nghĩ.
Bởi vì nghệ phẩm có giá trị đích thực và vĩnh cửu – nghĩa là có một khả năng truyền cảm mạnh mẽ trong hiện tại và khả năng truyền cảm ấy không phai lạt trong tương lai – chắc chắn phải là sản phẩm của một quan điểm sáng tạo đứng đắn của nhà văn có văn phong vững chãi.
Ở bên kia sự sa sút của những nhà văn đã từng tạo cho Việt Nam những công trình nghệ thuật sống động, khởi sắc đã nói lên rõ ràng sự bế tắc của văn nghệ “hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu hạn chế, đề tài chật hẹp và nguồn cảm hứng khô cạn: Chỉ có đời sống và cuộc chiến đấu của vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng trong một sinh hoạt xã hội nhất thiết phải là hậu quả của sự đấu tranh giai cấp – đã làm cho nhà văn miền Bắc bị bế tắc trông thấy.
Nhà văn Bắc Việt cũng như nhà văn Nga rất hăng hái và vững vàng trong những cuộc diễn thuyết, trong những công trình biên khảo chứng minh nền văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa nhất định phải đẻ ra những tác phẩm rất giá trị, nhờ ánh sáng của chủ nghĩa chỉ đạo, nhưng lại không có tác phẩm giá trị, không có nhà văn viết nên những tác phẩm giá trị; ngoại trừ một vài tác phẩm viết trong cuộc kháng chiến chống Pháp mà nội dung không phải là lập trường vô sản, tinh thần giai cấp! Thơ Cải cách Ruộng đất của nhà văn đã đồng diễn tả cao trào lòng mến của thanh niên Việt Nam thời tiền chiến – Xuân Diệu – là một cái gì thực thê thảm, buồn bã, chẳng có qua một chút khí thế đấu tranh nào hết.
Soljenitsyne đã trả lời các nhà văn hiện thực xã hội Nga một cách lặng lẽ mà hết sức hùng hồn bằng tác phẩm. Bằng một quan điểm văn nghệ coi nhẹ vấn đề chế độ hay dân chủ nhẹ hơn con người, con người của mọi chế độ đang đau khổ.
Nhà văn miền Nam từ chối hiện thực xã hội chủ nghĩa nhưng lại bế tắc, không tìm đường hướng chỉ đạo cho sự sáng tạo những công trình có một giá trị toàn diện vĩnh cửu. Chẳng những thế mà thôi, giới văn nghệ miền Nam, trong cuộc khủng hoảng xã hội vì chiến cuộc kéo dài, hình như đã đánh mất nguồn cảm hứng – hay nói khác hơn – chưa tìm được vị trí thích đáng để tìm cảm hứng nên chỉ tạo được những nghệ phẩm kích thước quá nhỏ so với thiên chức, những nghệ phẩm phản ảnh tình trạng bế tắc tư tưởng và cô đơn về mặt tình cảm, cô đơn và chán chường…
… Và có thể tìm thấy nơi tập sách mỏng này một vài kinh nghiệm, một ý nghĩ có liên quan đến sứ mạng, đến thiên chức mà nhà văn Soljenitsyne đưa ra với dụng ý trao đổi… với giới cầm bút.
Những người xuất bản tập sách mỏng này quan niệm rằng những kinh nghiệm, những ý nghĩ của một nhà văn như Soljenitsyne, người đã vượt ngoài khuôn khổ của hiện thực xã hội chủ nghĩa không vì lý do chính trị và quyền lợi chính trị mà chỉ vì văn nghệ, vì thiên chức nhà văn mà thôi, người hoàn toàn tin tưởng ở đường hướng sáng tạo của mình và đường hướng này đã được tác phẩm đảm bảo giá trị – cũng đáng được người cầm bút nghiên cứu và suy nghĩ.
Bởi vì nghệ phẩm có giá trị đích thực và vĩnh cửu – nghĩa là có một khả năng truyền cảm mạnh mẽ trong hiện tại và khả năng truyền cảm ấy không phai lạt trong tương lai – chắc chắn phải là sản phẩm của một quan điểm sáng tạo đứng đắn của nhà văn có văn phong vững chãi.
Ý nghĩa một giải thưởng
“Giải thưởng văn chương Nobel năm 1970 được dành cho ‘một sức mạnh đạo đức, tinh thần’ trước hết.”
Tuyên ngôn trên đây của Hội Hàn lâm Văn học Nghệ thuật Thụy Điển, cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện di chúc Alfred Nobel đã làm cho Giải thưởng Văn chương Nobel năm nay có một ý nghĩa đặc biệt. Đặc biệt vì Alexandre Soljenitsyne – nhà văn Nga được giải vì toàn bộ tác phẩm, không vì một tác phẩm riêng rẽ nào hết.
Ý nghĩa tưởng thưởng cho “sức mạnh đạo đức và tinh thần” của giải Nobel Văn chương 1970 lại càng nổi bật hơn nữa khi đối chiếu với hai giải Nobel Văn chương cũng được tặng cho hai nhà văn Nga:
- Boris Pasternak, nhà văn Nga bị chế độ Xôviết coi là chống đối sau một thời được đề cao, được thưởng vì tác phẩm Bác sĩ Jivago, một tác phẩm không phải là xuất sắc nhất trong sự nghiệp văn chương của tác giả.
- Mikhail Cholokhov, nhà văn được chế độ đề cao kể cả trong thời kỳ đại thanh trừng trước Thế chiến II được tặng giải thưởng Văn chương Nobel vì tài năng, căn cứ vào cuốn trường thiên tiểu thuyết Sông Don êm đềm.
Giữa ba nhà văn người Nga Boris Pasternak, Mikhail Cholokhov và Alexandre Soljenitsyne, nếu việc tặng giải thưởng cho cả Pasternak và Cholokhov có thể chứng tỏ được rằng vấn đề tư tưởng và lập trường chính trị của nhà văn không có ảnh hưởng gì đến giá trị của tác phẩm trước sự phẩm bình của các ông Hàn Thụy Điển… Thì việc tặng giải cho Pasternak vì cuốn Bác sĩ Jivago có thể nói là vô nghĩa so với quyết định trao giải Nobel cho Alexandre Soljenitsyne.
Nói một cách khác, việc tặng giải cho Soljenitsyne lần này có ý nghĩa như một sự thừa nhận sai lầm của các ông Hàn Thụy Điển khi tưởng thưởng Pasternak chỉ vì cuốn Bác sĩ Jivago!
Bởi nói đến Alexandre Soljenitsyne, không phải là chỉ nói đến cuốn Nhóm thứ nhứt (Le premier Cercle). Victor Hugo, trong những ngày lưu vong ở Guernesey, đâu có phải chỉ là tác giả của cuốn Hermani? Bạch Cư Dị ở bến Tầm Dương đâu có phải là tác giả của bài “Tỳ bà hành” duy nhất?
Cho nên khi nhấn mạnh đến “sức mạnh tinh thần”, quyết định của Hội Hàn lâm Thụy Điển không phải chỉ có ý nghĩa của một tác động văn chương thuần túy? Nó còn là một tác động chính trị, theo ý nghĩa cao đẹp của danh từ.
Tại sao văn chương, rốt cuộc quyết định tự lưu đày? Một khi nhà văn bị thúc đẩy đến chỗ phải im lặng – Các ông Hàn Thụy Điển đã suy nghĩ – tại sao lại không đem hào quang sáng chói khoác lên sự im lặng ấy? Tại sao không?
Giải Nobel Văn chương sôi nổi năm 1970 đã chứng tỏ rằng:
“Không có gì hùng hồn hơn một người bịt miệng”.
“Giải thưởng văn chương Nobel năm 1970 được dành cho ‘một sức mạnh đạo đức, tinh thần’ trước hết.”
Tuyên ngôn trên đây của Hội Hàn lâm Văn học Nghệ thuật Thụy Điển, cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện di chúc Alfred Nobel đã làm cho Giải thưởng Văn chương Nobel năm nay có một ý nghĩa đặc biệt. Đặc biệt vì Alexandre Soljenitsyne – nhà văn Nga được giải vì toàn bộ tác phẩm, không vì một tác phẩm riêng rẽ nào hết.
Ý nghĩa tưởng thưởng cho “sức mạnh đạo đức và tinh thần” của giải Nobel Văn chương 1970 lại càng nổi bật hơn nữa khi đối chiếu với hai giải Nobel Văn chương cũng được tặng cho hai nhà văn Nga:
- Boris Pasternak, nhà văn Nga bị chế độ Xôviết coi là chống đối sau một thời được đề cao, được thưởng vì tác phẩm Bác sĩ Jivago, một tác phẩm không phải là xuất sắc nhất trong sự nghiệp văn chương của tác giả.
- Mikhail Cholokhov, nhà văn được chế độ đề cao kể cả trong thời kỳ đại thanh trừng trước Thế chiến II được tặng giải thưởng Văn chương Nobel vì tài năng, căn cứ vào cuốn trường thiên tiểu thuyết Sông Don êm đềm.
Giữa ba nhà văn người Nga Boris Pasternak, Mikhail Cholokhov và Alexandre Soljenitsyne, nếu việc tặng giải thưởng cho cả Pasternak và Cholokhov có thể chứng tỏ được rằng vấn đề tư tưởng và lập trường chính trị của nhà văn không có ảnh hưởng gì đến giá trị của tác phẩm trước sự phẩm bình của các ông Hàn Thụy Điển… Thì việc tặng giải cho Pasternak vì cuốn Bác sĩ Jivago có thể nói là vô nghĩa so với quyết định trao giải Nobel cho Alexandre Soljenitsyne.
Nói một cách khác, việc tặng giải cho Soljenitsyne lần này có ý nghĩa như một sự thừa nhận sai lầm của các ông Hàn Thụy Điển khi tưởng thưởng Pasternak chỉ vì cuốn Bác sĩ Jivago!
Bởi nói đến Alexandre Soljenitsyne, không phải là chỉ nói đến cuốn Nhóm thứ nhứt (Le premier Cercle). Victor Hugo, trong những ngày lưu vong ở Guernesey, đâu có phải chỉ là tác giả của cuốn Hermani? Bạch Cư Dị ở bến Tầm Dương đâu có phải là tác giả của bài “Tỳ bà hành” duy nhất?
Cho nên khi nhấn mạnh đến “sức mạnh tinh thần”, quyết định của Hội Hàn lâm Thụy Điển không phải chỉ có ý nghĩa của một tác động văn chương thuần túy? Nó còn là một tác động chính trị, theo ý nghĩa cao đẹp của danh từ.
Tại sao văn chương, rốt cuộc quyết định tự lưu đày? Một khi nhà văn bị thúc đẩy đến chỗ phải im lặng – Các ông Hàn Thụy Điển đã suy nghĩ – tại sao lại không đem hào quang sáng chói khoác lên sự im lặng ấy? Tại sao không?
Giải Nobel Văn chương sôi nổi năm 1970 đã chứng tỏ rằng:
“Không có gì hùng hồn hơn một người bịt miệng”.
Soljenitsyne với giải Văn chương Nobel khoác lên tác phẩm là một người hùng hồn
hơn ai hết, năm 1970!
Nhưng trong đời sống, Alexandre đã cô độc một cách ghê gớm tưởng như chưa có ai bằng, ở giữa đồng bào ruột thịt của ông tại một thị trấn chỉ cách thủ đô Mạc Tư Khoa khoảng 180 cây số, một khoảng cách vô nghĩa đối với thế giới ngày hôm nay. Lá thư cuối cùng viết cho nhà xuất bản Christian Bourgois viết:
“Không có một lá thư nào trong số những lá thư bạn gởi trước đây đến tay tôi hết! Và tôi cũng chỉ được biết rằng, ở Pháp, người ta có tặng cho tôi một giải thưởng qua các đài phát thanh Tây phương.”
Tiết lộ một sự thực trên, Soljenitsyne đã phải trả bằng một giá như thế nào?
Người ta sẽ tưởng tượng được khi biết rằng Alexandre Soljenitsyne là một người Nga thuần túy, Nga từ chân tơ kẽ tóc. Ông không nói một ngoại ngữ nào hết. Ngôn ngữ của ông là một thế giới mênh mông, tuyệt đối, một toàn thể. Bên cạnh ngành kiểm duyệt và theo dõi kiểm soát đã tạo nên xung quanh ông một khoảng không trống rỗng, chính Alexandre Soljenitsyne cũng đã từ chối thế giới bên ngoài không biến thành con người đúng với ý muốn của kẻ thù.
Soljenitsyne không biết và cũng không muốn biết những gì thiên hạ nói về mình. Trong những lá thư ngắn gửi cho bạn bè, Soljenitsyne chỉ yêu cầu bạn bè giúp cho ông một thứ: giấy viết thư và bút nguyên tử; vậy mà những món quà ấy chưa bao giờ đến tay ông.
Nhưng Soljenitsyne vẫn viết, viết như điên từ sáng đến tối, ngày này qua ngày khác, tại thành phố lưu đày Razian. Viết và chỉ biết có viết mà thôi! Còn các thư bản tác phẩm của ông vì sao mà bay ra ngoại quốc, có nhiều khi nguyên văn còn bị xuyên tạc rồi dịch lén… là một chuyện Soljenitsyne không hề hay biết!
Lý do: Một vài tác phẩm của ông viết ra rồi cho bạn bè coi và được bạn chép lại rồi thiên hạ chép chuyền sau đó và cuối cùng lan ra khắp nước Nga! Cụ thể hơn nữa, người ta được biết ít nhất cũng có một cuốn của Soljenitsyne, bản viết tay bị tịch thu, quê nhà bị mật vụ xét… sau đó ít lâu được ấn hành ở Tây phương… Những sự kiện như vậy cũng là yếu tố làm cho Soljenitsyne, ngày nọ sang ngày kia, tự gian mình vào trong cô độc và nghi ngờ.
Có thể nói rằng, trên thế giới này, chưa ai đơn độc bằng Alexandre Soljenitsyne. Nếu Razian, một thành phố cách Moscon chừng 180 cây số về phía Nam, là ngôi mộ văn chương mà Soljenitsyne đã chọn thì thành phố này là nơi mà dân tộc Nga đã gửi gắm con người mang cả một tâm hồn nó, nó sống trong câm nín, tuy Soljenitsyne là tiếng nói của dân tộc Nga.
Nhà báo Jean Francois Kalm đã kể lại câu chuyện sau:
Hai năm trước đây, tại Ukraine, Kalm đã được gặp Victor Nekrassov, nhà văn được giải thưởng Staline, tác giả một trong những tác phẩm giá trị nhất thời hậu chiến cuốn: Dưới các chiến hào Stalingrad. Ở Nga, được giải thưởng văn chương Staline, với một nhà văn, có nghĩa là được hưởng những ân sủng đặc biệt về vật chất cũng như tinh thần; chính sách của các nước xã hội, nhất là Nga coi các nhà văn có giá trị, các nhà bác học có chân trong Viện Hàn lâm là hai trong năm bộ phận được đãi ngộ đặc biệt, ba thành phần kia là Trung ương Ủy viên Đảng, Tổng Bộ trưởng trong Chính phủ và Thống chế Đại tướng Hồng quân. Nhưng Victor Nekrassov năm 1968 không còn là nhà văn danh tiếng, được chế độ chiều đãi mà là một con người tàn tạ, xơ xác. Nekrassov nói rất nhiều nhưng tiếng nói lè nhè sặc mùi rượu Vodka và đầy chất chán chường rơi đều đều mất hút đi. Từ một câu nói – đúng hơn là một lời kêu gào – rõ rệt gãy gọn nổi bật trên những tiếng nói cười, ồn ào loạn xạ, rất trong trẻo.
“Hãy nói lớn, nói rõ rằng ở đây, chúng tôi có một nhà văn, nhà văn lớn nhất, y tên Soljenitsyne.”
Tại Moscou Kalm cũng gặp tại Câu lạc bộ các Nhà văn một cây bút khác, khuôn mặt còn trẻ trung, chưa già cỗi và chán chường như Nekrassov. Đấy là nhà thơ Andrei Voznessenski, không gào lớn, nhưng lời than nho nhỏ của nhà thơ cũng sâu không kém gì lời kêu gào của nhà tiểu thuyết, Andrei Voznessenski chép miệng:
“Phải, nhà văn lớn nhất của chúng tôi là Soljenitsyne.”
Nếu sự nhận chân giá trị của Soljenitsyne do các nhà văn nghệ vốn phải kiêu hãnh hơn đời chưa đủ để nêu bật tư thế của nhà văn được giải Nobel Văn chương năm nay vì những lý do mà Viện Hàn lâm Văn học Nghệ thuật đã nêu ra thì chúng tôi thiết tưởng việc giới thiệu lại đây ý kiến của lãnh tụ Đảng Cộng sản Nikita Kroutchev cũng không đến nỗi thừa.
Theo lời khuyên của Michail Cholokhov – nhà văn được thưởng giải Nobel Văn chương 1965 chỉ vì tài năng, và là một nhà văn được nhà nước qua mấy lần đổi thay vẫn tín nhiệm, Nikita Kroutchev đã kêu gọi Soljenitsyne: Chỉ cần nói lên một tiếng thôi, anh sẽ có đủ tất cả hào quang danh vọng, đãi ngộ xứng đáng.
Lúc bấy giờ Alexandre Soljenitsyne vừa xong cuốn Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch. Trong tác phẩm này, tố cáo – đúng hơn là Soljenitsyne chỉ kể lại mà thôi, nhưng kể mới tai hại hơn – đời sống trong các trại tập trung thời Staline.
Đối với ông Kroutchev – lúc bấy giờ đang tiến hành việc tranh đấu loại trừ nhóm chống Đảng, tác phẩm của Soljenitsyne quả là một món quà bất ngờ giá trị! Chỉ cần Soljenitsyne dừng lại nơi đây để biến thành một thứ phản động phục vụ cho Đảng.
Nhưng Soljenitsyne đã không dừng lại. Ông muốn giữ tư cách là tù nhân số 232. Số hiệu tù nhận được tại “căng” mà Soljenitsyne bị ném vào giữa lúc chiến tranh Nga – Đức đang ở vào thời kỳ gay go, ông đã phải mang trên mũi kết, trước ngực, sau lưng, trên cánh tay và nhất là mang ở một nơi ít lộ liễu nhất nhưng nặng nhất – là tâm hồn. Năm năm sau, Alexandre Soljenitsyne đã gởi cho Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô một bản cáo trạng chống lại chế độ kiểm duyệt.
“Một nền văn học nghệ thuật không phải là hơi thở một xã hội đương thời, không dám phản ảnh những nỗi cơ cực và những mối ưu tư của dân chúng; không dám lên tiếng báo động với xã hội cái nguy cơ… sẽ không xứng đáng với danh nghĩa văn học nghệ thuật”
Các ông “bầu” của nền văn hoá Liên Xô đã phản ứng một cách tế nhị. Cùng đồng thanh lên tiếng tuyên bố rằng Alexandre Soljenitsyne không còn là một nhà văn Xôviết nữa. Hồn ma của nhà văn bên kia đáp lại:
“Rằng hãy chùi sạch mặt đồng hồ đi, các anh không ngờ rằng bên ngoài, trời đã sáng.”
Alexandre Soljenitsyne, con người sống sót vĩnh viễn được tạp chí Xôviết Tháng Mười gọi là “kẻ đi kiếm thùng rác”, có phải là một nhà cách mạng”, một người cộng sản lương thiện ghê tởm những lệch lạc xã hội chủ nghĩa hay không?
Hình ảnh của Soljenitsyne, người hùng “nhờ cách mạng, người cộng sản lương thiện ghê tởm những lệch lạc của xã hội chủ nghĩa”, ngự trị trong đầu óc của giới trí thức tả khuynh Âu Tây, ngày nay lại được vị Thư ký Viện Hàn lâm Thụy Điển sử dụng để nói về người được giải!
Nhận định này quả thực là sản phẩm của một ảo ảnh có hai mặt phải trái độc đáo và điển hình: Gustave Flaubert đã không tiến bộ mà còn là một nhà văn cực đoan bảo thủ!
Sự thực là Soljenitsyne “xăng phú” chủ nghĩa xã hội, không chống mà cũng không theo. Đấy không phải là vấn đề của Soljenitsyne!
Vả chăng lại, Alexandre Soljenitsyne đã phủ nhận quyền uy của các nhân danh những giá trị được tàng trữ nơi các Cung Thánh cũ kỹ của nước Nga cổ. Trong một bài thơ viết theo lối văn biền ngẫu sáng tác riêng không phổ biến, Soljenitsyne viết:
“Con người thường gian tham và thường hay chứa chấp trong lòng nhiều hận thù. Nhưng trước kia, họ còn được nghe tiếng chuông chiều, chính tiếng chuông ấy đã ngăn cản con người mềm yếu để thành thú vật.”
Và cuối cùng, Soljenitsyne có phải là người phản động chút xíu hay không? Thực tế trả lời.
Nếu Soljenitsyne chỉ quan tâm đến “những tương quan giữa thời đại này với thời gian không cùng”.
Nếu Soljenitsyne đã tìm thấy con người của ông nơi nhân vật Efrem Podoluev trong tác phẩm Trại [của nhà thương] Ung thư (Pavillon des Caneéreux) con người tìm lại được ý nghĩa của đời sống không nơi tích chất mơ hồ tiêu cực của các lý thuyết mà nơi gánh nặng của sự đau đớn và sự thu hút của cái chết có hiệu năng tẩy xóa đời sống buồn nản và đều được mẫu mực, không dành một chỗ nào hết cho những gì là huyền bí…
Thì các ông có phải là người có phản động chút xíu không?
Và nếu phải đi chăng nữa thì có những thay đổi nào?
Soljenitsyne đã đẩy mạnh ý chủ biến nghịch với lý thuyết Đảng xuyên qua việc phục hồi lại một phần danh dự cho những người Nga đã phục vụ trong binh đoàn Vlassov (tên một Đại tướng Nga có huy chương danh dự đã đầu hàng Đức để lập một đạo quân đánh lại Staline trong một vở kịch. Chính mật vụ K.B.G. đã vớ được kịch bản này và dùng nó làm chứng cớ buộc tội Soljenitsyne).
Nhưng điều này chẳng có gì là quan hệ. Điều đáng nói là ở Nga, với tất cả những ai có công trình sáng tạo và những kẻ muốn có. Alexandre Soljenitsyne là một người tự do. Tự do một cách giản dị và cụ thể.
Nghĩa là một con người ngoài một dũng chí hết sức lớn – còn có thiên tài, một thiên tài nào đó (un “certain génie”).
Thiên tài ấy như thế nào?
Trong cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch, tù nhân số M. 854, một nông dân Nga bình dị bị bắt năm 1942, vượt ngục và bị ném vào trại tập trung, vì không biết nói với các “xếp” rằng y chỉ đi vòng vòng trong rừng mà lại đi kể thực về chuyện y đã trốn khỏi một trại quân của Đức – là người như thế nào?
Một tù nhân bình thường sống sót một cách bình thường tại một trại tập trung bình thường. Nhưng đấy từ con người của mọi người chúng ta bị đe dọa, gần như hàng giờ, bởi sự bạo tàn mà ta đã cảm thấy lại, khi bị lưu đày ra khỏi con người của ta.
Đấy cũng là sự đe dọa của Dostoievski trong cuốn Ngôi nhà của những người chết.
Ngày của Choukhov, 24 giờ trong một căn nhà gỗ giữa các hàng rào thép gai và chòi canh theo Soljenitsyne viết trong những dòng cuối cùng của cuốn truyện, là “một ngày gần như sung sướng”. Là thời gian chỉ đủ để thấy một ông già, hàm mất hết răng để trơ lợi ra hiện diện ở đây từ vạn cổ và được tất cả mọi lệnh ân xá tránh né”. Giữa những chiếc lưng cong của trại, Chuokhov thấy lưng đặc biệt thẳng của mình nổi bật. Khi hắn ngồi vào bàn, mọi người có cảm tưởng là có một cái gì kê trên chiếc ghế khiến cho hắn ngồi cao hơn lên…”.
Người già nói trên… chính là người các ông Hàn Thụy Điển đang tìm kiếm.
Nhưng trong đời sống, Alexandre đã cô độc một cách ghê gớm tưởng như chưa có ai bằng, ở giữa đồng bào ruột thịt của ông tại một thị trấn chỉ cách thủ đô Mạc Tư Khoa khoảng 180 cây số, một khoảng cách vô nghĩa đối với thế giới ngày hôm nay. Lá thư cuối cùng viết cho nhà xuất bản Christian Bourgois viết:
“Không có một lá thư nào trong số những lá thư bạn gởi trước đây đến tay tôi hết! Và tôi cũng chỉ được biết rằng, ở Pháp, người ta có tặng cho tôi một giải thưởng qua các đài phát thanh Tây phương.”
Tiết lộ một sự thực trên, Soljenitsyne đã phải trả bằng một giá như thế nào?
Người ta sẽ tưởng tượng được khi biết rằng Alexandre Soljenitsyne là một người Nga thuần túy, Nga từ chân tơ kẽ tóc. Ông không nói một ngoại ngữ nào hết. Ngôn ngữ của ông là một thế giới mênh mông, tuyệt đối, một toàn thể. Bên cạnh ngành kiểm duyệt và theo dõi kiểm soát đã tạo nên xung quanh ông một khoảng không trống rỗng, chính Alexandre Soljenitsyne cũng đã từ chối thế giới bên ngoài không biến thành con người đúng với ý muốn của kẻ thù.
Soljenitsyne không biết và cũng không muốn biết những gì thiên hạ nói về mình. Trong những lá thư ngắn gửi cho bạn bè, Soljenitsyne chỉ yêu cầu bạn bè giúp cho ông một thứ: giấy viết thư và bút nguyên tử; vậy mà những món quà ấy chưa bao giờ đến tay ông.
Nhưng Soljenitsyne vẫn viết, viết như điên từ sáng đến tối, ngày này qua ngày khác, tại thành phố lưu đày Razian. Viết và chỉ biết có viết mà thôi! Còn các thư bản tác phẩm của ông vì sao mà bay ra ngoại quốc, có nhiều khi nguyên văn còn bị xuyên tạc rồi dịch lén… là một chuyện Soljenitsyne không hề hay biết!
Lý do: Một vài tác phẩm của ông viết ra rồi cho bạn bè coi và được bạn chép lại rồi thiên hạ chép chuyền sau đó và cuối cùng lan ra khắp nước Nga! Cụ thể hơn nữa, người ta được biết ít nhất cũng có một cuốn của Soljenitsyne, bản viết tay bị tịch thu, quê nhà bị mật vụ xét… sau đó ít lâu được ấn hành ở Tây phương… Những sự kiện như vậy cũng là yếu tố làm cho Soljenitsyne, ngày nọ sang ngày kia, tự gian mình vào trong cô độc và nghi ngờ.
Có thể nói rằng, trên thế giới này, chưa ai đơn độc bằng Alexandre Soljenitsyne. Nếu Razian, một thành phố cách Moscon chừng 180 cây số về phía Nam, là ngôi mộ văn chương mà Soljenitsyne đã chọn thì thành phố này là nơi mà dân tộc Nga đã gửi gắm con người mang cả một tâm hồn nó, nó sống trong câm nín, tuy Soljenitsyne là tiếng nói của dân tộc Nga.
Nhà báo Jean Francois Kalm đã kể lại câu chuyện sau:
Hai năm trước đây, tại Ukraine, Kalm đã được gặp Victor Nekrassov, nhà văn được giải thưởng Staline, tác giả một trong những tác phẩm giá trị nhất thời hậu chiến cuốn: Dưới các chiến hào Stalingrad. Ở Nga, được giải thưởng văn chương Staline, với một nhà văn, có nghĩa là được hưởng những ân sủng đặc biệt về vật chất cũng như tinh thần; chính sách của các nước xã hội, nhất là Nga coi các nhà văn có giá trị, các nhà bác học có chân trong Viện Hàn lâm là hai trong năm bộ phận được đãi ngộ đặc biệt, ba thành phần kia là Trung ương Ủy viên Đảng, Tổng Bộ trưởng trong Chính phủ và Thống chế Đại tướng Hồng quân. Nhưng Victor Nekrassov năm 1968 không còn là nhà văn danh tiếng, được chế độ chiều đãi mà là một con người tàn tạ, xơ xác. Nekrassov nói rất nhiều nhưng tiếng nói lè nhè sặc mùi rượu Vodka và đầy chất chán chường rơi đều đều mất hút đi. Từ một câu nói – đúng hơn là một lời kêu gào – rõ rệt gãy gọn nổi bật trên những tiếng nói cười, ồn ào loạn xạ, rất trong trẻo.
“Hãy nói lớn, nói rõ rằng ở đây, chúng tôi có một nhà văn, nhà văn lớn nhất, y tên Soljenitsyne.”
Tại Moscou Kalm cũng gặp tại Câu lạc bộ các Nhà văn một cây bút khác, khuôn mặt còn trẻ trung, chưa già cỗi và chán chường như Nekrassov. Đấy là nhà thơ Andrei Voznessenski, không gào lớn, nhưng lời than nho nhỏ của nhà thơ cũng sâu không kém gì lời kêu gào của nhà tiểu thuyết, Andrei Voznessenski chép miệng:
“Phải, nhà văn lớn nhất của chúng tôi là Soljenitsyne.”
Nếu sự nhận chân giá trị của Soljenitsyne do các nhà văn nghệ vốn phải kiêu hãnh hơn đời chưa đủ để nêu bật tư thế của nhà văn được giải Nobel Văn chương năm nay vì những lý do mà Viện Hàn lâm Văn học Nghệ thuật đã nêu ra thì chúng tôi thiết tưởng việc giới thiệu lại đây ý kiến của lãnh tụ Đảng Cộng sản Nikita Kroutchev cũng không đến nỗi thừa.
Theo lời khuyên của Michail Cholokhov – nhà văn được thưởng giải Nobel Văn chương 1965 chỉ vì tài năng, và là một nhà văn được nhà nước qua mấy lần đổi thay vẫn tín nhiệm, Nikita Kroutchev đã kêu gọi Soljenitsyne: Chỉ cần nói lên một tiếng thôi, anh sẽ có đủ tất cả hào quang danh vọng, đãi ngộ xứng đáng.
Lúc bấy giờ Alexandre Soljenitsyne vừa xong cuốn Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch. Trong tác phẩm này, tố cáo – đúng hơn là Soljenitsyne chỉ kể lại mà thôi, nhưng kể mới tai hại hơn – đời sống trong các trại tập trung thời Staline.
Đối với ông Kroutchev – lúc bấy giờ đang tiến hành việc tranh đấu loại trừ nhóm chống Đảng, tác phẩm của Soljenitsyne quả là một món quà bất ngờ giá trị! Chỉ cần Soljenitsyne dừng lại nơi đây để biến thành một thứ phản động phục vụ cho Đảng.
Nhưng Soljenitsyne đã không dừng lại. Ông muốn giữ tư cách là tù nhân số 232. Số hiệu tù nhận được tại “căng” mà Soljenitsyne bị ném vào giữa lúc chiến tranh Nga – Đức đang ở vào thời kỳ gay go, ông đã phải mang trên mũi kết, trước ngực, sau lưng, trên cánh tay và nhất là mang ở một nơi ít lộ liễu nhất nhưng nặng nhất – là tâm hồn. Năm năm sau, Alexandre Soljenitsyne đã gởi cho Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô một bản cáo trạng chống lại chế độ kiểm duyệt.
“Một nền văn học nghệ thuật không phải là hơi thở một xã hội đương thời, không dám phản ảnh những nỗi cơ cực và những mối ưu tư của dân chúng; không dám lên tiếng báo động với xã hội cái nguy cơ… sẽ không xứng đáng với danh nghĩa văn học nghệ thuật”
Các ông “bầu” của nền văn hoá Liên Xô đã phản ứng một cách tế nhị. Cùng đồng thanh lên tiếng tuyên bố rằng Alexandre Soljenitsyne không còn là một nhà văn Xôviết nữa. Hồn ma của nhà văn bên kia đáp lại:
“Rằng hãy chùi sạch mặt đồng hồ đi, các anh không ngờ rằng bên ngoài, trời đã sáng.”
Alexandre Soljenitsyne, con người sống sót vĩnh viễn được tạp chí Xôviết Tháng Mười gọi là “kẻ đi kiếm thùng rác”, có phải là một nhà cách mạng”, một người cộng sản lương thiện ghê tởm những lệch lạc xã hội chủ nghĩa hay không?
Hình ảnh của Soljenitsyne, người hùng “nhờ cách mạng, người cộng sản lương thiện ghê tởm những lệch lạc của xã hội chủ nghĩa”, ngự trị trong đầu óc của giới trí thức tả khuynh Âu Tây, ngày nay lại được vị Thư ký Viện Hàn lâm Thụy Điển sử dụng để nói về người được giải!
Nhận định này quả thực là sản phẩm của một ảo ảnh có hai mặt phải trái độc đáo và điển hình: Gustave Flaubert đã không tiến bộ mà còn là một nhà văn cực đoan bảo thủ!
Sự thực là Soljenitsyne “xăng phú” chủ nghĩa xã hội, không chống mà cũng không theo. Đấy không phải là vấn đề của Soljenitsyne!
Vả chăng lại, Alexandre Soljenitsyne đã phủ nhận quyền uy của các nhân danh những giá trị được tàng trữ nơi các Cung Thánh cũ kỹ của nước Nga cổ. Trong một bài thơ viết theo lối văn biền ngẫu sáng tác riêng không phổ biến, Soljenitsyne viết:
“Con người thường gian tham và thường hay chứa chấp trong lòng nhiều hận thù. Nhưng trước kia, họ còn được nghe tiếng chuông chiều, chính tiếng chuông ấy đã ngăn cản con người mềm yếu để thành thú vật.”
Và cuối cùng, Soljenitsyne có phải là người phản động chút xíu hay không? Thực tế trả lời.
Nếu Soljenitsyne chỉ quan tâm đến “những tương quan giữa thời đại này với thời gian không cùng”.
Nếu Soljenitsyne đã tìm thấy con người của ông nơi nhân vật Efrem Podoluev trong tác phẩm Trại [của nhà thương] Ung thư (Pavillon des Caneéreux) con người tìm lại được ý nghĩa của đời sống không nơi tích chất mơ hồ tiêu cực của các lý thuyết mà nơi gánh nặng của sự đau đớn và sự thu hút của cái chết có hiệu năng tẩy xóa đời sống buồn nản và đều được mẫu mực, không dành một chỗ nào hết cho những gì là huyền bí…
Thì các ông có phải là người có phản động chút xíu không?
Và nếu phải đi chăng nữa thì có những thay đổi nào?
Soljenitsyne đã đẩy mạnh ý chủ biến nghịch với lý thuyết Đảng xuyên qua việc phục hồi lại một phần danh dự cho những người Nga đã phục vụ trong binh đoàn Vlassov (tên một Đại tướng Nga có huy chương danh dự đã đầu hàng Đức để lập một đạo quân đánh lại Staline trong một vở kịch. Chính mật vụ K.B.G. đã vớ được kịch bản này và dùng nó làm chứng cớ buộc tội Soljenitsyne).
Nhưng điều này chẳng có gì là quan hệ. Điều đáng nói là ở Nga, với tất cả những ai có công trình sáng tạo và những kẻ muốn có. Alexandre Soljenitsyne là một người tự do. Tự do một cách giản dị và cụ thể.
Nghĩa là một con người ngoài một dũng chí hết sức lớn – còn có thiên tài, một thiên tài nào đó (un “certain génie”).
Thiên tài ấy như thế nào?
Trong cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch, tù nhân số M. 854, một nông dân Nga bình dị bị bắt năm 1942, vượt ngục và bị ném vào trại tập trung, vì không biết nói với các “xếp” rằng y chỉ đi vòng vòng trong rừng mà lại đi kể thực về chuyện y đã trốn khỏi một trại quân của Đức – là người như thế nào?
Một tù nhân bình thường sống sót một cách bình thường tại một trại tập trung bình thường. Nhưng đấy từ con người của mọi người chúng ta bị đe dọa, gần như hàng giờ, bởi sự bạo tàn mà ta đã cảm thấy lại, khi bị lưu đày ra khỏi con người của ta.
Đấy cũng là sự đe dọa của Dostoievski trong cuốn Ngôi nhà của những người chết.
Ngày của Choukhov, 24 giờ trong một căn nhà gỗ giữa các hàng rào thép gai và chòi canh theo Soljenitsyne viết trong những dòng cuối cùng của cuốn truyện, là “một ngày gần như sung sướng”. Là thời gian chỉ đủ để thấy một ông già, hàm mất hết răng để trơ lợi ra hiện diện ở đây từ vạn cổ và được tất cả mọi lệnh ân xá tránh né”. Giữa những chiếc lưng cong của trại, Chuokhov thấy lưng đặc biệt thẳng của mình nổi bật. Khi hắn ngồi vào bàn, mọi người có cảm tưởng là có một cái gì kê trên chiếc ghế khiến cho hắn ngồi cao hơn lên…”.
Người già nói trên… chính là người các ông Hàn Thụy Điển đang tìm kiếm.
Phần 1: Alexandre Soljenitsyne - Con người và sự nghiệp
Thiên chức của nhà văn
Thiên chức của nhà văn
“Phú quý bất năng dâm
Bần tiện bất năng di
Uy vũ bất năng khuất”
Khổng thư
Bần tiện bất năng di
Uy vũ bất năng khuất”
Khổng thư
Bước vào nghiệp văn, Alexandre Soljenitsyne như mọi nhà văn nhà thơ – đã gởi
tác phẩm cho Hội Liên hiệp các Nhà văn (và các nhà thơ, nói chung các nhà văn
nghệ sáng tác, gọi tắt là Hiệp hội các Nhà văn) do Laurenew Ủy viên Thư ký và
Fedine, Đệ nhất Thư ký Hiệp hội Trung ương Ủy viên Đảng Cộng sản Nga (sau là
Trung ủy) lãnh đạo. Tác phẩm bị xếp lại không ấn hành và sau đó, Soljenitsyne
chỉ còn giữ lại được vài cuốn trong toàn bộ tác phẩm, vài cuốn khác còn bị giữ
tại ngục thất Lubjanka.
Soljenitsyne cũng đã đi vào kịch nghệ và đã gần thành tài. Vị giáo sư kịch nghệ của ông, đạo diễn Javadsky bị trục xuất khỏi thủ đô phải về thành phố Rostov mở một trường kịch nghệ, cho rằng Alexandre Soljenitsyne có thể trở thành một kịch sĩ có tài. Những bệnh tật đã làm cho giới văn nghệ trình diễn Nga thiếu một kịch sĩ tên tuổi. Bệnh đau cuống họng kinh niên do các bác sĩ khám phá ra đã đẩy Alexandre Soljenitsyne xa kịch trường.
Có thiên tài toán học và đã tốt nghiệp đại học, Alexandre Soljenitsyne khi bước chân vào quân đội hồi Thế chiến, lại dứt khoát tin tưởng và ly khai với các giới chức quân đội hữu trách rằng ông chỉ có năng khiếu văn chương – nghĩa là chỉ có thể viết văn mà thôi. Vì thế, quân đội không biết sử dụng Soljenitsyne vào việc nào cho thích hợp.
1. Từ một quân nhân đẩy xe cút kít…
Kết cuộc, ông binh nhì kiêm toán học gia chỉ có năng khiếu văn chương Alexandre Soljenitsyne được đẩy vào ngành yểm trợ tiếp vận, đã phục vụ trong một đơn vị chuyên đẩy các loại xe cút kít, quân nhân gồm những người có sắc già nua và những con ngựa không lấy gì làm khoẻ mạnh. Bởi vậy tại đơn vị này, Alexandre Soljenitsyne phải lãnh phần chăm sóc lấy sức khoẻ của chính mình.
Tất nhiên, Soljenitsyne phải bực tức trong đời sống của một quân nhân đẩy xe cút kít. Không được làm việc đúng năng khiếu viết văn, Alexandre Soljenitsyne muốn được chuyển sang ngành pháo binh nhưng lúc bấy giờ 1942, chiến tranh đang hồi gay go cùng độ. Nga Sô đang lâm nguy nặng nề nói chung, và Hồng quân ở vào thế kẹt nói riêng, yêu sách của một binh nhì – dầu binh nhì ấy cũng là một nhà trí thức – đâu có được ai lưu ý? Đơn của Alexandre Soljenitsyne bị vất xó mãi mãi.
Nhưng rồi cuối cùng, Soljenitsyne cũng được toại nguyện, một sĩ quan cao cấp đã kéo ông thoát ra khỏi đời sống buồn nản này. Ông được đi học một trường sĩ quan pháo binh rồi được phái đến một căn cứ pháo binh ở thành phố Gorki.
Khi kể đến quãng đời này, giọng nói và nụ cười của ông hết sức hiền hòa êm dịu, vừa nói ánh mắt trang trọng của ông lại di chuyển từ người đối thoại đến chiếc đàn dương cầm đang mở sẵn; trên giá bản “Etudes” của Liszt đã mở rộng.
Soljenitsyne kể:
Mọi chuyện xảy ra và những gì tôi quan sát được trong lần di chuyển này đều được ghi trong truyện Một câu chuyện ở nhà ga Krechetova.
Sau đó, tại trường pháo binh ở Gorki, Soljenitsyne lại bị đưa ra mặt trận chỉ vì ông đưa toán ra đùa với viên tư lệnh nhà trường. Chính tại chiến trường, viên tư lệnh pháo binh của mặt trận hiểu rõ khả năng của Soljenitsyne nên giao cho ông quyền chỉ huy một bộ phận truyền tin thích hợp với trình độ toán học của ông. Dần dần, Soljenitsyne được thăng đại úy, chỉ huy một pháo đội.
Chiến sự mà Soljenitsyne tham dự trực tiếp là trận đánh lừng danh trên trục Orel Kursk gần Léningrad vượt qua xứ Biélorussie và Ba Lan để trực chỉ Bá Linh.
2. Đến nhà toán học tù nhân
Tháng Giêng năm 1945, khi chiến sự còn tiếp diễn quanh vùng Königsberg ở Đông Phổ với Hồng quân trên đường chiến thắng, một cấp lệnh của sư đoàn trưởng tại Bộ Chỉ huy chiến trường.
Tướng Travkine tiếp đại úy Soljenitsyne với một thái độ băn khoăn hết sức. Ông ngập ngừng mãi rồi mới lên tiếng yêu cầu Soljenitsyne trả lại cho sư đoàn khẩu súng lục. Tuy có vẻ bứt rứt muốn giải thích nhưng rốt cuộc Travkine cũng không cho ông hiểu rõ lý do của hình phạt này.
Nhưng hai phút sau, khi Soljenitsyne vừa trả súng song thì hai nhân viên mật vụ quân đội đã ập vào bóc cấp hiệu, lột hết huy chương được thưởng trên chiến trường ngay giữa lúc tiếng súng còn nổ ầm ầm khắp bốn phía xung quanh.
Thế là phạm nhân Alexandre Soljenitsyne đã thành một kẻ tội phạm, sắp phải ném vào ngục. Khi ông sắp bước chân để bước ra ngoài, tướng Travkine vẫn đứng im sau bàn giấy chứng kiến việc lột lon lột áo, bỗng bước ra và đến gần xiết tay người cách đây mấy phút còn là sĩ quan Hồng quân thuộc cấp và chiến hữu của ông.
Về sau, Soljenitsyne đã viết là cử chỉ của tướng Travkine là cử chỉ hào hùng nhất trong chiến tranh!
Soljenitsyne cũng đã đi vào kịch nghệ và đã gần thành tài. Vị giáo sư kịch nghệ của ông, đạo diễn Javadsky bị trục xuất khỏi thủ đô phải về thành phố Rostov mở một trường kịch nghệ, cho rằng Alexandre Soljenitsyne có thể trở thành một kịch sĩ có tài. Những bệnh tật đã làm cho giới văn nghệ trình diễn Nga thiếu một kịch sĩ tên tuổi. Bệnh đau cuống họng kinh niên do các bác sĩ khám phá ra đã đẩy Alexandre Soljenitsyne xa kịch trường.
Có thiên tài toán học và đã tốt nghiệp đại học, Alexandre Soljenitsyne khi bước chân vào quân đội hồi Thế chiến, lại dứt khoát tin tưởng và ly khai với các giới chức quân đội hữu trách rằng ông chỉ có năng khiếu văn chương – nghĩa là chỉ có thể viết văn mà thôi. Vì thế, quân đội không biết sử dụng Soljenitsyne vào việc nào cho thích hợp.
1. Từ một quân nhân đẩy xe cút kít…
Kết cuộc, ông binh nhì kiêm toán học gia chỉ có năng khiếu văn chương Alexandre Soljenitsyne được đẩy vào ngành yểm trợ tiếp vận, đã phục vụ trong một đơn vị chuyên đẩy các loại xe cút kít, quân nhân gồm những người có sắc già nua và những con ngựa không lấy gì làm khoẻ mạnh. Bởi vậy tại đơn vị này, Alexandre Soljenitsyne phải lãnh phần chăm sóc lấy sức khoẻ của chính mình.
Tất nhiên, Soljenitsyne phải bực tức trong đời sống của một quân nhân đẩy xe cút kít. Không được làm việc đúng năng khiếu viết văn, Alexandre Soljenitsyne muốn được chuyển sang ngành pháo binh nhưng lúc bấy giờ 1942, chiến tranh đang hồi gay go cùng độ. Nga Sô đang lâm nguy nặng nề nói chung, và Hồng quân ở vào thế kẹt nói riêng, yêu sách của một binh nhì – dầu binh nhì ấy cũng là một nhà trí thức – đâu có được ai lưu ý? Đơn của Alexandre Soljenitsyne bị vất xó mãi mãi.
Nhưng rồi cuối cùng, Soljenitsyne cũng được toại nguyện, một sĩ quan cao cấp đã kéo ông thoát ra khỏi đời sống buồn nản này. Ông được đi học một trường sĩ quan pháo binh rồi được phái đến một căn cứ pháo binh ở thành phố Gorki.
Khi kể đến quãng đời này, giọng nói và nụ cười của ông hết sức hiền hòa êm dịu, vừa nói ánh mắt trang trọng của ông lại di chuyển từ người đối thoại đến chiếc đàn dương cầm đang mở sẵn; trên giá bản “Etudes” của Liszt đã mở rộng.
Soljenitsyne kể:
Mọi chuyện xảy ra và những gì tôi quan sát được trong lần di chuyển này đều được ghi trong truyện Một câu chuyện ở nhà ga Krechetova.
Sau đó, tại trường pháo binh ở Gorki, Soljenitsyne lại bị đưa ra mặt trận chỉ vì ông đưa toán ra đùa với viên tư lệnh nhà trường. Chính tại chiến trường, viên tư lệnh pháo binh của mặt trận hiểu rõ khả năng của Soljenitsyne nên giao cho ông quyền chỉ huy một bộ phận truyền tin thích hợp với trình độ toán học của ông. Dần dần, Soljenitsyne được thăng đại úy, chỉ huy một pháo đội.
Chiến sự mà Soljenitsyne tham dự trực tiếp là trận đánh lừng danh trên trục Orel Kursk gần Léningrad vượt qua xứ Biélorussie và Ba Lan để trực chỉ Bá Linh.
2. Đến nhà toán học tù nhân
Tháng Giêng năm 1945, khi chiến sự còn tiếp diễn quanh vùng Königsberg ở Đông Phổ với Hồng quân trên đường chiến thắng, một cấp lệnh của sư đoàn trưởng tại Bộ Chỉ huy chiến trường.
Tướng Travkine tiếp đại úy Soljenitsyne với một thái độ băn khoăn hết sức. Ông ngập ngừng mãi rồi mới lên tiếng yêu cầu Soljenitsyne trả lại cho sư đoàn khẩu súng lục. Tuy có vẻ bứt rứt muốn giải thích nhưng rốt cuộc Travkine cũng không cho ông hiểu rõ lý do của hình phạt này.
Nhưng hai phút sau, khi Soljenitsyne vừa trả súng song thì hai nhân viên mật vụ quân đội đã ập vào bóc cấp hiệu, lột hết huy chương được thưởng trên chiến trường ngay giữa lúc tiếng súng còn nổ ầm ầm khắp bốn phía xung quanh.
Thế là phạm nhân Alexandre Soljenitsyne đã thành một kẻ tội phạm, sắp phải ném vào ngục. Khi ông sắp bước chân để bước ra ngoài, tướng Travkine vẫn đứng im sau bàn giấy chứng kiến việc lột lon lột áo, bỗng bước ra và đến gần xiết tay người cách đây mấy phút còn là sĩ quan Hồng quân thuộc cấp và chiến hữu của ông.
Về sau, Soljenitsyne đã viết là cử chỉ của tướng Travkine là cử chỉ hào hùng nhất trong chiến tranh!
Tại sao Soljenitsyne bị bắt?
Soljenitsyne kể lại:
“Tôi chỉ bị bắt vì quá ngây thơ, đúng hơn là quá đần độn. Cố nhiên tôi ngu đến nỗi không biết rằng luật lệ nhà binh cấm tiết lộ cái bí mật ở chiến trường qua các thư từ gởi về hậu phương.
Nhưng tôi tưởng rằng được phép nghĩ và trao đổi những cảm nghĩ về Staline, có thể chỉ trích Staline và đã viết tất cả những cảm nghĩ ấy trong một lá thư gởi cho một người bạn văn nghệ – nhưng không nên gọi đích danh ông ta trong lá thư kia.
Từ lâu kia và mãi đến nay, tôi vẫn cho rằng mình có quyền chỉ trích người đã phản lại đường lối của Lénine. Cụ thể, Staline phải chịu trách nhiệm về những tổn thất quá lớn trong giai đoạn đầu của chiến sự. Hơn nữa, tôi cũng không thể nào chịu nổi cái ngôn ngữ và lời lẽ bất chấp văn phạm của ông ta.
Tất cả những điều này được tôi viết đầy đủ vào trong lá thư kia, viết một cách ngây thơ.
Tất cả tội trạng của tôi đều nằm trong lá thư kia. Bị thẩm cung xong, người ta đã nhốt tôi tại nhà lao Lubjanka. Tôi bị nhốt mà tôi không phải bị án, vì một lệnh đặc biệt. Tôi thừa nhận rằng tôi bị giam không oan uổng chút nào vì tôi đã có tội nói lên những điều bị cấm đoán thời bấy giờ.”
3. Con số 232 của định mệnh nhà toán học chỉ có năng khiếu viết văn
Tám năm tù ở Lubjanka không làm cho Alexandre Soljenitsyne chết rục như bao người khác chỉ vì ông giỏi toán.
“Tôi không biết làm các công việc bằng chân tay và sức mạnh. Tôi lại kém về khoa giao thiệp, nghĩa là luồn hót o bế các giám thị và nhân viên nhà lao vì những thái độ như vậy hoàn toàn ngược với nhân sinh quan của tôi. Tưởng là chỉ có chết mà thôi nếu tôi không may mắn có một kiến thức toán học kha khá.
Lúc bấy giờ tôi được chuyển về giam ở Moscou và được cho đi làm thợ tại xưởng thợ của tòa nhà lớn được dùng làm trại tù nơi khu Léningradski Prospekt, bốn phía có chòi canh. Như đã nói, tôi không biết làm công việc chân tay nên vất vả và khổ sở khi làm thợ lao dịch hằng ngày.
Đã gần quỵ xuống thì một ngày đẹp trời kia bỗng nhiên Ban Giám đốc nhà lao ra lệnh cho tù nhân làm lý lịch. Về phần tôi, cố nhiên tôi phải khai tên tuổi và nghề nghiệp chính thức của tôi lúc bấy giờ là khoa học và toán học gia. Nhờ bản lý lịch này mà tôi được đưa vào Trung tâm Nghiên cứu Khoa học của nhà tù.
Tuy thuộc nhà tù nhưng Trung tâm Nghiên cứu Khoa học này có đủ mọi yếu tố để cho các khoa học gia ở ngoài có thể tự hào nếu được tham dự vào công cuộc nghiên cứu của Trung tâm. Tư cách toán học gia đã giúp cho tôi dành được những điều kiện sống và làm việc suốt trong bốn năm liền của tám năm tù! Đành rằng đời sống của tôi bị khép giấu trong những gian phòng cửa sổ có gắn thêm chấn song và bao lưới sắt, mỗi ngày chỉ có mấy phút được đi dạo trong sân nhà tù mà thôi. Bù lại, tôi được ăn no nê vào có việc làm hợp với con người của mình.
Sau bốn năm ở Trung tâm Nghiên cứu Khoa học, tôi lại bị đổi lên một trại tù nhân tại vùng mỏ rộng lớn nhất xứ.
Chính tại đây tôi đã viết cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch. Đây là một trại tù đặc biệt, nội quy kỹ thuật sinh hoạt của tù nhân rất gắt gao. Mọi tù nhân của trại này đều phải đính số hiệu trên mũ, trước ngực, sau lưng và trên đầu gối. Số tù của tôi ở trại này là S 232.”
Con số này đã hình như vẫn theo đuổi Alexandre Soljenitsyne mãi không chịu buông tha. Ngay bây giờ, Soljenitsyne cũng vẫn bị con số 232 ám ảnh!
Kể ra thì để cho số tù ghi trên thẻ đính bài trong những ngày còn bị giam cầm ám ảnh là một chuyện kỳ cục; nhưng hình như giữa con số 232 và Soljenitsyne có một tương quan nào đó cũng nên. Dù không thích, Soljenitsyne trong một lần đến Moscou đã đi với một người bạn đến hiệu hạng “luých” ở Moscou uống cà phê. Theo mọi người, Soljenitsyne đã đưa mũ nón ra cho người gác và nhận lấy số hiệu ghi số trước khi bước vào. Con số người gác cửa đưa cho Soljenitsyne là 232. Nhìn tấm bảng số, Soljenitsyne đã mỉm cười buồn bã và nói với bạn:
“Anh thấy chưa? Tôi chạy đâu cũng không thoát con số này mà!”
Nơi trại này, Soljenitsyne đã học được nghề trộn xi măng rồi làm thợ hồ cho đến ngày được trả tự do, một tháng sau khi đã mãn hạn (tháng 2 năm 1953).
“Mãi đến ngày 5 tháng 3, mấy ngày sau khi được trả tự do, tôi mới ló ra mặt phố. Bị trả tự do có nghĩa là hết bị giam mà thôi, còn phải sống biệt xứ.
Không thích gì, nhưng hôm ấy tôi ra phố chỉ để chiều ý bà cụ già bị điếc đã đánh thức tôi dậy sớm để nghe nguồn tin do dài Mạc Tư Khoa loan đi Staline đã qua đời.
Vài hôm sau, sở cảnh sát địa phương gọi tôi đến sở để ký tên vào một văn kiện chấp thuận kỹ thuật biệt xứ vĩnh viễn. Biệt xứ vĩnh viễn không phải là biệt xứ suốt đời. Cố nhiên tôi từ chối, không ký các văn kiện này”.
4. Ven biên vùng đại mạc: đất ươm mầm mống của thiên tài
Được trả tự do năm 1953 nhưng đến năm 1956 Alexandre Soljenitsyne vẫn còn phải chịu kỷ luật biệt xứ. Lúc này ông sống trong một vùng hoang dã phía đông nam Balkash. Nơi ông trú ngụ là bản Koh Teren của dân thiểu số Tartares ở ven biên đại mạc Qua Bích, xa hẳn người Nga đồng bào, xa hẳn mọi dấu vết văn minh.
Nhắc đến thời sống chung với người Tartares, Soljenitsyne nói một cách thành thực:
“Hẳn anh không ngờ rằng tôi rất thích ở vùng hoang vu này với người Tartares. Vì tôi với tư cách là công dân tự do nhưng bị án biệt xứ đâu có dễ kiếm ra việc làm.
Ở bản Koh Teren này, đâu có ai giỏi toán, tôi mới được đi dạy.
Hơn nữa, chính bản dân thiểu số Koh Teren đã cung cấp cho tôi cảm hứng để thai nghén cuốn Ngôi nhà của Matriona. Truyện ra đời năm 1956, không phải năm 1953 như đã ghi trong lần xuất bản thứ nhất.
Cũng chính ở Koh Teren, một trận chiến kịch liệt giữa vi trùng bệnh ung thư và thiên tai đã diễn ra một cách kịch liệt bằng những trận đau thừa sống thiếu chết.
Soljenitsyne đã phải chịu một cuộc giải phẫu trong thời gian ở tù. Các y sĩ giải phẫu đã cho rằng Soljenitsyne bị ung thư nhưng giấu không cho nạn nhân biết!
Quả thật vậy, trong thời gian sống ở bản Koh Teren, Soljenitsyne đã đau chết đi sống lại hàng chục lần vì bị hành. Tuy đau gần chết nhưng kiếm đâu ra y sĩ tại bản?
“Đau gần chết nhưng tôi vẫn phải ráng lết ra đến Takhen để chữa bệnh trong một thời gian khá lâu.
Không ai có thể ngờ rằng tôi có thể lành bệnh. Cục bướu ung thư đã không giết tôi chết. Nó còn biến chất. Và biến hình nữa.”
5. Bi kịch của Ivan Denissovitch: bi kịch sâu xa và ý nghĩa nhất của trường kỳ lịch sử nước Nga
Vốn là một nhà toán học nhưng thấy rõ được năng khiếu của mình, Alexandre Soljenitsyne đã đem hết tâm trí ra học hành, nghiên cứu về Nga ngữ và làm thơ. Nhân loại, trong thời gian bị đày biệt xứ, ông lại viết truyện, viết kịch nhưng tất cả các tác phẩm của ông viết trong thời kỳ này đều bị xếp xó, không được xuất bản…
Alexandre Soljenitsyne sau khi mãn tù, vẫn phải kéo dài kiếp sống lưu đày chỉ vì ông chống lại đường lối suy tôn thần thánh hoá lãnh tụ.
“Được đề cao lên đến độ cuối cùng trong những năm Staline đã xuất hiện như vị chúa tể độc tôn của hai trăm triệu người Nga.”
Là một trong những đề tài sáng tác đồng thời cũng là một trong những kỷ luật mà nhà văn nhà thơ phải chấp hành.
Bị lưu đày phải kéo dài đời sống biệt xứ vì quan niệm sáng tác, các lãnh tụ Đảng trong Đại hội coi là lịch sử vì chủ trương hạ bệ Staline, chống lại sự suy tôn cá nhân – cố nhiên phải trả lại cho Soljenitsyne quyền được sống bình thường để trở về miền Trung nước Nga sau khi án biệt xứ đã “bể”.
Mộng viết văn của ông đã thành sau bao nhiêu năm ở tù và bị lưu đày.
Là nhà văn, Alexandre Soljenitsyne đã nói về việc sáng tác của ông:
“Tôi hiểu rằng viết về mình là một việc có thể nói là giản dị. Viết về số phận của nước Nga mới là vấn đề quan hệ và ý nghĩa hơn.
Nhưng khi muốn viết về nước Nga, tôi cho rằng những bi kịch của Ivan Denissovitch là những bi kịch sâu xa nhất và nhiều ý nghĩa nhất trong những bi kịch mà nước Nga đã nếm trải.
Hồi còn sống ở trong tù, chúng tôi đã nhất quyết phải kể lại, vẽ lại đời sống của một kẻ sống trong nhà lao. Chỉ một ngày giản dị thế thôi.
Tôi đã nói rằng tất cả đời sống của toàn thể Âu châu góp lại suốt trong bao thế kỷ, có thể là nội dung, là đại thể cho một cuốn truyện.
Đồng ý, nhưng tôi muốn nói thêm rằng chỉ một ngày trong cuộc đời nào, bất kỳ người dân nào cũng chẳng kém gì.”
Nghe Soljenitsyne nói, tự nhiên người ta sẽ phải nhớ đến tất cả công phu và say mê của ông trong việc vận dụng và chọn lọc từng chữ một, tính toán cẩn thận từng âm tiết một của ngôn ngữ nước Nga, một ngôn ngữ có nhạc tính hòa hợp với ngôn từ để phản ảnh trung thực giàu sang của ngôn ngữ bình dân Nga.
Ngoài ra cảm tình và nhạc tính của ngôn ngữ đặc biệt của tiếng Nga, con người tác giả lại xuất hiện nơi câu nói thao thao trôi chảy theo một nhịp điệu rõ rệt nhưng len lỏi đi thẳng băng, không quanh co trúc trắc.
Lời lẽ của Soljenitsyne luôn luôn có cái chính xác của một luận lý vững chãi dựa trên một kiến trúc toán học. Nói về quan niệm sáng tác hệ thống ý tưởng của Soljenitsyne xuất hiện thứ tự lớp lang và làm ta nghĩ đến một cái máy, một hệ thống. “Hãy coi chừng! Ánh sáng nơi người thích bóng tối.”
“Hãy coi chừng, ánh sáng nơi ngươi sẽ biến thành bóng tối” (Lời của thánh Luca (11, 35) trong Kinh Thánh).
Đấy là nhan đề một kịch bản mà Soljenitsyne đã viết năm 1954, và cho rằng cuốn này là tác phẩm làm ông tương đối thỏa mãn trong thời kỳ đầu của cuộc đời văn nghệ. Nơi tác phẩm này, Alexandre Soljenitsyne đã gửi gắm tất cả ý nguyện.
“Tôi muốn viết một cái gì xa với chính trị và vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Tất cả mọi tác động của truyện đều diễn ra tại một xứ xa lạ với tất cả, trong một thời gian chưa đến với những nhân vật có tên tuổi xa lạ với mọi người.
Xin đừng tưởng tôi muốn giấu giếm gì, tôi có gì phải giấu đâu?
Sở dĩ tôi muốn đặt vấn đề vào một khung và thời gian xa lạ như vậy dựng nên những nhân vật cũng xa lạ nốt, chỉ vì tôi muốn trình bày nhiều vấn đề của xã hội văn minh mà không phải tránh né và bị ràng buộc, không cần chú trọng đến chế độ xã hội hay tư bản…”
Ý muốn trên đây cũng đã được Soljenitsyne trình bày với các phán quan trong Hội đồng Thẩm phán của Tòa án Quân sự Tối cao – những thính giả đầu tiên được nghe tác giả tuyên đọc cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch họp lại để xét về việc phục hồi danh dự công dân cho Soljenitsyne. Đấy là những thẩm phán đầu tiên đã hội diện với nhà văn. Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch là một trong ba tác phẩm lớn của Soljenitsyne.
Một cuốn truyện lớn nữa Nhóm thứ nhất được hoàn tất sau ngày đại thánh thất tuần của Staline sau chín năm trời thai nghén. Nhưng thời gian của truyện đó chỉ là một ngày thêm vài giờ trong một đêm tháng 12 năm 1949. Nhân vật gồm có Staline, viên giám đốc một đại hí viện và một số gồm mấy nhân vật tiêu biểu cho giới trí thức và đảng viên hoạt động. Không gian rộng của truyện là Mạc Tư Khoa nhưng sân khấu chính của sự việc diễn biến là Trung tâm Nghiên cứu Khoa học của nhà tù.
Tác phẩm lớn khác nữa của ông là cuốn Trại ung thư (Pavillon des cancéreux), cuốn truyện gây nhiều sóng gió nhất trong đời sống văn học nghệ thuật Nga Sô luôn luôn phẳng lặng, kể cả trường hợp Hội các Nhà văn Nga đứng trước một tình thế tế nhị do giải Nobel tạo ra khi nó được dành cho nhà văn Boris Pasternak vì cuốn Bác sĩ Jivago bởi phản ứng của Pasternak thiên về tiêu cực cá nhân và hướng về thiểu số trí thức, nặng chất trí thức với Soljenitsyne và toàn bộ tác phẩm là nước Nga muôn đời người Nga vì tất cả những gì là Nga với tất cả những gì là nhiệt thành, sôi nổi và tích cực!
Ba tác phẩm nói trên, tuy vậy, vẫn chưa đủ để nói lên vấn đề Soljenitsyne.
Vốn có khuynh hướng kịch nghệ, Soljenitsyne có mấy kịch bản khá lớn, từ bi kịch xưa cho đến thoại kịch mới. Ngay một vở kịch thường của ông chưa được viết lại với tất cả thận trọng dành cho một tác phẩm, chưa được coi là thành công – hơn nữa đã được đem trình diễn tại các Hí viện Vacthangov và Léninsky Komsomol nếu Ban Giám đốc hai hí viện này không gặp một lệnh cấm từ trên cao đưa xuống.
Còn nữa. Còn một loạt truyện ngắn mini từ 16 đến 20 dòng.
Truyện viết bằng tiếng Nga nhưng độc giả Nga lại được đọc bản dịch từ Tây phương đem qua ngoài sự hiểu biết của tác giả. Tạp chí Encounter ở Luân Đôn, đã đăng tải những truyện ngắn này với lời ghi chú như sau: “Bằng phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, tòa soạn đã đi đến chỗ phát giác ra tác giả những chuyện này có lẽ là, chắc là Alexandre Soljenitsyne.” Nói về những tác phẩm “mini” tuy riêng rẽ từng chuyện một nhưng tất cả lại liên hệ chặt chẽ với nhau, Soljenitsyne nói:
“Nơi mấy chuyện nho nhỏ này, mối quan tâm của tôi là tạo ra một văn pháp mới. Một văn pháp mà tôi hy vọng sẽ tìm ra được nơi một truyện phim đã thai nghén… Nhưng chưa có thể đẻ ra được vì tôi chưa có ý định đưa ra trình bày với độc giả.”
6. Nhà văn sứ mạng và thiên tài
Bên cạnh một tủ sách mà ngoại ngữ gồm có toàn bộ tác phẩm của Anatole France (Pháp) và một số tác phẩm cổ điển Anh do các nhà xuất bản Anh ấn hành nguyên bản giữa các tác phẩm Nga Alexandre Soljenitsyne đã trình bày những ý nghĩa của ông về nhà văn và thiên chức của nhà văn.
Khi nhìn trong bằng cặp mắt nghệ sĩ, nhà văn nhờ vào linh tính sẽ thấy sớm hơn thiên hạ và thấy dưới những hình thức mới mẻ, khá nhiều hiện tượng xã hội. Thấy được hay không và thấy tới đâu là thiên tài. Nhưng quên là thiên tài ấy gắn liền với thiên chức.
Phải trình bày những gì mình thấy với xã hội hay ít nhất cũng phải trình bày những gì mình thấy có hiệu quả đem tai ách đến cho xã hội.
Liếc qua mấy cuốn sách ngoại ngữ, ông thú nhận:
“Rất tiếc là đời sống tôi quá bất thường và nhất là vì tôi ra đời, trưởng thành và được đào luyện trong nền văn chương Nga mà thôi, ít biết đến ngoài nên không đủ sức đào sâu vào văn học sử của nhân loại.
Riêng văn chương Nga tôi quả quyết rằng văn chương chân chính Nga luôn hướng tới những người đau khổ. Tuy thế, ngay ở đây có một số người chủ trương tô vẽ thêm, quét thêm một nước sơn màu hồng để làm cho những gì sắp xảy ra đẹp thêm. Theo tôi, quan niệm này sai lầm vì nó biện minh cho những gì là gian dối và ngụy trá; văn chương phản ảnh bằng loại truyện nói trên chỉ là một thứ ngụy trang mà thôi. Do đó phải đánh dấu tự cải hoá một cách trung thực và can đảm mới có thể đưa ra ngoài ánh sáng những sai lầm và chỉ cho thiên hạ thấy những gì đã xảy ra thực sự. Bởi vậy nhà văn phải hoàn toàn trung thực với ký ức nghệ sĩ của mình. Để mỗi khi viết về một đề tài nào đó là đưa ra được tất cả những gì mình đã thấy về đề tài, đưa luôn cả cách nhìn đề tài của mình nữa. Bằng không thì thôi, đừng dùng văn chương ngụy trang ra, chỉ có hại mà thôi. Tính thú con người: một đơn vị sinh lý và tinh thần trước khi là phần tử của xã hội.
Xin cho phép tôi được nói rằng tôi không bao giờ coi mình là một nhà nghiên cứu văn chương quốc tế. Tôi chỉ muốn trình bày những ý nghĩ khách quan là văn chương Tây Âu càng nghèo nàn. Lý do? Tôi nghĩ rằng văn chương Tây Ây càng ngày càng nghèo thêm chỉ vì mấy chục năm qua, xã hội Tây Âu thiếu những thay đổi quan trọng.
Nền tảng văn chương, theo tôi là những kinh nghiệm quý giá rút từ các tác động tạo thành tiến trình xã hội.
Đông Âu, kể cả nước Nga của tôi, đã có những đổi thay xảy ra. Đấy là lý do khiến cho tôi hy vọng nhiều nơi tương lai của nhà văn không những theo bổn phận đối với xã hội mà còn theo bổn phận của nhà văn đối với từng người một.
Tôi xin nhấn mạnh rằng trách nhiệm của nhà văn đối với từng người một mới quan trọng. Cuộc đời của một cá nhân không phải bao giờ cũng phù hợp với đời sống xã hội; không phải tập thể luôn luôn nâng đỡ nhau.
Mỗi một người là một thế giới riêng, có những vấn đề riêng, những ưu tư riêng ngoài thẩm quyền giải quyết của xã hội, không phải tập thể giải quyết được.
Con người là một đơn vị tinh thần và sinh lý độc lập trước khi là phần tử xã hội. Trách nhiệm của nhà văn đối với cá nhân nặng không kém gì đối với xã hội.
Trong thời đại này, đời sống bị kỹ thuật chi phối hoàn toàn, nhu cầu vật chất trở nên quá quan trọng; ảnh hưởng của tôn giáo bị đẩy lui trên mọi mặt và ở khắp mọi nơi; công việc phải làm của nhà văn có vậy, có một tính chất độc đáo. Nhà văn ngày nay, do đó, phải gánh vác công việc của một người phải giữ luôn một chỗ trống.
Bởi vậy, nhà văn phải giữ cho được chỗ đứng ở chính giữa các mối tương quan giữa thời đại chúng ta và muôn đời, ở chính giữa cách đều cả hai bên.
Nếu tác phẩm chỉ là thời sự, chỉ là những vấn đề thời đại thì tác phẩm chỉ có một đời sống, một giá trị hữu hạn ngắn ngủi.
Ngược lại, một nhà văn coi thường hiện tại và hướng tất cả vào thời gian không cùng, tác phẩm sẽ thiếu sinh khí và màu sắc…
Tóm lại, giữa Charybde và Scylla, nhà văn không được xích sang bất kỳ một bên nào và cũng không được ngoảnh mặt sang phía nọ hoặc phía kia.”
Đây là quan niệm của Alexandre Soljenitsyne đối với sứ mạng nhà văn! Kể ra, quan niệm này không độc đáo cho lắm. Điều đáng nói nơi đây chỉ là thái độ chân thành và lý tưởng của Alexandre Soljenitsyne mà thôi. Chính cái chân thành và lý tưởng của Soljenitsyne làm cho cái quan niệm trên dù sao cũng có một cái gì khác với ngôn ngữ sĩ khí của người cầm bút Việt Nam thời đại 1954-1970!
Vậy thì nơi nhà văn Soljenitsyne có một cái gì mới lạ, độc đáo? Về văn phong? Về kỹ thuật?
Chúng tôi không dám nói rằng là chính văn phong của Soljenitsyne một văn phong quen thuộc và gần gũi nhưng thực là xa cách với chúng ta – có tác dụng gì đối với bút pháp, với kỹ thuật hay không?
Nhưng quả thực Soljenitsyne là một nhà văn có một bút pháp tương đối mới:
“Theo tôi, không có nhân vật chính. Trong một tác phẩm chỉ có một nhân vật của truyện – nhà văn. Dù muốn, dù không, nhân vật ngự trị vẫn chiếm một chỗ đứng quá rộng, vẫn dành được mọi chú tâm của tác giả.
Vậy, tôi quan niệm là không có nhân vật chính. Mọi nhân vật lớn hay nhỏ đều là chính, đều làm chủ mọi tác động trong phạm vi của y là liên quan đến y, bên cạnh nhân vật ngự trị khi tất cả phải chịu trách nhiệm đồng đều về tất cả mọi nhân vật do mình dựng nên, hiểu rõ các tác động của mọi nhân vật do mình sắp đặt sai tử, trong khuôn khổ của một sự liên hệ và một tương quan giữa các nhân vật của truyện. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là đừng bao giờ để cho tưởng tượng kéo cả mình cả nhân vật đi quá xa.
Đấy là phương pháp của tôi áp dụng khi viết mấy cuốn truyện và sẽ áp dụng để viết một cuốn đang hình thành…”
Cái phương pháp này như thế nào? Hay hay dở? Chúng tôi không thể đưa ý kiến nơi đây. Nghĩa là không làm cái việc “khen phò mã tốt áo” vừa thừa vừa quê! Chúng tôi chỉ xin nhắc lại chi tiết sau đây: Là Soljenitsyne đã viết những tác phẩm ấy một cách đặc biệt khi trong tay giấy không bút cũng không. Do đó, ông phải sắp xếp gạn lọc bỏ túi tất cả đâu vào đó, từ ý tưởng câu chuyện và nhân vật thực cẩn thận tỉ mỉ… Rồi học thuộc lòng, thuộc như chảy để chờ ngày đưa nó lên mặt giấy…
Vậy phương pháp này có phải là một phương pháp riêng biệt của nhà văn phái sáng tạo một cách đặc biệt? Hay nó là phương pháp mới, sản phẩm của thời đại cần được phổ biến hoá?
Câu trả lời, chúng tôi xin dành cho các cây bút sáng tạo. Chúng tôi chỉ trình bày thêm sự chú trọng khai thác ngôn ngữ của Soljenitsyne:
“Càng ngày, tôi càng thấy rõ là nền văn chương của chúng tôi (cũng như mọi nước) chưa khai thác được cái kho tàng phong phú của tiếng Nga. Nói chung, ngôn ngữ của mọi nước, trong Thiên đàng đều bị ‘đơn vị hoá’ và ‘thống nhất hoá’ nên làm mất đi rất nhiều giá trị cổ truyền.
Bởi vậy, bắt đầu đi sâu vào ngôn ngữ Nga khi mới ở tù, càng ngày, tôi cũng hiểu rằng tiếng Nga có muôn vàn vẻ đẹp về ngữ vựng mà tôi sẽ gắng vận dụng, trước hết là những từ ngữ và mỹ tự gần với tiếng Nga hiện đại.”
Soljenitsyne kể lại:
“Tôi chỉ bị bắt vì quá ngây thơ, đúng hơn là quá đần độn. Cố nhiên tôi ngu đến nỗi không biết rằng luật lệ nhà binh cấm tiết lộ cái bí mật ở chiến trường qua các thư từ gởi về hậu phương.
Nhưng tôi tưởng rằng được phép nghĩ và trao đổi những cảm nghĩ về Staline, có thể chỉ trích Staline và đã viết tất cả những cảm nghĩ ấy trong một lá thư gởi cho một người bạn văn nghệ – nhưng không nên gọi đích danh ông ta trong lá thư kia.
Từ lâu kia và mãi đến nay, tôi vẫn cho rằng mình có quyền chỉ trích người đã phản lại đường lối của Lénine. Cụ thể, Staline phải chịu trách nhiệm về những tổn thất quá lớn trong giai đoạn đầu của chiến sự. Hơn nữa, tôi cũng không thể nào chịu nổi cái ngôn ngữ và lời lẽ bất chấp văn phạm của ông ta.
Tất cả những điều này được tôi viết đầy đủ vào trong lá thư kia, viết một cách ngây thơ.
Tất cả tội trạng của tôi đều nằm trong lá thư kia. Bị thẩm cung xong, người ta đã nhốt tôi tại nhà lao Lubjanka. Tôi bị nhốt mà tôi không phải bị án, vì một lệnh đặc biệt. Tôi thừa nhận rằng tôi bị giam không oan uổng chút nào vì tôi đã có tội nói lên những điều bị cấm đoán thời bấy giờ.”
3. Con số 232 của định mệnh nhà toán học chỉ có năng khiếu viết văn
Tám năm tù ở Lubjanka không làm cho Alexandre Soljenitsyne chết rục như bao người khác chỉ vì ông giỏi toán.
“Tôi không biết làm các công việc bằng chân tay và sức mạnh. Tôi lại kém về khoa giao thiệp, nghĩa là luồn hót o bế các giám thị và nhân viên nhà lao vì những thái độ như vậy hoàn toàn ngược với nhân sinh quan của tôi. Tưởng là chỉ có chết mà thôi nếu tôi không may mắn có một kiến thức toán học kha khá.
Lúc bấy giờ tôi được chuyển về giam ở Moscou và được cho đi làm thợ tại xưởng thợ của tòa nhà lớn được dùng làm trại tù nơi khu Léningradski Prospekt, bốn phía có chòi canh. Như đã nói, tôi không biết làm công việc chân tay nên vất vả và khổ sở khi làm thợ lao dịch hằng ngày.
Đã gần quỵ xuống thì một ngày đẹp trời kia bỗng nhiên Ban Giám đốc nhà lao ra lệnh cho tù nhân làm lý lịch. Về phần tôi, cố nhiên tôi phải khai tên tuổi và nghề nghiệp chính thức của tôi lúc bấy giờ là khoa học và toán học gia. Nhờ bản lý lịch này mà tôi được đưa vào Trung tâm Nghiên cứu Khoa học của nhà tù.
Tuy thuộc nhà tù nhưng Trung tâm Nghiên cứu Khoa học này có đủ mọi yếu tố để cho các khoa học gia ở ngoài có thể tự hào nếu được tham dự vào công cuộc nghiên cứu của Trung tâm. Tư cách toán học gia đã giúp cho tôi dành được những điều kiện sống và làm việc suốt trong bốn năm liền của tám năm tù! Đành rằng đời sống của tôi bị khép giấu trong những gian phòng cửa sổ có gắn thêm chấn song và bao lưới sắt, mỗi ngày chỉ có mấy phút được đi dạo trong sân nhà tù mà thôi. Bù lại, tôi được ăn no nê vào có việc làm hợp với con người của mình.
Sau bốn năm ở Trung tâm Nghiên cứu Khoa học, tôi lại bị đổi lên một trại tù nhân tại vùng mỏ rộng lớn nhất xứ.
Chính tại đây tôi đã viết cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch. Đây là một trại tù đặc biệt, nội quy kỹ thuật sinh hoạt của tù nhân rất gắt gao. Mọi tù nhân của trại này đều phải đính số hiệu trên mũ, trước ngực, sau lưng và trên đầu gối. Số tù của tôi ở trại này là S 232.”
Con số này đã hình như vẫn theo đuổi Alexandre Soljenitsyne mãi không chịu buông tha. Ngay bây giờ, Soljenitsyne cũng vẫn bị con số 232 ám ảnh!
Kể ra thì để cho số tù ghi trên thẻ đính bài trong những ngày còn bị giam cầm ám ảnh là một chuyện kỳ cục; nhưng hình như giữa con số 232 và Soljenitsyne có một tương quan nào đó cũng nên. Dù không thích, Soljenitsyne trong một lần đến Moscou đã đi với một người bạn đến hiệu hạng “luých” ở Moscou uống cà phê. Theo mọi người, Soljenitsyne đã đưa mũ nón ra cho người gác và nhận lấy số hiệu ghi số trước khi bước vào. Con số người gác cửa đưa cho Soljenitsyne là 232. Nhìn tấm bảng số, Soljenitsyne đã mỉm cười buồn bã và nói với bạn:
“Anh thấy chưa? Tôi chạy đâu cũng không thoát con số này mà!”
Nơi trại này, Soljenitsyne đã học được nghề trộn xi măng rồi làm thợ hồ cho đến ngày được trả tự do, một tháng sau khi đã mãn hạn (tháng 2 năm 1953).
“Mãi đến ngày 5 tháng 3, mấy ngày sau khi được trả tự do, tôi mới ló ra mặt phố. Bị trả tự do có nghĩa là hết bị giam mà thôi, còn phải sống biệt xứ.
Không thích gì, nhưng hôm ấy tôi ra phố chỉ để chiều ý bà cụ già bị điếc đã đánh thức tôi dậy sớm để nghe nguồn tin do dài Mạc Tư Khoa loan đi Staline đã qua đời.
Vài hôm sau, sở cảnh sát địa phương gọi tôi đến sở để ký tên vào một văn kiện chấp thuận kỹ thuật biệt xứ vĩnh viễn. Biệt xứ vĩnh viễn không phải là biệt xứ suốt đời. Cố nhiên tôi từ chối, không ký các văn kiện này”.
4. Ven biên vùng đại mạc: đất ươm mầm mống của thiên tài
Được trả tự do năm 1953 nhưng đến năm 1956 Alexandre Soljenitsyne vẫn còn phải chịu kỷ luật biệt xứ. Lúc này ông sống trong một vùng hoang dã phía đông nam Balkash. Nơi ông trú ngụ là bản Koh Teren của dân thiểu số Tartares ở ven biên đại mạc Qua Bích, xa hẳn người Nga đồng bào, xa hẳn mọi dấu vết văn minh.
Nhắc đến thời sống chung với người Tartares, Soljenitsyne nói một cách thành thực:
“Hẳn anh không ngờ rằng tôi rất thích ở vùng hoang vu này với người Tartares. Vì tôi với tư cách là công dân tự do nhưng bị án biệt xứ đâu có dễ kiếm ra việc làm.
Ở bản Koh Teren này, đâu có ai giỏi toán, tôi mới được đi dạy.
Hơn nữa, chính bản dân thiểu số Koh Teren đã cung cấp cho tôi cảm hứng để thai nghén cuốn Ngôi nhà của Matriona. Truyện ra đời năm 1956, không phải năm 1953 như đã ghi trong lần xuất bản thứ nhất.
Cũng chính ở Koh Teren, một trận chiến kịch liệt giữa vi trùng bệnh ung thư và thiên tai đã diễn ra một cách kịch liệt bằng những trận đau thừa sống thiếu chết.
Soljenitsyne đã phải chịu một cuộc giải phẫu trong thời gian ở tù. Các y sĩ giải phẫu đã cho rằng Soljenitsyne bị ung thư nhưng giấu không cho nạn nhân biết!
Quả thật vậy, trong thời gian sống ở bản Koh Teren, Soljenitsyne đã đau chết đi sống lại hàng chục lần vì bị hành. Tuy đau gần chết nhưng kiếm đâu ra y sĩ tại bản?
“Đau gần chết nhưng tôi vẫn phải ráng lết ra đến Takhen để chữa bệnh trong một thời gian khá lâu.
Không ai có thể ngờ rằng tôi có thể lành bệnh. Cục bướu ung thư đã không giết tôi chết. Nó còn biến chất. Và biến hình nữa.”
5. Bi kịch của Ivan Denissovitch: bi kịch sâu xa và ý nghĩa nhất của trường kỳ lịch sử nước Nga
Vốn là một nhà toán học nhưng thấy rõ được năng khiếu của mình, Alexandre Soljenitsyne đã đem hết tâm trí ra học hành, nghiên cứu về Nga ngữ và làm thơ. Nhân loại, trong thời gian bị đày biệt xứ, ông lại viết truyện, viết kịch nhưng tất cả các tác phẩm của ông viết trong thời kỳ này đều bị xếp xó, không được xuất bản…
Alexandre Soljenitsyne sau khi mãn tù, vẫn phải kéo dài kiếp sống lưu đày chỉ vì ông chống lại đường lối suy tôn thần thánh hoá lãnh tụ.
“Được đề cao lên đến độ cuối cùng trong những năm Staline đã xuất hiện như vị chúa tể độc tôn của hai trăm triệu người Nga.”
Là một trong những đề tài sáng tác đồng thời cũng là một trong những kỷ luật mà nhà văn nhà thơ phải chấp hành.
Bị lưu đày phải kéo dài đời sống biệt xứ vì quan niệm sáng tác, các lãnh tụ Đảng trong Đại hội coi là lịch sử vì chủ trương hạ bệ Staline, chống lại sự suy tôn cá nhân – cố nhiên phải trả lại cho Soljenitsyne quyền được sống bình thường để trở về miền Trung nước Nga sau khi án biệt xứ đã “bể”.
Mộng viết văn của ông đã thành sau bao nhiêu năm ở tù và bị lưu đày.
Là nhà văn, Alexandre Soljenitsyne đã nói về việc sáng tác của ông:
“Tôi hiểu rằng viết về mình là một việc có thể nói là giản dị. Viết về số phận của nước Nga mới là vấn đề quan hệ và ý nghĩa hơn.
Nhưng khi muốn viết về nước Nga, tôi cho rằng những bi kịch của Ivan Denissovitch là những bi kịch sâu xa nhất và nhiều ý nghĩa nhất trong những bi kịch mà nước Nga đã nếm trải.
Hồi còn sống ở trong tù, chúng tôi đã nhất quyết phải kể lại, vẽ lại đời sống của một kẻ sống trong nhà lao. Chỉ một ngày giản dị thế thôi.
Tôi đã nói rằng tất cả đời sống của toàn thể Âu châu góp lại suốt trong bao thế kỷ, có thể là nội dung, là đại thể cho một cuốn truyện.
Đồng ý, nhưng tôi muốn nói thêm rằng chỉ một ngày trong cuộc đời nào, bất kỳ người dân nào cũng chẳng kém gì.”
Nghe Soljenitsyne nói, tự nhiên người ta sẽ phải nhớ đến tất cả công phu và say mê của ông trong việc vận dụng và chọn lọc từng chữ một, tính toán cẩn thận từng âm tiết một của ngôn ngữ nước Nga, một ngôn ngữ có nhạc tính hòa hợp với ngôn từ để phản ảnh trung thực giàu sang của ngôn ngữ bình dân Nga.
Ngoài ra cảm tình và nhạc tính của ngôn ngữ đặc biệt của tiếng Nga, con người tác giả lại xuất hiện nơi câu nói thao thao trôi chảy theo một nhịp điệu rõ rệt nhưng len lỏi đi thẳng băng, không quanh co trúc trắc.
Lời lẽ của Soljenitsyne luôn luôn có cái chính xác của một luận lý vững chãi dựa trên một kiến trúc toán học. Nói về quan niệm sáng tác hệ thống ý tưởng của Soljenitsyne xuất hiện thứ tự lớp lang và làm ta nghĩ đến một cái máy, một hệ thống. “Hãy coi chừng! Ánh sáng nơi người thích bóng tối.”
“Hãy coi chừng, ánh sáng nơi ngươi sẽ biến thành bóng tối” (Lời của thánh Luca (11, 35) trong Kinh Thánh).
Đấy là nhan đề một kịch bản mà Soljenitsyne đã viết năm 1954, và cho rằng cuốn này là tác phẩm làm ông tương đối thỏa mãn trong thời kỳ đầu của cuộc đời văn nghệ. Nơi tác phẩm này, Alexandre Soljenitsyne đã gửi gắm tất cả ý nguyện.
“Tôi muốn viết một cái gì xa với chính trị và vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Tất cả mọi tác động của truyện đều diễn ra tại một xứ xa lạ với tất cả, trong một thời gian chưa đến với những nhân vật có tên tuổi xa lạ với mọi người.
Xin đừng tưởng tôi muốn giấu giếm gì, tôi có gì phải giấu đâu?
Sở dĩ tôi muốn đặt vấn đề vào một khung và thời gian xa lạ như vậy dựng nên những nhân vật cũng xa lạ nốt, chỉ vì tôi muốn trình bày nhiều vấn đề của xã hội văn minh mà không phải tránh né và bị ràng buộc, không cần chú trọng đến chế độ xã hội hay tư bản…”
Ý muốn trên đây cũng đã được Soljenitsyne trình bày với các phán quan trong Hội đồng Thẩm phán của Tòa án Quân sự Tối cao – những thính giả đầu tiên được nghe tác giả tuyên đọc cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch họp lại để xét về việc phục hồi danh dự công dân cho Soljenitsyne. Đấy là những thẩm phán đầu tiên đã hội diện với nhà văn. Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch là một trong ba tác phẩm lớn của Soljenitsyne.
Một cuốn truyện lớn nữa Nhóm thứ nhất được hoàn tất sau ngày đại thánh thất tuần của Staline sau chín năm trời thai nghén. Nhưng thời gian của truyện đó chỉ là một ngày thêm vài giờ trong một đêm tháng 12 năm 1949. Nhân vật gồm có Staline, viên giám đốc một đại hí viện và một số gồm mấy nhân vật tiêu biểu cho giới trí thức và đảng viên hoạt động. Không gian rộng của truyện là Mạc Tư Khoa nhưng sân khấu chính của sự việc diễn biến là Trung tâm Nghiên cứu Khoa học của nhà tù.
Tác phẩm lớn khác nữa của ông là cuốn Trại ung thư (Pavillon des cancéreux), cuốn truyện gây nhiều sóng gió nhất trong đời sống văn học nghệ thuật Nga Sô luôn luôn phẳng lặng, kể cả trường hợp Hội các Nhà văn Nga đứng trước một tình thế tế nhị do giải Nobel tạo ra khi nó được dành cho nhà văn Boris Pasternak vì cuốn Bác sĩ Jivago bởi phản ứng của Pasternak thiên về tiêu cực cá nhân và hướng về thiểu số trí thức, nặng chất trí thức với Soljenitsyne và toàn bộ tác phẩm là nước Nga muôn đời người Nga vì tất cả những gì là Nga với tất cả những gì là nhiệt thành, sôi nổi và tích cực!
Ba tác phẩm nói trên, tuy vậy, vẫn chưa đủ để nói lên vấn đề Soljenitsyne.
Vốn có khuynh hướng kịch nghệ, Soljenitsyne có mấy kịch bản khá lớn, từ bi kịch xưa cho đến thoại kịch mới. Ngay một vở kịch thường của ông chưa được viết lại với tất cả thận trọng dành cho một tác phẩm, chưa được coi là thành công – hơn nữa đã được đem trình diễn tại các Hí viện Vacthangov và Léninsky Komsomol nếu Ban Giám đốc hai hí viện này không gặp một lệnh cấm từ trên cao đưa xuống.
Còn nữa. Còn một loạt truyện ngắn mini từ 16 đến 20 dòng.
Truyện viết bằng tiếng Nga nhưng độc giả Nga lại được đọc bản dịch từ Tây phương đem qua ngoài sự hiểu biết của tác giả. Tạp chí Encounter ở Luân Đôn, đã đăng tải những truyện ngắn này với lời ghi chú như sau: “Bằng phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, tòa soạn đã đi đến chỗ phát giác ra tác giả những chuyện này có lẽ là, chắc là Alexandre Soljenitsyne.” Nói về những tác phẩm “mini” tuy riêng rẽ từng chuyện một nhưng tất cả lại liên hệ chặt chẽ với nhau, Soljenitsyne nói:
“Nơi mấy chuyện nho nhỏ này, mối quan tâm của tôi là tạo ra một văn pháp mới. Một văn pháp mà tôi hy vọng sẽ tìm ra được nơi một truyện phim đã thai nghén… Nhưng chưa có thể đẻ ra được vì tôi chưa có ý định đưa ra trình bày với độc giả.”
6. Nhà văn sứ mạng và thiên tài
Bên cạnh một tủ sách mà ngoại ngữ gồm có toàn bộ tác phẩm của Anatole France (Pháp) và một số tác phẩm cổ điển Anh do các nhà xuất bản Anh ấn hành nguyên bản giữa các tác phẩm Nga Alexandre Soljenitsyne đã trình bày những ý nghĩa của ông về nhà văn và thiên chức của nhà văn.
Khi nhìn trong bằng cặp mắt nghệ sĩ, nhà văn nhờ vào linh tính sẽ thấy sớm hơn thiên hạ và thấy dưới những hình thức mới mẻ, khá nhiều hiện tượng xã hội. Thấy được hay không và thấy tới đâu là thiên tài. Nhưng quên là thiên tài ấy gắn liền với thiên chức.
Phải trình bày những gì mình thấy với xã hội hay ít nhất cũng phải trình bày những gì mình thấy có hiệu quả đem tai ách đến cho xã hội.
Liếc qua mấy cuốn sách ngoại ngữ, ông thú nhận:
“Rất tiếc là đời sống tôi quá bất thường và nhất là vì tôi ra đời, trưởng thành và được đào luyện trong nền văn chương Nga mà thôi, ít biết đến ngoài nên không đủ sức đào sâu vào văn học sử của nhân loại.
Riêng văn chương Nga tôi quả quyết rằng văn chương chân chính Nga luôn hướng tới những người đau khổ. Tuy thế, ngay ở đây có một số người chủ trương tô vẽ thêm, quét thêm một nước sơn màu hồng để làm cho những gì sắp xảy ra đẹp thêm. Theo tôi, quan niệm này sai lầm vì nó biện minh cho những gì là gian dối và ngụy trá; văn chương phản ảnh bằng loại truyện nói trên chỉ là một thứ ngụy trang mà thôi. Do đó phải đánh dấu tự cải hoá một cách trung thực và can đảm mới có thể đưa ra ngoài ánh sáng những sai lầm và chỉ cho thiên hạ thấy những gì đã xảy ra thực sự. Bởi vậy nhà văn phải hoàn toàn trung thực với ký ức nghệ sĩ của mình. Để mỗi khi viết về một đề tài nào đó là đưa ra được tất cả những gì mình đã thấy về đề tài, đưa luôn cả cách nhìn đề tài của mình nữa. Bằng không thì thôi, đừng dùng văn chương ngụy trang ra, chỉ có hại mà thôi. Tính thú con người: một đơn vị sinh lý và tinh thần trước khi là phần tử của xã hội.
Xin cho phép tôi được nói rằng tôi không bao giờ coi mình là một nhà nghiên cứu văn chương quốc tế. Tôi chỉ muốn trình bày những ý nghĩ khách quan là văn chương Tây Âu càng nghèo nàn. Lý do? Tôi nghĩ rằng văn chương Tây Ây càng ngày càng nghèo thêm chỉ vì mấy chục năm qua, xã hội Tây Âu thiếu những thay đổi quan trọng.
Nền tảng văn chương, theo tôi là những kinh nghiệm quý giá rút từ các tác động tạo thành tiến trình xã hội.
Đông Âu, kể cả nước Nga của tôi, đã có những đổi thay xảy ra. Đấy là lý do khiến cho tôi hy vọng nhiều nơi tương lai của nhà văn không những theo bổn phận đối với xã hội mà còn theo bổn phận của nhà văn đối với từng người một.
Tôi xin nhấn mạnh rằng trách nhiệm của nhà văn đối với từng người một mới quan trọng. Cuộc đời của một cá nhân không phải bao giờ cũng phù hợp với đời sống xã hội; không phải tập thể luôn luôn nâng đỡ nhau.
Mỗi một người là một thế giới riêng, có những vấn đề riêng, những ưu tư riêng ngoài thẩm quyền giải quyết của xã hội, không phải tập thể giải quyết được.
Con người là một đơn vị tinh thần và sinh lý độc lập trước khi là phần tử xã hội. Trách nhiệm của nhà văn đối với cá nhân nặng không kém gì đối với xã hội.
Trong thời đại này, đời sống bị kỹ thuật chi phối hoàn toàn, nhu cầu vật chất trở nên quá quan trọng; ảnh hưởng của tôn giáo bị đẩy lui trên mọi mặt và ở khắp mọi nơi; công việc phải làm của nhà văn có vậy, có một tính chất độc đáo. Nhà văn ngày nay, do đó, phải gánh vác công việc của một người phải giữ luôn một chỗ trống.
Bởi vậy, nhà văn phải giữ cho được chỗ đứng ở chính giữa các mối tương quan giữa thời đại chúng ta và muôn đời, ở chính giữa cách đều cả hai bên.
Nếu tác phẩm chỉ là thời sự, chỉ là những vấn đề thời đại thì tác phẩm chỉ có một đời sống, một giá trị hữu hạn ngắn ngủi.
Ngược lại, một nhà văn coi thường hiện tại và hướng tất cả vào thời gian không cùng, tác phẩm sẽ thiếu sinh khí và màu sắc…
Tóm lại, giữa Charybde và Scylla, nhà văn không được xích sang bất kỳ một bên nào và cũng không được ngoảnh mặt sang phía nọ hoặc phía kia.”
Đây là quan niệm của Alexandre Soljenitsyne đối với sứ mạng nhà văn! Kể ra, quan niệm này không độc đáo cho lắm. Điều đáng nói nơi đây chỉ là thái độ chân thành và lý tưởng của Alexandre Soljenitsyne mà thôi. Chính cái chân thành và lý tưởng của Soljenitsyne làm cho cái quan niệm trên dù sao cũng có một cái gì khác với ngôn ngữ sĩ khí của người cầm bút Việt Nam thời đại 1954-1970!
Vậy thì nơi nhà văn Soljenitsyne có một cái gì mới lạ, độc đáo? Về văn phong? Về kỹ thuật?
Chúng tôi không dám nói rằng là chính văn phong của Soljenitsyne một văn phong quen thuộc và gần gũi nhưng thực là xa cách với chúng ta – có tác dụng gì đối với bút pháp, với kỹ thuật hay không?
Nhưng quả thực Soljenitsyne là một nhà văn có một bút pháp tương đối mới:
“Theo tôi, không có nhân vật chính. Trong một tác phẩm chỉ có một nhân vật của truyện – nhà văn. Dù muốn, dù không, nhân vật ngự trị vẫn chiếm một chỗ đứng quá rộng, vẫn dành được mọi chú tâm của tác giả.
Vậy, tôi quan niệm là không có nhân vật chính. Mọi nhân vật lớn hay nhỏ đều là chính, đều làm chủ mọi tác động trong phạm vi của y là liên quan đến y, bên cạnh nhân vật ngự trị khi tất cả phải chịu trách nhiệm đồng đều về tất cả mọi nhân vật do mình dựng nên, hiểu rõ các tác động của mọi nhân vật do mình sắp đặt sai tử, trong khuôn khổ của một sự liên hệ và một tương quan giữa các nhân vật của truyện. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là đừng bao giờ để cho tưởng tượng kéo cả mình cả nhân vật đi quá xa.
Đấy là phương pháp của tôi áp dụng khi viết mấy cuốn truyện và sẽ áp dụng để viết một cuốn đang hình thành…”
Cái phương pháp này như thế nào? Hay hay dở? Chúng tôi không thể đưa ý kiến nơi đây. Nghĩa là không làm cái việc “khen phò mã tốt áo” vừa thừa vừa quê! Chúng tôi chỉ xin nhắc lại chi tiết sau đây: Là Soljenitsyne đã viết những tác phẩm ấy một cách đặc biệt khi trong tay giấy không bút cũng không. Do đó, ông phải sắp xếp gạn lọc bỏ túi tất cả đâu vào đó, từ ý tưởng câu chuyện và nhân vật thực cẩn thận tỉ mỉ… Rồi học thuộc lòng, thuộc như chảy để chờ ngày đưa nó lên mặt giấy…
Vậy phương pháp này có phải là một phương pháp riêng biệt của nhà văn phái sáng tạo một cách đặc biệt? Hay nó là phương pháp mới, sản phẩm của thời đại cần được phổ biến hoá?
Câu trả lời, chúng tôi xin dành cho các cây bút sáng tạo. Chúng tôi chỉ trình bày thêm sự chú trọng khai thác ngôn ngữ của Soljenitsyne:
“Càng ngày, tôi càng thấy rõ là nền văn chương của chúng tôi (cũng như mọi nước) chưa khai thác được cái kho tàng phong phú của tiếng Nga. Nói chung, ngôn ngữ của mọi nước, trong Thiên đàng đều bị ‘đơn vị hoá’ và ‘thống nhất hoá’ nên làm mất đi rất nhiều giá trị cổ truyền.
Bởi vậy, bắt đầu đi sâu vào ngôn ngữ Nga khi mới ở tù, càng ngày, tôi cũng hiểu rằng tiếng Nga có muôn vàn vẻ đẹp về ngữ vựng mà tôi sẽ gắng vận dụng, trước hết là những từ ngữ và mỹ tự gần với tiếng Nga hiện đại.”
Toàn bộ tác phẩm đã trình bày sơ lược trên đây là yếu tố hữu tình của sự nghiệp
nhà văn đã được Hội Hàn lâm Thụy Điển dựa vào một phần để quyết định dành cho
chủ nhân vinh dự của nhà văn được giải thưởng Nobel về văn chương năm 1970! Giải
thưởng Nobel còn được tặng cho Soljenitsyne vì những giá trị đạo đức mà ông là
người đã quyết tâm bảo vệ và bảo vệ được với một cái giá khá đắt khi
Soljenitsyne nhấn mạnh rằng xã hội này là xã hội của kỹ thuật, của nhu cầu hưởng
thụ gia tăng mà loài người đang lao vào tranh thủ điều kiện để thỏa mãn…
Giá trị đạo đức ấy cố nhiên phải rất lớn, nhiều mặt và nhiều khía cạnh trong đó có một chi tiết phải nêu ra đây:
Để cho nhà văn làm trọn thiên chức, xã hội phải cung ứng những gì?
Chúng tôi xin nhấn mạnh rằng nêu ra chi tiết này ở đây và sau đó trình bày lại những ý kiến của Soljenitsyne như một cách chạy trốn của người viết bài này, đúng hơn là một cách chạy tội.
Xã hội phải cung ứng những gì? Nhà văn đã chồng lên mình một núi Thái Sơn trách nhiệm đã nói một cách giản dị:
“Xã hội chỉ cần phê phán nhà văn một cách khách quan.”
Soljenitsyne chỉ đòi hỏi có thế mà cũng không được nhưng ông vẫn không thay đổi vì cho rằng:
“Tôi nghĩ rằng việc xã hội có bất công với một nhà văn đâu có phải là một sai lầm trọng đại? Sai lầm này đâu có phải là không sửa được?
Xã hội không nên chiều đãi các nhà văn quá!
Nhà văn phải coi bất công là những thử thách cần thiết vì chính nơi những bất công này, nơi những nguy cơ phải sẵn sàng chấp nhận, nhà văn mới làm tròn thiên chức.
Định mệnh của một nhà văn đâu phải là tình yêu bằng phẳng.”
Giá trị đạo đức ấy cố nhiên phải rất lớn, nhiều mặt và nhiều khía cạnh trong đó có một chi tiết phải nêu ra đây:
Để cho nhà văn làm trọn thiên chức, xã hội phải cung ứng những gì?
Chúng tôi xin nhấn mạnh rằng nêu ra chi tiết này ở đây và sau đó trình bày lại những ý kiến của Soljenitsyne như một cách chạy trốn của người viết bài này, đúng hơn là một cách chạy tội.
Xã hội phải cung ứng những gì? Nhà văn đã chồng lên mình một núi Thái Sơn trách nhiệm đã nói một cách giản dị:
“Xã hội chỉ cần phê phán nhà văn một cách khách quan.”
Soljenitsyne chỉ đòi hỏi có thế mà cũng không được nhưng ông vẫn không thay đổi vì cho rằng:
“Tôi nghĩ rằng việc xã hội có bất công với một nhà văn đâu có phải là một sai lầm trọng đại? Sai lầm này đâu có phải là không sửa được?
Xã hội không nên chiều đãi các nhà văn quá!
Nhà văn phải coi bất công là những thử thách cần thiết vì chính nơi những bất công này, nơi những nguy cơ phải sẵn sàng chấp nhận, nhà văn mới làm tròn thiên chức.
Định mệnh của một nhà văn đâu phải là tình yêu bằng phẳng.”
Tôi nghĩ rằng giá trị đạo đức để làm cho các ông Hàn Thụy Điển khâm phục chắc
chắn là cái quan niệm này cụ thể hoá bằng hành động cụ thể trên mặt văn chương!
Giá trị này, quả thực là xứng đáng rồi!
Giá trị này, quả thực là xứng đáng rồi!
[1] Trong
cuốn sách này, tác giả viết tên Alexandre Soljenitsyne theo cách viết trong tiếng
Pháp. Các tên riêng khác trong tập sách này cũng như vậy. (talawas)
“Lịch sử nước Nga chúng ta chưa bao giờ đẹp hơn nhờ chủ trương chặn ngòi bút của
nhà văn.”
A. Soljenitsyne
A. Soljenitsyne
Kính gởi Chủ tịch đoàn và các đại biểu Hội Liên hiệp Các nhà văn Liên Xô
Kính gởi quý vị biên tập viên các tạp chí và nhựt báo
Không được sử dụng diễn đàn hội nghị, tôi yêu cầu đại hội nghiên cứu các vấn đề sau: “Chúng nó chỉ biết yêu thương người chết rồi”.
Hội Liên hiệp Các nhà văn Liên Xô, trong tương lai, phải quyết liệt chống đối lại chủ trương kiểm duyệt, hàng chục năm vẫn nô lệ hoá nền văn nghệ của chúng ta một cách không thể tha thứ được. Vốn không được hiến pháp ưng thuận, chủ trương kiểm duyệt rõ ràng có tính chất bất hợp pháp. Tuy vậy, kiểm duyệt – nấp sau danh hiệu mập mờ là cơ quan văn hoá Glavit và không được đưa ra công khai – vẫn đè nặng lên nền văn nghệ của xứ sở. Nhân viên kiểm duyệt – vô học về văn chương – vẫn chi phối được tư tưởng của các nhà văn.
Là sản phẩm thời Trung cổ dai dẳng đến ngày nay, chủ trương kiểm duyệt đã đem tàn tích của tổ tiên xa xưa chụp lên đầu nhân loại bên bờ thế kỷ (XX). Mang bản chất phá hoại và chí chóe nhưng kiểm duyệt lại giành lấy khả năng phân biệt những tác phẩm có và không có giá trị một trong thời gian vô cùng. Nó không thừa nhận cho nhà văn có quyền phát biểu và trình bày những nhận xét lớn cả về đời sống tinh thần và đời sống luân lý của con người và của xã hội; không cho nhà văn giải thích một cách độc lập những vấn đề xã hội, những kinh nghiệm lịch sử được đánh dấu một cách sâu đậm trong đời sống của xứ sở chúng ta.
Tác phẩm nào phản ảnh được những âu lo và những ý nghĩ chín chắn của quần chúng, tác phẩm nào có tác dụng đối với những dân trên địa hạt tinh thần hoặc trên sự tiến hoá của lương tâm nhân loại nhất thiết phải kiểm duyệt cấm chỉ hoặc đàn áp vì những lý do ích kỷ, ngắn hạn, bất chấp đến những đòi hỏi nội tại của đời sống quần chúng.
Đã có nhiều tác phẩm giá trị của nhiều nhà văn trẻ, không tên tuổi bị các tòa soạn từ chối vì “sách không qua kiểm duyệt”. Nhiều hội viên của Hội, kể cả một số đại biểu hiện diện tại Đại hội này hiểu rõ mức tai hại của sự đầu hàng kiểm duyệt như thế nào.
Phải nghe theo kiểm duyệt về nội dung và hình thức; phải thay đổi các chương của các tác phẩm, phải đổi và chọn một tiêu đề vô thưởng vô phạt v.v…
Nghĩa là tác giả phải phá hỏng tác phẩm hoàn toàn hết mong sửa chữa… chỉ để được ấn hành. Quy luật của văn chương sẽ làm cho tác phẩm mất hết giá trị chỉ vì sự sửa chữa này… khi tác giả của nó là một cây bút có tài. Ngược lại, tác phẩm của những cây bút hạng bét sẽ không bị hư hỏng gì hết vì sự sửa chữa này. Kết quả: phần tinh hoa của văn chương Nga chỉ được chào đời sau khi đã chịu một sự sửa chữa cắt xén như vậy của kiểm duyệt! Có gì thê thảm hơn?
Phải! Thực là thê thảm, cái lý do thông thường của kiểm duyệt viện ra “có hại về ý thức hệ” bệnh hoạn chỉ là những lý do chỉ có một giá trị ngắn hạn, cục bộ và đổi thay cũng vì quan điểm chính trị của con người.
Đã có thời người ta cấm cả Dostoievski, nhà văn đã làm cho văn chương của nhân loại bừng sáng rực rỡ! Ngay cả trong tác phẩm của “Đốt”, đâu đã được in đủ. Dostoievski vẫn bị loại ra khỏi công trình giáo dục của học đường, khỏi các thư viện quần chúng.
Không những thế mà thôi, văn hào còn bị bôi nhọ đủ thứ tội! Ngoài “Đốt”, còn khối nhà văn khác cũng bị áp dụng một chế độ khốc liệt.
Esenin trong bao năm qua, chẳng đã bị coi là một tên “phản cách mạng” là gì? Những người đọc và giữ sách của Esenin nào thoát khỏi lỗi thời?
Rồi Maiakovsky trước đây là gì ngoài nhãn hiệu “tên vô chính phủ khốn kiếp”?
Còn nhiều nữa: Thơ của nữ sĩ Akhmatova và bị coi là “chống chế độ Xôviết” trong mấy chục năm liền… Mười lăm năm trước, các cố gắng rụt rè nhằm vận động cho thơ của nữ sĩ thiên tài Tsvetaeva bị coi là một sai lầm chính trị lớn lao!
Bây giờ thì những nhà văn nhà thơ bị bôi nhọ đã được phục hồi danh dự một phần. Bounine Boulgakov và Platonow đã được trả lại chỗ ngồi… chậm vài chục năm! Mandelstam, Volochine và Kljonew ngày nay đã được phục hồi giá trị dễ dàng, không bị ngăn cản nữa. Và cuối cùng, ngày Zanjatire và Kumizev trở lại văn đàn cũng không còn xa nữa!
Những người nói trên được phục hồi trong những điều kiện vào ngày nhắm mắt của nhà văn bị bôi nhọ là một thời gian quan trọng: Chỉ có khi lìa đời rồi, nhà văn chống chế độ mới được phục hồi danh dự, sớm hay muộn tùy theo lúc có thể đưa ra một luận vụ về sự sai lầm của người quá vãng! Cách đây chưa lâu, ai dám nhắc đến Pasternak, sách của ông được in và có khi còn được bình trong các cuộc hội họp văn nghệ! Đúng như Louchkine đã tiên đoán: “Chúng nó chỉ yêu được người chết rồi”.
Giấy phép “phục hồi danh dự” sách được xuất bản của nhà văn đã chết có tên kể trên đâu có gì bù đắp nổi những thiệt hại về xã hội và văn nghệ mà dân tộc này phải chịu chỉ vì chủ trương để chậm quái gở kia, vì chủ trương nô lệ hoá lương tâm nghệ thuật (những nhà văn đàn anh trong chu kỳ thập niên thứ hai của thế kỷ này như Pilnjak Platonov và Mandelstam đã tố cáo chủ trương nô lệ hoá văn nghệ ngay khi những mầm mống của chủ trương thần thánh hoá cá nhân, tính chất bất thường, nơi cá tính Staline mới bắt đầu lộ liễu. Nhưng họ bị thanh toán ngay hoặc bị bịt chặt miệng tức khắc, có ai nghe được họ?).
Văn chương không thể phát triển được khi bị phân loại “loại chấp nhận được’, “loại phải loại bỏ” khi “phải viết về cái này”, “không được viết về cái kia”! Một nền văn chương không phải là khí trời của thời đại, không dám truyền đến cho xã hội những đau khổ và khát vọng của nhân loại, không tiếp nhận kịp thời những nguy cơ về xã hội và luân lý đang đe dọa con người, sẽ không xứng đáng là văn chương. Nó sẽ không được quang cảnh tin cậy. Sách vở của văn chương này đâu có phải viết để đọc; nó chỉ đáng đem hủy đi mà thôi.
Văn chương Nga ngày nay đã đánh mất vai trò dẫn đạo cho văn chương của nhân loại như nó đã giữ được trong thế kỷ vừa qua và đầu thế kỷ này. Nó cũng mất luôn tính chất thực nghiệm phong phú – yếu tính văn chương đã khiến cho nó sáng chói trong thời gian từ 1920 trở về trước. Sinh hoạt văn chương của chúng ta xuất hiện trước thế giới quá nghèo nàn với loại tác phẩm sản xuất hàng loạt đồng đều, một màu sắc hình thức, trông còn tồi tàn hơn sinh hoạt thực tế của nó. Đây là một sự thực để chứng minh vô cùng: văn chương Nga sẽ khởi sắc ngay khi nó không bị đàn áp, hạn chế.
Văn chương Nga nghèo nàn làm cho văn chương nhân loại nghèo nàn thêm và mặt khác nó càng làm cho dư luận thế giới có một định kiến nặng nề về xứ sở chúng ta. Tôi dám quyết rằng nếu khai thác được thành quả của văn chương Nga, giải thoát nó khỏi những móng vuốt kìm hãm, văn chương của nhân loại sẽ thu thập được những kinh nghiệm tinh thần và trí thức của chúng ta sâu xa hơn. Bước tiến nghệ thuật của nhân loại sẽ rẽ theo một bước ngoặt, được tất cả sinh lực để đạt tới một bình diện mới của sự phát triển.
Bởi vậy tôi tha thiết đề nghị Đại hội – bằng lối đầu phiếu - đi đến chỗ dẹp bỏ mọi hình thức kiểm duyệt – công khai và mật – đối với mọi sáng tạo nghệ thuật và cho các nhà xuất bản cái quyền được in mà khỏi phải trình báo và xin phép bất kỳ cơ quan nào.
1. Bao nhiêu tài năng đã tiêu ma trong tù ngục?
Nội quy của Hội Liên hiệp các Nhà văn Xôviết không nêu lên rõ ràng và chính xác bổn phận của Hội đối với các hội viên như: “Bảo vệ tác quyền của nhà văn”, “bảo vệ quyền lợi khác của nhà văn” v.v… nên chúng ta đã có một kinh nghiệm đau xót trong ba mươi năm vừa qua.
Chúng ta đã có một Hội Liên hiệp của các Nhà văn Xôviết không bảo vệ quyền lợi của các nhà văn: Hội đã không chú ý đến tác quyền và cũng không thèm bảo vệ các quyền lợi khác của các nhà văn bị đàn áp.
Rất nhiều nhà văn như Boulgakov, Akhmatova, Platonov, Alexandre, Grine, Zoshchenko, Tsvetaeva, Pasternak và Vassili Grossman, hồi sinh thời, đã bị bôi nhọ trong các trang báo, các diễn đàn công cộng mà không được cấp một phương tiện để tự vệ nào. Hội Liên hiệp các Nhà văn đã không cho họ sử dụng các cơ quan ngôn luận của Hội để biện minh chống đỡ mà còn phụ họa với kiểm duyệt chính các nhân vật lãnh đạo Hội đã là những người đi đầu trong hàng ngũ những người đã đàn áp họ. Những nhà văn nhà thơ đã làm cho văn học và nghệ thuật Nga thế kỷ XX có quyền kiêu hãnh đã bị khai trừ, bị ngăn cản nhưng không được gia nhập Hội. Các nhà lãnh đạo Hội vì hèn nhát đã bỏ rơi hội viên, để cho họ bị lưu đày tù tội và chết chóc: Pavel Vassitiev, Mendestam, Artem Vassely Lilnjak, Babel Tabidze Fabolotsky… và nhiều người khác nữa. Tôi nói nhiều, rất nhiều từ Đại hội XX đến nay đã có hơn sáu trăm nhà văn và nhà thơ hoàn toàn vô tội vẫn bị Hội Liên hiệp các Nhà văn – quá ngoan ngoãn với chính phủ – bỏ rơi trong tù và trên đất lưu đày!
Danh sách những người bất hạnh này chắc phải dài hơn nữa. Chắc chắn là đoạn chót còn dài hơn nữa, ngoài sự hiểu biết của chúng tôi. Tôi chỉ nắm được nơi đây tên tuổi của các nhà văn và nhà thơ trẻ mà tôi được quen biết một cách tình cờ, tài năng bị tiêu ma trong ngục tối, tác phẩm nằm chết trong căn phòng của cảnh sát chính thời Yagoda-Ezhov-Beria Abalaounov.
Các nhà lãnh đạo hội mới được bầu lên đâu có bị bắt buộc phải che giấu tội trạng của những nhà lãnh đạo Hôi tiền nhiệm, đâu có phải chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra trước nhiệm kỳ này.
Tôi xin đề nghị Đại hội hãy vạch ra một cách rõ ràng và cụ thể những sự bảo đảm về quyền tự vệ mà Hội sẽ dành cho các hội viên nạn nhân của những hành động bôi nhọ, những đàn áp phi lý và bất công ngõ hầu tiêu diệt những tệ đoan này trong tương lai, nơi chương XXII của nội quy.
Kính gởi quý vị biên tập viên các tạp chí và nhựt báo
Không được sử dụng diễn đàn hội nghị, tôi yêu cầu đại hội nghiên cứu các vấn đề sau: “Chúng nó chỉ biết yêu thương người chết rồi”.
Hội Liên hiệp Các nhà văn Liên Xô, trong tương lai, phải quyết liệt chống đối lại chủ trương kiểm duyệt, hàng chục năm vẫn nô lệ hoá nền văn nghệ của chúng ta một cách không thể tha thứ được. Vốn không được hiến pháp ưng thuận, chủ trương kiểm duyệt rõ ràng có tính chất bất hợp pháp. Tuy vậy, kiểm duyệt – nấp sau danh hiệu mập mờ là cơ quan văn hoá Glavit và không được đưa ra công khai – vẫn đè nặng lên nền văn nghệ của xứ sở. Nhân viên kiểm duyệt – vô học về văn chương – vẫn chi phối được tư tưởng của các nhà văn.
Là sản phẩm thời Trung cổ dai dẳng đến ngày nay, chủ trương kiểm duyệt đã đem tàn tích của tổ tiên xa xưa chụp lên đầu nhân loại bên bờ thế kỷ (XX). Mang bản chất phá hoại và chí chóe nhưng kiểm duyệt lại giành lấy khả năng phân biệt những tác phẩm có và không có giá trị một trong thời gian vô cùng. Nó không thừa nhận cho nhà văn có quyền phát biểu và trình bày những nhận xét lớn cả về đời sống tinh thần và đời sống luân lý của con người và của xã hội; không cho nhà văn giải thích một cách độc lập những vấn đề xã hội, những kinh nghiệm lịch sử được đánh dấu một cách sâu đậm trong đời sống của xứ sở chúng ta.
Tác phẩm nào phản ảnh được những âu lo và những ý nghĩ chín chắn của quần chúng, tác phẩm nào có tác dụng đối với những dân trên địa hạt tinh thần hoặc trên sự tiến hoá của lương tâm nhân loại nhất thiết phải kiểm duyệt cấm chỉ hoặc đàn áp vì những lý do ích kỷ, ngắn hạn, bất chấp đến những đòi hỏi nội tại của đời sống quần chúng.
Đã có nhiều tác phẩm giá trị của nhiều nhà văn trẻ, không tên tuổi bị các tòa soạn từ chối vì “sách không qua kiểm duyệt”. Nhiều hội viên của Hội, kể cả một số đại biểu hiện diện tại Đại hội này hiểu rõ mức tai hại của sự đầu hàng kiểm duyệt như thế nào.
Phải nghe theo kiểm duyệt về nội dung và hình thức; phải thay đổi các chương của các tác phẩm, phải đổi và chọn một tiêu đề vô thưởng vô phạt v.v…
Nghĩa là tác giả phải phá hỏng tác phẩm hoàn toàn hết mong sửa chữa… chỉ để được ấn hành. Quy luật của văn chương sẽ làm cho tác phẩm mất hết giá trị chỉ vì sự sửa chữa này… khi tác giả của nó là một cây bút có tài. Ngược lại, tác phẩm của những cây bút hạng bét sẽ không bị hư hỏng gì hết vì sự sửa chữa này. Kết quả: phần tinh hoa của văn chương Nga chỉ được chào đời sau khi đã chịu một sự sửa chữa cắt xén như vậy của kiểm duyệt! Có gì thê thảm hơn?
Phải! Thực là thê thảm, cái lý do thông thường của kiểm duyệt viện ra “có hại về ý thức hệ” bệnh hoạn chỉ là những lý do chỉ có một giá trị ngắn hạn, cục bộ và đổi thay cũng vì quan điểm chính trị của con người.
Đã có thời người ta cấm cả Dostoievski, nhà văn đã làm cho văn chương của nhân loại bừng sáng rực rỡ! Ngay cả trong tác phẩm của “Đốt”, đâu đã được in đủ. Dostoievski vẫn bị loại ra khỏi công trình giáo dục của học đường, khỏi các thư viện quần chúng.
Không những thế mà thôi, văn hào còn bị bôi nhọ đủ thứ tội! Ngoài “Đốt”, còn khối nhà văn khác cũng bị áp dụng một chế độ khốc liệt.
Esenin trong bao năm qua, chẳng đã bị coi là một tên “phản cách mạng” là gì? Những người đọc và giữ sách của Esenin nào thoát khỏi lỗi thời?
Rồi Maiakovsky trước đây là gì ngoài nhãn hiệu “tên vô chính phủ khốn kiếp”?
Còn nhiều nữa: Thơ của nữ sĩ Akhmatova và bị coi là “chống chế độ Xôviết” trong mấy chục năm liền… Mười lăm năm trước, các cố gắng rụt rè nhằm vận động cho thơ của nữ sĩ thiên tài Tsvetaeva bị coi là một sai lầm chính trị lớn lao!
Bây giờ thì những nhà văn nhà thơ bị bôi nhọ đã được phục hồi danh dự một phần. Bounine Boulgakov và Platonow đã được trả lại chỗ ngồi… chậm vài chục năm! Mandelstam, Volochine và Kljonew ngày nay đã được phục hồi giá trị dễ dàng, không bị ngăn cản nữa. Và cuối cùng, ngày Zanjatire và Kumizev trở lại văn đàn cũng không còn xa nữa!
Những người nói trên được phục hồi trong những điều kiện vào ngày nhắm mắt của nhà văn bị bôi nhọ là một thời gian quan trọng: Chỉ có khi lìa đời rồi, nhà văn chống chế độ mới được phục hồi danh dự, sớm hay muộn tùy theo lúc có thể đưa ra một luận vụ về sự sai lầm của người quá vãng! Cách đây chưa lâu, ai dám nhắc đến Pasternak, sách của ông được in và có khi còn được bình trong các cuộc hội họp văn nghệ! Đúng như Louchkine đã tiên đoán: “Chúng nó chỉ yêu được người chết rồi”.
Giấy phép “phục hồi danh dự” sách được xuất bản của nhà văn đã chết có tên kể trên đâu có gì bù đắp nổi những thiệt hại về xã hội và văn nghệ mà dân tộc này phải chịu chỉ vì chủ trương để chậm quái gở kia, vì chủ trương nô lệ hoá lương tâm nghệ thuật (những nhà văn đàn anh trong chu kỳ thập niên thứ hai của thế kỷ này như Pilnjak Platonov và Mandelstam đã tố cáo chủ trương nô lệ hoá văn nghệ ngay khi những mầm mống của chủ trương thần thánh hoá cá nhân, tính chất bất thường, nơi cá tính Staline mới bắt đầu lộ liễu. Nhưng họ bị thanh toán ngay hoặc bị bịt chặt miệng tức khắc, có ai nghe được họ?).
Văn chương không thể phát triển được khi bị phân loại “loại chấp nhận được’, “loại phải loại bỏ” khi “phải viết về cái này”, “không được viết về cái kia”! Một nền văn chương không phải là khí trời của thời đại, không dám truyền đến cho xã hội những đau khổ và khát vọng của nhân loại, không tiếp nhận kịp thời những nguy cơ về xã hội và luân lý đang đe dọa con người, sẽ không xứng đáng là văn chương. Nó sẽ không được quang cảnh tin cậy. Sách vở của văn chương này đâu có phải viết để đọc; nó chỉ đáng đem hủy đi mà thôi.
Văn chương Nga ngày nay đã đánh mất vai trò dẫn đạo cho văn chương của nhân loại như nó đã giữ được trong thế kỷ vừa qua và đầu thế kỷ này. Nó cũng mất luôn tính chất thực nghiệm phong phú – yếu tính văn chương đã khiến cho nó sáng chói trong thời gian từ 1920 trở về trước. Sinh hoạt văn chương của chúng ta xuất hiện trước thế giới quá nghèo nàn với loại tác phẩm sản xuất hàng loạt đồng đều, một màu sắc hình thức, trông còn tồi tàn hơn sinh hoạt thực tế của nó. Đây là một sự thực để chứng minh vô cùng: văn chương Nga sẽ khởi sắc ngay khi nó không bị đàn áp, hạn chế.
Văn chương Nga nghèo nàn làm cho văn chương nhân loại nghèo nàn thêm và mặt khác nó càng làm cho dư luận thế giới có một định kiến nặng nề về xứ sở chúng ta. Tôi dám quyết rằng nếu khai thác được thành quả của văn chương Nga, giải thoát nó khỏi những móng vuốt kìm hãm, văn chương của nhân loại sẽ thu thập được những kinh nghiệm tinh thần và trí thức của chúng ta sâu xa hơn. Bước tiến nghệ thuật của nhân loại sẽ rẽ theo một bước ngoặt, được tất cả sinh lực để đạt tới một bình diện mới của sự phát triển.
Bởi vậy tôi tha thiết đề nghị Đại hội – bằng lối đầu phiếu - đi đến chỗ dẹp bỏ mọi hình thức kiểm duyệt – công khai và mật – đối với mọi sáng tạo nghệ thuật và cho các nhà xuất bản cái quyền được in mà khỏi phải trình báo và xin phép bất kỳ cơ quan nào.
1. Bao nhiêu tài năng đã tiêu ma trong tù ngục?
Nội quy của Hội Liên hiệp các Nhà văn Xôviết không nêu lên rõ ràng và chính xác bổn phận của Hội đối với các hội viên như: “Bảo vệ tác quyền của nhà văn”, “bảo vệ quyền lợi khác của nhà văn” v.v… nên chúng ta đã có một kinh nghiệm đau xót trong ba mươi năm vừa qua.
Chúng ta đã có một Hội Liên hiệp của các Nhà văn Xôviết không bảo vệ quyền lợi của các nhà văn: Hội đã không chú ý đến tác quyền và cũng không thèm bảo vệ các quyền lợi khác của các nhà văn bị đàn áp.
Rất nhiều nhà văn như Boulgakov, Akhmatova, Platonov, Alexandre, Grine, Zoshchenko, Tsvetaeva, Pasternak và Vassili Grossman, hồi sinh thời, đã bị bôi nhọ trong các trang báo, các diễn đàn công cộng mà không được cấp một phương tiện để tự vệ nào. Hội Liên hiệp các Nhà văn đã không cho họ sử dụng các cơ quan ngôn luận của Hội để biện minh chống đỡ mà còn phụ họa với kiểm duyệt chính các nhân vật lãnh đạo Hội đã là những người đi đầu trong hàng ngũ những người đã đàn áp họ. Những nhà văn nhà thơ đã làm cho văn học và nghệ thuật Nga thế kỷ XX có quyền kiêu hãnh đã bị khai trừ, bị ngăn cản nhưng không được gia nhập Hội. Các nhà lãnh đạo Hội vì hèn nhát đã bỏ rơi hội viên, để cho họ bị lưu đày tù tội và chết chóc: Pavel Vassitiev, Mendestam, Artem Vassely Lilnjak, Babel Tabidze Fabolotsky… và nhiều người khác nữa. Tôi nói nhiều, rất nhiều từ Đại hội XX đến nay đã có hơn sáu trăm nhà văn và nhà thơ hoàn toàn vô tội vẫn bị Hội Liên hiệp các Nhà văn – quá ngoan ngoãn với chính phủ – bỏ rơi trong tù và trên đất lưu đày!
Danh sách những người bất hạnh này chắc phải dài hơn nữa. Chắc chắn là đoạn chót còn dài hơn nữa, ngoài sự hiểu biết của chúng tôi. Tôi chỉ nắm được nơi đây tên tuổi của các nhà văn và nhà thơ trẻ mà tôi được quen biết một cách tình cờ, tài năng bị tiêu ma trong ngục tối, tác phẩm nằm chết trong căn phòng của cảnh sát chính thời Yagoda-Ezhov-Beria Abalaounov.
Các nhà lãnh đạo hội mới được bầu lên đâu có bị bắt buộc phải che giấu tội trạng của những nhà lãnh đạo Hôi tiền nhiệm, đâu có phải chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra trước nhiệm kỳ này.
Tôi xin đề nghị Đại hội hãy vạch ra một cách rõ ràng và cụ thể những sự bảo đảm về quyền tự vệ mà Hội sẽ dành cho các hội viên nạn nhân của những hành động bôi nhọ, những đàn áp phi lý và bất công ngõ hầu tiêu diệt những tệ đoan này trong tương lai, nơi chương XXII của nội quy.
Nếu Đại hội không muốn làm ngơ trước những gì trình bày trong xã hội này, tôi
xin yêu cầu Đại hội nghiên cứu về những biện pháp cấm đoán và đàn áp mà bản
thân tôi bị nếm trải.
Cuốn Nhóm thứ nhất (Le
premier Cercle) của tôi đã bị cảnh sát chính trị cưỡng đoạt cách đây hai năm và
ngăn cản không cho nó được ấn hành theo thủ tục thông thường… Rồi nó được ấn
hành trong một lần “xuất bản đặc biệt, không thương mãi” ngoài ý muốn của tác
giả, không được thông báo gì hết.
Như vậy qua kỳ xuất bản đặc biệt này, sách in cho một số người đặc biệt, các phần tử cạo giấy của văn chương đọc mà thôi, và đã bị cấm đoán không được ra mắt đa số các nhà văn chân chính, nói gì đến quần chúng.
Tôi không có phương tiện đưa cuốn tiểu thuyết này ra thảo luận tự do trước Hội Liên hiệp các Nhà văn và cũng bị bó tay không ngăn cản được những hành vi lợi dụng đạo văn.
Như vậy qua kỳ xuất bản đặc biệt này, sách in cho một số người đặc biệt, các phần tử cạo giấy của văn chương đọc mà thôi, và đã bị cấm đoán không được ra mắt đa số các nhà văn chân chính, nói gì đến quần chúng.
Tôi không có phương tiện đưa cuốn tiểu thuyết này ra thảo luận tự do trước Hội Liên hiệp các Nhà văn và cũng bị bó tay không ngăn cản được những hành vi lợi dụng đạo văn.
Một số bằng hữu viết từ mười
lăm đến hai mươi năm nay, nhiều tác phẩm viết không để xuất bản cũng bị cưỡng
đoạt nốt! Rồi người ta đã đem ra trích với một dụng ý rõ rệt, rồi đem in thành
một ấn phẩm “xuất bản đặc biệt, không thương mãi” cho những người đặc biệt nói
trên đọc.
Trong tập này, có một bản bi kịch thơ tên là Bữa tiệc của những người chiến thắng. Bi kịch này do tôi viết lúc đầy uất hận tại tập trung, bắt tù nhân mang số hiệu trước ngực, sau lưng, trên mũ, cánh tay, nghĩa là nơi chúng tôi bị xử tử cho chết dần bằng cách bỏ đói, bị xã hội bên ngoài bỏ quên, không một ai lên tiếng tố cáo sự đàn áp chúng tôi trong tù. Tác phẩm này đã bị tôi bỏ sau Đại hội XX của Đảng nhưng bây giờ lại được gắn cho nhãn hiệu “sáng tác mới nhất của Soljenitsyne”.
Trong tập này, có một bản bi kịch thơ tên là Bữa tiệc của những người chiến thắng. Bi kịch này do tôi viết lúc đầy uất hận tại tập trung, bắt tù nhân mang số hiệu trước ngực, sau lưng, trên mũ, cánh tay, nghĩa là nơi chúng tôi bị xử tử cho chết dần bằng cách bỏ đói, bị xã hội bên ngoài bỏ quên, không một ai lên tiếng tố cáo sự đàn áp chúng tôi trong tù. Tác phẩm này đã bị tôi bỏ sau Đại hội XX của Đảng nhưng bây giờ lại được gắn cho nhãn hiệu “sáng tác mới nhất của Soljenitsyne”.
Đối với tôi, người đã tham
gia chiến đấu trên cương vị một pháo đội trưởng của quân chủng pháo, được gắn
huân chương quân công ngay tại chiến trường, người ta đã đối phó bằng một chiến
dịch bôi nhọ kéo dài từ ba năm nay với những lập luận vô nghĩa nào là “Soljenitsyne
bị bắt vì tội tư pháp”, nào “Soljenitsyne đã nhảy sang hàng ngũ Đức, hoạt động
bên cạnh người Đức, phản bội tổ quốc” v.v…
Người ta phải đưa những lập luận nói trên mới giải thích được việc giam giữ và lưu đày tôi trong mười một năm liền vì tội chỉ trích Staline. Tôi được biết rõ ràng rằng trong các lớp huấn luyện hoạt động đảng viên của Đảng, trong các cuộc họp, nhiều nhân vật có thẩm quyền của Đảng đã thừa nhận các lập luận bôi nhọ này.
Để biện minh và tự vệ, tôi đã khẩn thiết yêu cầu Hội Nhà văn và báo chí giúp tôi minh oan. Báo chí không đăng bài trả lời của tôi, các nhà lãnh đạo Hội cũng làm thinh không trả lời cho tôi. Ngược lại, dựa vào bản thảo cưỡng đoạt được, đem về sửa lại với chủ ý xuyên tạc, năm nay người ta lại tổ chức một chiến dịch bôi nhọ mạnh mẽ gấp đôi trước kia từ những diễn đàn cao đẳng hơn mà không cho tôi một phương tiện trả lời nào hết, và nhắc nhở!
Người ta phải đưa những lập luận nói trên mới giải thích được việc giam giữ và lưu đày tôi trong mười một năm liền vì tội chỉ trích Staline. Tôi được biết rõ ràng rằng trong các lớp huấn luyện hoạt động đảng viên của Đảng, trong các cuộc họp, nhiều nhân vật có thẩm quyền của Đảng đã thừa nhận các lập luận bôi nhọ này.
Để biện minh và tự vệ, tôi đã khẩn thiết yêu cầu Hội Nhà văn và báo chí giúp tôi minh oan. Báo chí không đăng bài trả lời của tôi, các nhà lãnh đạo Hội cũng làm thinh không trả lời cho tôi. Ngược lại, dựa vào bản thảo cưỡng đoạt được, đem về sửa lại với chủ ý xuyên tạc, năm nay người ta lại tổ chức một chiến dịch bôi nhọ mạnh mẽ gấp đôi trước kia từ những diễn đàn cao đẳng hơn mà không cho tôi một phương tiện trả lời nào hết, và nhắc nhở!
Phần thứ nhất cuốn tiểu thuyết Trại
ung thư – được phân bộ tiểu thuyết của Phân hội các Nhà văn Mạc Tư Khoa chấp
nhận – chỉ được trích in rời rạc. Năm tạp chí đã từ chối (như Juesda và Prostorchẳng
hạn) hoặc không in đúng với nguyên tác như Novy Mir…
Bi kịch Con hươu và
nàng kỹ nữ của nhà tù, được kịch viên Sovremenik chọn lựa trình diễn từ năm
1952, đến nay vẫn không được phép đưa lên sân khấu.
Chuyện phim Chiến xa
xung kích biết sự thực, bi kịch Ánh sáng ở trong người… và những truyện ngắn
“nho nhỏ” của tôi không tìm ra đạo diễn và nhà xuất bản mặc dầu nhiều người muốn.
Truyện của tôi đăng trên tạp
chí Novir bị cắt nát ra, không thể tập trung thành một cuốn truyện.
Ngoài ra, các cơ quan văn nghệ, tỉ dụ như: Sovietsky, Pisatel, Goslitzzdat,
Bibliotheka Ovonyka… đều không được phép phổ biến tác phẩm của tôi. Do đó, mọi
tác phẩm của tôi không đến tận quảng đại quần chúng.
Mặt khác, tôi bị tước đoạt hết
mọi biện pháp tiếp xúc với độc giả. Như những buổi đọc truyện của tôi trên đài
phát thanh chẳng hạn, trước đây đã được ấn định là 10 buổi trong tháng 11 năm
1966 đã bị cúp đến 9 lần vào giờ chót.
Ngoài ra, việc cho người khác đọc và chép lại một thủ bản tác phẩm – vốn là một việc làm tự do cách đây 5 thế kỷ dưới thời Nga hoàng dành cho giới chép sách – bây giờ lại là một việc làm phạm pháp, tại xứ sở này, riêng với tôi. Do đó, việc sáng tác của tôi bị bóp chết cứng, cá nhân bị giam hãm và bôi lọ đủ điều.
Ngoài ra, việc cho người khác đọc và chép lại một thủ bản tác phẩm – vốn là một việc làm tự do cách đây 5 thế kỷ dưới thời Nga hoàng dành cho giới chép sách – bây giờ lại là một việc làm phạm pháp, tại xứ sở này, riêng với tôi. Do đó, việc sáng tác của tôi bị bóp chết cứng, cá nhân bị giam hãm và bôi lọ đủ điều.
Tôi không hiểu rằng trước sự
vi phạm thô bạo tác quyền và các quyền khác nữa của nhà văn, Đại hội lần thứ tư
của Hiệp hội các Nhà văn liên bang Nga có lên tiếng bênh vực và bảo vệ nạn nhân
– là tôi – hay không?
2. Tôi đã sẵn sàng chết cho sự thực sống và tiến lên
Một quyết định như vậy hết sức quan trọng. Nó sẽ có một tác dụng quyết định đối với sự nghiệp văn chương của một số đại biểu tại đại hội này trong tương lai.
Về phần đông tôi hoàn toàn yên tâm vì tôi biết chắc rằng tôi sẽ làm tròn thiên chức của nhà văn trong mọi hoàn cảnh. Tôi biết riêng sứ mạng của nhà văn và như tôi sẽ được hoàn tất một cách rõ ràng đầy vinh quang khi tôi không còn có mặt ở cõi đời nữa.
Nhưng không có một ai ngăn cản được sự thực xuất hiện; riêng cá nhân tôi, tôi rất sẵn lòng chết cho sự thực sống và tiến lên…
Hy vọng rằng những bài học đã nhận được sẽ làm cho chúng ta biết rõ rằng không nên chặn ngòi bút của nhà văn lúc sinh tồn…
Vì chưa bao giờ lịch sử của ta đẹp hơn lên vì chủ trương ấy.
Alexandre Soljenitsyne
16-5-1967
2. Tôi đã sẵn sàng chết cho sự thực sống và tiến lên
Một quyết định như vậy hết sức quan trọng. Nó sẽ có một tác dụng quyết định đối với sự nghiệp văn chương của một số đại biểu tại đại hội này trong tương lai.
Về phần đông tôi hoàn toàn yên tâm vì tôi biết chắc rằng tôi sẽ làm tròn thiên chức của nhà văn trong mọi hoàn cảnh. Tôi biết riêng sứ mạng của nhà văn và như tôi sẽ được hoàn tất một cách rõ ràng đầy vinh quang khi tôi không còn có mặt ở cõi đời nữa.
Nhưng không có một ai ngăn cản được sự thực xuất hiện; riêng cá nhân tôi, tôi rất sẵn lòng chết cho sự thực sống và tiến lên…
Hy vọng rằng những bài học đã nhận được sẽ làm cho chúng ta biết rõ rằng không nên chặn ngòi bút của nhà văn lúc sinh tồn…
Vì chưa bao giờ lịch sử của ta đẹp hơn lên vì chủ trương ấy.
Alexandre Soljenitsyne
16-5-1967
Phần 3: Thư gởi thư ký đoàn Hội các Nhà văn
Kính gởi Thư ký đoàn Hội Liên hiệp các Nhà văn
Kính gởi quý vị thư ký
Lá thư của tôi gởi Đại hội Liên bang Nga lần thứ IX của Hiệp hội các Nhà văn đã không có một tiếng vang, một lời phúc đáp nào dù nó được hơn một trăm nhà văn tán thành. Chỉ có một lập luận, một giọng “đồng ca” cùng cất lên để trấn an quần chúng, phù hợp với một khẩu lệnh duy nhất do “trên” đưa xuống.
Kính gởi Thư ký đoàn Hội Liên hiệp các Nhà văn
Kính gởi quý vị thư ký
Lá thư của tôi gởi Đại hội Liên bang Nga lần thứ IX của Hiệp hội các Nhà văn đã không có một tiếng vang, một lời phúc đáp nào dù nó được hơn một trăm nhà văn tán thành. Chỉ có một lập luận, một giọng “đồng ca” cùng cất lên để trấn an quần chúng, phù hợp với một khẩu lệnh duy nhất do “trên” đưa xuống.
Bản thảo viết tay mấy tác phẩm
bị cưỡng đoạt sẽ trả lại cho tôi.
Cuốn Trại ung thư và
một tập truyện ngắn nữa sẽ được ấn hành.
Nhưng, như quý vị đã biết, đấy
chỉ là tưởng tượng, dựng đứng hoàn toàn.
Các vị thư ký của Ủy ban Lãnh đạo Hội C. Markov, K.V. Voronkov, Sartakov và L. Solobev, trong buổi họp ngày 12 tháng 6 năm 1967, còn tuyên bố với tôi rằng Ủy ban Lãnh đạo quan niệm rằng Ủy ban có bổn phận phải lên án những lập luận bôi nhọ hạ cấp và sự xuyên tạc bẩn thỉu nhắm vào cá nhân và quá khứ quân sự của tôi. Vậy mà sự thanh minh của Ủy ban chưa ai thấy đâu hết mà sự bội nhọ lại gia tăng mạnh mẽ hơn nhiều.
Ngay trong các cuộc hội thảo của lớp đầu tạo đảng viên hoạt động, người ta còn đẻ ra một luận điệu ngu ngốc mới để đem ra phổ biến: “Alexandre Soljenitsyne sắp chuồn sang Ai Cập hoặc sang Anh”.
Tôi xin quý vị tác giả của luận điệu trên yên tâm vì cơ hội để chuồn ra ngoại quốc, tôi đâu có sẵn như quý vị!
Hơn nữa, các nhân vật tai to mặt lớn còn biểu lộ một cách hăng hái và ồn ào sự thất vọng nặng nề của họ khi tôi không chết trong nhà ngục mà lại được trả tự do.
Các luận điệu bôi nhọ lại càng được phổ biến một cách nặng nề và hăng hái sau khi cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch xuất bản. Bây giờ thì cuốn sách ấy đã được rút ra khỏi các thư viện công cộng một cách kín đáo.
Cũng chính các vị thư ký trên đã hứa sẽ chú trọng đến vấn đề, ít nhất cũng làm cho cuốn Trại ung thưđược ấn hành. Nhưng ba tháng đã trải qua trong im lặng, chẳng thấy có gì hết. Trong ba tháng ấy, cả bốn mươi hai vị thư ký của Hội cũng mặc kệ, không ủng hộ tác giả để cuốn truyện được xuất bản. Vì thế, người ta thấy được một hiện tượng kỳ cục: thái độ thiếu nhiệt tình cấm in nó quân bình với nhau suốt cả một năm dài và đưa đến kết quả: sách không thể ra đời! Ngay trong hiện tại, tạp chí Novy Mir muốn đăng truyện Trại ung thư nhưng không được phép.
Phải chăng Thư ký đoàn muốn dùng biện pháp lần khân kéo dài tình trạng dùng dằng này để cho tác phẩm chưa biết bao giờ mới được ra đời rồi cuối cùng sẽ xé lẻ ra và bẻ gãy đi khiến cho nó không thành được chỗ đứng trong văn học sử!
Trong thời gian này, tác phẩm Trại ung thư đã gặt hái được nhiều thành quả hiển nhiên, đặc biệt hơn cả là thành quả nó thu hoạch được với giới văn nghệ. Có hơn một trăm bản đánh máy được độc giả tự phổ biến cho nhau ra ngoài. Do đó, trong cuộc họp ngày 12 tháng 6, tôi đã khuyến cáo Thư ký đoàn về tính chất cấp thiết của việc ấn hành cuốn Trại ung thư, ấn hành thực gấp rút. Nếu không chúng tôi sẽ phải chứng kiến cuốn Trại ung thư xuất bản lần thứ nhất sẽ không phải là sách viết bằng tiếng Nga vì chúng ta bất lực không có đủ quyền hạn để ngăn cản Tây phương xuất bản nó – nếu tình trạng này kéo dài. Vì sự lo lắng nói trên cho phép tôi chấm dứt thái độ im lặng nhẫn nhịn mà tôi đã cố giữ trong mấy tháng vừa qua. Tôi thấy đã đến lúc phải tuyên bố rằng:
“Nếu để cho cuốn tiểu thuyết Trại ung thư được xuất bản lần thứ nhất không phải là sáng tác viết bằng tiếng Nga, xuất bản ở Nga thì đấy là lỗi lầm (hay ý muốn thầm kín?) của Thư ký đoàn Ủy ban Chỉ đạo Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô.”
Bởi vậy, tôi xin nhấn mạnh lần chót rằng cuốn truyện này phải được ấn hành gấp rút, tức khắc.
Ngày 12 tháng 9 năm 1967
Các vị thư ký của Ủy ban Lãnh đạo Hội C. Markov, K.V. Voronkov, Sartakov và L. Solobev, trong buổi họp ngày 12 tháng 6 năm 1967, còn tuyên bố với tôi rằng Ủy ban Lãnh đạo quan niệm rằng Ủy ban có bổn phận phải lên án những lập luận bôi nhọ hạ cấp và sự xuyên tạc bẩn thỉu nhắm vào cá nhân và quá khứ quân sự của tôi. Vậy mà sự thanh minh của Ủy ban chưa ai thấy đâu hết mà sự bội nhọ lại gia tăng mạnh mẽ hơn nhiều.
Ngay trong các cuộc hội thảo của lớp đầu tạo đảng viên hoạt động, người ta còn đẻ ra một luận điệu ngu ngốc mới để đem ra phổ biến: “Alexandre Soljenitsyne sắp chuồn sang Ai Cập hoặc sang Anh”.
Tôi xin quý vị tác giả của luận điệu trên yên tâm vì cơ hội để chuồn ra ngoại quốc, tôi đâu có sẵn như quý vị!
Hơn nữa, các nhân vật tai to mặt lớn còn biểu lộ một cách hăng hái và ồn ào sự thất vọng nặng nề của họ khi tôi không chết trong nhà ngục mà lại được trả tự do.
Các luận điệu bôi nhọ lại càng được phổ biến một cách nặng nề và hăng hái sau khi cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch xuất bản. Bây giờ thì cuốn sách ấy đã được rút ra khỏi các thư viện công cộng một cách kín đáo.
Cũng chính các vị thư ký trên đã hứa sẽ chú trọng đến vấn đề, ít nhất cũng làm cho cuốn Trại ung thưđược ấn hành. Nhưng ba tháng đã trải qua trong im lặng, chẳng thấy có gì hết. Trong ba tháng ấy, cả bốn mươi hai vị thư ký của Hội cũng mặc kệ, không ủng hộ tác giả để cuốn truyện được xuất bản. Vì thế, người ta thấy được một hiện tượng kỳ cục: thái độ thiếu nhiệt tình cấm in nó quân bình với nhau suốt cả một năm dài và đưa đến kết quả: sách không thể ra đời! Ngay trong hiện tại, tạp chí Novy Mir muốn đăng truyện Trại ung thư nhưng không được phép.
Phải chăng Thư ký đoàn muốn dùng biện pháp lần khân kéo dài tình trạng dùng dằng này để cho tác phẩm chưa biết bao giờ mới được ra đời rồi cuối cùng sẽ xé lẻ ra và bẻ gãy đi khiến cho nó không thành được chỗ đứng trong văn học sử!
Trong thời gian này, tác phẩm Trại ung thư đã gặt hái được nhiều thành quả hiển nhiên, đặc biệt hơn cả là thành quả nó thu hoạch được với giới văn nghệ. Có hơn một trăm bản đánh máy được độc giả tự phổ biến cho nhau ra ngoài. Do đó, trong cuộc họp ngày 12 tháng 6, tôi đã khuyến cáo Thư ký đoàn về tính chất cấp thiết của việc ấn hành cuốn Trại ung thư, ấn hành thực gấp rút. Nếu không chúng tôi sẽ phải chứng kiến cuốn Trại ung thư xuất bản lần thứ nhất sẽ không phải là sách viết bằng tiếng Nga vì chúng ta bất lực không có đủ quyền hạn để ngăn cản Tây phương xuất bản nó – nếu tình trạng này kéo dài. Vì sự lo lắng nói trên cho phép tôi chấm dứt thái độ im lặng nhẫn nhịn mà tôi đã cố giữ trong mấy tháng vừa qua. Tôi thấy đã đến lúc phải tuyên bố rằng:
“Nếu để cho cuốn tiểu thuyết Trại ung thư được xuất bản lần thứ nhất không phải là sáng tác viết bằng tiếng Nga, xuất bản ở Nga thì đấy là lỗi lầm (hay ý muốn thầm kín?) của Thư ký đoàn Ủy ban Chỉ đạo Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô.”
Bởi vậy, tôi xin nhấn mạnh lần chót rằng cuốn truyện này phải được ấn hành gấp rút, tức khắc.
Ngày 12 tháng 9 năm 1967
Phần 4: Biên bản cuộc họp
tranh luận của Thư ký đoàn Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô
Hiện diện: 30 vị thư ký trong tổng số 42 vị hiện diện trong cuộc họp.
Đồng chí Malentev, Ủy viên Ủy ban Văn hoá Trung ương Đảng cũng có mặt tham dự phiên họp.
Đệ nhứt Thư ký K. A. Fedine chủ tọa buổi họp.
Chương trình nghị sự: Thảo luận về mấy lá thư của nhà văn Alexandre Soljenitsyne gởi Thư ký đoàn và Đại hội Hội các Nhà văn.
Cuộc họp khai mạc hồi 13g và bế mạc hồi 18g ngày 22 tháng 9 năm 1967.
Sau những thủ tục nghi lễ, chủ tọa mở lời:
FEDINE: Tôi hết sức bất mãn với lá thư thứ hai của Soljenitsyne (về sau tên này xin viết tắt là A.S.) những lý do A.S. nêu ra để chứng minh rằng vấn đề của ông ta đã bị xếp lại rất yếu ớt mà còn bao hàm ý nghĩa nhục mạ chính cả Hội các Nhà văn chúng ta.
Ba tháng rưỡi đâu có phải là một thời gian quá dài để xét toàn bộ thủ bản tác phẩm của A.S.? Vậy mà luận điệu của lá thư kia chất đầy đe dọa và các dữ kiện đưa ra có tính chất uy hiếp rõ rệt.
Trong lá thư thứ hai, A.S. đòi chúng ta phải lo cho tác phẩm của anh ta được xuất bản cấp kỳ. Trong lá thư này, A.S. đã trình bày hoàn cảnh bi đát của anh ta với đầy đủ chi tiết làm cho mọi người phải xúc động thương cảm. Nhưng đồng thời, cũng trong lá thư ấy, tác giả lại mạt sát tất cả chúng ta.
Ấn hành tác phẩm của A.S. là một vấn đề phức tạp như thế nào? Không một ai ở đây là không biết rõ cũng như không một ai ở đây phủ nhận tài năng của A.S.! Nhưng luận điệu của anh ta lại hết sức bất công.
Đọc lá thư, tôi có cảm tưởng là mình bị tát tai vì lá thư đó cho rằng chúng ta ở đây đều bất tài, không đại diện nổi cho giới trí thức và nghệ sĩ. Rốt cuộc, chính A.S. đã làm chậm trễ và ngăn cản việc giải quyết vấn đề, vì tham vọng quá lớn. Đọc lá thư của A.S., tôi thấy nó không có một chút dấu vết nào của tình đồng nghiệp, giữa nhà văn.
Cho nên, dù muốn dù không, ngày hôm nay chúng ta cũng phải đề cập đến lá thư này.
SOLJENITSYNE: (đứng lên xin phép được nói vài lời tuyên cáo viết sẵn): Tôi được biết rằng trong cuộc họp để xét cuốn Trại ung thư, các vị thư ký lại được đề nghị xét cả cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng, một kịch bản của tôi nhưng tôi đã vứt xó không đọc lại cách đây chừng 19 năm và hủy mọi bản khác đi, trừ cái bản duy nhất mà người ta đã tước đoạt rồi đem phổ biến. Tôi đã giải thích đi giải thích lại mãi rằng: Tác giả của nó không phải là Alexandre Soljenitsyne mà là tên tù mang thẻ đính bài số S. 232, viết trong những năm xa xưa tại một nơi mà người tù chính trị không có qua một chút hy vọng tranh thủ được sự tự do, không có qua một tổ chức nào – kể cả Hội các Nhà văn – đứng lên chống lại – bằng lời lẽ hay hành động – chủ trương đàn áp các dân tộc. Ngày hôm nay, tôi không thể chịu trách nhiệm về kịch bản này cũng như nhiều lần nhà văn ở đây không muốn ai nhắc đến các bài diễn văn và tác phẩm viết hồi 1949. Bi kịch ấy đã phản ảnh tình trạng tuyệt vọng của tù nhân các nhà lao thời bấy giờ. Lương tâm con người ở đó, lúc bấy giờ, bị sự sống chi phối hoàn toàn và chắc là con người ở đó sẽ không cầu nguyện cho những kẻ đã gây ra tội ác đàn áp được bình yên! Vở kịch ấy không có liên quan gì đến các tác phẩm viết trong giai đoạn này. Những người lôi kịch phẩm ấy ra để xét muốn gạt bỏ sự nghiên cứu khách quan và vô tư truyện Trại ung thư. Mặt khác, tôi xin phép nói rằng là đạo đức nghề nghiệp của nhà văn sẽ bị thương tổn khi đem một tác phẩm tước đoạt trong nhà riêng của người ta ra mổ xẻ. Tác phẩm này không phải là tác phẩm kia. Việc mổ xẻ cuốn Nhóm thứ nhất là một vấn đề riêng, không liên quan đến việc thảo luận cuốnTrại ung thư.
KORNESCHOUK: Tôi cũng có một câu hỏi muốn đặt ra với A.S. Bạn nghĩ sao về sự tuyên truyền ồ ạt của đối phương khi lá thư thứ hai được tung ra? Tại sao Soljenitsyne lại không chọn một lập trường xa cách đối phương hơn nữa? Tại sao A.S. lại im lặng trước những luận điệu của họ? Tại sao Radios của đối phương lại phổ biến lá thư ấy trước cả đại hội.
FEDINE: Mời A. S. trả lời.
SOLJENITSYNE đáp rằng anh không phải là học trò để phải trả lời từng câu một; đến lượt, ông cũng sẽ lên diễn đàn như mọi người.
FEDINE: Đề nghị mọi người đặt câu hỏi để cho A.S. trả lời chung một lượt.
BAROUZINE: Dù Soljenitsyne phản đối việc thảo luận cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng, chúng ta cũng phải thảo luận đến. Tôi không hiểu vì sao mà A.S. lại nhắc đến vở kịch ấy?
SALINSKY: Tôi yêu cầu A.S. cho biết rõ: thủ bản tác phẩm và giấy tờ bạn bị tước đoạt lúc nào? Từng trường hợp nào? Ai tước đoạt? Sau đó, bạn đã đòi lại chưa? Đòi với ai, có quen không nào?
FEDINE: Yêu cầu A.S. trả lời những câu hỏi trên.
SOLJENITSYNE nhắc lại ý kiến cũ, được một số người trong phòng họp ủng hộ…
FEDINE: Nhưng Thư ký đoàn cũng chỉ có thể thảo luận khi được nghe giải đáp những câu hỏi trên.
Một số người khác trong phòng họp: A.S. cũng có quyền từ chối, không thảo luận với Thư ký đoàn… có muốn như vậy thì nói lên đi.
SOLJENITSYNE: Vậy tôi xin trả lời. Radios ngoại quốc phổ biến lá thư sau – sau, không phải là trước – ngày Đại hội và cũng không phải là phổ biến liền sau ngày Đại hội (rồi rút ra một tờ giấy đọc tiếp).
Ở đây, người ta dùng tiếng “ngoại quốc” với một ý nghĩa phóng đại, cho ý kiến của ngoại quốc như là ý kiến của thượng cấp, rất quan trọng, cần phổ biến cho sâu rộng trong quần chúng. Điều này quá dễ hiểu đối với những người dùng phần lớn thì giờ ở nước ngoài rồi về trút vào văn chương Nga những ý niệm hời hợt bề ngoài, của nước ngoài. Với tôi, điều này thực kỳ cục. Tôi chưa bao giờ ra nước ngoài và hoàn cảnh đâu có cho phép tôi biết đến ngoại quốc. Tôi không hiểu vì sao người ta lại băn khoăn vì những gì của ngoại quốc mà không xúc động vì những gì liên quan đến nước nhà, đến dư luận của quần chúng xung quanh ta.
Tất cả đời sống của tôi là ở đây: trên mảnh đất quê hương. Tôi chỉ lắng nghe những niềm đau của tổ quốc và viết về những niềm đau ấy.
Tại sao tôi phải nhắc đến cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng? Thiết tưởng nội dung lá thư tôi gởi Hội đã nói lên rõ ràng rồi còn gì nữa: tôi phản đối sự tịch thu bất hợp pháp; sự phổ biến tác phẩm mà không có sự ưng thuận của tác giả. Về các thủ bản tác phẩm và tài liệu giấy tờ, tôi đã viết thư kêu gọi Trung ương Đảng từ 1965 đến nay. (Ngừng một chút để lấy ra một tờ giấy khai, A.S. đọc tiếp.)
Mới đây, một luận điệu mới sáng tác có liên quan đến sự tịch thu các tác phẩm của tôi được tung ra, luận điệu ấy như sau:
Người giữ các tác phẩm và tài liệu của A.S., Tevsh có liên lạc với một người tên tuổi được giữ kín. Người này bị Sở Quan thuế (sở quan thuế nào không ai biết) bắt và sở này giữ những gì cũng là một bí mật! Nhưng không tìm được những gì cần tìm của A.S. nơi Tevsh vì A.S. đề phòng quá kỹ.
Tất cả những chi tiết nói trên đều bịa đặt hoàn toàn. Sự thực như sau:
Cách đây hai năm, Tevsh – bạn tôi – có bị thẩm vấn nhưng không có một người nào hỏi anh về cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng. Tài liệu của tôi bị mất, nghĩa là bị tịch thu: bị chặn đường ngoài phố, sau khi đã rình rập theo dõi tôi từ nhà, có khi bị chặn ngay trước cửa để xét… nghe trộm điện thoại v.v… Nghĩa là bị tịch thu bằng những phương pháp quen thuộc, chẳng ai lạ gì. Có lạ chăng là khi một lập luận bôi nhọ vừa được tung ra là cả nước này biết rồi. Bằng cớ là lập luận trên đã được ông Potemkine phổ biến cho một cử tọa đông đảo và một vị thư ký của Hội ta thì đem ra cho các nhà văn ở Mạc Tư Khoa biết. Vị thư ký này cũng cho các văn hữu ở thủ đô hay rằng chính tôi đã phải thừa nhận sự thực trên, mặc dù Hội không có chất vấn gắt gao. Do đó, nếu tôi được cho biết là luận điệu nói trên đã được phổ biến rộng rãi thì đấy cũng là chuyện thường.
Tiếng một người nào đó trong phòng họp: Tòa soạn Novy Mir nhận đăng hay loại bỏ cuốn Trại ung thư?
ABDOMOMOVNOV: Tòa soạn Novy Mir phải xin phép cơ quan nào mới được đăng cuốn truyện ấy? Ai có cái quyền này?
TVARDOVSKY (Chủ nhiệm Novy Mir, một nhân vật xuất sắc của văn giới Nga, hai giải thưởng Staline và nguyên Ủy viên Trung ương Đảng): Thông thường, chính tòa soạn tự quyết định lấy việc in hay không in một tác phẩm. Nhưng với A.S., một trường hợp đặc biệt, quyền quyết định thuộc Thư ký đoàn của Hội.
VORONKOV: A.S. chưa bao giờ viết thư thẳng cho Thư ký đoàn. Sau khi nhận được lá thư của A.S. gởi đến, anh em trong Thư ký đoàn đã định gặp Soljenitsyne để thảo luận và cuối cùng sẽ thỏa mãn những đòi hỏi của ông ta… Nhưng lá thư của A.S. được báo chí bẩn thỉu của Tây phương đăng tải mà Soljenitsyne lại nín thinh không hề có một phản ứng nào…
TVARDOVSKY (ngắt lời diễn giả): … Cũng như vậy, Hội các Nhà văn đã có phản ứng nào đâu!
VORONKOV (nói tiếp khi Tvardovsky nói hết câu): … Thì ý muốn thỏa mãn các đòi hỏi ấy biến mất, khi nhận được lá thư thứ hai của A.S. anh em trong Thư ký đoàn chúng tôi thấy rõ đấy là một tối hậu thư, một sự nhục mạ, không xứng đáng với Hội. A.S. ám chỉ đến một vị thư ký Hội đã phổ biến cái mà anh ta gọi là “luận điệu bôi nhọ” ông ta với các nhà văn ở Mạc Tư Khoa. Vị thư ký ấy là tôi. Anh Soljenitsyne, người ta đã mách cho anh biết nhanh đấy, nhưng lại mách sai. Về việc tịch thu, tôi chỉ nói trong buổi họp ấy rằng những thủ bản tác phẩm bắt được đúng là của anh, dù nhà anh chưa bị xét lần nào. Nghĩa là tôi đã nói những điều chẳng khác gì những điều anh đã nói. Sau lá thư, tự nhiên chúng tôi phải tìm kiếm và đòi phải có mọi tác phẩm của anh. Thế thôi! Tôi tưởng chỉ có vậy mà anh đã dùng cái ngôn ngữ đã dùng để nói với các bạn văn học (chỉ chữ Pháp: camarade de plume) cùng là văn sĩ như anh thì đâu có phải!
Còn Alexandre Troplimovitch (tức TVARDOVSKY) nữa! Nếu anh thấy nên đăng cuốn (Trại ung thư) và tác giả đã bằng lòng cho anh sửa chữa thì anh cứ đăng đi! Thư ký đoàn có can dự gì vào việc ấy đâu.
TVARDOVSKY: Anh quên vụ Beck rồi sao? Lúc bấy giờ Thư ký đoàn đã khuyến cáo và can thiệp mạnh mẽ khiến cho truyện của Beck đâu có được đăng mặc dù Novy Mir đã loan báo nhiều lần.
(Chú thích: Tòa soạn Novy dưới quyền của TVARDOVSKY đã có một quan điểm rộng rãi. Truyện “Công việc mới” của Beck đã được tòa soạn chấp nhận nhưng Thư ký đoàn Hội các Nhà văn chống lại.)
VORONKOV: Nơi đây, chỉ có vấn đề của người công dân Alexandre Soljenitsyne là đáng chú ý. Tại sao A.S. không phản ứng trước luận điệu tuyên truyền hèn nhát của tư bản? Tại sao A.S. chống đối và cư xử với chúng ta như thù nghịch?
MOUSREPOV: Tôi cũng muốn hỏi A.S. một câu: Tại sao A.S. lại dám cả gan viết: “Có những đồng chí ở cấp cao nhất đã đau khổ và tiếc đứt một khi tôi không chết trong nhà tù”. Sao anh táo gan thế?
STARIPOV: Thư của A.S. được đưa ra ngoài bằng ngã nào?
FEDINE: Yêu cầu A.S. trả lời.
SOLJENITSYNE: Phải! Tôi được người ta chú ý rất nhiều và nói đến rất nhiều. Có một vị hiện đang giữ một chức vụ đặc biệt quan trọng ở Trung ương đã công khai tuyên bố rằng ông rất tiếc không được dự vào bộ ba đã xử tội năm xưa; nếu được đóng vai một ông tòa, ông đã xử bắn tôi rồi… Tôi không tiện nêu tên tuổi vị này ra đây nhưng chắc chắn là tôi không dám đặt ra chuyện…
Tôi muốn nói đến việc Hội nghị này đã giải thích lá thư của tôi như là một tối hậu thư: “Hoặc ta phải xuất bản trước, hoặc Tây phương xuất bản trước”.
Nếu muốn hiểu như vậy thì xin các bạn hiểu cho rằng không phải là tôi hạ tối hậu thư cho các bạn, tôi đâu dám; chính đời sống đã hạ tối hậu thư cho tất cả chúng ta, nghĩa là cho các bạn và cả cho tôi nữa! Bởi lo lắng vì việc này cho nên tôi đã trình rằng sự phổ biến của hàng trăm cuốn sách đánh máy làm tôi lo ngại (con số này chỉ đúng tương đối mà thôi, tôi không đếm kỹ được).
TIẾNG NHIỀU NGƯỜI: Tại sao có chuyện lạ như vậy nhỉ?
ALEXANDRE: Sách của tôi có tính chất đặc biệt. Mỗi khi có người quen đến nằn nì mượn sách và mượn được là họ đem về đánh máy để đọc và giữ lại một bản, các bản còn lại họ đem cho người khác mượn, vậy là cuốn sách đánh máy tăng lên cách đây một năm. Phân bộ Mạc Tư Khoa đã được phần đầu của truyện. Tôi rất ngạc nhiên vì đồng chí Voronkov đã nói là kiếm không đâu ra, phải nhờ Sở An ninh KGB kiếm hộ cho.
Cách đây ba năm, cuốn Mấy truyện nho nhỏ của tôi – thơ viết thành văn xuôi – cũng đã được phổ biến như sấm sét: Vừa cho một người mượn đọc một cuốn, chẳng bao lâu sau tôi đã thấy cuốn đó có mặt ở khắp nơi trong nước.
Sau đó, chính Novy Mir đã nhận được một lá thư từ Tây phương gởi tới cho hay là cuốn Truyện nho nhỏcủa tôi đã xuất bản ở bển rồi.
Chính vì muốn ngăn cho truyện Trại ung thư khỏi bay sang Tây phương xuất bản trước, tôi đã khẩn thiết yêu cầu Thư ký đoàn giải quyết vấn đề. Tôi rất ngạc nhiên khi Thư ký đoàn đã bỏ lơ, không phản ứng gì hết khi nhận được thư của tôi, trước khi Tây phương đăng tải.
Đồng chí VORONKOV đã nói đến danh từ bạn văn học đẹp đẽ? Vậy mà tất cả các bạn văn học đã điềm nhiên tọa thị khi thấy tôi bị theo dõi, làm khó dễ, bôi nhọ và đàn áp trong gần ba năm vừa qua.
TVARDOVSKY: Không phải là tất cả đều ngồi yên…
SOLJENITSYNE: Các biên tập viên báo chí – và đồng chí của tôi – đã không chịu đăng lời biện minh của tôi. (A.S. dừng lại, lấy một tờ giấy ra đọc.)
Tôi không nói đến chuyện sách của tôi bị cấm trong nhà tù. Ở đó, những loại sách như vậy làm sao lọt vô qua mấy lần khám xét; hơn nữa, sách của tôi lại thuộc về loại bị cấm triệt để.
Nhưng tại sao sách của tôi vẫn bị cấm cả trong thời gian mà các tạp chí đều khen ngợi cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch và loan báo rằng “các biện pháp cấm đoán như vậy không thể diễn lại được nữa”! Mới đây, cuốn này lại bị rút ra khỏi các thư viện công cộng một cách lặng lẽ. Tôi có nhận được một số thư ở nhiều nơi cho hay rằng sách của tôi không được đem ra cho mượn nữa. Nhân viên cho mượn sách đã được chỉ thị trả lời cho những người mượn cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch rằng sách ấy đang được đem đóng lại hoặc đang được xếp lại theo một hệ thống thư mục khác, lấy ra không được v.v… Tóm lại, cấm không cho độc giả mượn cuốn ấy nữa.
Tại thư viện quận, người ta đã bí mật rỉ tai cho tôi – khách quen lâu năm của thư viện – hay rằng sách của ông đã bị rút đi rồi, theo lệnh trên. Một cô thư ký của thư viện muốn tặng cho tôi một cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch để làm kỷ niệm nhưng một bạn đồng nghiệp đã chặn lại kịp thời: “Chết! Cuốn này đã bị cấm rồi, chị không biết sao? Tất cả mọi cuốn sách này đều được đưa vào khu đặc biệt, để riêng! Biếu cuốn này nguy lắm đấy!”. Tôi tưởng cũng nên nhắc lại một chút là cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch đã được tạp chí Roman Gazeta đăng tải!
Cố nhiên là không phải tất cả mọi thư viện đều rút hết sách của tôi; vẫn có thể tìm thấy cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch tại một số thư viện. Nhưng ngay tại tỉnh Rjazan, bà con láng giềng của tôi đã cho hay là lần nào đến mượn cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch họ cũng bị nhân viên thư viện chối quanh và cuối cùng không ai mượn được hết!
Từ bao giờ đến nay, luận điệu dùng để bôi nhọ thiên hạ bao giờ cũng dồi dào; luôn luôn có sẵn luận điệu bôi nhọ thiên hạ mới mẻ! Nhưng khi phải đóng vai trò nạn nhân của một chiến dịch mới mẻ, đặc biệt mới mẻ ở điểm các luận điệu và kế hoạch ấy phát triển từ các giới cao cấp, không ai khỏi bàng hoàng sửng sốt! Như luận điệu bôi nhọ tôi đã có một tiếng vang mạnh mẽ vì nó được truyền đi thẳng băng không gặp một cản lực nào. Đến nỗi người ta đã quả quyết xác định rằng Soljenitsyne đã bị bắt làm tù binh hồi thế chiến và cộng tác với bọn Quốc xã. Chưa hết! Ở Bolchevs, trong mùa hè năm ngoái, cán bộ tuyên truyền đã giảng trong các lớp chính trị rằng Soljenitsyne bây giờ mang quốc tịch mới sau khi trốn sang Ai Cập. Tất nhiên luận điệu này sẽ được các đảng viên dự lớp huấn luyện đưa về phổ biến rộng ra nữa…
Ngay vùng sát nách tại thủ đô, luận điệu này đã được phổ biến xuống đến hạ tầng thôn xóm, khu phố. Trong khi đó, ở Solikamsk, ông thiếu tá Chestakov lại nói rằng tôi đã lợi dụng một chuyến du lịch để trốn sang Anh. “A.S. trốn sang Anh” khi một vị Phó Ủy viên của Ban Chính trị đã khẳng định như vậy, còn ai dám nghi ngờ gì nữa? Chestakov còn nói thêm: “Soljenitsyne đã bị cấm viết một cách chính thức!”. Lời tuyên bố thứ hai này của ông quan tuy thế mà gần đúng sự thực!
Các giới chức cao cấp bấy lâu nay vẫn quả quyết rằng: “Soljenitsyne đã được hưởng biện pháp khoan hồng, tha trước thời hạn, tha không có lý do”.
Có lý do hay không? Văn khố Tòa án Tối cao còn đó. Chỉ việc xem các văn kiện án từ đó: “Ban phụ trách văn án của những công dân được phục vụ nơi kho hồ sơ Công an Quân pháp là biết ngay tôi được thả có lý do hay không có lý do! Vả lại tất cả các tài liệu này đã đệ trình Thư ký đoàn rồi.
TUARDOOSKYS: Tài liệu này còn xác nhận cả lý lịch của sĩ quan pháo binh Soljenitsyne nữa!
ALEXANDRE SOLJENITSYNE: Biểu thức chính trị và tư pháp “trước thời hạn” ở đây nghe thực mỉa mai! Bị xửtám năm tù, ở hết tám năm cộng thêm một tháng nửa tại “Trung tâm Chọn lọc tù”… Đây là một chi tiết vụn vặt không nên nhắc đến nếu như tôi không bị coi là người được tha trước thời hạn! Tôi xin nhắc lại rằng sau thời gian một tháng kia, người ta không thèm xét xử gì hết, chụp luôn cho tôi một bản án “An trí và quản thúc vô thời hạn”. Mang bảng án “An trí vô thời hạn” này, tôi đã phải sống kiếp lưu đày ba năm trời và được tha nhờ Đại hội XX và do đó, được gọi là tha trước thời hạn.
Biểu thức “tha trước thời hạn” này đã diễn tả tuyệt đúng quan niệm chắc nịch của thời 1949-1953. Đã bị tù mà không chết trong bốn bức tường cao nhà ngục, không ra khỏi tù bằng cách bò bằng đầu gối là được trả tự do “trước thời hạn”! Bị xử an trí vĩnh viễn thì những gì xảy ra trước khi chết, với tù nhân đều là “trước thời hạn” cả! Ngài cựu Tổng trưởng Semichastry vốn sính văn chương, cũng đã hạ mình xét đến trường hợp của tôi. Sau đây là một lời phán của ông ta, một lời phán xét nghiêm trang ít chất khôi hài:
“Alexandre Soljenitsyne có tội ủng hộ bọn tư bản về mặt vật chất tiền bạc vì anh ta đã không lãnh tác quyền những cuốn sách xuất bản ở đâu đó ngoài thế giới Tây phương”!
Theo tôi hiểu, chỉ có cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch mà thôi, không có cuốn nào khác. Nếu các bạn có biết, tiếc gì các bạn lại không chỉ giùm cho tôi? Sống một mình ở Rjazan, tôi chẳng được biết gì hết ở bên ngoài!
Đối với vụ này, cơ quan nào hay Ủy ban Ngoại vụ Hội các Nhà văn phải chịu trách nhiệm mang tác quyền về! Còn tôi chưa bao giờ tôi được nghe nói “Bổn phận của mày là phải lấy tiền ấy về!”. Đây quả là một thứ chuyện hoạt kê, tiếu lâm!
Semichastry không còn giữ chức Tổng trưởng nữa nhưng ý kiến của ông vẫn được nhiều người tán thành tin tưởng. Như các nhân viên tuyên truyền của Hội Truyền bá Kiến thức Khoa học Liên Xô chẳng hạn, vẫn bảo vệ ý kiến nói trên. Một tỷ dụ:
Ngày 16-7-1967, tại Câu lạc bộ Sverdlovsk của Hội nói trên, ông A.A. Freifeld đem lập luận “A.S. ủng hộ vật chất cho tư bản” ra thuyết. Hai ngàn thính giả đều há hốc miệng ra nghe Freifeld và nghĩ bụng: “Quái thiệt! Thằng cha Soljenitsyne này quái quỷ thực! Một đồng Kopeach dính túi cũng không có, cả đời chưa ra khỏi nước Nga mà nó vẫn ủng hộ được tiền bạc cho phe tư bản thì quái thiệt”.
Những luận điệu như vậy đó – diễn “hết chỗ nói” – vẫn được đưa ra kể đi kể lại mãi; những người kể đã không bị chỉ trích sửa sai mà còn được khen thưởng nữa.
Nói gì đâu xa xôi, ngay tại trụ sở này của Hội, đã có một cuộc họp trang nghiêm diễn ra trong ngày 12 tháng 6 vừa qua. Vậy mà ngay tại Mạc Tư Khoa, đã có một luận điệu được tung ra, mô tả diễn biến cuộc họp sai với sự thực hoàn toàn. Cứ theo luận điệu ấy thì Tuardousky đã chỉ trích Soljenitsyne một cách kịch liệt, vừa nói vừa đấm tay xuống mặt bàn thình thình! Tất cả các bạn đi dự họp đều biết rõ đấy: Có gì đâu?
Ngay cuộc họp này, ai dám bảo rằng ngày mai nó sẽ không bị xuyên tạc? Chúng ta đã nghe phát biểu nhưng ai dám đảm bảo rằng ngay sự phát biểu này sẽ được ghi lại đúng đắn?
Vậy thì, cùng là bạn văn, cùng theo nghiệp bút nghiên, cho phép tôi trích đề nghị thứ nhất: “Hãy tả cuộc họp này thực trung thực, không thêm bớt xuyên tạc”.
Tôi chỉ có một mình cô độc, những kẻ bôi nhọ tôi có đến hàng vạn người. Dĩ nhiên tôi không thể tự vệ và cũng không biết trước được những luận điệu bôi nhọ tôi sau này có những gì nữa! Giá mai đây có người nói rằng tôi là phần tử bảo hoàng cũng không có gì là lạ.
SALYNSKY: Tôi muốn nói đến cuốn Trại ung thư. Tôi cho rằng phải xuất bản cho bằng được cuốn này vì nó là một tác phẩm có giá trị đích thực.
Đành rằng tác giả đã mô tả bệnh tật bằng ngôn ngữ y khoa xác thực, nhưng nó vẫn hỏng ở điểm làm cho độc giả bị sự sợ hãi ung thư – vốn là một căn bệnh của thời đại này – đè nặng. Dù sự sợ hãi này xét ra vô ý thức, khía cạnh này phải được cắt đi và thay thế một cách nào đó, cũng như khía cạnh ảm đạm của tác phẩm, khía cạnh ảm đạm thuyết “phơi-ơ-tông” (viết để đăng báo, khúc nọ tiếp theo khúc kia, hằng ngày) cũng phải được sửa lại!
Một điều đáng trách nữa là sự thăng trầm của các nhân vật bằng cách này hay cách khác đều bị buộc chặt với trại tập trung và đời sống bên trong các trại này!
Cuộc đời chìm nổi của Rostoglotov Roujanov coi là được đi! Nhưng tại sao cuộc đời Vadim, Chaloubine và nhất là cuộc đời của người binh sĩ cũng chìm nổi nốt? Tại sao? Cuối cùng,ta mới biết người lính đây không phải là một chiến binh thường mà là lính cảnh vệ gác trại.
Nói chung, nếu tôi hiểu không sai thì chú ý của cuốn truyện là môt tả thời cáo chung của một quá khứ buồn tẻ! Vậy thôi! Còn chủ nghĩa xã hội và luân lý của chủ nghĩa riêng tôi không thấy có gì bậy bạ hết. Soljenitsyne chỉ đáng ghê tởm khi anh cổ võ cho một chủ nghĩa xã hội vô luân. Cuốn truyện chỉ đáng lên án khi nó ca tụng chủ nghĩa Quốc xã hay chủ nghĩa xã hội quốc gia kiểu Tàu Mao Trạch Đông. Tôi nghĩ rằng mọi người đều có quyền suy nghĩ về chủ nghĩa xã hội và sự diễn biến của nó theo ý riêng mình. Cá nhân tôi, tôi cho rằng chủ nghĩa xã hội bị tác dụng của các quy luật kinh tế chi phối. Nhưng điều này có thể thảo luận được. (Rồi diễn giả yêu cầu Thư ký đoàn chống lại một cách quyết liệt những luận điệu bôi nhọ Soljenitsyne).
SIMONOV: Tôi không thừa nhận cuốn Nhóm thứ nhất và chống lại việc xuất bản cuốn này. Ngược lại, tôi tán thành việc xuất bản cuốn Trại ung thư. Không phải tôi thích tất cả mọi chi tiết trong cuốn này. Nhưng một cuốn sách đâu có cần phải thỏa mãn một người? Tác giả cũng cần phải chấp nhận một vài nhận xét về cuốn ấy nhưng cũng không bị bắt buộc phải nhận hết tất cả. Chúng ta cũng có trách nhiệm phải lên án những luận điệu bôi nhọ Soljenitsyne. Phải xuất bản một hợp tuyển truyện ngắn của Soljenitsyne với một lời tựa có hiệu lực đính chính những sai lầm về tiểu sử tác giả. Với tựa này sẽ thanh toán những sự bôi nhọ Soljenitsyne. Chính chúng ta phải thanh toán những luận điệu ấy, không phải anh ta. Tôi chưa đọc và cũng không muốn đọc cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng vì tác giả không muốn như vậy!
TVARDOVSKY: Hoàn cảnh của Soljenitsyne không cho phép anh ta lên tiếng. Chính chúng ta - Hội các Nhà văn, chúng ta phải đưa ra một thông cáo lên án những lập luận bôi nhọ anh ấy. Ngược lại, ta cũng phải nghiêm khắc cảnh cáo Soljenitsyne về cách thức không thể chấp nhận được mà anh ta đã dùng để nói với Đại hội qua việc lá thư gởi Đại hội cũng được gởi cho một số đông người. Tòa soạn Novy Mir không thấy có gì cản trở trong việc đăng tải truyện Trại ung thư với điều kiện phải sửa chữa một vài đoạn. Chúng tôi chỉ yêu cầu Thư ký đoàn tán thành hay ít nhất không phản đối việc này (rồi Tvardovsky quay sang yêu cầu Vorondov đưa bản văn dự thảo thông cáo của Thư ký đoàn soạn hồi tháng Sáu ra để Đại hội thông qua).
VORONDOV ngập ngừng: Một số người chúng tôi chưa định gì hết. Còn có người chống nữa mà!
FEDINE: Không! Chuyện như vậy đâu có được! Thư ký đoàn không thể cho ra gì hết, không cải chính gì hết. Có phải chúng ta cảm thấy, có phải chúng ta có mặc cảm phạm lỗi hay không? (nói với Tvardovsky) Có lẽ anh Alexandre Trophmovitch, anh cảm thấy có lỗi, nên mới thấy phải lên tiếng chăng?
TVARDOVSKY (giọng quả quyết và nói rất nhanh): Tôi ấy à? Không!
FEDINE: Không cần phải tìm những lý do nhân tạo để vẽ ra một bản tuyên cáo, tiếng đồn không đâu có đủ! Nhưng trong trường hợp này, nếu chính Soljenitsyne muốn nhân cơ hội mà giải quyết vấn đề thì lại khác. Bây giờ là lúc Soljenitsyne có thể phát biểu ý kiến một cách đàng hoàng, công khai (hướng về phía Soljenitsyne).
Theo ý anh, Alexandre Jsaevitch, một bản tuyên cáo của Thư ký đoàn phản đối lại những luận điệu bôi nhọ kia có lợi gì không? Trước hết anh phải lên tiếng phản đối các địch thủ Tây phương đã sử dụng tên tuổi của anh một cách khốn nạn. Dĩ nhiên cơ hội này, anh cũng có thể nói lên một vài điểm bất mãn mà anh, ngày hôm nay đã đưa ra cho Thư ký đoàn. Nếu văn kiện này có một lập luận và một ngôn ngữ khéo léo, chúng tôi sẽ cho đăng tải và sẽ giúp đỡ anh.
Muốn biện minh, anh phải đi theo đường này. Không có việc in tác phẩm của anh và cũng không có vấn đề mặc cả của anh! Chúng tôi được quyền đọc tác phẩm của anh được bao lâu? Ba tháng hay bốn tháng? Việc này ghê gớm lắm sao? Việc đáng ghê gớm là tên tuổi anh đã xuất hiện và bị sử dụng trong những công việc hạ cấp ở Tây phương.
KORNESCHOUK: Chúng tôi mời anh đến đâu có phải để sỉ vả mà để giúp đỡ anh thoát khỏi khó khăn, phức tạp này. Chúng tôi đã đặt các câu hỏi nhưng anh lại tránh né, thấy rằng tình hình diễn biến này là một trận đại chiến lớn vô cùng, bao trùm cả vũ trụ trong những điều kiện hết sức phức tạp hay sao? Chúng ta đâu có thể đứng ngoài được bằng các tác phẩm. Chúng ta phải bảo vệ Chính phủ, Đảng và nhân dân ta. Anh đã mỉa mai những người xuất ngoại bằng cách gán cho họ đi du hí! Ngược lại những người bị mỉa mai là chúng tôi – lại ra ngoại quốc để chiến đấu và khi trở về mệt đừ nhưng có cảm tưởng là đã làm tròn nhiệm vụ! Anh đừng tưởng rằng đã làm nhục được tôi bằng cách nhắc đến vấn đề viết lách. Tôi không viết được vì tôi đâu có phải đi để viết mà để phục vụ cho Ủy ban Bảo vệ Hòa bình Thế giới.
Chúng tôi biết là anh đã phải chịu đựng nhiều đau đớn! Nhưng không phải chỉ có một mình anh chịu. Có nhiều người, nhiều người khác không phải là anh, đã bị đi tù, kể cả những đảng viên cộng sản thâm niên. Từ nhà họ, họ đã đi thẳng ra mặt trận. Trong quá khứ, không phải chỉ có sự bất đồng mà thôi, còn có chủ nghĩa anh hùng nữa.
Nhưng anh đã không nhận thấy sự nổi loạn của anh phát xuất từ chỗ bị truy tố tư pháp. Cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng xấu xa bẩn thỉu bất chính mà lại được phổ biến để dân chúng đọc. Anh đã bị đem đi lưu đày trong trại tập trung chứ gì? Nhưng không phải bị năm 37, lúc chúng tôi đã đến đó. Nhưng lịch sử không có dừng lại!
Constantin Alexandrovitch (Fedine) đã nói phải lên tiếng tấn công sự tuyên truyền của Tây phương một cách công khai. Chiến đấu chống lại kẻ thù của xứ sở đi. Anh hẳn phải biết rằng trên thế giới có bom khinh khí? Và phải biết mặc dù các cố gắng bảo vệ hòa bình của chúng ta, Hoa Kỳ vẫn có thể đem ra chứ? SOLJENITSYNE: Tôi xin tuyên bố thêm một lần nữa, rằng đem cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắngra bàn là không lương thiện và xin nhấn mạnh đến việc phải đem vấn đề thảo luận về cuốn này ra khỏi cuộc tranh luận.
SOURKOV: Anh lấy quyền gì mà bịt miệng những người khác?
KOJEUNIKOV: Thời gian đủ để nghiên cứu kể từ ngày có lá thư của Soljenitsyne cho đến ngày hôm nay hội nghị họp, chứng tỏ rằng Thư ký đoàn đã cẩn trọng đến mức nào. Nếu đem lá thư ấy ra thảo luận lúc bấy giờ, còn sốt dẻo chúng tôi có lẽ còn cứng rắn hơn, còn quyết liệt hơn nữa với anh.
Nhưng chúng tôi đã quyết định phải tìm hiểu kỹ những tác phẩm bị coi là chống đối. Tôi viết và phải đọc kỹ, đọc lâu.
Bản tướng mạo quân vụ của Soljenitsyne hình như có đủ tài liệu biện minh cho anh ta. Nhưng ở đây chúng ta bàn về nhà văn, không bàn về Soljenitsyne sĩ quan. Hôm nay, lần đầu nghe Soljenitsyne phủ nhận công khai cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng nhưng tôi cũng vẫn không khỏi rùng mình khi đọc tác phẩm có tham vọng phản ảnh thực tế Xôviết ấy. Tôi không dám tin vào sự phủ nhận bi kịch ấy của Soljenitsyne, có lẽ vì tôi đã thấy được nơi cuốn ấy chính tinh thần báo thù đối với tất cả những gì đã cảm thấy, trong cuốn Nhóm thứ nhất và trong cuốn Trại ung thư.
Khi nói đến số phận của các tác phẩm, tác giả phải nhớ đến các bổn phận đối với tổ chức đã khám phá ra nhà văn.
Lúc ấy, tôi là một trong những người đầu tiên đã phát biểu những sự nghi ngờ về những gì đã được kể trong cuốn Ngôi nhà của Matriona. Chúng tôi đã mất thời giờ, chúng tôi đã đọc các tác phẩm lệch lạc mà anh không dám đưa cho một tòa soạn tạp chí nào đăng hết. Cuốn Trại ung thư làm cho ta thấy buồn nôn vì bút pháp tự nhiên chữ nghĩa hung hãn, khuynh hướng muốn lồng vào những mối sợ hãi có thể có và có thể tưởng tượng ra mặc dù nền tảng căn bản của nó không phải là y học mà là xã hội, mặc dù nền tảng này không được chấp nhận cũng vậy.
Trong lá thư thứ hai, anh muốn dẹp đi, về việc ấn hành một tác phẩm mà anh không đọc lại nữa. Cách làm “xăng ta” này có xứng đáng với một nhà văn không?
Ở đây, tất cả mọi nhà văn đều vui lòng nghe lời khuyên của các bộ biên tập và không bao giờ ép buộc họ.
SOLJENITSYNE: Bất chấp sự giải thích và phản đối của tôi, bất chấp tính chất phi lý cùng cực của việc thảo luận về một tác phẩm viết cách đây hai mươi năm trong những điều kiện khác và của một con người cũng khác hẳn với con người Soljenitsyne viết văn, mặc dù tác phẩm mà tôi bị cưỡng đoạt ấy chưa được in, chưa có một người đọc.
Một số diễn giả vẫn tập trung mũi dùi vào vào độc có một tác phẩm ấy mà thôi. Đây là một việc còn vô nghĩa hơn chuyện Maxim Gorki bị hạ trong một Đại hội các Nhà văn dưới đây, vô nghĩa hơn cả vụ Serge Chensky và việc ấn hành lại các thư từ trao đổi của ông cách đây mới mười lăm năm và Kornejchouk đã nói rằng “một việc như vậy chưa bao giờ xảy ra và cũng không bao giờ xảy ra” và “ta chưa bao giờ được thấy chuyện như vậy trong văn học sử Nga” đúng quá nhỉ?
OZEROV: Lá thư gởi Đại hội ấy của Soljenitsyne đã tạo nên một hành vi chính trị có hậu quả xấu nhất. Nó có thể đi đến chỗ có lợi, cho kẻ thù. Lá thư ấy có những khẳng định của tác giả sai với sự thực giữa những nhà văn bị đàn áp một cách oan uổng người ta nói cả đến Zamzatine nữa.
Về vấn đề ấn hành cuốn Trại ung thư, ta có thể đi đến một sự đồng ý với tòa soạn Novy Mir; có thể sửa chữa và thảo luận với tác giả về những chỗ sửa chữa này. Cuốn truyện có những phần giá trị khác nhau quá xá; có nhiều đoạn rất thành công, có nhiều đoạn dở.
Nhưng tôi không chịu cái bút pháp viết truyền đơn, cái lối phỏng bút của Soljenitsyne. Tôi yêu cầu phải cắt bớt nhiều đoạn mà tôi không thể đi sâu vào chi tiết vì thiếu thì giờ. Triết lý chủ nghĩa xã hội nhân bản vốn là yếu tố chủ thể của nội dung tác phẩm hình như do tác giả đưa ra không chấp nhận được.
SOURKOV: Tôi cũng vậy, tôi đã đọc cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng mà lập trường, rốt cuộc lại, có thể tóm tắt như sau. Tất cả đều khốn nạn!”. Trong cuốn Trại ung thư người ta cũng thấy lại một giọng ấy. Trong thành phần nhân vật của nó có ai ở trong thế giới của các anh hùng không? Chỉ có anh Shulubine kỳ cục được A.S. tả giống như người cộng sản, cũng như tôi giống… (diễn giả thiếu một chữ) Shulubine, với các ý tưởng lạc hậu. Tôi không cần che giấu, tôi là một người trí thức, tôi hiểu các học thuyết triết lý, chính trị và xã hội, tôi đã ngửi thấy trong đó có Mikhailovsky và Vladimir Soloviev và đồng thời có cả ý kiến thơ ngây rằng “kinh tế có thể lệ thuộc vào đạo đức”.
Sau bao nhiêu thử thách, anh có quyền cảm thấy bị đè ép, lăng mạ, nhân danh con người, anh Alexandre Soljenitsyne! Nhưng anh lại là nhà văn. Tôi có biết những người cộng sản già đã bị đưa đi “căng” nhưng không phải vì thế mà thế giới quan của họ thay đổi.
Không, sách của anh không có chất sinh lý học mà là chính trị. Sách của anh đã đề cập đến những vấn đề căn bản! Và thần tượng được nêu ra trong vị trí cao nhất cũng không phải là đài kỷ niệm cho Marx.
Trại ung thư, nếu in ra sẽ có hại cho chúng ta; hại hơn Ký ức của Sveslara nữa! Đành là ta phải ngăn cấm Tây phương xuất bản nhưng hết sức khó. Tôi đã là láng giềng của Anna Andreievna Akhmatova trong những năm cuối cùng của bà và biết rằng sau khi bà cho một vài người đọc tập Requiem chừng vài tuần lễ là đã thấy Tây phương xuất bản cuốn ấy rồi. Dĩ nhiên, độc giả của chúng ta đã đủ tiến bộ và giàu kinh nghiệm; họ đâu có để cho mấy cuốn sách nho nhỏ ấy kéo đi xa chủ nghĩa cộng sản! Tuy nhiên, tác phẩm của Soljenitsyne còn tai hại hơn sách của Pasternak nhiều. Pasternak là một người chán đời, trong khi Soljenitsyne là người hoạt bát chiến đấu, tư tưởng đã dứt khoát A.S. là một người có đầu óc.
Chúng ta, những người của cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử nhân loại, không bao giờ chúng ta xa rời các khẩu hiệu, xa rời các ngọn cờ cách mạng.
“Chủ nghĩa xã hội đạo đức” là một thứ chủ nghĩa xã hội khá tư sản (quay sang Salynsky), tôi không hiểu tại sao người ta có thể hiểu nó và còn thấy nó có một vài giá trị và muốn bảo vệ!
SALYNSKY: Tôi có bảo vệ gì đâu.
RIOURRIKOV: Soljenitsyne đã chịu thiệt hại vì những kẻ bôi nhọ anh ta và cũng bị luôn vì những kẻ đã ca tụng anh ta quá mức, gán cho anh ta những đức tính anh không hề có. Nếu phải phủ nhận, Soljenitsyne cũng cần phải phủ nhận một cái gọi là người nối tiếp của chủ nghĩa hiện thực Nga sao anh ta tự gán cho mình. Tác phong của thống chế Rokossovsky, của Đại tướng Gordetov lương thiện hơn tác phong của các nhân vật trong truyện của Soljenitsyne nhiều. Nguồn gốc năng lực của nhà văn này phát xuất từ những cảm nghĩ chua chát, những cảm tưởng bị nhục mạ, đàn áp. Tôi có thể hiểu được Soljenitsyne trên một vài khía cạnh nhân bản.
Soljenitsyne, anh viết là người ta đã cấm các tác phẩm của anh hả? Đâu, kiểm duyệt có đụng đến một cuốn nào đâu? Tôi lấy làm lạ về chuyện Tvardovsky xin phép Thư ký đoàn để đăng truyện của anh. Tôi bất kỳ là chuyện như thế nào tôi cũng không bao giờ xin phép Hội của Nhà văn để đăng tải.
Rồi Riourrikov yêu cầu Soljenitsyne hãy nghe theo khuyến cáo của tòa soạn Novy Mir và hứa “nhân danh những người hiện diện” sẽ có những lời chú giải bên cạnh từng trang một cuộc Trại ung thư.
BAROUDJINE: Tôi là một trong những người đã không hoan nghênh tác phẩm của Soljenitsyne ngay từ đầu. Ngay cuốn Ngôi nhà của Matriona đã kém hơn hẳn tác phẩm đầu của anh ta và cuốn Nhóm thứ nhất đã có nhiều yếu điểm: Staline Abakoumov và Proskreby chưa được mô tả như những con người thời đại bán khai.Trại ung thư kế tiếp là một chuyện phản nhân bản. Kết cục của cuốn chuyện là sự khẳng định rằng “có lẽ phải đi tìm một con đường khác”.
Soljenitsyne đã tưởng rằng hai lá thư “được coi như là tài liệu tranh luận sẽ được Đại hội đọc tức khắc hay sao? Đại hội đã nhận bao nhiêu thư cả thảy?
VOROWKOV: Gần năm trăm lá!
BAROUDJINE: Anh nghe ra chưa, Soljenitsyne? Làm sao có thể đọc tức khắc được? Tôi không đồng ý với Rjoukov: Việc xin phép xuất bản phải đặt ra nói với Thư ký đoàn là đúng. Thư ký đoàn của chúng ta càng ngày càng phải biến thành cơ quan phụ trách việc sáng tác và không nêu tiếc các khuyến cáo với các hội đồng biên tập.
ABDOMUNOV: Việc Soljenitsyne có can đảm phủ nhận cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng có một ý nghĩa tích cực, bây giờ anh ta cũng phải có can đảm thực hiện cái đề nghị của Alexandrovitch Constantin (Fedine)! Bây giờ mà in cuốn Trại ung thư sẽ có những chuyện rắc rối lớn hơn khi có bức thư đầu của Soljenitsyne nữa! Trong truyện có Rousanov, có những người chết vì chủ nghĩa vĩ đại bây giờ là người các trại tập trung nhưng những người khác nữa ở đâu? Xã hội Xôviết ở đâu? Không thể ép buộc phải nhấn mạnh đến điều này. Nhưng cũng không thể viết một cuốn tiểu thuyết trong đó không có một chút ánh sáng vui vẻ nào thoát ra hết. Và có nhiều đoạn kéo dài, nhiều chỗ lặp lại, nhiều cảnh của bút pháp tự nhiên. Tất cả những thứ đó phải cắt bỏ!
ABASHIDZE: Tôi chỉ mới đọc được chừng có 150 trang của cuốn Trại ung thư và do đó không thể phê phán về nội dung. Tôi không thấy có gì là tôi không thể có ý kiến về nội dung cuộn truyện. Có thể là những chuyện thiết yếu nhắc ở đoạn sau cũng nên.
Tất cả chúng ta, nhà văn lương thiện và có ý thức, chúng ta luôn luôn chống lại những thứ trang sức hoa hoè hoa sói, kể cả trường hợp việc làm ấy rất khó coi. Nhưng Soljenitsyne đang bị nguy vì rớt vào chỗ đối lập “đoảng”: một vài đoạn chỉ là miêu tả thuần túy.
Nghệ sĩ như đứa bé, nó tháo chiếc xe hơi ra để xem có gì ở trong đó. Nhưng nghệ thuật lại nằm trong sự lấp lại, dựng nên chiếc xe hơi. Tôi thấy Soljenitsyne hỏi người ngồi bên cạnh tên của một vài diễn giả, tại sao nhìn không biết mặt một người nào trong những người chúng ta ở đây? Chỉ vì chúng ta đã không mời anh ta… Đề nghị của Constantin Alexandrovitch rất đúng. Chính Soljenitsyne phải tự trả lời lấy những sự bôi nhọ!
BROVKA: Ở Bélorussie, có nhiều người bị đưa đi trại tập trung. Tỷ dụ như Sezge Grakhovsky chẳng hạn đã phải giam đến hai mươi năm. Nhưng họ đều hiểu rằng: dân tộc, Đảng và quyền uy chính trị không chịu trách nhiệm về những sự bất công ấy.
Trong hồi ký của Staline, chỉ có sự ngồi lê đôi mách của đàn bà. Nhân dân hiểu điều này và chỉ cười thôi. Nhưng ở đây chúng ta có một người được thế giới thừa nhận tài năng, đang đặt vấn đề xuất bản sách cho đương sự. Đúng là Soljenitsyne đã cảm thấy những nỗi đau khổ của tổ quốc, một cách thực tình quá lố, nhưng anh ấy lại không có những cảm tưởng vui sướng hân hoan. Trại ung thư quá ảm đạm, không thể ấn hành được (rồi cũng như diễn giả trước và những diễn giả lên diễn đàn sau ông ta, BROVKA ủng hộ đề nghị của Fedine: Soljenitsyne phải lên tiếng chống lại những luận điệu bôi nhọ của Tây phương lợi dụng lá thư).
JASHEN: (Chỉ trích cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng): Tác giả không phải bị băn khoăn vì sự bất công mà bị đầu độc vì hận thù. Mọi người đều bất bình vì có một nhà văn như vậy trong Hội. Tôi đề nghị khai trừ y ra khỏi Hội. Soljenitsyne không phải là người duy nhất bị hành hạ, còn những người khác nữa, nhưng họ hiểu sai bi kịch của thời đại này, như chàng thanh niên Ikramoe chẳng hạn. Trong Trại ung thưhiển nhiên là ta có một ngòi bút bậc thầy. Nhưng tại sao trong trận Léningrad những kẻ bị lên án còn có – ngoài Hitler “cả những người khác nữa”? Tôi không hiểu “những người khác nữa” là ai? Là Béria? Hay là các nhà lãnh đạo sáng suốt hiện tại của chúng ta? Phải nói rõ ra. (Tuy thế diễn giả lại ủng hộ cái giải pháp can đảm của Tvardovsky sửa lại tác phẩm cùng với Soljenitsyne và sau đó có thể cho một độc giả hạn chế đọc.)
KERBALEV: Tôi đã đọc xong Trại ung thư cùng với tất cả sự ghê tởm? Mọi nhân vật đều là những tù nhân cũ, tất cả đều ảm đạm, không có lấy một chút ấm áp trong suốt cả tác phẩm.
Véra dâng cho người hùng cả ngôi nhà và sự tiếp đón của nàng nhưng chàng, chàng lại từ chối đời sống. Và câu “chín mươi chín người khóc, một người cười” nghĩa là gì? Tôi đồng ý với Korneijchouk. Tại sao tác giả lại nhìn tất cả dưới một màu đen tối.
Tác giả chối bỏ cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng chưa đủ, tôi sẽ công nhận Soljenitsyne là người can đảm ngày nào anh ta chối bỏ luôn Trại ung thư. Lúc ấy, tôi sẽ hoan hỉ đón tiếp anh ta y như một người anh em thân thích.
TCHRIDOV: Tôi không cần nói đến tương lai và sẽ khai trừ Soljenitsyne ra khỏi Hội. Trong vở bi kịch của Soljenitsyne, tất cả những gì là Xôviết đều bị trình bày một cách tiêu cực, kể cả Savourov. Tôi đồng ý là Soljenitsyne phải chối bỏ cuốn Trại ung thư. Quốc gia này đã làm cho đất đai hoang phế trở nên màu mỡ và đi từ thành công này đến thành công khác.
NOVICHENKO: Bức thư gửi Đại hội là một vi phạm mọi luật lệ và nó đã ngáng ngang đò của Hội Nhà văn. Tôi tán thành đề nghị nghiêm khắc của TVARDOVSKY phải cương quyết lên án việc làm ấy của tác giả.
Tôi cũng không đồng ý với những yêu sách của lá thư; ta không có thể cho phép tất cả đều được ấn hành. Ta có thể in cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng không?
Bây giờ bàn về Trại ung thư. Phản ứng của tôi rất phức tạp. Tôi không phải là trẻ con, tôi biết tôi phải chết và có thể chết trong sự đau đớn của những nhân vật Soljenitsyne. Nhưng ngay trong hoàn cảnh ấy, vấn đề quan trọng hơn cả vẫn là lương tâm ở đâu? Ta còn có những di sản luân lý nào? Nếu cuốn truyện dừng lại ở đây, tôi thấy rất cần in. Nhưng cái ảnh phóng bút tả người con gái của Rousanov là một sự can thiệp hạ cấp đối với những tục lệ văn hoá của chúng ta. Ý nghĩa chính trị - ý thức hệ của chủ nghĩa xã hội đạo đức là sự từ chối chủ nghĩa Mác – Lê, câu cuối mượn lời của Pouchkine: “Con người bao giờ cũng là một nhà độc tài, một tên phản bội hoặc một kẻ nô lệ” là sản phẩm của một học thuyết nhục mạ… Dứt khoát không thể chấp nhận được những điều ấy.
Trong cuốn truyện, chỉ có những kẻ bị đọa đày đứng lên chỉ trích phê phán xã hội… cũng là một sự nhục mạ nữa… Cá nhân của Rousanov bị méo mó ngh trình bày như là một người nguyên vẹn đẹp đẽ. Không thể chấp nhận việc bưng Rousanov lên làm phát yếu nhân của xã hội chính thức của chúng ta. Tôi cũng rất bực bội khi tên của Gorki lại bị cái miệng bẩn thỉu của Rousanov nhắc tới. Dù có được sửa chữa thực cẩn thận, cuốn sách này cũng không bao giờ là một tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực xã hội.
Tuy nhiên nó vẫn tạo nên một biến cố về văn học; nó là tác phẩm của cây bút có tài. Tôi cũng đã đọc được cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng và phải nói rằng mối tương quan giữa tôi và tác giả, đã có một cái gì thay đổi. Phải xóa bỏ hết những dấu vết của bi kịch ấy…
MARKOV (Vừa ở Sibérie về tới và đã diễn thuyết 5 lần trước những đám người rất đông): Phải hiểu rằng Soljenitsyne chẳng gây được ảnh hưởng ở đâu hết khắp mọi nơi, chẳng mấy ai nói gì về Soljenitsyne hết. Chỉ có một người đưa cho tôi một tờ giấy và hỏi tôi – tôi xin lỗi phải nói thực rằng: “Đến bao giờ thằng cha Soljenitsyne ấy mới thôi phá hoại văn học Nga”.
Chúng ta chờ đợi nơi Soljenitsyne một phản ứng thực chính xác, đập đúng vào đầu bọn tư sản bôi nhọ chúng ta, bằng một tuyên ngôn gởi cho báo chí. Y phải bảo vệ danh dự nhà văn Xôviết của y. Sự phủ nhận cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng của Soljenitsyne làm cho ngực tôi như nhẹ hẳn đi. Về cuốn Trại ung thư, tôi đồng ý: Tác phẩm dựa trên một nền tảng cá biệt, ý thức tổng quát về xã hội của nó không chấp nhận được. Khi quả quyết rằng “đã có người sống trên nền tảng ấy” tác giả muốn phác ra những đường hướng mịt mù, không ai biết được. Dựa vào sự hợp tác thân thiện giữa tác giả và tòa soạnNovy Mir, tôi nghĩ rằng cả hai bên phải họp lại bổ khuyết thêm cho tác giả; dù mất công đến mấy cũng phải chịu vì không thể để như vậy rồi đem ra in.
Cách thức tiến hành như thế nào? Cụ thể Alexandre Isaevitch (Soljenitsyne) phải chuẩn bị cái tuyên dương được nói đến từ nãy đến giờ đúng vào lúc sắp kỷ niệm năm năm cuộc cách mạng Xôviết; sau đó, ít lâu nữa, thư ký đoàn sẽ có thể đưa ra một thông cáo về việc này.
Mặc dù vậy, tôi vẫn tiếp tục coi Soljenitsyne là bạn. Nhưng Alexandre Isaevitch ạ, anh đang tự đặt mình vào cái thế cô độc ấy, những người khác không phải là những người phạm lỗi. Về cái đề nghị khai trừ Soljenitsyne, tôi nghĩ rằng chúng ta không nên hấp tấp vì giữa chúng ta tình thân hữu vẫn còn có giá trị…
SOLJENITSYNE: Thêm một lần nữa trong ngày hôm nay, tác phẩm đối lại việc đem cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng ra tranh luận và có lẽ còn phải phản đối nữa… Cuối cùng người ta có thể buộc tội các ngài lẫn kẻ chống lại học thuyết tiến hoá nếu các ngài thực tình nghĩ rằng một con người không thay đổi gì hết cả trong hai mươi năm khi hoàn cảnh đã thay đổi.
Nhưng tôi lại được nghe ở đây những lời buộc tội khác quan trọng hơn nhiều. Kornejchouk Baroudjne và nhiều vị đã nói cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng đã được lưu hành và dân chúng đã đọc nó. Tôi sẽ nói rất thong thả để cho từng chữ một của tôi được ghi lại đúng đắn.
Rằng nếu cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng được in ra hoặc được lưu hành rộng rãi thì tôi xin tuyên bố là trách nhiệm hoàn toàn do cơ quan đã cưỡng đoạt bản viết duy nhất chưa có ai được đọc, của thiên bi kịch ấy – đem ra ấn hành ngay khi tôi còn sống và ngược với ý muốn của tôi. Chính tổ chức ấy đã phổ biến thiên bị kịch ấy.
Hơn một năm rưỡi nay, tôi luôn nhắc nhở quý vị rằng chuyện này rất nguy hiểm. Ở đây, chúng ta không có một phòng đọc những bản viết tay tác phẩm được chuyền từ người nọ sang người kia, quý vị mang nó về nhà, nơi con trai con gái của quý vị ở. Nhưng tất cả các ngăn bàn ngăn tủ đâu có phải là có chứa tất cả? Tôi đã báo trước với quý vị việc này và bây giờ cũng xin báo trước quý vị thêm một lần nữa.
Xin bàn đến cuốn Trại ung thư. Người ta đã chỉ trích tôi về cả cái tiêu đề của tác phẩm vì nó không phải là một đề tài y học mà là một cái gì có ý thức tiêu biểu, tượng trưng.
Tôi xin trả lời: Đấy thực không phải là một biểu trưng vô hại nếu phải trải qua tất cả các giai đoạn của bệnh ung thư và thời kỳ hấp hối để khám phá nó. Chỉ vì một biểu trưng mà thôi, các ngài không thấy cái tính chất của nó quá nhiều, quá dày hay sao? Chỉ vì một biểu trưng các ngài không thấy rằng nó có quá nhiều chi tiết y khoa hay sao? Nhiều nhà chuyên môn nổi tiếng về ung thư – xem cuốn sách do tôi gởi cho họ đọc và hỏi ý kiến - đã cho biết rằng, trên quan điểm y khoa, nó không có gì sai lầm có thể bài xích được cả, ngay trong hiện tại. Đấy là bệnh ung thư, đúng như bệnh trạng mà văn chương tiêu khiển không hề nói đến nhưng các bệnh nhân bị ung thư hằng ngày đã cảm thấy, kể cả các người thân thích và biết đâu có lẽ mai đây sẽ có một trong những quý vị đây sẽ phải vào điều trị nơi một bệnh viện ung thư để hiểu rằng đấy không phải là một biểu trưng.
Tôi thực tình không hiểu tại sao lại có lập luận buộc tội cuốn Trại ung thư phản nhân bản? Đúng ra nó là một cái gì trái ngược với lập luận buộc tội ấy, đấy là sự vượt qua cái chết của sự sống, vượt qua quá khứ của tương lai. Vì bẩm tính trời sinh của tôi, tôi không bao giờ tự ép mình phải viết một truyện như vậy. Nhưng tôi quan niệm rằng văn chương đối với xã hội cũng như đối với từng con người một, có bổn phận nói ra một cách thành thực, chứ không che giấu hay làm nhẹ đi, sự thực như thế nào và người ta chờ đợi nơi nó những gì? Phương ngôn Nga nói về việc này, rất giàu có:
“Đừng yêu những kẻ cam chịu, hãy mến những kẻ dám chống đối.”
“Những đứa ngọt ngào thổ lộ không phải là những người tốt.”
Trên đại cương, sứ mạng nhà văn không hạn chế ở chỗ bảo vệ hay chỉ trích hệ thống phân phối lợi tức xã hội này hoặc hệ thống kia, không hạn chế ở chỗ chỉ bảo vệ hoặc chống đối hình thức tổ chức quốc gia này hoặc hình thức tổ chức kia. Sứ mạng đó là nói về những đề tài phổ biến hơn, vĩnh cửu hơn. Những bí mật của con tim và của lương tâm con người, sự hội ngộ của cái chết và sự sống, sự vượt qua những đau đớn về tinh thần. Sự tìm kiếm những dự luật phát ra từ những tầng sâu của vạn đại không thể thăm dò, giờ này vẫn còn bám lấy lịch sử của nhân loại cho đến ngày tận thế. Việc quý đồng nghiệp đọc một vài đoạn nhưng không chú ý đến để bây giờ đưa ra những sự giải thích và phê bình méo mó đã làm cho tôi buồn thấm thía. Lẽ ra chuyện này không nên xảy ra mới phải. Thí dụ như “chín mươi chín người khóc, một người cười” là một câu phương ngôn quen thuộc ở đồng quê ta. Trong truyện Kostoglotov nói tạt vào mặt cái con người định tách ra khỏi hàng ngũ để ra oai với mình cho hắn ta biết gã là người như thế nào; chỉ có thế thôi! Ở đây trái lại, người ta đã kết luận rằng như vậy là đến toàn thể Liên bang Xôviết.
Souskov đã làm tôi ngạc nhiên, trước hết, tôi không tài nào hiểu nổi tại sao anh ấy lại đem Marx ra nói gì trong truyện của tôi có gì dính đến Marx đâu? Alexandrovitch ạ, anh là thi sĩ, một con người có năng khiếu nghệ thuật rất tinh tế; nhưng ở đây, cái năng khiếu ấy đã chơi anh một vố đau đấy. Anh không hiểu màn ấy hay sao Chouloubine đem Bacon ra lòe và dẫn đến thuật “thần tượng của hàng chợ” và Kostoglotov ráng tưởng tượng ra một cái chợ ở giữa có một thần tượng nhờn nhợt màu da. Chouloubine thuyết về thần tượng của kịch trường và Kostoglotov tượng trưng ra một thần tượng giữa kịch viên nhưng vì thần tượng không có ở đó, y bèn đặt nó vào công việc kế cận. Làm sao anh có thể nghĩ rằng tôi nói đến Mạc Tư Khoa và đài kỷ niệm Marx chưa được dựng?
Đồng chí Soukov có nói là chỉ cần có vài tuần lễ là cuốn Requiem dù chỉ được có một số rất ít người được đọc – đã sang Tây phương. Thế mà phần đầu cuốn Trại ung thư đã được chuyền tay nhau đọc hơn một năm rồi. Vì thế tôi mới lo và nói phải cấp báo với Thư ký đoàn.
Dẫu chỉ Soukov khuyên tôi đừng tiếp tục đi theo chủ nghĩa hiện thực Nga. Tôi xin hứa sẽ nghe theo lời khuyên ấy.
RIOURIKOV: Tôi không khuyên anh từ bỏ con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa Nga mà khuyên anh hãy từ bỏ cái vai trò của anh đang được trình bày ở Tây phương.
SOLJENITSYNE: Bây giờ xin bàn đến đề nghị của Constantin Alexandrovitch, một đề nghị mà tôi phải hoan nghênh. Việc ấn hành, đấy là điều mà tôi đã tranh đấu suốt trong bao lâu nay. Khỏi phải trốn tránh, khỏi phải bao phủ những bài diễn từ, khỏi phải niêm phong những bản đánh máy tác phẩm. Sau cuộc thảo luận về cuốn Trại ung thư, tại phân bộ các nhà văn (Section de la prose) ở Mạc Tư Khoa đã định giữ bản đánh máy nội dung cuộc thảo luận cho những người tham dự và có liên hệ và làm vậy là phải quá rồi. Vậy mà người ta đã không cho tôi lấy, người ta vẫn giấu tôi – tác giả cuốn ấy. Cuộc tranh luận ngày hôm nay đây sẽ có bản đánh máy ghi chép nội dung cuộc tranh luận và tôi có hy vọng sẽ được nhận một bản thủ, anh Constantin Alexandrovitch?
Constantin Alexandrovitch có hỏi: ấn hành những lời phản đối của anh để làm gì? Câu trả lời của tôi hết sức rõ ràng lắm: Để phục vụ văn hoá xứ sở nhưng quan niệm của Alexandrovitch cho rằng tôi phải tự giải quyết lấy vấn đề hết sức phi lý. Người ta đã trói chân tay tôi, bịt miệng tôi thì tôi làm thế nào được?
Hình như việc làm này, với Hội các Nhà văn đầy uy thế, hết sức dễ:
Tôi bị chặn hết mọi cửa trong khi Hội có toàn thể và tờ báo để sử dụng. Chỉ cần tôi ký tên vào một lời kêu gọi dân chúng bảo vệ miền Baikal là tờ Komsomolskai Pravda dẹp ngay tên tôi rồi.
Dù vậy, tôi vẫn không hiểu tại sao thư tôi không được đọc trước Đại hội. Bây giờ Constantin Alexandrovitch lại đề nghị chống lại các hậu quả chứ không phải chống lại nguyên nhân, nghĩa là chống lại dư luận ở Tây phương chung quanh bức thư của tôi. Nhưng bức thư này có một phần tổng quát, một phần riêng biệt. Tôi có phải chống lại cả phần tổng quát không? Không, vì tôi vẫn giữ cái ý kiến ấy không có lơ một chữ nào hết. Lá thư ấy đề cập đến cái gì?
NHIỀU NGƯỜI TRẢ LỜI: Kiểm duyệt.
SOLJENITSYNE: Nếu như vậy các bạn chẳng hiểu gì hết. Lá thư ấy nói đến giá trị của nền văn nghệ vĩ đại của chúng ta một thời đã chinh phục được nhân loại, làm cho nhân loại ngây ngất. Ngày nay đã đánh mất chỗ ngồi của nó rồi. Ở Tây phương người ta bảo rằng “tiểu thuyết Nga chết rồi” và chúng ta nhào ra đem hết sức mạnh ra tổ chức những buổi nói chuyện, diễn thuyết để chứng minh rằng điều này sai với sự thực. Tổ chức các buổi nói chuyện thuyết trình mà làm gì? Chưa phải viết những cuốn truyện ánh sáng rực rỡ; thế là “Tiểu thuyết mới” của ta sẽ rơi vào quên lãng để cho các cuốn truyện của thế hệ “Các nhà văn tiền phong” mới ra đời. Tôi có cần phải tuyên bố là tám điểm trong phần thứ hai của lá thư đều sai lầm và bất công hay không? Nhưng các điểm ấy đúng với sự thực hoàn toàn. Tôi có cần phải tuyên bố là đã được thỏa mãn một phần hay không? Cho đến nay, chưa có gì được sửa chữa, chưa có gì được dẹp đi trong sự đối xử đối với tôi. Vậy thì chính các bạn phải hành động trước đi để cho tôi có thể đưa ra bản tuyên ngôn ấy: hãy cho in các lá thư của tôi và cho biết những biện pháp các bạn đã chọn lựa đối với những điểm đặc biệt hoặc ít nhất cũng nói đến các biện pháp sẽ áp dụng đối với một vài điểm trong đó; lúc ấy tôi xin viết ngay bản tuyên ngôn mà các bạn đã yêu cầu. Trong trường hợp này, tôi cũng xin ấn hành luôn lời tuyên bố của tôi đối với cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng mặc dù tôi không hiểu các lý do đưa đến cuộc tranh luận về một cuốn sách mà tác giả bị cướp giựt và về sự tiết lộ một bức thư chưa được ấn hành? Ngày 12 tháng 6, Thư ký đoàn đã hứa sẽ đưa ra bản thông cáo mà không có điều kiện nào; bây giờ các bạn lại đặt điều kiện. Có gì đã thay đổi?
Người ta đem cuốn Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch. Chiến dịch bôi nhọ tôi vẫn được tiếp tục và còn được đẩy mạnh thêm. Chỉ có các bạn mới có thể phản công lại được, tôi thì không! Điều duy nhất mà tôi lấy làm an ủi là không một luận điệu trong các luận điệu bôi nhọ làm cho tôi xây xẩm mặt mày: tôi đã được tôi luyện trong các trại tập trung của Staline rồi.
FEDINE: Không! Trật tự như vậy đã bị đảo ngược! Tuyên ngôn thứ nhất phải là của anh. Sau những nhận xét khích lệ về tài năng và về biện pháp của anh, anh phải tìm ra hình thức thích hợp cho tuyên ngôn ấy. Không có những lý do chính đáng để chúng tôi lên tiếng trước rồi anh mới nói sau.
TVARDOUSKY: Trong trường hợp này, lá thư có được công bố không?
FEDINE: Không. Nếu phải in thì in lúc ấy, còn bây giờ, ngoại quốc đã làm ồn ào rồi, ta không có lý do để công bố nữa.
SOLJENITSYNE: Chậm còn hơn không. Còn tám điểm của tôi thì sao?
FEDINE: Sau đó, chúng tôi sẽ tính.
SOLJENITSYNE: Tôi đã trả lời. Và hy vọng tất cả đều được đánh máy thật đúng.
SOURKOV: Anh cũng phải nói rằng anh chẳng có gì liên quan với vai trò lãnh tụ đối lập mà Tây phương đã gán cho anh nữa.
SOLJENITSYNE: Alexei Alexandrovitch (Sourkov), tôi thực sửng sốt khi nghe anh nói như vậy? Nghệ sĩ của ngôn ngữ và lãnh tụ đối lập chính trị? Làm thế nào dung hòa hai công việc này được?
Một vài người nữa lên diễn đàn nhấn mạnh là yêu cầu Soljenitsyne chấp nhận đề nghị của Fedine.
Tiếng nói của mấy người một lúc: Hãy nghĩ đến đề nghị ấy đi.
Soljenitsyne tuyên bố thêm một lần nữa rằng không thể nào đưa ra một tuyên ngôn như vậy vì độc giả người Nga sẽ không hiểu đương sự muốn gì trong bản tuyên ngôn ấy.
Hai tháng sau, Thư văn của Thư ký đoàn Hội các Nhà văn Liên Xô số 3141 ngày 25 tháng 11 năm 1967 gửi nhà văn Alexandre viết như sau:
Ngày 22 tháng 9, Thư ký đoàn của Ủy ban Nhân dân Lãnh đạo Hội Liên hiệp các Nhà văn Xôviết đã xét bức thư của bạn. Cuộc thảo luận đã cho chúng tôi hiểu rõ thái độ của các giới văn nghệ Xôviết đối với bạn và các hoạt động văn nghệ của bạn. Cuộc họp đã chấm dứt nhưng chưa có kết luận. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng rằng bạn sẽ suy nghĩ về những nhận xét đưa ra trong cuộc thảo luận để hành động thích ứng.
Thư ký đoàn mong được biết quyết định của bạn về vấn đề này.
Ký tên,
Ủy viên Thư ký
K. Voronkov
Phần 5: Thư gởi thư ký đoàn sau hội nghị Kính gởi Thư ký đoàn Hội Liên hiệp các Nhà văn
Thư văn của Hội số 3.142 ngày 25 tháng 11 năm 1967 không làm tôi hiểu rõ:
1. Rằng Hội có bảo vệ tôi chống lại chiến dịch bôi nhọ phát động từ ba năm nay, hay không?
Mới đây lại có một vài sự kiện mới nữa:
Ngày 5 tháng 10 năm 1967, tại Hội quán báo chí Léningrad, ông chủ nhiệm tờ Pravda Zinzarine lại đưa ra cái luận điệu bôi nhọ cũ kỹ “Soljenitsyne, bị tù vì lý do tư pháp”. Biện pháp này như quý vị đã rõ, vốn là biện pháp thông thường và quen thuộc nhất được đem ra áp dụng với những người bị chế độ ác cảm. Ngoài ra ông Zizarine còn quả quyết rằng quá khứ bị tù tội trong trại tập trung đã làm cho tôi có định kiến với chế độ không thể sửa đổi. Đặc biệt hơn nữa các nhân vật thuộc cơ quan tuyên huấn của Sở An ninh K.B.G. còn phóng ra những nguồn tin rất động trời, đại để như nguồn tin: “Có thể là Soljenitsyne đã dựng ra trong quân đội, một tổ chức chưa biết nên coi là tổ chức chủ bại hay khủng bố! Nếu có như vậy mà Ủy ban Quân sự của Tòa án Tối cao không khám phá ra chuyện này thì thực là vô lý!
2. Thư ký đoàn có biện pháp nào để ngăn cản việc áp dụng các biện pháp phi lý và độc đoán sau đây:
Hiện diện: 30 vị thư ký trong tổng số 42 vị hiện diện trong cuộc họp.
Đồng chí Malentev, Ủy viên Ủy ban Văn hoá Trung ương Đảng cũng có mặt tham dự phiên họp.
Đệ nhứt Thư ký K. A. Fedine chủ tọa buổi họp.
Chương trình nghị sự: Thảo luận về mấy lá thư của nhà văn Alexandre Soljenitsyne gởi Thư ký đoàn và Đại hội Hội các Nhà văn.
Cuộc họp khai mạc hồi 13g và bế mạc hồi 18g ngày 22 tháng 9 năm 1967.
Sau những thủ tục nghi lễ, chủ tọa mở lời:
FEDINE: Tôi hết sức bất mãn với lá thư thứ hai của Soljenitsyne (về sau tên này xin viết tắt là A.S.) những lý do A.S. nêu ra để chứng minh rằng vấn đề của ông ta đã bị xếp lại rất yếu ớt mà còn bao hàm ý nghĩa nhục mạ chính cả Hội các Nhà văn chúng ta.
Ba tháng rưỡi đâu có phải là một thời gian quá dài để xét toàn bộ thủ bản tác phẩm của A.S.? Vậy mà luận điệu của lá thư kia chất đầy đe dọa và các dữ kiện đưa ra có tính chất uy hiếp rõ rệt.
Trong lá thư thứ hai, A.S. đòi chúng ta phải lo cho tác phẩm của anh ta được xuất bản cấp kỳ. Trong lá thư này, A.S. đã trình bày hoàn cảnh bi đát của anh ta với đầy đủ chi tiết làm cho mọi người phải xúc động thương cảm. Nhưng đồng thời, cũng trong lá thư ấy, tác giả lại mạt sát tất cả chúng ta.
Ấn hành tác phẩm của A.S. là một vấn đề phức tạp như thế nào? Không một ai ở đây là không biết rõ cũng như không một ai ở đây phủ nhận tài năng của A.S.! Nhưng luận điệu của anh ta lại hết sức bất công.
Đọc lá thư, tôi có cảm tưởng là mình bị tát tai vì lá thư đó cho rằng chúng ta ở đây đều bất tài, không đại diện nổi cho giới trí thức và nghệ sĩ. Rốt cuộc, chính A.S. đã làm chậm trễ và ngăn cản việc giải quyết vấn đề, vì tham vọng quá lớn. Đọc lá thư của A.S., tôi thấy nó không có một chút dấu vết nào của tình đồng nghiệp, giữa nhà văn.
Cho nên, dù muốn dù không, ngày hôm nay chúng ta cũng phải đề cập đến lá thư này.
SOLJENITSYNE: (đứng lên xin phép được nói vài lời tuyên cáo viết sẵn): Tôi được biết rằng trong cuộc họp để xét cuốn Trại ung thư, các vị thư ký lại được đề nghị xét cả cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng, một kịch bản của tôi nhưng tôi đã vứt xó không đọc lại cách đây chừng 19 năm và hủy mọi bản khác đi, trừ cái bản duy nhất mà người ta đã tước đoạt rồi đem phổ biến. Tôi đã giải thích đi giải thích lại mãi rằng: Tác giả của nó không phải là Alexandre Soljenitsyne mà là tên tù mang thẻ đính bài số S. 232, viết trong những năm xa xưa tại một nơi mà người tù chính trị không có qua một chút hy vọng tranh thủ được sự tự do, không có qua một tổ chức nào – kể cả Hội các Nhà văn – đứng lên chống lại – bằng lời lẽ hay hành động – chủ trương đàn áp các dân tộc. Ngày hôm nay, tôi không thể chịu trách nhiệm về kịch bản này cũng như nhiều lần nhà văn ở đây không muốn ai nhắc đến các bài diễn văn và tác phẩm viết hồi 1949. Bi kịch ấy đã phản ảnh tình trạng tuyệt vọng của tù nhân các nhà lao thời bấy giờ. Lương tâm con người ở đó, lúc bấy giờ, bị sự sống chi phối hoàn toàn và chắc là con người ở đó sẽ không cầu nguyện cho những kẻ đã gây ra tội ác đàn áp được bình yên! Vở kịch ấy không có liên quan gì đến các tác phẩm viết trong giai đoạn này. Những người lôi kịch phẩm ấy ra để xét muốn gạt bỏ sự nghiên cứu khách quan và vô tư truyện Trại ung thư. Mặt khác, tôi xin phép nói rằng là đạo đức nghề nghiệp của nhà văn sẽ bị thương tổn khi đem một tác phẩm tước đoạt trong nhà riêng của người ta ra mổ xẻ. Tác phẩm này không phải là tác phẩm kia. Việc mổ xẻ cuốn Nhóm thứ nhất là một vấn đề riêng, không liên quan đến việc thảo luận cuốnTrại ung thư.
KORNESCHOUK: Tôi cũng có một câu hỏi muốn đặt ra với A.S. Bạn nghĩ sao về sự tuyên truyền ồ ạt của đối phương khi lá thư thứ hai được tung ra? Tại sao Soljenitsyne lại không chọn một lập trường xa cách đối phương hơn nữa? Tại sao A.S. lại im lặng trước những luận điệu của họ? Tại sao Radios của đối phương lại phổ biến lá thư ấy trước cả đại hội.
FEDINE: Mời A. S. trả lời.
SOLJENITSYNE đáp rằng anh không phải là học trò để phải trả lời từng câu một; đến lượt, ông cũng sẽ lên diễn đàn như mọi người.
FEDINE: Đề nghị mọi người đặt câu hỏi để cho A.S. trả lời chung một lượt.
BAROUZINE: Dù Soljenitsyne phản đối việc thảo luận cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng, chúng ta cũng phải thảo luận đến. Tôi không hiểu vì sao mà A.S. lại nhắc đến vở kịch ấy?
SALINSKY: Tôi yêu cầu A.S. cho biết rõ: thủ bản tác phẩm và giấy tờ bạn bị tước đoạt lúc nào? Từng trường hợp nào? Ai tước đoạt? Sau đó, bạn đã đòi lại chưa? Đòi với ai, có quen không nào?
FEDINE: Yêu cầu A.S. trả lời những câu hỏi trên.
SOLJENITSYNE nhắc lại ý kiến cũ, được một số người trong phòng họp ủng hộ…
FEDINE: Nhưng Thư ký đoàn cũng chỉ có thể thảo luận khi được nghe giải đáp những câu hỏi trên.
Một số người khác trong phòng họp: A.S. cũng có quyền từ chối, không thảo luận với Thư ký đoàn… có muốn như vậy thì nói lên đi.
SOLJENITSYNE: Vậy tôi xin trả lời. Radios ngoại quốc phổ biến lá thư sau – sau, không phải là trước – ngày Đại hội và cũng không phải là phổ biến liền sau ngày Đại hội (rồi rút ra một tờ giấy đọc tiếp).
Ở đây, người ta dùng tiếng “ngoại quốc” với một ý nghĩa phóng đại, cho ý kiến của ngoại quốc như là ý kiến của thượng cấp, rất quan trọng, cần phổ biến cho sâu rộng trong quần chúng. Điều này quá dễ hiểu đối với những người dùng phần lớn thì giờ ở nước ngoài rồi về trút vào văn chương Nga những ý niệm hời hợt bề ngoài, của nước ngoài. Với tôi, điều này thực kỳ cục. Tôi chưa bao giờ ra nước ngoài và hoàn cảnh đâu có cho phép tôi biết đến ngoại quốc. Tôi không hiểu vì sao người ta lại băn khoăn vì những gì của ngoại quốc mà không xúc động vì những gì liên quan đến nước nhà, đến dư luận của quần chúng xung quanh ta.
Tất cả đời sống của tôi là ở đây: trên mảnh đất quê hương. Tôi chỉ lắng nghe những niềm đau của tổ quốc và viết về những niềm đau ấy.
Tại sao tôi phải nhắc đến cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng? Thiết tưởng nội dung lá thư tôi gởi Hội đã nói lên rõ ràng rồi còn gì nữa: tôi phản đối sự tịch thu bất hợp pháp; sự phổ biến tác phẩm mà không có sự ưng thuận của tác giả. Về các thủ bản tác phẩm và tài liệu giấy tờ, tôi đã viết thư kêu gọi Trung ương Đảng từ 1965 đến nay. (Ngừng một chút để lấy ra một tờ giấy khai, A.S. đọc tiếp.)
Mới đây, một luận điệu mới sáng tác có liên quan đến sự tịch thu các tác phẩm của tôi được tung ra, luận điệu ấy như sau:
Người giữ các tác phẩm và tài liệu của A.S., Tevsh có liên lạc với một người tên tuổi được giữ kín. Người này bị Sở Quan thuế (sở quan thuế nào không ai biết) bắt và sở này giữ những gì cũng là một bí mật! Nhưng không tìm được những gì cần tìm của A.S. nơi Tevsh vì A.S. đề phòng quá kỹ.
Tất cả những chi tiết nói trên đều bịa đặt hoàn toàn. Sự thực như sau:
Cách đây hai năm, Tevsh – bạn tôi – có bị thẩm vấn nhưng không có một người nào hỏi anh về cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng. Tài liệu của tôi bị mất, nghĩa là bị tịch thu: bị chặn đường ngoài phố, sau khi đã rình rập theo dõi tôi từ nhà, có khi bị chặn ngay trước cửa để xét… nghe trộm điện thoại v.v… Nghĩa là bị tịch thu bằng những phương pháp quen thuộc, chẳng ai lạ gì. Có lạ chăng là khi một lập luận bôi nhọ vừa được tung ra là cả nước này biết rồi. Bằng cớ là lập luận trên đã được ông Potemkine phổ biến cho một cử tọa đông đảo và một vị thư ký của Hội ta thì đem ra cho các nhà văn ở Mạc Tư Khoa biết. Vị thư ký này cũng cho các văn hữu ở thủ đô hay rằng chính tôi đã phải thừa nhận sự thực trên, mặc dù Hội không có chất vấn gắt gao. Do đó, nếu tôi được cho biết là luận điệu nói trên đã được phổ biến rộng rãi thì đấy cũng là chuyện thường.
Tiếng một người nào đó trong phòng họp: Tòa soạn Novy Mir nhận đăng hay loại bỏ cuốn Trại ung thư?
ABDOMOMOVNOV: Tòa soạn Novy Mir phải xin phép cơ quan nào mới được đăng cuốn truyện ấy? Ai có cái quyền này?
TVARDOVSKY (Chủ nhiệm Novy Mir, một nhân vật xuất sắc của văn giới Nga, hai giải thưởng Staline và nguyên Ủy viên Trung ương Đảng): Thông thường, chính tòa soạn tự quyết định lấy việc in hay không in một tác phẩm. Nhưng với A.S., một trường hợp đặc biệt, quyền quyết định thuộc Thư ký đoàn của Hội.
VORONKOV: A.S. chưa bao giờ viết thư thẳng cho Thư ký đoàn. Sau khi nhận được lá thư của A.S. gởi đến, anh em trong Thư ký đoàn đã định gặp Soljenitsyne để thảo luận và cuối cùng sẽ thỏa mãn những đòi hỏi của ông ta… Nhưng lá thư của A.S. được báo chí bẩn thỉu của Tây phương đăng tải mà Soljenitsyne lại nín thinh không hề có một phản ứng nào…
TVARDOVSKY (ngắt lời diễn giả): … Cũng như vậy, Hội các Nhà văn đã có phản ứng nào đâu!
VORONKOV (nói tiếp khi Tvardovsky nói hết câu): … Thì ý muốn thỏa mãn các đòi hỏi ấy biến mất, khi nhận được lá thư thứ hai của A.S. anh em trong Thư ký đoàn chúng tôi thấy rõ đấy là một tối hậu thư, một sự nhục mạ, không xứng đáng với Hội. A.S. ám chỉ đến một vị thư ký Hội đã phổ biến cái mà anh ta gọi là “luận điệu bôi nhọ” ông ta với các nhà văn ở Mạc Tư Khoa. Vị thư ký ấy là tôi. Anh Soljenitsyne, người ta đã mách cho anh biết nhanh đấy, nhưng lại mách sai. Về việc tịch thu, tôi chỉ nói trong buổi họp ấy rằng những thủ bản tác phẩm bắt được đúng là của anh, dù nhà anh chưa bị xét lần nào. Nghĩa là tôi đã nói những điều chẳng khác gì những điều anh đã nói. Sau lá thư, tự nhiên chúng tôi phải tìm kiếm và đòi phải có mọi tác phẩm của anh. Thế thôi! Tôi tưởng chỉ có vậy mà anh đã dùng cái ngôn ngữ đã dùng để nói với các bạn văn học (chỉ chữ Pháp: camarade de plume) cùng là văn sĩ như anh thì đâu có phải!
Còn Alexandre Troplimovitch (tức TVARDOVSKY) nữa! Nếu anh thấy nên đăng cuốn (Trại ung thư) và tác giả đã bằng lòng cho anh sửa chữa thì anh cứ đăng đi! Thư ký đoàn có can dự gì vào việc ấy đâu.
TVARDOVSKY: Anh quên vụ Beck rồi sao? Lúc bấy giờ Thư ký đoàn đã khuyến cáo và can thiệp mạnh mẽ khiến cho truyện của Beck đâu có được đăng mặc dù Novy Mir đã loan báo nhiều lần.
(Chú thích: Tòa soạn Novy dưới quyền của TVARDOVSKY đã có một quan điểm rộng rãi. Truyện “Công việc mới” của Beck đã được tòa soạn chấp nhận nhưng Thư ký đoàn Hội các Nhà văn chống lại.)
VORONKOV: Nơi đây, chỉ có vấn đề của người công dân Alexandre Soljenitsyne là đáng chú ý. Tại sao A.S. không phản ứng trước luận điệu tuyên truyền hèn nhát của tư bản? Tại sao A.S. chống đối và cư xử với chúng ta như thù nghịch?
MOUSREPOV: Tôi cũng muốn hỏi A.S. một câu: Tại sao A.S. lại dám cả gan viết: “Có những đồng chí ở cấp cao nhất đã đau khổ và tiếc đứt một khi tôi không chết trong nhà tù”. Sao anh táo gan thế?
STARIPOV: Thư của A.S. được đưa ra ngoài bằng ngã nào?
FEDINE: Yêu cầu A.S. trả lời.
SOLJENITSYNE: Phải! Tôi được người ta chú ý rất nhiều và nói đến rất nhiều. Có một vị hiện đang giữ một chức vụ đặc biệt quan trọng ở Trung ương đã công khai tuyên bố rằng ông rất tiếc không được dự vào bộ ba đã xử tội năm xưa; nếu được đóng vai một ông tòa, ông đã xử bắn tôi rồi… Tôi không tiện nêu tên tuổi vị này ra đây nhưng chắc chắn là tôi không dám đặt ra chuyện…
Tôi muốn nói đến việc Hội nghị này đã giải thích lá thư của tôi như là một tối hậu thư: “Hoặc ta phải xuất bản trước, hoặc Tây phương xuất bản trước”.
Nếu muốn hiểu như vậy thì xin các bạn hiểu cho rằng không phải là tôi hạ tối hậu thư cho các bạn, tôi đâu dám; chính đời sống đã hạ tối hậu thư cho tất cả chúng ta, nghĩa là cho các bạn và cả cho tôi nữa! Bởi lo lắng vì việc này cho nên tôi đã trình rằng sự phổ biến của hàng trăm cuốn sách đánh máy làm tôi lo ngại (con số này chỉ đúng tương đối mà thôi, tôi không đếm kỹ được).
TIẾNG NHIỀU NGƯỜI: Tại sao có chuyện lạ như vậy nhỉ?
ALEXANDRE: Sách của tôi có tính chất đặc biệt. Mỗi khi có người quen đến nằn nì mượn sách và mượn được là họ đem về đánh máy để đọc và giữ lại một bản, các bản còn lại họ đem cho người khác mượn, vậy là cuốn sách đánh máy tăng lên cách đây một năm. Phân bộ Mạc Tư Khoa đã được phần đầu của truyện. Tôi rất ngạc nhiên vì đồng chí Voronkov đã nói là kiếm không đâu ra, phải nhờ Sở An ninh KGB kiếm hộ cho.
Cách đây ba năm, cuốn Mấy truyện nho nhỏ của tôi – thơ viết thành văn xuôi – cũng đã được phổ biến như sấm sét: Vừa cho một người mượn đọc một cuốn, chẳng bao lâu sau tôi đã thấy cuốn đó có mặt ở khắp nơi trong nước.
Sau đó, chính Novy Mir đã nhận được một lá thư từ Tây phương gởi tới cho hay là cuốn Truyện nho nhỏcủa tôi đã xuất bản ở bển rồi.
Chính vì muốn ngăn cho truyện Trại ung thư khỏi bay sang Tây phương xuất bản trước, tôi đã khẩn thiết yêu cầu Thư ký đoàn giải quyết vấn đề. Tôi rất ngạc nhiên khi Thư ký đoàn đã bỏ lơ, không phản ứng gì hết khi nhận được thư của tôi, trước khi Tây phương đăng tải.
Đồng chí VORONKOV đã nói đến danh từ bạn văn học đẹp đẽ? Vậy mà tất cả các bạn văn học đã điềm nhiên tọa thị khi thấy tôi bị theo dõi, làm khó dễ, bôi nhọ và đàn áp trong gần ba năm vừa qua.
TVARDOVSKY: Không phải là tất cả đều ngồi yên…
SOLJENITSYNE: Các biên tập viên báo chí – và đồng chí của tôi – đã không chịu đăng lời biện minh của tôi. (A.S. dừng lại, lấy một tờ giấy ra đọc.)
Tôi không nói đến chuyện sách của tôi bị cấm trong nhà tù. Ở đó, những loại sách như vậy làm sao lọt vô qua mấy lần khám xét; hơn nữa, sách của tôi lại thuộc về loại bị cấm triệt để.
Nhưng tại sao sách của tôi vẫn bị cấm cả trong thời gian mà các tạp chí đều khen ngợi cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch và loan báo rằng “các biện pháp cấm đoán như vậy không thể diễn lại được nữa”! Mới đây, cuốn này lại bị rút ra khỏi các thư viện công cộng một cách lặng lẽ. Tôi có nhận được một số thư ở nhiều nơi cho hay rằng sách của tôi không được đem ra cho mượn nữa. Nhân viên cho mượn sách đã được chỉ thị trả lời cho những người mượn cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch rằng sách ấy đang được đem đóng lại hoặc đang được xếp lại theo một hệ thống thư mục khác, lấy ra không được v.v… Tóm lại, cấm không cho độc giả mượn cuốn ấy nữa.
Tại thư viện quận, người ta đã bí mật rỉ tai cho tôi – khách quen lâu năm của thư viện – hay rằng sách của ông đã bị rút đi rồi, theo lệnh trên. Một cô thư ký của thư viện muốn tặng cho tôi một cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch để làm kỷ niệm nhưng một bạn đồng nghiệp đã chặn lại kịp thời: “Chết! Cuốn này đã bị cấm rồi, chị không biết sao? Tất cả mọi cuốn sách này đều được đưa vào khu đặc biệt, để riêng! Biếu cuốn này nguy lắm đấy!”. Tôi tưởng cũng nên nhắc lại một chút là cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch đã được tạp chí Roman Gazeta đăng tải!
Cố nhiên là không phải tất cả mọi thư viện đều rút hết sách của tôi; vẫn có thể tìm thấy cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch tại một số thư viện. Nhưng ngay tại tỉnh Rjazan, bà con láng giềng của tôi đã cho hay là lần nào đến mượn cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch họ cũng bị nhân viên thư viện chối quanh và cuối cùng không ai mượn được hết!
Từ bao giờ đến nay, luận điệu dùng để bôi nhọ thiên hạ bao giờ cũng dồi dào; luôn luôn có sẵn luận điệu bôi nhọ thiên hạ mới mẻ! Nhưng khi phải đóng vai trò nạn nhân của một chiến dịch mới mẻ, đặc biệt mới mẻ ở điểm các luận điệu và kế hoạch ấy phát triển từ các giới cao cấp, không ai khỏi bàng hoàng sửng sốt! Như luận điệu bôi nhọ tôi đã có một tiếng vang mạnh mẽ vì nó được truyền đi thẳng băng không gặp một cản lực nào. Đến nỗi người ta đã quả quyết xác định rằng Soljenitsyne đã bị bắt làm tù binh hồi thế chiến và cộng tác với bọn Quốc xã. Chưa hết! Ở Bolchevs, trong mùa hè năm ngoái, cán bộ tuyên truyền đã giảng trong các lớp chính trị rằng Soljenitsyne bây giờ mang quốc tịch mới sau khi trốn sang Ai Cập. Tất nhiên luận điệu này sẽ được các đảng viên dự lớp huấn luyện đưa về phổ biến rộng ra nữa…
Ngay vùng sát nách tại thủ đô, luận điệu này đã được phổ biến xuống đến hạ tầng thôn xóm, khu phố. Trong khi đó, ở Solikamsk, ông thiếu tá Chestakov lại nói rằng tôi đã lợi dụng một chuyến du lịch để trốn sang Anh. “A.S. trốn sang Anh” khi một vị Phó Ủy viên của Ban Chính trị đã khẳng định như vậy, còn ai dám nghi ngờ gì nữa? Chestakov còn nói thêm: “Soljenitsyne đã bị cấm viết một cách chính thức!”. Lời tuyên bố thứ hai này của ông quan tuy thế mà gần đúng sự thực!
Các giới chức cao cấp bấy lâu nay vẫn quả quyết rằng: “Soljenitsyne đã được hưởng biện pháp khoan hồng, tha trước thời hạn, tha không có lý do”.
Có lý do hay không? Văn khố Tòa án Tối cao còn đó. Chỉ việc xem các văn kiện án từ đó: “Ban phụ trách văn án của những công dân được phục vụ nơi kho hồ sơ Công an Quân pháp là biết ngay tôi được thả có lý do hay không có lý do! Vả lại tất cả các tài liệu này đã đệ trình Thư ký đoàn rồi.
TUARDOOSKYS: Tài liệu này còn xác nhận cả lý lịch của sĩ quan pháo binh Soljenitsyne nữa!
ALEXANDRE SOLJENITSYNE: Biểu thức chính trị và tư pháp “trước thời hạn” ở đây nghe thực mỉa mai! Bị xửtám năm tù, ở hết tám năm cộng thêm một tháng nửa tại “Trung tâm Chọn lọc tù”… Đây là một chi tiết vụn vặt không nên nhắc đến nếu như tôi không bị coi là người được tha trước thời hạn! Tôi xin nhắc lại rằng sau thời gian một tháng kia, người ta không thèm xét xử gì hết, chụp luôn cho tôi một bản án “An trí và quản thúc vô thời hạn”. Mang bảng án “An trí vô thời hạn” này, tôi đã phải sống kiếp lưu đày ba năm trời và được tha nhờ Đại hội XX và do đó, được gọi là tha trước thời hạn.
Biểu thức “tha trước thời hạn” này đã diễn tả tuyệt đúng quan niệm chắc nịch của thời 1949-1953. Đã bị tù mà không chết trong bốn bức tường cao nhà ngục, không ra khỏi tù bằng cách bò bằng đầu gối là được trả tự do “trước thời hạn”! Bị xử an trí vĩnh viễn thì những gì xảy ra trước khi chết, với tù nhân đều là “trước thời hạn” cả! Ngài cựu Tổng trưởng Semichastry vốn sính văn chương, cũng đã hạ mình xét đến trường hợp của tôi. Sau đây là một lời phán của ông ta, một lời phán xét nghiêm trang ít chất khôi hài:
“Alexandre Soljenitsyne có tội ủng hộ bọn tư bản về mặt vật chất tiền bạc vì anh ta đã không lãnh tác quyền những cuốn sách xuất bản ở đâu đó ngoài thế giới Tây phương”!
Theo tôi hiểu, chỉ có cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch mà thôi, không có cuốn nào khác. Nếu các bạn có biết, tiếc gì các bạn lại không chỉ giùm cho tôi? Sống một mình ở Rjazan, tôi chẳng được biết gì hết ở bên ngoài!
Đối với vụ này, cơ quan nào hay Ủy ban Ngoại vụ Hội các Nhà văn phải chịu trách nhiệm mang tác quyền về! Còn tôi chưa bao giờ tôi được nghe nói “Bổn phận của mày là phải lấy tiền ấy về!”. Đây quả là một thứ chuyện hoạt kê, tiếu lâm!
Semichastry không còn giữ chức Tổng trưởng nữa nhưng ý kiến của ông vẫn được nhiều người tán thành tin tưởng. Như các nhân viên tuyên truyền của Hội Truyền bá Kiến thức Khoa học Liên Xô chẳng hạn, vẫn bảo vệ ý kiến nói trên. Một tỷ dụ:
Ngày 16-7-1967, tại Câu lạc bộ Sverdlovsk của Hội nói trên, ông A.A. Freifeld đem lập luận “A.S. ủng hộ vật chất cho tư bản” ra thuyết. Hai ngàn thính giả đều há hốc miệng ra nghe Freifeld và nghĩ bụng: “Quái thiệt! Thằng cha Soljenitsyne này quái quỷ thực! Một đồng Kopeach dính túi cũng không có, cả đời chưa ra khỏi nước Nga mà nó vẫn ủng hộ được tiền bạc cho phe tư bản thì quái thiệt”.
Những luận điệu như vậy đó – diễn “hết chỗ nói” – vẫn được đưa ra kể đi kể lại mãi; những người kể đã không bị chỉ trích sửa sai mà còn được khen thưởng nữa.
Nói gì đâu xa xôi, ngay tại trụ sở này của Hội, đã có một cuộc họp trang nghiêm diễn ra trong ngày 12 tháng 6 vừa qua. Vậy mà ngay tại Mạc Tư Khoa, đã có một luận điệu được tung ra, mô tả diễn biến cuộc họp sai với sự thực hoàn toàn. Cứ theo luận điệu ấy thì Tuardousky đã chỉ trích Soljenitsyne một cách kịch liệt, vừa nói vừa đấm tay xuống mặt bàn thình thình! Tất cả các bạn đi dự họp đều biết rõ đấy: Có gì đâu?
Ngay cuộc họp này, ai dám bảo rằng ngày mai nó sẽ không bị xuyên tạc? Chúng ta đã nghe phát biểu nhưng ai dám đảm bảo rằng ngay sự phát biểu này sẽ được ghi lại đúng đắn?
Vậy thì, cùng là bạn văn, cùng theo nghiệp bút nghiên, cho phép tôi trích đề nghị thứ nhất: “Hãy tả cuộc họp này thực trung thực, không thêm bớt xuyên tạc”.
Tôi chỉ có một mình cô độc, những kẻ bôi nhọ tôi có đến hàng vạn người. Dĩ nhiên tôi không thể tự vệ và cũng không biết trước được những luận điệu bôi nhọ tôi sau này có những gì nữa! Giá mai đây có người nói rằng tôi là phần tử bảo hoàng cũng không có gì là lạ.
SALYNSKY: Tôi muốn nói đến cuốn Trại ung thư. Tôi cho rằng phải xuất bản cho bằng được cuốn này vì nó là một tác phẩm có giá trị đích thực.
Đành rằng tác giả đã mô tả bệnh tật bằng ngôn ngữ y khoa xác thực, nhưng nó vẫn hỏng ở điểm làm cho độc giả bị sự sợ hãi ung thư – vốn là một căn bệnh của thời đại này – đè nặng. Dù sự sợ hãi này xét ra vô ý thức, khía cạnh này phải được cắt đi và thay thế một cách nào đó, cũng như khía cạnh ảm đạm của tác phẩm, khía cạnh ảm đạm thuyết “phơi-ơ-tông” (viết để đăng báo, khúc nọ tiếp theo khúc kia, hằng ngày) cũng phải được sửa lại!
Một điều đáng trách nữa là sự thăng trầm của các nhân vật bằng cách này hay cách khác đều bị buộc chặt với trại tập trung và đời sống bên trong các trại này!
Cuộc đời chìm nổi của Rostoglotov Roujanov coi là được đi! Nhưng tại sao cuộc đời Vadim, Chaloubine và nhất là cuộc đời của người binh sĩ cũng chìm nổi nốt? Tại sao? Cuối cùng,ta mới biết người lính đây không phải là một chiến binh thường mà là lính cảnh vệ gác trại.
Nói chung, nếu tôi hiểu không sai thì chú ý của cuốn truyện là môt tả thời cáo chung của một quá khứ buồn tẻ! Vậy thôi! Còn chủ nghĩa xã hội và luân lý của chủ nghĩa riêng tôi không thấy có gì bậy bạ hết. Soljenitsyne chỉ đáng ghê tởm khi anh cổ võ cho một chủ nghĩa xã hội vô luân. Cuốn truyện chỉ đáng lên án khi nó ca tụng chủ nghĩa Quốc xã hay chủ nghĩa xã hội quốc gia kiểu Tàu Mao Trạch Đông. Tôi nghĩ rằng mọi người đều có quyền suy nghĩ về chủ nghĩa xã hội và sự diễn biến của nó theo ý riêng mình. Cá nhân tôi, tôi cho rằng chủ nghĩa xã hội bị tác dụng của các quy luật kinh tế chi phối. Nhưng điều này có thể thảo luận được. (Rồi diễn giả yêu cầu Thư ký đoàn chống lại một cách quyết liệt những luận điệu bôi nhọ Soljenitsyne).
SIMONOV: Tôi không thừa nhận cuốn Nhóm thứ nhất và chống lại việc xuất bản cuốn này. Ngược lại, tôi tán thành việc xuất bản cuốn Trại ung thư. Không phải tôi thích tất cả mọi chi tiết trong cuốn này. Nhưng một cuốn sách đâu có cần phải thỏa mãn một người? Tác giả cũng cần phải chấp nhận một vài nhận xét về cuốn ấy nhưng cũng không bị bắt buộc phải nhận hết tất cả. Chúng ta cũng có trách nhiệm phải lên án những luận điệu bôi nhọ Soljenitsyne. Phải xuất bản một hợp tuyển truyện ngắn của Soljenitsyne với một lời tựa có hiệu lực đính chính những sai lầm về tiểu sử tác giả. Với tựa này sẽ thanh toán những sự bôi nhọ Soljenitsyne. Chính chúng ta phải thanh toán những luận điệu ấy, không phải anh ta. Tôi chưa đọc và cũng không muốn đọc cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng vì tác giả không muốn như vậy!
TVARDOVSKY: Hoàn cảnh của Soljenitsyne không cho phép anh ta lên tiếng. Chính chúng ta - Hội các Nhà văn, chúng ta phải đưa ra một thông cáo lên án những lập luận bôi nhọ anh ấy. Ngược lại, ta cũng phải nghiêm khắc cảnh cáo Soljenitsyne về cách thức không thể chấp nhận được mà anh ta đã dùng để nói với Đại hội qua việc lá thư gởi Đại hội cũng được gởi cho một số đông người. Tòa soạn Novy Mir không thấy có gì cản trở trong việc đăng tải truyện Trại ung thư với điều kiện phải sửa chữa một vài đoạn. Chúng tôi chỉ yêu cầu Thư ký đoàn tán thành hay ít nhất không phản đối việc này (rồi Tvardovsky quay sang yêu cầu Vorondov đưa bản văn dự thảo thông cáo của Thư ký đoàn soạn hồi tháng Sáu ra để Đại hội thông qua).
VORONDOV ngập ngừng: Một số người chúng tôi chưa định gì hết. Còn có người chống nữa mà!
FEDINE: Không! Chuyện như vậy đâu có được! Thư ký đoàn không thể cho ra gì hết, không cải chính gì hết. Có phải chúng ta cảm thấy, có phải chúng ta có mặc cảm phạm lỗi hay không? (nói với Tvardovsky) Có lẽ anh Alexandre Trophmovitch, anh cảm thấy có lỗi, nên mới thấy phải lên tiếng chăng?
TVARDOVSKY (giọng quả quyết và nói rất nhanh): Tôi ấy à? Không!
FEDINE: Không cần phải tìm những lý do nhân tạo để vẽ ra một bản tuyên cáo, tiếng đồn không đâu có đủ! Nhưng trong trường hợp này, nếu chính Soljenitsyne muốn nhân cơ hội mà giải quyết vấn đề thì lại khác. Bây giờ là lúc Soljenitsyne có thể phát biểu ý kiến một cách đàng hoàng, công khai (hướng về phía Soljenitsyne).
Theo ý anh, Alexandre Jsaevitch, một bản tuyên cáo của Thư ký đoàn phản đối lại những luận điệu bôi nhọ kia có lợi gì không? Trước hết anh phải lên tiếng phản đối các địch thủ Tây phương đã sử dụng tên tuổi của anh một cách khốn nạn. Dĩ nhiên cơ hội này, anh cũng có thể nói lên một vài điểm bất mãn mà anh, ngày hôm nay đã đưa ra cho Thư ký đoàn. Nếu văn kiện này có một lập luận và một ngôn ngữ khéo léo, chúng tôi sẽ cho đăng tải và sẽ giúp đỡ anh.
Muốn biện minh, anh phải đi theo đường này. Không có việc in tác phẩm của anh và cũng không có vấn đề mặc cả của anh! Chúng tôi được quyền đọc tác phẩm của anh được bao lâu? Ba tháng hay bốn tháng? Việc này ghê gớm lắm sao? Việc đáng ghê gớm là tên tuổi anh đã xuất hiện và bị sử dụng trong những công việc hạ cấp ở Tây phương.
KORNESCHOUK: Chúng tôi mời anh đến đâu có phải để sỉ vả mà để giúp đỡ anh thoát khỏi khó khăn, phức tạp này. Chúng tôi đã đặt các câu hỏi nhưng anh lại tránh né, thấy rằng tình hình diễn biến này là một trận đại chiến lớn vô cùng, bao trùm cả vũ trụ trong những điều kiện hết sức phức tạp hay sao? Chúng ta đâu có thể đứng ngoài được bằng các tác phẩm. Chúng ta phải bảo vệ Chính phủ, Đảng và nhân dân ta. Anh đã mỉa mai những người xuất ngoại bằng cách gán cho họ đi du hí! Ngược lại những người bị mỉa mai là chúng tôi – lại ra ngoại quốc để chiến đấu và khi trở về mệt đừ nhưng có cảm tưởng là đã làm tròn nhiệm vụ! Anh đừng tưởng rằng đã làm nhục được tôi bằng cách nhắc đến vấn đề viết lách. Tôi không viết được vì tôi đâu có phải đi để viết mà để phục vụ cho Ủy ban Bảo vệ Hòa bình Thế giới.
Chúng tôi biết là anh đã phải chịu đựng nhiều đau đớn! Nhưng không phải chỉ có một mình anh chịu. Có nhiều người, nhiều người khác không phải là anh, đã bị đi tù, kể cả những đảng viên cộng sản thâm niên. Từ nhà họ, họ đã đi thẳng ra mặt trận. Trong quá khứ, không phải chỉ có sự bất đồng mà thôi, còn có chủ nghĩa anh hùng nữa.
Nhưng anh đã không nhận thấy sự nổi loạn của anh phát xuất từ chỗ bị truy tố tư pháp. Cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng xấu xa bẩn thỉu bất chính mà lại được phổ biến để dân chúng đọc. Anh đã bị đem đi lưu đày trong trại tập trung chứ gì? Nhưng không phải bị năm 37, lúc chúng tôi đã đến đó. Nhưng lịch sử không có dừng lại!
Constantin Alexandrovitch (Fedine) đã nói phải lên tiếng tấn công sự tuyên truyền của Tây phương một cách công khai. Chiến đấu chống lại kẻ thù của xứ sở đi. Anh hẳn phải biết rằng trên thế giới có bom khinh khí? Và phải biết mặc dù các cố gắng bảo vệ hòa bình của chúng ta, Hoa Kỳ vẫn có thể đem ra chứ? SOLJENITSYNE: Tôi xin tuyên bố thêm một lần nữa, rằng đem cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắngra bàn là không lương thiện và xin nhấn mạnh đến việc phải đem vấn đề thảo luận về cuốn này ra khỏi cuộc tranh luận.
SOURKOV: Anh lấy quyền gì mà bịt miệng những người khác?
KOJEUNIKOV: Thời gian đủ để nghiên cứu kể từ ngày có lá thư của Soljenitsyne cho đến ngày hôm nay hội nghị họp, chứng tỏ rằng Thư ký đoàn đã cẩn trọng đến mức nào. Nếu đem lá thư ấy ra thảo luận lúc bấy giờ, còn sốt dẻo chúng tôi có lẽ còn cứng rắn hơn, còn quyết liệt hơn nữa với anh.
Nhưng chúng tôi đã quyết định phải tìm hiểu kỹ những tác phẩm bị coi là chống đối. Tôi viết và phải đọc kỹ, đọc lâu.
Bản tướng mạo quân vụ của Soljenitsyne hình như có đủ tài liệu biện minh cho anh ta. Nhưng ở đây chúng ta bàn về nhà văn, không bàn về Soljenitsyne sĩ quan. Hôm nay, lần đầu nghe Soljenitsyne phủ nhận công khai cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng nhưng tôi cũng vẫn không khỏi rùng mình khi đọc tác phẩm có tham vọng phản ảnh thực tế Xôviết ấy. Tôi không dám tin vào sự phủ nhận bi kịch ấy của Soljenitsyne, có lẽ vì tôi đã thấy được nơi cuốn ấy chính tinh thần báo thù đối với tất cả những gì đã cảm thấy, trong cuốn Nhóm thứ nhất và trong cuốn Trại ung thư.
Khi nói đến số phận của các tác phẩm, tác giả phải nhớ đến các bổn phận đối với tổ chức đã khám phá ra nhà văn.
Lúc ấy, tôi là một trong những người đầu tiên đã phát biểu những sự nghi ngờ về những gì đã được kể trong cuốn Ngôi nhà của Matriona. Chúng tôi đã mất thời giờ, chúng tôi đã đọc các tác phẩm lệch lạc mà anh không dám đưa cho một tòa soạn tạp chí nào đăng hết. Cuốn Trại ung thư làm cho ta thấy buồn nôn vì bút pháp tự nhiên chữ nghĩa hung hãn, khuynh hướng muốn lồng vào những mối sợ hãi có thể có và có thể tưởng tượng ra mặc dù nền tảng căn bản của nó không phải là y học mà là xã hội, mặc dù nền tảng này không được chấp nhận cũng vậy.
Trong lá thư thứ hai, anh muốn dẹp đi, về việc ấn hành một tác phẩm mà anh không đọc lại nữa. Cách làm “xăng ta” này có xứng đáng với một nhà văn không?
Ở đây, tất cả mọi nhà văn đều vui lòng nghe lời khuyên của các bộ biên tập và không bao giờ ép buộc họ.
SOLJENITSYNE: Bất chấp sự giải thích và phản đối của tôi, bất chấp tính chất phi lý cùng cực của việc thảo luận về một tác phẩm viết cách đây hai mươi năm trong những điều kiện khác và của một con người cũng khác hẳn với con người Soljenitsyne viết văn, mặc dù tác phẩm mà tôi bị cưỡng đoạt ấy chưa được in, chưa có một người đọc.
Một số diễn giả vẫn tập trung mũi dùi vào vào độc có một tác phẩm ấy mà thôi. Đây là một việc còn vô nghĩa hơn chuyện Maxim Gorki bị hạ trong một Đại hội các Nhà văn dưới đây, vô nghĩa hơn cả vụ Serge Chensky và việc ấn hành lại các thư từ trao đổi của ông cách đây mới mười lăm năm và Kornejchouk đã nói rằng “một việc như vậy chưa bao giờ xảy ra và cũng không bao giờ xảy ra” và “ta chưa bao giờ được thấy chuyện như vậy trong văn học sử Nga” đúng quá nhỉ?
OZEROV: Lá thư gởi Đại hội ấy của Soljenitsyne đã tạo nên một hành vi chính trị có hậu quả xấu nhất. Nó có thể đi đến chỗ có lợi, cho kẻ thù. Lá thư ấy có những khẳng định của tác giả sai với sự thực giữa những nhà văn bị đàn áp một cách oan uổng người ta nói cả đến Zamzatine nữa.
Về vấn đề ấn hành cuốn Trại ung thư, ta có thể đi đến một sự đồng ý với tòa soạn Novy Mir; có thể sửa chữa và thảo luận với tác giả về những chỗ sửa chữa này. Cuốn truyện có những phần giá trị khác nhau quá xá; có nhiều đoạn rất thành công, có nhiều đoạn dở.
Nhưng tôi không chịu cái bút pháp viết truyền đơn, cái lối phỏng bút của Soljenitsyne. Tôi yêu cầu phải cắt bớt nhiều đoạn mà tôi không thể đi sâu vào chi tiết vì thiếu thì giờ. Triết lý chủ nghĩa xã hội nhân bản vốn là yếu tố chủ thể của nội dung tác phẩm hình như do tác giả đưa ra không chấp nhận được.
SOURKOV: Tôi cũng vậy, tôi đã đọc cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng mà lập trường, rốt cuộc lại, có thể tóm tắt như sau. Tất cả đều khốn nạn!”. Trong cuốn Trại ung thư người ta cũng thấy lại một giọng ấy. Trong thành phần nhân vật của nó có ai ở trong thế giới của các anh hùng không? Chỉ có anh Shulubine kỳ cục được A.S. tả giống như người cộng sản, cũng như tôi giống… (diễn giả thiếu một chữ) Shulubine, với các ý tưởng lạc hậu. Tôi không cần che giấu, tôi là một người trí thức, tôi hiểu các học thuyết triết lý, chính trị và xã hội, tôi đã ngửi thấy trong đó có Mikhailovsky và Vladimir Soloviev và đồng thời có cả ý kiến thơ ngây rằng “kinh tế có thể lệ thuộc vào đạo đức”.
Sau bao nhiêu thử thách, anh có quyền cảm thấy bị đè ép, lăng mạ, nhân danh con người, anh Alexandre Soljenitsyne! Nhưng anh lại là nhà văn. Tôi có biết những người cộng sản già đã bị đưa đi “căng” nhưng không phải vì thế mà thế giới quan của họ thay đổi.
Không, sách của anh không có chất sinh lý học mà là chính trị. Sách của anh đã đề cập đến những vấn đề căn bản! Và thần tượng được nêu ra trong vị trí cao nhất cũng không phải là đài kỷ niệm cho Marx.
Trại ung thư, nếu in ra sẽ có hại cho chúng ta; hại hơn Ký ức của Sveslara nữa! Đành là ta phải ngăn cấm Tây phương xuất bản nhưng hết sức khó. Tôi đã là láng giềng của Anna Andreievna Akhmatova trong những năm cuối cùng của bà và biết rằng sau khi bà cho một vài người đọc tập Requiem chừng vài tuần lễ là đã thấy Tây phương xuất bản cuốn ấy rồi. Dĩ nhiên, độc giả của chúng ta đã đủ tiến bộ và giàu kinh nghiệm; họ đâu có để cho mấy cuốn sách nho nhỏ ấy kéo đi xa chủ nghĩa cộng sản! Tuy nhiên, tác phẩm của Soljenitsyne còn tai hại hơn sách của Pasternak nhiều. Pasternak là một người chán đời, trong khi Soljenitsyne là người hoạt bát chiến đấu, tư tưởng đã dứt khoát A.S. là một người có đầu óc.
Chúng ta, những người của cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử nhân loại, không bao giờ chúng ta xa rời các khẩu hiệu, xa rời các ngọn cờ cách mạng.
“Chủ nghĩa xã hội đạo đức” là một thứ chủ nghĩa xã hội khá tư sản (quay sang Salynsky), tôi không hiểu tại sao người ta có thể hiểu nó và còn thấy nó có một vài giá trị và muốn bảo vệ!
SALYNSKY: Tôi có bảo vệ gì đâu.
RIOURRIKOV: Soljenitsyne đã chịu thiệt hại vì những kẻ bôi nhọ anh ta và cũng bị luôn vì những kẻ đã ca tụng anh ta quá mức, gán cho anh ta những đức tính anh không hề có. Nếu phải phủ nhận, Soljenitsyne cũng cần phải phủ nhận một cái gọi là người nối tiếp của chủ nghĩa hiện thực Nga sao anh ta tự gán cho mình. Tác phong của thống chế Rokossovsky, của Đại tướng Gordetov lương thiện hơn tác phong của các nhân vật trong truyện của Soljenitsyne nhiều. Nguồn gốc năng lực của nhà văn này phát xuất từ những cảm nghĩ chua chát, những cảm tưởng bị nhục mạ, đàn áp. Tôi có thể hiểu được Soljenitsyne trên một vài khía cạnh nhân bản.
Soljenitsyne, anh viết là người ta đã cấm các tác phẩm của anh hả? Đâu, kiểm duyệt có đụng đến một cuốn nào đâu? Tôi lấy làm lạ về chuyện Tvardovsky xin phép Thư ký đoàn để đăng truyện của anh. Tôi bất kỳ là chuyện như thế nào tôi cũng không bao giờ xin phép Hội của Nhà văn để đăng tải.
Rồi Riourrikov yêu cầu Soljenitsyne hãy nghe theo khuyến cáo của tòa soạn Novy Mir và hứa “nhân danh những người hiện diện” sẽ có những lời chú giải bên cạnh từng trang một cuộc Trại ung thư.
BAROUDJINE: Tôi là một trong những người đã không hoan nghênh tác phẩm của Soljenitsyne ngay từ đầu. Ngay cuốn Ngôi nhà của Matriona đã kém hơn hẳn tác phẩm đầu của anh ta và cuốn Nhóm thứ nhất đã có nhiều yếu điểm: Staline Abakoumov và Proskreby chưa được mô tả như những con người thời đại bán khai.Trại ung thư kế tiếp là một chuyện phản nhân bản. Kết cục của cuốn chuyện là sự khẳng định rằng “có lẽ phải đi tìm một con đường khác”.
Soljenitsyne đã tưởng rằng hai lá thư “được coi như là tài liệu tranh luận sẽ được Đại hội đọc tức khắc hay sao? Đại hội đã nhận bao nhiêu thư cả thảy?
VOROWKOV: Gần năm trăm lá!
BAROUDJINE: Anh nghe ra chưa, Soljenitsyne? Làm sao có thể đọc tức khắc được? Tôi không đồng ý với Rjoukov: Việc xin phép xuất bản phải đặt ra nói với Thư ký đoàn là đúng. Thư ký đoàn của chúng ta càng ngày càng phải biến thành cơ quan phụ trách việc sáng tác và không nêu tiếc các khuyến cáo với các hội đồng biên tập.
ABDOMUNOV: Việc Soljenitsyne có can đảm phủ nhận cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng có một ý nghĩa tích cực, bây giờ anh ta cũng phải có can đảm thực hiện cái đề nghị của Alexandrovitch Constantin (Fedine)! Bây giờ mà in cuốn Trại ung thư sẽ có những chuyện rắc rối lớn hơn khi có bức thư đầu của Soljenitsyne nữa! Trong truyện có Rousanov, có những người chết vì chủ nghĩa vĩ đại bây giờ là người các trại tập trung nhưng những người khác nữa ở đâu? Xã hội Xôviết ở đâu? Không thể ép buộc phải nhấn mạnh đến điều này. Nhưng cũng không thể viết một cuốn tiểu thuyết trong đó không có một chút ánh sáng vui vẻ nào thoát ra hết. Và có nhiều đoạn kéo dài, nhiều chỗ lặp lại, nhiều cảnh của bút pháp tự nhiên. Tất cả những thứ đó phải cắt bỏ!
ABASHIDZE: Tôi chỉ mới đọc được chừng có 150 trang của cuốn Trại ung thư và do đó không thể phê phán về nội dung. Tôi không thấy có gì là tôi không thể có ý kiến về nội dung cuộn truyện. Có thể là những chuyện thiết yếu nhắc ở đoạn sau cũng nên.
Tất cả chúng ta, nhà văn lương thiện và có ý thức, chúng ta luôn luôn chống lại những thứ trang sức hoa hoè hoa sói, kể cả trường hợp việc làm ấy rất khó coi. Nhưng Soljenitsyne đang bị nguy vì rớt vào chỗ đối lập “đoảng”: một vài đoạn chỉ là miêu tả thuần túy.
Nghệ sĩ như đứa bé, nó tháo chiếc xe hơi ra để xem có gì ở trong đó. Nhưng nghệ thuật lại nằm trong sự lấp lại, dựng nên chiếc xe hơi. Tôi thấy Soljenitsyne hỏi người ngồi bên cạnh tên của một vài diễn giả, tại sao nhìn không biết mặt một người nào trong những người chúng ta ở đây? Chỉ vì chúng ta đã không mời anh ta… Đề nghị của Constantin Alexandrovitch rất đúng. Chính Soljenitsyne phải tự trả lời lấy những sự bôi nhọ!
BROVKA: Ở Bélorussie, có nhiều người bị đưa đi trại tập trung. Tỷ dụ như Sezge Grakhovsky chẳng hạn đã phải giam đến hai mươi năm. Nhưng họ đều hiểu rằng: dân tộc, Đảng và quyền uy chính trị không chịu trách nhiệm về những sự bất công ấy.
Trong hồi ký của Staline, chỉ có sự ngồi lê đôi mách của đàn bà. Nhân dân hiểu điều này và chỉ cười thôi. Nhưng ở đây chúng ta có một người được thế giới thừa nhận tài năng, đang đặt vấn đề xuất bản sách cho đương sự. Đúng là Soljenitsyne đã cảm thấy những nỗi đau khổ của tổ quốc, một cách thực tình quá lố, nhưng anh ấy lại không có những cảm tưởng vui sướng hân hoan. Trại ung thư quá ảm đạm, không thể ấn hành được (rồi cũng như diễn giả trước và những diễn giả lên diễn đàn sau ông ta, BROVKA ủng hộ đề nghị của Fedine: Soljenitsyne phải lên tiếng chống lại những luận điệu bôi nhọ của Tây phương lợi dụng lá thư).
JASHEN: (Chỉ trích cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng): Tác giả không phải bị băn khoăn vì sự bất công mà bị đầu độc vì hận thù. Mọi người đều bất bình vì có một nhà văn như vậy trong Hội. Tôi đề nghị khai trừ y ra khỏi Hội. Soljenitsyne không phải là người duy nhất bị hành hạ, còn những người khác nữa, nhưng họ hiểu sai bi kịch của thời đại này, như chàng thanh niên Ikramoe chẳng hạn. Trong Trại ung thưhiển nhiên là ta có một ngòi bút bậc thầy. Nhưng tại sao trong trận Léningrad những kẻ bị lên án còn có – ngoài Hitler “cả những người khác nữa”? Tôi không hiểu “những người khác nữa” là ai? Là Béria? Hay là các nhà lãnh đạo sáng suốt hiện tại của chúng ta? Phải nói rõ ra. (Tuy thế diễn giả lại ủng hộ cái giải pháp can đảm của Tvardovsky sửa lại tác phẩm cùng với Soljenitsyne và sau đó có thể cho một độc giả hạn chế đọc.)
KERBALEV: Tôi đã đọc xong Trại ung thư cùng với tất cả sự ghê tởm? Mọi nhân vật đều là những tù nhân cũ, tất cả đều ảm đạm, không có lấy một chút ấm áp trong suốt cả tác phẩm.
Véra dâng cho người hùng cả ngôi nhà và sự tiếp đón của nàng nhưng chàng, chàng lại từ chối đời sống. Và câu “chín mươi chín người khóc, một người cười” nghĩa là gì? Tôi đồng ý với Korneijchouk. Tại sao tác giả lại nhìn tất cả dưới một màu đen tối.
Tác giả chối bỏ cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng chưa đủ, tôi sẽ công nhận Soljenitsyne là người can đảm ngày nào anh ta chối bỏ luôn Trại ung thư. Lúc ấy, tôi sẽ hoan hỉ đón tiếp anh ta y như một người anh em thân thích.
TCHRIDOV: Tôi không cần nói đến tương lai và sẽ khai trừ Soljenitsyne ra khỏi Hội. Trong vở bi kịch của Soljenitsyne, tất cả những gì là Xôviết đều bị trình bày một cách tiêu cực, kể cả Savourov. Tôi đồng ý là Soljenitsyne phải chối bỏ cuốn Trại ung thư. Quốc gia này đã làm cho đất đai hoang phế trở nên màu mỡ và đi từ thành công này đến thành công khác.
NOVICHENKO: Bức thư gửi Đại hội là một vi phạm mọi luật lệ và nó đã ngáng ngang đò của Hội Nhà văn. Tôi tán thành đề nghị nghiêm khắc của TVARDOVSKY phải cương quyết lên án việc làm ấy của tác giả.
Tôi cũng không đồng ý với những yêu sách của lá thư; ta không có thể cho phép tất cả đều được ấn hành. Ta có thể in cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng không?
Bây giờ bàn về Trại ung thư. Phản ứng của tôi rất phức tạp. Tôi không phải là trẻ con, tôi biết tôi phải chết và có thể chết trong sự đau đớn của những nhân vật Soljenitsyne. Nhưng ngay trong hoàn cảnh ấy, vấn đề quan trọng hơn cả vẫn là lương tâm ở đâu? Ta còn có những di sản luân lý nào? Nếu cuốn truyện dừng lại ở đây, tôi thấy rất cần in. Nhưng cái ảnh phóng bút tả người con gái của Rousanov là một sự can thiệp hạ cấp đối với những tục lệ văn hoá của chúng ta. Ý nghĩa chính trị - ý thức hệ của chủ nghĩa xã hội đạo đức là sự từ chối chủ nghĩa Mác – Lê, câu cuối mượn lời của Pouchkine: “Con người bao giờ cũng là một nhà độc tài, một tên phản bội hoặc một kẻ nô lệ” là sản phẩm của một học thuyết nhục mạ… Dứt khoát không thể chấp nhận được những điều ấy.
Trong cuốn truyện, chỉ có những kẻ bị đọa đày đứng lên chỉ trích phê phán xã hội… cũng là một sự nhục mạ nữa… Cá nhân của Rousanov bị méo mó ngh trình bày như là một người nguyên vẹn đẹp đẽ. Không thể chấp nhận việc bưng Rousanov lên làm phát yếu nhân của xã hội chính thức của chúng ta. Tôi cũng rất bực bội khi tên của Gorki lại bị cái miệng bẩn thỉu của Rousanov nhắc tới. Dù có được sửa chữa thực cẩn thận, cuốn sách này cũng không bao giờ là một tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực xã hội.
Tuy nhiên nó vẫn tạo nên một biến cố về văn học; nó là tác phẩm của cây bút có tài. Tôi cũng đã đọc được cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng và phải nói rằng mối tương quan giữa tôi và tác giả, đã có một cái gì thay đổi. Phải xóa bỏ hết những dấu vết của bi kịch ấy…
MARKOV (Vừa ở Sibérie về tới và đã diễn thuyết 5 lần trước những đám người rất đông): Phải hiểu rằng Soljenitsyne chẳng gây được ảnh hưởng ở đâu hết khắp mọi nơi, chẳng mấy ai nói gì về Soljenitsyne hết. Chỉ có một người đưa cho tôi một tờ giấy và hỏi tôi – tôi xin lỗi phải nói thực rằng: “Đến bao giờ thằng cha Soljenitsyne ấy mới thôi phá hoại văn học Nga”.
Chúng ta chờ đợi nơi Soljenitsyne một phản ứng thực chính xác, đập đúng vào đầu bọn tư sản bôi nhọ chúng ta, bằng một tuyên ngôn gởi cho báo chí. Y phải bảo vệ danh dự nhà văn Xôviết của y. Sự phủ nhận cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng của Soljenitsyne làm cho ngực tôi như nhẹ hẳn đi. Về cuốn Trại ung thư, tôi đồng ý: Tác phẩm dựa trên một nền tảng cá biệt, ý thức tổng quát về xã hội của nó không chấp nhận được. Khi quả quyết rằng “đã có người sống trên nền tảng ấy” tác giả muốn phác ra những đường hướng mịt mù, không ai biết được. Dựa vào sự hợp tác thân thiện giữa tác giả và tòa soạnNovy Mir, tôi nghĩ rằng cả hai bên phải họp lại bổ khuyết thêm cho tác giả; dù mất công đến mấy cũng phải chịu vì không thể để như vậy rồi đem ra in.
Cách thức tiến hành như thế nào? Cụ thể Alexandre Isaevitch (Soljenitsyne) phải chuẩn bị cái tuyên dương được nói đến từ nãy đến giờ đúng vào lúc sắp kỷ niệm năm năm cuộc cách mạng Xôviết; sau đó, ít lâu nữa, thư ký đoàn sẽ có thể đưa ra một thông cáo về việc này.
Mặc dù vậy, tôi vẫn tiếp tục coi Soljenitsyne là bạn. Nhưng Alexandre Isaevitch ạ, anh đang tự đặt mình vào cái thế cô độc ấy, những người khác không phải là những người phạm lỗi. Về cái đề nghị khai trừ Soljenitsyne, tôi nghĩ rằng chúng ta không nên hấp tấp vì giữa chúng ta tình thân hữu vẫn còn có giá trị…
SOLJENITSYNE: Thêm một lần nữa trong ngày hôm nay, tác phẩm đối lại việc đem cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng ra tranh luận và có lẽ còn phải phản đối nữa… Cuối cùng người ta có thể buộc tội các ngài lẫn kẻ chống lại học thuyết tiến hoá nếu các ngài thực tình nghĩ rằng một con người không thay đổi gì hết cả trong hai mươi năm khi hoàn cảnh đã thay đổi.
Nhưng tôi lại được nghe ở đây những lời buộc tội khác quan trọng hơn nhiều. Kornejchouk Baroudjne và nhiều vị đã nói cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng đã được lưu hành và dân chúng đã đọc nó. Tôi sẽ nói rất thong thả để cho từng chữ một của tôi được ghi lại đúng đắn.
Rằng nếu cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng được in ra hoặc được lưu hành rộng rãi thì tôi xin tuyên bố là trách nhiệm hoàn toàn do cơ quan đã cưỡng đoạt bản viết duy nhất chưa có ai được đọc, của thiên bi kịch ấy – đem ra ấn hành ngay khi tôi còn sống và ngược với ý muốn của tôi. Chính tổ chức ấy đã phổ biến thiên bị kịch ấy.
Hơn một năm rưỡi nay, tôi luôn nhắc nhở quý vị rằng chuyện này rất nguy hiểm. Ở đây, chúng ta không có một phòng đọc những bản viết tay tác phẩm được chuyền từ người nọ sang người kia, quý vị mang nó về nhà, nơi con trai con gái của quý vị ở. Nhưng tất cả các ngăn bàn ngăn tủ đâu có phải là có chứa tất cả? Tôi đã báo trước với quý vị việc này và bây giờ cũng xin báo trước quý vị thêm một lần nữa.
Xin bàn đến cuốn Trại ung thư. Người ta đã chỉ trích tôi về cả cái tiêu đề của tác phẩm vì nó không phải là một đề tài y học mà là một cái gì có ý thức tiêu biểu, tượng trưng.
Tôi xin trả lời: Đấy thực không phải là một biểu trưng vô hại nếu phải trải qua tất cả các giai đoạn của bệnh ung thư và thời kỳ hấp hối để khám phá nó. Chỉ vì một biểu trưng mà thôi, các ngài không thấy cái tính chất của nó quá nhiều, quá dày hay sao? Chỉ vì một biểu trưng các ngài không thấy rằng nó có quá nhiều chi tiết y khoa hay sao? Nhiều nhà chuyên môn nổi tiếng về ung thư – xem cuốn sách do tôi gởi cho họ đọc và hỏi ý kiến - đã cho biết rằng, trên quan điểm y khoa, nó không có gì sai lầm có thể bài xích được cả, ngay trong hiện tại. Đấy là bệnh ung thư, đúng như bệnh trạng mà văn chương tiêu khiển không hề nói đến nhưng các bệnh nhân bị ung thư hằng ngày đã cảm thấy, kể cả các người thân thích và biết đâu có lẽ mai đây sẽ có một trong những quý vị đây sẽ phải vào điều trị nơi một bệnh viện ung thư để hiểu rằng đấy không phải là một biểu trưng.
Tôi thực tình không hiểu tại sao lại có lập luận buộc tội cuốn Trại ung thư phản nhân bản? Đúng ra nó là một cái gì trái ngược với lập luận buộc tội ấy, đấy là sự vượt qua cái chết của sự sống, vượt qua quá khứ của tương lai. Vì bẩm tính trời sinh của tôi, tôi không bao giờ tự ép mình phải viết một truyện như vậy. Nhưng tôi quan niệm rằng văn chương đối với xã hội cũng như đối với từng con người một, có bổn phận nói ra một cách thành thực, chứ không che giấu hay làm nhẹ đi, sự thực như thế nào và người ta chờ đợi nơi nó những gì? Phương ngôn Nga nói về việc này, rất giàu có:
“Đừng yêu những kẻ cam chịu, hãy mến những kẻ dám chống đối.”
“Những đứa ngọt ngào thổ lộ không phải là những người tốt.”
Trên đại cương, sứ mạng nhà văn không hạn chế ở chỗ bảo vệ hay chỉ trích hệ thống phân phối lợi tức xã hội này hoặc hệ thống kia, không hạn chế ở chỗ chỉ bảo vệ hoặc chống đối hình thức tổ chức quốc gia này hoặc hình thức tổ chức kia. Sứ mạng đó là nói về những đề tài phổ biến hơn, vĩnh cửu hơn. Những bí mật của con tim và của lương tâm con người, sự hội ngộ của cái chết và sự sống, sự vượt qua những đau đớn về tinh thần. Sự tìm kiếm những dự luật phát ra từ những tầng sâu của vạn đại không thể thăm dò, giờ này vẫn còn bám lấy lịch sử của nhân loại cho đến ngày tận thế. Việc quý đồng nghiệp đọc một vài đoạn nhưng không chú ý đến để bây giờ đưa ra những sự giải thích và phê bình méo mó đã làm cho tôi buồn thấm thía. Lẽ ra chuyện này không nên xảy ra mới phải. Thí dụ như “chín mươi chín người khóc, một người cười” là một câu phương ngôn quen thuộc ở đồng quê ta. Trong truyện Kostoglotov nói tạt vào mặt cái con người định tách ra khỏi hàng ngũ để ra oai với mình cho hắn ta biết gã là người như thế nào; chỉ có thế thôi! Ở đây trái lại, người ta đã kết luận rằng như vậy là đến toàn thể Liên bang Xôviết.
Souskov đã làm tôi ngạc nhiên, trước hết, tôi không tài nào hiểu nổi tại sao anh ấy lại đem Marx ra nói gì trong truyện của tôi có gì dính đến Marx đâu? Alexandrovitch ạ, anh là thi sĩ, một con người có năng khiếu nghệ thuật rất tinh tế; nhưng ở đây, cái năng khiếu ấy đã chơi anh một vố đau đấy. Anh không hiểu màn ấy hay sao Chouloubine đem Bacon ra lòe và dẫn đến thuật “thần tượng của hàng chợ” và Kostoglotov ráng tưởng tượng ra một cái chợ ở giữa có một thần tượng nhờn nhợt màu da. Chouloubine thuyết về thần tượng của kịch trường và Kostoglotov tượng trưng ra một thần tượng giữa kịch viên nhưng vì thần tượng không có ở đó, y bèn đặt nó vào công việc kế cận. Làm sao anh có thể nghĩ rằng tôi nói đến Mạc Tư Khoa và đài kỷ niệm Marx chưa được dựng?
Đồng chí Soukov có nói là chỉ cần có vài tuần lễ là cuốn Requiem dù chỉ được có một số rất ít người được đọc – đã sang Tây phương. Thế mà phần đầu cuốn Trại ung thư đã được chuyền tay nhau đọc hơn một năm rồi. Vì thế tôi mới lo và nói phải cấp báo với Thư ký đoàn.
Dẫu chỉ Soukov khuyên tôi đừng tiếp tục đi theo chủ nghĩa hiện thực Nga. Tôi xin hứa sẽ nghe theo lời khuyên ấy.
RIOURIKOV: Tôi không khuyên anh từ bỏ con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa Nga mà khuyên anh hãy từ bỏ cái vai trò của anh đang được trình bày ở Tây phương.
SOLJENITSYNE: Bây giờ xin bàn đến đề nghị của Constantin Alexandrovitch, một đề nghị mà tôi phải hoan nghênh. Việc ấn hành, đấy là điều mà tôi đã tranh đấu suốt trong bao lâu nay. Khỏi phải trốn tránh, khỏi phải bao phủ những bài diễn từ, khỏi phải niêm phong những bản đánh máy tác phẩm. Sau cuộc thảo luận về cuốn Trại ung thư, tại phân bộ các nhà văn (Section de la prose) ở Mạc Tư Khoa đã định giữ bản đánh máy nội dung cuộc thảo luận cho những người tham dự và có liên hệ và làm vậy là phải quá rồi. Vậy mà người ta đã không cho tôi lấy, người ta vẫn giấu tôi – tác giả cuốn ấy. Cuộc tranh luận ngày hôm nay đây sẽ có bản đánh máy ghi chép nội dung cuộc tranh luận và tôi có hy vọng sẽ được nhận một bản thủ, anh Constantin Alexandrovitch?
Constantin Alexandrovitch có hỏi: ấn hành những lời phản đối của anh để làm gì? Câu trả lời của tôi hết sức rõ ràng lắm: Để phục vụ văn hoá xứ sở nhưng quan niệm của Alexandrovitch cho rằng tôi phải tự giải quyết lấy vấn đề hết sức phi lý. Người ta đã trói chân tay tôi, bịt miệng tôi thì tôi làm thế nào được?
Hình như việc làm này, với Hội các Nhà văn đầy uy thế, hết sức dễ:
Tôi bị chặn hết mọi cửa trong khi Hội có toàn thể và tờ báo để sử dụng. Chỉ cần tôi ký tên vào một lời kêu gọi dân chúng bảo vệ miền Baikal là tờ Komsomolskai Pravda dẹp ngay tên tôi rồi.
Dù vậy, tôi vẫn không hiểu tại sao thư tôi không được đọc trước Đại hội. Bây giờ Constantin Alexandrovitch lại đề nghị chống lại các hậu quả chứ không phải chống lại nguyên nhân, nghĩa là chống lại dư luận ở Tây phương chung quanh bức thư của tôi. Nhưng bức thư này có một phần tổng quát, một phần riêng biệt. Tôi có phải chống lại cả phần tổng quát không? Không, vì tôi vẫn giữ cái ý kiến ấy không có lơ một chữ nào hết. Lá thư ấy đề cập đến cái gì?
NHIỀU NGƯỜI TRẢ LỜI: Kiểm duyệt.
SOLJENITSYNE: Nếu như vậy các bạn chẳng hiểu gì hết. Lá thư ấy nói đến giá trị của nền văn nghệ vĩ đại của chúng ta một thời đã chinh phục được nhân loại, làm cho nhân loại ngây ngất. Ngày nay đã đánh mất chỗ ngồi của nó rồi. Ở Tây phương người ta bảo rằng “tiểu thuyết Nga chết rồi” và chúng ta nhào ra đem hết sức mạnh ra tổ chức những buổi nói chuyện, diễn thuyết để chứng minh rằng điều này sai với sự thực. Tổ chức các buổi nói chuyện thuyết trình mà làm gì? Chưa phải viết những cuốn truyện ánh sáng rực rỡ; thế là “Tiểu thuyết mới” của ta sẽ rơi vào quên lãng để cho các cuốn truyện của thế hệ “Các nhà văn tiền phong” mới ra đời. Tôi có cần phải tuyên bố là tám điểm trong phần thứ hai của lá thư đều sai lầm và bất công hay không? Nhưng các điểm ấy đúng với sự thực hoàn toàn. Tôi có cần phải tuyên bố là đã được thỏa mãn một phần hay không? Cho đến nay, chưa có gì được sửa chữa, chưa có gì được dẹp đi trong sự đối xử đối với tôi. Vậy thì chính các bạn phải hành động trước đi để cho tôi có thể đưa ra bản tuyên ngôn ấy: hãy cho in các lá thư của tôi và cho biết những biện pháp các bạn đã chọn lựa đối với những điểm đặc biệt hoặc ít nhất cũng nói đến các biện pháp sẽ áp dụng đối với một vài điểm trong đó; lúc ấy tôi xin viết ngay bản tuyên ngôn mà các bạn đã yêu cầu. Trong trường hợp này, tôi cũng xin ấn hành luôn lời tuyên bố của tôi đối với cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng mặc dù tôi không hiểu các lý do đưa đến cuộc tranh luận về một cuốn sách mà tác giả bị cướp giựt và về sự tiết lộ một bức thư chưa được ấn hành? Ngày 12 tháng 6, Thư ký đoàn đã hứa sẽ đưa ra bản thông cáo mà không có điều kiện nào; bây giờ các bạn lại đặt điều kiện. Có gì đã thay đổi?
Người ta đem cuốn Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch. Chiến dịch bôi nhọ tôi vẫn được tiếp tục và còn được đẩy mạnh thêm. Chỉ có các bạn mới có thể phản công lại được, tôi thì không! Điều duy nhất mà tôi lấy làm an ủi là không một luận điệu trong các luận điệu bôi nhọ làm cho tôi xây xẩm mặt mày: tôi đã được tôi luyện trong các trại tập trung của Staline rồi.
FEDINE: Không! Trật tự như vậy đã bị đảo ngược! Tuyên ngôn thứ nhất phải là của anh. Sau những nhận xét khích lệ về tài năng và về biện pháp của anh, anh phải tìm ra hình thức thích hợp cho tuyên ngôn ấy. Không có những lý do chính đáng để chúng tôi lên tiếng trước rồi anh mới nói sau.
TVARDOUSKY: Trong trường hợp này, lá thư có được công bố không?
FEDINE: Không. Nếu phải in thì in lúc ấy, còn bây giờ, ngoại quốc đã làm ồn ào rồi, ta không có lý do để công bố nữa.
SOLJENITSYNE: Chậm còn hơn không. Còn tám điểm của tôi thì sao?
FEDINE: Sau đó, chúng tôi sẽ tính.
SOLJENITSYNE: Tôi đã trả lời. Và hy vọng tất cả đều được đánh máy thật đúng.
SOURKOV: Anh cũng phải nói rằng anh chẳng có gì liên quan với vai trò lãnh tụ đối lập mà Tây phương đã gán cho anh nữa.
SOLJENITSYNE: Alexei Alexandrovitch (Sourkov), tôi thực sửng sốt khi nghe anh nói như vậy? Nghệ sĩ của ngôn ngữ và lãnh tụ đối lập chính trị? Làm thế nào dung hòa hai công việc này được?
Một vài người nữa lên diễn đàn nhấn mạnh là yêu cầu Soljenitsyne chấp nhận đề nghị của Fedine.
Tiếng nói của mấy người một lúc: Hãy nghĩ đến đề nghị ấy đi.
Soljenitsyne tuyên bố thêm một lần nữa rằng không thể nào đưa ra một tuyên ngôn như vậy vì độc giả người Nga sẽ không hiểu đương sự muốn gì trong bản tuyên ngôn ấy.
Hai tháng sau, Thư văn của Thư ký đoàn Hội các Nhà văn Liên Xô số 3141 ngày 25 tháng 11 năm 1967 gửi nhà văn Alexandre viết như sau:
Ngày 22 tháng 9, Thư ký đoàn của Ủy ban Nhân dân Lãnh đạo Hội Liên hiệp các Nhà văn Xôviết đã xét bức thư của bạn. Cuộc thảo luận đã cho chúng tôi hiểu rõ thái độ của các giới văn nghệ Xôviết đối với bạn và các hoạt động văn nghệ của bạn. Cuộc họp đã chấm dứt nhưng chưa có kết luận. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng rằng bạn sẽ suy nghĩ về những nhận xét đưa ra trong cuộc thảo luận để hành động thích ứng.
Thư ký đoàn mong được biết quyết định của bạn về vấn đề này.
Ký tên,
Ủy viên Thư ký
K. Voronkov
Phần 5: Thư gởi thư ký đoàn sau hội nghị Kính gởi Thư ký đoàn Hội Liên hiệp các Nhà văn
Thư văn của Hội số 3.142 ngày 25 tháng 11 năm 1967 không làm tôi hiểu rõ:
1. Rằng Hội có bảo vệ tôi chống lại chiến dịch bôi nhọ phát động từ ba năm nay, hay không?
Mới đây lại có một vài sự kiện mới nữa:
Ngày 5 tháng 10 năm 1967, tại Hội quán báo chí Léningrad, ông chủ nhiệm tờ Pravda Zinzarine lại đưa ra cái luận điệu bôi nhọ cũ kỹ “Soljenitsyne, bị tù vì lý do tư pháp”. Biện pháp này như quý vị đã rõ, vốn là biện pháp thông thường và quen thuộc nhất được đem ra áp dụng với những người bị chế độ ác cảm. Ngoài ra ông Zizarine còn quả quyết rằng quá khứ bị tù tội trong trại tập trung đã làm cho tôi có định kiến với chế độ không thể sửa đổi. Đặc biệt hơn nữa các nhân vật thuộc cơ quan tuyên huấn của Sở An ninh K.B.G. còn phóng ra những nguồn tin rất động trời, đại để như nguồn tin: “Có thể là Soljenitsyne đã dựng ra trong quân đội, một tổ chức chưa biết nên coi là tổ chức chủ bại hay khủng bố! Nếu có như vậy mà Ủy ban Quân sự của Tòa án Tối cao không khám phá ra chuyện này thì thực là vô lý!
2. Thư ký đoàn có biện pháp nào để ngăn cản việc áp dụng các biện pháp phi lý và độc đoán sau đây:
Rút sách của tôi ra khỏi các
thư viện
Sở kiểm duyệt còn cấm nhắc đến
tên tôi trong các bài phê bình văn nghệ (biện pháp này còn được dịch ra Nhật ngữ
trên Voprosy literatury).
Ở Viện Đại học Perm, một thảo
luận về tác phẩm của tôi do một nhóm sinh viên viết để đưa vào Tuyển tập
các công trình nghiên cứu khoa học của họ, đã bị cấm.
3. Thư ký đoàn có định ngăn cản ngoại quốc xuất bản cuốn Trại ung thư một cách tự do không ai kiểm soát, hay không? Hay mối hiểm nguy này không có gì đáng chú ý, theo ý kiến của Thư ký đoàn? Thư ký đoàn có can thiệp để cho tạp chí Literaturnaia Gazeta ấn hành những đoạn trích trong cuốn truyện mà Novy Mir đăng tải toàn bộ?
4. Thư ký đoàn có dự định làm áp lực với Chính phủ để Liên Xô gia nhập “Tổ chức quốc tế bảo vệ tác quyền” hay không? Thiết tưởng việc gia nhập tổ chức này giúp cho các tác giả của chúng ta có biện pháp hiện hữu chống lại việc ấn hành bất hợp pháp tác phẩm của họ, chống lại việc cạnh tranh bất chính của những nhà xuất bản ngoại quốc đã đem tác phẩm của chúng ta ra in ở ngoài nước Nga trước cả chúng ta nữa.
5. Sáu tháng sau lá thư giải hội, Thư ký đoàn đã có biện pháp thanh toán dứt khoát một lần chót những cơ sở ấn loát “bất hợp pháp” đã trình đem ra in và lưu hành những đoạn nhỏ rút từ bản thảo viết tay của tôi hay chưa? Loại ấn phẩm bất hợp pháp này đã được hủy chưa?
6. Thư ký đoàn có biện pháp thu hồi thủ bản các tác phẩm kể cả thủ bản cuốn Nhóm thứ nhất khi hội đã tuyên bố rằng tôi đã được trả lại đầy đủ rồi (Lời tuyên bố của Ủy viên Thư ký Ozerov).
7. Thư ký đoàn đã có quyết định nào đối với đề nghị của K.M. Simonov cho in một tuyển tập các truyện của tôi?
Xin cho biết Thư ký đoàn chấp thuận hay bác bỏ đề nghị?
8. Xin cho biết vì sao tôi lại không được phát biên bản của Hội (bản sao đánh máy) về nội dung cuộc tranh luận ngày 22 tháng 9 năm 1967 đặng có tài liệu nghiên cứu?
Trong khi chờ đợi một sự giải thích rõ ràng những thắc mắc nói trên, tôi xin trân trọng cảm tạ quý vị.
A. Soljenitsyne
1-12-1967
Thư gởi các Hội viên sau Hội nghị
Kính gởi quý vị Hội viên Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô
Từ ngày lá thư của tôi gởi Đại hội của Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô đến nay, một thời gian khá dài một năm đã trôi qua, vậy mà tôi vẫn không được phúc đáp dù đã gởi tiếp cho Thư ký đoàn hai lá thư và ba lần đến trụ sở Hội để trực tiếp yêu cầu các nhà lãnh đạo Hội giải quyết vấn đề.
Chẳng có một thay đổi nào đáng kể từ đấy đến nay. Thủ bản tác phẩm vẫn chưa được trả lại, sách không được in và tên tuổi vẫn bị bôi nhọ.
Tôi cũng đã báo trước Thư ký đoàn về việc sách của tôi sẽ được ấn hành ở ngoại quốc căn cứ vào sự phổ biến rộng rãi của các “bản chép tay” cuốn Trại ung thư ở Nga từ lâu đến nay. Nhưng Thư ký đoàn đã không khuyến khích tạp chí Novy Mir đăng tải nó mà còn ngăn cản. Chi hội các nhà văn xuôi của Hiệp hội các Nhà văn ở Mạc Tư Khoa phần II cuốn truyện.
Cho nên, sau một năm trời lãng phí, chuyện phải đến đã đến.
Và hôm trước đây; phụ trang văn chương báo Times đã đăng vài chương cuốn Trại ung thư. Rất có thể có những tác phẩm khác nữa sẽ bị ấn hành ở ngoại quốc và cũng có thể là những ấn phẩm ấy dựa vào những bản văn tác phẩm không chính xác, chưa được sửa lại.
Những chuyện đã xảy ra trên đây buộc tôi phải trình bày với các giới văn nghệ nội dung những lá thư, những lập luận của tôi trước đại hội ngõ hầu nêu lên rõ ràng lập trường và trách nhiệm của Thư ký đoàn Hiệp hội các Nhà văn ngày 22 tháng 9 năm 1967. Bản văn này do chính tay tôi ghi chép. Tuy không hoàn toàn chính xác từng câu từng chữ, bản văn này đã phản ảnh trung thực sự thực và có thể được coi là một tài liệu đầy đủ trước khi bản văn chính thức được ấn hành.
Ngày 16-4-1968
Tài liệu đính kèm:
3. Thư ký đoàn có định ngăn cản ngoại quốc xuất bản cuốn Trại ung thư một cách tự do không ai kiểm soát, hay không? Hay mối hiểm nguy này không có gì đáng chú ý, theo ý kiến của Thư ký đoàn? Thư ký đoàn có can thiệp để cho tạp chí Literaturnaia Gazeta ấn hành những đoạn trích trong cuốn truyện mà Novy Mir đăng tải toàn bộ?
4. Thư ký đoàn có dự định làm áp lực với Chính phủ để Liên Xô gia nhập “Tổ chức quốc tế bảo vệ tác quyền” hay không? Thiết tưởng việc gia nhập tổ chức này giúp cho các tác giả của chúng ta có biện pháp hiện hữu chống lại việc ấn hành bất hợp pháp tác phẩm của họ, chống lại việc cạnh tranh bất chính của những nhà xuất bản ngoại quốc đã đem tác phẩm của chúng ta ra in ở ngoài nước Nga trước cả chúng ta nữa.
5. Sáu tháng sau lá thư giải hội, Thư ký đoàn đã có biện pháp thanh toán dứt khoát một lần chót những cơ sở ấn loát “bất hợp pháp” đã trình đem ra in và lưu hành những đoạn nhỏ rút từ bản thảo viết tay của tôi hay chưa? Loại ấn phẩm bất hợp pháp này đã được hủy chưa?
6. Thư ký đoàn có biện pháp thu hồi thủ bản các tác phẩm kể cả thủ bản cuốn Nhóm thứ nhất khi hội đã tuyên bố rằng tôi đã được trả lại đầy đủ rồi (Lời tuyên bố của Ủy viên Thư ký Ozerov).
7. Thư ký đoàn đã có quyết định nào đối với đề nghị của K.M. Simonov cho in một tuyển tập các truyện của tôi?
Xin cho biết Thư ký đoàn chấp thuận hay bác bỏ đề nghị?
8. Xin cho biết vì sao tôi lại không được phát biên bản của Hội (bản sao đánh máy) về nội dung cuộc tranh luận ngày 22 tháng 9 năm 1967 đặng có tài liệu nghiên cứu?
Trong khi chờ đợi một sự giải thích rõ ràng những thắc mắc nói trên, tôi xin trân trọng cảm tạ quý vị.
A. Soljenitsyne
1-12-1967
Thư gởi các Hội viên sau Hội nghị
Kính gởi quý vị Hội viên Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô
Từ ngày lá thư của tôi gởi Đại hội của Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô đến nay, một thời gian khá dài một năm đã trôi qua, vậy mà tôi vẫn không được phúc đáp dù đã gởi tiếp cho Thư ký đoàn hai lá thư và ba lần đến trụ sở Hội để trực tiếp yêu cầu các nhà lãnh đạo Hội giải quyết vấn đề.
Chẳng có một thay đổi nào đáng kể từ đấy đến nay. Thủ bản tác phẩm vẫn chưa được trả lại, sách không được in và tên tuổi vẫn bị bôi nhọ.
Tôi cũng đã báo trước Thư ký đoàn về việc sách của tôi sẽ được ấn hành ở ngoại quốc căn cứ vào sự phổ biến rộng rãi của các “bản chép tay” cuốn Trại ung thư ở Nga từ lâu đến nay. Nhưng Thư ký đoàn đã không khuyến khích tạp chí Novy Mir đăng tải nó mà còn ngăn cản. Chi hội các nhà văn xuôi của Hiệp hội các Nhà văn ở Mạc Tư Khoa phần II cuốn truyện.
Cho nên, sau một năm trời lãng phí, chuyện phải đến đã đến.
Và hôm trước đây; phụ trang văn chương báo Times đã đăng vài chương cuốn Trại ung thư. Rất có thể có những tác phẩm khác nữa sẽ bị ấn hành ở ngoại quốc và cũng có thể là những ấn phẩm ấy dựa vào những bản văn tác phẩm không chính xác, chưa được sửa lại.
Những chuyện đã xảy ra trên đây buộc tôi phải trình bày với các giới văn nghệ nội dung những lá thư, những lập luận của tôi trước đại hội ngõ hầu nêu lên rõ ràng lập trường và trách nhiệm của Thư ký đoàn Hiệp hội các Nhà văn ngày 22 tháng 9 năm 1967. Bản văn này do chính tay tôi ghi chép. Tuy không hoàn toàn chính xác từng câu từng chữ, bản văn này đã phản ảnh trung thực sự thực và có thể được coi là một tài liệu đầy đủ trước khi bản văn chính thức được ấn hành.
Ngày 16-4-1968
Tài liệu đính kèm:
Thư gửi các vị Thư ký đoàn của
Hiệp hội các Nhà văn
Biên bản cuộc họp Thư ký
đoàn ngày 22 tháng 9 năm 1967
Thư gởi Thư ký đoàn ngày 1
tháng 12 năm 1967.
Thư gởi Thư ký đoàn Hội các Nhà văn, hội viên và các tạp chí văn nghệ
Kính gởi Thư ký đoàn Hội các
Nhà văn
Tòa soạn Tạp chí Novy
Mir
Tòa soạn Literaturnaia
Gazeta
Các Hội viên Hội các Nhà văn
Tôi được xem tại Tòa soạn Novy
Mir bức điện văn sau đây gởi ông chủ nhiệm:
IMO. 177 Francfort sur le M. – 16h20 M.A.I gởi Tvardovsk, tạp chí Novy Mir.
Cho bạn hay là Ủy ban An ninh Quốc gia đã gởi sang Tây phương qua trung gian của Viktor Louis một bản sao cuốn Trại ung thư để ngăn cản Novy Mir ấn hành cuốn này.
“Chúng tôi đã quyết định ấn hành nó tức khắc”.
Tòa soạn tạp chí Grami
Là tác giả, tôi đã nhất quyết phản đối việc ấn hành cuốn Trại ung thư dù nhà xuất bản là tạp chí Gramihoặc bất kỳ một nhà xuất bản nào đã được Viktor Louis đến điều đình.
Tuy nhiên, tính chất khiêu khích và phá hoại của bức điện văn đòi hỏi chúng ta phải làm sáng tỏ mấy điểm sau đây:
1. Có phải do chính tòa soạn Grami gởi bức điện nào cho tòa soạn Novy Mir hay do một người hoặc một cơ quan nào đó mượn tên tòa soạn tạp chí này. Việc này giải quyết không khó. Bưu điện Mạc Tư Khoa có thể nhờ cơ quan điện tín quốc tế hỏi lại bưu điện Francfort là biết.
2. Người có tên Viktor Louis là ai? Làm gì? Có phải y đã mang bản thảo cuốn Trại ung thư ra khỏi Liên Xô hay không? Y còn trao cho ai nữa? Có ai khác nữa, ở vùng khác, đe dọa sẽ in nó nữa không?
Nếu Thư ký đoàn Hội các Nhà văn coi việc này có một tầm quan trọng đáng lưu ý, nếu quan niệm rằng Hội có trách nhiệm tìm hiểu sự thực và ngăn cản việc ấn hành cuốn Trại ung thư cũng như mọi tác phẩm của người Nga ở ngoại quốc.
Thì kính xin quý vị giúp tôi tìm hiểu sự thực nhanh chừng nào hay chừng nấy.
Chuyện kỳ cục này khiến cho chúng ta phải liên tưởng và suy nghĩ đến những con đường quanh co và tăm tối của những tác phẩm – do các nhà văn Nga viết – lại đem ra ngoại quốc. Theo tôi sự kiện vừa qua là một sự cảnh cáo cấp thiết:
Văn nghệ không thể bị đẩy đến chỗ chỉ là những món hàng có lợi cho những tay buôn lậu có thông hành. Tác phẩm của nhà văn Nga phải được ấn hành trong nước Nga và không thể là một thứ hàng đem giao cho các nhà xuất bản ngoại quốc.
A. Soljenitsyne
18-4-1968
Giải Nobel và văn nghệ giới Việt Nam
Giá trị văn học thế giới tự do hầu như định đoạt bằng cái giải thưởng Nobel đối với các nhà văn ngày nay vậy; tuy nhiên có những tác phẩm bên kia bức màn sắt được trao tặng giải thưởng này.
Và những nhà văn chiếm giải như thế hầu như là luôn luôn bị các hội đồng văn hoá của chính quyền Xôviết lên án gắt gao, các tác giả đều bị khép vào các tội chính trị, phá hoại chế độ, phạm vi tổ quốc, hay có lợi cho tư bản ngoại trừ một vài người, như Mikhail Cholokhov, nhà văn chiếm giải Nobel mà chế độ đề cao hơn các nhà văn khác.
Sự thật thì có những tư tưởng gia lỗi lạc, những nhà văn hoá, triết gia lớn thỉnh thoảng từ chối giải Nobel, như Jean Paul Sartre chẳng hạn, giải thưởng Nobel thường được giao cho các nhà văn Anh, Mỹ, Pháp hơn là cho Đông phương. Một vài người như Tagore của Ấn Độ, Kawabata của xứ mặt trời mọc chỉ là một vài vì sao le lói bên cạnh những tiếng tăm bay dậy mịt mù André Gide, Albert Camus v.v… Trong các năm gần đây dường như muốn cho văn học có tiếng nói, dù là tiếng nói đơn thuần, nhỏ nhoi của kẻ vừa thoát xiềng xích nô lệ, bại vong, được lên tiếng bày giải thân phận mình. Khía cạnh đó có lẽ được nêu lên trong các buổi hội nghị về văn hoá của các cụ Hàn lâm Thụy Điển, đó cũng là một lý do rất giản dị, của thứ tinh thần bình đẳng tương trợ. Hay là các cụ Hàn nọ, đã chán cái thứ văn nghệ Âu Mỹ đầy dẫy dục tính, cả thứ dục tính sâu thẳm nhất trong lĩnh vực siêu hình, các cụ Hàn này quay về tìm các chất liệu tươi mát của văn hoá Á đông.
Nói như vậy không có nghĩa là văn nghệ hay văn học Việt Nam, trên lĩnh vực tư tưởng thấp kém hơn văn học nghệ thuật của thế giới. Cả về văn, thơ và các tác phẩm triết học xưa nay. Nói như thế cũng không có nghĩa là dựa theo lịch sử chiến đấu bốn ngàn năm của dân tộc đâu.
Thứ nhất là đằng sau những vần thơ lục bát, vòm tư tưởng của nghệ thuật ẩn hiện, không cách gì người ngoại quốc có thể cảm thông đến được.
Năm nay các cụ Hàn Thụy Điển vừa gây ra xôn xao dư luận trong giới văn nghệ miền Nam với một văn thư gởi cho Hội Văn bút đề nghị hội này chọn giùm tác phẩm gởi đi dự giải Nobel.
Hội Văn bút từ lâu đã tham gia nhiều cuộc viễn du mang chuông đi đánh xứ người, nhất là các cụ Vũ Hoàng Chương, Thanh Lãng, sau này thêm một số nhân tài mới dự Hội Văn hoá ở Đại Hàn với các anh Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nguyễn Thị Hoàng v.v… Riêng nhà thơ Nguyên Sa về đã có bài tường thuật lai rai đăng ở báo Trình bày với các câu chuyện… Đông du ký.
Sự thật thì chẳng ai rõ lắm về các hoạt động của các nhà văn ra ngoại quốc, những thành quả thiếu phổ biến, không được chính quyền lẫn báo chí tư nhân quan tâm.
Vì vậy mà các giới văn nghệ trẻ, tương lai mù mịt ở xứ ta vẫn mù tịt với các buổi hội nghị, và không được theo dõi các diễn biến tốt xấu của các nhân vật đi dự hội nghị về văn hoá, có thể nói đối với quốc tế họ là đại diện cho các nhà văn nhà thơ Việt. Còn ở Việt Nam thì khác.
Mãi chờ một vài sự bàn tán, ít ra cũng bàn tán về văn học nghệ thuật ở các xứ dầu sôi lửa bỏng này, của văn nghệ giới, chính quyền cũng không hề do đó để gây nên một vài phong trào yêu nghệ thuật, phổ biến và nâng đỡ nghệ thuật. Nghĩa là công tác đi về ăn ở của các nhà văn, của Hội Văn bút, những kết quả tốt xấu, những tương lai hậu quả về văn hoá của những người làm văn hoá không được mấy chú trọng, mặc dù văn học nghệ thuật là sinh khí của dân tộc.
Cho đến nay sự hoạt động văn hoá của Hội Văn bút đã gây được một sự chú ý của các cụ Hàn Thụy Điển. Giải Nobel rất quan trọng, rất tăm tiếng với địch với bạn nêu cao danh nghĩa Việt Nam với quốc tế cũng không nghe có một tiếng nói, một góp sức nào tạo nên hoàn cảnh thuận tiện cho những nhà văn chân chính.
Lịch sử Việt Nam không phải chỉ tiến triển ở chiến tranh, chiến tranh càng khốc liệt, thì dân tộc càng gian lao nguy hiểm và chết chóc hận thù, lịch sử dân tộc càng nhờ văn hoá đi lên, những kẻ yêu quê hương phải là những nhà văn hoá chân chính.
Không phải dân tộc Việt có bao nhiêu ngàn năm lịch sử, phải cần ở một cái giải Nobel mới sáng tỏ giá trị văn học nghệ thuật của mình. Nhưng dù sao giải Nobel hay các tác phẩm dự giải Nobel của một thế giới cần sự phô trương, dù là phô trương tài đức cũng nên xem nó như là một cuộc triển lãm cần phải có sự chăm sóc.
Văn nghệ giới chín mươi chín phần trăm là chịu thiệt thòi trước bạo lực, trước thế giới khuynh đảo của kim tiền, chỉ có những kẻ buôn bán văn nghệ phẩm, những kẻ áp-phe giỏi trong khi làm văn nghệ mới đủ sức vươn lên, để có tiếng vang tạo nên thế lực để được dự giải Nobel, ngoài ra những văn nghệ sĩ lớn lao không bao giờ được nhìn thấy và không bao giờ được sự nâng đỡ xứng đáng, chỉ được những sự chế giễu thiệt thòi.
IMO. 177 Francfort sur le M. – 16h20 M.A.I gởi Tvardovsk, tạp chí Novy Mir.
Cho bạn hay là Ủy ban An ninh Quốc gia đã gởi sang Tây phương qua trung gian của Viktor Louis một bản sao cuốn Trại ung thư để ngăn cản Novy Mir ấn hành cuốn này.
“Chúng tôi đã quyết định ấn hành nó tức khắc”.
Tòa soạn tạp chí Grami
Là tác giả, tôi đã nhất quyết phản đối việc ấn hành cuốn Trại ung thư dù nhà xuất bản là tạp chí Gramihoặc bất kỳ một nhà xuất bản nào đã được Viktor Louis đến điều đình.
Tuy nhiên, tính chất khiêu khích và phá hoại của bức điện văn đòi hỏi chúng ta phải làm sáng tỏ mấy điểm sau đây:
1. Có phải do chính tòa soạn Grami gởi bức điện nào cho tòa soạn Novy Mir hay do một người hoặc một cơ quan nào đó mượn tên tòa soạn tạp chí này. Việc này giải quyết không khó. Bưu điện Mạc Tư Khoa có thể nhờ cơ quan điện tín quốc tế hỏi lại bưu điện Francfort là biết.
2. Người có tên Viktor Louis là ai? Làm gì? Có phải y đã mang bản thảo cuốn Trại ung thư ra khỏi Liên Xô hay không? Y còn trao cho ai nữa? Có ai khác nữa, ở vùng khác, đe dọa sẽ in nó nữa không?
Nếu Thư ký đoàn Hội các Nhà văn coi việc này có một tầm quan trọng đáng lưu ý, nếu quan niệm rằng Hội có trách nhiệm tìm hiểu sự thực và ngăn cản việc ấn hành cuốn Trại ung thư cũng như mọi tác phẩm của người Nga ở ngoại quốc.
Thì kính xin quý vị giúp tôi tìm hiểu sự thực nhanh chừng nào hay chừng nấy.
Chuyện kỳ cục này khiến cho chúng ta phải liên tưởng và suy nghĩ đến những con đường quanh co và tăm tối của những tác phẩm – do các nhà văn Nga viết – lại đem ra ngoại quốc. Theo tôi sự kiện vừa qua là một sự cảnh cáo cấp thiết:
Văn nghệ không thể bị đẩy đến chỗ chỉ là những món hàng có lợi cho những tay buôn lậu có thông hành. Tác phẩm của nhà văn Nga phải được ấn hành trong nước Nga và không thể là một thứ hàng đem giao cho các nhà xuất bản ngoại quốc.
A. Soljenitsyne
18-4-1968
Giải Nobel và văn nghệ giới Việt Nam
Giá trị văn học thế giới tự do hầu như định đoạt bằng cái giải thưởng Nobel đối với các nhà văn ngày nay vậy; tuy nhiên có những tác phẩm bên kia bức màn sắt được trao tặng giải thưởng này.
Và những nhà văn chiếm giải như thế hầu như là luôn luôn bị các hội đồng văn hoá của chính quyền Xôviết lên án gắt gao, các tác giả đều bị khép vào các tội chính trị, phá hoại chế độ, phạm vi tổ quốc, hay có lợi cho tư bản ngoại trừ một vài người, như Mikhail Cholokhov, nhà văn chiếm giải Nobel mà chế độ đề cao hơn các nhà văn khác.
Sự thật thì có những tư tưởng gia lỗi lạc, những nhà văn hoá, triết gia lớn thỉnh thoảng từ chối giải Nobel, như Jean Paul Sartre chẳng hạn, giải thưởng Nobel thường được giao cho các nhà văn Anh, Mỹ, Pháp hơn là cho Đông phương. Một vài người như Tagore của Ấn Độ, Kawabata của xứ mặt trời mọc chỉ là một vài vì sao le lói bên cạnh những tiếng tăm bay dậy mịt mù André Gide, Albert Camus v.v… Trong các năm gần đây dường như muốn cho văn học có tiếng nói, dù là tiếng nói đơn thuần, nhỏ nhoi của kẻ vừa thoát xiềng xích nô lệ, bại vong, được lên tiếng bày giải thân phận mình. Khía cạnh đó có lẽ được nêu lên trong các buổi hội nghị về văn hoá của các cụ Hàn lâm Thụy Điển, đó cũng là một lý do rất giản dị, của thứ tinh thần bình đẳng tương trợ. Hay là các cụ Hàn nọ, đã chán cái thứ văn nghệ Âu Mỹ đầy dẫy dục tính, cả thứ dục tính sâu thẳm nhất trong lĩnh vực siêu hình, các cụ Hàn này quay về tìm các chất liệu tươi mát của văn hoá Á đông.
Nói như vậy không có nghĩa là văn nghệ hay văn học Việt Nam, trên lĩnh vực tư tưởng thấp kém hơn văn học nghệ thuật của thế giới. Cả về văn, thơ và các tác phẩm triết học xưa nay. Nói như thế cũng không có nghĩa là dựa theo lịch sử chiến đấu bốn ngàn năm của dân tộc đâu.
Thứ nhất là đằng sau những vần thơ lục bát, vòm tư tưởng của nghệ thuật ẩn hiện, không cách gì người ngoại quốc có thể cảm thông đến được.
Năm nay các cụ Hàn Thụy Điển vừa gây ra xôn xao dư luận trong giới văn nghệ miền Nam với một văn thư gởi cho Hội Văn bút đề nghị hội này chọn giùm tác phẩm gởi đi dự giải Nobel.
Hội Văn bút từ lâu đã tham gia nhiều cuộc viễn du mang chuông đi đánh xứ người, nhất là các cụ Vũ Hoàng Chương, Thanh Lãng, sau này thêm một số nhân tài mới dự Hội Văn hoá ở Đại Hàn với các anh Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nguyễn Thị Hoàng v.v… Riêng nhà thơ Nguyên Sa về đã có bài tường thuật lai rai đăng ở báo Trình bày với các câu chuyện… Đông du ký.
Sự thật thì chẳng ai rõ lắm về các hoạt động của các nhà văn ra ngoại quốc, những thành quả thiếu phổ biến, không được chính quyền lẫn báo chí tư nhân quan tâm.
Vì vậy mà các giới văn nghệ trẻ, tương lai mù mịt ở xứ ta vẫn mù tịt với các buổi hội nghị, và không được theo dõi các diễn biến tốt xấu của các nhân vật đi dự hội nghị về văn hoá, có thể nói đối với quốc tế họ là đại diện cho các nhà văn nhà thơ Việt. Còn ở Việt Nam thì khác.
Mãi chờ một vài sự bàn tán, ít ra cũng bàn tán về văn học nghệ thuật ở các xứ dầu sôi lửa bỏng này, của văn nghệ giới, chính quyền cũng không hề do đó để gây nên một vài phong trào yêu nghệ thuật, phổ biến và nâng đỡ nghệ thuật. Nghĩa là công tác đi về ăn ở của các nhà văn, của Hội Văn bút, những kết quả tốt xấu, những tương lai hậu quả về văn hoá của những người làm văn hoá không được mấy chú trọng, mặc dù văn học nghệ thuật là sinh khí của dân tộc.
Cho đến nay sự hoạt động văn hoá của Hội Văn bút đã gây được một sự chú ý của các cụ Hàn Thụy Điển. Giải Nobel rất quan trọng, rất tăm tiếng với địch với bạn nêu cao danh nghĩa Việt Nam với quốc tế cũng không nghe có một tiếng nói, một góp sức nào tạo nên hoàn cảnh thuận tiện cho những nhà văn chân chính.
Lịch sử Việt Nam không phải chỉ tiến triển ở chiến tranh, chiến tranh càng khốc liệt, thì dân tộc càng gian lao nguy hiểm và chết chóc hận thù, lịch sử dân tộc càng nhờ văn hoá đi lên, những kẻ yêu quê hương phải là những nhà văn hoá chân chính.
Không phải dân tộc Việt có bao nhiêu ngàn năm lịch sử, phải cần ở một cái giải Nobel mới sáng tỏ giá trị văn học nghệ thuật của mình. Nhưng dù sao giải Nobel hay các tác phẩm dự giải Nobel của một thế giới cần sự phô trương, dù là phô trương tài đức cũng nên xem nó như là một cuộc triển lãm cần phải có sự chăm sóc.
Văn nghệ giới chín mươi chín phần trăm là chịu thiệt thòi trước bạo lực, trước thế giới khuynh đảo của kim tiền, chỉ có những kẻ buôn bán văn nghệ phẩm, những kẻ áp-phe giỏi trong khi làm văn nghệ mới đủ sức vươn lên, để có tiếng vang tạo nên thế lực để được dự giải Nobel, ngoài ra những văn nghệ sĩ lớn lao không bao giờ được nhìn thấy và không bao giờ được sự nâng đỡ xứng đáng, chỉ được những sự chế giễu thiệt thòi.
Nguồn: Trần Tử. Alexandre
Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời. Tủ sách Nhân Loại Mới, 1971.
Trần Tử
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét