Đến với bài thơ "Cảnh chiều hôm"
của Bà Huyện Thanh
Quan
Ai đã từng đọc "Truyện Kiều" chắc không thể nào
quên được câu thơ của Nguyễn Du nói về hoàng hôn:
"Sông sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng".
Cũng nói về hoàng hôn và nỗi buồn của kẻ tha hương, bài thơ
"Cảnh chiều hôm" của Bà Huyện Thanh Quan là một kiệt tác của nền thơ
Nôm Việt Nam trong thế kỉ XIX:
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".
Câu thơ đầu tả ánh hoàng
hôn một buổi chiều viễn xứ. Hai chữ "bảng lảng" có giá trị tạo hình đặc
sắc: ánh sáng lờ mờ lúc sắp tối, mơ hồ gần xa, tạo cho bức tranh một buổi chiều
thấm buồn:
"Chiều
trời bảng lảng bóng hoàng hôn".
Hai chữ "bảng lảng" là nhãn tự – như
con mắt của câu thơ. Nguyễn Du cũng có lần viết:
"Trời
tây bảng lảng bóng vàng" (Truyện Kiều)
Chỉ qua một vần thơ, một câu thơ, một chữ thôi, người
đọc cũng cảm nhận được ngòi bút thơ vô cùng điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan.
Đối với người đi xa, khoảnh khắc hoàng
hôn, buồn sao kể hết được? Nỗi buồn ấy lại được nhân lên khi tiếng ốc (tù và)
cùng tiếng trống đồn "xa đưa vẳng" lại. Chiều dài (tiếng ốc), chiều
cao (tiếng trống đồn trên chòi cao) của không gian được diễn tả qua các hợp âm ấy,
đã gieo vào lòng người lữ khách một nỗi buồn lê thê, một niềm sầu thương tê
tái. Câu thơ vừa có ánh sáng (bảng lảng) vừa có âm thanh (tiếng ốc, trống đồn)
tạo cho cảnh hoàng hôn miền đất lạ mang màu sắc dân dã:
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Phần thực và phần luận, các thi liệu làm nên cốt cách bài thơ
được chọn lựa tinh tế, biểu đạt một hồn thơ giàu cảm xúc. Ngư ông, mục tử, lữ
khách… thế giới con người được nói đến. Cảnh vật thì có ngàn mai, có gió và
sương, có "chim bay mỏi" … Những thi liệu ấy mang tính chất ước lệ của
thi pháp cổ (người thì có: ngư, tiều; cảnh vật, cây cỏ, hoa lá thì có: phong,
sương, mai, liễu, cánh chim chiều…) nhưng với tài sáng tạo vô song: chọn từ, tạo
hình ảnh, đối câu, đối từ, đối thanh, ở phương diện nào, nữ sĩ cũng tỏ rõ một hồn
thơ tài hoa, một ngòi bút trang nhã. Vì thế cảnh vật trở nên gần gũi, thân thuộc
với mọi con người Việt Nam. Cảnh vật mang hồn người đậm đà bản sắc dân tộc.
Chiều tà, ngư ông
cùng con thuyền nhẹ trôi theo dòng sông về viễn phố (bến xa) với tâm trạng của
một "ngư ông" – ông chài nhàn hạ, thoải mái. Động từ "gác
mái" biểu đạt một tâm thế nhàn của ngư ông đang sống ở miền quê, đã thoát
vòng danh lợi:
"Gác
mái, ngư ông về viễn phố".
Cùng lúc đó, lũ trẻ đưa trâu về chuồng, trở lại "cô
thôn", cử chỉ "gõ sừng" của mục đồng thật hồn nhiên, vô tư, yêu
đời.
"Gõ sừng mục tử lại cô thôn".
Đó là hai nét vẽ về con người, hai bức
tranh tuyệt đẹp nơi thôn dã vô cùng thân thuộc đáng yêu.
Hai câu luận tiếp theo mượn cảnh để tả cái
lạnh lẽo, cô liêu, bơ vơ của người lữ khách ưên nẻo đường tha hương nghìn dặm.
Trời sắp tối. Ngàn mái xào xạc trong "gió cuốn"; gió mỗi lúc một mạnh.
Cánh chim mỏi bay gấp về rừng tìm tổ. Sương sa mù mịt dặm liễu. Và trên con đường
sương gió ấy, lạnh lẽo ấy chỉ có một người lữ khách, một mình một bóng đang
"bước dồn" tìm nơi nghỉ trọ. Hai hình ảnh "chim bay mỏi" và
"khách bước dồn" là hai nét vẽ đăng đôi, đặc tả sự mỏi mệt, cô đơn.
Con người như bơ vơ, lạc lõng giữa ”gió cuốn" và "sương sa",
đang sống trong khoảnh khắc sầu cảm, buồn thương ghê gớm. Câu thơ để lại nhiều
ám ảnh trong lòng người đọc. Đảo ngữ làm nổi bật cái bao la của nẻo đường xa miền
đất lạ:
"Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi,
Bằng sự trải nghiệm của cuộc đời, đã sống những khoảnh khắc
hoàng hôn ở nơi đất khách quê người, nữ sĩ mới viết đưực những câu thơ rất thực
miêu tả cảnh ngộ lẻ loi của kẻ tha hương hay đến thế!
Hai câu kết hội tụ, dồn nén lại tình thương nhớ. Nữ sĩ cảm thấy
cô đơn hơn bao giờ hết. Câu thứ bảy gồm hai vế tiểu đối, lời thơ cân xứng đẹp:
"Kẻ chốn
Chương Đài người lữ thứ".
Chương Đài là điển tích nói về chuyện li biệt, nhớ thương, tan hợp của lứa đôi
Hàn Hoành và Liễu thị đời nhà Hán xa xưa. Bà Huyện Thanh Quan đã vận dụng điển
tích ấy một cách sáng tạo. "Chương Đài" và "lữ thứ" trong
văn cảnh gợi ra một trường liên tưởng về nỗi buồn li biệt của khách đi xa nhớ
nhà, nhớ quê hương da diết. Khép lại bài thơ là một tiếng than giãi bày một niềm
tâm sự được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ. "Ai" là đại từ phiếm
chỉ, nhưng ai cũng biết đó là chồng, con, những người thân thương của nữ sĩ.
"Hàn ôn” là nóng lạnh, "nỗi hàn ôn" là nỗi niềm tâm sự. Người lữ
thứ trong chiều tha hương thấy mình bơ vơ nơi xa xôi, nỗi buồn thương không sao
kể xiết:
"Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".
"Cảnh chiều hôm" và "Qua
Đèo Ngang" hai kiệt tác thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Đó là chùm thơ của
Bà Huyện Thanh Quan sáng tác trong những tháng ngày nữ sĩ trên đường thiên lí
vào kinh đô Huế nhận chức nữ quan trong triều Nguyễn. Có thể coi đó là những
bút kí – thơ vô cùng độc đáo. Thơ của Bà Huyện Thanh Quan thấm một nỗi buồn li
biệt hoặc hoài cổ, hay nói đến hoàng hôn, lời thơ trang nhã, sử dụng nhiều từ
Hán Việt (bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố…) tạo nên phong cách trang trọng,
cổ kính, nhạc điệu trầm bổng hấp dẫn. "Cảnh chiều hôm" là một bông
hoa nghệ thuật chứa chan tình thương nhớ, bâng khuâng,…
Nguồn In ter net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét