Người đàn bà đã quá tứ thập nhưng màu mắt vẫn còn sáng
trong và lãng đãng chút khói sương xa vắng. Người ta sang sông. Riêng chị thì
cứ đi đi lại lại như muốn tìm người thân hay một báu vật nào đó. Những dấu
giày nối nhau in trên cát trắng mịn cứ nhỏ dần, nhỏ dần. Những dấu vết tận
cùng về phía mặt trời lặn giống như sự lỗi hẹn của những dấu chấm lững. Thỉnh
thoảng chị dừng chân, chăm chắm nhìn ngọn đồi cây đá chen nhau đang còn vướng
vất mấy sợi nắng yếu mềm. Có lúc chị mỉm cười tần ngần ngắm mấy đứa trẻ chơi
đuổi bắt nhau, ngã lăn tròn trên bãi, thân hình muối cát như người ta lăn nắm
xôi vò vào dĩa muối mè trước khi gói bằng lá chuối mang lên rừng.
Hồi xấp xỉ tuổi lũ trẻ, chị mê vui chơi không bằng mê ngắm
người dân bổn địa bến Rì khoác chiếc khăn lên người để thay đồ. Dường như chỉ
thấy họ cầm đầu mối khăn quơ một vòng tay như người ta làm xiếc mà không kịp
nhận ra đầu mối ấy được giắt dính vào đâu. Thế là chỉ cần tiếp một động tác
co chân nép người bên bụi Rì, họ đã thay chiếc quần sũng nước bỏ
phịch trên cát, kín đáo và nhanh gọn. Lớn lên, cũng như người chị dâu từ dưới
xuôi về, tập hoài vẫn chưa kịp thành thạo những động tác ấy chị đã phải xa
làng, xa cái bến quê thanh bình trong ký ức tuổi thơ.
Không thấy loại Rì cây lá nhỏ, dưới nắng chỉ bám mấy chiếc
rễ vào cát nóng vẫn cứ sống, cứ xanh. Cũng không thấy loại Rì đuối đan nhau
dày đặc trên cát nóng, ngọn giống cái đuôi con cá đuối mẫn cán quẫy đạp cùng
cát mà không bao giờ chịu để cho cát vùi lấp. Mùa mưa, lũ về vùi lấp hay cuốn
sạch những thân Rì tấp vào ghềnh đá, bụi tre, tháng sau đã thấy chúng từ đâu
lại trồi lên trên cát trắng những mầm mới hứa hẹn. Không thấy những cặp tình
nhân vọc trăng vọc cát bên bụi Rì toả bóng che chắn. Sáng ra, lá Rì bị bứt bỏ
đầy trên cát mịn. Không thấy người dân bến nằm ngửa trên đám Rì đuối chờ phơi
áo quần khô ráo. Không thấy lũ trẻ mặc cả lời đồn bến Rì có ma rủ
nhau ra đó chơi trò trốn tìm, áo cởi vắt trên những cành Rì oằn xuống sát đất.
Sau cuộc, kẻ thắng người thua đều nhảy bùm xuống sông bơi tắm. Không thấy mấy
sơn nữ tóc dài giặt đồ dưới bến, đem trải phơi trên thân Rì, chưa hết tiếng
cười trong veo đã đủ khô để mang về.
-Bà có qua sông không?
-…
-Dạ, bà qua sông hay muốn tìm ai?- Người lái đò hỏi đến lần
thứ hai chị mới giật mình.
-Bến Rì ở chỗ nào vậy ông?
Người đàn bà nói một mình như vẫn chưa tin: “Lạ quá!”
-Vậy sao chẳng thấy cây Rì nào cả?
Cây Rù Rì? Ừ nhỉ…bà nhắc tôi mới nhớ....-Ông lái đò nhìn
sông rồi ngước nhìn cây cầu bê-tông mới vắt ngang qua bến Rì- Từ ngày có đường
mới, cầu mới và bên Lâm Hạ chuẩn bị lên đời thị trấn thì có bao giờ sông được
yên đâu bà. Người ta đào chỗ nầy lấy cát sỏi, khoét chỗ kia lấy đất đá, bên lở
thành ra bên bồi….
Chỉ còn lại một ít chiều trên chóp núi Ấn. Hai con người,
hai ý nghĩ khác nhau. Chị nghĩ về cái thời tay cầm chai rượu trắng nhét nút
cùi bắp, tay chị giữ chặt bàn tay cha tập bước qua tấm ván nhỏ lên con đò
chòng chành lắc lư để sang bên kia sông ăn giỗ. Mạnh dạn lên. Dân bến
mà không tập lên xuống đò thì không phải là dân bến. Rồi mơ hồ vẳng lên trong
chị lời của một người con trai: Lớn lên anh sẽ đưa em ra bến Rì….Ông lái
đò thì như đang nghe lời nội kể năm nào: Ông bà mình đặt tên bến Rì là
do ở đây mọc nhiều cây Rì lắm, một loài cây sống rất giống với người dân Lâm
Yên. Mùa lũ trắng nước, mùa khô trắng đất cây Rì vẫn trơ gan cùng năm tháng
như dân làng vẫn thuỷ chung bám sỏi đá và cát trắng để tồn tại…. Tuổi nhỏ,
chưa thể hiểu hết ý khái quát trong câu nói của nội, nhưng ông biết rõ chỉ với
những cụm Rì không cao quá đầu mà trò chơi đuổi bắt, trốn tìm vẫn bao đời được
lặp lại. Cái bóng Rì chỉ đổ mát một vùng nhỏ bằng chiếc nia con mà bao người
đã nương vào đó giữa nắng trời nóng cát. Dây Rì đuối bò mềm oặt trên cát mà
chịu nóng chịu nước không chê vào đâu được. Yếu mềm thế mà Rì đã phải hứng chịu
biết bao phẫn nộ, yêu thương của thiên nhiên, con người. Chỉ vài chiếc rễ bám
vào cát, Rì vẫn hát reo cùng gió núi, ngả nghiêng đó rồi vững vàng đó. Vậy mà
khi được hỏi cây Rì mất đâu cả rồi, ông, người lái đò truyền thống của bến
Rì, lại giật mình. Nhỏ bé quá chăng, hay là con người đã quá thờ ơ với chúng,
với những gì đang tốc độ vận hành xung quanh?
-Lâu quá rồi, tôi không còn nhớ rõ giống Rì đã đi đâu về
đâu -Người lái đò vẫn khuấy đều mái chèo, đối thoại qua một không gian nước,
mắt nhìn xa xăm vào khoảng không vừa tắt nắng- Ngày tản cư khỏi làng, tôi vẫn
còn thấy bến Rì xanh dày những cây Rì tua tủa lá cành, những vùng cát trải đầy
thân lá của loại Rì đuối chỉ thấy ngọn mà không biết gốc rễ ở tận đẩu đâu.
Bom đạn xối xuống làng, những thân Rì ngả nghiêng, những thân Rì bị vùi chôn,
những thân Rì bật gốc trôi theo sông. Nhưng vẫn còn đó những cây Rì bám cát để
thử sức mình với hạn hán và bão lũ….
Chị xoay mặt về hướng người đàn ông đang chèo đò như đang
thả hồn mộng du cùng mây trời. Mái chèo vỗ nước chậm đều. Sóng xao dịu nhẹ
như chỉ một thoáng cau mày êm ái. Bến vắng. Một mảng tối nhanh chóng trùm xuống
vùng cát trắng dưới chân cầu, nơi mà ngày xưa, vào giờ nầy, trẻ già trai gái
làng Lâm Yên gần như đổ dồn về đây, thu gọn cuộc sống của làng vào một bến
sông. Người gọi người, người sang sông, người tắm rửa vội vàng, người nằm ngữa
trên cát để uống gió và lắng nghe những âm vang đì độp, chát chao của bến trời,
bến đời.
Người đàn ông tấp đò cập bến, chậm rãi bước lên bờ,
ngồi duỗi chân trên cát mịn châm thuốc, như không hề biết sự có mặt của người
khách lạ. Một vì sao sớm vừa chớp mắt trên cao. Hàng chục ánh đèn xe máy, ô
tô đan xéo nhau trên cây cầu mới chênh vênh. Tiếng máy nổ rền vang. Chị cũng
ngồi phịch xuống cát, cùng hướng nhìn với ông lái đò, chân gần chạm chân.
-Ông là người bến Rì?
-Nhưng tôi sống ở nơi khác nhiều hơn là ở bến Rì.
-Thế ông có biết cụ Xá lái đò hồi xưa còn hay mất không
ông?
Ông lái đò xoay người nhìn thẳng vào mắt người đàn bà. Ánh
mắt của khách có cái lạ của xa xôi thời gian, của khắc khoải không gian và
cái quen quen của người dân bến Rì. Điếu thuốc trên môi ông chớp lửa, thoáng
soi một chút xao động trên vẻ mặt phong trần.
-Bà là người Lâm Yên?
-Dạ,…Nhưng tôi đã xa làng từ hồi mới lên mười.
-Lên mười….À, mà sao bà biết ông Xá? Ông Xá là ông nội của
tôi. Trong chiến tranh, cha tôi vẫn thay thế ông nội chèo đò ở bến Rì được một
thời gian rồi mới mất. Còn tôi, trở về làng sau ngày hoà bình như không thể
bước qua lời nguyền, tôi lại tiếp nối cái nghề chưa hẳn là nghề của cha ông
mình. Lúc đầu, chỉ chèo giúp cho dân làng, hoặc được trả công bằng lúa, bắp,
khoai, sắn…nhưng về sau thì khấm khá hơn. Đủ sống qua ngày. Từ khi có cây cầu
mới kia- ông chỉ tay về hướng có những tiếng động lạ của máy móc- thì nghề của
tôi xem như đã già cỗi. Cũng chèo cũng chống vất vưởng qua ngày tháng vậy
thôi. Lỗi hẹn với bến rồi bà ạ….
Người đàn bà không hỏi gì thêm. Chị đang cố mà không thể mường
tượng rõ hình ảnh một ông Xá trong ký ức trẻ con. Với ông, cái còn lại sau
khi đã mất là một người đưa đò ăn ngủ với những con ma của bến Rì linh
thiêng. Trưa đứng bóng hay khuya vắng lạnh, mỗi khi có ai chụm hai bàn tay
làm loa gọi lớn đò ơi là thấy ông như mọc lên từ sông nước, lạch bạch
xuất hiện với mái chèo khua nước mỗi lúc một rõ hơn. Tóc ông Xá nổi trắng
toát trên nền đêm, không bao giờ chịu đứng yên trước những cơn gió cứ ưa chơi
trò trêu đùa trái khoáy. Chị sợ ông Xá giống như anh Tuấn sợ ông lão hớt tóc
dạo, chưa lên đò đã bắt đầu giữ cho tay chân phải nghiêm túc. Con gái
con đứa phải nết na thuỳ mỵ, trên đò không phảinhư ngoài bãi kia đâu mà muốn
đứng ngồi nhảy nhót tuỳ thích.
Thế là lần nào cũng vậy, theo ngón tay chỉ đầy quyền uy của ông Xá, chị ngồi im thít ở một góc đò lổn ngổn đồ ăn thức uống. Ở góc đối diện, đứa cháu nội của ông tay đang múc từng gáo nước nhỉ vào lòng thuyền, đưa mắt liếc nhìn chị. Được điều, ngó vậy mà ông Xá rất tốt bụng với mọi người. Chị còn nhớ, ngày theo anh Tuấn rời bến Rì nhốn nháo để tản cư khỏi làng, chính ông Xá và đứa cháu nội như hủ mắm treo đầu giàn đã tiễn chị lên khỏi con dốc đất đổ xuống bến và dúi cho chị mấy trái ổi trắng giòn, to hơn nắm tay. Hồi đó trong làng dễ mấy ai cũng có được trái ổi giống mới chỉ nhìn đã thấy thèm.
-Bà về đây là để thăm người thân hay có việc chi?
-Không, tôi không còn một người thân nào ở Lâm Yên cả. Cũng
không có công việc gì quan trọng. Vượt hàng ngàn cây số tôi về đây chỉ là để
tìm lại cái bến Rì hơn ba mươi năm trước…..
Người đàn bà định nói thêm: và một lời hứa hẹn v vơ,
nhưng đã kịp dừng.
-Chắc là bà có nhiều kỷ niệm với nó?
-Chưa hẳn thế, bởi vì khi tôi bắt đầu hiểu về nó, yêu mến
nó thì cũng là lúc phải bắt đầu xa nó….
Ánh sáng và bóng tối đều đang dịch chuyển, bắt đầu từ
bến Rì trôi ngược lên chóp núi Ấn. Vầng trăng non từ lúc nào đã núp vào bụi
tre bên bờ sông để trộm nghe câu chuyện giữa ông lái đò và người khách lạ. Có
phải họ đã nhận ra nhau từ một lần chơi trốn tìm xa ngái hay trong ký ức mù mờ
của một chuyến đò ngang? Họ đã quên hay vừa nhớ lại lời hứa vu vơ nào đó
không đủ sức tồn tại với chiến tranh? Nhưng sao họ lại chỉ im lặng
nhìn nhau mà chẳng nói gì thêm với nhau? Lâu sau ông lái đò mới nhã nhặn mời
khách về nhà mình để nghỉ qua đêm. Khách đồng ý nhưng xin được ngồi lại với bến
Rì cho đến khi có đủ trăng. Ước mơ nhiều khi chỉ giản đơn như thế đấy, giản
đơn đến không ngờ. Chị chỉ cần có vậy thôi đối với một chuyến đi dài hơn ngàn
cây số.
Đêm. Bến Rì đang bắt đầu đời sống riêng với bài ca muôn thuở
của lũ côn trùng trên cạn dưới nước. Thiếu tiếng chiếu giặt đập bì bộp và tiếng
trẻ con reo đùa. Nhưng dẫu sao thì bến Rì vẫn nguyên vẹn còn đó. Chiến tranh
hay hoà bình, bến Rì còn hay mất, cây cầu bê-tông trên cao kia có hay không,
lúc còn nhỏ hay khi đã ở vào cái tuổi sắp tri thiên mệnh như chị bây giờ, bến
Rì vẫn tồn tại một bản hoà tấu riêng quen thuộc. Có thể một cung bậc nào đó bị
khuyết mẻ hay mất đi, có thể những cung bậc mới đã thay thế hay đang vặn mình
để thay thế, nhưng rồi chị vẫn nhận ra sự ngân vang của nó, như nhận ra chính
mình giữa bộn bề công việc làm ăn và gia đình. Ngồi với sông với bến và đêm
thế nầy, chị càng cảm thấy mình như được gạn lọc các chất tạp để được còn lại
là chính mình, giống một nghệ nhân miệt mài uốn tỉa để có được cái dáng cây
ưng ý. Trăng trên cao, núi rừng sau lưng, sông bến phía trước và cả phố thị
ngày ngày cuốn chị vào một vòng xoáy vô hình nào đó đều đang vận hành dữ dội
để được có mặt tại đây, tại cái bến Rì gần nửa đời gặp lại. Và chị, một chấm
nhỏ giữa cát mờ đục và mênh mông đất trời, là điểm ngưng tụ.
-Tôi chờ bà….
Người lái đò vừa nói vừa thong thả bước nhẹ về phía sông.
Những dấu chân trên cát đọng những vùng tối mờ ảo. Thuyền chầm chậm rời bến rồi
ngược dòng. Mọi tiếng động đều rất khẽ, như không muốn phá vỡ khoảnh khắc
giao hoà giữa tơ trời và tơ lòng . Thuyền không khách, chẳng biết rồi ông sẽ
bơi về đâu. Dáng ông cao cao nghiêng nghiêng nổi một phần trên nền trăng đã rải
đến tận bãi cát đầu cầu.
Chỉ còn lại mình chị, với đêm, với trăng, với cái bến Rì
năm xưa, và lời hò hẹn trong tâm tưởng. Thì đêm nào cũng có gái trai hẹn hò
nhau, cứ rủ rỉ rù rì cả đêm nên gọi là bến Rì chứ sao? Có phải như
cách giải thích của ông Sang giỏi kể chuyện tiếu lâm nhất làng hay không mà
suốt đời chị cứ bị ám ảnh? Ít ra thì ông Sang cũng có phần đúng, chị đã từng
theo mấy người lớn tuổi hơn đi rình nghe những cặp tình nhân nói chuyện với
nhau bên những bụi Rì không đủ sức che giấu họ. Có lúc lộ chân tướng bị cát
níu chân chạy không nổi vẫn phải chạy. Còn những lúc không bị lộ cũng có nghe
được họ nói gì đâu. Nếu không bị gió núi, tiếng sóng hay tiếng côn trùng đồng
loã át đi thì cũng chỉ nghe rủ rỉ rù rì thật, như đôi chim câu mớm tình cho
nhau trước giờ hưởng lạc. Rồi đến lượt chị, khi đã biết buồn vui vì một lời hứa,
dù rất vu vơ, thì cái bến Rì thuộc về ký ức tuổi thơ bỗng có một vòng cầu vồng
ngũ sắc vắt qua. Nhìn thấy đó, đẹp lắm, mà không biết nó có mặt lúc nào, bắt
đầu từ đâu, kết thúc ở đâu. Phải vậy chăng mà một đời lỗi hẹn, thứ ngôn ngữ
không thành ngôn ngữ ấy cứ bám theo, ám ảnh chị đến ray rứt bần thần, cả những
lúc buồn nhất hay vui nhất với công việc làm ăn, tất bật tranh sống.
Mờ đục sương đêm đã nuốt chững cái bóng của người lái đò.
Nhìn theo hướng ấy, chị chỉ còn thấy những lá Rì đuối trải lót chỗ ngồi, những
thân Rì cây cố trườn người vươn bóng để che giấu cho đôi tình nhân yên bình
trò chuyện. Bóng của họ khi thì hai, lúc lại nhập vào nhau, tiếng cười của họ
trong như sông buổi sáng, lãng mạn như bến về khuya. Chị, đứa con gái mười tuổi,
vẫn không giấu được những thoáng xao xuyến, đỏ mặt khi nghĩ đến cái ngày mình
sẽ lớn lên như những anh chị gái trai trong làng….
Lớn lên anh sẽ đưa em ra bến Rì. Bằng lòng lấy tôi, em sẽ
có tất cả: giàu sang, quyền lực, địa vị xã hội….Để xem anh nhảy từ nhánh cây
thị ùm xuống sông, mang theo vào bờ hương thị thơm lừng? Tình yêu, làm
gì có tình yêu. Cô lầm rồi đó. Không, không phải,…nhưng mà…ừ,… đúng rồi! Ngày
mai cô phải nói với mọi người rằng, cái vết bầm trên mặt là do cô sơ ý bị
ngã….Và anh sẽ nói với em rằng, có một đôi tình nhân đang hò hẹn bên gốc Rì đằng
kia. Không đúng sao mà cô ngồi thừ cái mặt ra đó? Còn uy tín xã hội của
tôi, còn sự nghiệp mà cả đời tôi đã dày công tạo dựng….Đi-anh cầm bàn tay lần
đầu biết run- ta đến đó đi em….
Chị giật mình, không phải quá khứ-hiện tại đang đối thoại.
Không phải một mình chị đang ngồi với sông, với đêm. Có tiếng mái chèo khua
nước trở về, rất nhẹ. Trăng đã tràn không gian. Dáng người lái đò hơi
nghiêng, nổi cao khều trên nền trăng mờ đục. Một cây Rì tua tủa cành, lá lóng
lánh sắc màu trăng huyền ảo, đang nằm trong lòng thuyền.
Bến Rì, sóng xao dịu nhẹ….
|
Tiêu
Đình
|
Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2016
Sóng xao Bến Rì
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Khúc hát Marseilles
Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
eva air việt nam
vé máy bay đi mỹ rẻ
hãng korean air
vé máy bay đi mỹ hãng nào rẻ nhất
giá vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich