Một cuộc đời, một vầng nhật nguyệt 5
Tin đức Phật
về, cả Rừng Trúc như xôn xao hẳn lên. Dường như nắng thì trong hơn, dịu hơn và
mây bay cũng nhẹ nhàng, thanh thản hơn. Rồi muôn chim chợt nhiên ca hót vang
lừng. Sự sống trôi chảy dạt dào, tuôn tràn khắp đầu cây ngọn cỏ. Tôn giả Koṇḍañña,
Uruvelā Kassapa, Bhaddiya và Mahā Moggallāna dẫn
theo Nanda và Rāhula đi đón ngài.
Cả hai nhóm
tỳ-khưu đảnh lễ nhau rồi theo sự hướng dẫn của tôn giả MahāMoggallāna, họ
tản mác đến các cốc liêu đã được sắp đặt sẵn.
Sau khi thăm
hỏi các vị trưởng lão, đức Phật ngồi xuống cho vừa tầm Rāhula, cất
giọng dịu dàng:
- Con học được
có nhiều không, Rāhula?
- Nhiều lắm,
bạch đức Thế Tôn! Rồi chú bé sa-di liến thoắng tiếp –
Tôn giả MahāMoggallāna dạy hài nhi nhiều lắm, không những bắt học
thuộc mà còn thực hành! Hài nhi còn được đi bát nữa. Đức vua Seniya Bimbisāra và
hoàng hậu Videhi thường cho thị nữ mang đến cho hài nhi rất nhiều
thực phẩm ngon, có cả mật, đường, sữa và rất nhiều trái cây!
- Nếu con dùng
không hết thì phải làm sao?
- Trước khi
dùng, hài nhi lựa thứ gì ngon nhất, tốt nhất dâng thầy, các vị trưởng lão và cả
chú Nanda nữa!
- Ừ, vậy là
ngoan lắm!
Rāhula nụ
cười tươi rạng, gật đầu; trông có vẻ ốm gầy nhưng khá rắn rỏi. Đức Phật nắm tay
Rāhula bước đi.
- Thế nào hở Nanda? Đức
Phật quay qua nói chuyện với ông hoàng si tình - Ở đây khung cảnh mát
mẻ, thanh bình; tâm các vị trưởng lão cũng thanh bình và mát mẻ! Còn ông, tại
sao, ngọn lửa nào - lửa ngọn hay lửa than - cứ thiêu đốt tim gan làm cho sắc
mặt ông héo khô và tàn tạ như thế?
- Đệ tử sẽ cố
gắng! Nanda cúi đầu đáp - Sẽ cố gắng nhiều hơn nữa!
- Không cần
phải cố gắng nhiều lắm đâu, Nanda! Đức Phật ân cần giáo giới - Chỉ
việc thở thôi, thở cho đều; và chỉ cần an trú liên tục, nhất tâm trên hơi thở -
thì lửa ngọn, lửa than gì chúng cũng tự động tắt ngấm! Đừng tự hại mình nữa, Nanda!
Tỳ-khưu Nanda cảm
thấy rất hổ thẹn, nhưng vì lửa lòng vẫn chưa tắt, chưa nguôi! Còn đức Phật thì
thấy chưa phải thời, nên không nói nhiều.
Qua mùa nắng mà
Trúc Lâm vẫn xanh tốt. Đây đó có đào thêm giếng. Các công trình nơi này nơi
khác dường như có gia cố thêm cho chắc bền hơn.
Tại hương
phòng, thị giả Upavāna đã đốt hai ngọn nến để hút khí ẩm, xông một lò
trầm để xua khí tạp. Đức Phật ngồi lắng nghe công việc tại Trúc Lâm trong gần
bốn tháng qua do tôn giả Mahā Moggallāna tường trình. Đức Phật hài
lòng vì Trúc Lâm vẫn phát triển bình thường, còn có thêm mấy trăm tân tỳ-khưu
tại kinh thành và các nơi khác gởi về. Đức Phật đặc biệt lưu ý các tôn giả Mahā Moggallāna, Koṇḍañña,
Uruvelā Kassapa, Bhaddiya - đối với một số tỳ-khưu mới gia nhập; họ
thiếu trình độ giáo dục sơ đẳng, tính khí nông nổi, cả tác phong và tư cách lúc
ăn nói, lúc trì bình khất thực dễ làm mất niềm tin của đại chúng. Điều này quan
trọng lắm đấy! Phải lưu tâm nhắc nhở, giáo giới họ một cách thường xuyên. Như
vậy là chúng ta còn thiếu giáo thọ sư. Sau an cư mùa mưa, phải rút Sāriputta và
một số các trưởng lão ở các nơi khác về đây phụ giúp. Kỳ Viên chừng hơn mươi
năm sau mới hội đủ nhân duyên phát triển. Lại nữa, trong mấy năm tới, các quốc
độ bên bờ Bắc sông Gaṅgā sẽ có rất nhiều việc làm, các vị
tỳ-khưu A-la-hán ưu tú phải phát tâm, phải khởi tâm, phải vận dụng từ, nhẫn, xả
và các phương tiện trí nhiều hơn nữa! Hiện nay, các lực lượng chống đối yên
lắng một thời gian nhưng vẫn còn âm ỉ ở đâu đó, có lẽ phải hỗ trợ thêm duyên
lành, ít năm sau, ở vùng này mới yên được.
Hôm kia, đức
Phật đi trì bình khất thực một mình, sau đó lên thẳng núi Gijjhakūṭa(Linh
Thứu), ở trong một hang đá. Đêm ấy, ngài phóng hào quang sáu màu, vì
biết là hội chúng chư thiên và phi nhơn đã đến. Thêm vào đó, núi Linh Thứu cũng
sáng rực lên bởi thần lực của chư thiên. Tứ đại thiên vương dẫn
thuộc hạ tùy tùng đến rất đông, trình diện đức Phật một số thần dân đại biểu để
đảnh lễ ngài, chào mừng ngài, tán thán ngài và dĩ nhiên còn muốn nghe pháp nữa.
Đa văn thiên
vương (Vessavaṇa) cai quản phương Bắc - có thân màu lục, vương
bào, y giáp, mũ miện đều màu lục; tay phải cầm cờ chiến thắng, trên tay trái có
con chuột màu bạc phun ngọc. Tháp tùng Bắc thiên vương có rất nhiều
chư thiên, dạ-xoa và loài kim xí điểu Suppanna và Citrā [i]. Tăng
trưởng thiên vương (Virūḷha), trị vì phương Nam - có
thân màu xanh, vương bào, y giáp, mũ miện đều màu xanh; tay cầm thanh gươm xanh
- biểu tượng trí tuệ chém vô minh. Tháp tùng Nam thiên vương cũng
rất đông chư thiên, dạ-xoa và cưu-bàn-trà (Kumbhaṇḍa) [ii]. Trì
quốc thiên vương (Dhataraṭṭa), lãnh nhiệm phương Đông - có
thân màu trắng, vương bào, y giáp, mũ miện đều màu trắng; tay cầm cây đàn đặc
biệt của cõi trời - mỗi lần đàn lên là làm cho tâm của người nghe trở nên thanh
tịnh. Tháp tùng Đông thiên vương cũng có hằng trăm chư thiên, dạ-xoa
và rất đông càn-thát-bà (Gandhabha) [iii] với
rất nhiều cây đàn hình thù kỳ dị - đủ để tạo nên một giàn nhạc vi diệu! Thứ tư
là Quảng mục thiên vương (Virūpakkha) – có thân màu đỏ,
vương bào, y giáp, mũ miện đều màu đỏ; tay phải cầm con rắn canh giữ ngọc maṇi. Tháp
tùng Tây thiên vương cũng có cả một hội chúng chư thiên, dạ-xoa
và rất nhiều rồng (Nāga)[iv].
Cả bốn hội chúng này vân tụ đầy đặc cả không gian. Một số đến chỉ vì tò mò,
muốn chiêm ngưỡng quý tướng và mỹ tướng của đức Thế Tôn. Một số đến chỉ muốn
hợp tấu vài khúc nhạc để ca tụng tán thán oai đức của bậc Toàn Giác đã chấn
động các cõi trời. Một số dạ-xoa chưa có đức tin thì hờ hững, đứng một bên hoặc
bỏ đi ra bên ngoài. Còn một số đông thiên chúng, dạ-xoa, sau khi nghe pháp, họ đồng
thuận quy y rồi phát lời nguyện hộ trì Tăng chúng, giáo pháp cho được dài
lâu...
Hoan hỷ về thời
pháp, kính ngưỡng hào quang thù thắng của đức Phật; Trì quốc thiên vương nâng
cây đàn lên - như vị nhạc trưởng điêu luyện, với mấy ngón tay bạch ngọc vừa
vuốt nhẹ dây đàn - là cả giàn âm thanh của càn-thát-bà như đồng lúc khởi tấu
một khúc nhạc chưa hề có ở nhân gian. Và lạ lùng làm sao, đằng sau âm điệu du
dương, trầm bổng là mùi hương của cây, của lá, của hoa, của những hương liệu dị
kỳ tỏa ngát giữa không gian! Chưa thôi, giữa dòng âm thanh như những làn sóng
thanh khí, mềm mại, uyển chuyển, dịu dàng như nâng bổng tâm hồn lên cao, lên
cao mãi, như hòa nhập với mây xanh là lời ca phiếu diễu, phiêu bồng bằng ngôn
ngữ của cõi trời - không phải ai cũng nghe được, cũng hiểu được...
Đức Phật mỉm nụ
hoa sen - lắng nghe thử mấy ông trời nhạc sĩ này ca tấu cái gì...
Họ ca rằng:
“-
Ôi! diễm tuyệt làm sao!
Huyền
nhiệm xiết bao!
Như
vầng mây trắng
Kết
thành đài hoa
Người hiện xuống giữa trần gian
Sạch
trong, vô nhiễm!
Như
hạo khí nghiêng chao đỉnh Sineru
Nghiêng
chao thiên vương bốn cõi
Người bước ra khỏi Marā
Bước
ra khỏi vô minh tối ám!
Như
một mặt trời
Như
một vầng trăng
Hợp
hôn giờ hoàng đạo
Giáo
pháp bất tử của Người
Ban
phát bởi từ tâm và trí tuệ
Lừng
lững giữa vô cùng
Lừng
lững giữa thế gian
Lừng
lững không thời gian
Chưa
bao giờ lặn tắt!”
Đến ngang đây
thì âm ba, cung bậc thay đổi đột ngột, như réo rắt hơn, dìu dặt hơn:
“-
Ôi! người ôi!
Có
thấy chăng,
Như
chiếc cầu vồng lung linh bảy sắc
Vút
qua giữa nghìn trùng hư vô
Vút
qua giữa bít bùng khổ đau, sự chết
Để
đón em-bất-diệt-vô-sanh
Để
đón tình yêu Nibbāna tinh khôi, vĩnh cửu!
Chàng
càn-thát-bà hát ca
Nàng
dạ-xoa khiêu vũ
Từ
cung điện miền Đông dập dờn xiêm lụa
Đến
bảo tháp non Tây yêu kiều tiên nữ
Và
cả Bắc, Nam thánh thót cung đàn
Ôi
trái tim, nhịp đập miên man
Trào
cảm xúc hương mạn-thù thơm ngát
Víu
bắt hạt sương
Như
đôi mắt em long lanh, tinh anh, trong suốt
Víu
bắt niềm vui
Như
mùa xuân em - tươi rạng nụ cười
Và
nắng ấm sát-na tâm
Lấp
lánh tiếng lời
Cho
từng hạt bụi đời
Thành
giọt bảo châu trong vắt!”
Đến đây thì ca
từ, âm tiết có vẻ chậm rãi, yên bình và thanh thản:
“-
Ôi!
Trần
gian có nghe chăng,
Ngàn
lá, ngàn hoa nẩy hương, nẩy ngọc
Và
gió và mây hòa chan, náo nức
Biển
thẳm, non sâu phơi phới, hỷ hoan
Giáo
hội đức Tôn Sư mở sáng con đường
Vô
lượng a-tăng-kỳ cung nghinh, chiêm bái
Hãy
lắng nghe ca từ
Chim
Ca-lăng-tần-già líu lo, mê mải
Tán
thán Người - nhân cách thiên thu!
Tán
thán Người - mở xiềng xích ngục tù
Cho
vô lượng chúng sanh
Duyên
lành siêu thoát
Khúc hợp xướng
chấm dứt, cả bốn hội chúng đồng reo hò rung chuyển cả không gian.
Đức Phật nói:
- Này, Trì
quốc thiên vương! Ngươi và hội chúng càn-thát-bà của ngươi ca tụng, tán
thán Như Lai – mà sao ở đấy có lẫn lộn một khúc tình ca như thế?
- Chúng đệ tử
chỉ biết cúng dường bằng ngôn ngữ và âm thanh – Trì quốc thiên vươngđáp -
Và đấy là tấm lòng của chúng đệ tử - bạch đức Thế Tôn!
- Nó hay đấy! Đức
Phật mỉm cười – Như Lai mong rằng, các ngươi “hộ trì chánh
pháp” cũng hay như thế!
Tứ đại thiên
vương đồng khấu đầu phát nguyện:
- Tất thảy
chúng đệ tử sẽ đồng tâm hộ trì Tam Bảo và hộ trì quốc độ! Tuy nhiên, bạch đức
Thế Tôn! Trong hội chúng do chúng con cai quản vẫn còn rất nhiều dạ-xoa nhiều
thần lực và ít thần lực; chúng không tin tưởng Tam Bảo, vẫn đang còn sống với
ác giới, bất chánh, tà tâm... Chuyện đã xảy ra, đang xảy ra, nơi này và nơi kia
– chúng hủy báng Tam Bảo, phá rối sự tu tập của tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, sa-di,
sa-di-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di... Vậy, trong bốn chúng, khi đang an cư tu tập ở
bất cứ đâu, dẫu trong rừng sâu, động vắng, nghĩa địa, miếu hoang, giữa xóm
làng... nếu cảm thấy bất an, sợ hãi, cảm giác sợ phi nhân quấy phá thì
xin đức Thế Tôn cho phép họ đọc to lên, đọc tụng lớn tiếng tên của những
dạ-xoa, đại dạ-xoa, quân sư, đại quân sư có nhiều oai lực, có nhiều thần lực
sau đây, thì tức khắc sẽ được an ổn. Đó là: “ Inda, soma, vā varuna,
Bhāradvaja, Pajāpati, Candana, Kāmasettha, Khinnughandu, Nighandu, Panāda vā
Opamanna.” [v]
Đức Phật chấp
thuận. Họ vô cùng hoan hỷ, đảnh lễ ngài rồi biến mất giữa không gian.
Một tháng an cư
diễn ra bình thường. Đức Phật thuyết rất nhiều thời pháp ở đây và cũng rất
nhiều thời pháp ở núi Linh Thứu. Đặc biệt, đức Phật thuyết một thời pháp nói về
trị quốc, an dân; phải cải cách chính sách cho dân giàu nước mạnh, muôn người
an vui, hạnh phúc - tại triều đình đức vua Seniya Bimbisāra, gồm mười
điểm nổi bật sau đây:
Thứ
nhất là rà soát lại các tội tử hình,
tội chung thân khổ sai, giảm miễn các hình phạt quá đau đớn về thân thể. Các
hình thức như lóc thịt, năm ngựa phanh thây, chặt đầu ba khúc, chặt chân, chặt
tay... đều phải bị bãi bỏ; chỉ gia trọng tội hình bằng cách tăng gia sản xuất,
làm việc tại các xưởng công nghệ; và do thành quả lao động, các năm tù tội sẽ
được giảm khinh.
Thứ
hai là các ông chủ ngân hàng giảm
bớt tiền cho vay quá nặng lãi; các ông chủ nghiệp đoàn, chủ các công nghệ, công
xưởng phải trả đồng lương cho thầy thợ tương ứng khả năng và sức lao động để
cho họ đủ ăn đủ mặc.
Thứ
ba là tôn kính, cúng dường các
sa-môn, đạo sĩ; giữ gìn truyền thống văn hóa, các phong tục, mỹ tục, các lễ
tiết, lễ hội, cúng tế tổ tiên và mùa màng!
Thứ
tư, người cày phải có ruộng, giảm
thuế nông nghiệp, cung cấp phân, giống và hướng dẫn kỹ thuật canh tác. Khuyến
khích các ngành nghề thủ công. Giảm bớt thuế má lâm sản, khoáng sản và hải sản.
Thứ
năm là cấm ngược đãi, áp bức nữ giới;
đối xử tốt với gia nhân, người làm công, giới chiên-đà-la.
Thứ
sáu là khuyến khích sự học cho con
em, cấm bóc lột sức lao động trẻ em.
Thứ
bảy là lập các trại chẩn bần, cứu
tế, mở bệnh xá - chữa bệnh cho dân và cấp phát thuốc men cho dân.
Thứ
tám, mở thêm các hí trường lộ thiên,
các nhà nghỉ cộng cộng, cơ sở vệ sinh; làm thêm các công viên, vườn hoa, trồng
thêm cây xanh.
Thứ
chín, nạo vét kênh mương, đào thêm giếng
nước ở các trấn thành cũng như ở xóm làng.
Thứ
mười, cấm buôn bán người làm nô lệ. Cấm
giết súc vật để cúng tế.
Do chính sách
cải cách tiến bộ, vì dân và cho dân thật sự - được giáo hóa bởi đức Phật nên uy
tín của giáo hội ăn sâu vào quần chúng. Các giáo phái khác ở đây vẫn được đức
vua tôn trọng, đối xử công bằng – nhưng họ cũng bị co cụm dần trước sự phát
triển lớn mạnh của giáo pháp chơn chánh đầy lẽ phải và tình thương giữa cuộc
đời và trong lòng người.
[i] Loài hóa sanh - phước báu thù thắng hơn
loại do noãn, thai và thấp sanh – uy lực hơn cả loài rồng.
[iii] Là những vị thiên đặc biệt có khả năng
đàn, ca, xướng, hát; có vị trú hương rễ cây, có vị trú hương lõi cây, có vị trú
hương giác cây, có vị trú hương của hoa, có vị trú hương của vị, có vị trú
hương của hương - đời sống tinh thần khá thanh khiết, phước báu cao hơn cõi
người rất nhiều..
[iv] Loại hóa sanh, phước báu thù thắng hơn các
loại rồng do noãn, thai, thấp sanh. (Tất cả những phi nhơn này có nhiều dị bản;
và tên gọi quỷ, thần hoặc dạ-xoa – có khá nhiều sai khác)
[v] Xem thêm Trường bộ kinh II, kinh
Ātanatiya.. Ở đây chỉ trích một ít – là dấu hiệu sớm nhất của Mật tông sau này!
Kinh Đại hội, Trường A-hàm, Tuệ Sỹ dịch và chú, NXB Phương Đông,
năm 2008 – có dấu ấn Mật tông rất rõ – do Hán tạng phiên âm chứ không dịch
nghĩa. Kinh tương đương của Nikāya thì rất mờ nhạt về Mật tông.
Chuyện tình của chàng nhạc sĩ Càn-thát-bà
Sớm hôm kia,
không thông báo với ai, đức Phật ôm bát đi khất thực một mình. Sau khi thấy vật
thực vừa đủ dùng, ngài ra phía ngoại ô, đi mãi về hướng Đông thành Vương Xá(Rājagaha). Tại
làng Ambasaṇḍā, trên núi Vediyaka đức Phật ngồi dưới gốc cây độ ngọ. Vì trời
mưa lất phất và gió lạnh, ngài tìm vào hang động Indasāla để nghỉ trưa, sau đó,
trú sâu vào đại định – là nơi tĩnh cư của bậc thánh. Đức Phật thấy có sự hữu
duyên để hóa độ một chúng sanh lớn nên ngài tìm đến đây.
Trời Sakka vừa
được Tứ đại Thiên vương lên chầu kể lại là vừa xuống Veḷuvana để
thăm viếng đức Phật, sau đó tấu nhạc ca, rải hoa hương tán thán ngài như thế
nào.
Trời Sakka mấy
lúc này cơ thể rịn mồ hôi, mệt mỏi, rã rời dường như không còn hơi sức, màu sắc
thiên bào và những tràng hoa mau phai nhạt, cảm giác chán nản ngũ dục - biết
đấy là dấu hiệu sắp từ giã cõi đời – nên muốn xuống hầu Phật để nghe ngài giáo
giới. Giấu chuyện buồn của mình, trời Sakka cười vui rồi nói:
- Các vị đã đến
trước ta! Ta cũng đang muốn xuống đảnh lễ, tán thán ngài, sau đó sẽ hỏi ngài
vài câu hỏi quan trọng về sự sinh tử, về sự vui khổ của đời người. Một bậc
Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian là khó lắm, chư vị biết không?
- Vâng! Hy hữu
lắm! Vậy thì thiên chủ cứ đi, thưa thiên chủ!
- Ừ, ta sẽ đi!
Vậy thì ta cùng với chúng chư thiên mang theo vị nhạc sĩ trưởng của thiên đình,
có được không?
- Được lắm! Quý
hóa lắm!
Sau khi Tứ đại
Thiên vương đi rồi, trời Sakka cho triệu tập chúng thiên Nam, thiên nữ 33
tòa cung điện, nói lý do cuộc thăm viếng này. Ai cũng hoan hỷ chuẩn bị sắc
phục, mũ miện, trang điểm châu ngọc sáng ngời, phướn lọng rực rỡ, hoa hương
thơm ngát...
Đế Thích cho
gọi viên nhạc trưởng phụ trách ban ca vũ nhạc thiên đình là Pañcasikhā đến...
Pañcasikhā là ai?
Cả thiên đình,
hầu như ai cũng cảm thương chuyện tình của chàng nhạc sĩ tài hoa này. Các bậc
có thắng trí kể lại rằng, thời Phật Kassapa, chàng là một trẻ chăn bò lêu lổng,
ham chơi, ca hát líu lo suốt ngày như trẻ nít. Lớn lên, cái tính ham chơi, lêu
lổng vẫn y như cũ, không chịu làm người lớn. Được cái là chàng kính tin Tam
Bảo, luôn luôn tìm cách phục vụ đức Phật và chư Tăng. Nghiệp ấy, mệnh chung, chàng
hóa sanh làm con của càn-thát-bà nhạc sĩ trưởng của thiên đình. Vì không thích
làm người lớn, tính khí, thói quen sao thì nghiệp tạo như vậy - nên hình vóc
chàng như chú tiên đồng mũm mĩm, da dẻ hồng hào, với 5 chỏm tóc trên đầu, ai
cũng gọi là Pañca-sikhā, lâu trở thành tên[i].
Do mầm giống cầm ca, nối nghiệp cha, Pañcasikhā phụ trách ban vũ nhạc kịch của
cung đình. Nghệ sĩ là giống đa tình, chàng yêu si mê cô tiên nữ Suriya Vaccasā
con của tiên ông Timbaru; nhưng trái ngang thay, cô tiên này không yêu chàng - cậu
tiên càn-thát-bà [ii] con nít trông như trái đào có 5 chỏm
tóc ấy – mà lại yêu thương Sikhaddhi, là con trai của Mātali, người đánh xe
thân cận của Sakka!
Đế Thích nói
với viên nhạc sĩ trưởng:
- Này,
Pañcasikhā! Con có chuẩn bị sẵn được một bản nhạc, một ca từ nào
tối thượng để dâng tặng bậc Chánh Đẳng Giác không?
- Dạ thưa, có
ạ! Một khúc nhạc ca tuyệt vời!
Pañcasikhā nghĩ
là tuyệt vời – vì thất tình, chàng nhạc sĩ đã sáng tác một ca khúc, như tiếng
nhạc lòng chưa thổ lộ với ai, chưa tấu cho ai nghe! Hôm nay, chàng muốn dâng
lên đức Thế Tôn nhạc khúc với ca từ vi diệu ấy, như được chắt ra từ máu của
trái tim chàng! Và đấy chính là biểu lộ sự kính trọng tối thượng của chàng với
đức Thế Tôn!
- Thế là tốt!
Này Pañcasikhā! Ta nhờ ngươi một việc có được không?
- Xin thiên chủ
cứ nói!
- Đến viếng
thăm đức Thế Tôn có vẻ đường đột như thế này ta rất ngại. Các đức Chánh Đẳng
Giác thường thích chỗ an cư tĩnh lặng. Vậy thì làm thế nào, khúc nhạc ca của
ngươi, khi lọt vào tai đức Thế Tôn mà không quấy nhiễu ngài, lại còn như bước
thăm dò, để rồi sau đó, ta được ngài cho tiếp kiến, được chăng?
- Dễ dàng thôi,
thưa thiên chủ! Pañcasikhā tự tin đáp - Lời ca tiếng nhạc của
con thì tảng đá cũng phải nghiêng tai, gió bão đi qua cũng phải ngưng lại; và
những đám mây lang thang giang hồ kia cũng phải dừng chân giây lát để thảng
thốt mà lắng nghe! Thiên chủ cứ yên chí đi! Đức Thế Tôn sẽ tiếp ngài bởi lời
ca, tiếng hát và khúc nhạc cầm vi diệu của con!
- Ừ, vậy thì
như thế này, Pañcasikhā! Hiện giờ đức Thế Tôn đang ở tại làng Ambasaṇḍā, núi
Vediyaka, trong hang động Indasāla – phía Đông thành Rājagaha. Khi xuống dưới
đó, ta và hội chúng chư thiên sẽ ngự giữa làng, xung quanh núi; còn ngươi thì
tìm đến chỗ phải lẽ, không gần quá, không xa quá, chỉ vừa đủ cho tiếng nhạc du
dương của nhà ngươi lọt vào tai ngài mà không làm phiền rộn ngài, được chăng?
Chú tiên đồng
năm chỏm tóc tuân mệnh. Thế là từng đám mây... từng đám mây đủ màu, sáng rực,
chói ngời giữa không gian, trong đêm, thoáng chốc đã bay đến nơi dự định. Họ
ngự lác đác giữa làng và xung quanh núi Vediyaka.
Lúc ấy, đêm
chưa khuya. Dân chúng quanh vùng hớt hải, ngạc nhiên vùng thức dậy. Họ ào ào ra
sân, ra vườn:
- Núi Vediyaka có
lẽ bị cháy?
- Núi Vediyaka có
lửa sáng rực?
- Bên trên ngôi
làng Ambasaṇḍā cũng thế!
Có bậc thức giả
nhiều kiến văn, chăm chú nhìn hiện tượng lạ, nói rằng:
- Không phải
đâu, chư vị! Giữa hư không thế kia thì đâu có cỏ, có rác, có cây khô... mà lửa
cháy!
- Đúng rồi! Vậy
thì cái gì mà sáng rực vậy?
- Có lẽ đấy
là ánh sáng của chư tiên ở cõi trời!
- Thế à? Họ
hiện xuống đây làm gì?
- À, xem nào? Một
người nói - Ở núi Vediyaka chắc hẳn có bậc đại thánh nhân nào ngụ cư ở
đấy rồi chăng? Đây là hiện tượng chư tiên xuống chầu!
- Phải rồi!
Nghe nói hồi trưa nay, có đại sa-môn Gotama đi sâu vào trong đó!
- Đích thị rồi!
- Vậy thì sớm
mai, chúng ta hãy vào đảnh lễ, cúng dường ngài cho có phước! Là vị đại A-la-hán
đấy!
Trong lúc ấy,
Pañcasikhā cầm cây đàn Beḷuva, cẩn trọng tìm chỗ vừa tầm, đứng không gần, không
xa hang núi Indasāla. Lựa tìm một chỗ ngồi, lắng nghe hướng gió, chàng dạo đầu
một khúc nhạc như âm thanh tự nhiên giữa đất trời: Đấy là tiếng lá reo qua cành
trúc, là tiếng suối chảy giữa khe sâu, là tiếng muôn chim hợp tấu giữa rừng
xuân! Chàng nhạc sĩ nghĩ thầm: “Ta không dám đánh lừa lỗ tai của đức Đại
Giác – nhưng ta phải lấy âm thanh tự nhiên ấy, chuyển mạch, chuyển tiết tấu để
đi vào khúc đàn lòng của ta mới không đột ngột!”Pañcasikhā bèn
nghĩ tiếp rằng:“Vậy cũng chưa đủ, chưa xứng với danh tài của ta! Bọn
càn-thát-bà nhạc sĩ “tỉnh lẻ”, thuộc hạ của Trì Quốc thiên vương kia, khi tấu
nhạc, nhạc còn tỏa mùi hương của lá, của hoa... thì ta cũng cho vào nhạc những
hương liệu của cõi trời mà nhân gian này không có được!” Thế rồi, khúc
nhạc quyện lẫn với ca từ vi diệu, quyện lẫn với những mùi hương lạ lùng - đã
được tấu lên, được hát lên... tha thiết... mê ly... say đắm làm xao xuyến cả
trời đất, cỏ cây.
Đức Phật lúc ấy
đã xuất định. Ngài biết mọi chuyện. Ngài biết rõ khúc nhạc tình si mê của
Pañcasikhā, cả nhân và quả của nó, cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Đức Phật
mỉm nụ cười trong tâm, ngài lắng nghe từ đầu.
“-
Ôi! Suriya Vaccasā!
Ta
đảnh lễ Timbaru
Bậc
thân phụ của nàng
Đã
sanh nàng thiên nữ
Nguồn
hạnh phúc của ta
Như
gió cho kẻ mệt
Như
nước cho kẻ khát
Nàng
là tình của ta
Như
Pháp với đức Phật
Như
thuốc cho người bệnh
Thức
ăn cho kẻ đói
Thiên
nữ với nước mát
Hãy
dập tắt lửa tình!
Như
voi bị nắng thiêu
Tắm
mình hồ nước ngọt
Có
cánh sen, nhụy sen
Cũng
vậy, ta muốn chìm,
Chìm
sâu vào ngực nàng
Như
voi bị xiềng xích
Hất
móc câu, gậy nhọn
Ta
điên vì ngực nàng
Hành
động ta rối loạn
Tâm
ta bị nàng trói
Tháo
gỡ thật vô phương
Rút
lui cũng bất lực
Như
cá đã mắc câu
Hiền
nữ hãy ôm ta
Trong
cánh tay của nàng!
Hãy
ôm ta, nhìn ta
Trong
ánh mắt dịu hiền
Hãy
ghì chặt lấy ta!
Thiên
nữ, ta van nàng!
Ôi!
Hiền nữ suối tóc!
Ái
dục ta có bao,
Nhưng
nay đã tăng bội!
Như
đồ chúng đức Phật,
Mọi
công đức ta làm
Xin
dâng lên đức Phật!
Ôi!
Kiều nữ toàn thiện,
Nàng
là quả cho ta
Công
đức khác của ta
Đã
làm trên đời này
Ôi!
Kiều nữ toàn thiện,
Nàng
là quả của ta
Vị
Thích tử thiền tu
Nhất
tâm và giác tỉnh
Tầm
cầu đạo bất tử
Cũng
vậy, ta cầu nàng!
Như
người tu sung sướng
Chứng
bồ-đề tối thượng
Kiều
nữ, ta sung sướng
Được
nhập một với nàng!
Nếu
thiên chủ Sakka
Cho
ta một ước nguyện
Ta
ước nguyện được nàng
Vì
ta quá yêu nàng
Như
ta-la sanh quả
Tuệ
nữ, phụ thân nàng
Ta
sẽ đảnh lễ ngài
Vì
sanh nàng toàn vẹn!” [iii]
Khúc nhạc tình
si chấm dứt mà nước mây núi rừng Vediyaka còn bồi hồi, xao xuyến.
Cả không gian chợt lắng lại như còn chìm sâu trong âm hưởng mộng mị.
Đức Phật cất
giọng phạm âm, nghe rõ mồn một trong tai hội chúng chư thiên, nhất là với chàng
nhạc sĩ:
- Này
Pañcasikhā! Âm thanh những sợi dây đàn của ngươi hòa điệu tuyệt vời với ca từ,
với giọng hát của ngươi, và ngược lại. Cầm đàn không thêm sắc màu gượng ép cho
ca từ mà ca từ cũng không phô trương, cường điệu so với cầm đàn. Đúng là nhạc
sĩ trưởng tài hoa của thiên đình! - Tiếng của đức Phật chợt như đi
xuyên vào tâm não của chàng nhạc sĩ hơn -Nhưng mà này Pañcasikhā! Ngươi
sáng tác khúc ca ấy lúc nào, duyên cớ bởi sao mà ngươi dám ví nàng ấy và ngươi
- giống như Pháp với Như Lai? Ngươi tầm cầu nàng lại đem so như hành giả tầm
cầu đạo bất tử? Ngươi sung sướng nhập một với nàng lại xem như Thích tử chứng
bồ-đề tối thượng? [iv]
Pañcasikhā cất
giọng sầu não:
- Đúng vậy! Đức
Thế Tôn la rầy con là đúng lắm! Con sáng tác khúc ca ấy vào thuở ngài thành đạo
dưới cội bồ-đề, nghĩa là vừa mới đây thôi. Biết sao hơn, đối với con, nàng là
tối thượng. Ca từ và nhạc điệu vừa rồi là tiếng lòng vi diệu nhất của con. Vậy
sự so sánh, ví von ấy, đối với con, bây giờ đây - là chân thật nhất, là tối
thượng nhất, bạch đức Thế Tôn!
Rồi, anh chàng
nhạc sĩ “cả gan” kể lại chuyện tình của mình cho đức Phật
nghe!
Đế Thích thiên
chủ tự nghĩ: “Đức Phật không đuổi Pañcasikhā mà chăm chú lắng nghe, còn tỏ
vẻ thông cảm với anh chàng nhạc sĩ si tình này nữa! Ta có cơ hội rồi!”
Pañcasikhā, sau
đó, không quên nhiệm vụ của mình:
- Bạch đức Thế
Tôn! Thiên chủ Sakka, đình thần và thuộc hạ thiên chúng mong được diện kiến,
đảnh lễ, vấn an sức khỏe của Người; sau đó được học hỏi về giáo pháp.
Đức Phật im
lặng nhận lời. Thế rồi, khi thiên chủ Sakka và hội chúng được phép đi vào; họ
dùng thần lực làm cho chiếc hang sáng và rộng thêm ra. Ai cũng đến đảnh lễ đức
Phật và tìm đứng nơi phải lẽ.
Đức Phật nói:
-Thật là đột
ngột khi thiên chủ ghé thăm Như Lai! Thật là kỳ diệu khi thiên chủ có nhiều
trách nhiệm để gánh vác – mà còn có thì giờ vân du đến hang núi này.
- Bạch đức Thế
Tôn! Quả thật vậy, cõi trời 33 thật quá nhiều việc phải làm. Nay bị ngăn trở
việc này mai bị ngăn trở việc khác nên không thể đến hầu đức Thế Tôn thường
xuyên được!
Đức Phật biết
tâm tư và nguyện vọng của Sakka nên bắt đầu chuyển hướng câu chuyện:
- Ừ, Như Lai
biết thiên chủ có đức tin – nhưng nhiều thuộc hạ của thiên chủ chưa có đức tin.
- Quả thật vậy,
bạch đức Thế Tôn! Có nhiều việc lợi ích hiện tiền, thấy rõ trước mắt nhưng con
cũng chưa thuyết phục được thuộc hạ của con. Con đã từng nói với họ rằng, lúc
nào một đức Chánh Đẳng Giác xuất hiện thì thiên giới tăng thịnh còn A-tu-la suy
giảm. Rồi con kể ví dụ cụ thể cho họ nghe. Thuở đức Thế Tôn về thăm
Kapilavatthu, có Thích nữ Gopakā đã già, kính tin Tam Bảo, đầy đủ quy giới, khi
thân hoại mạng chung, được sanh thiên giới, làm một vị thiên tử, là con trai
của con, được thọ hưởng phú túc năm món dục lạc. Ngược lại có ba vị tỳ-khưu mà
Thích nữ kia thường hộ độ, do tu hành mà còn lơ là, còn quá ham chơi nên được
sanh làm càn-thát-bà hạ đẳng, phải hầu hạ vị thiên tử kia. Xét như vậy, Tam Bảo
là phước điền vô thượng, ai không có đức tin, không có quy giới, không biết bố
thí, cúng dường, không lo tu tập thì thật uổng phí một đời!
Từ tâm và trí
của Đế Thích được dọn sạch như vậy; và những câu hỏi của ông ta liên hệ những
ác pháp, tương duyên phát sanh như thù nghịch, ác ý, tật đố, xan tham, ưa
ghét...vọng tưởng, hý luận... rồi nào là hỷ, ưu, xả trên lộ trình tiến tu như
thế nào - đức Phật đã cặn kẽ từng điểm một, giải thích chu đáo cho Đế Thích
nghe hiểu. Cuối buổi vấn đáp, Đế Thích thâu hái được những điều lợi ích sau
đây: Thấy được tái sanh, sáng suốt chọn thai bào, sống với chánh niệm, tỉnh
giác, tương lai sẽ gặt quả bồ-đề, hết thân cõi trời sẽ hóa sanh vào sắc cứu
cánh thiên (Akaniṭṭha) rồi Niết-bàn ở đấy không trở lại trần
gian nữa! Nói cách khác, Đế Thích hân hoan quá khi biết mình đã thấy pháp, đã
bất thối với Con Đường! Còn nữa, còn điều kỳ diệu nữa, ngoại trừ đức Phật,
không ai thấy, là Đế Thích mạng chung rồi hóa sanh ngay tức khắc trở lại làm Đế
Thích với sinh lực cuồn cuộn như được thay da đổi thịt, thay thân hoán cốt.
Hỷ lạc đầy ắp
cả người, Đế Thích nói:
- Này
Pañcasikhā! Ngươi đã giúp ta quá nhiều việc; và tối thượng nhất là nhờ ngươi mà
ta được diện kiến đức Thế Tôn, được nghe những lời pháp bất tử! Để đền ơn
ngươi, thứ nhất là từ bây giờ, ta đặc phong cho ngươi làm vua càn-thát-bà với
đầy đủ mọi danh vọng và mọi danh xưng, uy nghi, hiển hách! Thứ hai, ta sẽ đóng
vai thân phụ ngươi rồi ta sẽ tìm cách cưới nàng Suriya Vaccasā làm vương hậu cho
ngươi, được chưa?
Vậy là chuyện
tình si của chàng nhạc sĩ Pañcasikhā chấm dứt, từ rày về sau, ta
chỉ còn được biết đến, Pañcasikhā - ông vua càn-thát-bà cao sang mà thôi!
[i] Pañca là số năm, sikhā là chòm, là chỏm.
[ii] Tuy vẫn ở cõi tiên nhưng thân phận thấp
kém, phải hầu hạ chư thiên, ví dụ biểu diễn ca vũ nhạc kịch...cho các vị vua
trời và thiên chúng xem.
[iii] Xem Đế Thích sở vấn, Trường bộ kinh 2,
trang 150 – 153.
[iv] Nhận thấy đây là câu chuyện thú vị, độc
nhất, hy hữu trong Tam Tạng – nên tác giả xin cung cấp thêm một dị bản - Trường
A-hàm, do Tuệ Sỹ dịch và chú. Kinh văn đoạn này như sau: “ Rồi ông (Pañcasikhā
– Ban-giá-dực) cầm đàn lưu ly đến trước Phật. Cách Phật không xa, ông tấu đàn
lưu ly, và hát lên bài kệ rằng: Bạt-đà ơi! Kính lễ phụ thân nàng. Sinh ra nàng
cát tường. Mà tâm ta rất thương yêu. Vốn do nhân duyên nhỏ. Dục tâm sinh trong
đó. Càng ngày càng lớn thêm. Như cúng dường La-hán. Thích tử chuyên bốn thiền.
Thường ưa chốn thanh vắng. Chính ý cầu cam lồ. Tâm niệm ta cũng vậy. Đức Năng
Nhân phát đạo tâm. Tất muốn thành Chánh Giác. Như tôi nay cũng vậy. Ước ao hội
họp với người con gái ấy. Tâm tôi đã đắm đuối. Yêu thương không dứt được. Muốn
bỏ, không thể bỏ. Như voi bị móc câu kềm chế. Như nóng bức mà gặp gió mát. Như
khát mà gặp con suối lạnh. Như người nhập Niết-bàn. Như nước rưới tắt lửa. Như
bệnh gặp lương y. Đói, gặp thức ăn ngon. No đủ, khoái lạc sinh. Như La-hán an
trú pháp. Như voi bị câu móc kềm chặt. Mà vẫn chưa khứng phục.Bươn chạy, khó
chế ngự. Buông lung chẳng chịu dừng. Cũng như ao trong mát. Mặt nước phủ đầy
hoa. Voi mệt, nóng, vào tắm. Toàn thân cảm mát rượi. Những gì trước, sau, tôi
bố thí. Cúng dường các La-hán. Và phước báu tôi có trong đời. Thảy mong được
cùng nàng. Nàng chết, tôi cùng chết. Không nàng, sống làm gì? Chẳng thà tôi
chết đi. Còn hơn sống không nàng. Chúa tể trời Đao-lỵ. Thích chúa, nay cho tôi
ước nguyện. Tôi đã ca ngợi người đủ lễ tiết. Xin người suy xét kỹ.” Khi ấy, Thế
Tôn xuất khỏi tam-muội, nói với Ban-giá-dực rằng: “ Hay lắm! Hay lắm!
Ban-giá-dực! Ngươi đã có thể bằng âm thanh thanh tịnh hòa với đàn lưu ly mà tán
thán Như Lai. Tiếng của đàn và giọng của ngươi không dài, không ngắn, buồn và
thương uyển chuyển làm rung động lòng người. Khúc đàn mà ngươi tấu hàm đủ các ý
nghĩa. Nó nói đến sự trói buộc của dục, và cũng nói đến phạm hạnh, cũng nói đến
sa-môn, cũng nói đến Niết-bàn!”
Vesàli thiên tai, dịch họa
Qua tháng thứ hai an cư, xảy ra một
biến cố. Chuyện là, miền Nam sông Gaṅgā trời đổ mưa liên
tục từ ngày này sang ngày khác; nhưng suốt bốn năm tháng nay, phía Bắc lại
không có một giọt mưa. Thế là một thảm họa đổ xuống các tiểu bang ở đây, nhất
là kinh thànhVesāli: Đất đai nứt nẻ, đồng ruộng, nương vườn khô cháy; mùa
màng thất bát, lúa gạo dự trữ không đủ sức cầm hơi, rau cỏ không có
mà ăn. Thế là đói khát trầm trọng (dubbhikkhan-tarakappa) xảy
ra. Đó là nạn thứ nhất. Vì đói nên người chết rất nhiều, người sống
không còn đủ sức mang xác ra nghĩa địa hoặc hỏa thiêu; họ chỉ việc quăng xác ra
ngoại thành, mùi hôi thối tỏa khắp mọi nơi. Ác dạ-xoa lộng hành quậy phá làm
khổ dân chúng. Đó là nạn thứ hai.Vì xác chết, vì hôi thối nên dịch
bệnh lan tràn; nhất là bệnh đường ruột, bao tử (vì gặp cái gì ăn được
là ăn), bệnh dịch tả (các nguồn nước cạn kiệt bị ô nhiễm) càng
làm cho người chết nhiều thêm nữa. Đó là nạn thứ ba!
Các đức vua và hội đồng tướng lãnh
các tiểu bang cộng hòa cấp tốc hội họp, đề cử một viên đại thần, tên là Mahāli -
vốn là thân hữu của đức vua Seniya Bimbisāra – làm trưởng đoàn sứ
giả, mang lễ phẩm trọng hậu đến Rājagaha, nhờ đức vua giúp đỡ, trình
lên đức Phật, mong ngài đến tiểu bang Licchavī, kinh thành Vesāli để
cứu khổ cho muôn dân. Đức vua không dám nhận hậu tình, bảo rằng đoàn sứ giả nên
đến đảnh lễ đức Phật, dâng lễ phẩm và tường trình mọi sự lên ngài, hiện ngài
đang an cư ở Trúc Lâm với đại chúng tỳ-khưu!
Tôn giả Mahā Moggallāna đứng
một bên, sau khi nghe viên đại thần Mahāli trình bày ba thảm nạn tại Vesāli, rồi
khẩn cầu đức Phật giải họa, tự nghĩ: “Trong con mắt của thế gian, đức
Thế Tôn không những thuyết giáo con đường giác ngộ, giải thoát – mà bây giờ
ngài còn là một bậc Đại Siêu Nhân (Mahāpurisa), có thể có khả năng điều động
thiên nhiên, kêu gió gọi mưa như các bà-la-môn phù thủy! Tuy nhiên, không những
đức Tôn Sư làm được, mà các vị thượng thủ A-la-hán cũng làm được. Đấy chỉ là sự
vận hành tâm-sinh-vật lý tương quan, tương tác lẫn nhau! Trong trường hợp này,
năng lực của tâm là tăng thượng – có thể dẫn dắt, điều động các năng lực khác!”
Đức Phật đã sớm biết chuyện này,
ngài nói:
- Các ông hãy về đi! Như Lai và hội
chúng năm trăm tỳ-khưu sẽ đến Vesāli trong mươi, mười mấy hôm nữa!
Như Lai đã có duyên với hoàng tộc Licchavī và dân chúng Vesāli–
thì Như Lai sẽ cố gắng trong khả năng của mình!
Lúc phái đoàn sứ giả ra về rồi, Đức
Phật nói chuyện với vị đại đệ tử:
- Này Moggallāna! Ông nghĩ
đúng đấy! Tuy nhiên, ba thảm nạn của Vesāli xảy ra là do ba nguyên
nhân tương tác lẫn nhau: Thứ nhất là do nắng nóng khô hạn, thứ
hai là do ác pháp phát sanh từ các người lãnh đạo, thứ ba là
do chư thiên, thiện thần, thiện dạ-xoa bỏ đi. Bây giờ, ông hãy gọi Ānanda đến
đây!
Sau khi có mặt cả hai vị, đức Phật
nói:
- Ānanda có trí nhớ rất
tốt, vậy phải học bài kinh uy lực của Tam Bảo mà Như Lai sẽ đọc sau đây, nó có
tên là Ratanasutta; sau khi thuộc rồi, ông hãy lựa chọn mấy trăm vị
tỳ-khưu còn trẻ, trí nhớ tốt, tức tốc dạy cho họ học thuộc bài kinh ấy! Còn Moggallāna thì
vào hoàng cung, gặp đức vua Seniya Bimbisāra, gợi ý là nên hỗ
trợ cho Vesāli trong lúc đói kém, khoảng chừng một ngàn xe lương
thực; và đức vua cũng nên cử quan đại thần và quân đội đích thân vận chuyển;
chuẩn bị xong lúc nào là lên đường ngay lúc ấy; cứu đói như cứu lửa -
phước báu sẽ rất lớn; và nhờ thế, tâm đức của đức vua sẽ sáng chói và lan rộng
khắp cả châu Diêm-phù-đề! Cũng trình với đức vua là cho Jīvaka Komārabhacca, các
trợ lý lương y, nhân viên cùng thuốc men để trị bệnh dịch tả cùng những biến
chứng về bao tử, đường ruột...
Đại đức Ānanda làm trọn
phận sự của mình, có năm trăm tỳ-khưu cùng học thuộc lòng. Còn đức vua Seniya
Bimbisāra thì sẵn sàng hoan hỷ đáp ứng gợi ý thích đáng ấy; và còn hơn thế
nữa - do mùa màng đất nước này bội thu - nên đã trợ cấp hào sảng hai ngàn xe
lương thực để cứu đói. Lại còn rộng lượng cho vay thêm một ngàn tấn lương thực
nữa, thời gian trả, không hạn định; lúc nào mùa màng bội thu, phú túc hẵng sẽ
trả sau, không lấy lãi!
Thế rồi, đức Phật, mấy chục vị
trưởng lão, năm trăm tỳ-khưu và phái đoàn cứu tế rầm rộ lên đường. Bảy ngày
sau, đến sông Gaṅgā, tại thị trấn Pāṭaligama, đức vua đã
cho chuẩn bị sẵn năm mươi chiếc thuyền lớn để chở phái đoàn và lương thực. Đang
mùa mưa nên nước cuồn cuộn tràn bờ, nhờ thuyền lớn nên xuôi Đông nhẹ nhàng; đến
ngã ba sông, đoàn thuyền bỏ sông Gaṅgā, theo nhánh sông Gaṇdak(?) tiến
lên phương Bắc. Hai bên bờ, đồng khô cỏ cháy trông thật tang thương. Càng đến
gần Vesāli chừng nào thì thuyền đi càng chậm vì sông cạn, lại lềnh
bềnh tử thi và rác rưởi. Mùi xú uế bốc lên nồng nặc. Ròng rã ba ngày, đoàn
thuyền khá gian lao, vất vả mới đến được bến nước – giang khẩu vào kinh thành Vesāli!
Khi đức Phật vừa đặt chân lên bờ
Đông nước cộng hòa Licchavī - thì một trận mưa rất lớn, tối trời tối
đất – như tự cổng trời mở ra, xối xả đổ xuống vùng đất đại hạn như đã chờ đợi
đâu từ lâu lắm! [i]. Trận
mưa lớn kéo dài nửa ngày, bao nhiêu xú uế tan mất. Nhân dân khắp nơi tràn ra
đường, vui mừng hò reo, hát ca, nhảy múa... Các đức vua, hội đồng tướng lãnh,
quý tộc đến sụp lạy bên chân đức Phật - nghẹn ngào tri ân, chảy nước mắt, không
nói được nên lời! Đức Phật, phái đoàn và ba ngàn xe lương thực vào thành. Dân
chúng quỳ lạy hai bên đường...
Tôn giả Mahā Moggallāna nhanh
trí, hướng dẫn quan đại thần của đức vua Seniya Bimbisāra đến bàn
tính ngay với giới cấp lãnh đạo kinh thành Vesāli, làm gấp ba việc:
Phân phối lương thực, bố trí ngay chừng hai mươi địa điểm, do chiến sĩ phụ
trách để cứu đói rộng rãi cho dân chúng. Nhóm chiến sĩ khác cùng với thanh niên
tình nguyện rải khắp các nơi, chôn lấp hoặc thiêu đốt tất cả tử thi còn lại. Bố
trí một quảng trường và những dãy nhà có mái che, có sạp nằm để phái đoàn lương
y do quan trưởng ngự y Jīvaka Komārabhacca dẫn đạo - chữa bệnh
cho dân! Thanh niên Saccaka thấy đức Phật như một vị cứu tinh trên
trời hiện xuống cứu giúp muôn dân nên huy động cả ngàn con em quý tộc tham gia
hăng hái việc này việc kia chung với phái đoàn cứu tế.
Đêm xuống, dưới ánh đuốc chập chờn,
đại đức Ānanda dẫn đầu năm trăm tỳ-khưu đi quanh thành Vesāli ba
vòng, tụng bài kinh Ratanasutta suốt đêm không ngủ...
“- Yān’īdha bhūtāni samāgatāni
Bhummāni vā yāni’va antaḷikkhe
Sabbe’va bhūtā sumanā bhavantu
Atho’pi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ...
Phàm chúng thiên nhơn nào
Cư ngụ trên địa cầu
Hoặc hư không trú xứ
Đã vân tập về đây
Phát sanh lòng hoan hỷ
Chánh tâm và thành ý
Lắng nghe lời dạy này
Tất cả chúng thiên nhơn
Hãy bi mẫn đồng tâm
Lòng từ luôn rộng mở
Năng chuyên cần gia hộ
Đối với nữ Nam nào
Ngày đêm thường bố thí
Phàm những tài sản gì
Đời này hoặc đời sau
Ngọc báu hay trân châu
Có cùng khắp thiên giới
Nhưng chẳng gì sánh nổi
Đức Thiện Thệ Như Lai
Chính Phật Bảo như
vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc
Ly dục, diệt phiền não
Pháp diệu thù bất tử
Phật Thích-ca Mâu-ni
Đắc Tịch tịnh, Vô vi
Trong Thiền, chứng ngộ Pháp
Chẳng pháp nào sánh nổi
Chính Pháp Bảo như
vậy
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc
Bậc Vô thượng Chánh Giác
Hằng ca ngợi Pháp Thiền
Trong sạch, không gián đoạn
Chẳng Thiền nào sánh nổi
Chính Pháp Bảo như
vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc
Thánh bốn đôi, tám vị
Bậc thiện hằng tán dương
Đệ tử đấng Thiện Thệ
Xứng đáng được cúng dường
Bố thí các vị ấy
Được kết quả vô lượng
Chính Tăng Bảo như
vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc
Các ngài tâm kiên cố
Ly dục sống Thánh Đạo
Khéo chơn chánh thiện hành
Lời Phật Gotama
Chứng đạt được quả vị
Thể nhập đạo Bất Tử
Hưởng tịch tịnh dễ dàng
Chính Tăng Bảo như
vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc
Ví như cột trụ đá
Khéo y tựa lòng đất
Dầu gió bão bốn phương
Chẳng thể nào lay động
Ta nói bậc Chơn Nhơn
Liễu ngộ Tứ thánh đế
Cũng tự tại, bất động
Trước Tám pháp thế gian
Chính Tăng Bảo như
vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc
Bậc Thánh Tu-đà-hoàn
Thấy rõ lý Tứ đế
Mà đức Chuyển pháp vương
Có trí tuệ thậm thâm
Đã khéo giảng, khéo dạy
Các ngài dù phóng dật
Cũng chẳng thể tái sinh
Nhiều hơn trong bảy kiếp
Chính Tăng Bảo như
vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc
Nhờ vững chắc chánh kiến
Nhờ kiên cố chánh tri
Đoạn lìa ba trói buộc
Là Thân kiến, Hoài nghi
Luôn cả Giới cấm thủ
Ra khỏi bốn đọa xứ
Không tạo sáu trọng nghiệp
Chính Tăng Bảo như
vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc
Bậc Thánh Tu-đà-hoàn
Dẫu vô tâm phạm lỗi
Bằng ý, lời hay thân
Chẳng bao giờ khuất lấp
Bởi vì đức tánh này
Được gọi là “thấy Pháp”
Chính Tăng Bảo như
vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc
Ví như cây trong rừng
Đâm chồi đầu mùa hạ
Cũng vậy, đức Thế Tôn
Thuyết giảng pháp Siêu việt
Pháp đưa đến Niết-bàn
Tối thượng, vô năng thắng
Chính Phật Bảo như
vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc
Đức Phật - bậc Vô thượng
Liễu thông pháp Vô thượng
Ban bố pháp Vô thượng
Chuyển đạt pháp Vô thượng
Chính Phật Bảo như
vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc
Nghiệp cũ đã chấm dứt
Nghiệp mới không tạo nên
Nhàm chán kiếp lai sanh
Chủng tử, dục diệt tận
Ví như ngọn đèn tắt
Bậc trí chứng Niết-bàn
Chính Tăng Bảo như
vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc
Phàm
chúng thiên nhơn nào
Cư
ngụ trên địa cầu
Hoặc
hư không trú xứ
Đã
vân tập về đây
Xin
đồng tâm hoan hỷ
Thành
kính đảnh lễ Phật
Đã
như thật xuất hiện
Mà
chư thiên, loài người
Thường
cúng dường, tôn trọng
Mong
với hạnh lành này
Được
sống chơn hạnh phúc
Phàm
chúng thiên nhơn nào
Cư
ngụ trên địa cầu
Hoặc
hư không trú xứ
Đã
vân tập về đây
Xin
đồng tâm hoan hỷ
Thành
kính đảnh lễ Pháp
Đã
như thật xuất hiện
Mà
chư thiên, loài người
Thường
cúng dường, tôn trọng
Mong
với hạnh lành này
Được
sống chơn hạnh phúc
Phàm
chúng thiên nhơn nào
Cư
ngụ trên địa cầu
Hoặc
hư không trú xứ
Đã
vân tập về đây
Xin
đồng tâm hoan hỷ
Thành
kính đảnh lễ Tăng
Đã
như thật xuất hiện
Mà
chư thiên, loài người
Thường
cúng dường, tôn trọng
Mong
với hạnh lành này
Được
sống chơn hạnh phúc...
Ôi! Bài kinh
với âm giọng của năm trăm vị tỳ-khưu đồng cất lên suốt đêm trường, thật là trầm
hùng khôn tả. Cả không gian rung rinh, chao đảo. Cả đất trời Vesāli như
chìm ngập giữa biển âm thanh thẳm sâu, cao diệu... Chư thiên vân tập
đầy đặc cả không gian, thành kính lắng nghe kinh rồi cất lên lời đại nguyện hộ
trì Tam Bảo và hộ trì quốc độ - nếu các đức vua và hội đồng tướng lãnh sống
theo chánh pháp.
Ngày hôm sau,
rất nhiều người không hiểu chư Tăng đọc mật chú gì mà có uy
lực kinh khiếp như vậy? Nó làm cho toàn bộ nhân dân kinh thành phải kính cẩn
lắng nghe - tất thảy lo âu, sợ hãi đều tiêu tan – không những trong lòng người
mà cả không gian xung quanh cũng cảm giác cả một bầu khí thanh bình và an lạc!
Các vị trưởng
lão và các vị A-la-hán có trí, phải giải thích:
- Chẳng phải là huyền
chú, mật chú gì đâu - đấy là bài kinh nói lên uy lực của Tam Bảo. Uy
lực ấy lại còn được hội tụ bởi uy lực của năm trăm vị tỳ khưu đọc tụng - tạo
thànhnăng lực của tăng thượng tâm, có thể tác động toàn bộ nội tâm và
ngoại giới (tâm-sinh-vật lý)đem đến sự bình yên và mát mẻ cho quốc
độ này.
Công việc cứu
đói, trị bệnh và vệ sinh tẩy uế các nơi kéo dài hơn cả tuần lễ, đâu đó hoàn
mãn. Trong thời gian ấy, khi chư Tăng về nghỉ ở Mahāvana thì đức Phật
thuyết pháp liên tục tại triều đình - hội chúng gồm các đức vua, tướng lãnh,
quý tộc, các quan đại thần, trí thức, nhân sĩ, phú hộ, thương gia... tai mắt:
Cộng hòa Licchavī, thủ đô là Vesāli; cộng hòaVideha, thủ đô
là Mithilā; năm sáu bộ tộc nhỏ liên minh thành liên bang Vajjī...
Đức Phật nhấn mạnh về trị quốc an dân, lực lượng võ bị tuy cần
thiết nhưng vẫn là thứ yếu; sự thương yêu, đoàn kết để sống trong thiện pháp
mới là yếu tố quyết định. Đức Phật triển khai một số thời pháp liên
hệ đến chư thiên, phi nhơn ở trong thế giới xung quanh - phải sống làm sao để
họ cùng hoan hỷ!
Thấm đẫm về
hương vị của chánh pháp và thấy rõ oai lực của đức Phật, của hội chúng giáo
đoàn - đã giải tan tức khắc ba thảm nạn; họ xin quy giáo rất nhiều và hứa cải
cách việc bầu cử chọn lựa các đức vua đức độ, các quý tộc võ tướng hiền tài
điều hành và lãnh đạo các nơi... Mấy ngày sau, hội đồng đại biểu nhân dân được
triệu tập bằng ba hồi trống, một trong ba quốc vương được ủy nhiệm chủ tọa hội
đồng và tổ chức cuộc bầu bán bằng cách đề cử công khai. Chương trình cải cách
và những biện pháp thực thi dựa theo chánh pháp được đa phần đại biểu chấp
thuận. Đề cương chính sách được thảo luận đã thuyết phục được nhiều
người rồi được thực hiện nghiêm túc và nhanh chóng. Vậy là ngay tại Licchavī, mười
bốn ngàn võ tướng được chọn lựa để điều hành chừng hai trăm năm mươi ngàn cư
dân! Đạo đức của ba quốc vương được đề cao, tán dương; hội đồng tướng lãnh được
khen ngợi về khả năng và ý thức trách nhiệm cải thiện đất nước... Từ đó về sau,
các nước này bắt đầu thịnh cường, yên ổn trở lại. Các quý tộc Licchavī bắt
đầu sống đời giản dị, khiêm tốn – thương dân như anh em! Các vị tướng trẻ không
còn hống hách, ăn chơi, ngã mạn – đôi khi họ chỉ ngủ trên nệm cỏ, với võ khí
sẵn sàng bên người, có thể vùng dậy bất cứ lúc nào để chăm lo an ninh cho nhân
dân!
Đức Phật ở lại Vesāli nửa
tháng thì dân chúng đã hùn góp, chung tay, chung lực làm xong một công trình
lớn: Ngôi Nhà Nóc Nhọn tại Mahāvana để cúng dường lên thập
phương Tăng. Hội đồng tướng lãnh, nhân dân và cư sĩ hai hàng thỉnh nguyện đức “Cứu-khổ-cứu-nạn” ở
lại; thế nhưng, khi thấy tình hình đã trở nên sáng sủa, tốt đẹp - đức Phật và
hội chúng từ giã, trở lại Rājagaha...
“Ôi!
Cuộc chuyển hóa của đức Tôn Sư thật là vĩ đại” – Các vị trưởng lão đồng khởi lên một ý nghĩ giống nhau
như thế!
Sau mùa an cư,
hầu hết các vị trưởng lão các nơi tìm về Trúc Lâm đảnh lễ đức Phật và tường
trình công việc hoằng hóa. Như vậy là giáo pháp đã được lan rộng sang một số
tiểu quốc cộng hòa và các liên bang tự trị phía Bắc sông Gaṅgā –
nơi nào cũng có cơ sở và có chư tăng thường trú. Riêng các tiểu quốc phía Tây Nam kinh
thành Rājagāha như Kālāma, Kāsi, Vamsā... thì còn rất
mỏng. Tôn giả Sāriputta và một số các vị trưởng lão ở Kỳ Viên về, cho
biết là ở đấy có phát triển nhưng chưa được thuận lợi – do các lực lượng chống
đối nổi lên công khai. Họ lại chưa có duyên tiếp cận để thu phục đức vua Pāsenadi và
triều đình, có lẽ phải chờ đợi uy lực của đức Phật mà thôi.
Đức Phật phủ
dụ, trấn an họ.
Do các tân
tỳ-khưu các nơi khác về rất đông, con số đã lên đến trên dưới hai ngàn – nên
các vị trưởng lão giáo thọ phải bộn bề công việc. Các ông hoàng dòng họ Sākya bây
giờ đã được nghe nhiều, học nhiều nên nghiễm nhiên phải phụ tá công
việc với các vị trưởng lão, làm những chúng trưởng mẫu mực, uy nghi để
dẫn dắt cho các hàng môn đệ.
Chậu nước bẩn, thau nước sạch và cái vòi voi
Hôm ấy, đức
Phật thư thả dẫn Rāhula đi trì bình khất thực, ngài cẩn thận dặn dò chú sa-di
cách đi, cách đứng, cách ôm bát đứng bên ngoài cửa nhà người; và nên nói lời
phúc chúc như thế nào đối với thí chủ.
Chỉ một đỗi
đường, thấy Rāhula có vẻ rất thuần thục; lúc dừng chân nơi một cội cây để nghỉ
nắng, đức Phật hỏi:
- Khi đi bát
như thế, tâm con đặt ở đâu?
Rāhula nói như
trả bài:
- Đặt chánh
niệm trước mặt, bạch đức Thế Tôn!
- Vậy là cứ
nhìn trước mặt mà đi?
- Dạ thưa vâng!
Đức Phật dừng
lại một chút rồi cùng bước song song với Rāhula:
- Thế lỡ có
viên đá dưới chân thì sao, có thấy viên đá ấy không?
- Dạ thấy chứ!
- Vậy khi thấy
viên đá dưới chân - thì không còn chánh niệm trước mặt nữa hay sao?
Thấy Rāhula có
vẻ lúng túng, đức Phật mỉm cười nói:
- Con hãy chú
tâm nghe cho kỹ đây: Khi định thì chánh niệm, an trú tâm một
chỗ, một nơi, một đề mục; ví dụ hơi thở, ví dụ các kasiṇa. Khi tuệ thì
hằng tỉnh thức, sáng suốt trong ngoài. Khi trong định có tuệ -
thì không những tâm được an trú mà còn quan sát được cả mọi duyên khởi. Khi
trong tuệ có định - thì luôn tỉnh thức, sáng suốt - và không
có một pháp trần nào lay động tâm vị ấy! Con có nắm được bốn trường hợp ấy
không, Rāhula?
- Dạ, tuy hơi
rắc rối nhưng đệ tử thuộc rồi!
- Ừ, nó rắc rối
thật, lại khó hiểu nữa! Chỉ cần thuộc thôi! Nhưng câu hỏi này thì cũng không dễ
dàng: Vậy khi đi bát như thế này, chúng ta nên sử dụng trường hợp nào trong bốn
trường hợp ấy?
Rāhula suy nghĩ
một chút:
- Dạ thưa, dùng
cái “trong Tuệ có Định”!
- Ừ, đúng! Đức
Phật cười vui, rồi nói - tuy nhiên, giả dụ Như Lai vẫn chú tâm trong
từng bước đi, nhưng Như Lai vẫn quan sát được mọi sự xảy ra xung quanh thì sao?
- Thưa, trong
trường hợp này thì có phải dùng cái “trong Định có Tuệ”?
- Khá lắm, này
Rāhula! Tuy nhiên, con phải học hỏi thêm điều này nữa: Khi đi trì bình khất
thực như thế này, nếu trong giai đoạn ta đang tu tập thiền quán thì
phải nên sử dụng trường hợp Tuệ có Định để cho tuệ
quán chiếu được tiếp diễn liên tục; nếu trong giai đoạn ta đang tu tập thiền
định thì nên sử dụng Định có Tuệ để cho tâm
an trú được dính khít liên tục,con có hiểu không?
Nội dung giáo
pháp trong cuộc đối thoại này rất cao siêu - chỉ dành cho những sa môn lâu năm
trong tu tập; nhưng với cách giảng giải cụ thể và cô đọng như thế, giảng đi
giảng lại nhiều lần - đức Phật đã trang bị cho Rāhula một sở học căn bản nhất,
những tinh yếu cốt lõi nhất.
Buổi trưa, đức
Phật ghé khu vườn Ambalatthika - có khá nhiều tỳ-khưu tá túc ở đây - để độ thực
và nghỉ trưa. Chư tăng tìm đến đảnh lễ, thăm hỏi, ngồi xuống một
bên... Đức Phật giáo giới sách tấn vài lời rồi ngài bảo là cần có thời gian với
Rāhula.
Khi mọi người
ra về hết, sa-di Rāhula nhanh nhẹn bưng vào một chậu nước cho ngài rửa chân,
rồi đứng hầu một bên.
Xong, nhìn chậu
nước bẩn, đức Phật nói:
- Nước bẩn này
có còn dùng được không, Rāhula?
- Thưa, chẳng
dùng được nữa!
- Cũng vậy, đây
là một bài học để chiêm nghiệm, để giác ngộ: Con người mà có tâm bẩn cũng
y như thế, chẳng dùng được nữa! Đổ đi thôi!
Nói xong, đức
Phật đổ nước trong chậu, còn chừa một ít:
- Còn một chút
ít nước bẩn, thế nào, Rāhula - có dùng được không?
- Cũng không
được, dù một ít.
- Cũng vậy, này
Rāhula - đây cũng là bài học để chiêm nghiệm, để giác ngộ: Cái tâm
của con người, dẫu chỉ bẩn một ít cũng không dùng được.
Đức Phật nhìn
chú bé, dịu dàng nói tiếp:
- Cái gì làm
cho tâm chúng sanh trở nên dơ bẩn, Rāhula có biết không?
- Thưa, kẻ ác
hạnh, ác giới, kẻ không có 5 giới - bạch đức Thế Tôn.
- Đúng vậy - Đức
Phật gật đầu - vậy trong 5 giới ấy, con thấy khó nhất là giới nào,
giới nào là khó giữ nhất?
- Thưa, giới
nào con cũng giữ được, riêng giới nói dối, vọng ngữ thì...
Đức Phật mỉm
cười:
- Thỉnh thoảng
con bị lủng, bị rách giới ấy phải không, Rāhula?
Chú sa-di đỏ
mặt, lúng túng một hồi rồi bẽn lẽn gật đầu.
Đức Phật lấy
ngón tay trỏ gõ nhè nhẹ vào đầu chú chú bé:
- Vậy là tâm
con bẩn rồi. Dẫu nói dối một ít cũng bẩn rồi; cái đầu này có thấy ra điều đó
không, Rāhula?
- Dạ, cái đầu
của đệ tử hiểu rõ rồi ạ!
Đức Phật đổ hết
nước trong chậu. Nhìn cái chậu không, đức Phật nói, có vẻ hỏi
bâng quơ:
- Nhìn cái chậu
không này, chẳng biết nó có dạy cho ta bài học nào nữa không đây?
- Dạ, có chứ! Rāhula
mau mắn đáp - Nước bẩn không dùng được - thì cái chậu đựng nước bẩn ấy
cũng phải cọ rửa cho sạch...
- Ừ, con lại
nói đúng nữa! Vậy, đây là bài học tiếp theo: Không những chỉ nói dối, mà cái
tâm đựng cái bẩn ấy như biếng nhác, ngủ ngày, ham chơi, ăn nhiều...cũng phải
được cọ rửa kỹ càng cho sạch sẽ mới dùng được, mới trở thành người tốt được.
- Dạ, đệ tử
hiểu.
- Còn có bài học
nào nữa nơi cái chậu không ấy không, Rāhula?
Thấy Rāhula
nhăn trán, đức Phật gợi ý:
- Khi chỉ một
người ngu, một người vô tích sự, một người mà trong óc không có gì -
chỉ biết ăn cho đầy bụng, ngủ li bì xác thân, thích khoái kiếm tìm ngũ dục -
ngôn ngữ bình dân xứ này chế nhạo họ là “kẻ rỗng không, người rỗng
không” - này Rāhula!
- Đệ tử hiểu
rồi! Một người mà không biết kiếm tìm, tích lũy một thiện pháp nào, không chịu
khó học hỏi những điều hay, tốt - thì sẽ bị người đời cười chê là “kẻ
rỗng không”như thế.
Đức Phật khen giỏi,
giỏi - rồi ngài lật úp cái chậu lại:
- Nếu cái chậu
úp lại - thì ta sẽ học được bài học gì?
- Thưa, cái
chậu lật úp thì không dùng nữa, bên trong tối tăm - đấy là bài học!
- Chính xác!
Đức Phật tiếp lời - khi con người mà quá xấu xa, quá dơ bẩn, quá nhiều ác giới,
ác hạnh, cứng đầu, ngu si, tà kiến... thì cái tâm ấy cũng bị lật úp rồi, không
dùng được nữa; không có ánh sáng trí tuệ nào có thể lọt vào đấy được; chúng sẽ
sống mãi trong cõi tối tăm ấy! Vậy, con đừng làm cái chậu lật úp nhé, Rāhula?
Rāhula lạnh
toát cả người, chú lắp bắp:
- Dạ... đệ tử
sẽ cố gắng... cố gắng... nhiều hơn nữa...
Sau khi tịnh
chỉ, vừa mở mắt, đức Phật thấy bên cạnh đã có một thau nước trong vắt và một
chiếc khăn trắng. Chú bé sa-di còn đang ngồi thiền bên cạnh. Hình ảnh ấy đẹp
quá, đức Phật hoan hỷ ngắm nhìn mãi. Đúng là một tiểu thiên thần.
Đợi Rāhula xả
thiền, đức Phật chỉ vào thau đựng nước:
- Cái thau đồng
ở đâu mà trông cao sang và quý trọng quá vậy?
- Của hoàng gia
dâng cúng cho chư tăng, bạch đức Thế Tôn!
Đức Phật gật
đầu rồi tấm tắc:
- Nước cũng
trong quá nhỉ? Chắc có giếng nước tốt?
- Dạ, giếng có
mạch đá nên trong, ngọt và mát lạnh. Thánh y Jīvaka dâng cúng và khuyên chư
tăng nên lưu tâm đến chuyện nước uống...
Đức Phật chuyển
mạch câu chuyện:
- Cái thau
sạch, quý - lại đựng nước trong, ngọt, mát lạnh - ai trông cũng thích mắt, cũng
muốn uống, phải vậy không Rāhula?
- Dạ phải!
- Cũng vậy, khi
tâm ta sạch và quý, rồi đựng bên trong những đức tính, những phẩm hạnh trong,
lành, mát - thì ai cũng mến, cũng trọng; ai cũng hoan hỷ, ai cũng muốn thân
cận, kể cả chư thiên và loài người.
Rāhula chăm chú
lắng nghe bài học quý giá.
Đức Phật chỉ
tay vào thau nước:
- Hãy quan sát
thau nước, này Rāhula!
- Thau nước ấy
không những “trong” mà còn “lặng” nữa, có
phải thế không? Tâm trí ta cũng vậy, trí trong nên ta mới sáng
suốt, tâm lặng nên cáu bợn mới lặn chìm tận đáy. Trí
trong là tuệ, tâm lặng là định. Từ cái thau nước mà ta cũng rút ra
được bài học về định tuệđấy, Rāhula!
- Dạ, thật hay
quá là hay!
- Còn nữa,
Rāhula! Cũng nhờ trong và lặng ấy, ta còn soi mặt được đấy!
Con hãy soi mặt thử xem!
Khi Rāhula soi
mặt, đức Phật nói thoảng bên tai:
- Thấy rõ cả
từng sợi tóc, lông mi, có phải thế không?
- Dạ!
- Cũng vậy, khi
có định và tuệ rồi, ta có thể thường trực soi chiếu nội tâm;
và có thể thấy rõ cả những lăn tăn, li ti, cáu bợn phiền não. Vậy, cái xấu, cái
bẩn nào trong tâm cũng thấy rõ được cả, phải vậy không, Rāhula?
- Quả là thế,
bạch đức Thế Tôn!
Buổi chiều, lúc
mát trời, đức Phật và Rāhula trở về Trúc Lâm. Trên đường đi, họ gặp một đoàn
voi. Con nào con nấy to lớn, hùng dũng, với những bước đi đĩnh đạc, oai nghiêm.
Chúng đi trật tự, giữ khoảng cách đều đặn, thẳng hàng, thẳng lớp, không nhìn
ngược, không nhìn xiên... Trên đầu voi, từng viên nài trang bị quân phục chiến
sĩ, tay cầm búa khiển voi lấp lánh sáng. Thoáng nhìn, đức Phật biết đấy là đoàn
binh chiến tượng đã được huấn luyện kỹ càng, có nhiệm vụ bảo vệ hoàng thành,
đôi khi còn để làm chiến sĩ tiên phong xung trận.
Bước tránh vào
một công viên, đức Phật hỏi Rāhula:
- Khi ra chiến
trận, những chú voi chiến sĩ này - sử dụng cái gì mà chiến đấu, con có biết
không?
- Thưa, có lẽ
là cái vòi - vì đệ tử thấy chúng ăn mía bằng vòi, hút nước, giỡn nước bằng vòi
- mà nhổ cây, quật gốc, bẻ cành cũng bằng vòi...
- Đúng vậy! Thế
nhỡ cái vòi bị thương tích thì sao?
- Thưa, bị
thương là hỏng, là phải vào bệnh viện thú của hoàng gia để chữa trị.
- Vậy nó phải
biết bảo vệ cái vòi của mình, chính là bảo vệ mạng sống của mình, phải vậy
không?
- Dạ đúng vậy!
- Này Rāhula!
Khi lâm trận, những chú voi chiến sĩ của chúng ta sử dụng tất cả mọi vũ khí tự
thân có được. Nó dùng vòi, dùng hai chân trước, dùng hai chân sau, dùng phần
thân trước, dùng phần thân sau, dùng ngà, dùng đầu và dùng cả đuôi. Tất cả vũ
khí tự thân ấy, cái nào bị thương, bị tật cũng được - nhưng cái vòi thì đừng để
bị thương. Tại sao vậy? Vì ăn, vì uống, vì thở đều ở nơi cái vòi cả. Cái vòi mà “tử
thương” - thì coi như con voi bị tước đoạt mạng sống. Vậy, với giá
nào, con voi cũng phải bảo vệ cẩn mật cái vòi của mình.
- Vậy, hỏng vòi
là hỏng tất cả!
- Đúng vậy! Khi
lâm trận, con voi sẵn sàng hứng chịu hằng trăm, hằng ngàn lằn tên, ngọn giáo -
cho dẫu cái đầu, cái đuôi, cái tai, cái lưng, cái bụng... có bị thương mà cái
vòi chưa bị thương - thì con voi kia vẫn còn là một chiến sĩ còn có khả năng
kiên cường và dũng mãnh được. Nhưng nếu cái vòi mà bị thương là coi như bỏ.
Cũng vậy, một tỳ-khưu trong giáo pháp của Như Lai, sống giữa cuộc đời khi còn
hệ lụy bởi cái ăn, cái mặc, cái ở, cái ngủ nghỉ... thì cũng phải hứng chịu hằng
trăm, hằng ngàn lời chê bai, sỉ nhục, vu khống, mạ lỵ, đàm tiếu, cạnh khóe, xoi
móc... lẫn ác tâm, ác ý, nhiều cạm bẫy, gai chông không lường được của thế
gian. Tuy nhiên, tỳ-khưu ấy, cho dẫu cái bụng có bị thương vì thiếu vật thực;
cái da có bị thương vì y áo không đủ ấm; cái lưng có bị thương vì nằm đất, nằm
cây; cái tai có bị thương vì ác ngôn, sàm ngôn của kẻ thế; cái chân cái tay có
bị thương vì ốm o gầy mòn; cái mặt có bị thương vì nắng mưa sương gió... nhưng
mà cái tâm chưa bị thương là chưa sao cả. Cái gì cũng
bị thương, nhưng cái tâm mà chưa bị thương thì tỳ-khưu ấy vẫn tồn tại - tồn tại
dõng mãnh - trong giáo pháp của Như Lai. Còn cái tâm mà bị thương rồi - thì coi
chừng, cái mạng sống phạm hạnh của vị ấy sẽ không còn nữa! Vậy, nếu con voi
biết bảo trọng cái vòi của nó như thế nào, thì con cũng phải biết bảo trọng cái
tâm của mình như thế ấy, này Rāhula!
Bài học này,
quả thật là thấm thía tận ruột gan. Sa-di Rāhula nghĩ rằng, ai mà đã nghe rồi,
một lần, thì suốt đời cũng không thể quên được câu chuyện về cái
chậu nước bẩn, cái thau nước trong và cái vòi voi này!
- Ôi! Cái tâm! Rāhula
lẩm bẩm - không thấy mày ở đâu mà cái gì, ở đâu, vui khổ gì cũng bởi
mày mà ra cả!
Máu quý hơn nước
Ra xuân, trời nắng dịu, đức Phật cùng với hội chúng, mấy
chục vị trưởng lão và chừng trên dưới năm trăm vị tỳ-khưu - đặc biệt có cả
Ānanda, Nanda, Rāhula, các tỳ-khưu gốc hoàng tộc và chiến sĩ Sākya - lại du hành lên phương Bắc, vượt
sông Gaṅgā, đến Vesāli,
tạm cư tại Kuṭagārasālā (Trùng
các giảng đường, Nhà nhiều tầng có nóc nhọn hoặc Sảnh đường
nóc nhọn), rừng Mahāvana. Ở tại đây, ngoài việc đi hóa
duyên các nơi, đức Phật biết mình còn có nhiều việc phải làm.
Năm nay, khí hậu, thời tiết nước cộng hòa Licchavī rất thuận hòa, đất nước phồn thịnh,
nhân dân no ấm nên việc trì bình khất thực khá dễ dàng. Các vị trưởng lão nhận
được lời mời của khá nhiều người trong giới quý tộc, các gia chủ trong vùng,
đặt bát tại các tư gia; và các ngài thường thuyết những bài pháp thuận thứ cũng
như cho quy y khá nhiều người.
Trưởng lão Mahā
Kassapa cùng năm trăm môn đệ đến
đảnh lễ Phật và nghe lời giáo giới. Cuối
buổi pháp thoại, đức Phật ái ngại nói:
- Trông ông có vẻ phong sương quá, lại gầy ốm nữa! Việc
khất thực khó khăn lắm phải không, Mahā
Kassapa?
- Đệ tử sức khỏe vẫn bình thường, bạch đức Thế Tôn!
- Nghe nói ông chỉ khất thực những gia đình nghèo khổ -
việc ấy có đúng không? Có thiên vị, có đánh mất tính bình đẳng không?
- Đệ tử hiểu! Nhưng vì tâm bi mẫn, đệ tử muốn giúp cho
người nghèo, cho họ kiếmchút phước để nương tựa cho nhiều đời sau!
Đức Phật lại hỏi:
- Có người khổ quá, hoàn cảnh bất hạnh quá - Như Lai nghe
nói ông lại nhập Diệt thọ tưởng định bảy ngày, sau đó mới đi hóa duyên?
- Cũng có một số lần như thế, nhưng đôi khi cũng rải tâm
từ, bạch đức Thế Tôn!
Đức Phật mỉm nụ hoa sen:
- Một vị thượng thủ A-la-hán, nhập định bảy ngày hoặc rải
năng lượng tâm từ - ai đặt bát cho vị ấy, phước báu rất thù thắng - không chỉ
là chút phước đâu,
này Mahā Kassapa!
Trưởng lão Mahā
Kassapa chỉ biết cúi đầu, nhẹ mỉm
cười rất khiêm tốn.
Đại đức Ānanda từ đâu đó xuất hiện, trên tay cầm một
tấm y mới đã nhuộm màu vàng đất, nhìn trưởng lão Mahā Kassapa, nói rằng:
- Chiếc y của pháp huynh cũ nát quá rồi, hãy cho đệ xin
dâng tấm y này, vải tuy xấu nhưng lành lặn.
- Cảm ơn pháp đệ - Tôn giả từ tốn nói – nhưng tôi đã quen với vải rách, vải
lượm rồi vá lại mà thôi; tấm kia nguyên vẹn quá, xin dành cho các sa-môn trẻ
hoặc các vị khác cần dùng hơn.
Và dầu Ānanda năn nỉ thế nào, tôn giả cũng không
nhận. Đức Phật phải góp lời:
- Thọ trì mười ba pháp đầu-đà bậc thượng, Mahā Kassapa không thọ dụng y mới đâu, Ānanda!
Hôm kia, từ nước Malla,
trưởng lão Kāḷudāyi đến Mahāvana báo tin với đức Phật là đức vua Suddhodāna lâm bệnh nặng, có lẽ không qua khỏi vì
người tuổi đã gần trăm, muốn gặp ngài lần cuối cùng.
Thế là tức khắc ngày hôm sau, đức Phật và đại chúng lên
đường. Và cứ hễ chừng hai, ba do-tuần là phái đoàn được bổ sung thêm các vị
trưởng lão và một số tỳ-khưu ở nơi xa đến. Họ đều là những vị A-la-hán lậu hoặc
đã tận, có thần thông - biết chuyến đi này là chuyến
đibáo hiếu của đức Phật – nên họ tự động
tìm tới. Vậy là khi đến Malla, hội chúng đã có trên ngàn vị.
Trưa hôm ấy, khi dừng chân tại một ngôi rừng ven đường,
sử dụng thần thông, đức Phật biết có chuyện trọng đại xảy ra tại biên địa hai
nước Sākya và Koliya.
Số là dòng sông Rohini, vào khoảng
tháng ba, tháng tư mực nước bắt đầu khô cạn; năm nay trời lại hạn hán hơn nên
tình trạng ruộng đồng, hoa màu hai bên bờ sông nguy cơ không cứu vãn nổi. Trước
đây, nhân dân vùng này đã cho ngăn một con đập, từ đó, họ kéo nước đổ vào ruộng
đồng hai bên. Tuy nhiên, vì muốn cứu lúa, cứu hoa màu mà nhân dân hai bên xảy
ra tranh chấp nguồn nước. Ban đầu là lời qua tiếng lại, mạ lỵ, phỉ báng nhau,
sau đó, với giáo mác – hai bên quyết liệt sẵn sàng đổ máu để chiếm nguồn nước.
Nguy hiểm hơn, quân đội hai bên bắt đầu giàn quân, chuẩn bị vào trận để bênh
vực cho nông dân nước mình...
Đúng vào lúc đó, với thời gian như viên lực sĩ co duỗi
cánh tay, đức Phật xuất hiện; ngài đứng giữa
hư không, ngay phía trên con đập phân ranh hai nước. Rõ ràng, ngài đang đứng
giữa trận tuyến - bên nội, bên ngoại - để làm người trung gian hòa giải.
Thấy đức Phật oai nghiêm như một vị phạm thiên, hào quang
sáng rực – đang đứng lừng lững giữa hư không biên địa hai nước; nông dân quăng
giáo mác, quân đội quăng vũ khí, cung tên, giáp bào đồng quỳ xuống, sụp lạy: Họ
biết uy đức Phật lâu rồi...
Đức Phật nói:
- Như Lai chỉ muốn hỏi chư vị một câu thôi: Nước
quý hơn máu hay máu quý hơn nước?
Mọi người cúi đầu, câu hỏi ấy không cần phải trả lời vì
ai cũng hiểu cả.
- Vậy có đáng không, chư vị là hai nước anh em, cùng liên
minh, đoàn kết thương yêu nhau; bây giờ vì tranh giành nguồn nước mà sinh ra đổ
máu. Vậy đối với chư vị, nước quý hơn máu hay sao – những giọt
máu đồng bào huynh đệ? Hãy
trả lời cho Như Lai xem nào?
Uy lực của đức Phật cùng với cách nói có trọng lượng ngàn
cân – đã tạo nên phép thần kỳ hy hữu: Cả hai bên thấy mình lầm lỗi, xin sám hối
với đức Phật rồi đồng thuận giải hòa!
- Này chư vị - đức Phật tiếp - hoạn nạn giúp đỡ nhau mới quý; lúc
khó khăn tìm cách san sẻ, chia đắng, sớt cay mới là tâm đức của bậc đại trượng
phu! Hãy nghe lời Như Lai mà tận dụng nguồn nước cả hai bên cho đồng đều; đừng
dại dột tranh chấp đổ máu, sau này có hối cũng không kịp nữa đâu!
Nói thế xong, đức Phật biến mất giữa hư không, cả hai bên
quỳ lạy như tế sao!
Về lại khu rừng, đức Phật lại bộ hành cùng với đại chúng
như không có chuyện gì xảy ra. Tôn
giả Mahā Moggallāna nói nho nhỏ, kể chuyện đức Phật vừa
giải hòa việc tranh chấp nguồn nước sắp đi đến đổ máu của nhân dân biên địa hai
nước Sākya và Koliya,
tại sông Rohini - cho đại đức Ānanda nghe! Đại đức Ānanda rất thú vị, tự nghĩ:“ Đức Thế Tôn luôn luôn bảo vệ sự
sống, thuở xưa là con chim hạc, bây giờ là nguồn nước; và suốt trên lộ trình du
hành, ngài bao giờ cũng nhắc nhở giữ gìn cây cối thảo mộc, nguồn nước, cả những
bãi cỏ xanh!”
Thăm phụ vương lần cuối
Vừa đến ngoại ô Kapilavatthu, đức
Phật dừng lại một lát trên ngọn đồi thấp, đưa mắt nhìn quanh. Đây là chỗ mà
thuở xưa, đức vua Suddhodāna thuyết phục cho ngài nghe - lúc ấy mới
bảy tuổi - phải biết yêu đất nước gấm vóc, núi sông xinh tươi kỳ vĩ. Và dường
như suốt sáu bảy mươi năm làm vua, Người đã làm đúng như vậy. Nhưng
bây giờ, Người sắp ra đi thì dường như khí số đất nước cũng từ thịnh
mà sang suy như định luật tự nhiên của vạn hóa. Những dãy núi xa xanh xanh
thuở xưa kia bây giờ nhiều vùng đã vàng cháy, tiêu điều, ủ rũ! Những bình
nguyên trù mật bây giờ nhiều nơi đã hoang hóa, xác xơ. Rõ ràng là do hạn hán
đang đổ xuống xứ sở này nên đời sống muôn dân chắc đang chịu đựng sự khó khăn
và vất vả. Tuy nhiên, đấy chỉ là nguyên nhân gần; còn nguyên nhân xa – là vì
những người lãnh đạo đất nước đã không đủ trí và tâm trong những chương trình
cải cách. Cái lực kéo, cái sức trì trệ của bộ máy công quyền - mà ngài đã biết
- chỉ có sức của vài ba người thì không thể cứu vãn nổi. Chỉ có cách duy nhất
là hãy an trú dòng tộc vào quy giới để họ có chỗ nương tựa cho những đời sau.
Khi đại chúng
đến nghỉ ngơi ở đại viên Nigrodhārāma thì đức Phật cùng hai vị đại đệ
tử, Ānanda, Nandā và Rāhula đi đến hoàng cung, vào thẳng tẩm
cung [i] để
thăm đức vuaSuddhodāna tại giường bệnh - bệnh già thôi - nên Người còn
rất tỉnh táo.
Những khuôn mặt
rạng rỡ và lời chào hỏi như xoắn xít vào nhau.
- Phụ vương vẫn
còn khỏe - Lời đức Phật.
- Con nhớ phụ
vương quá – Nandā nói, sụt sùi rơi lệ.
- Vua nội có
nhớ cháu không, cháu nhớ thương vua nội lắm - Rồi Rāhula chạy
tới, ôm chầm đức vua Suddhodāna mà nước mắt chảy ròng rã.
- Ôi! Con cháu
của trẫm ở đây đầy đủ cả rồi - Đức vua Suddhodāna quàng tay
ôm cháu, nói - Trẫm vui mừng và mãn nguyện rồi, bây giờ ra đi sẽ nhẹ
nhàng, thanh thản xiết bao!
Đại đức Ānanda đứng
cạnh một bên giường, nắm tay nhà vua, sửa lại tấm đắp, mỉm cười hỏi:
- Vua bác ơi!
Có chắc là nhẹ nhàng, thanh thản không?
- Chắc! Vua
cũng cười đáp.
Hai vị đại đệ
tử như đồng lúc, nói:
- Chỉ còn chút
xíu dính mắc nữa mà thôi!
Lát sau, lệnh
bà Gotamī, công nương Yasodharā tìm đến rồi họ cùng tíu tít
bên Rāhula,Nandā. Hai vị đại đệ tử đứng yên tịnh và họ thấy thiên chúng,
thiện dạ-xoa rất đông. Đức Phật đến nắm hai tay đức Suddhodāna rồi
thuyết cho nhà vua nghe một thời pháp – đúng như hai vị đại đệ tử đã thấy -
để cắt đứt những vi tế phiền não còn sót lại...
Sau thời pháp,
đức Suddhodāna đoạn lìa sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, phóng
tâm và vô minh - chứng đắc A-la-hán đạo, A-la-hán quả! Thiên chúng và
thiện dạ-xoa cũng có rất nhiều vị đi vào dòng thánh, an trú bất động tâm...
Thế là đã làm
xong những việc cần phải làm đối với đấng sinh thành, đức Phật quan sát thọ
hành, biết là còn đúng bảy ngày nữa nhà vua mới xả bỏ ngũ uẩn, ngài trở về đại
viênNigrodhārāma, chỉ để Rāhula ở lại.
Suốt hai ngày
sau đó, buổi sáng nào đức Phật và chừng năm mươi vị trưởng lão cũng đi bát tại
hoàng cung, ghé thăm vua cha, độ trai rồi thuyết pháp. Đặc biệt, ngài nhắm đến
thành phần con cháu hoàng gia, quý tộc và con cháu đại thần, chiến sĩ, thị nữ,
gia nhân... Trong thời gian này, hai vị đại đệ tử phải bận rộn nhiều việc – vì
số thanh niên, trung niên thuộc dòng tộc Sākya cùng vài thành phần
giai cấp khác xin xuất gia tỳ-khưu mỗi ngày mỗi đông...
Đặc biệt, hôm
ấy, đức Phật tiếp chuyện bốn vị dòng dõi hoàng tộc thành Pāvā, nước Malla đến
Kapilavatthu có việc. Đấy là 4 vị hoàng thân Godhika, Subāhu, Valliya, Uttiya.
Trông vị nào sắc tướng cũng trung hậu và đoan chính. Họ kể rằng, mấy năm trước
đã may mắn thấy được uy lực siêu phàm, vô song của đức Phật trong ngày ngài hóa
độ thân quyến. Còn nữa, họ được nghe những thời pháp chơn chính mà tai họ chưa
từng được nghe, chưa bao giờ lại được hoan hỷ như vậy. Còn nữa, họ còn được
thấy thần thông diệu kỳ của hai vị đại đệ tử. Còn nữa, họ thấy được tăng tướng
mô phạm và giới hạnh thanh tịnh của chư tỳ-khưu Tăng trong giáo pháp này. Họ
muốn được xuất gia từ dạo đó, nhưng mãi đến hôm nay, công việc gia đình thu xếp
mới xong... Thế rồi, sau đó cả bốn vị đều được xuất gia, đức Phật bảo họ nên
thu xếp để về Trúc Lâm tịnh xá mà hành đạo.
Câu chuyện về bộ tam Y quý giá và Đức Phật Mettayya (Di-lặc) vị lai
Chiều ngày thứ ba, lệnh bà Mahā Pajāpati Gotamī cùng với cung nga thể nữ theo
hầu, đến đại viên Nigrodhārāma dâng lên đức Phật một bộ tam y quý
giá. Câu chuyện về bộ tam y ấy có nhiều tình tiết rất hy hữu...
Trong lần đức Phật về thăm quê nhà cùng với giáo đoàn
thanh tịnh, thấy uy đức của ngài, lệnh bà Gotamī phát khởi đức tin trong sạch, tự nghĩ: “Ta muốn cúng dường cái gì đó cho
xứng đáng, khác thường lên đức Thế Tôn mà nghĩ hoài không ra! Một món ăn dù sơn
hào hải vị, nhưng ăn xong là hết! Ngọc ngà châu báu, tràng hoa, hương liệu thì
các vị sa-môn không thọ dụng! Sập trầm hương, nệm lông thú... cũng không được phép!
Hay là tự tay ta hãy làm nên một bộ y quý trọng...”
Thế rồi, sau khi hình bóng đức Phật và giáo đoàn vừa rời
khỏi Kapilavatthu, lệnh bàGotamī cho truyền thợ kim hoàn đến hoàng
cung, lấy vàng trong kho đúc bảy chậu vàng rất lớn. Xong rồi, lệnh bà chuẩn bị
đất trồng. Đất này không phải là đất bình thường - có dính tạp chất và xú uế.
Bao nhiêu lá thơm, rễ thơm, vỏ thơm, cành thơm, cỏ thơm, hoa thơm... lệnh bà
cho ủ thành từng đống, từng đống... Mấy tháng sau, từng đống thơm ấy biến thành
đất, lấy đất ấy bỏ vào chậu vàng làm chất liệu để ươm bông vải. Rồi chính tự
tay lệnh bà săn sóc tưới tắm hằng ngày... Nước tưới bao giờ cũng hòa với sữa
tươi và hương thơm. Và bón thêm phân – thì bao giờ phân ấy cũng là các chất
thơm ủ đống lại mà thành. Những cây bông vải lớn lên rất nhanh. Tự tay lệnh bà
lại thu hái - những trái bông vải có màu vàng óng ánh như mạ vàng mười. Sau đó,
lệnh bà chỉ đạo dọn sạch, tẩy uế cả một cung phòng đẹp đẽ rồi cho thỉnh mời
những thợ dệt tài hoa đến làm việc. Lệnh bà trả lương rất cao cho thầy thợ,
nhưng với điều kiện là họ phải thọ trì bát quan trai giới, tắm giặt hằng ngày
và áo quần phải luôn luôn tinh tươm, sạch sẽ... Ròng rã mấy tháng, ba tấm vải
mới hoàn thành...
Lúc ấy, tại đại viên Nigrodhārāma, đức Phật đang thuyết pháp – có hai
hàng trưởng lão ngồi xung quanh cùng với hội chúng chư Tăng và cư sĩ có đến mấy
nghìn người. Thời pháp vừa dứt, lệnh bà Gotamī đội mâm vàng trên có ba tấm y, đi bằng
hai đầu gối từ ngoài vào, sau lưng là mấy chục cung nga, thị nữ...
- Bạch đức Thế Tôn! Đây là ba tấm y đã tự tay tôi trồng
cây bông vải, tự chăm sóc tưới bón bằng hương thơm, tự tay tôi thu hái, kéo
sợi, sau đó thuê thợ dệt - thọ trì bát quan giới thanh tịnh - làm việc trong
một căn phòng tẩm hương! Đây là cả một tấm lòng quý kính, thanh tịnh của tôi
đối với đức Thế Tôn - những mong ngài thọ nhận để cho tôi có chút ít phước báu
trong ngày vị lai...
- Bộ tam y ấy quý báu lắm vì nó hội đủ ba yếu tố thanh
tịnh: Tự tay làm và hoan hỷ trước
khi ươm trồng, tự tay làm và hoan hỷ trong khi thu hái, kéo sợi, tự tay làm và
hoan hỷ mang đến cúng dường! Vậy
này di mẫu! Di mẫu hãy dâng bộ tam y ấy lên Tăng – vì dâng cúng dường lên Tăng
- phước báu còn cao thượng hơn là dâng cúng đến Như Lai nữa! Di mẫu hãy chú tâm
lắng nghe, Như Lai sẽ giải thích điều ấy...
Đức Phật ra dấu cho người thị nữ nâng mâm vàng, đợi lệnh
bà yên tĩnh ngồi xuống; ngài mới nói:
- Di mẫu biết không, Như Lai rồi sẽ nhập diệt; còn giáo
pháp được truyền thừa mai hậu, phương này và phương khác đều là công đức của
Tăng. Đây là lý do chính yếu, quan trọng mà di mẫu nên cúng dường đến Tăng!
Nếu di mẫu cúng dường cho Như Lai thì sự cúng dường ấy ẩn
chứa tình cảm riêng tư,thiên vị,
ích kỷ và hạn hẹp - được gọi
chung là cá-nhân-thí – kết quả của phước báu ấy sẽ rất giới
hạn vậy. Cúng dường đến Tăng thì ly
thoát được tình cảm riêng tư, thiên vị, ích kỷ và hạn hẹp - được gọi là tập-thể-thí - kết
quả của phước báu này sẽ vô lượng, vô biên... Vì lợi ích và hạnh phúc lâu dài
cho di mẫu mà Như Lai làm như vậy, chứ Như Lai cũng hiểu rõ sự dụng tâm lao khổ
của di mẫu lắm chứ...
Thấy lệnh bà Gotamī đã thấy ra vấn đề - đức Phật muốn
giảng rộng đề tài cho toàn thể hội chúng cùng tiếp thu.
- Này chư tỳ-khưu và hai hàng cư sĩ áo trắng! Đức Phật
cao giọng giảng - Có mười bốn
loại cá-nhân-thí khác nhau, nhân
khác nhau, quả khác nhau, phước báu thù thắng, vi diệu, cao thấp, nhiều ít -
đều khác nhau:
Thù thắng đệ nhất là đức Chánh Đẳng Giác.
Thù thắng đệ nhị là đức Phật Độc Giác.
Vi diệu, đệ tam là chư vị A-la-hán.
Vi diệu, thứ tư là những sa-môn đang nỗ lực để chứng
đắc đạo quả A-la-hán.
Cao thượng, thứ năm là những sa-môn đắc quả A-na-hàm.
Cao thượng, thứ sáu là những sa-môn đang nỗ lực để chứng
đắc đạo quả A-na-hàm.
Cao thượng, thứ bảy là những sa-môn đắc quả Tư-đà hàm.
Cao thượng, thứ tám là những sa-môn đang nỗ lực để chứng
đắc đạo quả Tư-đà-hàm.
Cao thượng, thứ chín là những sa-môn đắc quả Tu-đà-hoàn.
Cao thượng, thứ mười là những sa-môn đang nỗ lực để chứng
đắc đạo quả Tu-đà-hoàn.
Thứ mười một, có phước báu giới
hạn – là những đạo sĩ ngoại đạo đắc ngũ thông.
Thứ mười hai, phước báu ít hơn nữa
– là tại gia cư sĩ có giới đức.
Thứ mười ba, phước báu càng ít
hơn nữa – là người không có giới hạnh.
Thứ mười bốn, chỉ chút ít phước báu
là động vật, thú vật...
Nghỉ hơi một lát, đức Phật giảng tiếp:
- Mười bốn đối tượng để cúng dường, bố thí nêu trên - quyết định của phước báu,phần lớn là tùy thuộc tâm thanh tịnh nhiều, ít
hoặc còn ác nghiệp, tham sân, phiền não của nhân, vật thọ nhận. Ví dụ, người không có giới và thú vật
thì rất ít phước báu. Còn nữa,
người cúng dường, bố thí đang ở trong trạng thái tâm và trí nào? Thanh tịnh, không thanh tịnh, hỷ,
không hỷ, có trí, không trí, tà kiến, không tà kiến, tự ý hay không tự ý, tùy
thích, tình cảm riêng tư, tâm từ, tâm bi, tâm xả, cầu nhân quả hay không cầu
nhân quả, để diệt phiền não, được phú quý, gieo duyên hay mong được năm quả
báo: Sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức khỏe, trí tuệ? Các trạng thái tâm và trí ấy cũng quyết định phần lớn đến phước quả! Ngoài ra, bố thí cho
thú vật có ân với người – cho quả khác hơn với thú vật không có ân với người!
Có ân thì phước lớn hơn! Bố thí cho thú vật hiền lành phước báu lớn hơn các
loại động vật hoang dã, độc hại, hung bạo – như rắn rít, cọp beo. Với người đói
khổ, nghèo nàn nhưng tâm tánh hiền lành, chất phác, quả phước chắc hẳn lớn hơn
kẻ ngu si, ác độc, hung dữ!
Này chư tỳ-khưu và hai hàng cư sĩ áo trắng! Đức
Phật nói tiếp - Và
sau đây là bảy loạitập-thể-thí, phước quả bao giờ cũng lớn hơn, thù
thắng hơn mười bốn cá-nhân-thí vừa rồi:
Thứ nhất, thù thắng, vĩ đại và cao thượng nhất
là cúng dường đến giáo đoàn Tăng đông đảo, có cả Như Lai.
Thứ hai, cúng dường đến giáo
đoàn Tăng đông đảo – không có Như Lai.
Thứ ba, cúng dường đến hội
chúng Tăng trong một ngôi chùa, một tịnh xá, một tự viện.
Thứ tư, cúng dường một chúng
tỳ-khưu do Tăng phân phối, chỉ định.
Thứ năm, cúng dường một số
đông tỳ-khưu, tùy theo sức mình, không lựa chọn.
Thứ sáu, cúng dường bốn năm vị
tỳ-khưu trở lên do Tăng chỉ định.
Thứ bảy, cúng dường một vị tỳ
khưu tại tư gia do Tăng chỉ định.
Người cúng dường trong bảy loại tập-thể-thí ấy - sở dĩ cao thượng, thù thắng, vì
họ không hề nghĩ đến mình, nhân quả của mình – mà chỉ nghĩ đến Tam Bảo, lợi ích
của Tam Bảo; chỉ nghĩ đến tập thể Tăng, hộ độ Tăng, lợi ích cho Tăng; chỉ nghĩ
đến sự phát triển giáo pháp thịnh mãn trong tương lai. Cho đến nỗi, khi họ
thỉnh một vị về nhà - do Tăng chỉ định -vị ấy phá giới, không có giới, họ cũng không quan tâm, không phân
biệt, chỉ nghĩ là cúng dường đến Tăng – thì phước báu ấy được trải dài cả
a-tăng-kỳ kiếp! Tại sao vậy? Vì cá nhân thì có kẻ tốt, người xấu, có giới và
không giới - nhưng Tăng là đại biểu cho một hội chúng thánh phàm Tăng quá khứ,
thánh phàm Tăng hiện tại, thánh phàm Tăng đương lai - hội chúng Tăng ấy bao giờ cũng thanh
tịnh!
Thời pháp của đức Phật như một trận mưa lành mát mẻ làm
cho tất cả mọi người thấy rõ sâu cạn, xa gần, gốc ngọn, nhân quả của sự bố thí
- nhất là lệnh bà Gotamī - bà đã vô cùng hoan hỷ.
Đức Phật biết
còn có chuyện nên lặng lẽ mỉm
cười khi thấy lệnh bà dâng tam y đến ngài Sāriputta. Tôn giả không thọ nhận, mỉm
cười nói: “Lệnh bà nên dâng cho vị khác, tôi đã
có đủ ba y”. Đến
lượt tôn giả Mahā Moggallāna, ngài cũng nói: “Tôi
cũng đã có đủ ba y rồi”.Tôn giả Mahā
Kassapa thì mỉm cười: “Tôi
đã quen mặc y vải lượm, sẽ có vị khác cần hơn”. Rồi cứ thế, bộ tam y quý giá được trôi
chảy qua mấy chục vị trưởng lão, lướt qua mấy trăm vị tân tỳ-khưu rồi dừng lại
nơi vị tỳ-khưu vừa mới thọ giới... Lệnh bà Gotamī
thấy mình tủi thân, buồn muốn
khóc!
Biết tâm tư của lệnh bà, đức Phật sẵn có cái bát gần bên,
ngài cầm lên tay, lâm râm chú nguyện rồi thảy cái bát ra giữa quãng không, cái
bát biến mất... Ngài nói:
- Ở nơi này, vị tỳ-khưu nào có thần thông lực, có đại
thần thông lực, hãy đi tìm kiếm giúp cái bát ấy rồi mang về đây cho Như Lai!
Thế rồi, tôn giả Sāriputta xin phép đức Phật, vận dụng thần thông
lực bay khắp tam thiên, đại thiên thế giới, trở về, thưa là không thể tìm ra!
Tôn giả Mahā Moggallāna, bậc đệ
nhất thần thông, sau khi tìm không ra, bay lên cõi Phạm thiên, Đẩu-xuất,
Đao-lợi... hỏi chúa các vị trời – cũng không thấy! Rồi lần lượt các vị khác,
cũng thử vận may, và dĩ nhiên là không thể...
Đức Phật thấy cả hội chúng bất lực, ngài nói:
- Này Ajita - vị tân tỳ-khưu bất đắc dĩ nhận bộ
tam y quý báu – Ông có thể cầu may hoặc do phước của ông, đi tìm cái bát của
Như Lai xem thử thế nào!
Tân tỳ-khưu Ajita rúng động, tự nghĩ: “Thật
là chuyện hy hữu, diệu kỳ, phi thường thay! Tất cả các ngài đều là những bậc
thánh nhân vô lậu, đều là những vị đại A-la-hán, đại thần thông lực – đi tìm không
ra cái bát! Còn ta là ai, ta là gì, một kẻ phàm phu thiểu trí, vô năng, tham
sân phiền não dẫy đầy - đức Thế Tôn lại bảo ta hãy đi tìm bát? Cái thấy biết
bất khả tư nghì của đức Tôn Sư chắc là có duyên cớ gì đây, vậy ta hãy nghe lệnh
ngài!” Nghĩ thế xong,
tâm tư Ajita phát sanh phỉ lạc chưa từng có,
đến đảnh lễ đức Phật rồi bước ra hiên, ngó lên không trung, phát lời đại
nguyện: “Nếu tôi xuất gia theo giáo pháp của
đức Thế Tôn – mà vì lý do kiếm tìm hỷ mãn tứ sự, tham cầu hỷ đắc danh vọng, lợi
dưỡng – thì xin cho cái bát đừng trở lại tay tôi! Nhược bằng, tôi xuất gia có
tâm thành tín, trong sạch, cần cầu nỗ lực tấn tu phạm hạnh, mục đích diệt trừ
tham sân phiền não, chứng đắc đạo quả vô thượng, độ mình, độ người – thì xin
cho cái bát hãy rơi xuống tay tôi!”
Sau lời nguyện, điều phi thường xảy ra: Không biết từ đâu
đó, cái bát của đức Phật đã nằm trên tay của thanh niên tân tỳ-khưu Ajita!
Hội chúng trông thấy hiện tượng kỳ diệu, vô cùng hoan hỷ!
Riêng lệnh bà Gotamī thì bao nhiêu thương thân tủi phận đều
tiêu tan, một ý nghĩ như ánh sáng tuệ bừng lên: “Chỉ
một vị tân tỳ-khưu mà oai lực đã như thế - huống hồ là uy đức của hội chúng
Tăng đoàn gồm có cả đức Phật? Ồ! Ta đã hiểu giá trị của tập thể thí rồi!”
- Vị tân tỳ-khưu Ajita trẻ tuổi này – mai sau sẽ là một vị Phật, một đức Chánh Đẳng
Giác oai lực vô song, có ngoại hiệu là Metteyya! Như vậy là di mẫu không những vừa cúng
dường bộ tam y quý giá lên Tăng – mà còn cúng dường lên một vị Phật hậu lai nữa!
Lệnh bà Gotamī sụp lạy, vô cùng tri ân; đến đây, bà
mới hiểu trọn vẹn sự dụng tâm chu đáo, vô lượng bi mẫn của đức Toàn Giác đối
với bà.
Trời đã tối mà
hai hàng cư sĩ áo trắng không muốn về; chư thánh tăng thì tự tại, thản nhiên,
nhưng chư phàm tăng - nhất là tân tỳ-khưu Ajita lại muốn nghe về
mình nên nóng lòng cứ nhìn đức Phật, chờ đợi...
Hai vị đại đệ
tử có bổn phận xin đức Phật đi ra ngoài, một số tỳ-khưu trẻ và Nam cư
sĩ bước theo. Lát sau, đèn đuốc khắp nơi, trong ngoài đều quang rạng...
Đức Phật nghỉ
ngơi, uống nước. Mọi người kinh hành, thư giãn... Chư tăng các nơi
và hai hàng cư sĩ lại tìm đến... Đức Phật lại phải tiếp tục thời pháp.
- Hiện nay
– ngài nói – giáo pháp của Như Lai đang từng hồi từng bước
phát triển; và còn phát triển nữa, chừng bảy nước lớn quanh lưu vực
sông Gaṅgā và chừng ba mươi tiểu quốc, bộ tộc rải rác đó đây. Sau khi
Như Lai nhập diệt, giáo pháp sẽ được phát triển xa rộng hơn nữa; và tuổi thọ
của giáo pháp chỉ tồn tại mười ngàn năm trên thế gian này. Bắt đầu từ thời điểm
ấy, ác pháp phát triển, thiện tâm của con người ngày càng lu mờ; do vậy, cứ
trăm năm thì tuổi thọ con người giảm một tuổi. Với cái đà suy giảm như vậy, lúc
tuổi thọ con người chỉ còn mười tuổi, thì năm sáu tuổi họ đã lấy vợ lấy chồng –
lúc này thì con người không còn biết thiện pháp là gì, nhường cho ác pháp lên
ngôi chúa tể: Người ta sống với nhau chỉ biết ác độc, bạo tàn, hung dữ, thù
hận...; tìm cách chém giết nhau, đọa đày nhau. Ở đâu cũng bạo loạn, điên cuồng,
lo sợ. Thành phố đổ nát, điêu tàn; làng mạc, ruộng đồng bị thiêu cháy. Toàn bộ
trái đất chỉ còn một đống gạch vụn, âm ỉ lửa khói. Nhân loại trở lại thời kỳ đồ
đá... Lúc sắp diệt vong thì có một số người do sợ hãi quá, tìm trốn trong rừng
sâu, trong các hang động, sống đời ăn lông ở lỗ... Những kẻ sống sót tìm đến
nhau, bảo với nhau rằng, ai cũng sợ hãi - vậy đừng chém giết nhau nữa! Vậy là
một chút thiện pháp như mầm cải phát sanh, nó lớn dần dần. Vậy là cứ một trăm
năm thì tuổi thọ con người được thêm một tuổi. Đến khi tuổi thọ của con người
lên chừng năm sáu mươi tuổi là họ đã có lại làng mạc, thị thành, đời sống bắt
đầu phát triển, thịnh vượng theo với thiện pháp và thiện tâm... Rồi từ đấy,
thiện pháp cùng với sự phồn vinh tăng trưởng mãi, tăng trưởng mãi cho đến khi
tuổi thọ con người lên đến tám mươi bốn ngàn tuổi. Đến đây thì thiện pháp và
thiện tâm đến hồi cực thịnh; đời sống vật chất, tiện nghi sinh hoạt đạt được sự
toàn mãn như thế giới chư thiên. Vì sung sướng quá, muốn gì có nấy, biến mục
đích đời người là để mà thỏa mãn dục lạc; thế rồi, do đời sống hưởng thụ vị kỷ,
một vài tâm niệm giãi đãi, xấu ác bắt đầu sinh mầm – vậy là cứ hễ một trăm năm
là con người lại giảm mất một tuổi. Đến khi tuổi thọ giảm xuống chừng tám vạn
tuổi – lúc ấy đức Phật Metteya mới xuất hiện...
Thuở đương lai
ấy, có một quốc độ cường thịnh đệ nhất, tên là Ketumatī-mahānagara
– nằm tại xứ Bārāṇasī bây giờ. Kinh đô của nước này dài mười hai
do-tuần, rộng bảy do-tuần - tất cả đều tiện nghi, sạch đẹp, xa hoa, tráng lệ
cùng cực. Tại cung điện có một tòa lầu bằng ngọc - là y báo của một vị thiên
tử Jeṭṭhanāla vừa từ cung trời Đao-lợi hạ sanh làm thái tử con vua
nước Ketumatī – tên là Sankha. Sau khi nối ngôi, đức
vua Sankha có một đời sống nghiêm minh, mẫu mực; chính ngài thường
thọ trì bát quan trai và giáo dục muôn dân sống theo thiện pháp.
Đức
vua Sankha có một vị quốc sư hiền thiện, tài đức vẹn toàn, sở học
thâm uyên – tên là Subrāhm – thường cố vấn, tham mưu trong trướng và
là thầy phụ đạo, dạy dỗ đức vua. Đại bồ-tát lúc ấy từ cung trời Đẩu-xuất, giáng
sanh vào lòng phu nhân vị quốc sư - bàCandramukhī – tên
là Vaṭṭhana. Lớn lên, vì là kiếp cuối cùng,
nên Vaṭṭhana xuất gia, ngồi dưới cội cây Nāgarukkha (Long
hoa - chính là cây mù u) bảy ngày rồi đắc quả Chánh Đẳng Giác. Từ đó,
ngài thuyết pháp độ đời, giúp chúng sanh giác ngộ, giải thoát nhiều không xiết
kể. Đức Chánh Đẳng Giác Metteyya (Di Lặc) đương lai ấy,
chính là vị tân tỳ-khưu Ajita trước mặt chư vị, vừa thọ nhận bộ tam y
quý giá rồi phát lời đại nguyện vô thượng làm cho cái bát của Như Lai phải rơi
vào tay của ông ta vậy.
Thời pháp vén
mở bức màn bí mật tương lai của đức Phật đã xác định nhân, duyên và quả rất rõ ràng
nên chẳng còn ai thắc mắc gì nữa. Còn lệnh bà Gotamī nghe đến đây thì tâm tư đã
hỷ mãn trọn vẹn.
Những bàn tay kỳ diệu và lời cuối bên những người thân
Sau khi đắc đạo
quả xuất trần A-la-hán, đức vua Suddhodāna nằm trên giường bệnh chứng
nghiệm hạnh phúc siêu thế; nhưng đến ngày thứ sáu thì những luồng gió mang sức
lửa di chuyển tới lui trong cơ thể, tạo sự đau đớn lan từ ruột, nhức buốt xương
cốt đến cả tay chân. Ngài sử dụng định lực và tuệ quán bình tĩnh lắng nghe.
Nhưng những cơn đau như xoắn, như quặn lại làm ngài cơ hồ không chịu nổi. Không
một lời rên siết, ta thán, đức vua sử dụng tâm định, nhẫn, xả để kiên trì chịu
đựng, mồ hôi tuôn ra từng giọt, từng giọt... Các quan ngự y và những người hầu
cận sợ hãi cuống cuồng chạy gọi người này, người khác...
- Hãy cố gắng
yên tĩnh đi nào! Đức vua Suddhodāna trầm tĩnh nói - Thân
trẫm đau đớn lắm nhưng tâm trẫm rất an lạc, đừng rối loạn lên như thế!
Lệnh
bà Gotamī, công nương Yasodharā, các đức thân
vương tìm đến tức khắc. Và cũng ngay sau đó, đức Phật, Ānanda, Nanda,
Rāhula có mặt ngay bên cạnh. Đức Phật ân cần hỏi:
- Phụ hoàng
hiện đau ở chỗ nào?
- Hiện tại thì
cái đầu của trẫm như có hằng ngàn con côn trùng nó cắn, nó rứt ở bên trong...
Đức Phật liền
nhắm mắt, trú định, lấy bàn tay ngọc vuốt nhẹ, xoa nhẹ trên đầu đức vua năm bảy
lần...
Lát sau,
đức Suddhodāna mỉm cười nói:
- Bàn tay của
đức Thế Tôn thật kỳ diệu, trẫm hết đau đầu rồi!
Một hồi, đức
vua lại mím môi:
- Bây giờ, cơn
đau nó lại đang hành hạ ở vùng ngực và bụng - dường như đang có một dùi sắt
nóng nó xuyên ngang, đâm dọc cả lục phủ, ngũ tạng...
Đức Phật chợt
nói:
-
Này Ānanda! Đến phiên ông đấy! Đức vua thương yêu ông lắm; đã nhiều
lần, phụ hoàng ngắm nhìn ông mãi, muốn ông kế vị ngôi vương! Năng lực tăng
thượng của tâm có được, không phải là phép lạ siêu hình mà do
nhờ nguyện lực chân thật và an trú định! Ông hãy phát nguyện đi – sau
đó, xoa nhẹ vào bụng của đức vua!
Đại
đức Ānanda vâng mệnh, cất lời phát nguyện chân thật như sau:
- “Từ
thuở xuất gia đến nay, tôi chưa hề khởi niệm thối thất, tư duy các dục; lúc nào
cũng muốn cận kề đức Phật, các vị trưởng lão để học hỏi giáo pháp, học hỏi
những đức, những hạnh tuyệt vời của các ngài. Nếu lời ấy là chân thật thì xin
cho đại bá phụ giảm cơn đau đớn!”
Nói thế xong,
đại đức Ānanda xoa nhẹ lên vùng ngực và bụng của đức vua. Lạ lùng
thay, bàn tay ấy như có năng lực kỳ diệu, xoa đến đâu thì cơn đau chấm dứt ngay
tức khắc, như nước mát làm tan lửa nóng.
Lát sau, đức
vua lại thấy đau và nhức buốt cả hai vai. Đức Phật nhìn Nanda. Biết
ý,ông hoàng si tình này bèn phát nguyện:
“-
Từ khi xuất gia đến nay, tuy tâm tôi không vui, không hoan hỷ, lúc nào cũng nhớ
đến hình bóng kiều diễm của vị hôn thê – nhưng tôi thường rất cố gắng thiền
định, cố gắng chiến đấu với chính mình không dám lơ là, thất niệm! Nếu điều ấy
là có thật xin cho phụ vương được giảm cơn đau đớn!”
Rồi sau khi xoa
nhẹ lên hai vai đức vua, cơn đau liền thuyên giảm.
Sa-di Rāhula thấy
vậy ngạc nhiên quá, ngây thơ nói:
- Vua nội còn
đau chỗ nào nữa, cháu cũng phát nguyện...
Đức
vua Suddhodāna chỉ xuống hai chân, âu yếm nhìn chú sa-di tí hon nói:
- Cháu chững
chạc thật rồi, Rāhula! Cơn đau nó đang chạy xuống hai chân của trẫm
đấy!
Rāhula liền
thành kính, quỳ xuống, chấp tay nguyện:
-“Từ
khi xuất gia đến nay, cháu rất vui vẻ, thỏa thích; có mấy lần cứng đầu, ham
chơi, nói dối vì sợ thầy Sāriputta và Moggallāna la rầy. Tuy nhiên, cháu rất cố
gắng học giáo pháp, cứ mỗi buổi sáng, cầm một nắm lá trong tay, tung lên; và
nguyện ngày hôm ấy học cho thật nhiều bằng số lượng nắm lá rơi xuống! Nếu điều
ấy là có thật – thì xin cho vua nội giảm cơn nhứt buốt...”
Rồi bàn tay
của Rāhula cũng thần kỳ không kém gì, xoa đến đâu cơn đau lặn mất đến
đấy...
Lệnh
bà Gotamī, công nương Yasodharā tận mắt chứng kiến phép
mầu, đức tin về đức Phật, về giáo pháp, từ lâu như ngọn đèn trong chiếc ghè,
bây giờ nó bừng sáng lên, niềm hoan hỷ như tươi rạng trong những đôi mắt!
Đức Phật nhìn
vua cha:
- Chỉ còn một
hôm nữa thôi, phụ vương sẽ nhập Niết-bàn vô dư, chấm dứt tất
cảdukkha, vĩnh viễn nếm thưởng hạnh phúc siêu thế; vậy về chuyện vương
triều, phụ vương có dặn dò gì không?
Đức
vua Suddhodāna mỉm cười nói:
- Trẫm đã sắp
xếp cả rồi! Tối hôm qua trẫm đã nói chuyện với các đức thân vương ở đây, là sau
khi trẫm mất, tuyên cáo rộng rãi rồi làm lễ đăng quang
cho Mahānāma kế thế ngôi vua!
- Phụ hoàng rất
minh mẫn!
-Vận nước đang
đi xuống, bạch đức Thế Tôn! Nhờ hồng ân giáo pháp, trẫm đã an trú ở cõi bất tử;
khá bi mẫn cho bao người mãi khóc cười, khổ lạc, buồn vui giữa những đợt sóng
thịnh suy, được mất, nhấp nhô chìm nổi... Quả nghiệp Sākya và Koliya nặng
lắm, biết bao nhiêu là nghiệp sát trước đây, bạch đức Thế Tôn! Không ai có thể
cứu mình nếu mình không biết tự cứu! Ôi! May mắn làm sao, hạnh phúc làm sao
là Ānanda, Nanda, Rāhula được đi theo chiếc bóng của đức Thế Tôn để
bước ra khỏi cảnh trầm luân sinh tử bao đời!
Đức vua chợt
chấp tay lại:
- Trẫm vì vô
minh, ngu muội, thật tiếc là không biết được, không thấy được – nhân cách của
một bậc Toàn Giác tỏa rạng nơi đức Thế Tôn từ lần đầu tiên ngài trở về
thămKapilavatthu. Thời gian ấy, trẫm đã có một vài tư tưởng mạo phạm, xin
đức Thế Tôn cho trẫm được sám hối!
Đức Phật nói:
- Tâm và trí
của phụ hoàng bây giờ sáng suốt và trắng trong như thế, chẳng hạt bụi nào có
thể hoen dính vào đấy được!
Nghỉ hơi một
lát, đức vua lại hướng mắt đến các vị hoàng đệ, các đức thân vương đang đứng ở
xung quanh:
- Trẫm làm vua
lâu quá, nhưng không phải là do tham quyền cố vị - mà là vì không có người xứng
đáng đảm đương nổi, hãy thông cảm cho trẫm! Sáu bảy mươi năm qua, nếu trẫm có
làm được việc gì đó cho dân cho nước là cũng nhờ sự khuông phò, phụ tá cần mẫn
của chư vương đệ. Trong lúc cầm quyền trị nước, không tránh khỏi độc tài, độc
đoán; nếu có lỗi lầm nào, xin chư vương đệ tha thứ cho trẫm!
Các vị hoàng đệ
và các đức thân vương đồng quỳ xuống, rướm lệ, lặng lẽ, sụt sùi tiếc thương.
- Này
hậu Gotamī! Đức vua nói tiếp - Bà là người hiền đức, suốt
đời là mảnh trăng vằng vặc cho hậu cung soi chiếu! Mọi đức tính tuyệt vời của
tấm lòng người mẹ, bàn tay người mẹ - bà là viên ngọc maṇi không tì
vết... Nếu trẫm có lỗi lầm nào thì xin hậu hãy hỷ xả mà bỏ qua cho trẫm
với nhé!
Lệnh
bà Gotamī cắn chiếc khăn trong tay để ngăn tiếng khóc...
Đức vua cũng ca
ngợi Yasodharā... rồi công nương cũng khóc ròng rã...
Đức Phật đứng
dậy nói:
- Vậy là vừa đủ
rồi - những giọt nước mắt tự nhiên và thiêng liêng ấy! Phụ hoàng đã dặn dò
xong, đã làm xong những việc cần phải làm trên cuộc đời này rồi; bây giờ mọi
người hãy trở về chuẩn bị hậu sự. Sáng mai, lúc bình minh rạng, phụ hoàng sẽ xả
bỏ báo thân, Như Lai và các vị trưởng lão sẽ có mặt...
Lễ hỏa táng đức vua
Nửa canh ba về sáng, đức Phật hướng tâm để xem quang cảnh
các bậc Chánh Đẳng Giác làm lễ hỏa táng phụ thân mình như thế nào. Không phải
ai cũng đủ duyên làm việc ấy. Một số các vị phụ thân mất trong khi các ngài
đang tầm đạo. Các vị khác không đủ duyên đặt để quả vị A-la-hán cho phụ thân
mình. Xét ra, chỉ một số vị có được nhân duyên toàn mãn như trường hợp của đức
Phật Gotama hiện nay. Tuy nhiên, bậc Chánh Đẳng
Giác nào cũng chu đáo nghĩa vụ trước đại sự tử sanh của đấng sinh thành bằng
cách này hay bằng cách khác.
Khi đức Phật và chư vị trưởng lão đến hoàng cung thì
trong ngoài mọi người đã đầy kín, lóng ngóng chờ trông...
Đức vua Suddhodāna đang nằm nghiêng về bên phải, yên tĩnh
trên giường bệnh.Nanda và Rāhula thì ngồi thiền trên chiếc sập kế cạnh.
Lệnh bà Gotamī vừa rảy nước thiêngSoma, rảy nước
hương hoa sen khắp đây đó rồi gầy thêm một lò trầm thoảng mùi thơm tinh khiết,
ấm cúng... Khung cảnh thật thanh bình như cõi tịnh cư thiên...
Đức Phật đến gần bên, chú tâm, hướng tâm biết thọ hành
của đức vua đang ở những sát-na cuối cùng, lát sau mỏng dần, tan dần...
- Bậc
A-la-hán cao quý thế là đã an trú vô dư y Niết-bàn! Đức
Phật nói rồi cắt đặt mọi việc - này Sāriputta! Ông cùng Kāḷudāyi, các tỳ-khưu Sākya, quan đại thần Mahānāma hãy đi tìm địa điểm làm lễ hỏa táng -
nơi chỗ đất rộng rãi, thoáng đãng - cho người làm vệ sinh sạch sẽ đâu đó rồi
thiết kế một hỏa đài trang trọng trong khả năng của vương triều!
Tôn giả Sāriputta hiểu ý hai chữ trang
trọng nên lãnh mệnh,
bước đi, nghĩ thầm: “Hy hữu thay là làm thân phụ của một
vị Phật! Càng hy hữu hơn, đức vua ấy lại là một vị A-la-hán! Chắc đại phạm
thiên Sahampatī, Sakka, Suyāma, Santusita... nếu biết lễ nghi, phép tắc, phải
đến đây để cung nghinh, thiết lễ cúng dường mới phải chứ...” Và quả đúng vậy, đức đại phạm thiên Sahampatī và vua của năm cõi trời dục giới (ngoại
trừ Tha hóa tự tại) đã
có mặt; cùng với thiên chúng Nam nữ đã đứng đầy đặc cả không gian. Họ
mang theo vô số hương hoa lễ phẩm, có cả đàn, sáo, nhạc và vũ công...
Đức Sakka dùng thiên âm, nói vào tai vị đại đệ
tử: “- Chúng
đệ tử có biết lễ nghi, phép tắc, thưa tôn giả! Ngài hãy cho thiết kế
hỏa đài thật trang trọng đi - rồi chúng đệ tử sẽ tô điểm cho trang trọng hơn nữa bằng phước báu và uy lực của cõi trời!” “- Vậy mới phải -Tôn giả nói – Nhưng
sao lại có đàn, sáo, nhạc và cả vũ công? Có ồn ào quá không, Sakka?”“- Dạ thưa
không - Trời Sakka đáp - Sẽ
thầm lặng thôi, nhân gian họ không nghe được gì đâu; hơn nữa, đây là cách biểu
lộ lễ nghi, phép tắc của cõi trời đấy mà!” “- Ông nhiều lời quá đấy, Sakka!” “- Dạ, chúng đệ tử
không dám đâu ạ!”...
Trong lúc ấy thì đức Phật bảo mang nước ấm và nước hoa
đến - rồi ngài dặn bảo:
- Xin mời thỉnh các đức thân vương hãy ra ngoài triều bảo
mọi người chỉ cần đội hoặc quàng khăn tang trắng, giữ gìn không khí yên tĩnh;
và chư vị có thể triệu tập hội đồng trưởng lão bàn việc tang lễ, phải làm những
gì cho phù hợp với truyền thống thì tùy nghi. Di mẫu về hậu cung, truyền cho
cung nga thể nữ, thị nữ... cũng quàng khăn tang và không nên khóc lóc, huyên
náo...
Với chư Tăng, đức Phật nói:
- Ānanda,
Nanda... ở lại một bên để cùng với Như Lai tắm rửa, thay y phục cho phụ vương!
Các trưởng lão Koṇḍañña, Vappa,
Assaji, Bhaddiya, Mahānāma, Yasa, Uruvelā Kassapa, Gayā Kassapa, Nadī Kassapa,
Mahā Kassapa... chia từng nhóm
hội chúng tỳ-khưu để hành thiền hoặc tụng những thời kinh nói về vô thường, vô
ngã, dukkha... để thức tỉnh nhân tâm. Còn Mahā Moggallāna tạm thời thay mặt Như Lai thuyết những
thời pháp phải lẽ cho mọi người đến dự lễ tang... Lúc thay đổi thì sẽ có Như
Lai, Sāriputta và Ānanda tiếp sức; phải làm như thế nào để các
thời pháp được diễn ra liên tục; chỉ nên thuyết những pháp liên hệ đến các cảnh
giới, nhân quả nghiệp báo và sự báo hiếu của con cái đối với cha mẹ... Cũng cần
thuyết về sự rã hoại của đất nước lửa gió nơi thân tạo ra sự đau đớn khốc liệt,
nếu không có năng lực phước báu hoặc định tâm hỗ trợ, thần thức người ra đi sẽ
dễ bị rối loạn, bất an, bất định. Thuyết về giây khắc lâm tử, cái cận tử nghiệp
quyết định sanh thú của chúng hữu tình như thế nào, từ kiếp này sang kiếp kia
ra sao để vén mở trí tuệ cho nhiều người...
Phân bố đâu đấy xong xuôi, đức Phật cùng Ānanda, Nanda tắm rửa, tẩm liệm và thay vương bào
mới cho đức vua, phủ lên một tấm y màu hoại sắc, biểu tượng đức vua đã là một
vị tỳ-khưu A-la-hán! Rồi cũng chính đích thân đức Phật và chư tăng quàn linh
cữu của đức vua tại sảnh đường lớn rộng của hoàng cung để cho mọi người đến
thăm viếng, chiêm bái, cúng dường hoa hương, lễ phẩm...
Linh cửu quàn bảy ngày để các tiểu quốc thân cận, các
trấn thành trong nước đến thăm viếng. Trong thời gian ấy, kinh tụng của chư
tăng bên linh cữu và các thời pháp tại cung đình được tiến hành liên tục. Hàng
ngàn tỳ-khưu thay nhau đến làm lễ rồi rút về đại viênNigrodhārāma, song bao giờ cũng thường xuyên túc
trực chừng vài trăm vị! Hằng trăm lều xá được dựng lên khắp nơi và lúc nào cũng
nườm nượp quan khách và dân chúng. Các tôn giáo bạn cũng từng đoàn, từng đoàn
đến viếng thăm, chú nguyện. Từng núi lương thực, thực phẩm được chở về và hàng
ngàn người phục vụ bếp núc, bưng dọn khá chu đáo từ trong ra ngoài...
Hỏa đài bằng chất liệu gỗ thơm và hoa được thiết kế công
phu, mỹ thuật; tuy nhiên, vua trời Sakka còn xin phép tôn giả Sāriputta chụp lên nóc hỏa đài một bảo tháp trăm
nóc –có tên là Dibyakutagara - cẩn châu ngọc của cõi trời thật là
huy hoàng, tráng lệ...
Giờ hỏa táng, chính đức Phật, Ānanda, Nanda cùng các vị trưởng lão tôn túc khiêng
linh cữu của đức vua. Cả rừng người mang hoa đến chất đống quanh hỏa đài. Mấy
hàng trưởng lão và hàng ngàn tỳ-khưu đứng vòng quanh mấy lớp, tiếng tụng kinh
như hải triều âm cuộn sóng giữa không gian. Hoa trời như từng cơn mưa ngũ sắc
rơi xuống, rơi xuống... Sáo trời, nhạc trời thả từng âm ba lạ lùng như phủ trùm
cả kinh thành Kapilavatthu. Triều
đình, nhân dân và quan khách đứng nhấp nhô từng lớp, từng lớp không xiết
kể...Trời Sakka hiện thành thân người, nhiễu quanh
linh cữu ba vòng về tay mặt, dâng lên đức Phật một viên ngọc đỏ – có tên là Jotivansī – khi cần, có thể phát hỏa bốc cháy
tất thảy mọi vật rồi tỏa hương thơm diệu kỳ... Biết là phải thời, đức Phật bước
tới, đặt viên bảo ngọc ở chân hỏa đài. Viên hỏa ngọc diệu kỳ do có tính năng
cảm ứng tinh thần của sở hữu chủ và vật chất xung quanh nên nó phát lửa – một ngọn
lửa mát lạnh - tỏa khắp không gian, bốc mùi thơm
tinh khiết... Lời kinh trầm hùng lại trỗi lên như đưa thần thức con người vào
cõi siêu thoát...
Cuộc lễ hỏa táng vĩ đại, có một không hai trên châu
Diêm-phù-đề, đích thân đức Chánh Đẳng Giác chủ trì, đến chiều là hoàn tất.
Triều thần và con cháu dòng tộc Sākya thu lượm tro cốt chia nhau để phụng
thờ...
Ít hôm sau, Mahānāma làm lễ đăng quang vương vị, kế thế
ngôi báu theo di huấn của đức tiên đế Suddhodāna.
Thành lập giáo hội
Bhikkhunì
Đức Phật ở lại đại viên Nigrodhārāma để thuyết pháp cho mọi thành phần giai
cấp đều được nghe. Ngày nào cũng hằng trăm người đến nghe pháp, trong đó có một
số ít ngoại giáo thích tranh luận, khá nhiều người xin quy y và một số đông
dòng tộc Sākya xin xuất gia nữa! Đức Phật chỉ thuyết
pháp và giáo giới mấy hôm, sau đó bàn giao trách nhiệm ấy lại cho hai vị đại đệ
tử.
- Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho
phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật
của đức Thế Tôn!
- Không được đâu, di mẫu! Đời sống xuất gia không thích
hợp cho nữ giới đâu!
- Có lẽ đức Thế Tôn sợ sức vóc phụ nữ không chịu đựng
được sương gió, nắng mưa hoặc không kham nổi đời sống trì bình khất thực xin ăn
thiếu thốn, cơ cực?
- Đấy mới chỉ là một phần của lý do, thưa di mẫu!
- Hay đức Thế Tôn thấy bản chất người nữ thường ích kỷ,
nhỏ nhen, nói nhiều, thích trang điểm, sống hời hợt bên ngoài, cố chấp và hay
sĩ diện hão?
- Thêm một phần của lý do nữa là như vậy, di mẫu ạ!
- Hay đức Thế Tôn thấy nữ giới không có căn bản trí tuệ -
để có thể lãnh hội giáo pháp cao siêu?
- Về lãnh vực ấy thì nữ nhi không hề thua Nam giới
đâu.
- Vậy thì trở ngại nó nằm ở đâu, bạch đức Thế Tôn?
Suốt ba ngày, ba lần xin xuất gia – mà đức Phật cũng
không trả lời câu hỏi có vẻ tối hậu ấy, ngài chỉ im lặng, lệnh bà vô cùng sầu
não. Đối với lệnh bà, hoàng cung bây giờ thật là hoang vu, vắng lạnh. Hạnh phúc
của người đàn bà là lo cho chồng, cho con, cho cháu; nhưngNanda, Rāhula đã ra đi, và bây giờ là đức vua Suddhodāna nữa - thì bà còn biết sống để làm gì
và sống cho ai?
Tuy nhiên, lệnh bà chưa bỏ cuộc, tìm gặp Ananda, Kāḷudāyi để hỏi thăm tình hình đường đi nước
bước; cách thức mặc y, mang bát, trì bình khất thực; cách đi đứng, nói năng,
ngủ nghỉ và cả sự tu tập căn bản trong buổi đầu của một vị tỳ-khưu. Cả hai vị
không hiểu chuyện gì, nhưng cũng trình bày rất cặn kẽ.
Khi đức Phật và tăng đoàn rời Kapilavatthu, trên đường trở lại Vesāli chỉ mới vài hôm - thì lệnh bà tìm gặp
công nương Yasodharā bàn bạc, tính toán việc xuất gia; để
kết luận, bà nói:
- Vậy, tôi sẽ đi trước với chừng một vài trăm người để
xem tình hình như thế nào đã; lúc nào đâu ra đấy rồi, Mātārāhula và mốt số quý công nương
khác hãy đi sau.
Thế rồi, sáng hôm kia, cả hoàng cung và kinh thành Kapilavatthu náo động, ngạc nhiên, bàng hoàng...
khi thấy lệnh bà Gotamī đầu cạo trọc, mặc y màu hoại sắc, mang
bát gỗ màu lõi mít - dẫn đầu đoàn nữ sa-môn chừng khoảng mấy trăm nữ nhân - đi
chân đất, theo con đường của khách thương buôn xuôi mãi về hướng Đông Nam. Họ
gồm một số công nương quý tộc còn trẻ chưa lập gia đình, số khác là cung nga
thể nữ, thị nữ trong cung; số còn lại là sương phụ của tướng lãnh, chiến sĩ,
trai tráng hoàng tộc Sākya đã theo Phật xuất gia trước đây!
Ôi! Kể sao cho xiết sự gian lao, vất vả trên lộ trình gần
ba mươi do-tuần xa xôi (hiện nay khoảng chừng 350 km) của những tấm thân cành vàng lá ngọc,
liễu yếu đào tơ ấy! Trên đường, họ phải phân bố rải rác các xóm làng để xin ăn
- rồi nắng, bụi, mồ hôi... cùng với những bàn chân nõn nà rớm máu trông thật
thê lương. Nghỉ trưa dưới những vòm cây, nghỉ đêm tại những khu rừng vắng - họ
mới cảm giác cụ thể đời sống sa-môn gối sương, nằm đất, không cửa, không nhà là
thế nào! Lệnh bà Gotamī bây giờ mới hiểu thấm thía tại sao đức
Thế Tôn lại từ chối không cho nữ giới xuất gia!
Với những khuôn mặt tiều tụy, hốc hác, y cà-sa dơ dáy,
bụi bẩn và những đôi chân ngọc sưng phù, bê bết máu – sau hơn tháng trường họ
cũng đến được Vesāli, rừng Mahāvana,
trước Sảnh-đường-nóc-nhọn của đức Phật. Hôm ấy, đại đức Ānanda là người trông thấy trước tiên, lạ
lùng quá, thốt lên:
- Tại sao quý bà, quý công nương lại là những nữ sa-môn
như thế này? Lại tiều tụy, cơ khổ như thế này đã chứ?
- Chúng tôi lặn lội vất vả dặm bụi đường xa đến đây là
chỉ để xin đức Phật được sống đời xuất gia phạm hạnh mà thôi! Lệnh
bà Gotamī nói –
Tôi đã ba lần quỳ bái, cầu xin ở đại viên Nigrodhārāma mà đức Thế Tôn không khứng chịu! Bà
bật khóc - Vậy xin
nhờ đại đức vào tâu trình với đức Thế Tôn một tiếng; và biết đâu nhờ lời ăn
tiếng nói khôn khéo, tình lý phân minh của đại đức mà ngài vị nể cũng nên!
Đại đức Ānanda nhìn thoáng qua hình dong của bậc phu
nhân cao quý, rồi nhìn mấy trăm vị công nương quý tộc, cung nga thể nữ cùng các sương phụ tỳ-khưu - đa phần là mỹ nhân trong thiên hạ -
chợt cúi đầu bối rối, thốt lên:
- Trời đất ơi! Lệnh bà thì không nói làm gì – nhưng tất
cả quý công nương trẻ tuổi này mà đi xuất gia thì phàm tăng tỳ-khưu trong giáo
hội không còn có một ngày nào được yên ổn nữa rồi!
Câu nói thực tình mà dí dỏm ấy làm ai cũng phải phì cười!
Tuy nhiên, thấy tình cảnh tiều tụy đáng thương của đoàn nữ sa-môn, ai ai chân
cũng sưng phù, rướm máu - đại đứcĀnanda không
thể kềm chế xúc động, vào ngay chỗ đức Phật, hấp tấp nói:
- Kính bạch đức Thế Tôn! Xin đức Thế Tôn mở lòng bi mẫn,
cho lệnh bà Gotamī cùng mấy trăm nữ nhân Sākya tháp tùng được sống đời xuất gia!
Đức Phật biết tất cả mọi việc rồi, nhưng ngài im lặng. Ānanda với giọng đầy cảm xúc, thưa tiếp:
- Họ khóc lóc thảm thiết lắm, khổ sở lắm; y bát nhuốm đầy
bụi đường tang thương lắm, bạch đức Thế Tôn! Nếu không được phép xuất gia, họ
cũng không chịu về đâu!
Lần thứ hai, đức Phật cũng im lặng. Đại đức Ānanda chợt trầm tĩnh lại, đầu óc suy nghĩ
cực nhanh, thay đổi chiến thuật tức khắc:
Đại đức Ānanda thưa hỏi:
- Nữ giới xuất gia, sống không gia đình trong pháp và
luật của đức Thế Tôn, có khả năng chứng đắc quả vị cao thượng, thù thắng không,
bạch đức Thế Tôn?
- Này Ānanda, có thể được!
Đại đức Ānanda liền khấu đầu lần thứ ba:
- Bởi nữ giới có khả năng chứng đạt đạo quả cao nhất, và
vì lệnh bà là người đã có rất nhiều công lao nuôi dưỡng đức Thế Tôn từ tấm bé,
yêu thương đức Thế Tôn còn hơn con đẻ của mình; vậy nên đức Thế Tôn hãy cho
phép lệnh bà và quý mệnh phụ phu nhân, các công nương Sākya được xuất gia sống theo pháp và luật
này!
Đức Phật biết là đã đúng thời, ngài bảo tỳ-khưu thị giả Upavāna:
- Ông hãy đi mời thỉnh hai vị đại đệ tử và các vị đại
trưởng lão đến đây để Như Lai hội ý với họ.
Lát sau, các ngài Sāriputta,
Mahā Moggallāna, Koṇḍañña, Kimbila, Vappa, Yasa, Bhaddiya, Uruvelā Kassapa,
Mahā Kassapa... đồng đến nơi. Đức Phật trình bày vấn đề. Họ thảo luận bàn bạc
khá lâu...
Đức Phật trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Như Lai không những không kỳ thị nữ giới mà còn khuyến
khích, nâng đỡ họ nữa. Tuy nhiên, chư vị có biết không - Đức
Phật như tâm sự - Giáo
pháp của Như Lai từ thuở bình minh của nó cho đến khi hoàng hôn, đêm tối xuống,
sẽ có mặt trên thế gian này trải dài mười
ngàn năm. Nhưng nếu cho nữ giới
xuất gia thì nó chỉ còn tồn tại năm ngàn năm mà thôi! Đấy là sự thực mà Như Lai không tiện
nói với lệnh bà Gotamī. Tuy nhiên, đã nhiều ngày suy nghĩ để
quán căn duyên, đã nhiều lần hướng tâm đến thời gian tồn tại của chánh pháp từ
chư tôn Chánh Đẳng Giác quá khứ - Như Lai khởi tâm quyết định phát triển giáo
hội tỳ-khưu-ni... sau khi đã suy nghĩ đúng đắn...
Tôn giả Sāriputta chợt nói:
- Bạch đức Thế Tôn! Đệ tử nghĩ rằng, con người giác ngộ,
giải thoát là quan trọng hơn, lợi ích tối thượng hơn trong thời gian chánh pháp
tồn tại. Còn đa phần thời gian thuộc về hoàng hôn năm ngàn năm sau ấy - tượng
pháp chỉ còn lắt liu như ngọn đèn mờ, chỉ còn gieo một chút duyên với chúng
sanh giúp cho họ tạo nhân phước quả trời người mà thôi. Đệ tử thấy sự lựa chọn
của đức Tôn Sư là minh triết...
Các vị trưởng lão cũng đồng tình với lời phát biểu của
tôn giả Sāriputta.
Đức Phật nhè nhẹ gật đầu:
- Nhưng hiện tại, Như Lai chưa tìm ra biện pháp, cách
thức, hình thức khả toàn để đưa họ vào đời sống xuất gia mà không tạo ra những
trở ngại bên trong nội bộ cũng như bên ngoài xã hội...
Tôn giả Sāriputta góp ý trước:
- Trở ngại ở bên ngoài thì chúng ta không ngại - vả
chăng, lúc thuyết những thời pháp về hạnh phúc gia đình, đức Thế Tôn thường hay
nhắc nhở mọi người phải biết tôn trọng nữ giới. Vậy, gia dĩ, xã hội có lên án
giáo hội của đức Tôn Sư đã đi ngược với luật Manu,
xemNam nữ bình quyền – thì chúng
ta sẵn sàng đương đầu để bảo vệ quyền con người với những giá trị cao đẹp của
nó...
Mọi người hoan hỷ tán đồng ý kiến ấy.
- Thế còn trở ngại nội bộ? Đức
Phật hỏi – Chư vị ai có thể tiên lường việc gì sẽ xẩy
ra chăng?
- Có khá nhiều - Tôn giả Moggallāna góp ý – Lệnh bà là bậc cao quý trong
hoàng tộc, có địa vị, quyền hành, uy tín rất lớn trong cung đình cũng như ngoài
xã hội. Lệnh bà lại còn là di mẫu của đức Thế Tôn nữa – do vậy, ngại rằng, lúc
xuất gia rồi, ngay các vị thượng thủ A-la-hán cũng chẳng ai dám góp ý với lệnh
bà một lời, một tiếng nào. Còn quý công nương, mệnh phụ kia cứ nghĩ mình là
cành vàng lá ngọc, ngại rằng họ xem những vị tỳ-khưu thuộc những thành phần
khác trong xã hội không ra gì!
- Còn nữa - Đại đức Ānanda tiếp lời - Đệ tử rất muốn xin cho họ xuất gia,
nhưng ngại rằng họ trẻ và đẹp quá - phải cần có pháp chế như thế nào để kềm
giữ, thu thúc bớt... kẻo sinh loạn!
Nhiều vị nhè nhẹ gật đầu!
Trưởng lão Koṇḍañña nói:
- Ở chung một tu viện, một khu rừng là không được rồi;
nhưng ở tu viện riêng, khu rừng riêng xem ra cũng bất khả. Như trong một gia
đình không có đàn ông thì kẻ trộm thường đến dòm ngó, lộng hành. Quý bà, quý cô
ở riêng một nơi thì biết ai bảo vệ trước những kẻ có tà tâm, xấu ác lúc đêm hôm
và cả những ngày quạnh vắng?
Tôn giả Mahā
Kassapa chờ đợi giây phút này đã
lâu lắm, vẫn mong cho giáo hội Ni giới được thành lập vì ngài còn nhớ mãi lời
ước hẹn với người bạn đời! Thấy lý lẽ ai đưa ra cũng chính xác,
tuy vậy, không phải là không có cách - Ngài nói:
- Vậy xin đức Thế Tôn ban cho quy chế hoặc là những điều
luật – như là những điều kiện bắt buộc phải tuân hành mỗi khi nữ giới chấp nhận
đời sống xuất gia. Người nông dân thường làm một con đập hay đắp một con đê để
ngăn cho nước khỏi tràn; cũng vậy, chúng ta hãy xây dựng, phác thảo một pháp
chế, một quy chế có công năng giới hạn bớt những tệ nạn có thể phát sanh! Bạch
đức Thế Tôn! Xin ngài hãy rộng tay mở cánh cửa thiên giới và cánh cửa Niết-bàn
cho nữ giới thế gian bước vào thì thật là đại phúc cho họ cũng như cho nhân
quần xã hội!
Đức Phật đồng ý bằng cách im lặng. Các vị trưởng lão sau
một hồi thảo luận; tôn giảSāriputta đúc
kết rồi thưa trình lên đức Phật tám trọng pháp - bát
kỉnh pháp - sau đây:
1- Tỳ-khưu-ni dầu một trăm tuổi hạ cũng phải
chào hỏi, đứng dậy, đảnh lễ thầy tỳ-khưu tăng – dù vị này mới xuất gia trong
ngày hôm ấy.
2- Tỳ-khưu-ni mỗi năm phải tìm về an cư ở gần
một trung tâm có tỳ-khưu tăng để được bảo vệ và nương tựa.
3- Cứ mỗi tháng hai kỳ, sau khi làm lễ bố-tát
(Uposatha), tỳ-khưu-ni phải tìm đến tỳ-khưu tăng để học hỏi, nghe lời giáo
giới.
4- Sau khi hành lễ Tự Tứ (Pavārana) tại trú
xứ của mình, tỳ-khưu-ni phải đến chỗ tỳ-khưu tăng để làm lễ ra hạ một lượt nữa
- để kiểm thảo xem trong ba điều thấy, nghe và nghi mình có lầm lỗi điểm nào
chăng.
5- Tỳ-khưu-ni phạm tăng tàn, đã xưng tội, đã
chịu phạt cấm phòng tại trú xứ của mình – còn phải xưng tội trước tỳ-khưu tăng
nữa.
6- Nữ giới tử trong thời gian tập sự, thọ trì
sáu giới (Sikkhamānā) trong thời hạn hai năm - phải cầu xuất gia thọ đại giới
trước cả hai chúng Tăng Ni.
7- Bất luận trong trường hợp nào, tỳ-khưu-ni
cũng không có quyền nặng lời chê bai, thóa mạ hay chỉ trích tỳ-khưu tăng.
8- Tỳ-khưu-ni không được quyền giáo giới,
giảng dạy tỳ-khưu tăng, nhưng sám hối với tỳ-khưu tăng thì được!
Tám điều ấy, sau khi đã được tuyên bố xong, đại đức Ānanda cười cười nói:
- Vậy là áp chế quá, không kỳ thị nữ giới là gì?
Tôn giả Mahā Moggallāna giải thích:
- Quả có vậy! Nhưng đấy là cánh cửa mở để nữ giới bước
vào giáo đoàn! Cũng là bờ đê để ngăn chặn những tệ nạn có thể phát sanh như
pháp huynh Mahā Kassapa đã nói. Tưởng là kỳ thị - nhưng thật
ra đấy lại là phương cách tốt nhất cho nữ giới được xuất gia, pháp đệ không
thấy như thế hay sao?
Tôn giả Sāriputta giải thích thêm:
- Tuy có 8 điều, nhưng hiện tại chỉ cần thọ trì 5, vì các
điều 3,4,5 chỉ có hiệu lực lúc nào đức Tôn Sư chế định giới luật một cách đầy
đủ, toàn mãn.
Đức Phật nói:
- Này Ānanda! Nếu di mẫu chấp thuận và thọ trì “bát
kỉnh pháp” mà chư vị
trưởng lão đã chế định, được Như Lai chuẩn y – thì Như Lai đồng ý cho nữ giới
xuất gia.
Hoan hỷ xiết bao, đại đức Ānanda hối hả ra ngoài khu rừng gặp lệnh bà
và các công nương – lúc ấy do trời nắng nên họ ngồi lác đác trong các lùm cây.
Sau khi nghe xong nội dung bát
kỉnh pháp, lệnh bà Gotamī hớn hở nói:
- Như một cô gái trẻ trung và xinh đẹp, sau khi tắm gội
bằng nước thơm, hong tóc khô ráo – có người mang tặng những đóa hoa tươi thắm
thì cô gái kia sẽ thỏa thích đón nhận để cài lên đầu của mình; cũng thế ấy, nữ
giới chúng tôi sẽ rất sung sướng chấp nhận bát
kỉnh pháp để thọ trì suốt đời –
nhất định không để cho đức Thế Tôn và chư vị trưởng lão phiền lòng đâu!
Đại đức Ānanda vào báo tin lại.
Lệnh bà Gotamī biết có một số công nương dòng dõi quý
tộc cảm thấy khó chịu về tám điều ấy nên bà giải thích:
- Các em phải biết rằng, trong gia đình thì người đàn ông
là chủ chốt; trong mái nhà giáo hội của đức Thế Tôn cũng phải là như thế. Lại
nữa, chính thọ trì tám điều ấy thì chúng ta mới có cơ hội dập tắt tính tự tôn,
ngã mạn do địa vị, dòng tộc để bước vào giáo pháp vô ngã, vô sản, bần hàn của
đức Tôn Sư!
Thế rồi, chừng hai trăm nữ nhân quý phái đươc thọ giới
tỳ-khưu-ni vào buổi chiều, có rất đông chư trưởng lão tham dự. Ai cũng hoan hỷ.
Riêng tôn giả Mahā Kassapa là hoan hỷ nhất! Do cư trú ở nơi này
lâu nên tôn giả biết là phải chọn lựa khu rừng nào thích hợp cho ni chúng,
không gần mà cũng không xa trung tâm tu học của tỳ-khưu tăng.
Ngày hôm sau, các vị trưởng lão Nadī Kassapa, Gayā Kassapa, Mahā Kassapa... chỉ đạo cho đồ chúng đệ tử mấy trăm
người - tỳ-khưu trẻ và Nam cư sĩ đến khu rừng - để làm cốc liêu, nhà giảng, đào
giếng nước, các công trình và những tiện nghi phục vụ sinh hoạt, ăn ở. Vật liệu
xây dựng thì các gia chủ hào phú dâng cúng; nhân công và thợ thầy thì đa phần
là tỳ-khưu tăng... Những vị tỳ-khưu xuất thân dòng tộc Sākya, chiến sĩ, thanh niên... có người bạnđời trong số các công nương tỳ-khưu-ni – thì họ ra tay làm mọi việc sốt sắng
nhất. Chỉ hơn nửa tháng sau là trung tâm tu học của ni giới trông đã tươm tất
đâu ra đấy.
Tỳ-khưu-ni Gotamī đưa mắt một lượt nhìn ngắm cơ ngơi tu
học tạm thời đã ổn định, nói với các tỳ-khưu-ni
công nương:
- Các em thấy không? Cái
tâm như vậy, cái trí như vậy và cái lực như vậy - họ có xứng đáng để chúng ta nương tựa
hay chăng?
- Rất xứng đáng! Một cô nói – Chúng ta là nữ giới, chân yếu tay mềm,
dù là xuất gianhưng cũng cần phải có chỗ để nương tựa chứ!
Mọi người cười vui, những nét mệt mỏi trên khuôn mặt
thanh tú của các công nương dường như đã tiêu tan hết. Bây giờ thì họ đã có nơi
ngủ nghỉ, chỗ tắm giặt – cái này
quan trọng nhất - và chỗ
hành thiền đâu đó đàng hoàng. Họ bắt đầu tập sự sống đời nữ sa-môn và tìm hạnh
phúc không bởi nương tựa vật chất xa hoa, uống ăn sơn hào hải vị - mà chính là
đời sống dị giản, vô sự, vô sở hữu và sự thanh bình, vắng lặng của tâm hồn!
Hôm ấy, nữ sa-môn Gotamī dẫn đầu đoàn ni chúng đến đảnh lễ đức
Phật và chư vị trưởng lão.
Dịp này, đức Phật tuyên bố là chư tăng ni sẽ an cư kiết
hạ ở đây để ni giới có cơ hội học hỏi giáo pháp cho vững chắc. Ngài cũng đặc
biệt giới thiệu hai vị đại đệ tử là hai giáo thọ sư đảm trách việc giáo giới
pháp học, pháp hành căn bản vào buổi đầu cho ni chúng; và thỉnh thoảng, đức
Phật cũng có những thời pháp quan trọng dành cho họ. Còn nữa, lúc cần thiết,
đức Phật sẽ triệu tập rộng rãi cả hai hội chúng để ban những chỉ thị nào đó
liên hệ đến giới luật trong sinh hoạt chung.
Trước thời gian an cư tại Vesāli, đức Phật đề cử các
trưởng lão Koṇḍañña, Vappa, Mahānāma, Assaji, Yasa... và chừng một ngàn tỳ-khưu
về nhập hạ tại Trúc Lâm; ngài còn ân cần ủy thác Uruvelā Kassapa đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra hiến tặng một chỗ đất thích hợp để sau
này phát triển ni giới tại Rājagaha. Nhân dịp này, tôn giả Mahā Kassapa xin đức Phật được dẫn theo một số đồ
chúng theo hạnh đầu-đà về trú mưa tại Rājagaha, ngài nói:
- Bạch đức Thế Tôn! Trước khi cất bước chân ra đi tầm
đạo, đệ tử tạm gởi tiện nội ở giáo chúng Ni-kiền tử, hẹn rằng lúc
nào tìm ra giáo pháp chân chính, sẽ báo cho nàng sau. Bây giờ, quả thật là đại
hạnh cho Bhaddākāpilāni, khi đức Thế Tôn đã cho phép thành lập
ni chúng, lại còn được lệnh bà ni trưởng Gotamī đạo cao, đức trọng cầm tích trượng
quản lý, điều hành. Vậy xin đức Thế Tôn cho phép đệ tử về Trúc Lâm để thực hiện
lời hứa của mình!
Đức Phật thấy điều ấy là chính đáng, ngài đồng ý nhưng
dặn dò thêm:
- Một nhánh của Nigaṇṭha
Nāṭaputta (Ni-kiền-tử) cũng xem
trọng khổ hạnh cực đoan; biết đâu phẩm cách thanh tịnh và giáo pháp chơn chánh
ở nơi ông sẽ cảm hóa được rất nhiều người ở đấy!
Từng cơn gió khô hanh thổi qua khu rừng, lá rụng xào xạc.
Mùa mưa lại sắp đến rồi. Đấy là vào năm năm trăm tám mươi tư trước TL, đức Phật
an cư hạ thứ năm tại Sảnh Đường Nóc Nhọn, rừng Mahāvara tại Vesāli, đa phần thì giờ ngài dành cho việc
củng cố ni chúng.
Dự liệu của đức Phật ở đây thế là đúng, vì chỉ thời gian
rất ngắn sau, công nương Yasodharā cũng trong hình tướng nữ sa-môn dẫn đầu đoàn
cung nga thể nữ hơn trăm vị đến rừng Mahāvana, Sảnh Đường Nóc Nhọn - để xin
nhập chúng. Đức Phật và chư vị trưởng lão lại một lần nữa tổ chức lễ xuất gia
tập thể cho họ; đồng thời, tìm kiếm, ổn định chỗ ăn ở cho hơn trăm vị
tỳ-khưu-ni nữa. Có lẽ do phước báu sâu dày của họ mà các danh gia, đại phú gia
kế cận các bang cộng hòa đã rộng tay bố thí, cúng dường tứ sự; lại đích thân
cho chở cả nhân công và vật liệu đến tận khu rừng. Lại có cả hằng trăm vị
tỳ-khưu trẻ ra công ra sức nữa nên cơ ngơi cũng sớm được tươm tất và tương đối
tiện nghi.
Thế là Ni viện bây giờ không những lớn rộng mà còn
được kiến thiết, chỉnh trang, thêm một số các công trình phụ, tu bổ, sửa sang
nơi này nơi kia nữa nên trông đã khá quy mô và bề thế.
Ổn định ni chúng
Sau
khi ni giới được thành lập, dư luận quần chúng xôn xao, bàn tán từ nơi này sang
nơi khác. Một số đông sương phụ tỳ-khưu hân hoan vui mừng vì họ sẽ có cơ hội
xuất gia theo chồng. Một số thành phần trí thức trong xã hội cảm kích vì đức
Thế Tôn đã giải phóng cho nữ giới, rộng tay mở cửa nhân, thiên và Niết-bàn với
tâm bình đẳng, thoát khỏi sự ràng buộc, phân biệt, coi thường nữ giới có được
từ luật Manu của bà-la-môn giáo đã hằng ngàn năm trước. Tuy thế, đa phần là
chống đối, do truyền thống trọng Nam, khinh nữ đã ăn sâu trong tâm thức
nhân gian, trên mọi sinh hoạt xã hội.
Đức
Phật và chư vị thượng thủ A-la-hán mỉm cười, chấp nhận chuyện đương nhiên sẽ
xảy ra. Tội nhất là các vị tỳ-khưu trẻ, lúc đi trì bình khất thực thường bị các
cô gái trẻ chọc ghẹo. Nào là, “ông đi thì bà cũng đi, có đôi có cặp rứa
thì dễ tu”. Nào là, “sa-môn xin hãy đợi em, không duyên tơ tóc
thì duyên trọc đầu!”. Chuyện phiền phức không chỉ có chừng ấy. Các
công nương cành vàng lá ngọc vốn là những cô gái xinh đẹp. Dẫu là cung nhân,
cung nữ hoặc sương phụ các chàng trai Sākya thì đều là thành phần quý tộc, cao
sang đã được tuyển chọn theo kiểu lựa vung úp nồi! Bây giờ dẫu họ đã cạo đầu,
mặc y màu hoại sắc, cũng không giấu hết nét xuân sắc, diễm kiều. Chỉ trong vòng
mươi hôm khi các vị tỳ-khưu-ni đi trì bình khất thực trong thành phố hoặc các
thôn làng là dường như ở đâu cũng gặp các chàng trai đủ mọi thành phần giai cấp
tụ năm, tụ ba dòm ngó, chỉ trỏ. Do tôn kính và hàm ơn đức Phật và Tăng chúng đã
tận tình cứu thoát nhân dân qua ba đại nạn thảm khốc; họ chưa có thái độ gì sàm
sỡ quá đáng, nhưng cũng gây trở ngại ít nhiều cho một số tỳ-khưu-ni bản chất
mềm yếu và cả thẹn. Chưa thôi, cứ hễ chiều đến là rất đông thanh niên, trai
tráng đến tụ tập lác đác xung quanh khu rừng, có lẽ một phần do tò mò, một phần
để lộ sự dòm ngó bất chánh. Biết chuyện ấy, các vị trưởng lão đã cho một số
tỳ-khưu thuộc dòng Sākya, sau khi trì bình khất thực về, tìm chỗ nơi các hang
động, miếu hoang, cội cây xung quanh ni viện để bảo vệ, canh chừng. Tuy nhiên,
đây chỉ là biện pháp tình thế, nhất thời. Do mùa mưa luôn luôn là sự trở ngại
cho chư tỳ-khưu. Lại nữa, ai mà có thể vừa canh chừng kẻ gian vừa thiền định,
thiền quán có hiệu quả cho được?
Đức
Phật biết mọi chuyện xảy ra, nên hôm kia, cùng với các vị đại trưởng lão, ngài
qua khu rừng tỳ-khưu-ni, ban bố một số giới điều quan trọng vào buổi đầu[i],
thứ nhất là đem lại sự an toàn cho Ni giới, thứ hai là để cho đời sống trong ni
viện có nền nếp, kỷ cương, thứ ba là tạo môi trường lành mạnh để tấn tu, hỗ trợ
cho phạm hạnh. Đây được xem như nội quy, thanh quy cho Ni viện:
- Ban đêm không được đi ra khỏi cửa rừng hoặc ra ngoài rừng cây.
- Khi có việc phải đi, không được đi một mình mà phải có hai
người.
- Chiều tối không được đi đến nhà thí chủ hoặc nhà người quen.
- Đi trì bình khất thực không được đi riêng lẻ mà phải đi từng
nhóm, từ hai người trở lên.
- Không được đi, đứng hoặc ngồi trước mặt vị tỳ-khưu.
- Không được mang dù dép, ngoại trừ bị bệnh; không được ngồi xe,
ngồi kiệu.
- Đến nhà thí chủ không được ngồi hay nằm tại chỗ của gia chủ;
phải ngồi đúng chỗ chỉ định, xong công việc không được la cà chuyện này chuyện
kia.
- Không được đem chuyện trong ni viện để kể lại với tỳ-khưu hoặc
với hàng cư sĩ; không đem chuyện ngoài đường về kể lại cho tỳ-khưu-ni bạn hữu.
- Không được ngủ chung với nhau; hai tỳ-khưu-ni không được ngủ đắp
chung một tấm chăn tăng-già-lê.
- Khi có việc phải gặp tỳ-khưu, Nam cư sĩ... lúc nói
chuyện phải có bạn bên cạnh, tối thiểu phải có người thứ ba.
- Phải chia tổ, chia chúng để quản lý sinh hoạt. Mọi yêu cầu, thỉnh
thị ý kiến, có công chuyện gì phải trình qua Ni trưởng Gotamī.
- Không được tự ý đi tìm y, bát chỗ này chỗ kia. Không được gợi ý
thí chủ dâng cúng vật này vật nọ.
- Mặc y nội, ngoại phải đúng quy định, không được tự
cắt may, chế tác giống như áo váy của người đời. Màu phải hoại sắc, nhuộm bằng
rễ cây, vỏ mít... nhạt đậm từ màu cọng rơm đến màu cánh dán.
- Không được tự ý đi hỏi đạo bất kỳ một vị tỳ-khưu nào. Việc giáo
giới tỳ-khưu-ni sẽ có hai vị đại đệ tử và các trưởng lão thay đổi nhau.
- Khi đến đức Phật để nghe pháp, có thể chỉ đứng (nếu không có
chỗ) hoặc ngồi (nếu có chỗ) theo kiểu xếp chân một bên, không được ngồi bán già
hay kiết già!
- Ngoại trừ trong phòng riêng, hễ bước ra khỏi phòng là phải mặc y
kín mình.
- Lúc có kỳ [ii] phải
ở lại tịnh xá, được thọ dụng vật thực dự trữ thường để dành cho người ốm, người
bệnh hoặc bạn đạo đi giúp hai bát.
- Những tỳ-khưu-ni không được tìm cách chà xát, xoa bóp cho nhau.
- Không được sử dụng nước hoa, vật thơm; không được tắm nước có
hòa bột hương, dầu hương, bã mè, xác hoa, vật thơm...
- Không được đeo mang bất kỳ loại trang sức nào ở cổ, ở tay, ở
tai, ở đầu – kể cả hoa, tràng hoa...
- Không được nuôi chim, thỏ, sóc, chó, mèo... trong ni viện, trong
cốc liêu..
21
điều ấy, đức Phật vừa giáo giới xong là đã được tôn giả Sāriputta đúc kết lại.
Tôn giả Ānanda có trí nhớ tốt, tuyên đọc lại ba lần cho hội chúng tỳ-khưu-ni dễ
nhớ, dễ thuộc.
Ni
trưởng Gotamī chợt hỏi:
-
Bạch đức Thế Tôn! 21 điều ấy là rất tốt, rất chính xác – nhưng nếu có người vi
phạm thì sao?
-
Hãy tùy nghi, hãy linh động, này ni trưởng! Hội chúng tỳ-khưu-ni hiện nay đa
phần là người có học thức, đã được sống nhiều năm trong kỷ cương đạo đức, có lẽ
chưa xảy ra chuyện gì hệ trọng quá đáng đâu. Vậy thì ni trưởng và các vị giáo
thọ hãy xử phạt; ví dụ như quét rác, dọn rửa phòng tắm, nhà vệ sinh, múc nước,
gánh nước hoặc chăm sóc người bệnh, lao động nhẹ các công việc vườn tược, rừng
cảnh cho sạch sẽ, khang trang...
Ni
trưởng Gotamī lĩnh ý, sau đó lại thưa hỏi về việc thâu nhận người nữ xuất gia
phải cần có điều kiện, trình tự thủ tục, giới điều như thế nào?
Đức
Phật đặc biệt lưu ý về điều này, ngài nói:
-
Trong giai đoạn này, ở đây, chưa nên nhận người xuất gia thêm vì có nhiều vấn
đề phức tạp. Ni chúng vừa mới thành lập còn quá mới mẻ. Phải đợi đến lúc di mẫu
và các vị tỳ-khưu-ni ở đây nắm hết căn bản pháp học, pháp hành, có đời sống
luật nghi thanh tịnh, ổn định, vững chắc – lúc ấy mới tính đến việc ấy [iii].
Hiện giờ phần việc cho nữ giới xuất gia tỳ-khưu-ni là do Như Lai và chư vị
trưởng lão tăng đảm trách [iv].
Ni
trưởng Gotamī hỏi về một số người nữ đến xin làm công quả, học tu thì phải làm
thế nào? Đức Phật dạy:
-
Điều ấy cũng khá phức tạp. Tục lệ tảo hôn của xã hội ta, đôi nơi con gái 8 tuổi
đã gã chồng. Vậy người nữ đến xin học tu đã được sự đồng ý của cha mẹ hoặc
người chồng hay chưa? Nếu được sự chấp thuận của gia đình – thì được phép. Vị
ni trách nhiệm giáo thọ phải kèm cặp, giáo giới kỹ càng sau hai hoặc ba năm, có
thể cho xuất gia sa-di-ni. Lúc ấy, Như Lai sẽ chế định, ban hành học giới cụ
thể.[v]
Như
vậy, rõ là đức Phật và chư vị trưởng lão tăng còn quá nhiều việc phải làm.
Riêng ni chúng sẽ còn phát sanh hằng trăm hàng ngàn chuyện lớn, chuyện nhỏ
trong tương quan giữa nhau cùng cộng đồng xã hội.
Điều
ni trưởng thưa trình với đức Phật là đúng, vì thời gian không lâu sau, người nữ
đủ mọi thành phần, giai cấp trong xã hội đến xin học tu rất đông. Một vài
trường hợp ngoại lệ, chỉ có đức Phật mới quyết định cho xuất gia tỳ-khưu-ni hay
không; còn đa phần, họ đều phải tuân hành mấy chục giới điều (chưa phải
luật) khá khái lược ở trên, để chuẩn bị cho ni giới tự điều hành và
quản lý sau này.
[i] Lúc này chưa ban bố Tứ thanh tịnh giới,
chưa có giới bổn Pātimokkha.
[iv] Sau hạ thứ 20, đức Phật mới quy đinh:
Tỳ-khưu 10 hạ, tỳ-khưu-ni 12 hạ mới đủ tiêu chuẩn làm thầy thế độ cho giới tử
thọ đại giới.
[v] Lúc này cũng chưa có tên gọi Sikkhamānā,
tức là nữ giới học tu thọ trì sáu điều học trong hai năm..
Hóa độ kỹ nữ Ambapàlì
Sớm
hôm ấy, vào nửa cuối canh ba, lúc sao mai vừa mọc, đức Phật đưa mắt thuần tịnh
siêu nhân lướt nhìn khắp khoảng không gian ước chừng 50 do tuần, xem thử ai có
căn duyên với giáo pháp. Đức Phật thấy có một người. Và nếu hóa độ được người
này thì có thể hỗ trợ cho Ni giới; đồng thời lại có thêm một cơ sở hoằng pháp,
lợi lạc cho công cuộc hoằng hóa sau này.
Đức
Phật bảo vị tỳ-khưu thị giả vừa được tôn giả Sāriputta chỉ định [i], triệu tập chừng hai mươi vị tỳ-khưu trẻ cùng
lên đường với ngài. Sau đó, với đại y màu san hô vắt vai, bát cầm tay, đức Phật
và hội chúng bước lần ra ngoại ô, đi mãi. Dọc theo con đường đầy bụi, rác rưởi,
phân bò, phân dê... đoàn sa-môn qua mấy cánh đồng lúa, những vườn xoài, vườn
ca-ri, vườn chà là; luồn trong hương lộ có bóng tre, bóng dừa, bóng thốt nốt
rồi đến ngôi làng Koṭigāma trù phú và thạnh mậu. Tại đây, sau khi tuần tự đi
trì bình khất thực qua các xóm nhà, không kể giàu nghèo; lúc vật thực vừa đủ
dùng, đoàn sa-môn ghé đến dưới khóm cây mù u có bóng mát để độ thực. Các vị
tỳ-khưu trẻ đi theo chiếc bóng của ngài cảm thấy thanh bình và an ổn. Đức Phật
không dạy bảo họ điều gì, mà họ học được sự tĩnh tại từ nơi đôi mắt nhìn xuống,
sự chậm rãi và nhẹ nhàng nơi từng bước chân đi; sự cẩn trọng trong cung cách
đưa bát để thọ nhận vật thực; lòng từ ái nơi bài kệ phúc chúc, cách độ thực với
từng ngón tay vo tròn điêu luyện rồi từ tốn đưa vào miệng một cách gọn gàng và
sạch sẽ; cách đi kinh hành thanh thản và cả cách yên lặng trải tọa cụ dưới gốc
cây để tọa thiền nữa... Tất cả. Tất cả. Và đấy chính là thân giáo của ngài.
Cách
đấy không bao xa, chừng nửa do tuần, có một khu rừng xoài sum suê và xanh mát
của một người kỹ nữ có tên là Ambapālī. Nàng là một kỹ nữ xinh đẹp và tài hoa
nhất của kinh thành Vesāli và của cả trong các nước cộng hòa liên bang phía Bắc
sông Gaṇgā. Vốn là con rơi của một vương tử, sinh ra đã có nước da sáng như
ngọc và tỏa mùi trầm; môi đỏ như thoa son và có cả đôi mắt xanh biêng biếc.
Ngoài ra, lại còn có tư chất bẩm sinh là múa dẻo và có giọng hát rất hay, trong
thanh như tiếng chim Ca-lăng-tần-già. Các thầy bà-la-môn tướng pháp nói rằng, cô
bé bị một phá cách, một phá tướng; nếu không trong tương lai sẽ làm một quý
nhân, không đắc ngôi hoàng hậu thì cũng làm một vương phi tài sắc vẹn toàn.
“- Vậy tương lai, cô bé sẽ thế nào?” Vị vương tử hỏi.
Vị
bà-la-môn già thở dài:
“- Cũng là hoàng hậu, nhưng là hoàng hậu trong giới kỹ nữ, cũng
quý cách và giàu sang không ai bằng!”
Thuở
ấy, các cô kỹ nữ đều là thành phần được xã hội quý trọng [ii]. Vị vương tử thương con bèn gởi cô bé đến
Bārāṇasī - một thành phố nổi tiếng ăn chơi và có nhiều trường dạy nghề kỹ nữ
với học phí rất cao - để học nghệ. Thế là số phận cô bé đã được định đoạt. Mười
năm sau, lúc trở lại Vesāli thì các cô kỹ nữ khác đều bị lu mờ. Ông bố vương tử
hào sảng lẫn mặc cảm tội lỗi, đã cho con cả một dinh thự nguy nga cùng với tôi
trai tớ gái mấy chục người để hầu ha, phục dịch nàng. Giá một buổi được nghe và
xem nàng biểu diễn phải là một ngàn đồng tiền vàng kahāpaṇa [iii]. Ban đầu nàng cương quyết bán nghệ chứ không
bán thân, nhưng sau có quá nhiều công tử trẻ trung, hào hoa, quỳ phục dưới chân
nàng, dám đánh đổi cả gia tài để được hầu nàng một đêm. Nàng xiêu lòng. Nhưng
sau đấy thì nàng rất khắt khe trong việc lựa chọn. Cũng chẳng ai dám làm gì
được nàng vì nàng có quá nhiều thế lực ở cung đình cũng như tiền rừng, bạc bể
bảo trợ.
Mãi
mãi những cuộc vui. Mãi mãi những khúc đàn, tiếng hát. Mãi mãi với cao lương mỹ
vị, kiệu đón xe đưa, hầu tiếp các vương tôn, công tử, danh gia, đại gia, đại
phú gia...[iv] cô hoàng hậu không ngai - kỹ nữ Ambapālī - cảm
thấy mệt mỏi, rã rời, chán nản. Nàng bèn tậu một khu rừng xoài xa và sâu về
phía ngoại ô - thỉnh thoảng tìm về đấy, trốn mọi người và cũng để thư giãn tâm
hồn. Giữa thiên nhiên khoảng khoát, trong lành, nàng tìm được những giây phút
thanh bình. Trong vô thức mơ hồ, nàng cảm thấy tất cả mọi tiện nghi xa hoa vật
chất này không phải là hạnh phúc thật sự của đời người. Phải là cái gì khác.
Phải là thế giới nào khác.
Thời
gian qua đi, cô kỹ nữ tài sắc vẹn toàn năm xưa đã trở thành một lão bà tóc
trắng nhưng sắc đẹp tiềm tàng vẫn làm xiêu lòng người, vẫn toát ra cốt cách
phong lưu, đài các. Tuy có nhiều cơ ngơi, dinh thự - nơi mở lớp đào tạo kỹ nữ
với rất đông gia nhân, người hầu nhưng bà vẫn thích về nơi thanh vắng.
Mấy
năm trước, nghe tin đồn về thái tử Siddhattha khi tuổi còn thanh xuân, tóc đang
còn đen nhánh đã khẳng khái từ bỏ ngai vàng như quăng đôi dép để xuất gia tầm
đạo - bà đã đặt một dấu hỏi về hạnh phúc đời người! Vị ấy bây giờ đã là một vị
Phật, với đoàn sa-môn áo vàng, thanh thản đầu trần chân đất đi hóa độ nhiều
phương. Nghe nói, lời pháp của ngài đầy uy vũ như sấm gióng giữa trời mưa, như
ánh mặt trời rọi tan mây mờ tăm tối. Cả năm vị hiền triết uy đức ở vườn Lumbini
đã được ngài cảm hóa trở thành đệ tử theo hầu! Chàng trai công tử con một bá hộ
nổi tiếng ăn chơi ở Bārāṇasī và bạn hữu năm mươi lăm người đã đi theo đoàn
sa-môn. Ba mươi vương tử trẻ trung của nước Kosala oai hùng cũng đã được đức
Thế Tôn kia giác ngộ. Một ngàn đạo sĩ tóc búi cùng với thầy là ba anh em giáo
chủ Kassapa tóc bạc già nua - thờ thần lửa tại Uruvelā cũng đã quy giáo với
ngài. Đức vua Bimbisāra - kiêu ngạo, tài hoa, trẻ tuổi, cơ trí hơn đời - và cả
triều đình đều xin quy y và thọ trì ngũ giới. Khu rừng Veḷuvana mênh mông và
xinh đẹp phía Bắc kinh thành Rājagaha của đức vua cũng đã được dâng cúng cho
giáo hội độc thân ấy. Rồi đến việc chàng thần y Jīvaka Komārabhacca trẻ tuổi
nổi tiếng và kiêu hãnh đã tâm phục, khẩu phục, phát khởi đức tin hiến cúng khu
vườn xoài... Ôi! biết bao nhiêu câu chuyện lạ lùng như huyền thoại được thêu
dệt qua cửa miệng của mọi người. Nhưng rõ ràng là vị Phật ấy cùng đoàn sa-môn y
vàng thanh thoát, thánh hạnh được mọi người quý trọng; ngay chính ngoại giáo
cũng phải nể phục. Chuyện đức Phật cảm hóa tên biện sĩ ngông nghênh Saccaka vừa
xong thì xảy ra ba thảm nạn tại Vesāli – cũng chính giáo đoàn ấy cùng với quân
lính, thực phẩm của đức vua cư sĩ mang sang đây để cứu trợ. Ôi! Năm trăm vị
sa-môn trẻ trung, xinh đẹp đã đọc kinh an lành suốt đêm khắp ba vòng kinh thành
Vesāli mà không cần một đền đáp nào! Quả thật là đã có một tôn giáo cứu khổ cho
muôn sinh đang có mặt trên cuộc đời hư vô huyễn hóa này hay sao?
Bà
kỹ nữ Ambapālī nghĩ mình là phận nữ nhi, lại làm một cái nghề, dù được xã hội
quý trọng nhưng trong miệng lưỡi thế gian, người ta vẫn nói nàng là một dâm nữ!
Trong sâu thẳm tâm hồn, nàng vẫn mang một mặc cảm nặng nề không dám tìm gặp đức
Thế Tôn thánh hạnh ấy để nghe giáo pháp, để học hỏi giáo pháp. Vừa mới đây,
nghe tin đồn, đức Phật đã mở rộng cánh cửa cho nữ nhân các giới có cơ hội tu
tập. Và giáo hội tỳ-khưu-ni đã được thành lập rồi, ngay cạnh khu rừng Mahāvana
của tỳ-khưu Tăng. Mấy trăm công nương, cung nga thể nữ dòng tộc Sākya, dẫn đầu
là hoàng hậu Gotamī, công nương Yasodharā – sương phụ của đức Phật – đã được
gia nhập đoàn nữ sa-môn. Và nghe đâu, đức Phật ấy không phân biệt nữ nhân thuộc
giai cấp, tầng lớp nào trong xã hội.
Bà
kỹ nữ Ambapālī thở phào, vậy là mình sẽ có dịp diện kiến ngài.
Tin
đức Phật sáng hôm nay bộ hành về các thôn làng ngoại ô đã đến tai nàng do gia
nhân trông thấy, báo lại. Nghe nói, hiện tại, đức Phật đang ở tại làng
Koṭigāma. Không chần chờ phút giây nào nữa cả, nàng tức tốc cho thắng một cỗ xe
lộng lẫy, sang trọng với bốn con ngựa trắng cũng lộng lẫy, sang trọng... với
người hầu đánh xe, với hai thị nữ rời khu rừng xoài trực chỉ ngôi làng
Koṭigāma. Đến chỗ ngựa không còn đi được, hỏi đường, bà cùng với thị nữ đi bộ
đến khu rừng mù u. Đến nơi, bà trông thấy một sa-môn dung nghi trong sáng và
dịu dàng như ánh trăng rằm đang ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây! Ôi! đẹp quá! Thanh
khiết quá! Và lác đác xung quanh chừng vài mươi sa-môn trẻ trung dường như cũng
đang tĩnh định trong thiền duyệt. Khung cảnh trang nghiêm và thiêng liêng làm
sao! Bà sợ hãi, rón rén đến gần...
Giọng
đức Phật chợt vọng vào tai nàng:
-
Này Ambapālī, hãy đến đây! Như Lai cũng đang cố ý chờ đợi cuộc viếng thăm này
đấy!
Bà
Ambapālī rùng mình: “Hóa ra ngài biết cả tên ta! Mà ôi! Cái giọng nói
sao mà mát mẻ và êm dịu cái lỗ tai đến vậy!” Bà Ambapālī mạnh dạn bước
tới, khom người xuống rất mực lễ độ, cung tay xá lễ. Đức Phật chỉ một tảng đá
khá sạch sẽ bên cạnh rồi nói:
-
Bà hãy ngồi xuống đấy, và nội tâm có điều gì bất ổn thì cứ nói ra hết cho Như
Lai nghe!
Rồi
bà Ambapālī nói. Bà kể về thân thế là đứa con rơi. Kể về sự lao khổ của mười
năm học nghệ trên đất khách. Kể về cái nghề của bà khi đã thành đạt.
Kể về đời sống xa xỉ bạc tiền. Kể về phải đánh đổi cả tuổi thanh xuân, vũ ca
đàn hát để phục dịch, hầu hạ cho giai cấp quý tộc, cho giới trưởng giả giàu có.
Thân mệt mỏi mà tâm cũng mệt mỏi. Chắc hẳn vàng ngọc và vinh hoa hư dối ấy
không phải là hạnh phúc. Cuộc đời này, chẳng lẽ nào trên cái bề mặt của phú
quý, danh vọng, tài sản, thỏa mãn ngũ dục... có vẻ huy hoàng kia lại có cái mặt
trái của nó là tối tăm, đau khổ và buồn phiền? Và đấy có phải là trò biến hóa
của Māyā chăng?
Đức
Phật nắm bắt ngay căn cơ và trình độ. Theo với tâm sự của Ambapālī, đức Phật
khơi bày về Sự Thật Khổ; nó là cái gì hiện thực đang chi phối chúng sanh trong
ba giới bốn loài; là cái gì tất định mà tất thảy giống hữu tình phải gánh chịu,
phải mang vác trên trần thế. Đức Phật chưa đi sâu vào Tứ Đế mà ngài tiếp tục
nói về thuận thứ của con đường thoát khổ. Ngài nói về tri kiến chơn chánh, về
đức tin chơn chánh làm nơi nương tựa vững chắc cho đời sống tinh thần. Không có
đời sống tinh thần với những niềm vui thiêng liêng, lành mạnh thì sự sung mãn
vật chất chỉ đáp ứng được đời sống bản năng, hạ liệt, sa đọa và sẽ rơi vào thảm
nạn. Phải có chỗ để quy hướng. Phải biết bố thí, cúng dường; phải biết xả ly,
ly tham cho tâm hồn được nhẹ nhàng, rộng mở, thanh thản... Phải thực hiện những
pháp như vậy, phải tu tập những pháp ban đầu như vậy thì chúng sẽ xua tan những
đám mây mờ, u tối ở trong con... Như Lai chúc phúc sự bình yên cho con, này
Ambapālī!
Xúc
động quá, bà Ambapālī quỳ năm vóc sát đất và gục khóc lặng lẽ. Thời pháp êm dịu
của đức Phật đã làm cho tâm hồn khô hạn của bà được tẩm mát, nhẹ lâng lâng. Để
cho xúc cảm lắng xuống, bà Ambapālī nói:
-
Tri ân đức Thế Tôn! Con đã có chỗ nương tựa rồi! Xin đức Thế Tôn cho con được
quy y làm người cận sự nữ từ đây cho đến trọn đời!
Sau
khi đức Phật cho thọ trì quy giới, ngài im lặng nhận lời mời của kỹ nữ
Ambapālī, cùng với hội chúng đến vườn xoài của bà thọ trai vào ngày hôm sau.
Bà
Ambapālī đảnh lễ đức Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, hướng vai phải nhiễu quanh
tỏ lòng kính trọng rồi ra về.
Vào
buổi trưa hôm ấy, các vương tử, công tử trẻ tuổi cộng hòa Licchavī, thủ đô
Vesāli, nghe tin đức Thế Tôn ngự đến ngôi làng Koṭigāma – nên đã cùng thông báo
với nhau, tổ chức một hội chúng đông đúc để đi diện kiến ngài. Thế là đúng giờ
hẹn, tại chỗ tập trung, họ bước lên hằng chục cỗ xe sang trọng, lông lẫy, sáng
chói dát bạc, dát vàng... như một cuộc hội lớn, rầm rộ khởi hành.
Đến
con đường nhỏ vào làng Koṭigāma, những vương tử, công tử Licchavī trông thấy
một cỗ xe bốn ngựa trắng sang trọng trên đường ngược chiều.
Họ
bàn tán với nhau:
-
Cỗ xe thắng bốn con ngựa trắng cao đẹp kia với rèm sáo lanh canh, óng ánh ngọc
vàng như thế - thì có ai ngoài bà vương hậu kỹ nữ của chúng ta?
-
Đúng là bà mỹ nhân kiêu hãnh Ambapālī rồi!
Trông
xa đã biết đấy là các vương tử, công tử Licchavī trẻ tuổi, giàu sang, hiển hách
và đầy quyền uy, nhưng bà Ambapālī bảo người hầu cương quyết không nhường
đường. Bốn con tuấn mã sức mạnh như sư tử vẫn an nhiên càn lướt, còn hí lên những
tràng dài đầy vẻ thị uy. Thế là gọng xe, càng xe, bánh xe, trục xe đụng nhau
tạo nên những âm thanh lắc cắc, lốp bốp... Những cỗ xe của các vương tử không
đương cự nổi cỗ xe được thiết kế chắc bền bởi những kim loại quý của bà kỹ nữ,
đành phải dạt ra ngoài lề với một số chi tiết bộ phận nào đó đã bị gãy bể, hỏng
hóc. Tuy nhiên, họ không để tâm vào điều ấy; một số vương tử, công tử nhảy
xuống, họ không giận mà chỉ cất tiếng hỏi:
-
Cái cỗ xe trị giá trăm ngàn đồng tiền vàng của bà lại cố ý ngăn chặn giữa
đường, không cho chúng tôi đến diện kiến đức Thế Tôn là tại làm sao hở?
Bà
Ambapālī cho dừng xe, vén rèm, mỉm cười, dịu dàng đáp:
-
Vì chính tôi đã thỉnh mời hội chúng tỳ-khưu và đức Thế Tôn đến thọ trai ngày
mai tại vườn xoài của tôi rồi, thưa chư vương tử!
-
Chúng tôi cũng muốn đến Koṭigāma với ý nguyện như vậy. Hay là bà hãy nhường lại
buổi cúng dường thọ trai ngày mai nhé?
-
Không thể được, thưa vương tử!
-
Chúng tôi sẽ tặng lại bà cùng hai nàng thị nữ xinh đẹp đây một ngàn đồng tiền
vàng kahāpaṇa ngay tức khắc!
-
Các vương tử xem thường tôi quá đấy!
Một
vị vương tử nhảy phóc xuống xe, nói lớn:
-
Một trăm ngàn, một trăm ngàn kahāpaṇa được chăng? Cứ ngã giá vậy nhé, thưa bà
hoàng hậu kỹ nữ?
Bà
Ambapālī, buông rèm xuống, nói vọng ra:
-
Xin lỗi! Xin chư vị đừng lấy tiền bạc ra mà hù dọa tôi. Cho dẫu cả thủ đô
Vesāli, cả tài sản và cư dân, tôi cũng không chịu nhượng đâu!
Thế
là bà bảo người hầu dong xe đi. Các vương tử, công tử Licchavī tấm tức nhìn
theo.
Có
vị buột miệng:
-
Kiêu hãnh quá đấy!
Có
vị nói:
- Bà
kỹ nữ vườn xoài đã nhanh tay hớt phần phước đầu của chúng ta rồi! Rồi y vỗ tay,
la với theo cỗ xe của Ambapālī - Chúng tôi đã bị đo ván một cách rất tồi tệ,
hỡi bà vương hậu mỹ miều, xinh đẹp ơi!
Mọi
người có vẻ chẳng buồn giận gì, cười ha hả.
Rồi
sau đó, họ cũng lại lên đường, rầm rộ đến thăm đức Phật. Chiếc xe nào hư hỏng,
các vị thản nhiên quăng bỏ lại không thương tiếc. Đến chỗ xe không còn đi được,
họ đi bộ đến cụm cây mù u. Đức Phật biết tất cả mọi chuyện xảy ra, ngài chợt
nói với hội chúng, lúc ấy họ đang ngồi xung quanh ngài:
-
Này các thầy tỳ-khưu! Ở đây, ai chưa thấy chư thiên cõi trời Tāvatiṃsa (Đao
Lợi hoặc Ba Mươi Ba) – thì hãy nhìn hội chúng các vương tử, công tử
Licchavi kia - là có thể hình dung được! Chư thiên Tāvatiṃsa cũng
tương tợ như vậy về cách phục sức nhiều sắc màu đầy ấn tượng. Hãy nhìn kìa! Một
số vương tử thích màu xanh, thế là ngựa kéo nhuộm xanh, cỗ xe màu xanh, y phục
màu xanh, trang sức cũng màu xanh! Một số vương tử thích màu vàng thì ngựa, xe,
y phục và trang sức đều màu vàng. Cũng như thế là màu bạch ngọc, màu chu sa,
màu san hô, màu nước biển, màu xanh lá cây, màu bình minh rạng... Họ đi đâu là
mang theo cả thiên nhiên, cả vườn hoa thật là phong phú sắc màu, tươi vui và
đẹp mắt...
Các
vị tỳ-khưu trẻ cảm thấy thích thú nhìn ngắm hội chúng ấy đi đến, chào hỏi cung
kính đức Thế Tôn rồi ngồi lác đác chỗ này chỗ kia với những tượng người sắc màu
di động.
Đức
Phật lại thuyết một thời pháp nói về cảnh giới các cõi trời, nhấn mạnh về trang
phục sắc màu của họ tương ưng thiên chúng cõi trời Tāvatiṃsa như thế nào, nhân
và quả ra sao. Rồi ngài nói tiếp nhân sanh các cõi trời cao hơn, chánh báo, y
báo ở đấy. Thuyết về bố thí, trì giới với những câu chuyện, dụ ngôn, đoản ngôn
đầy ấn tượng và rất thú vị. Thứ đến mới đến đức tin Tam Bảo, con đường thắng
phước, hạnh phúc và an lạc cho nhiều đời... Trong lúc thuyết pháp, đức Phật đã
cố ý vận dụng thần thông, phóng ra một loại hào quang sắc trắng, như mặt trăng
mùa thu dịu dàng tỏa sáng ra xung quanh, bao trùm cả hội chúng, lại còn làm cho
không gian trở nên sạch trong, không một chút bụi dơ. Như thế là đức Phật đã
làm cho họ vô cùng thỏa thích và hoan hỷ. Có vị sung sướng quá [v], chợt đứng phắt dậy, trật áo vai phải, quỳ gối
xuống đất, cung kính đảnh lễ ngài rồi thốt lên một bài kệ như sau:
“- Vua Ma-kiệt – Bình-sa
Vốn được nhiều thiện lợi
Khoác khôi giáp bảo châu:
Phật hiện ở nước ấy
Uy đức động Ba nghìn
Tiếng vang như núi Tuyết
Như hoa sen đã nở
Mùi hương thật mầu nhiệm
Nay thấy ánh sáng Phật
Như mặt trời mới mọc
Như trăng qua bầu trời
Không bị mây che khuất
Thế Tôn cũng như vậy
Sáng chiếu cả thế gian
Quán trí tuệ Như Lai
Như tối gặp đuốc sáng
Đem mắt sáng cho đời
Hội
chúng Licchavī muốn nghe lần nữa nên bảo:
-
Bạn đọc lại một lượt nữa đi!
Vị
kia lặp lại bài kệ. Họ hoan hỷ quá, đem cởi tất cả áo báu, vật trang sức báu
tặng cho người đọc kệ. Vị ấy lại đem dâng tất cả cho đức Thế Tôn. Vì tâm bi
mẫn, đức Phật thọ nhận - rồi ngài nói:
-
Áo bào quý, vật trang sức quý – nhưng đối với Như Lai, trên đời này còn có cái
quý hơn! Nhưng cái quý hơn này rất khó có được trên cuộc đời. Thế nào là năm?
Thứ nhất, một vị Phật, một đức Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời – là khó có
được! Thứ hai, người mà có thể giảng nói giáo pháp của Như Lai, là khó có được!
Thứ ba, người mà có thể tín giải giáo pháp của Như Lai, là khó có được. Thứ tư,
người mà có thể thành tựu pháp mà Như Lai giảng nói, là khó có được.
Thứ năm, là lúc nguy khốn, tai ương được người cứu nạn, giúp đỡ; biết tìm cách
đáp trả, đền ơn - hạng người ấy cũng rất khó có được! Ấy chính là 5 thứ quý báu
trên cuộc đời này!
Các
vị vương tử, công tử Licchavī [vii] được
đức Phật khai thị, giáo giới khiến cho ai cũng phấn khích, hoan hỷ.
Cuối
buổi pháp thoại, hội chúng vương tử, công tử Licchavī thỉnh mời đức Toàn Giác
và hội chúng thọ trai ngày hôm sau; đức Phật bảo là đã nhận lời mời của bà
Ambapālī rồi. Họ kể lại chuyện đụng đầu bà kỹ nữ giữa đường như thế nào. Rồi
một chàng trai Licchavī thốt lại câu nói cũ:
-
Bạch đức Thế Tôn! Chúng con bị bà kia nhanh tay hớt phần phước mất rồi; bị bà
ta hạ đo ván một cách rất chi là oanh liệt.
Đức
Phật mỉm cười:
-
Ừ! Trên con đường tiến hóa tâm linh, nếu như các chàng trai còn ham vui quá,
ham chơi quá, ham thụ hưởng quá - thì coi chừng, sẽ bị bà ta hớt mất phần
phước, bị hạ đo ván một lần nữa đấy!
-
Bạch, tại sao?
-
Vì mới nghe pháp chỉ mới một lần - đức Phật nói - mà bà ta đã có đức
tin khá vững chắc.
-
Tri ân đức Thế Tôn! Chúng con sẽ ghi nhớ lời này! Chúng con rồi sẽ có đức tin
vững chắc như thế!
Sau
khi hội chúng Licchavī đi rồi, đức Phật dọn dẹp chỗ ngồi, xếp lại tọa cụ,
tăng-già-lê... rồi cùng với hội chúng tỳ-khưu rời Koṭigāma đến ngôi làng Nākikā
lúc trời đã về chiều. Đến một rừng cây, trời lất phất mưa, gió lạnh rì rào -
đức Phật tìm thấy một ngôi nhà gạch bỏ hoang, ngài và hội chúng trải qua đêm ở
đây.
Sáng
ngày, người hầu Nam của cô kỹ nữ đánh xe đến thông báo là buổi trai
soạn [viii] tại
vườn xoài đã sẵn sàng, thỉnh đức Thế Tôn và hội chúng lên đường. Tại đây, bà kỹ
nữ đã dâng cúng thức ăn thượng vị loại cứng, loại mềm... đầy thành kính và trân
trọng vào bát của đức Phật và Tăng chúng. Khi đức Thế Tôn ngọ trai xong, bà
dâng nước rửa tay, nước uống và tăm xỉa răng rồi ngồi một bên để nghe pháp. Đức
Phật lại ân cần chỉ dạy cách lập tâm, cách an trú tâm vào thiện pháp - tức là
phải biết lấy việc lành, việc tốt làm niềm vui thanh cao cho tâm hồn. Cuối buổi
giảng, bà kỹ nữ Ambapālī, quỳ thưa:
-
Bạch đức Thế Tôn! Con đã phát khởi tâm tịnh tín đối với giáo pháp. Vậy, xin
ngài cho phép con được làm hai việc hữu ích.
-
Như Lai nghe đây!
-
Thứ nhất, cho con được thỉnh thoảng lui tới Mahāvana để nghe pháp; thỉnh thoáng
lui tới hội chúng tỳ-kheo-ni, tùy theo khả năng, con có thể cúng dường gì đó
phù hợp nhu cầu ở nơi cơ sở còn quá mới mẻ ấy!
-
Còn việc thứ hai?
-
Vườn xoài này của con cũng khá rộng lớn lại có nhiều cây to bóng mát, có thể
làm nơi lưu trú cho tỳ-khưu Tăng - nếu Mahāvana mai kia đã trở nên chật chội.
Xin đức Thế Tôn cho con được noi theo gương của cậu thần y Jīvaka
Komārabhacca cúng dường cơ sở này.
Đức
Phật im lặng nhận lời. Rồi ngài nói:
-
Con nên tác ý cúng dường vườn xoài này đến cho thập phương Tăng, có Như Lai là
vị đứng đầu, như thế phần phước này sẽ lớn rộng hơn nhiều!
Bà
Ambapālī cúi đầu ưng thuận, lấy bình đựng nước nhỏ bằng vàng, đổ nước lên bàn
tay của ngài cho đúng với thủ tục dâng cúng cổ truyền. Đức Phật nói kệ phúc
chúc, mong rằng, phước sự này sẽ như sông biển của bốn đại dương, làm cho đầy
tràn tín tâm, chân phúc mai hậu cho thí chủ. Sau đó, do thấy căn duyên của bà
kỹ nữ đã sẵn sàng, đức Phật thuyết một thời pháp nói về Tứ Đế với câu cú, văn
nghĩa vừa giản dị, vừa sâu rộng, gần gũi với đời thường. Cuối thời pháp thoại,
bà kỹ nữ rời bỏ tập khí, xa lìa trần cấu, thấy pháp, chứng quả Nhập Lưu!
Ngay
chiều hôm ấy, đức Phật trở lại Mahāvana, Sảnh Đường Nóc Nhọn - Kūṭāgāra - ngài
kể lại câu chuyện ở vườn xoài; rồi yêu cầu hai vị đại đệ tử cho một hội chúng
tỳ-khưu có vài vị trưởng lão dẫn đầu đến tiếp nhận cơ sở mới.
[i] Hai mươi năm đầu tiên, đức Phật chưa có
thị giả chính thức.
[ii] Tương tợ các cô Geisha Nhật Bản bây giờ.
[iii] Đôi nơi nói - chỉ có 50 kahāpaṇa. 1000
đồng tiền vàng kahāpaṇa tương đương 100 con bò sữa. 01 đồng vàng kahāpaṇa bằng
04 đồng vàng pāda; 01 đồng vàng pāda bằng 05 đồng xu vàng māsaka. Một ngày của
dân nghèo tiêu tốn chỉ 02 đồng xu vàng māsaka!
[iv] Đây là thời cực thịnh của Vesāli - Luật kể
rằng: Phồn thịnh, giàu có, đông đúc... có bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy tòa nhà dài,
bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy mái lầu ngọn, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy công viên, bảy
ngàn bảy trăm lẻ bảy hồ sen (Tạng Luật, đại phẩm II (mahāvagga), NXB Tôn giáo,
trang 269- Việt dịch, tỳ-khưu Indacanda.
[v] Trường A-hàm có ghi tên là Tịnh-ký – không
tìm thấy từ Pāḷi tương đương.
[vi] Trường A-hàm, Tuệ Sỹ dịch và chú, tr.104,
NXB Phương Đông, năm 2008. (Chỉ thay đổi tên ở câu đầu: Ương già – thành
Bình-sa).
[viii] Trai này không phải là đồ chay theo cách
hiểu thông thường. Trai này được Tàu diễn dịch, đại lược là: Trai giả, khiết
giả. Phi thời bất thực vị chi trai (Trai có nghĩa là tịnh. Không ăn phi thời
gọi là trai - phi thời là sau 12 giời trưa đến sáng ngày hôm sau).
Cảm hóa thủ lĩnh tướng quan Sìha
Câu
chuyện về bà kỹ nữ Ambapālī quy hướng đức Thế Tôn, đụng độ với hội chúng vương
tử, công tử Vesāli; rồi chuyện hớt phần phước đầu, bị hạ đo ván, chuyện một
trăm ngàn đồng tiền vàng kahāpaṇa, chuyện cúng dường vườn xoài xinh đẹp...
không mấy chốc đã lan đi khắp nơi. Thật lạ lùng là tâm địa tốt lành của các vị
vương tử, công tử này. Họ đã không để tâm giận ghét, lại còn ca ngợi bà kỹ nữ
Ambapālī dám coi đống vàng như đất cục, không chịu nhượng buổi cúng dường. Họ
cũng không hết lời tán thán oai đức của Phật, oai đức của giáo pháp đã gieo
được hạt giống đức tin thánh thiện vào tâm hồn của bà kỹ nữ nhiều tai tiếng ấy.
Rồi họ tán tụng đức Phật với những mỹ từ như Đại Giáo Chủ, Đại Thánh Nhân, Đại
Siêu Nhân... Chưa thôi, họ còn lấy câu kệ tán thán đức Phật, mừng cho vua
Bimbisāra nước Māgadha khoác khôi giáp bảo châu – đem tụng đọc khắp
nơi.
Sīha
là bậc tướng quân thủ lãnh của hội đồng tướng lãnh, có biết, có gặp đức Phật,
nhưng vốn là đệ tử nòng cốt, thân cận của Nigaṇṭha Nāṭaputta (Ni-kiền-tử) –
nghe những lời tán thán ấy, nghĩ rằng: “Những lời ca ngợi kia có quá
đáng lắm không? Sao chướng cái lỗ tai lắm vậy? Ta hãy đến thầy ta, thưa hỏi để
biết rõ hư thực như thế nào?”
Sau
khi được hội diện với vị giáo chủ, tướng quân Sīha kể lại điều đã được nghe rồi
nói:
-
Vậy đệ tử có nên diện kiến sa-môn Gotama để chất vấn ông ta về giáo pháp?
Giáo
chủ Nigaṇṭa Nāṭaputta tỏ vẻ thận trọng:
-
Ông có biết gì về giáo pháp của sa-môn Gotama hay không mà đòi chất vấn?
-
Dạ thưa không! Xin thầy cho đệ tử được nghe!
Vị
giáo chủ có vẻ đăm chiêu, nghĩ ngợi, sau đó nói rằng:
-
Thật tình thì ta cũng chưa nắm rõ ngữ nghĩa cũng như tinh yếu giáo pháp của
sa-môn Gotama. Nhưng có những tư tưởng ta từng được nghe, và quả thật có cái ta
hồ nghi, có cái ta thắc mắc, có cái nghe rất xốn tai, có cái lại rất khó
hiểu...
Rồi
giáo chủ nói liền một hơi, và dường như những điều này ông cũng đã suy nghĩ khá
lâu rồi:
-
Này nhé! Sa-môn Gotama thuyết về hành động rồi dạy chư đệ tử về hành động.
Sa-môn Gotama thuyết về không hành động rồi dạy chư đệ tử việc không hành động.
Sa-môn Gotama thuyết về đoạn diệt rồi dạy chư đệ tử cách đoạn diệt. Sa-môn
Gotama thuyết về pháp ghê tởm rồi dạy chư đệ tử về sự ghê tởm. Sa-môn Gotama là
người thiêu đốt lại giảng về sự thiêu đốt cho chư đệ tử. Sa-môn Gotama là người
thoát khỏi thai bào lại dạy cho đệ tử cách thoát khỏi thai bào. Sa-môn Gotama
là người tự tin, lại dạy cho chư đệ tử sự tự tin. Sa-môn Gotama là người từ bỏ
lại dạy cho chư đệ tự sự từ bỏ... Đấy, đấy, nếu ông có khả năng hãy đi chất vấn
sa-môn Gotama đi!
Nghe
như vậy, lòng của tướng quân Sīha chợt lặng đi, lạnh đi; sự bồn chồn, nỏng nảy
cũng không còn nữa. Vả chăng, thầy của ta cũng chưa nắm bắt được huống hồ gì
ta? Nhưng sau đó, tướng quân Sīha đi đâu cũng nghe người ta ca ngợi, tán thán
về đức Phật, về giáo pháp một cách rất nhiệt tình, rất hăng say và rất thành
kính; không cầm lòng được, ông lên đường với một hội chúng lớn với xe ngựa, với
quân lính tiền hô hậu ủng – đi diện kiến đức Thế Tôn tại Mahāvana.
Đức
Phật tiếp tướng quân Sīha giữa rừng cây. Nếu tướng quân Sīha được đoanh vây bởi
hằng trăm binh lính thuộc hạ oai phong lẫm lẫm – thì đức Thế Tôn cũng đoanh vây
bởi hằng trăm sa-môn áo vàng thanh thản, trang nghiêm và bình lặng.
Sau
khi tỏ bày sự kính lễ, tướng quân Sīha nói rõ lý do viếng thăm là thắc mắc về
giáo pháp. Ông đã cặn kẽ, chi ly trình bày tóm tắt nhưng đầy đủ những điều mà
thầy ông đã thuật lại. Để thắt kết, ông nói:
-
Bạch đức Thế Tôn! Vậy thì những điều người ta nói như thế là đúng với sự thật
hay không đúng với sự thật? Thảng hoặc, những lời nói ấy có chỗ nào là sai
trái, có chỗ nào là gièm pha, có chỗ nào là chê bai? Hay tất cả những điều ấy,
đằng sau còn có ý nghĩa thâm diệu nào khác, y cứ vào đấy để tu tập, để hành trì
mà chúng tôi do trí óc non kém không lãnh hội được chăng?
Thấy
cử chỉ và thái độ điềm đạm, từ tốn; ánh mắt trong sáng, khiêm hòa; cách nói,
cách sử dụng câu cú, văn từ... của vị tướng quân toát ra trình độ một người có
học, có kiến thức - đức Phật mỉm cười, muốn tạo một ấn tượng đầu tiên nên ngài
nói:
-
Giáo chủ Nigaṇṭha Nāṭaputta thuật lại giáo pháp của Như Lai, như vậy là còn
thiếu đấy, này tướng quân Sīha!
Vị
tướng quân bất giác rùng mình, tự nghĩ: “Vị này còn có khả năng siêu
phàm, biết việc xảy ra và cả câu chuyện giữa mình với giáo chủ của mình
nữa.” Lấy lại bình tĩnh, ông thưa:
-
Xin đức Thế Tôn cho được nghe?
-
Vâng, này tướng quân! Như Lai còn thuyết về lửa cháy và dạy về lửa cháy. Như
Lai còn thuyết về giết cha, giết mẹ, giết quân binh tùy tùng và dạy về cách
giết cha, giết mẹ, giết cả quân binh tùy tùng. Như Lai còn thuyết về vô lượng,
vô lượng giải thoát và dạy cho chư đệ tử về điều ấy. Như Lai còn thuyết về
giới, về tăng thượng giới, về định, về tăng thượng tâm, về tuệ, về tăng thượng
tuệ, về giải thoát, giải thoát tri kiến, về vô tướng, vô tác, vô ái, về vô thủ
trước bát-niết-bàn...
Tướng
quân Sīha nghe lùng bùng cả lỗ tai, ông quỳ mọp xuống, bạch rằng:
-
Tôi không kham nổi đâu, bạch đức Thế Tôn! Tôi không thể đi sâu vào khu rừng ngữ
nghĩa ấy mà không có ngọn đèn của con mắt sáng; không thể bơi qua cái biển kinh
pháp ấy mà không có con thuyền của một trí óc thông tuệ. Xin đức Thế Tôn cứ xem
tôi như một chiên-đà-la thiếu phước, vô học hoặc như một thủ-đà-la cả đời chùi
ống cống vô tri... để giảng nói rành rẽ, bình dân, giản dị, dễ hiểu, dễ nắm bắt
nhất... từng điểm một, từng câu một... bạch đức Tôn Sư!
Đức
Phật biết, khi ông tướng quân ngoại giáo này, gọi ngài là Thế Tôn thì đúng là
ngôn ngữ xã giao; nhưng khi ông sử dụng từ Tôn Sư là đã một phần nào tâm phục,
khẩu phục. Thế là ngài với từ bi tâm, cặn kẽ giải thích cho ông ta hiểu hàm ý
bên sau của từng câu chữ. Ngài nói rằng:
-
Này tướng quân Sīha! Giản dị và dễ hiểu làm sao là những câu nói tóm tắt giáo
pháp mà Như Lai đã từng giáo huấn cho môn đệ. Cái được gọi là hành động chính
là thân hành, khẩu hành và ý hành; thiện hạnh về thân, thiện hạnh về lời, thiện
hạnh về ý chính là điều nên hành động! Cái được gọi là không hành động thì
ngược lại, là không ác hạnh về thân, không ác hạnh về lời, không ác hạnh về ý –
chính là điều không nên hành động...
-
Xin đức Thế Tôn giảng rõ cho chút nữa?
-
Nghĩa là cái thân này nên làm những việc lành, tốt chứ không nên làm những việc
xấu ác. Lời nói cũng vậy mà ý nghĩ cũng vậy.
-
Cụ thể là như thế nào, bạch đức Thế Tôn! Vì việc lành, tốt đối với giáo phái
này, triết hệ này đôi khi không phải là lành, tốt đối với giáo phái khác, triết
hệ khác?
-
Đối với Như Lai thì việc lành, tốt là lợi mình, lợi người và lợi cả hai. Việc
xấu, ác là hại mình, hại người và hại cả hai. Khi thân không giết
người, giết vật, không trộm cắp, tước đoạt tài vật của người, không tà dâm, tà
hạnh, bất chánh - đấy là thân lành, tốt. Khi lời không dối láo, không sai sự
thật, không hai lưỡi, không ác độc, không thêu dêt, không nói vô ích, không hoa
ngôn xảo ngữ, không nói phù phiếm, trống không, vô ích - đấy là khẩu
lành, tốt. Khi ý không tham lam, không sân hận, không tà kiến, si mê - đấy là ý
lành, tốt. Ngược lại như thế là xấu ác, này tướng quân Sīha!
Cái
được gọi là đoạn diệt phải được hiểu là nên đoạn diệt tham lam, đoạn diệt sân
hận và đoạn diệt tà kiến, si mê; tức là làm cho ngưng tắt những việc xấu, ác
được khởi sanh từ tâm niệm, ý nghĩ.
Cái
được gọi là ghê tởm phải được hiểu là ghê tởm việc làm ác của thân, ghê tởm lời
nói ác, ghê tởm suy nghĩ ác - tức là ghê tởm tất cả những cái gì được gọi là
xấu ác ở thân, ở lời và ở ý.
Cái
được gọi là thiêu đốt có nghĩa là các ác, bất thiện pháp như trên cần phải được
thiêu đốt, thiêu cho cháy đi; và ngay cả tro than âm ỉ cũng phải được dụi tắt,
nếu không nó sẽ bốc cháy trở lại.
Cái
được gọi là thoát khỏi thai bào chính là hạt giống, hạt mầm, những điều kiện
luyến ái, đeo dính từ sinh bào này sang sinh bào khác không còn nữa - như cắt
lìa các rễ chính, rễ phụ của một thân cây hoặc như cây thốt nốt đã bị đoạn lìa,
bứng gốc không còn dư tàn!
Cái
được gọi là tự tin – nghĩa là tin vào chính mình, vào bàn tay nắm của mình; địa
ngục, khổ xứ, đọa xứ, hạnh phúc người trời, phạm thiên, niết-bàn đều do ta tạo
ra cả. Tin vào mình cũng có nghĩa là tin vào nhân quả, nghiệp báo, tin vào con
đường thắng phúc, an vui, giải thóat mà mình đã chọn lựa - chứ không tin vào
thượng đế, một đấng thần linh siêu nhiên nào...
-
Chỗ này tôi chưa được hiểu. Vậy thì đấng Phạm Thể (Brāhman), Đại
Ngã(Mahātman), các thượng đẳng thần Sáng Tạo (Brāhmā), Bảo
Tồn (Vishnū) Hủy Diệt (Shīva)cùng hằng trăm ngàn
vị thần khác trong truyền thống bà-la-môn - phải được hiểu như thế
nào, bạch đức Thế Tôn?
-
Hãy để phạm trù tôn giáo, tín ngưỡng ấy qua một bên, này tướng quân Sīha! Sẽ
còn nhiều cơ hội để Như Lai sẽ giải thích về điều ấy. Vì sao vậy? Vì Như Lai
đang nói về căn nguyên của khổ và lạc; và mọi chuyện lành, tốt hoặc xấu, ác ở
trên là do thân ta tự làm, do khẩu ta tự làm, do ý ta tự làm – có phải vậy
không, tướng quân Sīha?
-
Thưa, đúng thế!
- Nhân
của xấu, ác thì có quả là khổ; nhân của lành tốt thì có quả là lạc - đấy là vận
hành nhân quả nghiệp báo tự nhiên hay do bàn tay thượng đế, thần linh xen dự
vào, hở tướng quân Sīha?
-
Thưa, tự nhiên!
-
Nghĩa là khổ lạc đều do ta tự tạo?
-
Đúng vậy!
Đức
Phật mỉm cười:
-
Vậy là tiếng rống của tướng quân Sư Tử (Sīha là sư tử) đã xác nhận sự thật, và
cũng chính tướng quân đã bác bỏ quyền năng ban phúc, giáng họa của thượng đế và
thần linh rồi đấy!
Tướng
quân Sīha chợt lặng người. Cả hội chúng đi theo ông ta cũng lặng người. Hóa ra
quyền uy của thượng đế, thần linh đã hằng ngàn năm nay – mà chỉ qua vài câu đối
thoại của đức Phật chúng đã bị rã tan tức khắc.
-
Tuyệt vời thay là đức Thế Tôn! Cao minh thay là nghị luận sắc bén của đức Tôn
Sư!
Tướng
quân Sīha và quân lính đồng thốt lên ca ngợi, hoan hỷ, mừng vui.
Đức
Phật điềm đạm tiếp:
-
Bây giờ thì những câu đi sau cũng đều phải được hiểu như vậy. Cái được gọi là
từ bỏ - nghĩa là từ bỏ tham, từ bỏ sân, từ bỏ si, từ bỏ tà kiến, mê đắm, dính
mắc, chấp thủ vào các ác, bất thiện pháp ấy. Cái được gọi lửa cháy phải được
hiểu là mắt tai mũi lưỡi thân ý luôn luôn bị bốc cháy
bởi sắc thanh hương vị xúc pháp; chúng mà bốc cháy thì thế gian này
sẽ bị bốc cháy! Vậy hãy dè chừng khi chúng gặp nhau, tương quan phát sanh lửa!
Cái được gọi là giết cha, giết mẹ, giết cả quân binh tùy tùng - phải được hiểu
vô minh là cha, ái dục là mẹ; còn quân binh tùy tùng chính là những tùy miên,
những kiết sử: Những tham, sân, si mạn, nghi, tà kiến, tật đố, phản trắc, bạc
ác, phản phúc, xan lận, quỷ quyệt, vô ơn, bỏn xẻn, keo kiệt... phải giết chúng
đi, chôn chúng đi. Cái được gọi là vô lượng chính là từ vô lượng, bi vô lượng,
hỷ vô lượng, xả vô lượng... Vô lượng giải thoát, nghĩa là khi có được tâm giải
thoát, tuệ giải thoát thì bốn vô lượng kia mới được gọi là vô lượng giải thoát;
bằng không, chúng còn bị giới hạn trong cõi sắc giới của phạm thiên!
Đức
Phật vừa nghỉ hơi thì tướng quân Sīha đã quỳ mọp bên chân:
-
Thôi vừa rồi, thôi đủ rồi, bạch đức Tôn Sư! Chỉ chừng ấy thôi, là đã quá tuyệt
diệu, đã quá choáng ngợp đối với đệ tử rồi! Từ lâu, đệ tử đã sống trong bóng
tối, nay đã được đức Tôn Sư dìu ra ánh sáng để thấy được mặt trời. Từ lâu, đệ
tử đã bị lạc lối trong mọi ngõ ngách hoang vu của ngu si và tà kiến, nay đã
được đức Tôn Sư bi mẫn trao cho ngọn đèn sáng để thắp tâm, thắp trí. Rất tri ân
Tôn Sư, tri ân giáo pháp và tri ân hội chúng tỳ-khưu Tăng. Xin đức Tôn Sư chấp
nhận cho đệ tử là Nam cư sĩ, quy y Tam Bảo từ nay cho đến trọn đời.
Đức
Phật mỉm cười:
-
Giải thích cho tướng quân hiểu là bổn phận của Như Lai; còn việc ông muốn quy y
làm môn hạ đệ tử lại là chuyện khác. Ông là người nổi tiếng, phải suy xét cẩn
thận, chu đáo trước lúc muốn quy y sẽ tốt đẹp hơn cho ông đấy - nhất là cho bản
thân ông, cho giáo phái của ông và trước dư luận xã hội nữa!
Thấy
nụ cười thanh thoát của đức Phật và ý nghĩa câu nói hiển lộ phong thái cao cả
của bậc đại tuệ - đức tin của tướng quân Sīha giống như từng đợt sóng đang dào
dạt ở trong lòng:
-
Thế thì đệ tử lại càng muốn nương bên chiếc bóng của đức Tôn Sư. Bởi vì lúc đệ
tử quy giáo với giáo chủ Nigaṇṭha Nāṭaputta thì đồ chúng của họ đã vác cờ, đánh
trống, thổi kèn đi khắp kinh thành Vesāli rêu rao rằng: “Bậc thủ lãnh
đại tướng quân Sīha đã tự nguyện trở thành đệ tử của chúng tôi rồi! Bậc thủ
lãnh đại tướng quân Sīha đã quy giáo giáo chủ Nigaṇṭha Nāṭaputta vô song của
chúng tôi rồi!” Vậy mà ở đây, khi đệ tử xin quy y thì đức Tôn Sư
bảo: “Hãy suy xét chu đáo và cẩn thận - điều ấy sẽ có lợi, sẽ tốt đẹp
cho bản thân ông, giáo phái của ông và trước dư luận xã hội”. Ôi! Thật
cao cả thay là tâm địa và ngôn hành của bậc Đại Minh Triết. Khấu đầu
đảnh lễ lần thứ hai, xin đức Tôn Sư cho đệ tử được nương tựa cho đến trọn đời!
Đức
Phật vẫn chưa thừa nhận, ngài nói tiếp:
-
Tướng quân Sīha! Ông hãy suy nghĩ lại đi, đấy là tình thật Như Lai muốn khuyên
ông. Tại sao lại cần phải suy nghĩ thấu đáo? Ông không biết sao, từ lâu, ông và
gia đình ông là căn nhà mẹ ở ngã tư đường cho giáo chủ và đồ chúng Nigaṇṭha
Nāṭaputta; là nguồn nước ngọt tuôn tràn không bao giờ khô cạn cho giáo chủ và
đồ chúng Nigaṇṭha Nāṭaputta. Hiện tại, người ta đang cần ông và gia đình ông
biết bao nhiêu về vật thực, y bát, sàng tọa, thuốc men... Hãy suy nghĩ lại đi!
Tướng
quân Sīha lại khấu đầu đảnh lễ nữa:
-
Thế thì đệ tử lại càng có thêm đức tin để xin quy y, làm người
thiện Nam hầu cận đức Tôn Sư nhiều hơn nữa. Tại sao vậy? Vì ở đâu, đi
bất cứ đâu, gặp bất kỳ giáo phái chủ, giáo phái sư nào - họ cũng nói rằng:“Này
thí chủ! Hãy nên bố thí, cúng dường đến ta và đồ chúng của ta. Tại sao vậy? Vì
bố thí, cúng dường đến ta và đồ chúng của ta thì sẽ được lợi ích lớn, phước báu
lớn – còn bố thí, cúng dường đến tôn giáo khác, hệ phái khác sẽ không có lợi
ích, sẽ không có phước báu!” Còn ở đây, tại đây, ở trong giáo pháp
thiêng liêng, trong sạch này - đức Tôn Sư lại dạy: “Hãy suy nghĩ cẩn
thận! Hãy suy nghĩ lại đi! Vì ông và gia đình ông là căn nhà mẹ ở ngã tư đường,
là nguồn nước ngọt không bao giờ khô cạn cho giáo chủ và đồ chúng Nigaṇṭtha
Nāṭaputta!” Ôi! Cao thượng thay là lời nói này! Đây là lần thứ ba, đệ
tử xin được quy y với đức Tôn Sư cao thượng, giáo pháp cao thượng và hội chúng
tỳ-khưu Tăng cao thượng!
Biết
được đức tin vững chắc ở nơi ông tướng quân, đức Phật thuyết một thời pháp, nói
cho rõ ràng, cụ thể hơn về bố thí, trì giới; sự hạ liệt, nhiễm ô của các dục;
tâm và cảnh các cõi trời; sự lợi ích cao thượng từng bước một của sự từ bỏ,
xuất ly... Theo dõi tâm và trí của vị tướng quân - đức Phật biết ông ta đã sẵn
sàng; nghĩa là nhu nhuyến, mềm mỏng dễ uốn nắn; có sự tĩnh lặng, hướng thượng;
các chướng ngại còn rất nhẹ - nên ngài đã giảng pháp cao hơn, thù thắng hơn.
Đức Phật tuần tự phơi bày về những sự thật về khổ, nguyên nhân sanh khởi các
khổ, sự diệt khổ và con đường, đạo lộ đến nơi giải thoát, chân phúc và bất tử.
Cũng
giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu dễ dàng – tương tợ vậy,
ngay giây khắc ấy, tại chỗ ngồi ấy, pháp nhãn thanh tịnh không nhiễm trần cấu
đã sanh khởi đến tướng quân Sīha. Mọi hoài nghi tiêu tan, ông đã thấy hiểu
pháp, thấy pháp, thấm nhuần bởi pháp – đã đi vào dòng, đã đắc quả Tu-đà-hoàn!
Tướng
quân Sīha chảy nước mắt, ông hoan hỷ quá, quỳ mọp ôm chân bụi của đức Đạo Sư
không nói nên lời. Đức Phật, sau đó, cho ông thọ trì quy giới và im lặng nhận
lời buổi thọ trai tại nhà ông vào ngày mai. Ngài cũng không quên dặn bảo tướng
quân Sīha điều quan trọng:
-
Bây giờ ông đã là đệ tử của Như Lai, sống trong giáo pháp thanh tịnh và cao
thượng – thì ông phải biểu lộ cho kỳ được đức hạnh thanh tịnh và cao thượng ấy:
Vẫn cứ làm căn nhà mẹ và nguồn nước ngọt cho giáo chủ và đồ chúng Nigaṇṭha
Nāṭaputta đấy nhé!
Trở
về nhà rồi mà lòng còn bổi hổi, bồi hồi – vì suốt cuộc đời, chưa có khi nào mà
ông tướng quân có được niềm vui nhẹ nhàng, siêu thoát như hôm nay! Cái hỷ lạc
thanh tịnh này nó cứ bập bùng, cứ âm ỉ, cứ reo ca mãi... như chim vui đầu cành,
như giọt nắng trong lành buổi tinh sương, như đám mây trắng nhẹ nhàng lướt qua,
lướt qua...
Nghĩ
đến buổi cúng dường ngày mai, ông cho gọi người quản gia đến để chỉ việc. Ông
nói đại lược rằng, ta sẽ có cuộc cúng dường lớn đến đức Tôn Sư của ta cùng hội
chúng tỳ-khưu năm trăm vị. Hãy triệu tập gia nhân và người làm công để làm các
căn lều vải, bàn ghế cao thấp, các chỗ ngồi có tọa cụ, có lót thảm để tới lui
và thảm chùi chân. Đây đó phải có những ghè nước, những khăn chùi chân, khăn
rửa tay có tẩm hương. Điểm xuyết chỗ này chỗ kia là tất thảy mọi loại hoa nhiều
hương sắc kiếm tìm được. Nấu ăn trai soạn phải đầy đủ thượng vị loại cứng, loại
mềm, bánh trái gì đó ngon thơm, bổ béo và ngọt ngào nhất. Phải nhớ, ngày mai
chính là ngày kỷ niệm mà ta được sinh ra trong giáo pháp của đức Tôn Sư đấy!
Vậy phải làm sao cho trọng thể, tốn kém tiền bạc đừng có để mắt tới! Ông còn
nhớ bữa cúng dường thọ trai của kỹ nữ Ambapālī không, hở? Cứ nhớ chuyện ấy mà
làm!
Người
quản gia tài giỏi và mau mắn nhận lãnh trách nhiệm; nhưng lại hỏi:
-
Chúng ta có sẵn hằng trăm chú gà vịt đang tơ, cũng có mấy chú nai, dê, cừu đang
tơ – nhưng có cần mua thêm những con thú đặc biệt như bê sữa, như gà rừng, như
bồ câu non... để giết thịt cho cao sang, cho tăng thêm chất, tăng thêm hương vị
không, hở chủ?
Tướng
quân Sīha chợt mỉm cười, nhẹ nhàng vỗ vai vị quản gia trung tín:
-
Này, ông bạn già! Bây giờ ta không còn là con người cũ nữa. Rồi tất cả vật nuôi
kia ta sẽ thả hết, ta sẽ cho đi hết... Ông nên nhớ rằng, từ rày về sau, thức ăn
trong nhà, trong trang trại phải là những con vật đã chết rồi. Ngày mai là thế
mà sau này cũng thế! Tấm lòng của ta, ngôi nhà của ta phải biết che chở, biết
bao dung và biết quý trọng sự sống của muôn loài!
Người
quản gia trố mắt. Đúng là phép lạ! Cái ông Thế Tôn kia quả là trổ tài ảo thuật thật
rồi, trong thời gian ngắn ngủi - chỉ chừng bóng mấy con ngựa chạy - mà có thể
biến chuyển tâm tánh của một ông thủ lãnh tướng quân như thế, không là kỳ diệu
sao?
Cuộc
bố thí, cúng dường lớn mới qua đi nửa buổi mà dư luận kinh thành Vesāli đã bàn
tán sôi nổi. Người quản gia về kể cho tướng quân nghe rằng:“ Rất nhiều đồ
chúng của Nigaṇṭha Nāṭaputta đi từ đường phố này sang đường phố khác, từ ngõ
lớn này sang ngõ nhỏ khác; chúng quơ tay kêu réo, la hét đến khản giọng như
sau: Hôm qua, tướng quân Sīha đã giết những con thú lớn, thú nhỏ - làm bữa trai
phạn để đãi đằng cho sa-môn Gotama cùng đệ tử của ông ta. Sa-môn Gotama tuy
biết được điều ấy nhưng vẫn thọ dụng như thường. Thế rõ, giáo pháp ấy là tà
mạng, bất chánh. Người cố ý giết thịt và kẻ cố ý ăn thịt đều chịu chung một sát
nghiệp như nhau!”
Tướng
quân Sīha nghe xong, im lặng một lát rồi trầm tĩnh hỏi người quản gia:
-
Ví như ta trả lời thì phải trả lời làm sao với sự đặt điều rỗng không ấy?
-
Thưa chủ! Con đã được ngắm nhìn đức Thế Tôn và hội chúng tỳ-khưu. Con đã thấy
phong thái, cử chỉ và tư cách của họ lúc đi đứng, lúc nhận vật thực cũng như
khi thọ dụng, vo tròn từng vắt cơm nhỏ, rất cẩn trọng và rất tri túc. Thật khác
xa một trời một vực với giáo chủ và giáo chúng Nigaṇṭha Nāṭaputta trước đây.
Con lại được nghe pháp nữa. Thật là mát mẻ và hoan hỷ cái lỗ tai. Bữa trai phạn
lại tự tay con làm theo lệnh của chủ. Vậy thì những lời mà giáo chúng kia cố ý
vu cáo, phỉ báng đức Phật, cố ý vu cáo, phỉ báng đức Pháp, cố ý vu cáo, phỉ
báng đức Tăng – thì rõ là chúng không tự lượng sức mình, đã phí công, đã láo
khoét một cách vô ích... chẳng thể nào làm tổn hại uy tín của giáo hội chơn
chánh được.
-
Đúng lắm, này ông quản gia! Từ rày cho đến trọn đời, một con sâu, một cái kiến
– ta cũng không giết hại. Mà cho dù có bị uy hiếp đến tính mạng, ta cũng không
tước đoạt sự sống của loài hữu tình đâu, ngươi nên nhớ như vậy!
Đấy
đúng là sự thật trong tâm của vị thánh đệ tử.
Bát gỗ đàn hương
Tại
kinh thành Rājagaha (Vương Xá) có người triệu phú đi tắm sông,
nhặt được một khúc gỗ đàn hương chỉ còn lõi, rất quý. Ông thuê thợ khắc tiện
đẽo thành một chiếc bình bát. Sau khi chuốc mài, đánh bóng, vân gỗ hiện ra
màu hồng đào rất đẹp. Ông thích thú ngắm nhìn mãi.
Bạn
ông lấy làm lạ, hỏi:
-
Ngài triệu phú có ý định làm vị sa-môn khất sĩ chăng?
-
Không phải!
-
Hay muốn làm một tác phẩm nghệ thuật, chưng cho đẹp mắt, ngắm cho vui mắt?
-
Cũng không phải!
Trầm
ngâm một chút, ông triệu phú giải thích:
-
Theo truyền thống gia tộc, khi làm xong mọi bổn phận ở đời rồi, tôi phải xuất gia,
theo gót một đoàn sa-môn, bà-la-môn nào đó. Nay tôi cũng đã trọng tuổi, chưa
nói chuyện xuất gia, nhưng tôi cũng muốn tìm một giáo phái nào đó để nương tựa.
Nhưng hiện nay, từ các nước liên bang cộng hòa bên bờ bắc sông Gaṅgā, sang
bờ Nam, tại kinh thành này – ông giáo chủ nào cũng tự xưng là Phật, là đại
thánh, là đại A-la-hán cả. Vậy mình biết tin ai bây giờ?
Người
bạn gật đầu:
-
Quả vậy! Nhưng tôi nghe nói, sa-môn Gotama là Phật thiệt đấy! Ông coi, đức vua
Bimbisāra (Bình-sa) đâu phải là con người cả tin, không có trí
- thế mà đã quy y làm môn hạ sa-môn Gotama? Rồi cả triều đình, cả
Veḷuvana (Trúc Lâm) và cả quy mô đại tính xá nữa?
Vị
triệu phú mỉm cười:
-
Cả các lão thần, các danh gia vọng tộc, cả chàng thánh y Jīvaka và cả vườn xoài
của hắn ta nữa?
-
Đúng thế!
-
Nhưng tôi chưa tin – Ông triệu phú lắc đầu - Vậy nên, tôi cho đẽo chiếc bát quý
trọng này rồi móc trên đầu chót những cây tre dựng cao mười tầm cây thốt nốt;
rồi cho gia nhân đánh trống, bố cao khắp mọi nơi rằng: “Vị nào có thể
bay lên để lấy chiếc bát trầm đỏ thì chúng tôi mới tin vị ấy là bậc A-la-hán.
Tất cả gia đình, quyến thuộc, bạn hữu chúng tôi sẽ làm môn hạ vị ấy, giáo phái
ấy!”
Chuyện
không mấy chốc lan xa khắp nơi. Mọi người tò mò tìm đến xem chuyện hư thực. Quả
là chiếc bát đỏ rực treo cao tít trên mây xanh. Người kéo đến ngày càng đông.
Và du sĩ, đạo sĩ, sa-môn, bà-la-môn cũng kéo đến rất đông. Người ta bàn tán về
chiếc bát quý. Người ta bàn tán không biết ai là người có thần thông trên đời
này? Rồi chiếc bát kia sẽ lọt vào tay giáo phái nào?
Giáo
chủ của sáu giáo phái hữu danh được kể tên là Makkhali Gosāla, Pakudha
Kaccāyana,Nigaṇṭha Nāṭaputta, Ajita Kesambala, Sañjaya
Velaṭṭhaputta hiện rải rác đầy khắp các quốc độ Bắc Nam sông Gaṅgā. Họ có đồ
chúng rất đông. Chuyện bát trầm đã đến tai họ. Gia đình triệu phú đã rất khó
chịu khi phải tiếp đoàn này rồi đoàn khác. Ai đến cũng chỉ để thuyết phục ông,
rằng là nên dâng cúng bình bát ấy cho giáo chủ chúng tôi. Giáo chủ chúng tôi là
bậc A-la-hán, xứng đáng thọ nhận bình bát quý giá ấy. Rằng là, chẳng lẽ nào một
vị A-la-hán lại đến đây trổ thần thông vì một vật ngoại thân? Rằng là, A-la-hán
là bậc thượng nhân, hành động bay lên lấy bát xem ra chẳng đẹp mắt chút nào!
Nói
gì thì nói, ông triệu phú không dễ gì bị thuyết phục.
-
Lời nói của tôi là một chiếc đinh to, đóng trên đầu ngọn tre rồi, quý ngài cứ
bay lên đấy mà nhổ!
Đã
năm sáu ngày qua đi, thế là không có một vị A-la-hán nào trên đời này sao? Nghe
nói có một giáo chủ tìm đến, sau khi thuyết phục không được, ngài định sử dụng
thần thông, vừa nhớm bay lên thì người đệ tử bên cạnh đã nhanh tay kéo y lại,
nói rằng:“Cái bát này thật không xứng để thầy làm như vậy. Thôi, ông triệu
phú đã không chịu dâng – còn có vẻ cảnh cáo – thì sau này đừng có
hối tiếc đấy!”
Đến
ngày thứ bảy, trưởng lão Mahā Moggallāna (Đại Mục-kiền-liên) và
đại đức Piṇḍolabhāradvāja vân du hành hóa ở xa về. Sau khi đi khất thực vừa đủ
dùng, hai vị ven theo một sườn núi vào thành. Trên đường, nghe người ta bàn tán
bên tai về chuyện cái bát đàn hương trên đầu mười ngọn tre của ông triệu phú;
lại có vẻ chê cười một số sa-môn, bà-la-môn không có tài, lại đến thuyết phục
dâng bát. Họ cũng hoài nghi như ông triệu phú là trên thế gian này không có vị
A-la-hán nào đâu...
Bước
lên một mỏm núi cao để nhìn bao quát thành phố, trưởng lão Mahā Moggallāna nói
với vị tỳ-khưu trẻ đang đứng ở bên cạnh:
-
Ông nghe đấy! Người ta đã hoài nghi như thế, đâu có sai, phải không?
Đại
đức Piṇḍolabhāradvāja đưa tay chỉ trang viện ông triệu phú ở tít dưới xa; và
cái bát - chỉ là một cái chấm nhỏ như đầu mũi kim - treo cao trên đầu ngọn tre
cùng với một đám đông người đang ngồi, đứng lố nhố trông như đàn kiến, rồi nói:
-
Họ đấy! Đối với họ, với chúng sanh ngu muội – Ai sử dụng thần thông lấy được
cái bát treo cao ấy thì mới là bậc A-la-hán thứ thiệt! Tội nghiệp không!
Trưởng
lão Mahā Moggallāna mỉm cười:
-
Dường như ông muốn cho họ một bài học phải không?
-
Trước mặt trưởng lão, đệ tử... Nét mặt vị đại đức trẻ đỏ lựng lên - đệ tử đâu
dám thế!
-
Ông còn nghĩ rằng, hãy hiển lộng thần oai cho dân chúng Vương Xá thành, cả
ngoại đạo, cả ông triệu phú kia biết khả năng đệ tử của đức Tôn Sư. Vả chăng,
nó còn lợi lạc, tạo duyên lành cho cả hằng trăm người quy y theo Phật đạo nữa,
có phải thế không?
Thấy
vẻ lúng túng của vị tỳ-khưu trẻ, trưởng lão Mahā Moggallāna nói:
-
Thôi được rồi! Ta cho phép ông đấy. Giả dụ như đức Tôn Sư có la rầy thì để ta
gánh chịu cho!
Đại
đức Piṇḍolabhāradvāja tuy đắc ngũ thông nhưng chưa có thánh quả, tâm vẫn còn
lăng xăng, ham vui; được lời của vị Đệ nhị đại đệ tử như mở tấm lòng. Ông cúi
đầu xá chào trưởng lão rồi nhanh như cánh chim én, nhảy lên một tảng đá cao,
nhiếp tâm vào định tứ thiền, xuống cận hành, khởi tưởng, trú tưởng, làm kiên cố
tưởng. Lát sau, như cánh chim đại bàng, ông bay lên, tảng đá to cao hơn cả cái
nhà bị hút dính dưới chân - rồi cứ thế, cánh đại bàng bay ba vòng quanh thành
Vương Xá. Bên dưới thành phố, dân chúng xôn xao, ngước lên trời chỉ trỏ. Lát
sau, một số nơi đã tỏ ra hoảng loạn, họ sợ tảng đá rớt xuống, sập nhà cửa và
chết người nên chạy tới chạy lui có vẻ bất an. Biết vậy, khi đến gần nhà ông
triệu phú, đại đức Piṇḍolabhāradvāja khẽ nghiêng người, lắc chân một cái là
tảng đá lớn kia được trả về vị trí cũ trên núi. Thuận tay, rướn người, đại đức
lấy chiếc bát trên đọt tre cao mười tầm thốt nốt, rồi như cánh chim ưng vàng
bay đến cửa nhà ông triệu phú. Ở đây, mọi người đang trố mắt, sững sờ. Thoáng
sau, cả gia đình ông triệu phú mừng vui, hớn hở ra đón chào vị A-la-hán trẻ
tuổi!
-
Tôi là đệ tử đức Thế Tôn! Tôi không phải là bậc A-la-hán cao quý, xin ông triệu
phú, cả nhà và mọi người hiểu cho như vậy!
Đại
đức Piṇḍolabhāradvāja hai ba lần phân bua, thanh minh. Nhưng ông triệu phú
không cần biết điều đó, thỉnh mời vào nhà, xếp đặt chỗ ngồi cao quý nhất. Cả
nhà quỳ xuống đảnh lễ. Gia nhân, kẻ làm công và mọi người tìm đến, xúm quanh,
vòng trong, vòng ngoài bàn tán ồn ào như buổi chợ đông.
-
Có vị A-la-hán thật sự trên thế gian này rồi! Xin ngài cho chúng đệ tử được
cúng dường!
Ông
triệu phú xin thỉnh lại cái bát đàn hương, đặt vào đấy vật thực thượng vị loại
cứng, loại mềm. Thọ nhận xong, vị tỳ-khưu trẻ tuổi nghiêm trang nói:
-
Hãy đến Trúc Lâm tịnh xá, quỳ bên chân đức Đạo Sư – ngài dạy như thế nào thì cứ
y như vậy mà thọ trì – tôi chỉ là người mới tu học sơ cơ, xin quý vị biết cho
như vậy!
Nói
thế xong, sợ mọi người phiền nhiễu, đại đức Piṇḍolabhāradvāja chợt biến mất tại
chỗ và có mặt ngay tại khu rừng trúc với thời gian như viên lực sĩ co duỗi cánh
tay.
Biến
cố vừa rồi làm xáo động cả thành phố. Một đồn mười, mười đồn trăm. Không mấy
chốc, cả gốc cây, cục đá, bụi cỏ trên mọi hang cùng ngõ hẻm đều đã biết chuyện
ấy. Thế rồi, từng đoàn người, từng đoàn người kéo về Veḷuvana như trẩy hội.
Chuyện
là sắp đến mùa mưa, ngài và một hội chúng chừng năm trăm vị, gồm chư vị trưởng
lão, tỳ-khưu tăng, ni trưởng Gotamī, Yasodharā, một số tỳ-khưu-ni... từ Vesāli
về lại Veḷuvana. Đây là năm an cư thứ sáu của ngài. Sau một thời gian khá dài
vắng mặt, đức Phật thấy có một vài sự đổi khác trong sinh hoạt ở đây, chuyện
tốt có, chuyện xấu có.
Việc
đầu tiên là tôn giả Uruvelā Kassapa và đồ chúng tìm đến đảnh lễ, nói là đức vua
Seniya Bimbisāra đã hứa khả dâng cúng một khu rừng cách đây không bao xa để
thành lập ni viện. Tôn giả Mahā Kassapa cũng hoan hỷ cho biết là một số Nam nữ
đạo sĩ khổ hạnh cực đoan của Nigaṇṭha Nāṭaputta đã được
tôn giả cảm hóa – trong đó có Bhaddākapilāni, người vợ cũ – hiện đang đợi chờ
sự giáo giới của đức Tôn Sư.
Gần
một tuần lễ, đức Phật và các vị trưởng lão thay nhau đến khu rừng mới, nơi ni
viện vừa mới thành lập. Đức Phật đã làm lễ xuất gia cho ni giới sau đó bàn giao
công việc cho ni trưởng Gotamī và một số giáo thọ, tỳ-khưu-ni học
thức, biết việc, quen việc từ Vesāli sang. Cơ sở lều xá đã được tôn
giả Uruvelā Kassapa, tôn giả Mahā Kassapa và chúng đệ tử chuẩn bị từ trước nên
số lượng công việc kể ra cũng không nhiều lắm. Tôn giả Sāriputta dường như phải
thường trực để giáo giới ni chúng tập sự. Tôn giả Mahā Moggallāna thì được đức
Phật giao phó những công việc riêng, lúc ở gần, lúc ở xa; nhưng đa phần là cho
phép ngài sử dụng thần thông để cảm hóa hoặc hàng phục những người hữu duyên
nhưng rắn mắt, cứng cỏi. Có một chuyện tình cảm tế nhị mà đức Phật cũng không
quên dặn tôn giả Ānanda - là tạo sự gặp mặt giữa ni trưởng Gotamī, tỳ-khưu-ni Yasodharā,
sa-di Rāhula, đại đức Nanda, các tôn giả ông hoàng quý tộc và một số gia đình
Sākya thân thiết. Gặp nhau, họ mừng vui lắm, nhưng xem ra cũng thanh thản, nhẹ
nhàng.
Tại
giảng đường Trúc Lâm, vài ba lần giáo giới thường lệ đến hội chúng tỳ-khưu, sau
đó là buổi gặp mặt tất cả chư vị trưởng lão - Đức Phật nói:
-
Trong số tỳ-khưu mới nhập chúng, Như Lai nhận thấy có một số vị ngũ quan khuyết
tật, trông không có tăng tướng, có thể làm mất đức tin cho các hàng cư sĩ tại
gia – là tại làm sao?
Tôn
giả Koṇḍañña niên trưởng, đại diện cho các trưởng lão thưa trình:
-
Trong hội chúng của các ngài Kassapa, thường đi hành hóa ở xa, lâu lâu hóa độ
đâu đó một vài người, nghe nói trước đây họ là đạo sĩ tóc búi, có ở tại
Uruvelā. Do nể tình đồng đạo cũ, các ngài đã thu nhận. Chính đệ tử thấy cũng
khó chịu, nhưng xét ra, đức Tôn Sư chưa có quy định gì về điều ấy!
Đức
Phật gật đầu:
-
Phải rồi! Như Lai không thể trách các vị được! Đấy là việc thứ nhất cần nên
chấn chỉnh - Đức Phật nhìn quanh một lát – Còn việc thứ hai nữa. Trước đây, lúc
Như Lai giảng pháp, dẫu cả ngàn người nhưng cũng im lặng như tờ. Nhưng mấy hôm
vừa rồi, Như Lai nhận thấy trong hội chúng, nhiều kẻ đứng lên, ngồi xuống, đi
ra, đi vào, nhúc nhích, nhấp nhổm khá tùy tiện; lại có rất nhiều cử động thô tháo
ở nơi tay chân, thân mình; đây đó lại có tiếng ho, tiếng khạc nhổ, tiếng hắt xì
hơi, tiếng gãi ngứa, tiếng cào tay rột rạt... là tại làm sao vậy nhỉ?
Tôn
giả Vappa thay huynh trưởng, trình thưa:
-
Bạch đức Thế Tôn! Những điều đức Tôn Sư thấy hoàn toàn đúng. Tất cả số tỳ-khưu
ấy đều đa phần là bệnh nhân. Họ mắc đủ thứ bệnh. Kể từ khi thánh y Jīvaka
Komārabhacca nổi danh thơm về tài chữa bệnh đã lan xa nhiều quốc độ. Người ta
lũ lượt tìm đến trang viện của thánh y xin chữa hằng chục thứ bệnh khác nhau.
Họ ngồi, nằm la liệt đầy sân, đầy vườn. Thánh y Jīvaka Komārabhacca từ chối,
nói rằng, ông ta đã đầu tắt, mặt tối lo cho hoàng gia, đức Phật và tăng chúng -
đã không có được chút ít nghỉ ngơi, lấy đâu ra thì giờ để chữa bệnh cho mọi
người. Tuy nhiên, họ không chịu đi. Sau phải nhờ một số quân đội hoàng gia mới
giải tán được.
Đức
Phật yên lặng lắng nghe. Ngài tuy biết mọi chuyện nhưng muốn để chư trưởng lão
trình bày, sau đó, chính họ phải có biện pháp giải quyết.
Tôn
giả Assaji thưa tiếp:
-
Số Nam bệnh nhân ở đấy, họ khôn ngoan tìm đến các trưởng lão xin xuất gia, cốt
ý để được Jīvaka chữa bệnh. Một số sau khi lành bệnh liền hoàn tục. Số chưa
lành bệnh hiện còn ở đây. Đa phần không có tâm tu, tục khí còn quá nặng
nề. Chư trưởng lão và các vị giáo thọ hiện đang rất khổ tâm về điều
ấy!
Đức
Phật lại gật đầu:
-
Phải rồi! Nhưng các vị cứ nói tiếp đi!
Tôn
giả Kimbila thưa tiếp:
-
Mới đây, Jīvaka Komārabhacca phát hiện có nhiều chứng bệnh rất nguy hiểm, muốn
gặp đức Thế Tôn để trình bày cho cặn kẽ để sớm có biện pháp hữu hiệu ngăn
ngừa...
Đức
Phật nói:
-
Cả việc ấy Như Lai cũng chưa chế định. Ừ, rồi Như Lai sẽ nói chuyện với Jīvaka.
Nhưng hiện tại, trước mắt, một vị tỳ-khưu trong giáo hội thanh tịnh – mà lé
mắt, chột mắt, đi khập khiễng, cụt một tay, cụt một chân, cổ ngoẹo một bên,
người lùn tịt, sứt tai, sứt mũi, bướu cổ, câm điếc... nghĩa là ngũ quan bất
toàn, kỳ hình dị dạng – thì chư vị trưởng lão trông có được không?
-
Thưa, không được!
-
Còn nữa! Rồi cái tịnh xá Trúc Lâm này, đến một lúc nào đó sẽ biến thành bệnh
viện với các vị tỳ-khưu mang bệnh cùi, bệnh lao, bệnh động kinh... thì trông có
được chăng?
-
Thưa, không được!
Đức
Phật nhìn các vị trưởng lão rồi tiếp:
-
Giáo pháp Như Lai được xây dựng trên nhân quả, có nhân, có duyên mới có quả.
Khi nào có một việc phát sanh mà ai cũng thấy đó là xấu – thì ngăn chặn điều
xấu ấy, dập tắt nhân ấy, đã trở thành giới điều, trở thành luật tắc. Việc vị
tỳ-khưu toàn hảo ngũ quan, tăng tướng – là điều kiện để cho thọ đại giới, vậy
là đã trở thành luật xuất gia tỳ-khưu. Việc vị tỳ-khưu phải hoàn toàn khỏe
mạnh, vô bệnh – là điều kiện cho thọ đại giới, vậy là đã trở thành luật xuất
gia tỳ khưu! Các vị thấy có đúng không?
-
Thưa, phải vậy!
-
Thế thì bây giờ, chư vị trưỏng lão sẽ họp bàn với nhau, soạn thảo với nhau về
tất thảy mọi điều kiện toàn hảo, viên mãn về luật xuất gia tỳ-khưu. Hai nội
dung lược dẫn mới chỉ là gợi ý sơ khởi, Như Lai biết, các vị sẽ đưa ra được một
liệt kê toàn bích hơn nhiều!
Tôn
giả Sāriputta tán thán:
-
Đúng là sự thấy biết của bậc Toàn Tri Diệu Giác! Chúng đệ tử nắm bắt rất rõ.
Các điều kiện xuất gia còn có khả năng ngăn chặn kẻ mang công mắc nợ, kẻ trốn
lính, bọn trộm cướp trốn luật pháp, bọn á Nam á nữ, bọn bị hình phạt đóng dấu
lên trán, bọn bị cáo thị tầm nã...; nghĩa là còn nhiều lắm, bạch đức Tôn Sư!
-
Ừ, đúng vậy! Như Lai biết! Bây giờ các vị hãy làm việc đi, có Sāriputta và
Koṇḍañña chủ trì. Như Lai sẽ làm việc với Jīvaka Komārabhacca, ông ta đã đến
rồi đấy!
Và
quả đúng như thế, lúc ấy, Jīvaka với cỗ xe hai ngựa đang đi vào Trúc Lâm tịnh
xá.
Đức
Phật chăm chú lắng nghe thánh y Jīvaka Komārabhacca trình bày tình trạng nguy
hiểm do một số bệnh nhân lợi dụng tìm cách giả mạo, trộm tướng xuất gia. Trong
số ấy, có một số bệnh được coi là nan y, bất trị; có một số bệnh lại lây lan
truyền nhiễm rất nhanh, nếu chư tỳ-khưu không có kiến thức vệ sinh phổ thông
thì nguy hại cho cả giáo hội. Xin đức Thế Tôn cho mở lớp học này. Đáng lưu ý
nhất là có một số bệnh - phải gọi là bệnh nghiệp mà ông ta đang nghiên cứu -
liên hệ đến việc bệnh nhân cần phải thay tâm đổi tánh; phải biết tu tập, phải
biết bố thí, trì giới... mới có công năng giải tan ác nghiệp trước đây!
Jīvaka
Komārabhacca nói rằng, bọn chúng đa phần do trọng nghiệp thuở trước còn dư sót,
tự bản thân lại đang sống trong các ác, bất thiện pháp thì thượng đế cũng không
cứu chúng được. Đệ tử lại càng không thể. Muốn thoát khỏi tình trạng hiện nay
là phải trả họ trở về nhà...
Chính
lúc đang nói chuyện ngang đây – thì dân chúng hiếu kỳ đã kéo đến làm huyên náo
cả Trúc Lâm. Vị tỳ-khưu thị giả trình bày lại câu chuyện chiếc bát gỗ đàn hương
và đại đức Piṇḍolabhāradvāja đã sử dụng thần thông ra sao. Ngay lúc ấy, tôn giả
Mahā Moggallāna cũng vừa dẫn vị đại đức ấy đến đảnh lễ đức Phật và trình diện
ngài.
Buổi
chiều, sau thời pháp lệ thường, đức Phật giáo giới rộng rãi đến hội chúng, có
cả chư vị trưởng lão và đầy đủ cả tăng ni hai viện:
-
Chuyện sử dụng thần thông để lấy chiếc bát gỗ quả thật là không đúng đắn, không
hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn hạnh. Trước đây, Như Lai thường
để cho các vị thượng thủ A-la-hán đã chấm dứt lậu hoặc, đã rỗng không mọi trần
cấu – tùy nghi sử dụng các khả năng thắng trí để giáo hóa một số căn cơ nào đó.
Nhưng nay thì chuyện gì xảy ra? Tỳ-khưu Piṇḍolabhāradvāja dầu có pháp thượng
nhân nhưng chưa bước được vào dòng thánh đạo, nội tâm còn nhiều cấu uế - lại
muốn chứng tỏ oai lực của mình trước muôn dân thành Vương Xá? Hành động ấy
chứng tỏ gì? Chứng tỏ tâm trí còn dục tham, khoa trương, muốn thể hiện bản ngã
– là những kiết sử, cấu uế không có trong tâm bậc thánh. Vì chưa cấm đoán, chưa
chế định nên tỳ-khưu Piṇḍolabhāradvāja chưa phạm lỗi. Nhưng nay thì khác. Từ
rày về sau, ngoại trừ một vài vị do Như Lai chỉ định, Tăng Ni hai viện, ai để
lộ pháp thượng nhân trước hai hàng cư sĩ tại gia, trước mọi người thì phạm tội
dukkaṭa [i]- tức là xấu ác, sái quấy - phải sám hối trước
Tăng.
Nhìn
chiếc bát gỗ trầm láng lẩy, óng chuốt nổi vân đỏ và tỏa mùi thơm - đức Phật
tiếp lời:
- Chẳng
lẽ nào một sa-môn khất sĩ, xin ăn trước cửa mọi nhà, sống đời tri túc, tri chỉ,
bần hàn, vô sản... lại sử dụng chiếc bát trân quý thế kia? Có xứng với phẩm
hạnh xuất trần, ly cấu chăng? Có nghe dễ chịu trước tiếng lời của dư luận xã
hội chăng?
Tôn
giả Mahā Kassapa bạch:
-
Thưa đức Tôn Sư! Chính người sử dụng nó đã cảm thấy khó chịu; còn dư luận xã
hội thì khỏi nói, họ cười chê, biếm nhẽ, coi khinh không ra gì đâu! Nhân tiện
đây, xin đức Thế Tôn cấm chỉ luôn các loại bát vàng, bát bạc, bát các loại
ngọc, bát pha lê, bát đồng đỏ, bát thủy tinh, bát thiếc, bát chì, bát đồng
thau...[ii] mà lác đác đâu đó, ở nơi này và nơi kia,
có một số vị tỳ-khưu đã sử dụng.
Đức
Phật gật đầu:
-
Phải rồi! Những loại bát mà vị Đệ nhất đầu-đà đã liệt kê cũng được phải cấm chỉ
như thế. Các hàng trưởng lão phải thông báo rộng rãi điều ấy đi các nơi! Ngưng
một lát, nhìn chiếc bát trầm, nhìn qua hướng Jīvaka Komārabhacca - đức Phật
tiếp – Còn cái bát trầm đỏ, này ông thần y, nó có phải là thuốc không?
-
Đúng vậy, bạch đức Tôn sư! Nó là dược liệu, ví như ta có thể tinh chế để làm
thuốc rỏ mắt cho sáng; nhưng đồng thời cũng là một loại hương liệu quý hiếm
nhằm để pha trộn vào các loại thuốc cao, như: cao chữa bỏng, cao đắp đau lưng,
cao làm tươi mịn da, cao hút độc, mụt nhọt, cao đắp chỗ xương gãy, cao nhuận
tràng, cao ấm phổi... nhiều lắm!
-
Ừ! Vậy thì Như Lai trao cái bát quý ấy cho ông để sử dụng vào việc lợi ích.
-
Đệ tử sẽ nghiền thành bột để tinh chế thuốc rỏ mắt và các loại cao cần thiết
nhất để phục vụ đức Thế Tôn và Tăng Ni hai viện.
Sau đó đức Phật chế định rằng, chư tỳ khưu, tỳ-khưu-ni chỉ nên sử
dụng bát sắt, bát gỗ mít và bát đất mà thôi; ai sử dụng loại bát khác, ngoài
chế định, như đã nêu ở trên, là phạm tội dukkaṭa!
[i]“Na bhikkhave iddhipāṭihāriyam dessetabbam. Yo
dasseyya āpatti dukkaṭassa”- Này chư tỳ-khưu! Như Lai chế định không được biểu
diễn thần thông; ai sử dụng pháp thượng nhân sẽ phạm tội tác ác!
[ii] Lấy ý từ Tạng Luật, tiểu phẩm
(Cūlavagga)II, Sđd.
Tiếp chuyện đức vua Seniya Bimbisàra
Hôm
kia, vào buổi chiều, tiết xuân, đức vua Seniya Bimbisāra, hoàng hậu Videhi,
hoàng tử Ajātasattu (A-xà-thế) cùng quan binh tùy tùng hộ giá
đến thăm đức Thế Tôn. Đức vua ra lệnh cho dừng xe ở bên ngoài rồi cùng hoàng
hậu nắm tay hoàng tử đi lần vào, chậm rãi từng bước một theo lối sỏi. Đức vua
đưa mắt nhìn nơi này, nơi khác. Mỗi khi công việc triều chính mệt mỏi, đức vua
lại tìm đến đây để hưởng được giây phút an bình. Dẫu không có đức Phật thì có
các vị trưởng lão, đức vua có thể tiếp kiến để học hỏi nhiều điều. Hóa ra, các
vị này kiến thức cũng thâm uyên, lại có thể rành rẽ, khúc chiết giảng giải giáo
pháp, liên hệ việc đời, việc đạo một cách rất thông bác...
Trúc
Lâm đại tịnh xá càng ngày càng phát triển. Chính đức vua cho viên quan đặc
trách kiến trúc của hoàng gia thường lui tới đây, công trình nào xuống cấp,
phải tu bổ ngay. Trong thời gian sử dụng, nếu thấy thiếu những công trình phụ
cần thiết nào phải trình báo, rồi thưa xin các vị trưởng lão cho thực hiện để
phục vụ tăng chúng kịp thời!
Tin
đức Phật và đại chúng Tăng Ni về an cư mùa mưa đã lâu, đức vua chỉ mới đến thăm
viếng một lần, nhưng sau đó thì quá nhiều bận rộn. Từ khi sống theo giáo pháp,
nội tâm đức vua được yên ổn, nội cung và triều đình cũng yên ổn; nhưng đức vua
và một số các quan đại thần trẻ lại có những quan điểm bất đồng về chính sách.
Họ bảo rằng, luật pháp mà quá khoan thứ thì nhân dân sẽ sinh loạn. Họ nói rằng,
giới thanh niên xuất gia quá nhiều thì gánh nặng gia đình lại đẩy qua cho giới
phụ nữ. Họ nói rằng, bây giờ phụ nữ cũng được tự do xuất gia nữa thì miếng cơm,
manh áo của xã hội lại phải san sớt quá nhiều cho du sĩ, đạo sĩ, sa-môn, bà-la-môn
trì bình khất thực - đến lúc nào đó sẽ không còn chịu đựng nổi. Họ nói rằng,
của tiền của hoàng gia đổ vào để xây dựng tịnh xá cho Tăng Ni, trong lúc các
công trình cung điện hoàng gia xuống cấp lại chưa được trùng tu. Bức tường bao
bọc thành ngoài là công trình an ninh quốc phòng đôi nơi cũng đã hư sập, cũng
đang đòi hỏi ngân sách và sức dân. Nếu viện cớ là thời bình, muôn dân phú túc,
thịnh cường mà không có chính sách nhìn xa trông rộng ... thì cũng là nguy cơ
của triều đại. Cần phải khai thác thêm các mỏ sắt, mỏ đồng, mỏ vàng.. để một
phần dự trữ cho ngân khố, một phần bán ra các nước láng giềng, một phần rèn đúc
khí giới, áo giáp... dùng lúc hữu sự! Họ nói có lý quá. Và đức vua cũng đã mệt
mỏi quá. Việc này chưa yên đã sinh việc khác. Mấy năm nay, miền Bắc sông Gaṅgā
liên tiếp được mùa thì phía Nam mất mùa; mặc dầu Māgadha (Ma-kiệt-đà) chưa
ảnh hưởng gì nhiều lắm nhưng cũng phải kiếm cách thay đổi cây trồng nông
nghiệp. Đức vua lại nghĩ khác, năm nay đức Thế Tôn và đại chúng về an cư ở đây
thì Tứ đại thiên vương phải lo điều ấy. Họ, một số quan đại thần ấy chưa đầy đủ
đức tin. Năm nọ, đức Thế Tôn và Tăng chúng vừa bước chân đến cửa Đông kinh
thành Vesāli thì trời liền đổ mưa, hết khô hạn, hết dịch bệnh. Họ duy vật chất
quá. Họ lại bảo ta duy tâm linh quá. Họ đâu biết rằng chỉ cần một trận mưa đúng
tiết, đúng thời thì mang lại cơm áo cho cả hằng trăm ngàn người. Một hiện thân
của đấng Siêu Việt ở đây là đã hộ trì cho quốc độ, đem đến an bình như thế nào
cho bá tánh – chúng có hiểu đâu...
Đức
Phật tiếp chuyện đức vua dưới bóng cây ngoài hiên. Trời im mát. Hoàng tử
Ajātasattu đã mười tuổi, trông đã chững chạc, tự động đến đảnh lễ đức Phật.
Đức
vua tâm sự về công việc bộn bàng ở triều đình, chuyện thời tiết nắng mưa năm
qua khá phức tạp, nhưng từ khi đức Thế Tôn về an cư thì bắt đầu dễ chịu, mùa
màng chưa đến nỗi nào. Một lát, lại hỏi qua chuyện ni viện đã ổn định chưa? Còn
chuyện bệnh nhân trộm mạo tăng tướng xuất gia do Jīvaka kể lại thì giờ như thế
nào rồi? Đức vua gợi ý, nếu có chuyện gì giải quyết không được, cần đến hoàng
gia thì xin đức Tôn Sư cứ sai bảo.
-
Không có gì, tâu đại vương! Số bệnh nhân do Jīvaka phát hiện, các vị trưởng lão
ân cần nói chuyện phải trái, họ đã tự động trả lại y bát, hoàn tục, chưa có
việc gì đáng tiếc xảy ra.
Đức
vua hỏi sang chuyện khác:
-
Mới đây dư luận bàn tán khắp nơi về việc một vị tỳ-khưu trẻ đã sử dụng thần
thông để lấy chiếc bát trầm đỏ trên đầu đọt tre cao mười tầm thốt nốt; điều ấy
là đúng với sự thực hay không đúng với sự thực?
-
Quả có vậy!
-
Dư luận cũng bảo rằng, đức Thế Tôn đã rầy la việc ấy; và sau đó đã công bố rộng
rãi, là cấm chỉ chư tăng để lộ pháp thượng nhân, biểu diễn thần thông trước mắt
mọi người?
-
Quả có vậy!
-
Nghe được điều ấy, mấy hôm nay, trên khắp mọi ngã đường, chúng ngoại đạo [i] gióng trống mở cờ tuyên bố là thách đấu thần
thông với đức Tôn Sư đấy!
-
Ừ, Như Lai cũng có nghe.
-
Chúng nói rằng, các bậc giáo chủ cao quý của họ, không thể vì chiếc bát tầm
thường mà để lộ pháp thượng nhân, lại càng không muốn sinh ra tranh chấp với đệ
tử của sa-môn Gotama. Nay tình thế khác rồi. Các giáo chủ của họ muốn đấu pháp
lực với chính sa-môn Gotama mà thôi!
-
Ừ, Như Lai cũng có nghe như thế!
Thấy
sự bình tĩnh, an nhiên của đức Phật, đức vua Seniya Bimbisāra lại cảm thấy lo
lắng:
-
Đức Tôn Sư đã cấm chỉ rồi! Vậy, chuyến này chúng ta sẽ bị lép vế rồi!
-
Không đâu! Đức Phật mỉm cười - Chính Như Lai sẽ sử dụng thần thông để cho họ
thấy oai lực bất khả tư nghị của một vị Chánh Đẳng Giác - ngài
giải thích thêm – chư Phật quá khứ cũng thường làm như thế, một lần,
nhiều loại thần thông khác nhau để nhiếp phục chúng ngoại đạo!
-
Thế chuyện cấm chỉ...?
-
Này đại vương - đức Phật nói tiếp – nghe nói đại vương có một
vườn xoài đặc chủng, quý hiếm nên đã ra bảng yết thị cấm chỉ không cho phép ai
được đến vườn xoài, hái xoài – có phải vậy chăng?
-
Thưa, đúng vậy!
-
Vậy cái bảng cấm chỉ ấy có cấm chỉ đại vương đến vườn xoài, hái xoài; hay đại
vương là ngoại lệ, ở ngoài sự cấm chỉ ấy?
-
Dĩ nhiên, ông vua thì cứ tha hồ!
-
Cũng vậy, tâu đại vương! Như Lai cấm chỉ chư đệ tử, nhưng Như Lai thì ngoại lệ,
Như Lai sẽ tùy nghi sử dụng thần thông để giáo hóa sanh chúng!
Đức
vua bất giác cười xòa. Một lát, ngài hỏi tiếp:
-
Vậy thì lúc nào đức Tôn Sư sử dụng thần thông?
-
Đúng duyên, đúng thời thì phải vào đúng ngày rằm tháng sáu, đầu an cư mùa mưa.
Nghĩa là bắt đầu từ hôm nay, đến tháng Asāḷaha, còn gần năm tháng nữa!
-
Tại chỗ nào, thưa đức Tôn Sư?
-
Tại nước Kosala, kinh thành Sāvatthī, trên một cái cây lớn, có tên là Kaṇḍamba!
Đức
vua rất hoan hỷ về buổi tiếp chuyện với đức Phật, nhưng chỉ tiếc là không được
xem cuộc biểu diễn thần thông ấy. Lúc từ giã, đức vua hứa sẽ giúp một tay để
kiến thiết, sửa sang ni viện cho chắc bền hơn, khang trang hơn. Ra về rồi mà
đức vua còn một nỗi niềm canh cánh bên lòng là chưa khuyên nhủ được bà quý phi
của mình đến Trúc Lâm để được nghe pháp.
[i] Không có nghĩa xấu - chỉ để gọi các tôn
giáo, các giáo phái không phải Phật giáo.
Bà quý phi xinh đẹp
Đức vua Sineya Bimbisāra và
hoàng hậu Videhi – sau khi nghe pháp, đắc quả Nhập Lưu – thì họ có được đức tin
vững chắc, có được đời sống thanh bình và an lạc. Mọi câu hỏi, mọi tư duy về
đời người đã lần lượt được gỡ rối; mọi khổ ưu, mọi phiền não trong tâm hồn càng
ngày càng nhẹ nhàng, yên lặng bớt. Đức vua có một bà quý phi xinh đẹp; tên là
Khemā, luôn luôn hãnh diện và tự hào về sắc đẹp của mình - được ông vô cùng yêu
mến. Nhưng sau khi học hiểu được giáo pháp, đức vua biết rằng, sắc đẹp của mỹ
nhân giống như đóa hoa, một lúc nào đó
sẽ nhạt phai, sẽ ố sắc và rữa hương. Chính vẻ đẹp tâm hồn, vẻ
đẹp tinh thần đươc thấm nhuần hương vị của chánh pháp mới không bị
hư mục theo thời gian, mà ngược lại, ngày càng được khởi sắc và thăng hoa.
Hoàng hậu Videhi bản chất thuần hậu, đoan trang, có vẻ đẹp nội tâm thầm lặng –
như một mảnh vải trắng tinh rất dễ nhuộm màu –
nên sau khi nghe pháp, bà nhẹ nhàng xuôi chảy vào dòng. Chỉ riêng bà
quý phi Khemā là không chịu đi nghe pháp. Đức vua đã ân cần dỗ ngon, dỗ ngọt
nhiều lần nhưng bà vẫn lắc đầu từ chối. Khi được gặng hỏi lý do thì bà đáp:
- Đức Thế tôn ấy có ba hai quý tướng và
tám mươi vẻ đẹp, thiếp biết.
Đức Thế Tôn ấy toàn hảo mọi đức hạnh, quyền năng, trí tuệ - thiếp cũng biết.
Thế gian xưng tán ngài là bậc thầy của chư thiên và loài người - thì không ai còn dám hồ nghi. Tuy nhiên,
thiếp sẽ không đi!
Khi
được hỏi lý do, bà đáp:
-
Nghe nói rằng, đức Thế Tôn thường có lời khiếm nhã đối với nữ giới. Ngài coi
thường, đôi khi cười chê sắc đẹp của phụ nữ; ngài nói rằng, đẹp gì, quý gì, mỹ
miều gì cái bao da đựng thịt, đựng xương mà trang điểm, mà xông hương, ướp
phấn, thoa son... Quả là ngài chẳng lịch sự chút nào!
Đức
vua Thánh đệ tử cười thầm trong lòng, nhưng ngoài mặt lại nói:
-
Ừ, ngài nói vậy dù đúng với sự thực, nhưng mà cũng hơi quá đáng. Có được sắc đẹp
như ái phi trên thế gian này phỏng có mấy người? Phải tu tập, phải tích lũy vô
lượng phước báu mới có được như thế chứ đâu có dễ gì!
Bà
Khemā thấy vua đồng quan điểm với mình, cảm thấy rất vừa lòng nên nhướng mày,
đắc ý:
-
Chứ sao? Vậy sao đại vương cứ nhắc ngày, nhắc đêm bảo thiếp phải đi hầu thăm
đức Thế Tôn ấy?
-
Có hai lý do - đức vua Bimbisāra chậm rãi, dịu dàng nói - Nàng biết không,
Veḷuvanārāma đẹp lắm! Trúc Lâm đại tịnh xá là một nơi khả ái, khả hỷ, khả lạc,
phong cảnh nên thơ, hữu tình làm sao! Nó nên thơ, hữu tình nhưng mà lại làm cho
tâm hồn ta mát mẻ, trong lành, vô cùng dễ chịu. Người nào đến Trúc Lâm, thấy
được Trúc Lâm rồi thì xem như người ấy đã thấy được Hỷ Lâm (Nandavana), thắng
cảnh đệ nhất tại cung trời Đao Lợi - là nơi mà Đế Thích thiên chủ thường hay
đến ngoạn du, vui chơi với cả hằng ngàn tiên nữ. Đấy là lý do thứ nhất.
-
Gì mà đẹp ghê gớm vậy - bà Khemā cau đôi mày lá liễu - Thôi được rồi, vậy còn
lý do thứ hai?
-
Là vì đức Phật cũng thường hay khen ngợi phụ nữ - nhưng nàng không biết đấy
thôi!
-
Quả có thế sao?
-
Đúng vậy! Ngài từng nói rằng: Bản chất người nữ tuy hơi mềm yếu, nhưng họ cũng
có khả năng thành tựu tri kiến cao thượng, có nền tảng khá vững chắc để phát
triển tứ vô lượng tâm. Ngoài ra, giác ngộ, giải thoát, tứ quả, thắng trí, biện
tài, phân tích, giới hạnh, thiền định, tuệ giác... họ hoàn toàn không hề
thua Nam giới. Đấy cũng là lý do mà đức Tôn Sư cho thành lập giáo hội
tỳ-khưu-ni - vừa nói lên tiếng nói của một tập thể bình đẳng, dân chủ mà còn là
cơ hội tuyên dương nữ giới, xem trọng nữ giới - trong lúc luật Manu trong
truyền thống bà-la-môn tự ngàn xưa đã không coi nữ giới ra gì, suốt đời phải lệ
thuộc Nam giới, lại còn xem rẻ, coi khinh nữa!
-
Thế là khách quan, là đúng đắn! Hóa ra từ lâu thiếp chỉ nghe một bên, một chiều...
đấy là lỗi lầm, là thiếu sót đáng chê trách của thiếp vậy.
Được
đức vua Bimbisāra khôn ngoan thuyết phục nhiều lần như thế, chiều hôm ấy, bà
quý phi xinh đẹp của chúng ta không cần quân lính hộ giá, chỉ với mấy cung nga
lên một cỗ xe 4 ngựa trắng đến viếng thăm Trúc Lâm. Đến cổng tịnh xá, bà cho
dừng ngựa, chậm rãi đi bộ vào. Quả là một khung cảnh tươi xanh, trong lành, mát
mẻ. Đây đó thấp thoáng hình bóng các sa-môn áo vàng đang kinh hành hoặc tĩnh
tọa dưới các gốc cây, bờ suối. Đâu cũng vắng lặng, yên ả, thanh bình. Tâm hồn
bà dường như lặng dịu xuống. Đến một ngã rẽ, bà chợt dừng chân lại. Dưới bụi
trúc có hai vị tỳ-khưu còn rất trẻ, tuổi vừa chừng đôi mươi đang an nhiên tọa
thiền. Bà lặng lẽ quan sát “hai pho tượng tuyệt tác của hóa công”. Họ
đẹp quá! Năng lượng của tuổi thanh xuân như phát sáng nơi vừng trán, khuôn mặt
và dường như trôi chảy cuồn cuộn nơi từng cơ bắp, trong từng thớ thịt trắng
hồng! Một ý nghĩ chợt thoáng hiện trong đầu bà: “ Ôi! Tại sao? Tại sao?
Cái giáo pháp này như thế nào mà có thể lôi cuốn cả những chàng thanh niên trẻ
đẹp, phải hy sinh cả sự sống cuồn cuộn của tuổi thanh xuân đang hứa hẹn một
tương lai tươi sáng bên vợ đẹp, con xinh - để đến đây sống đời viễn ly thế tục?
Thật đáng khâm phục thay! Nhìn sự sáng rỡ của sắc mặt, nhìn sự an nhiên tĩnh
tại này - thì rõ họ đâu có bi quan yếm thế, mà ngược lại, họ đang an trú một
phúc lạc nội tâm nào đó?”. Bà quý phi xinh đẹp chợt thở dài, một hơi
thở dài rất nhẹ - chỉ như là sự lay động của một cánh hoa trong làn sương sớm.
Một tí hổ thẹn thoáng gợn trong tâm tư bà: “ Còn mình thì cứ cố mà
hưởng thụ, mà thỏa mãn cái tuổi thanh xuân!”
Bà
Khemā lần bước theo âm thanh với tám tuyệt hảo của đức Phật từ nhà giảng rộng
lớn vọng ra. Xung quanh lặng ngắt như tờ. Bà cảm thấy ở đây rõ ràng là có một
thế giới khác - mà dường như không hề lây nhiễm một hạt bụi tục lụy nào. Nội
tâm bà chợt như bắt gặp được một cái gì từ một không gian tâm linh xưa cũ? Một
không khí linh thiêng dập dờn trong ký ức mù sương?
Trong
nhà giảng, chư tăng đang nghe pháp. Đức Phật với dung nghi sáng rỡ; với ngôn
ngữ trầm, ấm, vang, ngân, sắc, gọn, mạch lạc, sáng sủa... cứ như từng đợt hải
triều âm dịu dàng vọng giữa không gian. Người, vật, cỏ cây, mây nước... dường
như bị chìm ngập, bị thu nhiếp, bị tan hòa trong biển âm thanh vi diệu ấy. Bà
cũng bị cuốn hút bởi một năng lực siêu nhiên nào đó. Bà lặng lẽ quỳ xuống trước
ngưỡng cửa nhà giảng. Phía hai bên đức Phật chợt ửng sáng, rồi từ trong đám mây
ngũ sắc, hai cô tiên nữ bước ra, dung sắc mỹ lệ, phi phàm. Bà Khemā mở lớn đôi
mắt bồ câu, sửng sốt. Đẹp quá. Cả hai vừa tuổi độ trăng tròn, trang sức xiêm y
quá sức lộng lẫy, quá sức quý phái, quá sức kiêu xa, quá sức gợi cảm, quá sức
mỹ miều... không thể có được trên thế gian này! Bà thật tủi hổ khi từ lâu đã tự
hào, kiêu hãnh bởi sắc đẹp của mình. Ôi! Năm vẻ đẹp của giai nhân trần thế - có
nghĩa gì với hai cô tiên nữ này. Đây phải là sự kết tụ tinh anh của ngàn hoa!
Đây phải là linh hồn của nữ vương sắc đẹp đang hiện thân trong vóc dáng ngọc
ngà kia - ở ngoài cả mọi ý tưởng, mọi ngôn ngữ diễn đạt! Bà Khemā lặng lẽ chiêm
ngưỡng không chán mắt. Chợt, một làn gió nhẹ lay động, một màn sương mờ thoáng
qua, có sự thay đổi nào đó trên sắc diện cùng vóc ngọc, dáng ngà của hai cô
tiên nữ. Ồ! Nó thay đổi rất nhanh! Mới đó mà đã trở thành thanh nữ rồi. Đôi mắt
hoa sen ẩn trong màu nước trong xanh vời vợi kia đã có gì đổi khác! Hai bờ môi
chín mọng đỏ hồng như quả chà là đã có pha ở đấy một chút gió, chút sương! Làn
da trắng mịn như chồi măng non đã mơ hồ có một làn mây nhạt phớt qua. Cặp nhũ
đầy đặn, căng tròn như búp sen đã bắt đầu tiêu hao nhựa sống! Cái eo thon thả
rồi nở ra cái lưng ong, cái mông ong đã có dấu hiệu chững lại! Và rồi, kìa, có
sự thay đổi rất nhanh nữa - đã trở thành thiếu phụ, lão phụ trong một thoáng
mắt! Bà Khemā bàng hoàng! Ôi! Còn đâu sắc đẹp thanh tân, trinh bạch, diễm kiều?
Còn đâu vóc dáng tơ nõn căng tròn nhựa sống? Hai cô tiên nữ kia, bây giờ chỉ
còn là hai cái xác nhăn nheo, nước da sạm đen mốc thếch và sần sùi như làn da
cóc. Răng rụng, móm mém, phều phào nước nhớt, nước dải rỉ ra từ hai bên mép;
tóc bạc lốm đốm bụi bẩn, tay chân run rẩy, cái lưng cong gập xuống như cái giàn
xay... Còn nữa, cả hai chợt ôm bụng, nhăn nhó, đau khổ, quằn quại - khuôn mặt
méo mó, mắt như lồi ra, rên rỉ thảm não... Rồi cả hai bỗng co quắp, đổ ụp
xuống, trợn mắt, ngoẹo đầu, tắt thở trong cảnh kinh hoàng, kinh khiếp... Nhìn
cảnh tượng ấy, bà Khemā tràn đầy kinh cảm, rởn cả tóc gáy, tự nói với chính
mình:“Ôi! Có gì nữa mà tự hào, hãnh diện? Ngươi đã thấy chưa, đã sáng mắt ra
chưa hỡi con Khemā si mê, ngu ngốc! Tuổi trẻ, sắc đẹp, vóc dáng thanh xuân rồi
sẽ một thoáng qua mau! Bệnh hoạn, già yếu, thống khổ, tử vong... một lúc nào đó
như cơn lũ lớn, nó sẽ cuốn trôi tất cả, phá sản tất cả, diệt mất tất cả. Hãy
thức tỉnh đi thôi!”
Đức
Phật đã biến hóa ra hai cô tiên nữ, chỉ có ngài, các bậc có thắng trí và bà
Khemā thấy - để giáo hóa người đàn bà quý phái. Đúng lúc, bà như vừa tỉnh lại
sau cơn mộng dài, đức Phật rót vào tai bà một bài kệ ngôn:
“- Này con! Này Khemā!
Hãy thấy thực cái thân
Cái thân là như vậy đấy!
Rồi nó sẽ già yếu
Rồi nó sẽ nhăn nheo
Rồi nó sẽ xấu xí
Nhớm gớm bởi tạp uế
Dầu có nâng niu, tô vẻ
Dầu có ướp hoa, xông hương
Nó cũng sẽ tàn úa và tử vong
Chỉ có kẻ thiểu trí, mê si
Mới đam luyến, ấp iu cái thân
Hãy tỉnh lại, này con!
Hãy bước vào giáo pháp
Hãy bắt đầu tu tập
Hãy nhàm chán các sắc
Hãy trú thân hành niệm
Hãy quán thân bất tịnh
Từ bỏ mọi say đắm
Cả bên trong, bên ngoài
Hãy thấy dòng bộc ái
Cuốn trôi bao chúng sanh
Con nhện tự dệt lưới
Tự mình sa vào tròng
Hãy cắt đứt buộc ràng
Hãy thoát ly ái niệm
Với đời sống xuất gia
Tầm cầu chân hạnh phúc!”
Bài
kệ vừa kết thúc, bà Khemā đi vào giảng đường bằng đầu gối rồi quỳ sụp xuống,
gục khóc lặng lẽ, không thốt nên lời. Do căn cơ sâu dày, bà đã chứng quả Nhập
Lưu. Sau đó, để cho cảm xúc lắng xuống, bà Khemā tri ân thời pháp
bất tử, tri ân phương tiện thiện xảo; với tâm đại bi, đức Phật đã cho bà uống
một liều thần dược để tỉnh giấc mộng đam mê, luyến ái cái thân bất tịnh... Cuối
cùng, bà xin được sám hối với đức Phật, với giáo pháp, với chư tăng thánh
hạnh...
-
Thôi được rồi, đủ rồi, Khemā! Như Lai xác chứng cho bà, từ nay đã rửa sạch cát
bụi trong mắt.
Trở
về hoàng cung với một con người hoàn toàn tươi mới, bà quý phi xinh đẹp tìm gặp
đức vua Bimbisāra, hoan hỷ thốt lên:
-
Thật là tuyệt vời, hiền huynh ơi!
Nhìn
vào đôi mắt rạng rỡ như có hào quang của người thiếp yêu, đức vua nói:
-
Quả là kỳ lạ quá sức! Hôm nay nàng lại gọi ta là hiền huynh?
-
Đúng vậy!
-
Thế là đã có một cuộc chuyển hóa vĩ đại sau khi hiền muội ghé
thăm Trúc Lâm đại tịnh xá - đẹp như công viên Hỷ Lâm của cõi trời Đao Lợi
chăng?
-
Hơn cả thế nữa, này hiền huynh yêu quý!
Thế
rồi, huynh muội họ tâm sự với nhau. Bà xin phép được xuất gia.
Đức vua hiền thiện chấp tay lên đỉnh đầu, tán thán:
-
Hiền muội ngỡ là đi sau ta - mà hóa ra đã đi trước một bước trong giáo pháp
thanh tịnh rồi! Ôi! Quý hóa thay! Lành thay!
Duyên xưa lối cũ
Mấy
ngày hôm sau, bà quý phi xinh đẹp đến xin xuất gia tại Ni viện trên một cái
võng bằng lưới vàng với một trăm thị nữ theo hầu, có đức vua, chánh hậu Videhi,
các quan đại thần, các vị công nương... cùng đến tham dự cuộc lễ. Đức Phật đích
thân chứng minh, các vị trưởng lão làm lễ thụ giới cho nàng trước sự chứng kiến
của Tăng Ni hai viện, triều đình cũng như hai hàng cư sĩ.
Niềm
vui thanh cao, thánh thiện làm cho khuôn mặt của đức vua như tỏa hào quang, ông
rộng tay mở kho tàng, đặt bát cúng dường suốt bảy ngày, gồm đủ mọi lễ phẩm phụ
tùy đến đức Phật và Tăng Ni - để kỷ niệm ngày mừng vui trọng đại của hoàng gia.
Đức vua hiền thiện này còn làm một nghĩa cử cao đẹp là lập bốn trại chẩn bần
bên ngoài bốn cổng thành để bố thí cho những người nghèo khổ, cơ nhỡ, già cả,
neo đơn... Ngoài ra, mọi châu báu, tư trang, tư dụng của bà quý phi đều được ủy
thác cho đức vua và hoàng hậu để kiến thiết, chỉnh trang các tịnh xá trong kinh
thành.
Sự
kiện hy hữu này, Tăng Ni cứ bàn tán mãi, chẳng rõ do nhân duyên kỳ lạ nào mà bà
quý phi chỉ nghe một thời pháp, đã có thể từ bỏ tức khắc mọi vinh hoa phú quý
thế tục để sống đời một nữ khất sĩ bần hàn!
Biết
được mối nghi hoặc trong lòng của mọi người, tôn giả Sāriputta thỉnh đức Phật
vén mở bức màn mù sương các kiếp tử sinh của bà quý phi để tăng trưởng đức tin
cho hàng tỳ-khưu hậu học. Thuận theo mọi người, đức Phật đã kể chuyện tương đối
đầy đủ, như sau:
-
Cũng là duyên xưa, lối cũ thôi, này các thầy tỳ-khưu! Bà Khemā
này có duyên căn rất thâm hậu. Kể từ thời đức Phật Padumuttara, cô sinh ra làm
một nô tỳ cho một gia chủ trong thành phố Haṃsavati. Đời sống cô rất nghèo hèn
và cơ cực. Tuy nhiên, dung sắc cô rất đẹp, diễm kiều, khả ái; nhất là mái tóc
đen dài, óng ánh, mượt mà thả xuống gót chân... Duyên may, hôm nọ, thấy trưởng
lão Sujatā - vốn là đại đệ tử của đức Phật Padumuttara - với nghi dung sáng rỡ,
với lục căn thanh tịnh đang thong dong, tự tại trì bình khất thực nơi xóm nhà
ven lộ. Phát khởi tâm tịnh tín, nhưng không có tiền, chỉ có vài xu lẻ, đủ để
mua một chiếc bánh ngọt - cô thành kính đặt bát cúng dường! Với trí tuệ, với
thắng trí, trưởng lão thoáng nhìn đã thấy, biết nhân, duyên và quả ở
cô thí chủ này, nên ngài dịu dàng cất tiếng nói:
-
Vật thí tuy nhỏ nhoi, nhưng tâm cô thành kính, tịnh tín nên nó đẹp lắm, quý
lắm! Cô có ước nguyện gì không?
-
Thân phận con bé mọn, thấp thỏi, đâu dám ước nguyện gì; chỉ mong rằng, một kiếp
nào đó, trong tương lai, có cơ duyên được đời sống xuất gia nhẹ nhàng, thanh
thoát như tôn giả vậy.
-
Cô sẽ có cơ duyên thù thắng và rồi sẽ được như nguyện.
Được
sự động viên, khích lệ như thế - nên khi nào hễ có dịp là cô lại đặt bát cúng
dường, dù chút ít nhưng không mệt mỏi, bao giờ cũng hoan hỷ và mát mẻ. Trong
một cuộc cúng dường lớn lên đức Phật và chư tăng, không biết bao nhiêu là vua
chúa, quan lại, triệu phú, doanh gia... với tiền rừng, bạc bể, lương thực, thực
phẩm như núi, thượng vị loại cứng, loại mềm... Cô rất hổ thẹn vì thấy mình
không có gì. Chợt nghĩ đến tài sản quý báu là mái tóc đẹp, hiếm có; cô gái,
không ngần ngại, cắt ngay mái tóc đem bán. Người chủ tiệm cửa hàng trang điểm,
là một con người không có lương tâm; biết mái tóc này là cực quý; nhưng nhìn
thấy cô gái nghèo hèn, thuộc giới cấp thấp cổ, bé miệng, nên chỉ trả cho hai
đồng tiền vàng mà thôi! Lại còn miệng lưỡi đãi bôi, nói là cám cảnh hoàn cảnh
của cô nên đã mua với giá rất cao! Cô gái không buồn về chuyện ấy, bèn hối hả
sắm sanh lễ phẩm để chung hội thí với mọi người!
Đức
Phật với thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm thuần tịnh siêu nhân - ngài biết tất cả
việc xảy ra. Sớm hôm ấy, đức Phật ôm bát, không dừng lại nơi chỗ phú quý của
vua chúa, không dừng lại nơi chỗ cao sang của các quan đại thần; và bỏ qua
thượng phẩm của tất cả triệu phú, doanh gia, các đại gia chủ - để đi đến nơi
mâm vật thực nghèo nàn của cô gái. Mừng đến nỗi nước mắt cứ giọt ngắn, giọt dài
- cô gái trân trọng đặt bát cho đức Thế Tôn trước hằng ngàn đôi mắt ngưỡng mộ
lẫn ghen tỵ của mọi người. Để cho phước báu của cô gái càng thêm viên mãn, đức
Phật bảo thị giả xếp gấp tấm tăng-già-lê làm bốn trải lên nền đất rồi ngài ngồi
xuống, an tĩnh, thanh tịnh độ thực ngay tại chỗ. Cô gái quỳ xuống, chấp tay hầu
một bên.
Đặt
bát cho chư tăng đại chúng xong, mọi người quây quần lại xin cô gái chia phước.
Cô vui mừng lắm, nhưng không biết chia phước ra làm sao. Đức Phật mỉm cười, ân
cần dạy rằng:
-
Con thành kính chấp tay lên, đặt ngay nơi chỗ trái tim của mình - làm thế nào
để cho ngôn ngữ, tâm hồn và ý nghĩ kết hợp làm một, rồi nói như thế này: “ Tôi
rất hoan hỷ, đại hoan hỷ chia phước đến cho tất thảy mọi người”. Con
biết tại sao không? Phước như ngọn đèn. Con đang có một ngọn đèn sau khi cúng
dường đến Như Lai. Ngọn đèn ấy, nếu con cho một trăm người thắp, ngàn người
thắp thì ánh sáng đèn cứ thế mà lan tỏa ra mãi; nhưng ngọn đèn trong tay con
vẫn không hao hụt, không suy suyển một chút nào. Nó vẫn nguyên vẹn!
Thế
rồi, sau khi cô gái chia phước, mọi người đồng rân hô lớn, lành thay, làm cho
cả đại địa và các tầng trời cũng phải rung rinh.
Vị
đại vương chí tôn kinh thành Haṃavatī nghe chuyện cô gái, rưng rưng cảm động,
xiết bao thương quý - chiều ấy, cùng hai thị vệ, hỏi đường, tìm đến
thăm tận nhà. Ngạc nhiên thấy cô gái đẹp quá, lại ở trong cái chòi rách nát với
một cậu em trai. Đức vua trẻ thấy trái tim rung động, không muốn giấu giếm thân
phận mình, nói thật với cô gái và muốn rước cô gái về cung. Cô gái thấy chàng
trai cao sang, tuấn tú cũng nghe lòng mình bồi hồi, xao xuyến. Có gì lạ đâu, họ
đã từng là vợ chồng trong nhiều kiếp quá khứ rồi! Lạ thay, khi cô gái vừa cúi
đầu xuống, hổ thẹn, ngầm ý chấp thuận thì mái tóc của cô ta dài ra như cũ. Đức
vua trố mắt nhìn. Chỉ có đức Phật và các bậc có thắng trí mới biết phép lạ ấy
có được là bởi Đế Thích thiên chủ. Hôm ấy, khi cô gái cắt bán mái tóc thanh
xuân, mua vật thực cúng dường đức Phật và được đức Phật thọ nhận rồi độ thực ngay
tại chỗ - thì tại Đao Lợi thiên cung, tảng đá vàng làm ngai ngồi của ông chợt
nóng ran lên. Đây là dấu hiệu, lúc nào tại nhân gian có ai đó làm phước, mà
phước báu ấy rất cao thượng, lúc trả quả, có thể thắng trội, vượt trội - có thể
chiếm lĩnh ngay cả ngai vàng của ông ta. Dùng thiên nhãn ngắm nhìn, Đế Thích
thấy biết ngay, nên ông đã ra tay ban chút phép mầu cho cô gái được lấy lại mái
tóc đẹp của mình trước khi se duyên về cung với đức vua! Sau đó, cô gái được
vua phong làm quý phi, sống một cuộc đời yên ấm, vương giả.
Một
lần nọ, khi thấy đức Phật tuyên dương một tỳ-khưu-ni sáng chói đệ nhất về trí
tuệ, bà đã ước nguyện sau này sẽ sở đắc như vậy. Và đức Phật Padumuttara đã thọ
ký cho bà được như nguyện.
Hết
kiếp sống ấy, do nhờ tâm tịnh tín và phước báu thù thắng ấy, cô ta luân chuyển
trong các cõi trời và người với hạnh phúc sang cả và thù thắng, luôn là hoàng
hậu, chánh hậu, vương phi các vị vua trời và các đức Chuyển luân Thánh vương.
Đến
thời Phật Vipassī, bà được xuất gia trong giáo pháp này, được nổi tiếng là một
tỳ-khưu-ni có trí phân tích với ngữ ngôn tinh tế, trong sáng kiêm cả tài hùng
biện.
Đến
thời Phật Kakusandha, cô thác sanh trong một gia đình cự phú, biết bố thí, trì
giới, có đức tin thiêng liêng với Tam Bảo, đã xây dựng một trú xứ vĩ đại, khang
trang, đẹp đẽ để cúng dường đến đức Phật và mấy chục ngàn tăng chúng có chỗ
tĩnh cư.
Đến
thời Phật Koṇāgamana, tâm tịnh tín và sự bố thí cúng dường của cô vẫn đi theo
ước nguyện cũ, vẫn là những đại tịnh xá, đại lâm viên cho đức Phật và giáo hội.
Đến
thời Phật Kassapa, bà tên là Samanī, là trưởng công chúa con đức vua Kikī nước
Kāsi, kinh thành Bārāṇasī - đã khẩn khoản xin xuất gia nhưng không
thuận duyên, do hai thân không cho phép. Thế là bảy chị em, gồm Samanī,
Samaṇagutta, Bhikkhunī, Bhikkhudāyika, Dhammā, Sudhammā và Saṅghadāyika sống
trong những cung điện nguy nga tráng lệ. Tuy nhiên, do căn tu nhiều đời, họ
thường hay đi nghe pháp, sống rất có giới hạnh và bố thí cúng dường không mệt
mỏi...
Này
các thầy tỳ-khưu, đừng tưởng vị trưởng công chúa Samanī ấy là ai, chính là bà
Khemā hiện nay đấy. Do nhân duyên nhiều đời như vậy, một thời gian sau, chắc
chắn bà sẽ đắc quả A-la-hán, đồng thời sẽ sở đắc tất cả mọi thành tựu từ ước
nguyện cũ. Ngoài những thắng trí, ngôn ngữ, biện tài, tỳ-khưu-ni Khemā sau này
sẽ là bậc trí tuệ đệ nhất trong hàng Ni chúng. Tự bà sẽ lấy lại phẩm vị từ ước
nguyện xưa của mình - khi quỳ dưới chân đức Phật Padumuttara, đã được ngài hứa
khả - vào thời giáo pháp hiện nay của Như Lai!
Đại
chúng thở phào, nhẹ nhõm - và thế là đức tin, thêm một lần nữa được xác lập,
được củng cố, tăng trưởng.
-
Thế sáu vị công chúa đã từng nghe pháp, bố thí, cúng dường, sống rất có giới
hạnh thuở ấy - họ lưu lạc phương trời nào, cảnh giới nào rồi, bạch đức Thế Tôn?
Đức
Phật mỉm cười:
-
Lại duyên xưa, lối cũ mà về. Họ đang có mặt đầy đủ ở đây cả
rồi!
Đại
chúng ngơ ngác. Có người, bất giác đưa mắt nhìn ngược, nhìn xuôi!
Đức
Phật lại tiết lộ bí mật một chút:
-
Đời này, họ đã sanh ra, và trước sau họ đều tao ngộ trong giáo pháp. Riêng cô
công chúa út, rồi các thầy sẽ gặp thôi, không lâu đâu!
Đại
chúng thỏa mãn vì câu chuyện hay ho, cảm động ấy; và ấn tượng mà họ ghi nhớ
nhất - là cô gái nghèo khổ đã tự cắt bỏ mái tóc thanh xuân của mình, đem bán để
mua thực phẩm cúng dường!
Lúc
mọi người giải tán hết thì tôn giả Ānanda cứ lẽo đẽo theo sau tôn giả Mahā
Moggallāna để hỏi cho kỳ được 6 cô công chúa còn lại là ai, tên là gì, hiện họ
đang ở những đâu?
Tôn
giả Mahā Moggallāna biết rất rõ như sau: “Samaṇagutta xưa, bây giờ là
Uppalavaṇṇa; Bhikkhunī xưa, bây giờ là Paṭācārā; Bhikkhudāyika xưa, bây giờ là
Kuṇḍalā; Dhammā xưa, bây giờ là Kisā-Gotamī; Sudhammā xưa, bây giờ là
Dhammadinnā” - nhưng ngài chỉ cười, khẽ nói:
-
Đức Thế Tôn chưa kể câu chuyện còn lại - là có lý do của ngài - tôi là ai mà
dám bước qua giới hạn ấy? Hiền hữu chỉ cần biết rằng, họ đều còn đang lưu lạc ở
trong đời, còn đang nếm đủ mọi mùi vị ngọt ngào cũng như đắng cay của cuộc
sống, khi chưa dứt nghiệp. Nhưng sau này, họ đều là những vị tỳ-khưu-ni đạo cao
đức trọng, sáng chói trong rừng Ni chúng! Đức Phật không đã từng dạy từ đầu,
rằng là, ai nấy đều cứ theo duyên xưa, lối cũ mà về, đó
sao!
Nói
thế cũng bằng không! Tôn giả Ānanda xịu mặt xuống, trông sao mà dễ thương, dễ
mến đến vậy!
Thần thông cảm hóa ngoại đạo
Ít
hôm sau thấy thời tiết khô nhẹ, đức Phật bàn giao công việc ở Trúc Lâm cho một
số các vị trưởng lão, ngài và đại chúng tỳ-khưu lại làm một chuyến du hành về
phương Bắc. Ngài lần lượt theo đường bộ hành thương mãi đến thị trấn phồn vinh
Pāṭaligāma, vượt sông Gaṅgā đến Vesāli, ghé thăm Mahāvana. Tại Sảnh Đường Nóc
Nhọn, đức Phật ở lại đây mấy hôm để giáo hóa chúng Tăng Ni hai viện. Ngài lại
phải chế định tạm thời một số giới điều để đối trị những xấu ác phát sanh. Có
những việc thật không đáng, nhất là tại Ni viện, khi các trưởng lão Ni về an cư
tại Trúc Lâm. Ai ngờ có những cô ni lại tích trữ tỏi, tích trữ dầu ăn, tích trữ
một số cao mỡ làm đẹp da, tích trữ dù, dép... Từ khi bà kỹ nữ Ambapālī được đức
Phật cho phép hộ độ Ni viện thì khuôn mặt và sinh hoạt ở đây có nhiều thay
đổi. Hễ thấy Ni chúng cần gì thì bà cho xe chở đến. Nhất là vải vóc
– vì chư ni ít khi có đủ năm y [i] để thay đổi. Thế là có người tích trữ vải,
sử dụng rộng rãi cho mình rồi còn câu dụ tặng cho người khác để nhờ vả hoặc
trao đổi chuyện gì đấy! Đôi khi chỉ là sai vặt hoặc giặt y bát giùm, đi bát
giùm...
Dịp
này, bà kỹ nữ Ambapālī xin được xuất gia tỳ-khưu-ni. Đức Phật đã đích thân làm
lễ cho bà thọ cụ túc giới có sự tham dự đông đảo của các hàng trưởng lão. Bà
khởi tâm cúng dường đặt bát suốt bảy ngày, đầy đủ những vật dụng phụ tùy đến
Tăng Ni hai viện...
Rời
Mahāvana, thấy Vesāli thịnh vượng, đời sống chư Tăng Ni đã đi vào ổn định, đức
Phật lần lượt ghé qua tiểu bang Videha, Moriya, Malla... thì gặp lại các trưởng
lão Kāḷudāyi, Bhaddiya, Devadatta... đang du hóa ở vùng này. Đức Phật ân cần
thăm hỏi. Thấy ai cũng sạm đen, phong trần nhưng toát ra sự trưởng thành, chững
chạc. Đức Phật quan tâm Devadatta nhiều nhất – vì ông ta tuy có ngũ thông, có
một hội chúng đệ tử đông nhất - nhưng chưa bước vào dòng thánh đạo.
-
Đệ tử sẽ cố gắng, thưa đức Tôn Sư! Devadatta nở nụ cười có vẻ mãn
nguyện – Tuy không thể so sánh với các vị huynh trưởng, nhưng đệ tử
hoằng pháp cũng có được một chút lợi ích, được một vài thành quả khiêm tốn!
-
Hãy nhớ đấy, Devadatta! Khi chưa vào dòng thì bất cứ năng lực thù thắng nào rồi
cũng sẽ bị thối thất!
Lên
đường rồi, đức Phật mới nói với hai vị đại đệ tử:
-
Hãy tìm cách giúp đỡ Devadatta! Ông ta mà có đệ tử và đồ chúng đông chừng nào
thì những kiết sử, tùy miên chúng sẽ khởi phát, sẽ duyên sanh chừng đó! Hiện
tại ông ta đang tự đắc, tự mãn đấy!
Đức
Phật mới đến được địa phận nước Koliya thì tin ngài sẽ trổ pháp lực thần thông
đã bay đến Sāvatthī rồi! Mọi giới xôn xao bàn tán. Và cao độ nhất là sáu phái
ngoại đạo từ Vương Xá lũ lượt theo chân đức Phật, qua Vesāli, kéo thêm đệ tử và
chúng đồ ở đây, rồi rầm rộ lên phương Bắc. Chuyện đức Phật nói chuyện sẽ trổ
pháp lực thần thông vào rằm tháng Āsāḷha [ii] tại Sāvatthī trên cây Kaṇḍamba đã đến tai
họ. Chuyện dễ hiểu thôi. Đức vua nói chuyện với vài viên cận thần thân tín, các
vị này cũng chỉ nói nhỏ, nói lại với vài người quen - thế rồi, chuyện thêm mắm,
thêm muối lan vào tai mọi người còn nhanh hơn gió chuyển. Một vài vị giáo chủ
hoặc đệ tử lớn của họ với tâm địa không được tốt, sợ tổn hại uy tín cho giáo
phái của mình nên đã tìm cách ngăn chặn. Khi nghe đức Phật sẽ trổ thần thông
trên cây Kaṇḍamba – họ chưa biết rõ là cây gì – nên đã cho một số thuộc hạ
nhanh chân đến Sāvatthī liên lạc với các giáo phái ngoại đạo ở đây để nhờ họ
tìm hiểu. Các vị hiền triết, học giả thông thái nói rằng, cả kinh thành
Sāvatthī không có cái cây nào được gọi là Kaṇḍamba cả. Tuy nhiên, có một nhà
ngôn ngữ học dè dặt và cẩn trọng nói rằng:
-
Sa-môn Gotama là bậc thông tuệ. Tuy nhiên, tôi chưa được nghe chính xác qua lỗ
tai của mình về cái từ ấy – nên tôi chưa dám quyết đoán. Nếu đúng là Kaṇḍamba
thì không có tên cây ấy, chủng loại, họ hàng cũng không. Nhưng nếu “gượng” mà
chiết tự ra – thì ta có Kaṇḍa và amba. Kaṇḍa có nghĩa là cong, là một phần,
cọng, nhánh. Amba là cây xoài. Vậy Kaṇḍamba có thể là cây xoài cong đặc biệt
nào đó hoặc một nhánh, một phần của cây xoài vĩ đại nào đó! Đây chỉ là một gợi
ý thô thiển và què quặt, xin chư vị cứ nghiên cứu!
Kiến
giải thận trọng của nhà ngôn ngữ học là đúng, là tốt nhưng đưa đến hậu quả vô
cùng tai hại. Suốt thời gian sau đó, đồ chúng ngoại đạo đi lùng sục khắp kinh
thành, hễ thấy cây xoài nào to lớn, cong, đặc biệt là chúng đốn bỏ, chặt phá
hết. Nếu đụng đến vườn xoài của các danh gia vọng tộc, phú hộ, người tai mắt...
là chúng xin mua, bồi thường hoặc hăm dọa nếu không thỏa nguyện. Hành động ấy
quả thật là thô lỗ, đầy bạo lực ngu ngốc, đáng thương xót thay!
Cơn
bão chặt xoài tràn qua kinh thành – thì Tăng chúng Kỳ Viên cũng bàng hoàng, ngơ
ngác, không hiểu chuyện gì. Hai hàng cư sĩ áo trắng tìm đến Kỳ Viên thưa hỏi
các vị trưởng lão nguyên nhân và sự thật. Hoàng thân Kỳ-đà và trưởng giả Cấp Cô
Độc cũng cảm giác bất an! Một bậc có thắng trí và không còn lậu hoặc đành phải
ân cần phủ dụ:
- Chư vị
hãy an tâm. Không những an tâm mà còn sẽ được chứng kiến oai lực vô song của
đức Chánh Đẳng Giác nhiếp phục ngoại đạo.
Mọi
người thở phào.
Trưởng
giả Cấp Cô Độc tò mò:
-
Vậy cây Kaṇḍamba là cây gì? Có phải là những cây xoài mà chúng ngoại đạo đang
chặt phá, đốn bỏ không?
-
Ừ! Họ đúng một nửa! Cũng là cây xoài, nhưng cây xoài mà đức Phật sử dụng thần
thông ấy, chưa có mặt trên thế gian này!
Nói
vậy xong là vị ấy cười cười bỏ đi vì “thiên cơ bất khả lậu” mà!
Đức
Phật và đại chúng đã ghé Kỳ Viên trước mùa an cư sáu ngày. Buổi sáng, ngài và
Tăng chúng đi khất thực một vòng quanh thành Sāvatthī (Xá-vệ), xem
như không có gì xảy ra. Buổi chiều ngài thuyết pháp cho hai hàng cư sĩ tại
giảng đường, buổi tối dành cho hội chúng tỳ-khưu. Khuya, canh hai, Thiên chủ Đế
Thích, Tứ đại thiên vương cùng với thiên chúng đoanh vây đến để nghe pháp.
Khuya nữa là phạm thiên, phạm chúng thiên. Khu rừng Kỳ Viên sáng rực một góc
trời, đêm này sang đêm khác như thế.
Khi
ngoại đạo cho xây dựng từ nơi này sang nơi khác những cái đài cao rộng, bề thế
với vẻ lộng lẫy đầy ngổ ngáo, phô trương... thì đức Phật không làm gì cả. Một
vài đệ tử lớn của họ có vẻ nóng nảy, bồn chồn, hỗn láo, tuyên bố rằng: “Ông
sa-môn Gotama bỏ cuộc rồi, không dám thi đấu thần thông! Vậy thì hãy cút xéo
đi!” Một số vị tỳ-kheo còn phàm tục bực tức không chịu nổi, đến đảnh lễ
chư vị trưởng lão, xin cho biết hư thực. Tôn giả Mahā Moggallāna (Đại
Mục-kiền-liên) mỉm cười: “Các ông yên trí đi! Hãy nói với
chúng rằng, đúng ngày rằm tháng sáu, đức Tôn Sư sẽ biểu diễn thần thông lực ở
nơi cây Kaṇḍamba!” “Nhưng chúng chặt hết rồi mà!” “ Chưa, cây ấy
đức Tôn Sư chưa trồng!” Nói vậy cũng bằng không! Họ đến vây quanh tôn
giả Sāriputta (Xá-lợi-phất). Tôn giả mỉm cười chỉ qua ngài
Mahā Kassapa (Đại Ca-diếp); rồi cứ thế, các vị thượng thủ
A-la-hán chỉ quanh. Cuối cùng, một vị sa-di A-la-hán có năm thắng trí, tuyên bố
rằng: “Rất tiếc, đức Tôn Sư đã cấm chỉ, chứ trong hàng đệ tử, không
phải một, không phải hai, mà hằng trăm, hằng ngàn đệ tử cháu chít của ngài cũng
thừa khả năng hí lộng thần oai nhiếp phục ngoại đạo!”
Chiều
hôm đó, đức Phật mới chính thức tuyên bố:
-
Đúng như con trai nhỏ tuổi của Như Lai đã nói. Vậy thì vào buổi sáng ngày mười
lăm, trên cây Kaṇḍamba, trước cổng thành kinh đô Sāvatthī, Như Lai sẽ biểu diễn
thần thông ở đấy!
Đến
ngày, Đức Phật và hội chúng tỳ-khưu vẫn đi trì bình khất thực như thường lệ.
Sau khi đi qua một số ngã đường, vật thực vừa đủ dùng, đức Phật hướng về cổng
kinh thành Sāvatthī. Trên và dưới các đài cao chỗ này chỗ kia, các giáo phái
ngoại đạo tập trung dày đặc người. Còn hai hàng cư sĩ và dân chúng, sau khi đặt
bát cho đức Phật và Tăng chúng thì họ liền kéo nhau đi ở bên sau. Nhà nhà đóng
cửa. Chợ không đông. Ôi! Cả rừng người. Cả biển người.
Khi
đức Phật càng tiến dần từng bước chân một đến cổng kinh thành thì ngoại đạo và
dân chúng càng tò mò, hồi hộp theo dõi. Vì rõ ràng, trước cổng kinh thành có
hai cây xoài to thì ngoại đạo đã chặt rồi, hiện chẳng còn cây nào. Riêng vườn
xoài của hoàng gia thì chúng không dám, vả lại, chúng không phải là trước
cổng!
Đến
gần cổng kinh thành, tại một khoảng trống, đức Phật dừng chân lại. Và cách
đứng, cách ôm bát của ngài như có vẻ chờ đợi ai đó đặt bát? Và quả đúng thế.
Sáng sớm nay, người trông coi vườn xoài của đức vua Pāsenadi (Ba-tư-nặc) phát
hiện trong vườn xoài một trái xoài chín, to, rất đặc biệt, thơm lừng! Ông hái
trái xoài ấy, đựng trong giỏ tre có lót rơm, định đem dâng cho đức vua
Pāsenadi. Ông không biết việc gì đang xảy ra ở xung quanh. Khi hối hả bước ra
khỏi vườn xoài thì trước mắt, ông trông chư Tăng vàng rực như một đám mây vàng.
Thấy đức Phật ôm bát đứng, ông ta suy nghĩ rất nhanh: “Nếu dâng cho vua
thì mình được khen thưởng ngay tức khắc năm bảy đồng vàng gì đấy! Quý báu gì!
Ăn là hết liền! Chi bằng dâng cho đức Phật mình sẽ được nương tựa phước báu nhiều
đời!” Nghĩ là làm liền, ông thành kính đặt trái xoài quý báu kia vào
bát cho ngài!
Trước
hằng ngàn cặp mắt đang chăm chăm quan sát, đức Phật bảo tỳ-khưu Nāgita [iii] thị giả trải tọa cụ giữa nền đất rồi an nhiên
ngồi xuống tại chỗ. Ngài lại bảo tôn giả Sāriputta thông báo với đại chúng là
tùy nghi thọ trai ngay tại đây. Đức Phật thọ dụng trái xoài, trao hạt xoài cho
người làm vườn, ngài nói:
-
Này Kaṇḍa! Trong cái giỏ của ông có một con dao, hãy dùng cái dao ấy, đào một
cái lỗ rồi đặt hạt xoài này vào đấy!
Không
biết chuyện gì nhưng người làm vườn vẫn nghe lời. Sau đó, đức Phật rửa tay, rảy
nước lên hạt xoài vừa gieo rồi nói:
-
Này đại chúng tỳ-khưu! Người làm vườn này có tên là Kaṇḍa, ông ta đích thân
gieo một hạt xoài (amba); vậy cây xoài này có tên là Kaṇḍamba.
Và hãy xem! Điều Như Lai nói là đúng với sự thực! Như Lai sẽ hiển lộ thần thông
lực ngay tại cây xoài Kaṇḍamba này!
Tin
được lan đi, mọi người đổ xô quây quần lại, hóa ra cái cây có tên Kaṇḍamba là
như thế này đây! Các vị có thắng trí thì do biết rồi nên họ chỉ mỉm cười. Riêng
chư tăng không có thắng trí thì tò mò, ngạc nhiên, chăm chú nhìn! Đức vua
Pāsenadi mấy hôm trước cũng đã nghe tràn tay về chuyện chặt xoài; và triều thần
cũng đã bàn tán về câu chuyện của sáng hôm nay. Thế là, khi đức Phật tuyên bố
về tên cây xoài thì đức vua Pāsenadi cùng các quan cũng đã đứng chật vòng
trong, vòng ngoài xem chuyện lạ.
Ngay
lúc ấy, hạt xoài nẩy mầm, đất nứt, một chồi cây trắng nõn vươn lên, gặp ánh
nắng nó trắng xanh, xanh non, xanh biếc... vươn lên, thành cây, có cành, có
nhánh, có lá xanh mơn mởn, xanh nhạt, xanh đậm. Rồi cứ thế, trước mắt mọi
người, cây xoài chợt biến hóa như trò ảo thuật. Cây xoài đã lên cao chừng 50
cùi tay, cội cành gân guốc... to lớn chưa từng thấy; rồi nó đơm hoa, nẩy trái
dầy đặc, chín mọng, thơm lừng cả một vùng!
Cả
không gian lặng ngắt, rồi tiếng mừng vui la hét rầm trời: Mọi người tán thán,
ca tụng thần thông lực của đức Thế Tôn! Đức vua Pāsenadi bước ra, ôm tay xá lễ:
-
Nghe tiếng sa-môn Gotama đã lâu nay tôi mới được hân hạnh diện kiến ngài - Chăm
chú nhìn đức Phật một hồi, đức vua mỉm cười tiếp - Nghi dung, tướng mạo của
ngài, đẹp quá, cao sang, quý phái quá - phải là hiện thân một đức Chuyển luân
Thánh vương mới đúng!
-
Đại vương đã quá khen! Rồi chỉ cây xoài, đức Phật tiếp – Bao nhiêu cây xoài lớn
trong kinh thành, một số người thiểu trí đã chặt phá hết – nay Như Lai sẽ tặng
lại cho đại vương, kinh thành, quốc độ một gốc xoài quý nhất, ngon thơm nhất –
có tên là Kaṇḍamba - hãy nên gầy giống nó để ươm trồng các nơi, đem lại lợi lạc
cho nhiều người, cho các giai cấp, cả giới cùng đinh trong xã hội nữa - không
nên phân biệt - vì họ cũng đều là thần dân của ngài, thưa đại vương!
Đức
vua và triều thần đều cảm kích, cung kính gật đầu, tuân mệnh.
Chuyện
kể rằng, sau đó, tại cây xoài này, rất nhiều cận sự Nam nữ hai hàng xin phép
đức Phật được sử dụng thần thông, như cận sự Nam Cūla Anāthapiṇḍika (Em
ruột của trưởng giả Cấp Cô Độc), cận sự nữ Gaharaṇīnandamātā - đều là
bậc Bất Lai (Anāgāmī- A-na-hàm)-nhưng đức Phật không cho phép! Rồi
sau đó, đức Phật đã sử dụng thần thông làm một chiếc cầu bằng ngọc nằm vắt
ngang giữa hư không, biểu diễn thần thông biến hóa [iv], thần thông Yamaka [v], thần thông Lokavivaraṇa [vi], và cuối cùng là thần thông với hào quang sáu
màu rất lạ lùng, rất diệu kỳ, cũng chỉ năng lực của bậc Toàn Giác mới thực hiện
được [vii]! Chúng ngoại đạo thấy oai lực vô biên, vô tận,
bất khả tư nghì của đức Phật, thật không có chỗ nào để lòe bịp được nữa; nên họ
đã lẳng lặng xếp cờ, im trống rồi cũng lẳng lặng giải tán, rút lui. Hai hàng
cận sự Nam nữ thì họ hí hửng, hãnh diện, mừng vui ra mặt, đem câu
chuyện chứng kiến tận mắt ra khoe với láng giềng, quyến thuộc, bằng
hữu. Chư phàm Tăng thấy mình tăng trưởng thêm đức tin. Quần chúng thì
hẹn nhau đến quy giáo với giáo đoàn nhiều thần thông, lắm oai lực –
có vị giáo chủ sa-môn Gotama vô song! Riêng đức vua Pāsenadi lẳng lặng đến gần
đức Phật, hoan hỷ thốt lên:
-
Quốc độ này xin được hân hạnh chào ngài!
Đức
Phật tế nhị nắm tay đức vua:
-
Sau này, Như Lai còn phải cậy nhờ đến uy đức của một bậc minh quân, vì lợi lạc,
vì hạnh phúc, vì sự an vui cho nhiều người!
Đức
vua Pāsenadi khách sáo nói:
-
Thật không dám đâu, thưa ngài!
Trong lúc ấy, thế gian không biết - chứ thiên chúng, thiên vương,
phạm chúng, phạm thiên... ngự đầy đặc cả không gian tấu nhạc, tung hoa, rải
hoa.. hoan hỷ cúng dường hiện tượng hy hữu.
[i] Tăng 3 y, nhưng Ni phải 5 y: Nội, ngoại,
lót (samkacchika - yếm), y tắm và y hai lớp để đắp.
[ii] Khoảng tháng 6, 7 ta.
[iii] Đức Phật có 5 thị giả chưa chính thức thay
đổi nhau, đó là Nāgasamāla, Nāgita, Sunakkhatta – hoàng tử dòng vua nước cộng
hòa Licchavī - Sāgata, Meghiya. Tôn giả Ānanda chỉ được đề cử chính thức vào hạ
thứ 20 tại Kỳ Viên Đại tịnh xá.
[iv] Trên chiếc cầu ngọc, ngài kinh hành qua
lại, lần lượt hiện ra một vị đang đi, một vị đang thuyết pháp, hai vị đang vấn
đáp, một vị đang tọa thiền, một vị đang nằm nghỉ nghiêng lưng, một vị đang đưa
tay sờ mặt trời, mặt trăng. Rồi thoáng chốc, hằng trăm ngàn vị Phật với những
oai nghi hoàn toàn khác nhau đồng hiện hữu...
[v] Tức là thần thông song đôi, song hành.
Thần thông này chỉ có vị Chánh Đẳng giác mới thực hiên được, vì trong một lúc
phải nhập định hai đề mục nước và lửa một lần. Khi hiển lộ, thân trên tỏa lửa,
thân dưới tuôn nước, và ngược lại. Hoặc mắt trái là lửa, mắt phải là nước và
ngược lại. Lỗ mũi trái phun lửa, lỗ mũi phải phun nước, và ngược lại. Tương tợ
thế là vai phải, vai trái, tay phải, tay trái, chân phải, chân trái, mười ngón
tay, mười ngón chân, lông chân...
[vi] Tức là một loại thần thông mở ra cho mọi
người nhìn thấy tất cả thế giới không ngăn ngại. Theo chú giải, sau khi đức
Phật nhập định đề mục màu trắng (odāta), rồi với năng lực đi đôi với nguyện lực
như ý muốn: Tất cả thế giới bên trên, từ cõi người đến cõi phi tưởng, hiện ra
rõ mồn một. Cõi người nhìn thấy tất cả các cõi trên và ngược lại, các cõi khác
cũng y như thế. Mọi sinh hoạt, chánh báo, y báo ở mỗi nơi; rồi lâu đài, dinh
thự, hồ nước, vườn hoa, xe kiệu, lạc thú như thế nào đều trông thấy cả. Các cõi
dưới, bốn khổ xứ, nhất là 08 tầng địa ngục chính và phụ; những khổ hình đồng
sôi, vạc dầu, hố đao, chậu máu, cưa xẻ... quỷ sứ gì gì cũng nhìn thấy như ở
trước tầm mắt. Và các cõi khác nhìn thấy nhau cũng y như thế.
[vii] Hào quang màu xanh – tỏa ra từ
tóc của ngài. Hào quang màu vàng – tỏa ra từ màu da và tròng mắt. Hào quang màu
đỏ - tỏa ra từ máu và thịt. Hào quang màu trắng - tỏa ra từ xương và răng. Hào
quang màu hồng - tỏa ra từ hai lòng bàn tay và hai lòng bàn chân. Hào quang
tổng hợp năm màu chói sáng rực rỡ (Pabhassara) - tỏa ra từ mỗi sợi lông, mỗi
móng tay, móng chân!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét