PHẦN THỨ BA
XIII
Thiền không phải là suy tư về
những vấn đề triết học, Steve ạ, nhất là lối suy tư với hy vọng tìm ra giải
đáp. Thiền là gieo những vấn đề lớn nhất của cuộc đời vào chính mảnh đất của bản
thể mình, của tâm hồn mình, của máu huyết và xương tủy mình. Thiền là nuôi nấng
bằng trọn con người mình - nếu quả thực mình có một vấn đề khẩn thiết. Rồi thiền
cũng có khi là một cuộc đấu tranh thập tử nhất sinh trong một khoảnh khắc nào
đó để được sống hay để được trở lại trong giòng lưu chuyển sâu thẳm. Có những
giây phút gian nan hiểm nghèo quyết định cả một đời mình nhưng chẳng có ai hay
ai biết. Mình hoàn toàn cô độc. Lại có những buổi công phu phải quán tự tâm,
khi thì những thắng lợi xẩy ra liên tiếp, khi thì hiểm nguy đe dọa, khi thì thất
bại nằm chết cứng một mình. Nhưng mà Steve đừng nghĩ thiền là những thứ tôi vừa
kể đó. Những thứ tôi vừa kể đó thể chỉ để dành riêng cho tôi thôi. Để tôi nói
chuyện này cho Steve nghe. Hãy tưởng tượng chúng ta là những đứa bé con đi chơi
và gặp một ông già đang ngồi câu… trên một bãi cỏ xanh. Ông ta câu rắn. “Bãi cỏ
xanh mướt như thế này đáng lẽ có thể trồng bao nhiêu thứ hoa đẹp. Nhưng mà có
những con rắn nằm phía dưới. Lão phải câu tất cả chúng nó lên, và đập chết hết,
trước khi chúng ta có thể vun bón khu vườn”. Rồi ông già kể cho chúng ta nghe
kinh nghiệm câu rắn của ông ta. Cónhững con rắn con, nằm trong những
cái hang con. Khi nhử chúng lên được trên mặt đất thì chúng nằm quay ra chết,
khỏi cần đánh đập gì hết. Lại có những con rắn lớn. Câu chúng lên, phải cẩn thận.
Nếu không đủ sức đập chúng chết, chúng sẽ cắn mình trước, và mình ngã quỵ. Vì vậy
phải biết mình biết ta. Phải biết lúc nào mình đủ sức, lúc nào mình không đủ sức.
Lại có những con rắn cần được câu lên một lúc hai con, để chúng nó tự tiêu diệt
nhau, khỏi phải nhọc sức mình đánh đập. Chúng ta thích thú nghe ông già kể chuyện
và ngồi chứng kiến, tuy chúng ta có hơi sợ sệt. Có nhiều lúc thiền định nó giống
như vậy đó Steve. Dưới đáy tiềm thức anh, từ vô lượng vô biên kiếp, đó là nói
theo kiểu nhà Phật - có những con rắn, hoặc những con ma, hoặc những con gì đó
mà ta không thể gọi tên. Có người gọi làtriền là sử là tập.
Chúng nằm ở đó và chúng chi phối. Vậy muốn được tự do ta phải mời chúng lên
chơi trên mặt phẳng ý thức. Cũng không phải là để đánh đập chúng như trường hợp
ông già câu rắn kia đâu. Chúng tôi cần nhận diện chúng, đối thoại với chúng, và
nói với chúng rằng chúng ta không sợ chúng, bởi chúng ta là bạn chúng. Thế mà rồi
chúng sẽ trở nên dễ thương hết chỗ nói đó Steve. Còn nếu không thì chúng vẫn tồn
tại như là những mối đe dọa thường nhật của mình. Điều cần yếu là mình không
nên sợ đối diện chúng. Và chỉ cần cẩn thận, biết lúc nào là lúc mình có thể mời
chúng đến chơi. Thế thôi. Nghĩa là mình phải sẵn sàng. Thiền là sẵn sàng. Cũng
gần như hướng đạo sinh vậy. Phải sẵn sàng. Nhưng mà muốn sẵn sàng thì phải có
công phu sắp sẵn. Ví dụ bây giờ có người nói với Steve: tôi cho anh biết độ hai
ngày nữa thì anh chết. Nếu Steve tin người đó chắc là Steve sẽ cuống lên. Bởi
vì Steve không sẵn sàng. Không phải là không sẵn sàng để chết mà là không sẵn
sàng để mà có phản ứng thông minh nhất đối với cái ý tưởng kia. Cũng như bây giờ
người ta cho biết cái cô Hạnh Trí Tử mỹ miều kia không chịu yêu Steve nữa và đã
đi theo một người con trai khác, thì Steve cũng thấy rõ là mình chưa sẵn sàng để
mà đối phó với một ý tưởng như vậy. Và không sẵn sàng cho nên Steve sẽ không biết
đặt chân đặt tay vào đâu cho phải khi xúc sự. Và Steve chuốc lấy nhiều khổ đau.
Lý do quan trọng nhất khiến
cho Steve không sẵn sàng là sự sợ hãi những ý tưởng đó, sự ghét bỏ những ý
trong đó. Steve không thích nghĩ đến cái chết của mình cũng không khí thích
nghĩ đến cái phụ bạc có thể có của Hạnh Trí Tử. Xin lỗi Steve nhé, tôi lấy ví dụ
chơi vậy mà thôi. Vì không thích, cho nên Steve cứ dìm chúng xuống dưới cát để
có cảm tưởng là chúng không thể có. Nếu bây giờ Steve mời chúng nó ra trình diện
và cười với chúng, thế là mọi việc xong xuôi. Nhưng mà cũng không dễ lắm đâu, hỡi
người bạn trẻ tuổi của tôi.
Mới hôm đầu tháng đây đi qua
Giác Minh tôi ngạc nhiên thấy Lý ngồi trong phòng khách, hai tay bị còng lại.
Thứ còng có khóa rất chắc. Xung quanh Lý các bạn bè ngồi đông toàn là những nhà
văn, nhà báo. Báo của Lý bị đóng cửa từ mấy tháng nay rồi, nhưng mà Lý vẫn tiếp
tục cuộc vận động dư luận, không chịu thua. Chúng lùng bắt Lý. Đã có lần Lý cải
trang đi tạm trú ở miền Gia Định. Khi Lý trở về xin tạm trú ở Giác Minh, không
ai cho phép Lý đi ra khỏi chùa. Thế mà hôm đó tự dưng Lý ra khỏi chùa. Lập tức
hai người lạ mặt đến xốc tay Lý kéo đi. Lý la lớn lên. Người bên đường đổ xô lại.
Hai người lạ mặt vội vàng áp Lý tới cột trụ xe buýt và khóa còng hai tay Lý vào
rồi lẫn mất. Những người bên đường xúm lại đưa bổng Lý lên cao luồn tay ra khỏi
cột. Và với hai tay bị còng như thế, Lý trở về Giác Minh, yêu cầu gọi các bạn lại.
Có người đang đi gọi thợ sắt để chặt chiếc còng. Cổ tay Lý đỏ bầm. Thấy tôi, Lý
cười. Cổ tôi khan lại, không nói ra tiếng. Như thế này thì còn trời đất gì nữa.
Giữa ban ngày ban mặt, lúc một giờ trưa, ngay trong khu đông đảo nhất của thành
phố.
Steve ơi, chúng tôi đang tiếp
tục đi tới đây. Những sẽ gì xảy ra cho chúng tôi ở đàng kia, chúng tôi chưa biết.
Nhưng chúng tôi đặt niềm tin ở khả năng con người, dù con người có tỏ ra ác độc
đến mấy đi nữa. Kẻ thù của chúng ta không phải là con người; kẻ thù của chúng
ta là vô minh, là cựu thù.
Thôi, để tôi đưa Steve vào
làng thăm để quên đi trong giây lát tất cả những vấn đề gay go đó. Steve xem,
đây cũng là một làng nước mặn, thành ra vấn đề nước uống là một vấn đề lớn lao
của làng. Người ta phải “đổi” một đôi nước tới ba đồng bạc, khi xe nước ngọt
chèo tới và dân làng đem thùng và quang gióng ra để “đổi”. Người ta dù chữ “đổi”
để khỏi dùng chữ “mua”, bởi vì nếu có người “mua nước” thì phải có người “bán
nước” điều mà không ai muốn xảy ra cả. Steve xem, người dân quê yêu nước biết
chừng nào! Steve đi qua con đê này và rẽ về phía bên trái. Cái hồ nước xây bằng
đá này có thể chứa sáu thước nước, do dân làng góp và xây nên với sự trợ lực của
chúng tôi. Một cái đơn do dân làng ký đã được bộ Công Chánh chấp nhận. Thế là
lâu nay cứ mỗi tuần ba lần xe Công Chánh về ghé đổ nước ngọt vào hồ nước. Dân
làng chỉ có việc ra gánh.
Tuy vậy vấn đề nước chỉ khó
khăn trong mùa nắng thôi Steve. Về mùa mưa, nước sông trở thành nước ngọt và nước
mưa hứng được có thể dùng dư dả. Đám đất lớn phía tay trái kia đã được dân làng
khai phá trồng trọt; hoa mầu được chia đều cho nhau dù đó không phải là đất của
người trong làng. Đất đó là đất chính quyền bỏ hoang từ bao nhiêu năm. Có những
thứ cây cối có thể chịu được nước mặn, nhưng mà có những thứ cây phải chờ đợi đến
mùa mưa mới có thể trồng trọt được. Bé Lê ở trong làng bảo là có những cây bầu,
cây bí nếu ta tới từ nước sông (mặn) pha với nước mưa (ngọt) cho chúng thì
chúng cũng quen dần với nước mặn và cuối cùng có thể chấp nhận được nước mặn.
Cũng hay nhỉ. Steve có muốn về đây để tôi tưới cho một ít nước mặn, xem thử cậu
có chấp nhận được không nào?
Dân làng đã bắt đầu trồng nấm
rơm để bán theo phương pháp chỉ dẫn. Nhưng mà rơm năm nay đắt rồi; số ruộng được
canh tác giảm xuống thật nhiều trong toàn quốc. Phải để dành rơm cho trâu bò
ăn, nhất là trâu, cho tới mùa gặt mới. Có nhiều gia đình đã thực hiện chương
trình nuôi gà, và họ đã thành công. Ban đầu, khi chúng tôi đề nghị nuôi gà, nhiều
nhà lắc đầu. Gà của họ nuôi chết hoài. Họ nói: đất nước mặn, gà đi kiếm ăn cứ bị
bệnh chết. Chúng tôi biết không thể thuyết phục họ bằng lời, nên tự xuất vốn
nuôi một trăm con gà bằng lồng úm. Chúng tôi mượn nhà bé Lợi để thực hiện công
tác trình diễn chứng minh. Bé Lợi chưa bao giờ thấy một cái lồng nuôi gà có hệ
thống lò sưởi, nên tò mò lắm. Chúng tôi sưởi lồng bằng đèn bão. Gà con thì
chúng tôi mua giống New Hamsphire. Thực phẩm của gà chúng tôi mua nhiều bao lớn
đã được trộn sẵn. Những con gà con lớn lên mau như thổi. Chúng tôi theo đúng
phương pháp chăm sóc, vệ sinh cho gà, nhỏ thuốc lỗ mũi cho gà, vân vân… Sau đó
ba tuần, chúng tôi bắt đầu đem dụng cụ về làng đóng những chuồng gà tơ và gà
giò. Bởi vì không mấy lúc nữa, gà con trở thành gà tơ. Nhà của bé Lợi luôn luôn
có khách ra vào. Bác Ba, thím Tư, bà Bảy ai đến thăm cũng ngạc nhiên khi thấy
gà lớn như thổi mà không chết con nào. Một đồn mười. Thế rồi chúng tôi được hỏi
ý kiến. Năm ba gia đình quyết định nuôi gà để kiếm tiền lợi tức.
Mọi công tác ở các làng thí
nghiệm đều được thực hành theo kiểu đó nghe Steve. Ban đầu thì phải nghiên cứu
về tình trạng chung của làng về các mặt y tế, giáo dục, kinh tế, xã hội. Rồi
tùy theo tình trạng mà bắt đầu công cuộc cải tiến. Phải đánh thức ước muốn của
dân làng dậy bằng những công tác trình diễn chứng minh. Và tự nhiên dân làng hưởng
ứng. Tuy vậy cũng công tác đầu phải làm ở nhiều làng vốn không phải là những
công tác y tế và giáo dục. Trong thành phần giảng viên của trường Xã Hội, có một
vị tăng sĩ mà chúng tôi gọi là thầy Tám: vị này chứng tỏ một khả năng thu phục
nhân tâm rất lớn. Chúng tôi đôi khi cũng gọi đùa thầy là “bách khoa tự điển” bởi
vì ông biết thật nhiều chuyện. Có lẽ chuyện gì ông cũng biết. Từ tiếng Pháp tiếng
Anh, tiếng Miên cho đến thuốc Tây, thuốc Bắc, thuốc Ngoại Khoa; từ việc trồng
cam trồng bưởi cho đến việc gieo hạt bí hạt bầu, từ dạy học cho đến coi sóc
công trường kiến trúc. Chính ông sẽ coi sóc họa đồ và điều khiển việc xây cất
trường Xã Hội của chúng tôi. Trong một làng thí điểm kia, mỗi lần thầy Tám về,
ông chỉ mang theo một cái gói nhỏ trong đó có đựng cau, trầu, một ve dầu gió bạch
tượng, vài trái chanh, một ít bông gòn và vài cái kim. Thế mà được việc bằng mấy
các cô cậu khác. Ban đầu thì thầy tìm tới nhà một người bị bịnh ban, một cậu bé
chẳng hạn. Thầy cạo gió, và nếu cần thì “cắt”. Cắt có nghĩa là chích lễ, một loại
châm cứu giản dị. Thầy dùng lá trầu hoặc một múi chanh. Ít khi thầy dùng tới
thuốc uống hay thuốc chích. Mà lạ quá, người bịnh nào được thầy “hành nghề’
cũng mát ra, và qua được cơn nóng. Tài thật. Thế rồi thầy mở khăn gói ra, ngồi
trên bức ngựa, lấy trầu nhai bỏm bẻm, mời mọi người trong gia đình. Rồi thầy
nói chuyện mưa gió, mùa màng, thời tiết. Chuyện gì thầy nói cũng hay, thế mới lạ
chứ. Dân làng mê thầy. Và hàng xóm ai bị bệnh đều mời thầy tới. Hầu hết cả xóm
đều là người chịu ơn thầy, một cái ơn nhỏ nhưng mà thật bền chặt. Và thầy đề
nghị cái gì, dân làng cũng sốt sắng hưởng ứng, Steve ạ. Ở mỗi làng Việt Nam đều
có một ngôi chùa và một ông thầy chùa. Nếu thuyết phục được ông thầy theo phong
trào cải tiến nông thôn thì chắc là không bao lâu phong trào phải thành công.
Khỏi phải tâm lý chiến, ấp chiến lược gì lôi thôi. Có phải không. hiện giờ
chúng tôi rất cần chuyên viên, và chúng tôi phải lo đào tạo. Lấy kinh nghiệm của
thầy Tám, công tác đưa vào chương trình học tập của trường môn thực hiện ngoại
khoa. Người công tác viên xã hội sau này cần phải nói chuyện hay như thầy Tám,
đến với dân làng dễ dàng tự nhiên như thầy Tám. Điều đó quan trọng hơn những kiến
thức có tính cách bác học mà thiếu giá trị thực dụng. Khinh thường kho tàng
kinh nghiệm của dân quê tức là mua chuốc lấy thất bại. Phải xem kỹ thuật mới
như một cái gì đi đến bổ túc, chứ không phải để bài bác, những kinh nghiệm và
phương pháp truyền thống. Chúng tôi có ý muốn kết nạp những thanh niên nam nữ gốc
ở hương thôn hơn là ở thành thị, bởi vì họ có khả năng hiểu biết và đến với người
dân nông thôn dễ dàng hơn.
Ngôi trường mà Steve thấy
đây không phải là không có một lịch sử kỳ thú đâu nhé. Ban đầu, một cộng tác
viên về làng, và làm quen với vài em bé trong lúc chơi đùa, câu cá, hát hò. Rồi
anh công tác viên đó hỏi thăm về sự học hành của các em, và rốt cuộc là các em
bằng lòng để hco anh dạy cho mà học thay vì đi chơi rong suốt ngày. Họ ngồi dưới
gốc cây, kê một tấm gỗ để viết chữ. Thế rồi chỉ một tuần sau, số học trò tăng
lên mười mấy em. Một “bác” phụ huynh thấy thương, liền gọi tất cả vào nhà ngồi
học. Họ được phép sử dụng bức ngựa bên chái. Thế là họ tách năm tấm ván ra, lấy
gạch kê làm năm chiếc ghế dài. Còn dư chỗ cho bốn năm em. Mấy tuần sau trẻ em tới
đông thêm. Không khí học tập vui vẻ hăng hái. Phụ huynh mừng rỡ thấy con mình
được học để sau này có “dăm ba chữ”, khỏi thua kém con người ta. Họ thương thầy
giáo lắm. Steve biết sao không, ở Việt Nam chúng tôi chịu ảnh hưởng
Nho giáo khá sâu đậm. Ngày xưa, ông vua là quan trọng hơn hết, rồi mới đến ông
thầy, rồi mới đến ông cha. Quân, Sư, Phụ tức là “tam cương”. Chắc chắn là
Steve biết dư điều đó, tôi khỏi cần phải xổ nho ra nữa. Vì vậy địa vị của ông
hương sư rất là quan trọng, bởi vì ông ấy thay thánh hiền để dạy chữ nghĩa đạo
đức cho con cháu. Cho nên người công tác viên xã hội nếu bắt đầu bằng công tác
giáo dục, sẽ chiếm được chỗ khá tốt trong lòng người dân làng. Nhất là khi anh
có thể dạy cho trẻ em thêm phép tắc ngoan ngoãn. Anh được các môn đệ bé tí của
anh mời về nhà chơi, và cha mẹ các môn đệ ấy bao giờ cũng đón tiếp “thầy” của
con mình một cách niềm nở. Thế là anh có dịp tuyên truyền cho chương trình cải
tiến sinh hoạt nông thôn, một cách gián tiếp và kín đáo, cố nhiên, và tiếng nói
của anh sẽ rất dễ lọt vào tai người đã sẵn có cảm tình với anh.
Khi học trò đông quá mà chỗ
học thiếu thốn, các phụ huynh họp lại để giải quyết vấn đề trường ốc; có khi họ
tự động làm như thế mà khỏi phải có ý kiến của người cộng tác viên. Một buổi họp
như thế cố nhiên đưa đến kết quả là sự quyết định dựng một ngôi trường cho
làng. Và người thì cho tre, người thì cho gỗ, người thì cho gạch, người thì cho
công. Vật liệu không hiếm. Ban đầu chỉ cần là trường bằng tre, tranh và đất
thôi. Khi mà dân làng ý thức được sự cần thiết, thì tự nhiên khả năng của thôn
quê để tự cải tiến trở nên lớn lao. Người dân không nghèo như họ tưởng hay như
chúng ta tưởng, ít nhất là trong tiềm năng của họ và của xứ sở họ. Đó, cái ngôi
trường bốn gian mà Steve thấy đó là của chính họ làm ra. Họ không cầu xin của
Chính phủ hay của viện trợ một xu nào. Hiện giờ đã có tới hai giáo viên là người
làng, những giáo viên khác cũng sẽ thay thế bằng dân làng khi điều ấy trở thành
có thể.
Có năm sáu thanh niên nam nữ
trong làng tham dự sốt sắng vào công việc xây dựng và cải tiến. Có một cậu mười
lăm tuổi tên là Mười - có thể nói nó là một cộng sự viên đắc lực. Cha của Mười
mất rồi. Mẹ nó cũng vậy. Mẹ của nó bây giờ là mẹ ghẻ. Nó có một đứa em gái chín
tuổi rất kháu khỉnh dễ thương, cùng cha khác mẹ. Nó làm nghề “cày đáy” nghĩa là
chài lưới. Từng đó tuổi mà gánh vác việc gia đình như một người lớn. Và nó cũng
cư xử như một người lớn. Steve biết không, buổi sáng trước khi cho thuyền đi,
nó cũng uống rượu “cho ấm bụng”. Và những buổi chiều thuyền về, trong khi em nó
lo bán mẻ cá, nó ngồi “nhâm nhi” be rượu, khề khà như một ông lão. Tội
nghiệp quá. Việc làm thì nặng nhọc. Bà dì ghẻ thì không ấm áp ngọt ngào. Không
có một thứ giải trí lành mạnh nào. Không có phòng đọc sách, không có đàn hát,
không có truyện kiếm hiệp, không có hội hè, bạn hữu đồng điệu, không có thể
thao, bóng chuyền, bóng bàn… Chỉ có uống rượu và đánh bạc. Em gái nó, con Mười
Một, là học trò trường Chim Sơn Ca. Có một hôm tới trường hai mắt đỏ hoe. Cô
giáo hỏi vì sao. Nó nói anh nó bỏ nhà đi gần một tuần nay không chịu về. Hỏi nó
thằng Mười đi đâu. Nó nói: nghe người ta nói anh nó xin vô làm công trong hãng
sắt nguội trên Saigon. Khi tôi nghe câu chuyện, tôi nói. Chết rồi, thằng
bé bị đô thành quyến rũ mất rồi. Để em nó lại đây ai nuôi. Hay là để cho cái bà
dì ghẻ thiếu cảm tình ấy? Nó, nó thương em nó hơn là mẹ con bé thương.
Hơn một tháng sau, cô Chín,
một trong các hướng dẫn viên thực tập ở làng, gặp Mười đang đi trên một con đường
miệt Hàng Sanh. Mới đầu Chín không nhận ra nó, bởi vì nó mặc áo sơ mi rằn ri và
quần cao bồi. Nó đi với một thằng bạn có vẻ mặt rất là Saigon. Có vẻ mặt
Mười thì vẫn còn mang cái nét thơ ngây non non dại dại nhà quê. Con mắt nó vẫn
còn chứa đựng sự ngơ ngác. Chín đã tới và hỏi: Có phải em là em Mười không. Nó
thấy Chín thì mừng và nói: “Phải. Chị đi đâu vậy”. Và nó nói với thằng bạn.
“Thôi mày đi chơi một mình đi, để tao gặp người quen”. Chị Chín đưa nó vào một
quán cà phê. “Này Mười, bộ lâu nay em đi làm được nhiều tiền lắm hả”. “Đâu mà
có, chị. Làm ở sắt nguội cũng đủ ăn mà thôi, không hơn gì ở làng”. “Vậy tại sao
em bỏ làng mà đi”. “Tại buồn lắm chị Chín ơi. Cả đời như vậy hoài không có gì
vui hết. Rồi mai mốt em đi lính, thế là xong”. “Vậy chớ em để con Mười Một một
mình à? Mày không thương em mày sao, hả Mười?” Nó yên lặng, lúng túng. Chín
không khuyên nó trở về làng ngay, mà chỉ hỏi xem nó làm tại hãng nào để thỉnh
thoảng lại thăm. “Em làm ở sở B.S. gần Đakao đó chị”. Chín hẹn trưa thứ bảy tới
đón nó đưa về làng thăm em. Nó nhận lời.
Từ đó ở làng có những buổi
văn nghệ do học sinh tổ chức với sự tham dự và hướng dẫn của các giáo viên, các
người bạn trẻ của làng từ các nơi tới. Có khi học trò trường Tình Thương bên
làng Thảo Điền qua tổ chức, rồi thì học trò bên này đáp lễ. Muốn tổ chức “văn
nghệ” lúc nào cũng được. Dân làng lớn tuổi mà cũng tham dự thật tình. Nhiều người
biết ca sáu câu vọng cổ. Những buổi chiều mát, ở gốc cây dừa. Những buổi sáng
trăng. Tủ sách của làng bây giờ có nhiều sách đọc giải trí. Và vô số tiểu thuyết
kiếm hiệp. Lại có cả trọn bộ “Cô gái Đồ Long”. Buổi tối trong gia đình, tiếng
thỏ thẻ của các em bé đọc tiểu thuyết Tàu tạo nên một không khí ấm cúng. Rồi
thì có bóng bàn, bóng rổ. Các ông “cụ non” trong làng bắt đầu say mê những thứ
giải trí mới, và bỏ dần uống rượu đánh bạc. Chị Chín dọa các cậu “Tôi sẽ xúi
con gái ở các làng bên không thèm lấy các cậu. Lấy các cậu để rồi các cậu rượu
chè be bét làm khổ gia đình ấy à. Mới mười ba, mười lăm tuổi mà đã uống rượu”.
“Đừng làm ác, chị Chín à; có cậu trả lời. Mà thiếu gì con gái. Tụi tui sẽ đi cưới
con gái làng thật xa. Nhưng mà nói chơi đó chị Chín. Buồn thì tụi tui uống chút
chơi, chớ có say sưa gì đâu. Bữa nay có giải trí lành mạnh rồi thì không uống nữa
cũng được”.
Cậu Mười của chúng ta ngày
nay đã trở về làng rồi. Khỏi phải nói, con em gái nó mừng hết sức Mười cũng đã
trở lại nghề chài lưới. Những thời gian còn lại trong ngày, nó dùng để hoạt động
cho phong trào làng. Nó có vẻ đàn anh lắm. Bọn trẻ con rất thích. Nó thích tổ
chức thiếu nhi nông thôn, thích chơi bóng chuyền; nó tập đánh đàn măng-đô và rất
say văn nghệ. Giọng nó không tốt lắm, nhưng nó rất ưa ca hát.
Steve ơi, tôi là người rất
tha thiết đến việc làm làng nhưng mà tôi thấy tôi thua kém thầy Tám cô Chín và
rất nhiều người khác. Nhìn những thắng lợi liên tiếp của những người trẻ có
lòng kia, lòng tôi thấy phấn khởi và hy vọng hơn. Thì ra rôi là người được thừa
hưởng cái kết quả trước hết, chớ không hẳn đã là người dân nông thôn. Anh được
yêu mến, được chấp nhận, được tin cậy. Anh lại sống có hy vọng, có ước mơ. Thế
thì anh còn đòi hỏi gì nữa. Chính anh là người thừa hưởng công trình của anh
trước hết, bất cứ thứ công trình nào mà anh có thể gọi là công trình. Điều đơn
giản đó, gieo ngô được ngô, gieo đậu được đậu, thế mà cũng phải lao đao lắm mới
chứng thực được nó.
Steve ơi, cái không khí
Phương Bối phãng phất ở đâu đây, trong khi chính Phương Bối thì bị cô lập hóa
trên miền núi rừng Bsu-Danglu lặng lẽ. Có lẽ vì có những con chim cũ của Phương
Bối hay lui tới, nhất là ở những làng quê như làng này. Mà có lẽ là tại Phương
Bối ngự trị nơi lòng của mỗi người. Phương Bối là tình yêu. Là hy vọng. Một
ngày nào đó chúng tôi mong sẽ được đoàn viên trong chiếc nôi bông đá, hoa rừng
và cỏ dại ấy. Những khu làng tương đối yên tĩnh như khu làng này ngày mai có
còn được yên tĩnh nữa không? Sự dựng xây phải được thực hiện từng chút từng
chút với tất cả công phu. Những sự phá đổ thì không cần đi từng bước một. Một
vài phút, một vài giờ đồng hồ, thôi thế là tất cả tiêu tan. Chiến tranh không
tôn trọng một giá trị nào, kể cả những giá trị truyền thống và nhân dân. Và nhất
là nó tiêu diệt hy vọng…
XIV
Trời nóng quá Steve ơi. Mỗi
lần về được đến làng rồi tôi sung sướng như là được bơi lội trong một giòng
sông mát. Ở đây có nhiều gió. Nhìn đồng lúa và rạch dừa xanh là có thể thấy thoải
mái rồi. Cái nơi chúng tôi cư trú ở Saigon thật là tệ quá. Nóng không
chịu nổi. Chúng tôi ở tận trên gác nhì. Tràn nhà bằng giấy và nẹp gỗ. Chật chội
lắm. Thế đó mà không nóng bức sao được. Buổi trưa chúng tôi cứ phải mặc áo ngắn
xuống ngồi ở dưới gốc cây cau cho đỡ bức. Ăn uống không được. Ông Tư hàng xóm
xúi tôi đặt một cái máy lạnh trong phòng. Đặt cái máy lạnh trong phòng thì tốn
một số tiền nào đó, nhưng mà mình sẽ làm việc bằng hai, thế có lợi không! Ông
Tư nói tới chuyện lợi hại; ông cũng có lý một phần nào đó. Quả thật trời nóng
như thế chẳng viết lách soạn chấm gì được. Mình cũng thấy bị xiêu xiêu.
Nhưng mà nghĩ lại thì không được. Không thể nào được. Không phải là vì cái máy quá đắt. Ông Tổng thư ký nói có thể mua một cái thứ ít tiền được. Nhưng mà ở trong cái xóm nghèo đó mà mình có máy lạnh đặt trong phòng thì thật là không biết đồng sự một chút nào. Thiên hạ sẽ nhìn bằng con mắt gì. Cái xe hơi của trường là một cái xe cũ, cái mã của nó còn có thể chấp nhận được không ai nói gì. Nhưng mà một cái máy lạnh, thì thật là… nhìn cao quá. Tôi liền kiếm giải pháp khác. Phía trước có nhà anh Bảy, có gác. Ảnh độc thân. Buổi sáng xách mô-tô đi làm, chiều tối mới về. Ảnh bằng lòng cho tôi sử dụng nhà trong lúc ảnh đi vắng. Thế là tự nhiên tôi có cả một lâu đài. Lâu đài này rộng chừng bốn thước dài chừng chín thước. Phía dưới mát hơn trên gác nhiều. Những lúc cần viết lách, tôi sang bên ấy, với một chiếc chìa khóa anh Bảy cho. Khi nào muốn trốn khách để có thì giờ làm việc tôi cũng sang bên ấy. Steve đừng lấy làm lạ khi nghe tôi nói đến chữ “trốn khách”. Thường thường bên này mỗi khi đến khách cứ đến tự nhiên, chứ không gọi điện thoại hay hẹn gặp trước. Vì thế mình đi trốn chẳng có tội lỗi gì cả, chỉ trừ giờ mình phải ngồi ở chỗ bàn giấy. Tôi ghét cái bàn giấy nhất, Steve à.
Nhưng mà nghĩ lại thì không được. Không thể nào được. Không phải là vì cái máy quá đắt. Ông Tổng thư ký nói có thể mua một cái thứ ít tiền được. Nhưng mà ở trong cái xóm nghèo đó mà mình có máy lạnh đặt trong phòng thì thật là không biết đồng sự một chút nào. Thiên hạ sẽ nhìn bằng con mắt gì. Cái xe hơi của trường là một cái xe cũ, cái mã của nó còn có thể chấp nhận được không ai nói gì. Nhưng mà một cái máy lạnh, thì thật là… nhìn cao quá. Tôi liền kiếm giải pháp khác. Phía trước có nhà anh Bảy, có gác. Ảnh độc thân. Buổi sáng xách mô-tô đi làm, chiều tối mới về. Ảnh bằng lòng cho tôi sử dụng nhà trong lúc ảnh đi vắng. Thế là tự nhiên tôi có cả một lâu đài. Lâu đài này rộng chừng bốn thước dài chừng chín thước. Phía dưới mát hơn trên gác nhiều. Những lúc cần viết lách, tôi sang bên ấy, với một chiếc chìa khóa anh Bảy cho. Khi nào muốn trốn khách để có thì giờ làm việc tôi cũng sang bên ấy. Steve đừng lấy làm lạ khi nghe tôi nói đến chữ “trốn khách”. Thường thường bên này mỗi khi đến khách cứ đến tự nhiên, chứ không gọi điện thoại hay hẹn gặp trước. Vì thế mình đi trốn chẳng có tội lỗi gì cả, chỉ trừ giờ mình phải ngồi ở chỗ bàn giấy. Tôi ghét cái bàn giấy nhất, Steve à.
Chúng tôi cũng phác giác ra
được một cửa hàng bán chè đỗ xanh và chè bông cau nấu theo kiểu miền Trung. Tôi
thì tôi thích hai thứ chè ấy lắm. Chè là gì ấy hử? Chè là một thứ xúp
ngọt. Biết cắt nghĩa làm sao. Cứ ăn mới biết ngon chứ Nguyên Hưng nói “xúp ngọt”
chắc Steve lắc đầu rồi. Họ cất chè trong tủ lạnh. Mỗi khi trời nóng mà được ăn
một hai chén (nhỏ xíu thôi) thì cũng ngon như là uống nước dừa. Steve thèm nước
dừa lắm phải không?
Giữa tôi và Nguyên Hưng có một
sự khác nhau rất lớn - nói như thế nghĩa là còn có nhiều sự khác nhau nhỏ hơn,
đó là Nguyên Hưng thì ghét thức ăn ngọt mà tôi lại ưa. Thành thử mỗi khi nhờ bé
Tám mua về, chỉ có mình tôi ăn, còn Nguyên Hưng thì ngồi ngó. Có khi bé Tám ăn
với tôi. Có khi thì Mẫn hay Toàn, nếu gặp dịp họ đến chơi. Toàn độ này coi sóc
một nhà in, bữa trưa nào cũng ghé tôi chơi. Và cũng thỉnh thoảng trả tiền chè
bông cau hoặc chè đỗ xanh. Còn Mẫn thì lo nhà sách với Tuệ. Tất cả đều có phận
sự rồi, Steve.
Chiều hôm nay tôi ở lại ăn
cơm ở đây, trong làng, với Quảng và Thu hai công tác viên thường trực. Bà Bảy
trong xóm mới đem cho chúng tôi hai trái mướp ngọt và mấy lon nếp “gọi là ăn lấy
thảo”. Quảng và Thu ở đây được các bà chấp nhận như làcon cháu, hai trái mướp đắng
nấu canh chắc ngọt lắm - ngọt như là tình người dân quê đối với cái gì họ đã chấp
nhận. Thu kể cho chúng tôi nghe câu chuyện nhỏ sau đây. Tuy đơn sơ mà cảm động.
Có một hôm đó, bác Bảy thấy Thu làm việc tận tình, liền hỏi: “các cậu lương tiền
gì bao nhiêu mà làm việc giỏi quá vậy?” Thì vẫn là câu hỏi mà chúng tôi thường
phải trả lời như sau: “Tụi cháu làm công quả. Thầy tụi cháu dạy thời buổi này
làm công quả trong làng trong xóm giúp cho cô bác thì cũng có phước như làm
công quả trong chùa. Tụi cháu ăn cơm chùa, có chút ít tiền đi xe đò, chớ có
lương tiền chi đâu bác.” Bà Bảy hiểu ra ngay. Và bà nhìn Thu với cặp mắt trìu mến.
Con trai bây giờ mà giỏi thế. Mình tưởng bây giờ chúng nó hư cả rồi. Lo rượu
chè, nhảy đầm, đi chơi chỗ này chỗ khác. Ai ngờ còn có đứa ham làm công quả.
Tôi thấy câu trả lời của Thu thật là hay. Nó có giá trị của một cuốn sách thần
học. Nó giải thích được khuynh hướng “đi vào đời” của Đạo Phật Việt Nam, Steve
có biết hai tiếng công quả không. đó là hai tiếng bình dân dùng thay
cho tiếng công đức Punya là tiếng Sanskrit đấy. Ở bất cứ ngoi chùa nào ở Việt
Nam, nhất là ở thôn quê, người dân quê thường tìm những dịp rỗi rảnh đẻ lên
chùa làm công quả, nghĩa là làm giúp công việc cho chùa. Họ tin rằng làm công
tác ở chùa là một điều tốt đẹp có thể đơm bông kết trái vật chất và tinh thần
cho tương lai con cháu họ. Bởi vì chùa là của chung, và việc chùa là việc lợi
ích chung cho tất cả mọi người, nhất là đứng về phương diện siêu hình mà nói.
Có người làm công quả một vài buổi. Có người làm ba bốn ngày. Có người ở hàng
tháng để làm công quả. Và có người tình nguyện ở trọn đời. Như các “già” hoặc mấy
“bà vãi” chẳng hạn. Họ ít học. Họ không tu “huệ” mà là tu “phước”, nói theo
danh từ nhà Phật thường dùng, trong giới bình dân.
Làm công quả, nhưng mà
không làm trong chùa nữa. Làm công quả, nhưng làm ở trong làng trong xóm.
Thu còn nói thêm thế này nữa chứ: “Bây giờ người ta khổ nhiều quá, Phật cũng
không ngồi mãi trong chùa; Phật cũng đi ra ngoài xóm ngoài làng rồi”. Tôi cũng
ngạc nhiên không biết tại sao Thu nó nói được nhiều câu hay quá vậy. Phật không
ngồi trong chùa nữa! Thật ra tại giác ngộ ta đặt Phật trong chùa để mà thờ chứ
Phật đâu có muốn ngồi trong đó để hưởng xôi, chuối và hương hoa quả của thiên hạ.
Những ông Phật như Phật Dược Sư, Phật Quán Âm, làm sao mà ngồi nhà được. Phật Dược
Sư ngồi hoài trong chùa thì ai đi chữa bệnh cho thiên hạ thân bệnh và tâm bệnh?
Phật Quán Âm, tức là Quán Thế Âm thì chắc là phải đi hoài, bởi vì Quán Thế Âm
là “lắng nghe tiếng kêu đau thương của cuộc đời” mà tìm tới. Kinh Pháp Hoa đã
chẳng định nghĩa như thế sao. Vậy thì mấy người học trò của mấy ông Phật không
không lý cứ ở lỳ trong chùa khi các bậc thầy mình có mặt trong những nơi có khổ
đau của cuộc đời sao? Như thế không phải là học trò của mấy ông Phật mà chỉ làm
nô lệ của những pho tượng. Thu nó nói chí lý lắm. Chúng tôi chẳng cần những nhà
thần học lớn như Teillard de Chardin, như Karth Barth, như Buber; mà chúng tôi
vẫn đang thực hiện được cuộc cách mệnh giáo lý. Những người trẻ tuổi như Thu sẽ
dẫn đầu những trào lưu tư tưởng Phật học đấy, nghe không hả Steve thân yêu?
Ở Việt Nam, tôn giáo còn lại
như những tập đoàn xã hội vững mạnh hơn hết, bởi vì không khí chính trị và chiến
tranh đã làm tan rã phần lớn những thực tại xã hội khác. Với lại loạn lạc lâu
quá khiến thiên hạ mất lòng tin ở mọi chương trình, mọi hứa hẹn. Nhiều chính trị
gia thiếu chân đứng muốn nương vào các thế lực tôn giáo để… làm chính trị.
Nghĩa là để mong nắm được quyền hành. Nhưng có ít chính trị gia biết được thực
chất của tiềm lực tôn giáo, cho nên chỉ có người muốn lợi dụng mà ít có người
muốn bồi đắp. Ít có người thấy được vai trò mà tôn giáo có thể thực hiện trong
giai đoạn lịch sử này, kể cả trong giới những người lãnh đạo tôn giáo. chúng
tôi đang trông cậy vào những lớp người trẻ tuổi, có óc tiến bộ, dù là những người
này không có chức vị lãnh đạo, tôn giáo cũng vậy, đều bảo thủ, có nhiều tư kiến
và nhiều lúc bị xem như là trở lực của sự tiến bộ. Tuy nhiên, nhờ những phần tử
tiến bộ giác ngộ hoạt động và tranh đấu không ngừng, cũng nhờ những tiếng gọi cảnh
cáo của thế lực đang lên cho nên các vị lãnh đạo đã có bừng tỉnh lên đôi chút,
và đã thúc đẩy cho những con rùa bò thêm một quãng đường. Tôi muốn nói những hoạt
động của giới trí thức cần gia tăng gấp bội để có thể thay những con rùa bằng
những con ngựa.
Steve ạ, đừng có nghe báo
chí nói rằng Phật giáo và Công giáo ở Việt Nam chống nhau. Họ nói đùa đấy! Những
người mê ngủ trong Phật giáo với Công giáo à? Họ giống nhau như đúc. Họ hành động
và suy tư giống nhau như đúc. Cho nên họ ở chung một nhà và theo chung một thứ
tôn giáo thì hợp lắm đấy. Còn những người biết thời biết thế, những người có tầm
con mắt nhìn xa, biết thừa nhận lẽ phải và sự đối thoại những người đó dù mang
danh hiệu tôn giáo khác nhau mà cũng đứng sát cánh với nhau. Chỉ có sự chống
báng giữa sự bưng bít và sự tiến bộ, giữa sự lười biếng và ích kỷ và sự dấn
thân can đảm, thế thôi.
Lực lượng của những đức tin
lớn ở Việt Nam nếu được động viên vào công việc cải tiến xã hội sẽ thực hiện được
phép lạ. Và như Steve thấy, những lực lượng đó cần hợp tác trước hết để chấm dứt
cho được cuộc chiến tranh khốc hại.
Steve ơi, viết cho Steve tới
đây, đột nhiên hình ảnh hàng cây trụi lá của mùa Đông Priceton hiện về rất rõ
trong óc tôi. Chúng tôi đang trải qua một mùa Đông thật gian khổ, thật lạnh lẽo
và thật đen tối, một mùa Đông dài dặc chưa biết bao giờ chấm dứt. Những con
chim có vững cánh chở được niềm tin để vượt cánh đồng dài tuyết giá hay không?
Chúng tôi muốn tất cả gia đình nhân loại không bỏ quên chúng tôi. Chúng tôi là
những hàng cây trụi lá đứng chịu trong sương tuyết đêm ngày, phấn đấu để đợi chờ
nắng ấm của một mùa xuân xa lơ xa lắc.
Steve, trời đang đổ một trận
mưa lớn. Ở Saigon phòng tôi chắc chắn lại dột. Không phải là vì mái tôn bị thủng
mà tại vì nước mưa tạt ngang luồn qua trần nhà rồi rịn qua kẻ hở của trần nhà
làm bằng bìa cứng có nẹp gỗ. Tôi phải lấy nhiều thứ để hứng kẻo ướt nền nhà.
Nào chậu thau, nào ly uống nước, nào ống đựng bút… không có tôi ở nhà, chắc là
phòng ướt hết rồi. Giờ này gần hai trăm khóa sinh trường xã hội chúng tôi đang ở
trong các trại thực tập miền quê.
Steve ơi, ngày mai sẽ ra
sao, điều đó tôi không thể nào nó cho Steve nghe được. Nhưng mà dù cái gì xảy đến
cho tôi, cho chúng tôi, hay cho Steve, tôi tin cái đó cũng sẽ không thể làm lay
đổ đức tin của chúng ta. Bởi vì đức tin của chúng ta không phải đã được căn cứ
trên một điểm tựa di động và vô thường. Đức tin của chúng ta không bắt nguồn từ
những nhận thức siêu hình. Đức tin của chúng ta là sức mạnh của tình yêu, một
thứ tình yêu không có điều kiện, không cần sự đền đáp, không bao giờ bị lay đổ
bởi một sự phụ bạc. Tôi muốn đề cập tới vấn đề mà lâu nay tôi muốn nói cho
Steve nghe nhưng chưa có dịp nói. Một lần nào đó tôi có nói với Steve là ta phải
ươm vấn đề của ta trong chính bản thể ta, linh hồn ta, xương máu và tủy não ta.
Rồi tự nhiên một ngày nào đó thấy được những liên hệ giữa nhận thức và hành động.
Nhận thức ở đây không phải là phần kiến thức suy luận. Nhận thức đây là tất cả
cảm thụ và sở nghiệm tâm linh - điều mà ta khó có thể chia xẻ với kẻ khác bằng
phương tiện diễn tả ngôn ngữ và khái niệm. Cái tình yêu mà tôi nói đây nó sinh
trưởng trên căn bản tâm lý của chúng ta, đã đành rồi, nhưng mà lạ thay, sự tàn
hoại hoặc dần dần hoặc đột ngột của căn bản tâm lý sinh lý ấy cũng không có ảnh
hưởng gì đến nó. Tôi muốn nói đến tình yêu mầu nhiệm ấy. Trong trường hợp tình
yêu người đời thường nói, sự phụ bạc hoặc sự phơi bày trắng trợn mặt thật của đối
tượng yêu thương có thể khiến cho tình yêu bốc khói. Nhưng ở đây, tình yêu
không bao giờ bốc khói, không bao giờ suy suyển một hào ly, bởi vì tình yêu đó
dã tới một đối tượng vô ngã.
Steve ơi, tôi muốn kể Steve
nghe câu chuyện này. Năm kia, khi ghé Luân Đôn, tôi được đi xem British Museum.
Trong những thứ tôi để ý nhất, có một xác người hóa thạch trong một ngôi mộ
cát, chôn cách đây gần năm ngàn năm nghĩa là 3000 năm trước Thiên Chúa giáng
sinh. Kiểu chôn thời ấy khác xa với kiểu chôn bây giờ. Người ta đặt xác người
chết khum nghiêng nghiêng, hai gối co lên, mặt, hai tay và hai chân đều quay về
phía tay trái. Xác người hóa thạch còn giữ được nguyên vẹn mọi chi tiết. Tôi thấy
những lọn tóc - đây là xác đàn ông -, tôi thấy mắt cá nơi hai chân, tôi thấy những
ngón tay ngón chân nguyên vẹn. Năm nghìn năm, người ấy đã nằm như thế và sức
nóng của cát trong buổi đầu dã giúp người hóa đá. Đây không phải là xác ướp
đâu. Steve đừng lẫn lộn. Tôi thích đứng ngắm cảnh tượng này và trong lòng cảm
thấy một thứ rung động khó tả. Một em bé đi với tôi, chừng tám tuổi, xinh đẹp,
ngắm cảnh tượng ấy một hồi rồi bá lấy áo tôi hỏi một cách lo lắng: “Will happen
to me? Rồi con có bị vậy không, hở ông?” Tôi rùng mình, nhìn lại nụ hoa
nhân loại mơn mởn, yếu đuối và nhỏ bé không một khí giới tự vệ đó, dù là khí giới
tư tưởng, và vội vàng trả lời: “Không, không, không bao giờ con lại bị như thế
đâu”. Em bé an lòng; tôi vội kéo em đi sang phòng khác. Tôi đã nói dối một điều
mà Xa Nặc ngày xưa đã không nói dối.
Nhưng mà ngày mai lại, công
việc bề bộn làm tôi quên khuấy đi mất cái thân người hóa thạch kia. Rồi mấy tuần
sau đó, tại đường Doudeauville Ba Lê, họp mặt với các bạn sinh viên bên đó, tôi
được vặn cho nghe vài bản nhạc Việt Nam của ban Thăng Long trình diễn.
Và trong một giây phút nào đó, nghe giọng cô Thái Thanh, tôi bỗng thấy hiện
ra rõ rệt tất cả những cordes vocales nơi cổ họng của cô ca sĩ nổi tiếng mà tôi
rất ưa chuộng. Tôi thấy được hết những hạch tuyến nơi cổ họng, những tế bào, những
bộ phận lớn nhỏ đã phụ họa với nhau để phát ra những âm thanh trong, ấm, thanh
tao và diệu kỳ kia. Tôi chưa gặp Thái Thanh lần nào cả, Steve ạ. Hãy nghĩ rằng
cô trẻ, đẹp và đằm thắm như giọng hát của cô, và chỉ giữ lại từng đó thôi. Nếu
ta nghiêng mình lệch đi một tý, bình diện với thời gian thay đổi, thì cô
Thái Thanh đã ở bên kia tự bao giờ rồi, ví dụ năm ngàn năm về trước hoặc
năm ngàn năm về sau. Băng nhựa không phải là những tế bào sinh lý, không phải
là những nước bọt, không phải là những cordes vocales, không phải là những tình
cảm len lỏi lả lướt trong giọng hát. Nhưng băng nhựa cũng phát ra đúng những âm
thanh mà cô Thái Thanh năm ngàn năm trước đây đã phát ra bằng cổ họng
xinh đẹp của cô. Băng nhựa đã giữ lại, và băng nhựa giữ lại gì? hay là một lời
nhắn nhủ, một tờ thông điệp có thể gây đau nhức cho con người mà cũng có thể tạo
nụ cười giải thoát trên môi con người? Một trận gió thổi qua sa mạc, cát bụi
tung trời. Tôi nhớ hai câu thơ của Thiền sư Trần Thái Tông:
“Tam thời trần liễm thiên
biên tĩnh
Nguyệt lạc trường giang dạ kỷ
canh?”
Giây lát tan bụi, bên trời tạnh
Trăng lặng dòng sông đêm mấy
canh?
Tối hôm đó tôi bị cảm hàn bởi
hồi chiều tôi đã đi ra ngoài trời lạnh có mưa tuyết. Nguyên Ân đánh gió cho
tôi, bằng dầu cù là Mac Phsu. Thứ dầu này có thể mua dễ dàng tại Paris. Tôi uống
hai viên aspirine và đắp chăn kỹ lưỡng, nhưng mà tôi không ngủ được. Một phần
có lẽ vì cảm, một phần có lẽ vì aspirine tuy có trị cảm nhưng lại giữ tôi thức
giấc. Cái tật của tôi là uống aspirine ban đêm thì lại thấy khó ngủ.
Tôi nằm trăn trở hoài và một
lúc nào đó tôi bỗng thình cờ thấy tôi đang nằm trong một tư thế giống hệt như
tư thế của xác người hóa thạch ở British Museum! Và tôi thấy bàn tay
phải của tôi đang sờ nắn những bắp thịt này đã cứng như những bắp thịt hóa thạch
kia không. Cử chỉ ấy không được trí óc tôi điều khiển. Nhưng hình như trí óc
tôi khuyến khích bàn tay tôi tiếp tục như vậy. Điều tôi muốn nói cho Steve nghe
là tâm trạng tôi lúc đó bình tĩnh một cách rất lạ; tôi không hề có một ý niệm
xót xa, lo lắng hay đau buồn nào. Bỗng dưng tôi thấy rằng giá tôi là thân người
hóa thạch của 5000 năm trước đây hay 5000 năm sau đây thì điều đó cũng không có
khác chi với điều tôi đang ngồi đây hết. Tôi vẫn cười như thường. Ý niệm về quá
khứ, hiện tại và tương lai như bốc khói; Steve ơi, tôi thấy tôi đứng thấp
thoáng ở cửa ngõ của một thứ hiện tại thoát ly thời gian, thoát ly mọi sự chuyển
động.
Tôi chỗi dậy và ngồi trong
tư thế tham thiền suốt một đêm đó. Mưa như thác đổ trong tâm hồn tôi. Mưa như xối
chảy. Những giọt nước to, những dòng suối nhỏ tuôn ào ạt vừa gột rửa vừa vỗ về
vừa thấm nhuần, vừa nuôi dưỡng. Không còn gì hết, chỉ có sự vững chãi an tĩnh.
Tôi ngồi như một trái núi đá, và miệng tôi mĩm cười. Nếu có ai chứng kiến được
những gì đã xảy ra cho tôi đêm đó chắc người ta sẽ nói:”Xong, xong hết tất cả rồi!
sáng mai sẽ có thay đổi lớn”. Nhưng không có sự thay đổi nào hết, Steve thân
yêu ạ. Lúc bảy giờ sáng, tôi lấy giấy bút ghi lại một vài nét những điều còn rạt
rào trong tâm hồn. Những vần thơ lạ kì đó tôi vẫn còn giữ đây. Và buổi sáng mai
tôi ăn điểm tâm với các bạn, bình thản như không có chuyện gì xảy ra trong đêm
qua hết. Và chúng tôi bàn tính công việc. Vẫn là những công việc đã dự trù từ
những ngày hôm qua. Những công việc cho tương lai. Steve nghe không Cho
tương lai. Nghĩa là tôi đã được đặt trở lui trên bình diện không thời gian ước
lệ cũ.
Tôi bàn với các bạn trẻ về từng
chi tiết của công việc, và chính tôi cũng ngạc nhiên không hiểu tại sao tôi lại
có thể làm công việc đó, công việc mà người chứng kiến hiện tượng đêm qua có thể
xem như là không dính líu gì tới con người đương sự hết. Đối với đêm qua, tất cả
công việc hôm nay phải hoa đốm hư không. Đứng ở hôm qua nhìn thì nó khác. Đứng
hôm nay nhìn thì nó khác. Nó không phải hoa đốm hư không. Có một điều rất rõ rệt
là tuy tôi đề cập đến mọi chi tiết của công việc một cách kỹ lưỡng, để hết tâm
ý vào chúng, nhưng tâm hồn tôi lúc đó thật là bình thản, thanh tịnh, không náo
nức, không khiếp sợ, không lo lắng. Tôi thấy tôi có thêm nhiều sức mạnh và tâm
hồn tôi được gạn lọc trong sạch hơn nhiều.
Steve, một đêm như thế
quả có thể thay đổi được cả cuộc đời chúng ta. Và một đêm như thế lại sẽ mở cửa
cho những đêm khác như thế. Tôi sẵn sàng để trở lại. Tôi thấy diện mục của tôi
nó phảng phất đâu đay. Lần đó tôi suýt tóm được được nó. I was about to break
through.
Vấn đề liên hệ giữa cái thế
giới nội tâm và thế giới hành động, Steve ơi, có thể vì câu chuyện vừa kể của
tôi mà sáng tỏ ra chút ít đối với Steve nghe hồi nầy đó, nó nằm ở đâu? Có lẽ những
dòng tôi viết thật bất lực. Mà thôi có lẽ Steve cũng không cần thắc mắc làm gì.
Ngày mai, nếu thế giới yên lành, Steve sẽ về thăm Phương Bối. Phương Bối ngày
xưa tạo dựng cho chúng tôi tình yêu, Phương Bối có lẽ sẽ cắt nghĩa cho Steve một
cách dễ dàng và thông suốt hơn. Tại vì Phương Bối có bông đá, có hoa rừng, có cỏ
dại. Phương Bối có một cái nhà Thượng đã bị cháy tiêu tan, chỉ còn một đống
than đen với những xác cột cháy nám đó bây giờ có lẽ đã mọc lên nhiều thứ nấm dại.
Tuy vậy nhà Thượng Phương Bối
vẫn còn. Cũng như tình hình yêu vẫn còn, bất chấp vô thường, bất chấp vô ngã, bất
chấp tham vọng si mê và sự độc ác. Ngày mai, nếu chúng tôi có cháy thành tro bụi
thì tro bụi ấy cũng sẽ là tình yêu. Chúng tôi, lúc đó là tro bụi, sẽ thấm vào
lòng đất, sẽ làm chất bón tươi tốt cho một loài hoa, nở những bông hoa cho loài
người, những bông hoa không biết oán thù là gì. chúng tôi sẽ luân hồi trở lại
bao nhiêu lần, hoặc là hoa, hoặc là cỏ, hoặc là chim, hoặc là mây, hay trong bất
cứ hình thái nào, hiện tượng nào. Chúng tôi muốn trở lại hoài, trở lại để mà
mang đến cho con người bức thông điệp tình yêu bất diệt ấy. Cũng như bọn trẻ
con đang nghêu ngao hát ngoài đường: “Yêu mến người mãi mãi, yêu mến người
không thôi, yêu mến người tay nắm tay”. Tạm biết Steve.
ĐOẠN KHÉP
Nguyên Hưng ơi, tập viết tay
kèm theo đây là phần thứ ba của nẻo về của ý đấy. Tôi giao nốt lại cho Nguyên
Hưng. Tập này xem bộ in không được đâu, bởi vì có nhiều điều nói thẳng quá. Tuy
vậy nếu in không được thì Nguyên Hưng cũng trao bản thảo cho những người thân
yêu nhất đọc. Tôi ước mong rằng nó có thể nói được với các bạn một chút nào về
cái “Ý” của tôi.
Nhưng mà tôi lạc quan mất rồi,
Nguyên Hưng. Ở cái chương cuối viết cho Steve, tôi có ý định giải bày một vài
chút “tâm sự” liên hệ tới nguyên tắc hành động của chúng ta, nhưng đọc lại tôi
thấy tôi chẳng nói được gì cả. Thật là tệ. Có lẽ vì trời nóng quá chăng, hay tại
vì tôi không được khỏe. Chiều mai tôi đi phải đi xa rồi, và tôi rất ước ao nói
với Nguyên Hưng điều mà tôi đã từng muốn nói với Steve mà nói chưa được, hay
nói không được.
Đêm nay, trời sáng tỏ một
cách kỳ lạ. Tôi chưa đi mà đã nhớ nhà rồi. Nhưng mà ở đâu cũng có từng này ngôi
sao, ở đâu cũng có chút trời xanh và mây trắng hả Nguyên Hưng. Tôi đi rồi tôi lại
về thì có sao đâu. Lòng tôi hơi xao xuyến một chút, nhưng mà vẫn yên tĩnh. Tôi
muốn nói chuyện với Nguyên Hưng trong khung cảnh thanh tịnh này, và ngòi bút của
tôi sẽ trở lại gạch những chữ Nguyên Hưng trên giấy trắng.
Những điều ta học được, ta
phải liệng chúng đi thì ta mới có thể hiểu được chúng. Cũng như kinh Kim Cương
nói A mà không phải là A thì mới là A. nghĩ cũng kỳ quái thật, nhưng mà càng sống
chúng ta càng thấy đúng Nguyên Hưng ạ. Học chúng nó rồi mà giữ chúng nó trong
lòng là một tai họa còn tệ hơn là không học. Những điều tôi học ở Phật học viện
bây giờ bị lật ngược lại hết và tôi thấy lúc đó tôi mới hiểu được chúng.
Đây là tôi với Nguyên Hưng,
chớ không phải nói với kẻ khác. Và những điều tôi nói với em, nếu người khác
nghe được, sẽ hiẻu ra cách mà tôi không muốn họ hiểu. Nhưng mà mặc họ chứ, có
phải không Nguyên Hưng. Kỳ ở Huế về vừa rồi thấy những đám mây trắng đẹp quá
đi. Tôi ngồi trên một chiếc DC4.
Buổi chiều, ánh nắng vừa tắt
nhưng ánh sáng còn dư dã để cho ta có thể thấy được sắc dịu hiền và
trinh tuyền của những lọn mây. Cái thảm mây đó nó nằm phía dưới máy bay chúng
tôi. Nó rộng lắm. Từng lọn từng lọn nối tiếp nhau, che khuất núi rừng phía dưới.
Những lọn mây trắng như tuyết. Trinh tuyền hơn cả tuyết. Tôi muốn vốc chúng
trong hai lòng bàn tay. Và bổng nhiên tôi thấy tôi với mây là một, tôi cũng trắng
tinh và êm dịu như mây.
Điều đó thường quá mà, phải
không Nguyên Hưng. Tại sao chúng ta ưa những cuộn mây trắng nõn và những tấm thảm
tuyết trình tuyền? Tại vì cái khuynh hướng của bản chất sinh lý và tâm lý của
ta nó thế. Ta ưa những cái gì tinh sạch, đẹp đẽ và an lành. Tinh sạch, đẹp đẽ
và an lành theo nhận định và lập trường của cơ thể ta, tâm lý ta, chớ không hẳn
là tính sạch đẹp đẽ và an lành như những tính cách khách quan của thực tại. Ưa
một tờ giấy trắng, ưa một dòng nước trong, ưa một nét nhạc mềm hay ưa một thiếu
nữ xinh đẹp thì cũng vậy, không có khác nhau gì hết trên căn bản tâm lý của con
người. Nguyên Hưng chẳng thường nghe người ta đem tuyết đem trăng đem hoa để tả
người con gái đẹp sao. Nhất là khi người con gái có vẻ hiền thục thì người ta lại
ví đó là Tiên là Phật bởi vì Tiên Phật vừa đẹp lại vừa hiền. Và bên dưới những
cái thiên hạ cho là đẹp là sạch là lành thì người ta còn tham lam đặt thêm nền
tảng của sự thường còn. Đó là do nhu yếu của con người mà ra cả. Con người ưa
cái gì thanh sạch, đẹp đẽ, hiền lành, và ưa những cái ấy thuộc về mình, đồng nhất
với mình, và thường còn với mình. Thế rồi phía bên kia còn gì? Phía bên kia còn
trái ngược với sự trong sạch tức là sự ô uế, sự trái ngược với sự đẹp đẽ tức là
sự xấu xí, sự trái ngược với sự hiền lành là sự ác độc và sự trái ngược với sự
thường còn tức là sự tiêu diệt tức là vô thể.
Và do đó có một sự vật lộn để
tìm sang bên này, xua đuổi bên kia. Cho đến nỗi mà trong kinh Phật có khi người
ta phải đùng bốn đức Thường Lạc Ngã Tịnh (Hữu thể, An lạc, Tự do, Thơm sạch) để
miêu tả Niết bàn rồi sau đó phải thêm rằng phải hiểu những chữ đó theo hiểu nhất
nguyên siêu tuyệt của nó mà đừng hiểu theo nghĩa tương đối trong thế giới hiện
tượng. Điều đó chứng minh rằng con người chúng ta đã bị ám ảnh quá nhiều bởi ý
tưởng về hạnh phúc ước lệ trên kia.
Đột nhiên kinh Bát Nhã tới
giáng những đòn sống chết trên nhận thức đó. Quán Tự Tại Bồ-tát sau khi nhìn thấu
suốt thế giới hiện tượng mỉm cười tuyên bố “Tất cả đều giả lập (không) hết. Sắc,
thọ, tưởng, hành, thức, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị,
xúc, vân vân… đều là giả lập. Và: “Chân tướng của các giả lập đó không sinh
cũng không diệt, không ô uế cũng không tinh sạch, không thêm cũng không bớt đi”
còn gì nữa mà nghi ngờ hả Nguyên Hưng. Đó là điều tôi trông thấy trên máy bay,
mà trông thấy từ một khía cạnh khác. Trông thấy như thế nào? Nguyên Hưng ơi em
hãy nhìn và em sẽ thấy, hỏi tôi làm chi. Tôi chẳng nói được chi cả, bởi vì
không có gì mà nói.
Ban đầu thì tôi mỉm cười
nghĩ đến những hình thái của nước: nước trong, nước suối, nước đá, hơi nước,
mây, tuyết, mưa vân vân… Tất cả đều là H2O. mà chính là H2O cũng giả lập - cũng
không phải là thực thể tự hữu - lấy O mà xét thì O có thể được chuyển thành những
cái ta không gọi là O. Và chính những cái đó cũng là giả lập. Cũng là chuyển
thành. Nương tựa vào nhau, trùng trùng điệp điệp. Không thể tách O ra
khỏi không O, không thể nói O và không O là một,
Nguyên Hưng à.
Trên cái căn bản di động đó,
ta thường cố nắm lấy một cái gì không di động. ví dụ tôi đặt cho tôi một câu hỏi:
anh cho hiện tượng nào là đẹp nhất? Tôi nói nước. Đẹp quá. Nước trong như
gương. Tuyết phủ trên đỉnh núi. Mây từng cuộn trắng hay ngoài bãi biển. Mưa rào
rào thấm nhuần cây cối xanh tươi. Nếu thiếu nước, thế giới này điêu tàn, khô cằn
héo hon, buồn bã biết mấy. Cho nên tôi thấy Nước đẹp. Thế rồi tôi hỏi: Ví dụ
không có lửa, nghĩa là không có nhiệt lực, không có hơi ấm, không có ánh sáng mặt
trời? Thiếu ánh sáng chẳng hạn thì cái gì đẹp, cái gì không đẹp. Cái gì trong
như gương, cái gì phủ trên núi, cái gì bay bay ngoài bãi biển, cái gì rào rào
thấm nhuần cỏ cây xanh tươi? Óc tôi lóe thấy sự thực, nhưng mà tôi đã mê Nước rồi,
tôi đành nhắm mắt nói liều: mặc kệ, tôi có nói là tôi ưa Nước nhất. Thật là vô
minh, có phải không Nguyên Hưng.
Trong quá trình tuyên dương
chuyển biến của các giả lập các hiện tượng - ta thấy có luân hồi. Chắc Nguyên
Hưng đã liệng bỏ cái cái ý niệm luân hồi trẻ con ngày trước đi rồi, cái ý niệm
đinh ninh rằng phải có gì đó. Như O hay cái H tôi vừa nói trên thì mới có luân
hồi được. Nhưng trên sự thực chẳng có cái O cái H tự thân nào mà cả thế giới giả
lập vẫn diễn biến mầu nhiệm. Luân hồi đó chớ gì, nhưng nếu nhìn thấu suốt ta sẽ
không thấy có gì thường hay vô thường, tinh sạch hay ô uế, hiền lành hay ác độc,
đẹp đẽ hay xấu xí. Đừng có nói cho trẻ con biết điều đó bởi vì chúng sẽ nói:
không có hiền ác, không có tốt xấu và không có luân lý. Trẻ con chưa có mở mắt ở
thời nào cũng vậy.
Nguyên Hưng ơi, giữa cái
tinh sạch và cái ô uế, giữa cái đau khổ và cái sung sướng, giữa cái hiền lành
và cái độc ác, mình theo cái nào? Nghe hỏi mà buồn cười, phải không Nguyên
Hưng? Theo cái tinh sạch, cái sung sướng, cái hiền lành thì mình phải đập tan
và tiêu diệt cái ô uế, cái đau khổ và cái độc ác. Mà tiêu diệt chúng được
chăng. Nếu “cái này có là nhờ cái kia có”, thì cái trong sạch cũng do cái ô uế
mà có. Tiêu diệt cái ô uế tức là tiêu diệt luôn cái trong sạch, vì lẽ “cái này
không thì cái kia không”. Kết luận là nên dung dưỡng cái ô uế, cái độc ác và
cái đau khổ hay sao?”
Nhưng mà Nguyên Hưng ơi, tất
cả những cặp đối nghịch đó chính đã là do chúng ta tạo nên bằng nhận thức của
chúng ta, bằng lập trường sinh tâm lý của chúng ta. Hoan lạc và đau khổ trở nên
những đại vấn đề. Nếu được như Quán Tự Tại soi thấu được chân tướng thực tại, thì
những đau khổ tai nạn bốc khói bay mất. “độ nhất thiết khổ ách”. Cho nên hãy
nhìn nụ cười đức Phật. Nụ cười đó trầm lặng thật, từ bi thật nhưng mà… coi thường
chúng ta quá. Đó là một cách nói mà thôi bởi chính Phật đã nhờ đức Thường Bất
Khinh Bồ-tát nhắn với mỗi người chúng ta rằng Ngài… không dám khinh chúng ta
đâu, bởi vì tất cả chúng ta đều sẽ thành một vị Phật.
Có lẽ cái cảm tưởng trẻ con
của tôi về nụ cười của Ngài là do một thứ mặc cảm tự ti lâu ngày tạo nên - chớ
không phải tự tôn. Nguyên Hưng nhớ nhé. Trước nụ cười của người thấy được Niết
bàn và Sinh tử đều là hoa đốm giữa hư không, ta cảm thấy ta bé nhỏ quá, vụng về
quá, ngu si quá. Ngài thương chúng ta không phải vì chúng ta không thấy đường
cho nên bị đau, thế thôi
Từ hồi nhỏ, tôi đặt vấn đề bản
chất của lòng từ bi, và tội nghiệp cho tôi, tôi chỉ học được và nếm được chút
ít từ bi sau này không phải nhờ học tập hay nhờ đặt vấn đề mà nhờ khổ đau. Tôi
không tự hào về chút khổ đau ấy; cũng như có ai tự hào về tiếng hét to sợ hãi của
mình khi mình nhận lầm sợi giây là con rắn. Khổ đau của tôi cũng chỉ là sợi
giây, cũng chỉ là hoa đốm giữa hư không, đáng lẽ nó phải tan biến như mây khói
khi mặt trời lên! Nhưng mà nó vẫn chưa tan biến thành mây khói cho nên anh vẫn
đau khổ và anh chịu không nổi nên anh tự vùng vẫy. Vậy Phật có thấy anh đau khổ
không. Phật có chịu nổi khi thấy anh đau khổ không mà ông ngồi cười hoài vậy?
Tôi lý luận rằng tình thương là phải có chấp thủ, tình thương nào cũng vậy,
tình trai gái yêu nhau, tình mẹ thương con, tình nước non, tình nhân loại, tình
chúng sinh, nghĩa là cả từ bi.
Bởi vì thương ai, lo lắng cho ai anh cũng phải thao thức, mong mỏi, không thể lãng quên. Thế thì trông thấy chúng sinh đau khổ vô lượng vô biên thế kia, Phật cũng lo lắm chứ sao mà ngồi cười được hoài. Thật ra thì mình tạc tượng Ngài ngồi cười. Nhưng mà có phải hầu hết những đêm thức khuya, những lo lắng và thao thức của người có tình thương đều phát sinh vì người đó còn là người trần mắt thịt, đối với thực tướng vũ trụ vẫn còn “mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” không? một ông bác sĩ biết rõ tình trạng bệnh nhân thì không ngồi giả định thế này thế kia để tạo ra một trăm ngàn giả thuyết và lo lắng như người thân nhân của bệnh nhân. Và nếu biết bệnh sẽ qua, thì ông có thể cười. Nhưng không phải là nụ cười độc ác. Đó chỉ là nụ cười của người biết chuyện, không còn phải lo hão huyền vô ích. Đại bi, maha karuna bản chất của nó, Nguyên Hưng ơi, làm sao tôi diễn tả cho được?
Bởi vì thương ai, lo lắng cho ai anh cũng phải thao thức, mong mỏi, không thể lãng quên. Thế thì trông thấy chúng sinh đau khổ vô lượng vô biên thế kia, Phật cũng lo lắm chứ sao mà ngồi cười được hoài. Thật ra thì mình tạc tượng Ngài ngồi cười. Nhưng mà có phải hầu hết những đêm thức khuya, những lo lắng và thao thức của người có tình thương đều phát sinh vì người đó còn là người trần mắt thịt, đối với thực tướng vũ trụ vẫn còn “mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” không? một ông bác sĩ biết rõ tình trạng bệnh nhân thì không ngồi giả định thế này thế kia để tạo ra một trăm ngàn giả thuyết và lo lắng như người thân nhân của bệnh nhân. Và nếu biết bệnh sẽ qua, thì ông có thể cười. Nhưng không phải là nụ cười độc ác. Đó chỉ là nụ cười của người biết chuyện, không còn phải lo hão huyền vô ích. Đại bi, maha karuna bản chất của nó, Nguyên Hưng ơi, làm sao tôi diễn tả cho được?
Nguyên Hưng, sự thực nằm ở
đó, em làm quen với nó đi. Chỉ khi nào em bắt đầu thấy được giữa bùn đen kia với
tuyết trắng nọ không có cái gì xấu cái gì đẹp, chỉ khi nào em biết bắt đầu nhìn
sự thật với tâm niệm không phân biệt, nghĩa là biến kế, thì em mới có thể
nếm được thế nào là đại bi.
Dưới con mắt của đại bi,
không có tả không có hữu, không có thù không có bạn, không có thân không có sơ.
Mà đại bi không phải làvật vô tri. Đại bi là tinh lực màu nhiệm của sáng chói.
Vì dưới con mắt của đại bi,
không có cá thể riêng biệt của nhân ngã nên không có một hiện tượng nhân ngã
nào động tới được đại bi.
Em ơi, nếu con người có độc
ác đến nước móc mắt em hay mổ ruột em và em cũng nên mỉm cười và nhìn con người
bằng cặp mắt xót thương; hoàn cảnh tập quán và sự vô minh đã khiến con người
hành động như thế.
Hãy nhìn con người đã đành
tâm tiêu diệt em và đang tạo nên cho em những oan ức khổ nhục lớn lao như trăm
ngàn quả núi, hãy nhìn con người ấy với niềm xót thương. Hãy rót tất cả niềm
xót thương từ suối mắt em vào người đó mà đừng để một gợn oán trách giận hờn xuất
hiện trong tâm hồn. Vì không thấy đường đi nước bước cho nên cái người làm khổ
em mới vụng dại lỗi lầm như vậy.
Giả sử một buổi sáng nào đó
em nghe rằng tôi đã chết tăm tối và tàn bạo vì sự độc ác của con người, em cũng
nên nghĩ rằng tôi đã nhắm mắt với một tâm niệm an lành không oán hận, không tủi
nhục. Em nên nghĩ rằng giờ phút cuối tôi cũng không quay lại kẻ thù ghét con
người. Không, con người chẳng bao giờ đáng cho ta thù ghét. Nghĩ như thế chắc
chắn em sẽ mĩm cười được, rồi nhớ tôi, đường em, em cứ đi. Em có một nơi nương
tựa mà không ai có thể phá đổ và cướp giật đi được. Và không ai có thể làm lay
chuyển niềm tin của em, bởi vì niềm tin ấy không nương tựa nơi bất cứ một giả lập
nào của thế giới hiện tượng. Niềm tin ấy và tình yêu là một, thứ tình yêu chỉ
có thể phát hiện khi em bắt đầu nhìn thấu qua thế giới hiện tượng giả lập để có
thể thấy được em trong tất cả và tất cả trong em.
Ngày xưa, đọc những câu chuyện
như câu chuyện đạo sĩ nhẫn nhục để tên vua cường bạo xẻo tai cắt thịt mà không
sinh lòng oán giận, tôi nghĩ đạo sĩ không phải con người. Chỉ có
thánh mới làm được như vậy. Nhưng Nguyên Hưng ơi tại lúc đó tôi chưa biết đại
bi là gì. Đại bi là sự mở mắt trông thấy. Và chỉ có sự mở mắt trông thấy tận
cùng mới khiến cho tình thương trở thành vô điều kiện, nghĩa là biến thành bản
chất đại bi. Đạo sĩ nhẫn nhục kia đâu có sự giận hờn nào mà cần nén xuống?
Không, chỉ có lòng thương xót. Giữa chúng ta và vị đạo sĩ kia, và vị Bồ-tát
kia, không có gì ngăn cách đâu, Nguyên Hưng. Có thể tình yêu đã dạy cho em rằng
em có thể làm được như Người.
Thôi em đã lớn rồi tự lo liệu
lấy.
Chiều mai tôi phải đi rồi.
Những giòng chữ viết đêm nay, tôi sẽ không có thì giờ đọc lại. Nguyên Hưng, cho
tôi dừng ngang đây. Ngày mai tôi sẽ còn gặp em trước khi lên đường.
Saigon 11-5-1966
Nhất Hạnh
hãng eva
vé máy bay đi mỹ giá rẻ
phòng vé korean air
đặt vé máy bay đi mỹ ở đâu
vé máy bay đi canada giá rẻ
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch