Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2016

Người đàn bà bơi trên sóng

Người đàn bà bơi trên sóng
Bà Thu không ngạc nhiên khi nhận ra sự cố nơi chiếc đồng hồ sinh học của mình, dù mọi ngày nó vận hành chính xác đến từng phút.
 Mọi ngày, bốn giờ kém hai mươi, bà dậy, ra khỏi giường, vào buồng vệ sinh, cởi bỏ chiếc áo ngủ, mặc bộ quần áo thể dục, uống một ly nước lọc, xịt một chút nước hoa vào lòng tay và nhè nhẹ xoa vào mang tai, ngồi vào bàn đọc hay viết cái gì đó cho đến năm giờ. Năm giờ năm phút bà ra khỏi nhà, nhập vào nhóm bạn kéo ra công viên có nhiều cây nhiều tiếng chim, tập những động tác thể dục theo phương pháp dưỡng sinh dành cho những người cao tuổi. Rồi cả hội râm ran trò chuyện, dạo vài vòng theo lối mòn quen thuộc và bao giờ cũng dừng lại bên gánh sữa đậu nành nóng của người đàn bà gầy gò luôn quấn khăn kín cổ, mỗi người một ly. Cạn ly sữa, chia tay nhau, mỗi người một ngả, trở về mái nhà của mình. Và ngày nào cũng như ngày nào, sau một chuỗi công việc, bà cũng khép cửa phòng lên giường ngủ lúc chín giờ tối. 
Nhịp điệu sinh học đều đặn ấy vẫn giữ được đến ngày thứ ba khi bà Thu dự trại sáng tác văn học tại một thành phố biển. Sang ngày thứ tư, lúc bà Thu cùng Kim, cô bạn đồng nghiệp, đang ở cùng phòng với bà, chỉ cỡ độ tuổi con gái út bà - tuy vẫn xưng em gọi chị với bà - đang chạy khởi động trên bờ trước khi xuống nước thì bà chợt nghe tiếng gọi: "Thu phải không, có phải Thu không ?". Phản xạ đầu tiên của bà là dừng chạy, cúi xuống, kéo chiếc áo khoác che phần ngực và bụng.  
Bà Thu nhận ra một mái tóc bạc trắng, một chòm râu cũng bạc trắng; rồi một bộ ngực còn nở nang và một thân thể còn rắn rỏi như không phải được gắn với mái tóc kia, chòm râu kia đang bước những bước quả quyết tiến về phía mình. Bà lật đật kéo choàng sợi dây chiếc áo khoác buộc ngang bụng, đứng nguyên một chỗ, trân trân nhìn người đàn ông, ngỡ ngàng thốt lên: "Anh Hà, đúng rồi, trời ơi, anh Hà !". Ông Hà khựng lại, cách bà Thu một khoảng chừng một sải tay: "Thu thay đổi nhiều lắm, suýt nữa tôi không nhận ra!"…
Bà Thu vẫn đau nhói bởi câu nói ông Hà khi sáng. Sao ông ấy có thể buông một câu vô tình đến thế ? Còn đối với bà, hơn 40 năm đằng đẳng bà vẫn giữ  gần như trọn vẹn những gì hai người đã có với nhau. Đi gần hết cuộc đời với bao biến cố, đổi thay, được mất, hạnh phúc, đắng cay, khao khát, chờ mong…bà vẫn gói ghém, ràng rịt, lưu giữ, chôn cất tận nơi thẳm sâu của hồn, của ký ức những hình ảnh và cảm giác hạnh phúc cũng như đau khổ mà bà đón nhận được từ mối tình đầu.
Mối tình đầu, có lẽ chỉ đúng với bà - đúng với cô Thu ngày xưa. Còn với Hà, chàng thanh niên bảnh trai, con nhà giàu, được ăn học, được nuông chìu thì đã là tình thứ. Sự từng trải ít nhiều đối với phụ nữ khiến Hà như được tẩm thêm một chất men. Thu chếch choáng trước những cơn sóng tình mạnh mẽ, cuồng nhiệt nơi Hà. Ngay cả khi bị khước từ, bị bỏ mặc, cô cũng ngất ngưỡng trong tâm trạng của kẻ say. Tuy nhiên, cô gái bị phụ bạc đã không tức tưởi chạy theo, không điên cuồng đuổi bắt, không ỉ ôi van xin, không quyết liệt đi đến cùng sự thật là gia đình đã dạm hỏi cho Hà một người con gái kém xa Thu về nhan sắc nhưng giàu, rất giàu. Cô chỉ ngồi câm lặng trước biển - bờ biển ngày ấy thưa thớt bước chân và hoang vắng lắm - nơi hai người gặp nhau và yêu nhau. Ngồi cho đến khi cô thấy sơ sự thăm thẳm của biển cả và sợ sự cuồng nộ của những con sóng. Chúng có thể cuốn đi tất cả, kể cả nỗi đau còn lại, nỗi đau mà cô muốn giữ. Nỗi đau ấy khi ẩn khi hiện ngay cả những lúc bà Thu đón nhận những rung cảm yêu thương và sự che chở của người chồng, người cha của những đứa con của bà. Với bà, vết tích quá khứ không phải là hình bóng lặng lẽ mà là một bóng ma ám ảnh. Chúng ẩn nấp và lộ diện bất cứ lúc nào, nơi nào. Chúng có thể thô bạo rứt bà ra khỏi vòng tay âu yếm của chồng. Chúng còn xấn xổ chen vào chiếc giường ngủ của bà và chập chờn trong những giấc mơ mà bà không muốn mơ. Chồng bà là một người độ lượng, đủ rộng lớn và sằn sàng chứa đựng, bao bọc con người nồng nàn chân thành yếu đuối lầm lỗi của chính bà. Nhưng, cho đến trước lúc trút hơi thở cuối cùng, bà Thu mới nhận ra được từ ánh mắt trăn trối của chồng nỗi đau mà ông giấu kín: "Tôi yêu thương mình hết lòng nhưng tôi vẫn hận mình !".Bà vuốt mắt cho chồng và nấc lên…
Sau giây phút ngỡ ngàng trước cuộc hội ngộ bất ngờ, ông Hà ngoắc một lũ cháu gọi ông bằng nội bằng ngoại đang lặn ngụp dưới nước đến trước mặt để giới thiệu với bà Thu. Lũ cháu răm rắp nghe lời ông, đứa trước đứa sau khoanh tay cúi chào bà Thu rồi chạy ào xuống nước. Ông Hà nhìn theo lũ cháu, hỏi: "Thu có đông con đông cháu không ?". "Chắc không thua gì anh ?" " Thu có thường ra đây ?". "Lâu lắm rồi !" ."Hèn gì mình không gặp nhau". Không tìm nhau thì sao gặp được, bà Thu muốn buột miệng nói thế nhưng kịp ghìm lại. Ông Hà chỉ tay về phía ngôi nhà nhiều tầng nằm trên dãy phố, mặt nhà hướng ra biển, nói: "Chiều nay mời Thu đến nhà tôi ăn cơm, Thu nhận lời nghen !" Bà Thu chưa kịp nói gì, ông Hà lại nói: "Bà nhà tôi đã mất mấy năm nay !"
Khoảng năm giờ chiều, leo lên ban công tầng hai của trại sáng tác, bà Thu thấy ngôi nhà của ông Hà khá gần. Bà còn thấy rõ hai màu sơn hồng và xanh của ngôi nhà, rồi giàn hoa giấy với sắc tím đỏ rực, những giò lan treo lủng lẳng và những chiếc lồng chim đung đưa trước gió tuy bà không nghe được tiếng hót ríu ran. Nhìn từ ngoài, bà Thu cũng có thể đoán biết đó là một mái ấm tươi vui. Bà hình dung ra căn phòng tươm tất của ông Hà với những tấm ảnh được lồng vào khung treo trên tường. Bà còn thấy nụ cười mãn nguyện của ông Hà bên cạnh vợ cùng những vật dụng đẫm hơi hướm và kỷ niệm từng gắn bó giữa họ.
Bà Thu chợt sây sẩm mặt mày như bị trúng gió. Bà trở về phòng, lấy lọ dầu gió xanh bôi lên hai màng tang, lên cổ, lên ngực và quyết định là sẽ không đến nhà ông Hà. Bởi, đối với chủ nhân ngôi nhà, bà không phải là khách; càng không phải là người thân, dù ông Hà đã từng sở hữu trọn vẹn trái tim bà. Lẽ ra, ông Hà, lũ con cháu, tiếng cười, tiếng nói và cả tiếng khóc từ trong ngôi nhà ấy phải thuộc về bà…Không, không, bà không thể làm một người khách gượng gạo, chào hỏi năm ba câu xả giao và giả vờ thương tiếc thắp ba nén nhang cắm lên lư hương người đàn bà đã rứt bà ra khỏi cuộc đời ông Hà và xoá sạch bà trong mớ ký ức bề bộn của ông.
Bà Thu xuống nhà ăn rất muộn, cố nuốt hết chén cơm rồi lật đật trở lại phòng. Hết nằm lại ngồi, bà Thu lấy làm kinh ngạc khi thấy mình cứ phấp phỏng như chờ như đợi mà không rõ chờ đợi điều gì. Cũng có thể là cú điện thoại nhắc lại lời mời dùng cơm rằng, ông Hà và con cháu đang quây quần bên bàn ăn đợi bà đến hay nếu bà không thích dùng cơm thì ông Hà muốn mời bà đi dạo dọc theo bờ biển rồi sau đó tìm cái quán nước khuất gió nào đó; ông Hà gọi một ly cà-phê đen, còn bà có thể nhấp nháp ly chanh nóng rồi đi loanh quanh một hồi và tạt vào hàng ăn, gọi hai tô cháo mực, món ăn mà ông Hà và cả bà từng rất thích…
Chiếc điện thoại nằm im, không một hồi chuông. Bà Thu trùm mền, nằm co như con tôm luộc, vùng vằng, chống cự với chuỗi ký ức tưởng đã lịm chết. Gần hai giờ sau, chuông điên thoại reo. Bà Thu tung mền, ngồi dậy, áp tai vào vào  ống nghe. Bà nhận ra cái giọng hăm hở của Kim: "Bọn em đang uống cà phê đợi trăng lên. Biển đêm tuyệt lắm ! Cả hội đợi chị ở cái quán cạnh hàng dương!". Cố lấy giọng tự nhiên, bà Thu nói: "Cả hội đừng đợi, chị sợ gió biển !". Kim vẫn không chịu thua: "Chị khoác áo cho thật ấm vào, ra đây tụi em úm cho!". Bà Thu đành nói: "Thôi, đừng ép nhỏ à, bà chị đang không…vui !" Nói hết câu, bà Thu thấy nước mắt mình chảy tràn xuống má.    
Nửa giờ sau, Kim kéo theo Thuỵ, cũng một đồng nghiệp trạc tuổi Kim, chạy xộc vào phòng. Trước Kim và Thuỵ, hai đồng nghiệp, hai người đàn bà quá nhạy cảm, dễ bốc đồng, ưa thích sự rạch ròi, cái gì cũng muốn rõ nguồn cơn, bà Thu đành bộc bạch nỗi lòng. Bà còn mở sắc tay, lấy ra một cái bóp nhỏ xíu được cất riêng trong một ngăn và mở ra cho Kim và Thuỵ xem tấm ảnh chân dung đen trắng được ép nhựa, cỡ 3x4 của một thanh niên. mặc sơ - mi trắng, mắt sáng, mũi cao, trán rộng và trẻ như một sinh viên chưa ra trường. Kim cầm tấm ảnh, nhìn bà Thu: "Em phục chị sát đất, chừng đó năm mà chị vẫn ôm giữ bóng hình xưa như một báu vật !" Còn Thuỵ hậm hực: "Chị để bọn em tìm cách phục thù !". Bà Thu ấn ngón tay vào trán Thụy: " Đừng bày trò con nít cô ạ !". Lúc bà Thu chăm chú cất tấm hình vào ngăn bóp, Thuỵ và Kim nháy mắt, quéo tay nhau. Bà Thu giữ chiếc bóp nhỏ trên trên tay, nhìn hai cô bạn trẻ: "Hồi đó chị cũng nghĩ quá khứ là của ngày hôm qua, nó sẽ mãi ở bên kia cái ranh giới của những điều đã qua. Khi được sống nhiều và tuối tác đã ở phía xế chiều, chị nhận ra là vết tích của ngày hôm qua hằn  rõ lên cái gam màu của ngày hôm nay và không chỉ của ngày hôm nay…"
Ngày hôm sau và những ngày tiếp theo, những buổi bình minh, bà Thu không có mặt ở bãi biển, dù bà biết sáng nào Kim và Thuy cũng gặp ông Hà cùng lũ cháu ngụp lặn nô đùa ngoài ấy.
Ở lại trong phòng, qua khung cửa sổ hướng về phía biển, bà Thu dễ dàng nhận ra hai cái dáng cao cao, cân đối, trắng trẻo của Kim và Thụy trong bộ áo tắm. Kim xem ra còn sáng chói hơn Thụy với bộ bikini màu vàng hoa cúc. Ngày thường trong những bộ quần áo bụi bụi, trông Kim và Thuỵ chẳng có gì là nổi bật, cuốn hút nếu không gần gũi, trò chuyện để nhận ra những đợt sóng cồn cào nơi tâm hồn ít khi phẳng lặng ở họ. Ngày yêu ông Hà, bà còn trẻ trung hơn, quyến rũ hơn cả Kim và Thuỵ với đôi chân thon dài, eo nhỏ, ngực nở, da mịn, mắt đen láy và mau nước mắt. Bất giác bà nhìn  xuống bộ ngực  chảy sệ của mình. Thời gian cũng như những con sóng ngoài kia, chúng nhẩn nha bào mòn và dập vùi mọi thứ. Và vẻ đẹp của hình hài của da thịt bao giờ cũng là cái đẹp dễ lụi tàn, dễ đánh mất dù con người có lùng sục mọi phương kế để trì hoãn, kéo níu. Như lúc này, bà Thu chỉ muốn vóc dáng mình gọn hơn một chút, những đường gân xanh nổi cộm trên vế trên đùi tạm lặn sâu vào máu thịt để bà còn chút tự tin hất bỏ chiếc áo khoác lùng nhùng và bước xuống bãi tắm, nơi có đôi mắt từng chiêm ngưỡng đắm đuối cái nhan sắc thuộc về bà. Bà Thu thở dài. Tuy vậy, bà vẫn không rời chỗ cửa sổ. Vẫn dõi mắt về phía bãi tắm nhộn nhạo người.
Bà Thu nhận ra ông Hà với chiếc quần tắm gọn gàng, trông ông vẫn còn tráng kiện như một trung niên, nếu như chòm râu và mái tóc không bạc nhường kia. Ông Hà nhanh nhẹn, khi lên bờ khi xuống nước, khi vùng vẫy bơi ra xa bờ, khi lại dạy cho lũ cháu những trò chơi trên bãi biển như bắt còng, ném bóng, nhảy sóng. Khi không bận bịu với lũ cháu, một mình ông bơi thật xa, bơi về phía chân trời, nơi con thuyền đánh cá được sơn phết rực rỡ đang chơi vơi tròng trành trên sóng. Rồi ông lại thong dong bơi trở về và lại nằm dài trên bãi cát, hết nằm sấp lại nằm ngửa rồi lăn lộn nhiều vòng trên cát mịn với tất cả vẻ thoả thê thích thú của kẻ biết tận hưởng cái cảm giác được sống và vui sống. Bà Thu còn thấy, Kim và Thụy cũng lân la trò chuyện với ông và hình như cả hai đang nhờ ông tập bơi. Bà biết, hai cô nàng chỉ bơi giỏi kiểu bơi của con rái cá, tức khi bơi chỉ có phần đầu nổi lên trên mặt nước, trông vừa không đẹp lại vừa mỏi cổ và khó có thể bơi được xa. Bà thấy ông Hà lần lượt đặt từng cô nàng nằm dài trên mặt nước như một miếng gỗ bập bềnh. Rồi ông điều khiển khối gỗ mềm mại đó với tất cả động tác thuần thục, nhẫn nại của một huấn luyện viên.
Nắng lên. Khi ông Hà, lũ cháu và hai cô bạn đồng nghiệp không còn ở bãi tắm; bà Thu mới khoác lên người chiếc áo choàng sau khi đã mặc áo tắm, đội lên đầu chiếc mũ rộng vành, mang lên mắt chiếc kính râm. Bà lặng lẽ ra bãi tắm. Ở đó, bà bỏ dép, bỏ áo khoác lại trên gờ đá. Bà dò dẫm đôi chân trần trên cát. Bãi cát dài và rộng. Bàn chân bà đôi lúc chạm phải cái lổn nhổn gai góc của đá và vỏ sò vỏ ốc. Dã tràng thóat ẩn thóat hiện để lại trên bãi cát những phác thảo dở dang. Bà đi.Từng bước, từng bước, cảm nhận sự mịn êm từ cát từ gió từ nước và những bất trắc có thể gặp phải từ những con ốc con sò đã mục rửa hay những gờ đá phủ rêu. Rồi bà từ từ đầm mình xuống nước. Chân, bụng, ngực, cổ. Mát dịu và xốn xang. Bà bơi. Hướng về phía mặt trời long lanh trên từng ngọn sóng. Phía ấy còn có một con thuyền đánh cá với màu sơn vàng đỏ. Hình như khi nãy ông Hà cũng đã bơi về phía ấy, phía con thuyền mong manh neo chênh vênh giữa trời và nước.
Anh sáng rỡ ràng của mặt trời làm bà chói mắt. Vô số những ngọn sóng như được dát bạc, cuồn cuộn, cuồn cuộn trôi ngược về phía bà. Chiếc thuyền vừa hư vừa thực vừa gần vừa xa không ngớt tròng trành. Mũi thuyền càng lúc như càng được nâng cao, nâng cao và không mấy chốc như vướng vào chân mây.
Bà Thu thấy mệt. Mặt trời càng lúc càng chói chang. Mặt biển cồn cào những con sóng chói loà. Con thuyền trước mặt, vẫn con thuyền sơn hai màu vàng đỏ và không thấy giương buồm, cũng chẳng nghe tiếng máy rền rền nhưng nó đang xê dịch. Xê dịch từng chút, từng chút và đang nhích dần về phía mặt trời. Sóng như vô số cánh tay lóng lánh đang nâng con thuyền lên, lên mãi. Con thuyền không còn vướng vào mây mà như chạm được vào cái vòng hào quang chói lọi của mặt trời.  Bà Thu hoa mắt. Tuy nhiên, bà cũng còn đủ tỉnh để nhận biết, chỉ cần rướn thêm một quãng nữa thôi là bà sẽ không còn có cơ hội để quay về. Hốt hoảng, bà lật đật xoay người, bơi ngửa, hướng về bờ cát mà bà đã bỏ lại khá xa. Bà bơi với sức lực của kẻ muốn được quay về. Không chỉ quay về với cái vết thương buốt nhói của quá khứ mà còn quay về với niềm vui nỗi đau mà bà đang có .
Sau lần suýt bị sóng biển cuốn trôi, bà Thu không ra biển nữa. Tuy nhiên, bà cũng không nén được nỗi khát khao được ngắm biển người lô nhô ngoài kia, ngắm chân trời và mặt biển trong nắng sớm. Bà đứng, nhiều khi cả giờ, mải miết nhìn và không tập trung vào một mục tiêu duy nhất tuy không khỏi ngỡ ngàng trước sức lực dẻo dai kỳ lạ của người đàn ông mà bà biết sẽ ám ảnh bà cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Bà cũng tìm thấy hai cô bạn đồng nghiệp trẻ trung, tràn trề sinh lực trước  mặt trời và sóng nước. Rồi bà đưa mắt nhìn rộng hơn, xa hơn và càng cảm nhận rõ cái giới hạn của tầm mắt, cái vô hạn của biển đời và cái hữu hạn của mỗi cuộc đời.
Phía bát ngát muôn trùng trước mắt bà rộng mở những chân trời.Và trong biển người ngụp lặn ngoài kia, sau những giờ phút thả mình thư giãn với mây trời sóng nước, mỗi người lại xốc trên vai mớ hành trang nặng nhẹ của mình, lại tiếp tục cuộc hành trình. Với bà, điều quan trọng nhất  trong cuộc hình trình khó nhọc của đời người không phải là cái đỉnh phải trèo lên cho bằng được hay cái đích phải đặt chân đến mà là lòng tin và những bước chân. Bà cũng đã gắng gỏi bước đi bằng sức lực và lòng tin của chính mình.  Nghĩ đến điều đó, trong bà vơi đi cái cảm giác bồn chồn và tâm trạng cũng lắng đi nỗi sợ "bóng chiều" mà phàm đã làm người không một ai tránh khỏi.Và dù lòng vẫn khắc khoải, vẫn giằng níu nhưng bà cũng đành phải cố xua đi hình ảnh, ký ức của "người xưa" để vùi vào trang viết.
Cũng như mọi khi, những trang viết khiến bà mệt lả và hạnh phúc. Tuy nhiên, cũng khác hơn mọi khi, bà thấy nỗi đau của chính bà, nỗi đau vừa cũ vừa mới cứ thấm đẫm trên từng trang viết. Đọc lại, bà thấy không thích. Bà không muốn bày tênh hênh cái nỗi đau của chính mình lên trang giấy và đem bày bán cho người đời. Bà xé và vo tròn những trang giấy chi chít chữ vứt vào sọt rác. Bàn bên cạnh, Kim đang gò lưng cày xới trên mảnh đất văn chương vừa khô cằn hạn hẹp vừa phì nhiêu mênh mông của mình. Muốn ho lên một tiếng, muốn nói với Kim một câu gì đó cho bớt đi cái bứt rứt chưa thể hiện được những ý tưởng đang dồn ứ trong óc trong tim nhưng thấy cái vẻ căng thẳng phấn khích của cô bạn đồng nghiệp, bà Thu không nỡ. Chợt có tiếng gõ cửa. Bà Thu xỏ dép, lệch xệch đi về phía cửa. Cảnh cửa vừa mở, Thuỵ lách vào, liếng láo nhìn bà Thu rồi nhìn Kim, nói như chì chiết:"Chiều mai về rồi mà tối nay các vị còn tự hành xác chi nữa?". Kim ngừng viết, quay lại: "Tau đang viết được một chương đả lắm !". "Về tình yêu à ?, Thụy hỏi . Kim nhấn nhá :"Về một mối tình tan vỡ khi nó mới hình thành, về sự ngộ nhận  và ảo vọng". Bà Thu im lặng. Thấy ngột ngạt, Thuỵ liền đọc hai câu thơ quen thuộc: "Tôi còn buồn là tôi còn sống. Tôi còn viết là tôi còn yêu" Bà Thu tiếp lời: "Chị đang nửa sống nửa chết vì không viết được cái điều mình muốn viết". Thuỵ ngồi xuống cạnh bà Thu: "Vậy tối nay chị với nhỏ Kim đóng chặt cửa mà viết tiếp, nhưng sáng mai chị phải ra biển bơi với bọn em!". Không đợi câu trả lời, Thuỵ đứng lên: "Với lại, chị còn phải chia tay với…biển nữa chớ !". Trước khi ra khỏi cửa, Thuỵ còn quay lại nháy mắt với Kim.
Bình minh ở thành phố biển đến thật sớm.Tiếng chuông chùa đâu đó vỡ ra, ngân dài, đánh thức thành phố. Phút chốc thành phố bừng tỉnh trong tiếng bước chân của những người tập thể dục. Khác hơn mọi khi, Kim, Thuỵ và bà Thu không đi thẳng một mạch xuống bãi tắm mà đi ngược về phía hàng dừa dọc theo bờ biển. Từ đó cả ba men theo bờ cát để vòng về bãi tắm quen thuộc. Họ đi chậm, nhìn ngắm và lắng nghe tiếng gió vi vu trên ngọn dừa, tiếng sóng rì rầm, tiếng vang vọng thẳm sâu của biển cả.
Bàn chân trần của bà Thu in lên lớp cát mịn còn ẩm sương đêm. Cảm giác mát lành râm ran chạy khắp cơ thể khiến bà thêm bịn rịn. Bờ biển này, thành phố này đã đẩy đưa bà đến những cung bậc chót vót của cảm xúc. Bà được thả mình trong nỗi hân hoan xao xuyến và nén chặt lòng trong khắc khoải chờ mong. Chỉ ở nơi đây và cho đến cái tuổi chân đã yếu mắt bắt đầu mờ bà mới cảm nhận rõ ràng hơn nỗi đau yêu thương vẫn còn tiếp tục dày vò trái tim mình. Bà bần thần trước phát hiện đó và không dám nghĩ tiếp mà dõi mắt phía khơi xa. Màu xanh đặc sánh của sa mạc nước dần dần nhường chỗ cho màu trắng nhạt. Một lúc sau trên nền trắng như dãy lụa mờ ấy là màu hồng của vầng dương mới nhú.
Đứng trước bãi tắm, bà Thu cứ thẩn thờ trước vẻ đẹp của mây trời cứ lướt qua vùn vụt. "Chào Thu, sao mấy ngày qua không thấy Thu tắm biển ?", bà Thu quay lại, gật đầu chào ông Hà thay cho câu trả lời. Có lẽ cũng không chờ câu trả lời, hai tay dắt hai đứa cháu, ông Hà đi qua bà Thu, đi qua với bươc chân thong dong của một người không vướng bận. Kim và Thụy từ sau lưng bà Thu chạy tới, mỗi người nắm một cánh tay, kéo bà Thu xuống bãi tắm. Bà Thu gỡ tay Kim, Thu ra, la í ới: "Đồ quỷ, chờ tau cởi áo khoác cái đã !"
Hai cô bạn đồng nghiệp lẩn quẩn ngụp lặn bên bà Thu một lúc rồi bỏ bà bạn lại bãi cạn sau một hồi nằn nì lôi kéo không được. Thuỵ, Kim sải tay bơi đi và không quên quay lại, cười thân thiện và đưa tay vẫy. Bà Thu cũng đưa tay vẫy vẫy, khích lệ. Kim bơi trước, Thụy đuổi theo sau. Hai cô nàng bơi ra một quảng rồi lại trở vào, không dám bơi ra xa cho đến khi lôi kéo được ông Hà tháp tùng. Bơi cạnh ông Hà, Kim và Thụy tỏ ra tự  tin và mạnh mẽ. Ông Hà như cũng được tiếp sức từ sự tin cậy và dáng vẻ trẻ trung lôi cuốn của hai cô gái. Cả ba bơi ra xa, bơi về phía con thuyền neo chênh vênh ở phía chân trời. Bà Thu không rời mắt khỏi họ. Có lúc bà như chỉ còn thấy ba đốm sáng di chuyển. Rồi dường như họ bơi tới đích, họ đưa tay chạm vào mạn thuyền và lại bơi ngược vào bờ. Thoả thê và mệt nhoài, họ nằm dài trên bãi cát nghỉ một hồi để lấy lại sức và lại tiếp tục bơi. Họ bơi không còn để tới đích là con thuyền không bến bờ kia mà vì niềm vui được ngụp lặn, được trôi nổi, được đắm chìm, được lượng sức mình và được thử sức cùng sóng nước. Nhìn Kim và Thụy sát cánh bên ông Hà, bà Thu thầm cười: "Sự… phục thù của hai cô nàng là thế !". Bỗng dưng, bà Thu muốn rời bãi cạn và bơi ra xa xa. Lòng bà cồn cào ước muốn được vẫy vùng như họ, được một lần nữa thử sức mình.
Đi chưa hết bãi cạn, bà Thu chợt nghe tiếng kêu cứu của Kim và của Thụy. Nhìn không còn thấy cánh tay khoẻ khoắn bơi tung nước và mái tóc bạc trắng của ông Hà, bà Thu lật đật quay mặt vào bờ, la lên: "Cứu, cứu, có người bị nước cuốn, cứu, cứu!". Bãi tắm ở thành phổ biển hiền hoà này thường an toàn nên không có phương tiện cứu hộ hay người cứu hộ. Bà Thu thấy hai người đàn ông đang đắp cát trên bờ vội lao xuống nước bơi hối hả về phía người bị nạn. Một phút, hai phút… tim bà Thu như ngừng đập cho đến khi hai người đàn ông mệt lữ  kéo ông Hà lên khỏi mặt nước và đặt cái thân xác rũ riệt tái xanh nằm dài trên bãi cát. Kim và Thuỵ hớt hãi theo sau. Bà Thu luýnh quýnh chen vào giữa cái vòng người vừa hiếu kỳ vừa lo lắng. Bà thụp người xuống cạnh ông Hà và không một giây do dự, cùng một lúc bà vừa đưa tay bóp chặt hai cánh mũi ông Hà vừa gắn chặt môi mình vào đôi môi tái xám. Bà làm động tác hô hấp ấy quyết liệt đến nỗi không đếm xỉa gì đến bộ răng giả của ông Hà không còn bám vào nướu mà vướng víu và làm đau rát môi miệng mình. Bà gấp gửi truyền cho ông tất cả hơi thở mà mình có được. Một giây, hai giây…những nỗ lực điên cuồng của người đàn bà không nguôi yêu thương được đáp lại. Bà muốn thét lên, muốn oà khóc nức nở khi cảm nhận được dấu hiệu hồi sinh từ hơi thở của ông Hà. Tuy nhiên, bà kịp ghìm lại. Bà đứng lên và vội bước ra khỏi đám đông trước khi ông Hà mở mắt và nhận ra bà. Bà đi như chạy. Dấu chân hằn rõ trên bãi cát. Kim và Thuỵ hấp tấp chạy theo, vừa chạy vừa gọi: "Chị ơi, áo khoác chị đây nè !".
TP.HCM, 21/6/2004
  Bích Ngân
Theo http://4phuong.net/


1 nhận xét:

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...