2. Mấy vấn đề chung quanh việc tiếp cận tư tưởng và nghệ thuật
đương đại - Phác thảo phân tích nguyên nhân khủng khoảng cùng triển vọng giải
pháp
Sự sụp đổ của các mô hình và phương thức triển khai các hoạt
động văn học nghệ thuật trong bối cảnh đảo lộn giá trị đã qua, tất nhiên đòi hỏi
con người phải đẩy xa hơn nữa những nỗ lực suy tưởng, kiếm tìm. Mỗi hướng lạ mở
ra sẽ là một cuộc phiêu lưu mới, mà không ai biết trước được kết quả. Song, thực
tế cho thấy - đối với những ngôn từ và khái niệm lưu chuyển đó đây về cách tiếp
cận hậu hiện đại như một «liệu pháp» đa năng trị khủng khoảng -, có
nhiều ngộ nhận hoặc vội vàng đáng tiếc trong lãnh hội lẫn hành động, dẫn tới một
số khẳng định thiếu cơ sở, cần được làm sáng tỏ. Mặt khác, Mỹ học - cùng với khả
năng sáng tạo vô biên của con người - sẽ không bao giờ chịu bó tay, lùi bước.
Nó thừa hưởng thành quả tư duy ở mỗi chặng đường và chấp nhận những thử thách
gay go của thời đại.
Một vài nhầm lẫn thường gặp
Thất vọng trước sự xuống dốc - và thậm chí bế tắc - của nhiều
bộ môn nghệ thuật như đã nói trên, con người dễ bị mê hoặc bởi những từ ngữ mới,
thường được nhìn như khả dĩ chứa đựng những khái niệm tân kỳ, hứa hẹn: đó là
trường hợp của thuật ngữ hậu hiện đại.
Ở đây, ta sẽ không trở lại định nghĩa và sự ra đời của nó, mặc
dù những sai lạc thường gặp, bởi vì - một mặt - điều đó không thuộc chủ đích
bài này và - mặt khác - có lắm tác giả đã làm rồi, tuy với những mức độ thành
công nhiều ít khác nhau (mà trường hợp Ngân Xuyên [Phạm Xuân Nguyên] - ở Việt
nam - chẳng hạn, là đáng cổ võ qua việc ông đã thẳng thắn đính chính điều không
đúng trong bài viết của một người khác130).
Nhìn kỹ ra, không phải chỉ riêng giới cầm bút người Việt mới
có thể ngộ nhận trong lãnh vực này mà ngay cả một Alain Finkielkraut tên tuổi ở
Pháp cũng vậy, như khi ông cho rằng hệ tư tưởng hậu hiện đại «bị giam hãm
trong tất cả những thứ trừu tượng hóa (captive de toutes les abstractions)»
và chỉ có «thi, văn với những tác phẩm cổ điển của nó mới có thể giúp ta nối lại
mối liên hệ với thế giới khả sắc (la littérature, la poésie et ses classiques,
peuvent encore nous aider à renouer un lien avec le monde sensible)120»!
Trừu tượng hóa, dĩ nhiên, là mẫu số chung của các hoạt động
tinh thần, nhưng không hề là trọng điểm hay đặc trưng của chủ nghĩa hậu hiện đại,
mà ngược lại -: trào lưu này dứt khoát giã từ thế giới trừu tượng thuần
lý, đoạn tuyệt với nhãn quan đồng nhất hóa, với tư duy phổ quát luận, để đi sâu
vào từng cái đặc thù cụ thể. Nó đánh đổi cái khả tri để thỏa chí đắm mình trong
miền khả sắc. Nó cố ý xóa nhòa những lằn ranh quy ước rào cản - thời gian,
không gian và thậm chí cả tập tục, cộng đồng văn hóa - để vinh danh cuộc hôn phối
giữa các loại hình, phong cách nghệ thuật, để khuôn mặt nhân văn được thơi thới
nét trào lộng, châm biếm hoặc khôi hài.
Tại sao phải khôi hài? Bởi vì sứ mạng của nghệ thuật, nói
cho cùng, cũng chẳng có gì khác hơn là đem lại cho nhân loại nụ cười dưới
nhiều góc độ, dạng thức khác nhau. Trong hoàn cảnh đó - trên bậc thang trào
phúng nhân loại - còn có mức nào cao hơn mức tự trào? Văn nghệ hậu hiện đại,
bằng tham vọng và thủ pháp diễu nhại đặc thù của nó, rõ ràng nhắm thẳng vào
đích ấy: tự lấy mình làm đối tượng khôi hài. Điều đó thể hiện một sự trưởng
thành nhất định về mặt tư tưởng cũng như nghệ thuật, mạnh dạn quay lưng lại với
con đường thuần lý đã quá xưa cũ.
Và như vậy, câu nói của A. Finkielkraut phải chăng rất có thể
chỉ phát xuất từ một sự nhầm lẫn với tên gọi biểu hiện trừu tượng (expressionnisme
abstrait) của một trường phái nghệ thuật tiền phong nổi tiếng, hiện vẫn còn tiếp
tục gợi hứng cho một số họa sĩ đương đại (qua action
painting vàcolorfield painting)?
Trở lại với vấn đề thuật ngữ, sự lẫn lộn thường thấy về nội
dung các cụm từ tận cùng bằng ba chữ «hậu hiện đại» đòi hỏi ta phải
hết sức thận trọng để nắm được những khác biệt cơ bản nằm ở phía sau: chẳng
hạn giữa «triết học hậu hiện đại» và «triết lý của chủ
nghĩa hậu hiện đại»131, giữa chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernisme)
so với tính hậu hiện đại (postmodernité) 132. Thậm chí, lại còn
phải đi vào từng bộ môn một (kiến trúc133, âm nhạc134, văn chương135) mới nhận
được ra rằng ngay cả tính chất hậu hiện đại của chúng cũng không giống nhau nốt.
Đó là chưa nói đến việc bản thân nội dung hậu hiện đại hiểu theo kiểu Pháp cũng
có phần khác với cách diễn giải kiểu Anh Mỹ136 (và thường lại còn tùy thuộc
vào cả tác giả nữa): thêm một bằng cớ cụ thể về tính phức tạp rất ư... hậu hiện
đại của những khái niệm đương thời137!
Trước «mê hồn trận» đó, chả trách là đã có những «trao
đổi» khá «sôi nổi» - nếu không muốn nói hơn - giữa một số tác giả
Việt nam về ý nghĩa thật sự của cái gọi là hậu hiện đại138.
Vì thế, có lẽ sẽ không vô bổ chút nào nếu phải ghi nhận lời
giải thích trong suốt sau đây của Marc Jimenez139, một chuyên gia Pháp được
đánh giá cao trong ngành Mỹ học: <<Hậu hiện đại không phải là
một phong trào hay luồng tư tưởng nghệ thuật. Đúng hơn, nó là biểu hiện nhất thời
của cuộc khủng khoảng về hiện đại đã bổ xuống xã hội phương Tây và đặc biệt là
những nước công nghiệp hóa cao nhất trên hành tinh. Hơn cả một sự tiên liệu đi
nước trước đối với cái tương lai mà nó chối từ phác họa ra, hậu hiện đại xuất
hiện như triệu chứng của một «nỗi bất ổn mới trong nền văn minh».
Triệu chứng dần dà tan biến đi. Còn khủng khoảng thì ở lại: nó giữ một vị trí
đáng kể trong cuộc tranh luận mỹ học về nghệ thuật đương đại>>.
Cuộc tranh luận ấy kéo dài từ mấy thập kỷ nay và vẫn chưa chấm
dứt.
Tuy nhiên, trước khi đi sâu vào lý luận mỹ học, có một điều
ta có thể cho là quá hiển nhiên nhưng hệ luận của nó thì dường như lại chưa được
nhìn nhận đúng mức, đó là: không thể có chủ nghĩa hậu hiện đại mà không
có triết học hậu hiện đại. Cái sau này nếu không là điều kiện - bởi sự
xuất hiện của Nghệ thuật thường đột biến và đi trước những tư duy về nó - thì
ít ra cũng là bối cảnh tư tưởng của cái trước, đối với một trào lưu văn nghệ đã
định hình, và - trong hoàn cảnh đó - không thể chối cãi vai trò trung tâm cùng
những đóng góp quan trọng của các triết gia Pháp (mà người Mỹ gọi là
«French Theory») trong dòng chảy tư duy đương đại.
Câu chuyện không quá “thường” như nó có vẻ, mà chính ra ta sẽ
khó lòng đo lường hết tầm quan trọng của điều vừa nêu nếu không thử nhìn lại một
sự kiện khá… kỳ lạ xảy ra cách đây đúng 16 năm, do có người lúc ấy đã cố ý tạo
ra một “vụ” rùm beng trên diễn đàn học thuật nhằm phủ nhận giá trị - nếu không
nói là bôi nhọ thanh danh - của gần như toàn bộ lớp tư tưởng gia đó.
Với thời gian, phải trái - may thay - thường dễ phân minh. Trên
một câu chuyện tuy đã cũ nhưng liên quan đến vấn đề sự thật muôn thuở - và nhất
là gần đây lại được trình bày với độc giả Việt Nam -, thiết tưởng chúng ta phải
hết sức rạch ròi, sòng phẳng. Có thể nói thách thức đầu tiên của cái Đẹp chính
là ở đó: phân biệt giữa chân và ngụy.
Trở lại “vụ” Sokal và những hậu ý đáng buồn.
“Vụ” Sokal là một sự kiện xảy ra vào năm 1996 như một điểm
đen trên bức tranh học thuật đương đại phương Tây, được Nguyễn văn Dân đề cập
trong một bài viết140 cách đây không lâu nhằm phê bình Phương Lựu (tác giả
bài báo “Sự kiện Sokal với mặt trái của lý thuyết hậu hiện đại” đăng trên Văn
Nghệ số 16 năm 2010), như sau:
<<... Sokal đã phẫn nộ về những cái mà ông cho là “sự giả
mạo tri thức”, về thái độ [...] của chủ nghĩa hậu hiện đại [...], viết một bài
báo với những cứ liệu và lập luận giả mạo đủ mức phi lý để làm cho bài báo
không có giá trị, nhưng nó lại có hơi hướng “hậu hiện đại” và có vẻ đáng tin để
có thể đánh lừa ban biên tập tạp chí Social Text [...], một tờ tạp chí hàng đầu
của giới học thuật và theo khuynh hướng chủ nghĩa cấu trúc phân giải [...], một
chủ nghĩa được coi là tiêu biểu của trào lưu hậu hiện đại. Sokal đăng bài báo với
mục đích là để thử xem tờ tạp chí theo khuynh hướng hậu hiện đại đó sẽ đăng bài
theo chất lượng khoa học của bài viết hay theo tên tuổi và khuynh hướng quan điểm
của người viết. Quả nhiên bài viết của ông đã được đăng không phải vì chất lượng,
(thực sự đó là bài viết ngụy tạo khoa học), mà là vì khuynh hướng được gọi là
“hậu hiện đại” của bài viết với tên tuổi của một giáo sư đại học ngành vật
lý>>.
Bạn đọc quan tâm rành tiếng Pháp có thể tìm thấy đầy đủ ngọn
ngành “vụ” này ở http://fr.wikipedia.org/wiki/Affaire Sokal.
Điểm cần lưu ý ở đây không phải là chuyện Social
Text bị sập bẫy thảm hại mà là việc, sau đó, nhà vật lý Mỹ Alan Sokal này
(cùng với đồng nghiệp Bỉ Jean Bricmont) đã chủ tâm ưu tiên cho xuất bản tại Paris (Odile
Jacob, 1997) quyển “Impostures intellectuelles” sớm, trước cả phiên bản
tiếng Anh (Fashionable Nonsense: Postmodern Intellectuals Abuse of Science, New
York, Picador, 1998), nhằm mục đích “vạch trần” - ngay tại kinh đô ánh sáng - việc
các triết gia hậu hiện đại Pháp đã trích dẫn hoặc «lạm dụng» thuật
ngữ chuyên biệt của các ngành khoa học chính xác. Chỉ có chừng ấy “tội” [?!], nhựng
cũng đủ để Sokal (và Bricmont) thẳng tay kết án đồng loạt lớp trí thức
Pháp mặc dù họ đã có cống hiến về tư tưởng hậu hiện đại (và đặc biệt là những
người như Jacques Derrida, Gilles Deleuze, Jacques Lacan, Julia Kristeva, Bruno
Latour, Luce Irigaray...).
Có một điều rất đơn giản, thiết tưởng cần đươc nêu lên, đó là
: cho dù các tác giả Pháp bị chỉ trích thực sự có tật thích vay mượn ý niệm hoặc
thuật ngữ Toán, Lý và có vấp váp trong lúc diễn đạt đi nữa, thì cũng đã có gì
trầm trọng lắm đâu, nhất là khi chuyện đó độc lập với giá trị nội tại trong
cốt lõi tư tưởng của họ? Tại sao Sokal không chịu tranh luận - nếu quả
thật có gì sai trái - trên nội dung và tầm quan trọng các lý thuyết của họ (vả
lại đã được chính giới đại học Mỹ đề cao, và ngay cả luật sàng lọc tự nhiên - vốn
rất khắc nghiệt- của thời gian đến nay vẫn khẳng định sự đánh giá cao của thế
giới141) mà lại phải đi dùng những thứ tiểu xảo ám khí, xa lạ với tinh thần đại
học đến như thế? Người ta có thể tưởng đây chỉ là một màn «diễu dở»
từ đầu đến cuối, theo phong cách văn nghệ... hậu hiện đại đó thôi nhưng, hỡi
ôi, sự thực không phải vậy!
Cũng may, Sokal không đả động gì tới Apollinaire142,
Metzinger và Gleizes143, Picasso144, Duchamp 145 chẳng hạn - nếu phải kể ra vài ví
dụ dễ nhớ -, là những thi, hoạ sĩ nổi tiếng đã từng «dám» đề cập đến
hình học phi-Euclide, chiều kích thứ tư (quatrième dimension) và các siêu thể
(hypercorps) chẳng hạn, trong những kiếm tìm lý thuyết và đề án nghệ thuật đầy
cách tân của họ. Dĩ nhiên, những văn nghệ sĩ này không sống cùng thời
để rủi có thể... «cạnh tranh» danh tiếng với ông ta.
Đối với chúng ta, điều đáng nói hơn trong “vụ” này là sự kiện
độc giả văn chương Việt có lúc đã phải ngạc nhiên trước việc một tác giả như
Chân Phương ngợi ca Sokal, cho rằng vị này đã “giúp độc giả Mỹ nhận ra chân tướng
của các đại bịp trí thức bên Pháp mà họ vẫn thần tượng như Lacan,
Lyotard, Baudrillard, Deleuze, Latour..., những tên tuổi gắn liền với cái
mốt tư tưởng hậu hiện đại [những chữ in nghiêng: BĐH nhấn mạnh]”.146 Không
ngạc nhiên sao được, khi - cũng trong cùng đoạn văn này- chính Chân Phương đã tỏ
ra thừa sáng suốt để đánh giá hành động của Sokal là “cú móc giò thâm độc”!
Từ đó, với tất cả cảm tình dành cho nhà thơ Chân Phương, người
ta thấy khó hiểu việc ông chọn (và nhất là cách) giới thiệu quan điểm rất
ư cá biệt của một Alan Kirby về điều được đặt tên khá vội vàng là “cái chết của
hậu hiện đại”147? Đặc biệt là khi phải nghe tác giả quen thuộc của chúng ta
tuyên bố chắc như đinh đóng cột về cái ông gọi là «khía cạnh giả ngụy của
văn hóa phương Tây ngày nay»! [những chữ in nghiêng: BĐH nhấn mạnh]
Về phần Sokal, ý đồ muốn “xóa sổ” sớm những nhà tư tưởng hậu
hiện đại148 là đã khá rõ. Độc giả quan tâm, có thể tham khảo thêm Pascal
Engel149 qua một bài viết chứa nhiều thông tin150 kể cả về những góc
khuất bấy lâu nay dễ gây thắc mắc trong vụ này…
Khủng khoảng văn hóa, nói cho cùng, bắt nguồn từ khủng khoảng
giá trị. Chẳng phải do những duyên cớ nhỏ nhen như trong vụ vừa thấy trên, phần
lớn các ý tưởng và sáng tác nghệ thuật từ mấy thập kỷ qua đã gây thất vọng vì
không tạo ra nổi nét đẹp mới, tương xứng với những bước đi mới của nhân loại.
Phải chăng văn nghệ sĩ đã chạm giới hạn của những lý thuyết
khiên cưỡng, giữa một thời đại vừa bị lung lay nền tảng vừa cạn đề tài và hiếm
tài năng? Hồi cuối thời kỳ «đại tự sự» cũng trùng hợp với giai đoạn
ra đời của những nghệ phẩm thế hệ mới, nói chung là rất “thường” - nếu không muốn
dùng những tính từ tệ hơn -, dưới mắt người thưởng ngoạn: không còn tìm
đâu ra được nữa, những hoành tráng vĩ đại (grandiose) đã từng dệt nên những
trang rực rỡ, để đời, trong lịch sử văn minh nhân loại.
Tìm hiểu nguyên nhân của tình trạng này chính là cách để nhận
ra những khó khăn - từ bên trong lẫn bên ngoài - đã ảnh hưởng nặng nề trên “đầu
ra” của văn học nghệ thuật thời ta đang sống và qua đó, cũng giúp ta hình dung
được những thách đố đặt ra cho văn nghệ sĩ trên con đường sáng tạo.
Nguyên nhân chủ quan của khủng khoảng nghệ thuật
Nếu hiểu tức thời theo «nghĩa gần», thì trước
tiên phải nhìn nhận Nghệ thuật đã có thành tích hết sức đáng biểu dương bởi nó
«sống sót» được đến hôm nay, sau những lời tiên tri nghe như «hồi
chuông định mệnh» phát đi từ Hegel (1770-1831)151 và vang vọng đến tận
Danto152. Nhưng, dẫu vậy, Nghệ thuật làm sao giữ nổi cho được «nguyên vẹn
hình hài», một khi mà chính bản thân người nghệ sĩ - trong quá trình sáng
tác mấy chục năm trở lại đây - đã vấp phải nhiều sai lầm tai hại!
Sai lầm thứ nhất là bệnh chạy theo cách tân. Đối với phần
đông các trào lưu nghệ thuật, sự đoạn tuyệt với truyền thống dần dà trở thành một... truyền thống, đến nỗi nhà phê bình Mỹ Harold Rosenberg (1906-1978) đã đặt
tên cho quyển sách nổi tiếng của ông là «Truyền thống cái Mới» (The
Tradition of the New, 1959). Thực ra, ngay từ 1917, lý thuyết gia hàng đầu của
họa phái tương lai Ý Severini đã cảnh báo: «Ngày nay người ta thường hay
nhầm lẫn độc đáo với riêng lạ, và tưởng rằng sự ít nhiều trông ra có vẻ độc đáo
là đủ để làm nên giá trị cho một nghệ phẩm (On confond souvent aujourd’hui
l’originalité avec la singularité et on a l’illusion qu’une originalité plus ou
moins apparente puisse constituer a elle seule la valeur d’une œuvre d’art)»153 [Xin lưu ý từ Việt “độc đáo” - được dùng để dịch từ Pháp originalité -
không nói lên được sự khác biệt sâu sắc giữa nó với từ singularité:
cái “độc đáo” thường là đối với một hệ thống quy ước hay “mốt” nào đó, dễ
nhanh chóng trở thành lỗi thời, trong khi cái “riêng lạ” thì chỉ có thể tìm thấy
duy nhất ở một tác giả, và gần như không tùy thuộc thời gian].
Về lỗi làm mới như… cái máy này, Octavia Paz (1914-1998,
Nobel văn chương 1990) đã có phê phán nghiêm khắc và rành rẽ như sau, khi bàn tới
thi ca: “Nghệ thuật hiện đại bắt đầu mất đi những quyền năng phủ định của nó.
Từ nhiều năm qua, những phủ định của nghệ thuật chỉ là sự lập lại theo kiểu
thói quen lễ tục: nổi loạn đã trở thành thủ pháp, phê bình thành biện
ngôn tu từ, hành động xé rào vi phạm thành nghi lễ. Phủ định đã hết còn là sáng
tạo. Tôi không nói rằng chúng ta đang sống thời cáo chung của nghệ thuật:
chúng ta đang sống hồi chấm dứt của ý tưởng nghệ thuật hiện đại (L’art moderne
commence a perdre de ses pouvoirs de négation. Depuis des années, ses
négations sont des répétitions rituelles: la rebellion est devenue
procédé, la critique rhétorique, la transgression cérémonie. La négation a
cessé d’être créatrice. Je ne dis pas que nous vivons la fin de l’art:
nous vivons celle de l’idée d’art moderne)».154
Sai lầm thứ hai, phổ biến và trầm trọng, là bệnh quá thiên
trí tuệ, một kiểu «trí thức chủ nghĩa» (intellectualisme) đã biến
nghệ thuật thành lãnh địa khô khan của lý thuyết, suy luận, thay vì là đất màu
tự nhiên của cảm xúc, trực quan. Harold Rosenberg đã từng có nhận xét dí dỏm:
“Một bức họa hay bức tượng đương đại là một thứ nhân mã, nửa là chất liệu nghệ
thuật, nửa là chữ (Une peinture ou une
sculpture contemporaine est une espèce de centaure - moitié matériaux
artistiques, moitié mots)».155
Trên thực tế, cái tỉ lệ không phải chỉ nửa này nửa nọ, mà
hình như còn... thấp hơn cho phần nghệ thuật thực thụ: hai triết gia hàng
đầu của mỹ học giải tích (esthétique analytique) Arthur Danto và George Dickie
đã xác định vai trò then chốt của những «thiết chế» (institutions)
trong việc quyết định số phận nghệ phẩm. Một tác phẩm chỉ có giá [trị] khi nào
nó được «lăng x» và «tung hứng» bởi cả một «đạo
quân» truyền thông, chuyên gia buôn bán nghệ phẩm, quan chức bảo
tàng viện v.v... theo quy định (The Artworld, như Danto đã chỉ ra trong bài
viết nổi tiếng của ông năm 1964), mà màn khởi đầu - nói không ngoa - thường là một
loạt bài phê bình, phỏng vấn, quảng cáo, tổ chức «sự kiện»...:
toàn là chữ. Chẳng còn một khe trống nào để hở cho hạnh ngộ tình cờ!
Đó cũng là cái bẫy mà các nhà phê bình - kể cả những nhân vật
thông thái, nổi tiếng nhất - thường sa vào, dẫn tới nạn diễn giải quá đáng.
Malevitch đã từng cả quyết rằng hội họa lập thể và trường phái tương lai
«báo hiệu cho cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga 1917»156! Gần đây
hơn, Thomas McEvilley không ngại khoác cho chủ nghĩa hậu hiện đại cái áo...
«giải - thực dân» về mặt văn hóa (décolonisation culturelle) viện lẽ
rằng trào lưu này đã giúp người ta «tẩy sạch» những quan niệm quá «nặng mùi» Âu châu trên bình diện mỹ học 157! Diễn giải, một khi bị lạm dụng,
sẽ dễ trở thành một thứ phụ tùng quá nặng nề làm phương hại đến chính nghệ thuật.
Tệ hơn, đó là một thứ «bản tính thứ hai» gặm nhấm, bào mòn hết chất
bộc trực thuần khiết tự nhiên của nghệ thuật, mà ngay những lời cảnh báo sáng
suốt nhất cũng không đem lại hiệu quả mong muốn, như trường hợp điển hình của nữ
văn sĩ Susan Sontag (1933-2004) qua tiểu luận nổi tiếng «Chống diễn giải»
(Against Interpretation)158của bà, xuất bản từ 1961. Tiểu luận tận cùng bằng một
câu bất hủ, tát thẳng vào mặt thói quen lú khú suy biện (spéculative): «In
place of a hermeneutics we need an erotics of art (Thay vì một Thông-diễn-pháp
[rắc rối khô khan], cái chúng ta cần là một Nhục cảm pháp [rạt rào hấp dẫn] của
nghệ thuật)».
Có lẽ «bụt nhà không thiêng” chăng? Vậy xin hãy rời
văn học và bước sang âm nhạc, để thấy rằng ngay cả nhạc tác gia «tổ
sư» của dòng nhạc trí thức hiện đại Schönberg cũng không làm gì khác hơn
là chống lại sự độc tôn khống chế của trí tuệ, qua lời khẳng định của ông với họa
sĩ Kandinsky ngay từ buổi đầu thế kỷ XX: «Nghệ thuật thuộc về vô thức» 159.
Đi xa hơn bước nữa, ta thấy rằng không riêng gì giới văn nghệ
mà một triết gia như Merleau-Ponty (1908-1961) cũng bài bác xu hướng «trí
thức chủ nghĩa» (intellectualiste) ngay cả trong... triết học, coi đó là một
nhược điểm. Hiện tượng học của tri giác (Phénoménologie de la perception)
là một công trình quan trọng của ông, có nhiều cống hiến về mặt tri thức cũng
như đã đặt cơ sở triết luận cho cách tiếp cận phi lý tính, vốn dính thịt liền
da với hoạt động nghệ thuật. Merleau-Ponty vinh danh cái lôgic tri giác
(logique perceptive) được khắc sâu trong thế giới khả giác, mà ông gọi - tiếp
sau Husserl (1859-1938) - là «diễn ngôn của mỹ giới160» trong đời sống,
nghĩa là đối lập hoàn toàn với ảo tưởng trí thức chủ nghĩa ngỡ rằng «có
thể làm cho người ta hiểu được thế giới và cuộc đời bằng cách sắp xếp những ý
niệm161». Đó là một điều đáng suy ngẫm cho giới văn nghệ sĩ, đặc biệt là những
nhà phê bình và lý thuyết gia nghệ thuật.
Sai lầm thứ ba là sự lẫn lộn giữa ý tưởng nghệ
thuật và nghệ thuật.
Khi Duchamp đem trưng bày cái bồn tiểu Fontaine, ông ta
muốn biểu lộ một quan điểm mới - nhằm xóa bỏ ranh giới giữa nghệ phẩm và vật
thông tục chẳng hạn -, bằng biện pháp đơn phương của nghệ sĩ chỉ định một
món đồ nào đó là tác phẩm nghệ thuật. Về mặt tư tưởng, đó không phải
là điều cấm kỵ hay đáng khinh bỏ, mà phải nhìn nhận là rất... lạ. Nó khiến người
ta khựng lại và bắt buộc phải suy nghĩ. Thế thôi. Từ đó, nhiều thế hệ nghệ sĩ lại
cứ nhắm mắt ca tụng và bắt chước cho ra những «tác phẩm» theo kiểu ấy,
tưởng rằng hễ cứ gán được cho chúng một «lý lẽ nghệ thuật» nào đó
là đủ: ý tưởng của Duchamp dù hay lạ đến đâu cũng chỉ tạo bất ngờ được một lần,
và nhiệm vụ cao đẹp của nó chấm dứt ở đó. Lập lại Duchamp trong hoạt động sáng
tác là chứng tỏ không hiểu ông ta và tự hạ thấp mình.
Hộp xúp Campbell’s, mô-típ lập đi lập lại trong sáng tác của Andy
Warhol (Lưu ý: hình chót bên phải đã được bán với giá... 11,8 triệu
đô vào tháng 5 năm 2006!) |
Có điều, đứng về mặt nghệ thuật thuần túy, nhai đi nhai lại một sáng kiến- thoạt đầu có thể là độc đáo - của một người, dẫu người đó là chính tác giả, là hoàn toàn non kém: khoảnh khắc của cái Đẹp, của Nghệ thuật là duy nhất, không thể - và không bao giờ- trở thành mạch ngầm, nguồn mỏ, để khai thác mãi mãi. Cái xuất thần của giây phút nghệ cảm hoặc ý tưởng nghệ thuật, hễ càng siêu việt thì càng không thể xuống cấp thành «khuôn» cho người đời tiếp tục đúc ra hàng loạt: sản phẩm thì được, nghệ phẩm thì không.
Cuộc cách mạng của nghệ thuật đương đại, nếu có, chỉ có thể là nỗ lực nghệ thuật hóa vật dụng, chứ không bao giờ ngược lại: vật -hóa nghệ thuật!
Alain Badiou, triết gia nổi tiếng của Pháp còn sống, đã rất có lý khi cho rằng nghệ thuật đương đại chỉ quan tâm đến thời khắc hiện tại và, do đó, tập trung trên động tác nghệ sĩ tức thời hơn là trên tác phẩm nghệ thuật163. Như vậy phải hiểu sao đây, việc một số nghệ sĩ miệt mài làm «nghệ thuật» bằng cách tiếp tục «soạn lại bổn cũ» của các bậc đàn anh thành danh nhờ dăm ba ý tưởng đã gây sốc một thời?
Sự suy bại nghệ thuật một phần là do những nhầm lẫn đáng tiếc loại ấy đã đành, nhưng - nếu nhìn rộng hơn - ta không thể loại trừ ảnh hưởng của dòng tư tưởng triết học chủ đạo, cũng như của một số lý thuyết thời thượng gần đây, đã khiến người nghệ sĩ chân thành cứ đinh ninh tưởng mình đang «đi trên đường lớn».
Bóng đè của triết thuyết và lý luận phê bình trên nghệ thuật
Có thể nói nguyên nhân khách quan của sự biến dạng lạ lùng trong nghệ thuật nằm ở hai mức độ: sức công phá của triết học duy cá thể mà Nietzsche là người đã bắn phát thần công chí tử, và sự thúc dục của những lý thuyết - ra đời chủ yếu tại Mỹ - có tham vọng làm hợp thức hóa (légitimation) các biểu hiện phi nghệ thuật đương đại.
Về điều kiện tư duy, nghệ sĩ không thể đứng ngoài không gian suy tưởng của thời mình. Đặc biệt đối với phương Tây, Nietzsche là triết gia đã mở ra kỷ nguyên mới cho cái tôi nhân loại một cách sâu sắc và toàn diện hơn tất cả những gì triết sử để lại. Ông bắt tội Socrate đã «thiến» cái khả sắc (Crépuscule des Idoles, trích dẫn ở nguồn 77**, tr.186). Ông phát hiện sự vỡ mảnh (brisure) của cái tôi cùng với sự ló dạng của vô thức. Nietzsche phê phán và vượt qua cogito của Descartes, đơn thể (monade) của Leibniz, lập thuyết về tính «tương đối quan điểm» (perspectivisme) trong thế giới mà ông cho là chỉ gồm toàn diễn giải chứ không hề có sự kiện (nguồn 77**, tr.162 & 166): tư tưởng mới mẻ và triệt để của Nietzsche đã cuốn hút nhiều thế hệ, dù có thực sự được «tiêu hóa» hay không, và dẫn đến tình trạng mà Luc Ferry- trong luận đề quen thuộc của ông về Mỹ học - gọi là chủ nghĩa cực cá thể (ultra-individualisme).
Nếu nhìn bao quát hơn, cả về phương diện xã hội học, ta có thể ghi nhận quan điểm của Daniel Bell (1919-2011) cho rằng «ý tưởng nền tảng của chủ nghĩa hiện đại, khuynh hướng phổ biến trong nền văn minh phương Tây kể từ thế kỷ XVI là ý này: đơn vị xã hội chẳng phải là nhóm, hội đoàn, bộ lạc hay thành đô, mà là cá thể164».
Trong lãnh vực nghệ thuật, cuộc «cách mạng» thời đại ấy - dưới con mắt tinh đời của Kandinsky - đương nhiên dẫn tới sự «chối từ những hình thái quen thuộc của cái đẹp» cùng với sự «tôn sùng mọi thủ pháp bộc lộ cá tính».165
Nhưng «chối từ hình thái quen thuộc của cái đẹp» đâu có thể nào lại trở thành đi bôi bẩn nghệ thuật bằng những đề tài loại... tiểu tiện hoặc phân người như ta đã thấy trên kia! Và «bộc lộ cá tính» cũng đâu có nghĩa là sa xuống vũng lầy bản ngã ngạo mạn, đến độ biến thành bệnh «tự mê ngắm mình» (narcissisme), như Luc Ferry đã có lần minh họa qua hai ví dụ quả tình vượt quá sức tưởng tượng166: cái thứ nhất là của Duchamp, liên quan đến một cuộc diễn thuyết do ông tổ chức tại Mỹ mang tên… « A propos of Myself » ; và cái kia là của Boulez, đã từng- không chút ngại ngùng- bày ra cho phần mở đầu quyển Penser la musique contemporaine aujourd’hui (nxb.Gallimard, 1987) của mình một cuộc « tự phỏng vấn (auto-entretien) » nhan đề... « De Moi à Moi (Từ Tôi đến Tôi)» !
Tôn trọng cá thể đã đem lại cho lịch sừ phương Tây những thành quả tiến bộ vượt bực. Nhưng sự triển khai trái lối cái tôi- không phải cái tôi triết học đích thực của tự do, cái tôi văn nghệ chân chính của sự riêng lạ khả dĩ đem lại sự phong phú, độc đáo và tầm cao tư tưởng, mà là một thứ chủ nghĩa cá nhân trần trụi, hở hang - sẽ chỉ dẫn tới lố bịch kệch cỡm.
Về điều kiện sáng tác, nghệ thuật là tinh hoa «khó tánh», không bao giờ có thể tồn tại một mình giữa hư không. Luôn luôn sóng đôi với phê bình, nếu không được làm tri kỷ thì chí ít nó cũng là đồng đội hoặc đối tác đặc biệt - ngoại trừ trường hợp các thiên tài - trong cuộc tìm kiếm gian nan những vùng Đất mới. Mang nặng đẻ đau trong sáng tác là chuyện của nghệ sĩ; đánh giá, lập thuyết, soi đường, là của nhà phê bình. Bao lâu cặp bài trùng này biết thuận tình ăn ý, chung vai gánh vác trách nhiệm thời đại, thành khẩn xả thân cho Nghệ thuật, thì chừng ấy nhân loại sẽ có được những tác phẩm lớn. Ngược lại, nếu phê bình biếng nhác qua loa, thiếu khả năng nhìn sâu thấy rộng, thì nghệ thuật sẽ có cơ đâm vào chỗ chết.
Tế nhị hơn một mức, nếu phê bình có làm nhiệm vụ lập thuyết thật đấy nhưng lại quá cao siêu, xa vời, chỉ ra vẻ bề ngoài mà không đáp đúng những mong chờ sâu sắc bên trong - nói trắng ra là sai lạc -, thì tình thế cũng sẽ chẳng khá hơn; có khác chăng là thời gian hấp hối sẽ lây lất kéo dài: phải chăng đó là thực trạng của một mảng lớn nghệ thuật đương đại?
Làm sao cắt nghĩa được sự bất cần dư luận của một lớp nghệ sĩ mới trong hoạt động sáng tác lập dị của họ, nếu không đặt giả thuyết về niềm tin quá đỗi... «ý thức hệ» (idéologique) của họ trên những lý thuyết mỹ học - phần lớn thuộc loại giải tích -, mà đối tượng suy biện tiêu biểu bao gồm những ready made, nghệ thuật Pop Art và Ý Niệm167?
Harold Rosenberg có lẽ là người nhìn xuyên suốt sớm nhất hiện tượng này. Ông đã chỉ ra quá trình “giải nghệ thuật”, bắt đầu bằng sự tước bỏ chính cái danh xưng truyền thống của nó: «Nghê thuật thời đại chúng ta bị nằm trong một phong trào giải-định nghĩa khiến nó thành một vật phiếm định, lờ mờ, thậm chí gây lo (L'art de notre époque est pris dans un mouvement de dé-définition qui en fait un objet incertain, ambigu, voire anxiogène)».168
Không lo sao được khi nghệ thuật bị rút ruột, lột da bởi nhiều nhà lý luận, mà đứng đầu là Nelson Goodman (1906-1998)! Nghệ thuật mất hẳn cái quy chế là [một cái gì] (what is art?), để chỉ còn tồn tại khi [người ta muốn] (when is art?)… Cơ sở bản thể luận (ontologique) bị triệt tiêu như thế, nghệ phẩm chỉ còn giữ lại được chức năng (fonctionnalité) thực dụng của vật thể đơn thuần. Chẳng những thế, nghệ thuật lại còn bị đồng hóa theo hai hướng hoàn toàn đối nghịch, khi thì với cái «vỏ» dạng thức thuần túy - theo quan điểm (Formalism) của Clement Greenberg (1909-1994) -, khi thì với cái «ruột» ý niệm trừu tượng - theo lập trường (tiểu luận «Art after Philosophy», 1969) của Joseph Kosuth (sinh 1945).
Rất có thể các nhà phê bình nghệ thuật người Mỹ này muốn bắt chước Heiddeger, Derrida bên trời Âu trong nỗ lực «tháo gỡ» (déconstruction) những gì có trước, đó chăng?
Nhưng, nghệ thuật đâu phải là triết học, cũng chẳng là trò chơi cho những kẻ thiếu tâm hồn! Cho nên, những toan tính vay mượn hoặc ngoại suy (extrapoler) «tư tưởng của triết gia Wittgenstein (1889-1951)» để lập ra những mô hình lý luận nghệ thuật «trái cựa» như vậy, e chỉ phù phiếm chứ không phù hợp.
Harold Rosenberg - ngay từ thời điểm của ông - đã không lầm khi hạ bút: «Nghệ thuật đương đại càng tham vọng cao xa thì càng dễ rủi không giống gì nghệ thuật (Plus l'art contemporain est ambitieux, plus il court le risque de ne pas ressembler à de l'art) » (sđd, tr.99).
Trên thực tế, tất cả những gì được tự cho là tân kỳ nhất đó chỉ nhằm đẩy nghệ thuật vượt ra ngoài giới hạn cố hữu của nó, để phiêu lưu dấn bước vào vùng phản (anti-art) hoặc phi nghệ thuật ( non-art) như ý kiến xác nhận, gần đây hơn, của một Thierry de Duve: «Chiêu readymade là một động tác đã 1/ghi thể loại phản và phi nghệ thuật vào hàng nghệ thuật hiện đại 2/ «tái nhập» nghệ thuật vào trong cái hậu hiện đại (Le readymade est un geste qui 1/ inscrit l'anti-art et le non-art dans l'art moderne 2/ recycle l'art dans le postmoderne)».169
Nhưng cái «mốt» phi hoặc phản nghệ thuật ấy sẽ tồn tại được bao lâu, một khi mà đã có những nghệ sĩ như nhóm Stuckists 170 lên tiếng phản đối một cách hết sức nghiêm túc? Còn Nghệ thuật Ý niệm, ta phải nghĩ sao về nó khi mà - ngoài nhóm vừa kể - đã có những nhân vật chính thức tầm cỡ của Vương quốc Anh mạnh dạn tố cáo bằng những lời lẽ chẳng hề sợ sống sượng 171: Ivan Massow khi đang làm Chủ tịch Viện Nghệ Thuật Đương Đại và Kim Howells, Bộ trưởng Bộ Văn Hóa?!
Thierry de Duve có câu chí lý đến phải giật mình (Nguồn 169, tr.41): «Lý thuyết nghệ thuật không có nền tảng ở trong nghệ thuật (La théorie de l'art n'a pas son fondement dans l'art)».
Chính vì vậy, sự phản kháng đến từ bên trong, bởi chính những nghệ sĩ- như trường hợp nhóm Stuckists- mới mong có đủ sức thuyết phục, để làm lặng tiếng những suy biện thiếu thực chất và không cơ sở, hoàn toàn nằm ngoài mỹ giới, đã làm mưa làm gió trên diễn đàn nghệ thuật bấy lâu nay: thứ gió chướng mưa cuồng, chỉ giỏi khuấy tung lên đám bụi mờ ảo tưởng, làm tan tác hương hoa.
Từ nghệ thuật giải cứu đến giải cứu nghệ thuật
Bởi nghệ thuật là hương hoa, là sự chắt lọc tinh tuý từ những sự thể thô nhám hoặc sờn trơn nhàm nhạt của cuộc đời, nên cái Đẹp hiển lộ luôn đem lại niềm hân hoan cảm khoái, làm hé mở trái tim và hướng ta về những chân trời cao rộng.
Ở Việt Nam, Nguyễn Đình Thi có lẽ là người đầu tiên- và duy nhất- trong guồng máy dám chính thức đề cập đến tính hướng thượng của cái Đẹp, trong một bài nói chuyệni172 tại Trường dạy viết văn Nguyễn Du, khoá III. Đáng lưu ý là những câu như : « Chính cái Đẹp đã biến một thằng giặc (Thành Cát Tư Hãn, qua « tác phẩm ba-lê kinh điển của Alixia- Alôngxô » được tác giả nói tới ) trở lại làm một con người[…] Viết về cái ác như Đôstôiepsky cũng phải đẹp. Viết về người xấu như Nam Cao cũng phải đẹp : đẹp trong tầm tư tưởng, đẹp trong cấu trúc, đẹp trong ngôn ngữ. Đó mới là cái đẹp vĩnh hằng… » (sđd,tr.43). Và ông mạnh dạn tuyên bố : « Cái Đẹp không có tính giai cấp » (sđd, tr. 44).
Ở Mỹ, nữ chuyên gia về văn minh Hy Lạp Edith Hamilton cũng đã thuật lại sử tích- đẹp như một huyền thoại mà có thật- của đạo quân thượng võ Sparte thời xa xưa, sau khi đánh chiếm xong kinh đô Athènes ( thế kỷ V trước CN), đã từ chối lệnh cho đốt cháy thành này, chỉ vì họ được nghe- trong buổi lễ mừng chiến thắng- một bài thơ tuyệt tác của thi hào Euripide (480-406 tr. CN.): họ long trọng tuyên bố rằng « cái thành phố đã sản sinh ra một nhà thơ tài hoa như thế thì sẽ không bao giờ phải chịu nạn bị tàn phá ».173
Gần đây hơn, cũng trong bối cảnh chiến tranh, điện ảnh Hollywood đã cống hiến cho thế giới nhiều mỹ cảm thú vị qua phim «Người chơi dương cầm (The Pianist)»174: chuyện một chàng trai Do Thái đã thoát chết nhờ giỏi chơi đàn và may gặp một tướng chỉ huy Đức quốc xã có đôi tai biết thưởng thức…
Trong những giây phút định mệnh « nghìn cân treo sợi tóc» ấy, nghệ thuật đã cứu con người : đằng này thoát chết, đằng kia khỏi biến thành kẻ sát nhân. Nhưng sự giải cứu không chỉ đơn thuần theo nghĩa đen như thế, mà chính là bóng mát chở che của cái Đẹp trên từng nếp cuộc sống tinh thần.
Từ nét vẽ khó tin nơi thạch động tiền sử cho đến tiếng hát tập thể lạ thường vút lên từ lồng ngực những kẻ cùng lâm tử nạn- ở những hoàn cảnh bi ai cùng cực nhất- còn lưu trong ký ức loài người, đã có biết bao bằng chứng hùng hồn cho thấy nghệ thuật đẩy lùi được biên giới cái hữu hạn, hoá giải nỗi sợ hãi, hà hơi đắp thịt cho tâm hồn nhân loại.
Cũng chính vì thế, tôn giáo- bởi yếu tính (essence) và chức năng của nó - rất quan tâm đến khả năng cứu rỗi của cái Đẹp, đặc biệt là Công giáo, qua những phát biểu được lập lại nhiều lần bởi nhiều vị Giáo hoàng kế tiếp nhau: từ Thư gửi nghệ sĩ của Pie XII năm 1952175 đến Diễn văn của Benoît XVI trong cuộc gặp gỡ với nghệ sĩ cuối 2009 tại Nhà thờ Sixtine huy hoàng tráng lệ176, đã có nhiều văn bản đáng chú ý khác như Thông điệp của Paul VI về vai trò của cái Đẹp tại lễ bế mạc Công đồng Vatican II (1965)177và Thư gửi nghệ sĩ của Jean-Paul II (1999) 178. Trích dẫn rộng rãi quan điểm của nhiều vãn nghệ sĩ nổi danh trong lịch sử, các Giáo hoàng không ngớt lời ngợi ca cái Đẹp và sứ mạng của người làm văn nghệ với tất cả sự nồng nhiệt, mà đoạn phát biểu sau đây của Paul VI là một minh hoạ : « Thế giới ta đang sống cần cái đẹp để khỏi rơi vào tuyệt vọng. Cái đẹp, cũng như chân lý, đem lại niềm vui cho trái tim người ; nó là thứ quả quý chống lại xói mòn của thời gian, hợp nhất các thế hệ và khiến giữa họ có được sự tương thông trong niềm chiêm ngưỡng thán phục. Và có được như thế là nhờ bàn tay của nghệ sĩ quý vị…Hãy nhớ rằng quý vị là những người canh giữ cho cái đẹp của thế giới chúng ta » (Ce monde dans lequel nous vivons a besoin de beauté pour ne pas sombrer dans le désespoir. La beauté, comme la vérité, est ce qui apporte la joie au cœur des hommes, elle est ce fruit précieux qui résiste à l'usure du temps, qui unit les générations et les fait communiquer dans l'admiration. Et cela grâce à vos mains... Rappelez-vous que vous êtes les gardiens de la beauté de notre monde) 177.
Bên trong nhà thờ Sixtine (Vatican, La Mã)
Không phải chỉ các nhà lãnh đạo tôn giáo mới nói đến tính thánh thiện của cái Đẹp, mà xã hội công dân người thường - đặc biệt là các tầng lớp trí thức- cũng quan tâm đến tác dụng giải cứu của nó179. Tuy nhiên, như đã thấy trên, vấn đề thời đại chúng ta không nằm ở đó, mà ở chiều ngược lại: phải dùng liệu pháp nào đây, cho chính nghệ thuật đang lâm nguy?
Không đơn giản. Bởi vì ngay một chuyên gia như Luc Ferry, khi bàn về sự suy thoái của nghệ thuật và những cái lớn lao đang trên đà biến mất trong hoạt động con người hiện nay, cũng đã tỏ ra bi quan và cạn ý đến độ ông phải gợi ra- như một hướng giải pháp - «mô hình» noi theo hình ảnh các... sinh hoạt thể thao, mà ông cho là biểu hiện gương mẫu, sáng giá nhất cho sự cao đẹp trong thời khủng khoảng180: có thể lắm, nhưng sao lại đi đồng nhất chuyện thi thố chủ yếu dựa trên cơ bắp với sáng tạo văn học nghệ thuật!
Mỹ học hậu hiện đại có là giải pháp?
Tiến trình vận động nghệ thuật, từ lâu, đã vượt qua đỉnh điểm của phát triển truyền thống. Từ hiện đại qua tiền phong chủ nghĩa- rồi đến hậu hiện đại-, nghệ thuật đã liên tục lột xác, thay hình đổi dạng và trải qua nhiều chặng đường thử thách.
Jean-François Lyotard (1924-1998), người có công đẩy hậu hiện đại ra ánh sáng sân khấu học thuật, đã nêu bật một số ý tưởng sâu sắc và triệt để về thời kỳ này, mặc dù không có sự đồng thuận giữa ông và các triết gia nổi tiếng khác như Jürgen Habermas và Richard Rorty. Nói về nghệ thuật, ông cho rằng đối tượng của mỹ học hậu hiện đại không còn phải là cái đẹp (le beau) mà là cái kỳ mỹ (le sublime).
Xin nhắc lại : kỳ mỹ (chứ không phải cao cả- như đã được trình bày trong phần I*của loạt bài này- bởi nó không hề dựa trên đạo đức !) là một khái niệm mới mẻ đối với chúng ta- nhất là người Việt-, thường được mô tả như niềm thích thú (plaisir) pha lẫn với đôi chút «nghịch cảm» như sự choáng ngợp, sợ hãi, nể vì ...; thậm chí, có khi là một thứ terror and delight như cách nói của Edmund Burke trong A philosophical Inquiry into origine of our ideas of the Sublime and Beautiful (1757).
Lần đầu tiên được phân tích cặn kẽ và thấu đáo qua triết luận hoàn chỉnh của Kant (Analytique du sublime trong "Phê phán năng lực phán đoán"[Critique de la faculté de juger], 1790), cái kỳ mỹ - trong một chừng mực nào đó- đã được khái quát hoá lên mức một khái niệm mỹ học đặc biệt, tương ứng với sự xung đột giữa một bên là cái có thể lãnh hội (khả niệm, le concevable) và bên kia là cái có thể trình bày được ([xin tạm gọi tắt là] khả biểu, le présentable).
Từ đó, Lyotard đã triển khai những xác tín về nghệ thuật của mình: «Nghệ thuật hiện đại tìm thấy sức bật của nó trong mỹ học của cái kỳ mỹ: sự xung khắc giữa cái khả niệm và cái khả biểu; sự rời khỏi hiện thực (L'art moderne trouve son ressort dans une esthétique du sublime: discordance du présentable et du concevable; retrait du réel)» 181. Và ông nhận xét: «Hiện đại thì không khi nào lại không gây xáo động niềm tin, và nghệ thuật hiện đại thì không bao giờ lại không trình bày cái «bất khả biểu» (La modernité ne va jamais sans l'ébranlement de la croyance, et l'art moderne sans une présentation de l'imprésentable) 182.
Về mặt thuật ngữ, xin lưu ý là - đối với Lyotard - hiện đại và hậu hiện đại cơ bản không khác nhau: sự phân biệt không dựa trên thứ tự thời gian, mà nhằm ở tâm thức, cái sau là sự triển khai nối dài của cái trước, trong cùng một thời kỳ hiện đại không ngừng đổi mới.
Như vậy, trên lý thuyết, người nghệ sĩ có thể nhấn mạnh hoặc trên sự bất lực của khả năng trình bày183(mà Lyotard sắp vào loại mélancolie [u hoài]), hoặc trên sức mạnh của khả năng tạo ra ý niệm mới184(được sắp vào loại novatio [làm mới]), hoặc có khi trên cả hai : chính vì thế mà Picasso, Lissitzky, Duchamp rồi Malevitch, Chirico đều được Lyotard kể ra như những tên tuổi tiêu biểu cho các khuynh hướng này. Về phía người thưởng ngoạn, cái kỳ mỹ sẽ được cảm nhận khi nào có sự đối chọi hay một độ căng nào đó giữa ý đồ khả tri ban đầu và cách biểu hiện khả sắc của nghệ sĩ qua tác phẩm.
Trên thực tế, hiếm khi thấy được tác phẩm nào đạt tới hiệu ứng mong đợi. Quá nặng về cái khả niệm, tác phẩm sẽ chỉ là trò chơi ý tưởng như đã thấy trên ; quá thiên về cái bất khả biểu, người nghệ sĩ – nếu không phải là thiên tài- sẽ giống như một kẻ lừa bịp : vẽ cái không thể vẽ được thì sẽ chẳng đi đến đâu, cần chi bày vẽ lắm điều!
Trừ phi - và có lẽ đó cũng là thách đố lớn cho nhân loại trong ý hướng vươn tới cái vô cùng, như sẽ được phân tích dưới đây - chúng ta phải hiểu cụm từ bất khả biểu như danh xưng tại thế (immanence) của một thực thể linh diệu - siêu thế, siêu nghiệm (transcendance), bất khả tư nghì - là đối tượng mở muôn đời của sáng tạo nghệ thuật. Một thứ danh khả danh phi thường danh, theo cách nói của Lão Tử. Chỉ những nhà sáng tạo thiên tài - như Xuân Diệu chẳng hạn, trong ví dụ trường hợp Việt Nam - mới nắm bắt được, ở một giây phút nào đó, cái bất khả biểu ấy, mới tương thông với cái vô cùng, mới lột tả thần tình cái bất khả: nhà thơ vẽ ra cái mong manh, vô hình, phi vật thể - cái không thể trình bày theo ngôn ngữ Lyotard -, của một buổi chiều êm ả trước mặt ...
“Không gian như có dây tơ,
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu”.
Nói đúng hơn, ở đây, Xuân Diệu đã nhẹ nhàng chuyển dịch trên đường tiệm cận (asymptote), ghé sát thật gần- mà không bao giờ chạm tới - cái bất khả biểu.
Nhưng đó là thiên tài, là sự xuất thần. Còn nhìn chung trong khung cảnh văn nghệ đương đại, cái sức bật diệu kỳ mà Lyotard tiên liệu, cho đến nay, hình như vẫn chưa đến : nghệ thuật đương đại vẫn chưa thực sự dựa nổi trên cái kỳ mỹ. Trong khi chờ đợi, khách thưởng ngoạn phải giáp mặt với nhiều cảnh nghịch chướng, vào loại khiến Gleenberg- ngay từ 1946- đã phải… dơ cao tay trên trời : << Cái mà người ta [chỉ dám] cho là «trò dở gu » (mauvais goût) của Pollock, thực ra chẳng phải gì khác hơn là một sự đồng tình về cái xấu xí, theo những tiêu chuẩn đương đại về gu thẩm mỹ. Với thời gian, cái xấu xí này sẽ trở thành một tiêu chuẩn mới về cái đẹp>>185.
Nhưng nghệ thuật đâu có là định mệnh, cớ sao ta lại phải cam chịu sự đùn đẩy, áp đặt theo thời, theo «thói quen thiên hạ»!
Xấu là xấu và đẹp là đẹp. Đã có cả một lịch sử nghệ thuật rất ư bác học, lấy xấu xí làm đối tượng186. Nhưng không phải vì thế mà ta lại được phép lẫn lộn các phạm trù, đồng nhất cái này với cái kia. Lợi dụng sự mới mẻ của các khái niệm mỹ học đương đại, né tránh cái đẹp bị cho là quá thường, để bày ra và tôn cái xấu xí vô nghĩa lên hàng… kỳ mỹ (!), là phản lại tư duy khoa học- theo nghĩa cao quý nhất- của Kant : trong tác phẩm kinh điển "Phê phán năng lực phán đoán", triết gia kiệt xuất này đã loại trừ sự gớm tởm (le dégoût) và cái lố bịch (le ridicule) ra khỏi trường vận động của mỹ học, vì bất tương thích đối với gu [thẩm mỹ] và cái kỳ mỹ185.
Mặt khác, ở chóp đỉnh của cái kỳ mỹ- trên nguyên tắc là phải rất hấp dẫn, theo lý thuyết của Lyotard về nghệ thuật mới-, dường như vẫn chưa có mấy ai thành công trong nỗ lực xuyên thấu vào lõi cốt của Ý tưởng: đó cũng là kết quả thiếu thuyết phục- theo thiển ý- của những «bức tranh» có tham vọng cao xa thể hiện « ý tưởng của ý tưởng », cho dù nó có lấp lánh hào quang chữ ký những «ngôi sao» ( trên nền trời ưu ái của các nhà phê bình tiền phong!) mang tên Rothko, Still, Newman, Gottlieb...
Barnett Newman:
Ornement 1(1948) No. 61
Clyfford Still:
1957 - D No. 1 (1957)
Mark Rothko:
Rust and Blue (1953)
Adolph Gottlieb:
Chrome Green (1972)
Bởi vì, chìa khóa giải mã cho những thất bại -dưới mắt nhiều người- này, đã có sẵn trong nhận xét cô đọng của Rosenberg: «Hội hoạ chỉ mở lối tới yếu tính thẩm mỹ, cái ý tưởng của ý tưởng, qua cái không -thể-giản-lược về chính nó (La peinture ne donne accès à l'essence esthétique, l'idée d'une idée, que par ce qui lui est irréductible)187».
Cái không-thể-giản-lược nhiệm màu đó nằm ngoài và độc lập với hội họa.
Toàn bộ nền nghệ thuật hậu hiện đại - như vậy - đã có gắng sức cựa quậy, vẫy vùng để thoát khỏi trọng trường (pesanteur) của quá khứ, để tiến tới tự lập ở những chân trời mới lạ. Nhưng vốn liếng nền tảng nhân loại chỉ chừng ấy, nên những tác phẩm đương thời ý nghĩa nhất vẫn thường tích hợp, dưới dạng này hay dạng khác, những thành tố của kho tàng văn hoá cố hữu. Trong điều kiện đó, những thành tựu đáng kể nhất thường đến từ những tác giả biết nắm bí quyết của sáng tạo nghệ thuật nghĩa là : cách tân với nghệ cảm và hài hoà.
Đó là một quy tắc đơn giản, tự nhiên, hợp với lương năng (bon sens), mà mấy ngàn năm hiện hữu của nghệ thuật nhân loại và ngót một thế kỷ tìm đường của văn nghệ sĩ phương Tây dường như- về cơ bản- cũng không dẫn tới cái gì thật sự khác hơn.
Nếu thông lệ diễu nhại hậu hiện đại có vẻ được áp dụng thành công với văn chương và điện ảnh mặc dù chỉ là công thức, thì –trong hội hoạ- những cái « nháy mắt » dễ dãi, như qua bức tranh thuộc kiểu gán ghép của Russell Connor dưới đây, tỏ ra khó lòng « ăn khách ». Ngược lại, khuynh hướng hoài cổ- « u hoài » theo nghĩa của Lyotard-, xem ra được đón nhận nồng nhiệt hơn, chẳng hạn trường hợp những tác phẩm của Glenn Brown và Gerhard Richter188.
Russell Connor: Déjeuner à la carte (1986)
Gerhard Richter:
Annunciation after Titian (1973)
Glenn Brown:
Led Zeppelin (2005)
Gerhard Richter:
Betty (1988)
Thêm vào đó, thời sự sinh hoạt nghệ thuật đương đại tại bảo tàng Louvre (Pháp) mùa hè 2012 vừa qua đã cung cấp nhiều bằng chứng khẳng định xu hướng nghệ thuật và quy tắc cân đối vừa nêu: Wim Delvoye189 đã nghiêm túc “đính chính” cho sự nghiệp nghệ thuật của mình bằng những tác phẩm mới, rất đạt, gợi hứng từ những đề tài không chút xa lạ với người xem, bất luận tuổi tác. Đó là những công trình được tác giả “tự nhận thuộc dòng nghệ thuật cổ”, mang tính “đối thoại với quá khứ” và “cộng hưởng với viện bảo tàng Louvre”, theo nhận xét của một chuyên gia.190
Wim Delvoye: Twisted Dump Truck (150cm x 74 x 74,
thép inox cắt bằng laser, 2012)
Wim Delvoye: Möbius Corpus (45cm x 45 x 62, đồng thau phủ nickel, 2011)
Nhìn kỹ ra, cuộc triển lãm ở Louvre của Wim Delvoye, người được biết tiếng qua tác phẩm kỳ quái Cloaca trước kia, dường như có mang dáng dấp hành trình của “đứa con hoang trở về”. Nó không hề gây sóng gió, tranh cãi như khi Takashi Murakami triển lãm tại điện Versailles vào năm 2010191, bởi phong cách và giá trị nội tại các tác phẩm của hai nghệ sĩ này hoàn toàn không nằm trên cùng một bình diện. Cũng giống trường hợp Jeff Koons triển lãm cùng nơi hồi 2008, các tác phẩm của Takashi Murakami nói chung bị đánh giá là thuộc loại kitsch (“ sến”, hoa hòe loè loẹt...) và, vì thế, việc chúng được đem chưng ở Versailles đã khiến một số nhân sĩ trí thức Pháp phải lên tiếng vạch trần mặt trái của hoạt động nghệ thuật.
Takashi Murakami: Miss KO2 (1997)
Jeff Koons: Lobster (2003)
Marc Fumaroli, thành viên Viện Hàn lâm Pháp, nghiêm khắc đặt vấn đề “tại sao lại giấu diếm với công chúng sự thật: nghệ thuật mệnh danh <<đương đại>>, thứ hình ảnh thương hiệu được chế nguyên si bởi một thị trường tài chính quốc tế như thế đó, chẳng còn có chút chi là chung nữa, so với tất cả những gì xưa nay ta gọi là nghệ thuật, cũng như so với những nghệ sĩ đích thực còn sống nhưng không được «định giá» trong cái chợ Chứng khoán ấy?» ( Pourquoi dissimuler au public le fait que l'art dit "contemporain", cette image de marque inventée de toutes pièces par un marché financier international, n'a plus rien de commun, ni avec tout ce que l'on a appelé "art" jusqu'ici, ni avec les authentiques artistes vivants, mais non cotés à cette Bourse?) 192
Cũng thế, đối với Pierre Wat, giáo sư nghệ thuật đương đại Đại học Paris-I, thì «nghịch lý ác độc nhất trong chuyện này là người ta có cảm giác những cơ sở định chế văn hoá đang bán cái dây sẽ treo cổ chính mình: sợi dây của sự kiện đối lập với cái nhìn, của cái tức thời đối lập với sự trường cửu. Bởi vì, ít nhất cũng phải nói rằng cái lối làm ăn như vậy, tuy rất lôgic trong một thế giới mà chính văn hoá cũng bị lệ thuộc thị trường, nhưng trên thực tế là đi ngược lại phần lớn những cách thực hành nghệ thuật và sự giáo dục rèn luyện cho có con mắt biết nhìn, mà chúng đòi hỏi» (Le paradoxe le plus cruel, dans cette affaire, est que l'on a le sentiment que les institutions culturelles vendent la corde avec laquelle elles seront pendues: celle de l'événement contre le regard, de l'immédiat contre la durée. Car, le moins que l'on puisse dire, c'est que cette démarche, certes logique dans un monde dans lequel la culture est, elle aussi, soumise au marché, va à l'encontre de la plupart des pratiques artistiques, et de l'éducation de l'oeil que celles-ci exigent en réalité). 193
Thực ra, những cuộc triển lãm nghệ thuật này cũng là cơ hội làm « toét vỡ chỗ sưng mủ »- theo lối nói của người Pháp - trên cơ thể đời sống văn nghệ. Có thể rồi sau đó, mọi sự sẽ rõ ràng hơn, và nghệ thuật sẽ phục hồi sức lực. Song cho đến nay, từ Dany - Robert Dufour194, Luc Ferry195 đến Jean Clair85và gần đây nhất là Aude de Kerros196, các chuyên gia đều gặp nhau ở một điểm : sự phê phán nghiêm khắc nghệ thuật tạo hình đương đại.
Tất cả những sự kiện trên đây cho thấy rằng, nhìn chung, hậu hiện đại- trong vận động đa dạng nhưng còn lắm nông nổi, duy hình thức và thiếu chiều sâu của nó - chưa phải là giải pháp thỏa đáng cho nghệ thuật thời khủng khoảng. Trên thực tế, những thành tựu đáng kể nhất trong giai đoạn vừa qua dường như vẫn phải ẩn chứa ít nhiều cái yếu tố cổ điển đã vượt qua thử thách thời gian. Như một điều kiện ắt có, theo nghĩa toán học.
Đó là sự triển khai cái tinh túy truyền thống dưới những dạng thức tân kỳ mới lạ nhất: bằng chứng hùng hồn và cập nhật nhất mà ta có thể thấy– chí ít cũng trên phương diện thuần túy kỹ thuật- là ở giải Nobel văn học Mạc Ngôn, người làm chủ được sự « kết hợp giữa những thủ pháp của chủ nghĩa hiện đại và bút pháp truyền thống, giữa cái huyền ảo và cái hiện thực, làm thay đổi diện mạo nền văn học đương đại Trung Hoa » như lời giới thiệu mới đây của Đoàn Tử Huyến197.
Đó là sự nhún nhường (humilité), chân thực trong cách làm nghệ thuật, thậm chí là sự quay về những giá trị cổ điển, như nhận xét của một Frederick Turner 198cách đây đúng mười năm, mà ta sẽ trở lại dưới đây. Nhưng cũng cần nói ngay : ngắm tranh của Richter- như bức Betty chẳng hạn-, có ai dám trách hoạ sĩ này lỗi thời vì quá tượng hình, giống y ảnh chụp199 ; hoặc trường hợp Edward Hopper, ai dám bảo tranh ông kém giá trị vì quá hiện thực200? Đằng sau cái bề ngoài tưởng như tầm thường đó là cả một sự phong phú sáng tạo...
Và cuối cùng, đó cũng là một nền văn nghệ biết nâng niu cảm xúc, biết biểu hiện cái sinh lực căng tràn trên thịt da cuộc sống. Vì vậy, mẫu số chung giữa tranh vẽ của một Francis Bacon (1909-1992) và sáng tác âm nhạc của một Brian Ferneyhough (1943) chẳng hạn, đâu phải gì khác hơn là sự vinh danh một dòng nghệ thuật hình tượng « duy sinh » mới (nouvel art figural vitaliste), trên nền triết luận của một Gilles Deleuze ở buổi đầy cảm hứng (Francis Bacon. Logique de la sensation, nxb. Différence, 1981), nhằm địch lại một đối thủ không hề xa lạ : tư duy hư vô chủ nghĩa201.
Tính siêu nghiệm như một định đề cho Mỹ học
Nếu triết học phương Tây đã từng bị Heidegger (1889-1976) phê phán là hư vô chủ nghĩa202 vì bỏ quên hữu thể (l’être) trong hơn hai thiên niên kỷ, thì chủ nghĩa hậu hiện đại- cùng một số lý thuyết gia của nó- có lẽ cũng không kém phần đáng trách vì đã né tránh, nếu không nói là chối bỏ, yếu tính của cái Đẹp : bản chất siêu nghiệm của mỹ giới, và chiều kích bản thể của tác phẩm nghệ thuật.
Sự hời hợt - hoặc vô lý - là quá hiển nhiên. Gérard Genette, trong một trước tác nổi tiếng về mỹ học (L’œuvre de l’art, Immanence et transcendance, Paris, Seuil,1994), có phân tích rành mạch các dạng bản thể nghệ thuật, đã đành. Nhưng ngay cả một triết gia giải tích thực thụ như Roger Pouivet- mặc dù không phủ nhận Nelson Goodman – gần đây cũng tự thấy phải ra tay chấp bút203 để cứu nguy, trước tình trạng các nhà lý luận mỹ học giải tích đương đại tiếp tục cố tình công kích- nếu không nói là thủ tiêu - bản thể tính của nghệ phẩm.
Đây là một vấn đề cơ bản liên quan đến quy chế (statut) của nghệ thuật, với tư cách là một thực thể tự tại- tự lập, tự trị-, và do đó có tính quyết định trên nội dung cũng như cách thể hiện của nó.
Trước hết, cần ghi nhận rằng hoàn toàn không phải ngẫu nhiên, việc nhiều triết gia (tức là- xin nhắc lại - «người đẻ ra các ý niệm [concept]», theo định nghĩa gọn ghẽ và hợp lý của Deleuze) đã bỏ công để phát hiện những điều ẩn kín đằng sau nét vẽ các danh hoạ. Từ Heidegger (L’Origine de l’œuvre d’art trong Chemins qui ne mènent nulle part) luận về bức tranh đôi giày204 dân dã của Van Gogh (1853-1890) đến Deleuze rọi tư duy về phía những họa phẩm của Bacon, qua một Foucault lần lửa vén tấm màn épistémè- như ông đã đặt tên- bao trùm trên kiệt tác Les Ménines của Vélasquez205 : tất cả, bằng trực quan bén nhạy, đã thấy và nghe được những gì mà nghệ phẩm thầm thì thố lộ.
Van Gogh:
Giày cũ với dây thắt (1886)
Francis Bacon,
Chân dung Jacques Dupin(1990)
Vélasquez(1599 - 1660): Les Ménines (1656) |
Và từ đó ta mới hiểu vì sao Heidegger đã thốt lên: «Cái đẹp là thể bừng nở của chân lý (La beauté est un mode d'éclosion de la vérité)».
Siêu nghiệm, bởi vì không dựa trên kinh nghiệm - như có đó từ muôn thuở, như đến từ cõi vô thủy vô chung -, được chia sẻ bời mọi tâm hồn gặp nhau trong sự thưởng thức những gì nghệ phẩm gợi mở, dâng hiến. Mà không chỉ riêng gì lãnh vực cái đẹp: chính cái sensus communis của Kant đã cho phép bắt được nhịp cầu nối liền Chân, Thiện, Mỹ với nhau và khiến ta tin tưởng ở khả năng cảm thông tối hậu giữa người và người. Riêng điểm chót này cũng đủ để biện minh cho những nỗ lực dốc ra nhằm lấp bỏ những hố hầm cách ngăn trong nhân giới.
Hermann Hesse (1877-1962), giải Nobel văn học 1946, có lần nói: «Nghệ thuật nghĩa là: chỉ ra [cho thấy có] Thượng đế trong mỗi sự vật (L'art signifie: montrer Dieu en chaque chose) ». Không trực tiếp nhắc đến Chúa như tác giả Siddharta (1922), Giáo hoàng Jean–Paul II cũng đã từng kết luận: «Cái đẹp là chià khóa của huyền nhiệm và nó gởi đưa về cõi siêu nghiệm (La beauté est la clé du mystère et elle renvoie à la transcendance)»176.
Nhưng siêu nghiệm không nhất thiết phải ở đâu đó trên cao.
Với triết gia xã hội học Fernand Dumont (1927-1997) thì rất rõ ràng: «Siêu nghiệm không ở trên con người mà ngược lại, nó ở dưới, nghĩa là ngay giữa lòng người. Siêu nghiệm là cái đập vỡ, cái mở ra, cái tháo gỡ và vượt qua những thói rập khuôn theo chuẩn mực thời thế, những hệ thống, những học thuyết, để dự phóng về phía trước, nơi tận sống nỗi bi tráng của hoàn cảnh nhân sinh» (La transcendance n’est pas au-dessus de l’humain, elle est au contraire en-dessous c’est-à-dire au coeur même de l’humain. La transcendance c’est ce qui brise, qui ouvre, qui défait et dépasse les conformismes, les systèmes, les doctrines pour projeter en avant, là où se vit le tragique de la condition humaine) 206.
Bởi thế, cái Đẹp - về nhiều phương diện - cũng giống như Tình Yêu: bằng cảm xúc kỳ diệu ban đầu, nó kêu đòi siêu nghiệm nhập thể; bằng sức mạnh của trải nghiệm, nó chuyển hóa thân phận con người; bằng đôi cánh siêu nghiệm, nó nâng nỗi bi tráng nhân sinh lên những tầm cao.
Phải chăng cũng chính cái siêu nghiệm «đập vỡ, mở ra, tháo gỡ và vượt qua» ấy, đã ban tặng cho những tác phẩm gây tranh cãi - thậm chí có khi bị miệt thị bởi một thứ dư luận «mô phạm đạo đức» nào đó- cái kích thước thẩm mỹ rất đỗi đáng yêu dưới mắt khách tao nhân (như trường hợp tiểu thuyết Vòng tay học trò của Nguyễn thị Hoàng năm xưa chẳng hạn)?
Nếu cái Đẹp không thể thiếu cho con người thì siêu nghiệm cũng không thể vắng với nhân giới. Siêu nghiệm không phải là siêu hình, siêu nhiên, mà là đồng nhất với sự «thuần hóa» mọi khả thể bất kham tại thế, với sự gan lỳ đi trọn hết những chặng đường gian nan trong hành trình nhân loại, như quan niệm nhất quán và triệt để của Dumont: «Không thể nào có sự khẳng định về con người, không thể nào đọc thấu được hoàn cảnh của nó, mà lại không có việc nó phải tự tạo ra cho mình một cách biểu hiện cái siêu nghiệm; cho dù nó có thể mang thật sự nhiều danh xưng đi nữa, chẳng hạn có tên là tự do, cái siêu nghiệm - hôm nay cũng như hôm qua- vẫn cứ là hình ảnh của một sự vượt qua» ( Il n’y a pas d’affirmation de l’homme, de lecture de sa condition, sans qu’il se donne une représentation de la transcendance; celle-ci peut porter bien des noms, s’appeler par exemple la liberté, elle n’en est pas moins aujourd’hui comme hier l’image d’un dépassement).207
Vượt qua suy biện, định kiến, ảo tưởng, ý hệ. Để đi đến mức vượt qua chính mình. Vinh dự thay, nhưng cũng quá lớn lao : có hữu thể nào, ngoài con người, làm được điều ấy ?
Nói về siêu nghiệm, Fernand Dumont còn nhấn mạnh đến một đặc điểm khác206: «... Nó không thêm thắt cái gì cả, ngược lại, nó cắt bớt đi : nó gạt qua một bên những mớ hỗn độn sách vở để mời đến với sự giản dị, để quay về với cái nền tảng, cái thiết yếu (Elle n’ajoute rien, au contraire elle retranche: elle écarte le fatras des livres pour inviter à la simplicité, pour retourner au fondamental, à l’essentiel)».
Dường như đó cũng là lối thoát cho khủng khoảng hiện tại. Đối với văn nghệ, đó là quy luật phục hồi, sau những hư hao đổ nát gây ra bởi các kiểu «làm mới liên tục», «làm dáng trí thức» như đã thấy trên, cùng với thói ham đả phá chê bai, đặc trưng của một tâm tính như chưa vượt qua được ngưỡng trưởng thành.
Khi đương đại làm hòa với truyền thống
<<Charles Jencks, nhà phê bình hậu hiện đại, gần đây mở đầu một bài viết bằng mấy từ “Cái đẹp trở lại”. Đó là một nhận xét muộn màng, nhưng trễ còn hơn chẳng bao giờ. Có một luồng gió mát thổi suốt các nghệ thuật. Nó xảy ra trên khắp trái đất và ở cả trăm ngõ ngách khác nhau của nghệ thuật và văn hoá >>. Frederick Turner đã nhập đề như vậy trong cuộc nói chuyện ngày 21/9/2002 tại Cleveland (Mỹ).198
Nhà thơ giảng dạy khoa nhân văn tại Đại học Texas này đánh giá không chút nhân nhượng:
«Điều làm cho phong trào này mang tính cách mạng chính là vì nó là một cuộc phản cách mạng, là một cuộc cách mạng chống lại cái xấu và sự hỗn mang về đạo đức - và sự ngu ngốc trí tuệ tội nghiệp - của cảnh tượng nghệ thuật đương đại» [bản dịch Nguyễn Tiến Văn].
Và ông nêu rõ các đối tượng phê phán, chính xác từng «ngôi sao» một:
«Bây giờ ai cũng biết về những đầu người bị cưa nát, và phân voi, và cơ quan sinh dục, và việc tự cắt xẻo của phe cánh nổi giận trong nghệ thuật đương đại – đó là những Mapplethorpe, những Serrano, những Damien Hirst, những Karen Findley, những Annie Sprinkle. Chúng ta cũng biết đến những tấm bố trống trơn, những áo quần bó được thả xuống từ những chiếc dương cầm, những “thiết trí” (installations), những vung vãi từ ngữ vô nghĩa và những quần đảo gulag kiến trúc xếp hộp của phe cánh ngu ngốc trong nghệ thuật đương đại: đó là những John Cage, những John Ashberry, những Jeff Koons, những Mies van der Rohe, những Andy Warhol » [bản dịch NTV].
Dĩ nhiên, đánh giá này chỉ nhắm những hành vi phản nghệ thuật của những kẻ tự xưng- hoặc được tung hô- là nghệ sĩ đương đại. Nó hoàn toàn không có nghĩa là phải phủ nhận nghệ thuật đương đại.
Cũng trong hoàn cảnh đó, dưới mắt Frederick Turner, văn học không hề khá hơn: «Trong thơ, sự gieo vần và niêm luật bị loại trừ, cũng như sức mạnh của kể truyện và ngay cả cấu trúc lập luận và luận lý. Ngay cả trong tiểu thuyết, cốt truyện bị giáng cấp xuống hàng giải trí bình dân, và “tiểu thuyết không cốt truyện” của Alain Robbe-Grillet và William Burroughs đã có một thời oanh liệt.»
Vị giáo sư Mỹ nhận định: “Những cuộc tấn kích khủng bố 11 tháng 9 đã mang lại cho cả chúng ta một nhận thức rằng nghệ thuật ý niệm (conceptual art) “t.h.ơ n.g.ô.n n.g.ữ” (l.a.n.g.u.a.g.e p.o.e.t.r.y) không thể hiểu nổi, nghệ thuật trình diễn tiền vệ (avant-garde), tiểu thuyết không cốt truyện, âm nhạc không giai điệu, và kiến trúc hậu hiện đại phi nhân sẽ không có thể đương đầu với thực tại của thế giới. Chỉ trong những truyền thống nghệ thuật lớn của loài người chúng ta mới tìm ra được những phương tiện biểu hiện đầy đủ. Phong trào mới trong các ngành nghệ thuật, như thể đã dự tri nhu cầu này, đã dồn sức phục hồi những truyền thống ấy» [bản dịch NTV].
Từ đó, ông hô hào cho một chủ nghĩa kinh điển mới, khác với quá khứ, bởi nó « không chỉ đơn thuần là một sự quay về với những ý tưởng cổ xưa của châu Âu. Những chủ nghĩa kinh điển xưa đã đề ra những lý tưởng cố định và hoàn hảo chẳng bao giờ thay đổi; chủ nghĩa kinh điển mới nhìn thế giới như đang diễn tiến và một hòa nhập ngày càng phong phú hơn trong một phức thể vật lý và tâm linh» [bản dịch NTV].
Quan niệm của Frederick Turner, về cơ bản, rất gần với những gì đã được chia sẻ từ phần I của loạt bài này - có khác chăng chỉ là cách diễn đạt -, như trong phát biểu này của ông: “... khả năng của chúng ta để tạo tác và kinh nghiệm cái đẹp là một phần của tự tính (nature) chúng ta, cái đẹp là một tính sở hữu đích thực của vũ trụ, và khả năng của chúng ta cảm nhận và sáng tạo cái đẹp dựa trên những chức năng có thể xác nhận được của bộ óc - chúng cũng mang tính đại đồng như thể ngôn ngữ của con người. Như vậy cái đẹp không phải chỉ thuần là một quy ước mà cái đẹp là một khả năng và một nhu cầu căn bản của con người» [bản dịch NTV].
Trích dẫn lý thuyết gia số 1 của Công giáo, ông đi đến một kết luận không xa những suy cảm của đa số người thường chúng ta: «Thomas Aquinas, nhà thần học vĩ đại thời Trung cổ, đã tranh luận rằng đặc trưng nền tảng của thần tính là cái đẹp. Người ta chẳng cần theo lối thần học của ông cũng có thể tìm được cảm hứng trong ý tưởng là cái đẹp có thể là cái chúng ta cần để kéo chúng ta ra khỏi nỗi tuyệt vọng của thế kỷ 20».
Gần như một cách phân bua, Frederick Turner dẫn chứng nhiều trường hợp các «ténor» trên sân khấu đương đại: <<Ngay những nhà phê bình nghệ thuật hậu hiện đại như David Hickey và Peter Schjeldahl cũng đã bắt đầu ngợi ca cái đẹp, và từ này đã trở lại trong những phim như American Beauty và Stealing Beauty. Những nhà phê bình hợhợđợ [hậu hiện đại gọi tắt là pomo trong tiếng Anh tức postmodernism] và những nhà làm phim dùng từ cái đẹp theo nghĩa nào thì chưa rõ lắm - hay nhất họ có thể đưa tới là “hưởng thụ”, một thứ xuất tinh trong đầu về sự phá hủy một quy ước hoặc một kỳ vọng nào đó của quá khứ - tuy nhiên điều có í nghĩa là họ đã thấy nhu cầu phải kết nạp ngay từ “cái đẹp” này>> [bản dịch NTV].
Nhà thơ sử thi của Đại học Texas có vẻ bị ám ảnh bởi hậu hiện đại, nhưng khuynh hướng này đâu còn cái hào quang của thời le lói nữa. Nicole Aubert ở trời Tây cũng đã xác nhận sự bất lực của nó, tuy không viện dẫn sự kiện 11 tháng 9 như vị đồng nghiệp Mỹ: «Lan từ từ sang mọi lãnh vực, với những nội dung ý nghĩa không phải lúc nào cũng giống nhau, khái niệm hậu hiện đại dần dà lệch dòng và hết còn cho phép thật sự biểu đạt, lý giải, những xáo trộn mới nhất của xã hội đương đại (en s’étendant peu à peu à tous les domaines, avec des acceptions pas toujours similaires, le concept de postmodernité s’est peu à peu délité et ne permet plus vraiment de rendre compte des bouleversements les plus récents de la société contemporaine).208»
Thực ra, trước Frederick Turner những 16 năm, Félix Torres - một sử gia Pháp- đã đề cập đến khuynh hướng quay về quá khứ này của các ngành nghệ thuật209. Cái mới lạ trong bài nói chuyện của vị giáo sư Đai học Texas ở đây - ngoài thái độ phê phán nặng nề đối với những cái dị hợm trong nghệ thuật đương đại - là Tuyên ngôn của Phong trào «Kinh điển mới» mà ông là đại diện. Bạn đọc quan tâm có thể tham khảo đầy đủ nguyên văn ở nguồn đã nêu. Chỉ xin lưu ý rằng, mặc dù trong đại thể nội dung Tuyên ngôn rất phù hợp với những quan điểm tiến bộ nhất hiện nay, nó cũng không tránh khỏi một vài ý kiến không mấy hiển nhiên, không hề phổ quát. Chẳng hạn, nếu Tuyên ngôn mang những ý tưởng rất hay như:
«Cái đẹp chân chính là điều kiện của xã hội văn minh/ Cái đẹp là đối nghịch của quyền lực chính trị cưỡng chế/ Nghệ thuật phải nên dẫn đạo nhưng không đi theo đạo đức chính trị», thì ngược lại, nó cũng chứa một vài khẳng định - kiểu cho rằng «Cái đẹp không toàn vẹn nếu không có cái đẹp về đạo đức/ Kinh nghiệm về sự thật là đẹp» - khiến người ta dễ ngờ ngợ có một sự lẫn lộn nào đó giữa những phạm trù vốn độc lập với nhau, nhất là khi đang có khuynh hướng - có lẽ khởi đầu từ «đền» Harvard mới đây - hay nói nhiều về sự phục hồi các tiêu chí Chân Thiện Mỹ210.
Cũng vậy, khi Tuyên ngôn quả quyết «Chúng ta có một tự tính; tự tính đó có tính văn hóa; văn hóa đó có tính kinh điển», thì vế chót nghe ra có vẻ quá hạn chế...
Nhìn chung, Tuyên ngôn của Phong trào «Kinh điển mới» vẫn là một chứng từ độc đáo, thể hiện một chuyển biến đáng kể trong tư duy mỹ học đương đại. Nó cụ thể hóa và triển khai - trong sự «tái hợp» với truyền thống - những gì mà từ 1993, nhà phê bình nghệ thuật Mỹ Thomas McEvilley đã phân tích trong The Exile’s Return: Toward a Redefinition of Painting for the Post-Modern Era, một tác phẩm được xem là có cống hiến quan trọng cho cuộc tranh luận học thuật thế kỷ XX về «cái chết của hội họa». Theo Thomas McEvilley, sự «hồi sinh» của hội họa vào khoảng 1980 là một sự trở về sau chừng hai thập kỷ «lưu vong»: hội họa từ đó đã lớn thêm lên, người nghệ sĩ - với một khả năng tự vấn được nâng cao - ý thức sâu sắc hơn về bản chất ngành mình cùng những giới hạn nội tại của nó.211
Kết cục tốt đẹp này không chỉ xảy ra cho riêng nghệ thuật tạo hình. Ở một mức độ khác, văn học Pháp gần đây chẳng hạn cũng có vẻ như đã lấy được một sinh khí mới, như thể những hồi chuông cảnh báo từ mấy năm nay bắt đầu đem lại hiệu quả. Ngay một Antoine Compagnon khó tánh cũng không ngần ngại biểu lộ sự lạc quan của mình đối với thế giới chữ nghĩa trong mùa hè 2012 212. Hiện tượng « hồi sinh» đó của văn chương Pháp càng làm nổi bật sự sáng suốt của lý thuyết gia Yves Citton, người đã phản biện, phân tích rốt ráo vấn đề 213 giữa lúc tác phẩm «kêu thương» của Todorov112 còn đang rầm rộ tiếng vang và kéo được nhiều đồng minh nhất.
Chú thích:
* Xem Phần I trong Giai Phẩm Xuân Canh Dần, Diễn Đàn Forum ( hoặc ở http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=13470 )
** Xem Phần II đã đăng trên Diễn Đàn Forum ( hoặc ở http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=13471 )
[...]
130 Ngân Xuyên, Một nhầm lẫn “hậu hiện đại”, Tia Sáng, 07/11/2008, lưu ở
http://phamxuannguyen.vnweblogs.com/
Một tư liệu khác bằng tiếng Việt có thể tham khảo là : Khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại, Lê Huy Bắc,
http://nguvan.hnue.edu.vn/?
hoặc bản dịch đáng chú ý mới đây của Hải Ngọc : Thời đại của những thứ “hậu” ( từ cuốn The Theory Toolbox – Critical Concepts for the Humanities, Arts & Social Sciences của hai tác giả Jeffrey Nealon và Susan Searls Giroux; Rowman & Littlefield Publishers, Inc, ấn bản 2003, tr.125-131),
http://hieutn1979.wordpress.com
131 Lưu ý ở http://fr.wikipedia.org/wiki/Postmodernisme những lời « cảnh báo » sau đây:
– << ... La philosophie du postmodernisme dans les arts est à l'opposé de la philosophie postmoderne qui est celle de la condition postmoderne. >>
– <postmodernité,
– << Bien que généalogiquement toutes liées, les différentes acceptions philosophiques et littéraires du paradigme postmoderne sont foisonnantes, en venant souvent à se corriger voire à s'exclure mutuellement. Il convient donc d'être toujours attentif à l'auteur auquel on se réfère pour éviter les contresens >>
Về triết học hậu hiện đại, có thể tham khảo ở http://fr.wikipedia.org/wiki/Philosophie_postmoderne.
132 Lưu ý nhận xét sau đây ở http://fr.wikipedia.org/wiki/Postmodernit%C3%A9 : « La postmodernité est un concept de sociologie historique qui désigne selon plusieurs auteurs la dissolution, survenue dans les sociétés contemporaines occidentales à la fin du XXesiècle, de la référence à la raison comme totalité transcendante. De cette fin de la transcendance résulte un rapport au temps centré sur le présent, un mode inédit de régulation de la pratique sociale, et une fragilisation des identités collectives et individuelles. »
Chính vì thế: « La postmodernité ne doit pas être confondue avec le postmodernisme entendu comme un mouvement artistique et architectural, fondé sur une critique du modernisme. »
133 Lưu ý ở http://fr.wikipedia.org/wiki/Architecture_postmoderne điều này : « Le postmodernisme en architecture ne doit pas être confondu avec l'architecture postmoderne ou déconstructiviste, dont les auteurs, comme Rem Koolhaas, revendiquent et assument les caractéristiques de la postmodernité »
134 Có lẽ là lãnh vực dễ cảm nhận cụ thể nhất ; lưu ý
ở http://fr.wikipedia.org/wiki/Musique_postmoderne những chi tiết đầy đủ và thú vị sau đây :
<<Jonathan Kramer énonce l'idée (à la suite d'Umberto Eco et Jean-François Lyotard), que le postmodernisme (y compris en musique) est moins un style en apparence ou une période historique (c'est-à-dire, une condition) qu'une attitude. Kramer énumère 16 "caractéristiques de la musique postmoderne, voulant signifier que la musique est comprise d'une manière postmoderne, ou qu'elle appelle des stratégies d'écoute postmoderne, ou qu'elle offre des expériences d'écoute postmoderne, ou qu'elle présente des pratiques de composition postmoderne». Selon Kramer (Kramer 2002, 16-17), la musique postmoderne:le postmodernisme (y compris en musique) est moins un style en apparence ou une période historique (c'est-à-dire, une condition) qu'une attitude. Kramer énumère 16 "caractéristiques de la musique postmoderne, voulant signifier que la musique est comprise d'une manière postmoderne, ou qu'elle appelle des stratégies d'écoute postmoderne, ou qu'elle offre des expériences d'écoute postmoderne, ou qu'elle présente des pratiques de composition postmoderne». Selon Kramer (Kramer 2002, 16-17), la musique postmoderne:
/1. n'est pas simplement un rejet de la modernité ou sa continuation, mais a des aspects à la fois de rupture et d'extension.
/2. est à un certain niveau et d'une certaine façon, ironique.
/3. ne respecte pas les limites entre les sonorités et les procédés du passé et du présent
/4. remet en question les barrières entre style «élevé» et «faible»
/5. montre un dédain pour la valeur incontestable de l'unité structurelle
/6. questionne l'exclusivité réciproque des valeurs élitiste et populiste
/7. évite les formes totalisantes (par exemple, ne veut pas des pièces comme des entités tonales, sérielles ou façonnées dans un autre moule)
/8. ne considère pas la musique de manière autonome, mais relevant de contextes culturels, sociaux et politiques
/9. inclut des citations ou des références de musiques provenant de nombreuses traditions et cultures.
/10. considère la technologie pas uniquement comme une manière de préserver et de transmettre la musique, mais aussi comme profondément impliqué dans la production et l'essence de la musique
/11. englobe les contradictions
/12. se méfie des oppositions binaires
/13. inclut des fragmentations et des discontinuités
/14. contient le pluralisme et l'éclectisme
/15. présente plusieurs significations et de multiples temporalités
/16. situe la signification et même la structure chez l'auditeur, plus que dans les partitions, les interprétations ou les compositeurs
Perçue comme une réaction contre la complexité et le radicalisme post-sériel, l'attitude postmoderne se veut une revendication vers des formes métissées, par l'emploi du collage et de la citation de musiques d'origines diverses>>
135 Xem ở http://fr.wikipedia.org/wiki/Post-modernisme_(litt%C3%A9rature), trong đó có đoạn: <Jean-François Lyotard1, du «jeu» selon Jacques Derrida 2 et du «simulacre» selon Jean Baudrillard. Par exemple, au lieu de la quête moderniste de sens dans un monde chaotique, l'auteur post-moderne évite, souvent de manière ludique, la possibilité du sens. Le post-roman est souvent une parodie de cette quête. Cette méfiance à l'égard des mécanismes de totalisation s'étend même à l'auteur. Ainsi, les écrivains postmodernes privilégient souvent le hasard à la technique et emploient la métafiction pour saper le contrôle « univoque » de l'auteur (le contrôle d'une voix unique). La distinction entre culture supérieure et inférieure est également attaquée par l'emploi du pastiche, de la combinaison de plusieurs éléments culturels, y compris de sujets et de genres qui n’étaient pas auparavant considérés comme propres à la littérature.>>
136 Theo Alexandru Matei chẳng hạn, ở
http://www.fabula.org/atelier.php?Penser_le_%22postmoderne%22, đặc biệt trong đoạn sau :
<<Pour Lyotard, la postmodernité n'est pas une époque nouvelle non pas parce qu'il s'agirait seulement d'un changement d'attitude, mais bel et bien parce qu'il s'agit d'une même époque. Or, c'est précisément cette dernière assertion qui est réfutée par les tenants anglo-saxons du postmodernisme: «Il y a une différence significative entre les deux esthétiques: le penchant antimoderniste pour les âges d'or du classicisme ou du romantisme perpétue l'élitisme de l'art musical, tandis que le postmodernisme se déclare anti-élitiste» >>. Về hậu hiện đại, có thể xem thêm phần trình bày chung bằng tiếng Anh ở http://en.wikipedia.org/wiki/Postmodernism
138 Mời đọc để có ý niệm về thực trạng : Phương Lựu - Nguyễn Văn Dân, Trao đổi về CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI - TỒN TẠI HAY KHÔNG TỒN TẠI, http://vanhoanghean.com.vn/
139 Marc Jimenez, Qu'est-ce que l'esthétique?, Gallimard, Folio Essais, Paris, 1997, tr. 418
è« La postmodernité n’est pas un mouvement ni un courant artistique. C’est bien plus
l’expression momentanée d’une crise de la modernité qui frappe la société occidentale, et en
particulier les pays les plus industrialisés de la planète. Plus qu’une anticipation sur un futur qu’elle se
refuse à envisager, elle apparaît surtout comme le symptôme d’un nouveau ‘malaise dans la
civilisation’. Le symptôme disparaît progressivement. La crise reste : elle tient aujourd’hui une place
considérable dans le débat esthétique sur l’art contemporain ». Xem thêm tiểu sử tác giả ở http://fr.wikipedia.org/wiki/Marc_Jimenez
140 Nguyễn Văn Dân, Chủ nghĩa hậu hiện đại - Tồn tại hay không tồn tại (15-09-2011), http://vanvn.net/news/11/932-chu-nghia-hau-hien-dai---ton-tai-hay-khong-ton-tai.html
141 Riêng trên văn đàn Việt ngữ, có thể kể tới những nhìn nhận của một số tác giả, chẳng hạn như :
- Bùi Văn Nam Sơn trong bài viết cô đọng [ Triết học Hậu hiện đại , (7/2007), http://cafehocthuat.blogspot.com/2011/10/triet-hoc-hau-hien-ai-bui-van-nam-son.html ] có đoạn : Jürgen Habermas, “triết gia lớn nhất còn đang sống” của nước Đức, cũng phải thừa nhận: “Trong một, hai thập kỷ gần đây, khi nghĩ đến những dự báo về lý luận xã hội của thời đại, tôi thấy Paris là nơi xuất phát nhiều gợi ý sáng tạo nhất, hơn bất kỳ nơi nào khác”.
- Bùi Thị Trạc Tuyền dịch và chú thích Jürgen Habermas (Một lời chào cuối- Tác động giải tỏ của Derrida, http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:3njPjvjWDiQJ:www.talawas.org/talaDB/showFile.php%3Fres%3D2978%26rb%3D0301+&cd=3&hl=fr&ct=clnk&gl=vn ) trong đó triết gia Đức đã đề cao Derrida.
- Ngân Xuyên Phạm Xuân Nguyên [nguồn 130] tóm lược rõ ràng : « Nền móng của triết học hậu hiện đại là các công trình của các nhà triết học Pháp: Michel Foucault (Les Mots et les choses. Une archéologie des sciences humaines, 1966), Jacques Derrida (De la grammatologie, 1967), Gilles Deleuze và Félix Guattari (L'Anti-Œdipe - Capitalisme et schizophrénie, 1972), Jean Baudrillard (L’Échange symbolique et la mort, 1976), Jean-Francois Lyotard (La condition postmoderne: rapport sur le savoir, 1979), cũng như của nhà triết học Mỹ Richard Rorty (Philosophy and Mirror of Nature, 1979) ».
142 Trích dẫn bởi nguồn 77**, tr.233
143 Như trên, tr.235/241
144 Như trên, tr.231
145 Như trên, tr.236/251
146 Chân Phương, Cái Mới Đi Về Đâu ? ( Chú thích số 7), http://amvc.free.fr/Damvc/ChanPhuong/LyLuan/ChanPhuongCaiMoiDiVeDau.htm
147 Chân Phương (trích dịch & chú thích), Cái chết của chủ nghĩa hậu hiện đại và xa hơn (nguyên tác của Alan KIRBY),
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=2240%3Acai-cht-ca-ch-ngha-hu-hin-i-va-xa-hn&catid=94%3Aly-lun-va-phe-binh-vn-hc&Itemid=135&lang=vi
(hoặc dạng lưu ở :http://webcache.googleusercontent.com/
Trong bài này, một lần nữa, người ta lại thấy Chân Phương chú thích (số 4) như vầy: Khi Sokal và Bricmont vạch rõ trò lừa bịp trí thức của Lacan, Baudrillard, Virilio, Guattari, Latour, Kristeva, Irigaray,…hào quang của French Theory tan biến; từ đó giới hàn lâm Anh-Mỹ tránh không muốn nhắc đến các thần tượng giả nữa. (Quyển sách làm chấn động dư luận trong học thuật Âu-Mỹ Impostures Intellectuelles, Paris, 1997 của hai nhà khoa học đã được tiếp sức bởi nhiều hội thảo, hội nghị và tranh luận trên sách báo qui tụ được sự ủng hộ của nhiều nhà khoa học và triết gia hàng đầu như Steven Weinberg, Noam Chomsky, Ian Hawking, Jacques Bouveresse, Paul Braffort… vốn không chịu được các quan điểm hoài nghi chủ nghĩa phản lý tính và xem thường phương pháp luận khoa học chặt chẽ tiêu biểu cho trào lưu hậu hiện đại. Có thể tham khảo thêm Alan Sokal, Beyond the Hoax, Oxford U.P.,2008 và LINGUA FRANCA Ed.,The Sokal Hoax, University of Nebraska Press, 2000, tập hợp các tài liệu quan trọng liên quan đến cuộc tranh luận đả phá trường phái hậu hiện đại Pháp-Mỹ. Bạn đọc cũng nên vào Google để đọc các bài tham luận trong cuộc hội nghị triết học After Postmodernism tổ chức vào tháng 11 -1997 tại University of Chicago để tìm định hướng mới cho triết học Hoa Kỳ sau cơn địa chấn tư tưởng do sự kiện Sokal gây ra.
Trong một bài khác nhan đề VỀ TƯƠNG LAI TRÍ THỨC PHÁP (chú thích số 3, http://amvc.free.fr/, Chân Phương nói đến sự << phê phán tính mập mờ “đánh lận con đen” của các tên tuổi kiểu Derrida, Lyotard, Lacan…>>
Để kết luận và tránh mọi hiểu lầm, chúng ta chỉ mong Chân
Phương thành thực với chính mình khi ông có những dòng sau đây trong lời dẫn
bài viết: «Tôi chỉ hi vọng cách đánh giá thẳng thắn không khoan
nhượng về một thời kỳ có vấn đề của học thuật phương Tây nói chung sẽ giúp các
độc giả VN nâng lên ý thức về tính cần thiết của sự đa dạng trong cách tiếp cận
các vấn đề tư tưởng thế giới, không những về mặt phương pháp suy tư mà còn về mặt
thận trọng tri thức. Bởi lẽ đằng sau ngôn thuyết hàn lâm vẫn không thiếu những
loại lè nhè xảo ngôn, và Paris chưa hẳn độc quyền về các trò này».148 Theo Wikipedia (http://fr.wikipedia.org/wiki/Impostures_intellectuelles),
ngay trong phần dẫn nhập của cuốn sách, Sokal (và Bricmont) đã nói rõ :
<> ( xem đầy đủ nguyên văn : Le but de cet essai est d’apporter
une contribution, limitée mais originale, à la critique de
la nébuleuse postmoderne. Nous ne prétendons pas analyser celle-ci en
général mais plutôt attirer l’attention sur des aspects relativement peu
connus, atteignant néanmoins le niveau de l'imposture, à savoir l’abus réitéré
de concepts et de termes provenant des sciences physico-mathématiques. Plus
généralement, nous analyserons certaines confusions intellectuelles, fort
répandues dans les écrits post-modernes, qui portent à la fois sur le contenu
du discours scientifique et sur sa philosophie ).Ngoài ra, xin lưu ý là Sokal tiếp tục chiến dịch chống hậu hiện
đại với quyển sách ra gần đây hơn Pseudoscience and Postmodernism:
Antagonists or Fellow-Travelers? [trong Archaeological Fantasies: How
Pseudoarchaeology Misrepresents the Past and Misleads the Public, ed. Fagan
(2004)] , mà phiên bản tiếng Pháp là Pseudosciences & postmodernisme:
Adversaires ou compagnons de route ?( Odile Jacob, Paris, 2005).Lời giới thiệu của nhà xuất bản có nói rõ : « Ce
nouvel ouvrage continue la critique du postmodernisme et du
relativisme cognitif, déjà amorcée dans Impostures intellectuelles. Les
liens supposés entre pensée postmoderne et pseudo-sciences sont ici
analysés »…149 Engel Pascal, mà tiểu sử đăng ở http://fr.wikipedia.org/wiki/Pascal_Engel có
cho một số nét đáng lưu ý như:« Ancien élève de l'École normale supérieure, agrégé de
philosophie,[…], il s'est tourné vers la philosophie analytique, qu'il a
également étudiée en Angleterre et aux États-Unis. Il a présidé
la Société de philosophie analytique de 1993 à 1997 et est
membre fondateur de l’European society for analytic philosophy. Il a enseigné
aux universités de Grenoble, de Caen, de Paris-IV Sorbonne et dans plusieurs
universités étrangères. Il a été membre de l'Institut universitaire de France,
membre du Centre de Recherche en Epistémologie Appliquée de l'École
polytechnique puis de l'Institut Jean Nicod de 2001 à 2006. Il a
édité la revue dialectica de 2005 à 2011. Depuis 2005, il est
professeur de philosophie moderne et contemporaine à l'université de Genève ».150 Engel Pascal, L'affaire
Sokal concerne-t-elle les philosophes francais?, nguyên bản
trong J.F. Mattéi, Philosopher en français: langue de la philosophie
et langue nationale, Paris : PUF, 2001 [ đăng lại trên mạngở : http://www.unige.ch/lettres/philo/enseignants/pe/Engel%201999%20L%20affaire%20sokal%20concerne%20telle%20les%20francais.pdf ]à Nói về Jacques Bouveresse, bài viết của Engel cho một
số thông tin như sau:«L’un des sectateurs de Sokal, Jacques
Bouveresse, dans son méchant petit livre Prodiges et vertiges de
l’analogie, se gausse de ce que Michel Serres, que l’on ne pourrait
accuser de flagornerie ou de légèreté en cette circonstance comme dans
d’autres, appelle “ le théorème de Gödel-Debray ”. Ce théorème est énoncé de
façon parfaitement claire par Debray lui-même parlant de l’organisation sociale
: “Il m’est apparu…que ces pratiques d’organisation avaient,
tout au long de l’histoire, un axe récurrent, heureusement variable dans ses
formes, mais malheureusement stable en son principe, l’axiomed’incomplétude, ou se noue à mes yeux, la syntaxe religieuse
de la vie collective. Je résume ce mécanisme logique inspiré par Gödel : aucun
ensemble de relations n’est relatif à lui-même, ou alors ce n’est plus unensemble. Un système ne peut se clore à l’aide des seuls
éléments intérieurs au système. La fermeture d’un champ ne peut donc procéder
que contradictoirement, par ouverture à un élément extérieur à ce mêmechamp. Cet élément pourra être à son tour héros fondateur,
mythe d’origine, Ecriture Sainte, Constitution ou Testament – ce sera toujours
le sacré de ce groupe, son point fixe et son trou fondateur : ce qu’il a perduau départ et qu’il doit se redonner sans cesse,
symboliquement, pour se reconstituer comme groupe. ”Et Bouveresse de prétendre qu’il s’agit là d’une
assimilation scandaleuse de résultats mathématiques qui n’ont rien à voir avec
un principe de logique du social ! Sa mauvaise foi est criante si l’on se
réfère aux déclarations d’une grande prudence épistémologique de Debray
lui-même, que Bouveresse se garde bien de citer : “Le théorème de Gödel n’offre à mon propos aucun argument ni
aucun effet d’autorité possible. Extrapoler un résultat scientifique, et le
généraliser hors de son champ spécifique de pertinence expose, chacun le sait,
à de grossières bévues. On ne peut évidemment pas, sauf à jouer sur les
mots de “ fondement ” et de “ consistance ” ou d’ “ ensemble ” assimiler un
système politico-social à un système logico-déductif ».à Một đoan khác cũng không kém phần đáng chú
ý :Rien d’étonnant alors à ce que de tristes logiciens
atrabilaires comme Bouveresse aient pris fait et cause pour Sokal et Bricmont.
Leur démarche renforce l'idée détestable que les sciences “dures” incarnent la
vérité et ont le droit d'exercer une censure sur les autres discours. Il y a
dans ce geste un autoritarisme qui fait peur. Pourquoi ne pourrait-on déplacer
légèrement le sens des termes “relativité” ou “intervalle de lumière”, sans
faire offense aux sciences? Reproche-t-on aux physiciens d'appeler “chaos” le
comportement de systèmes non linéaires? Il en est encore qui se posent en
“policiers des douanes”. Tels des “grammairiens” ne lisant dans les lettres
d'amour que les fautes de syntaxe, obnubilés par le trafic des concepts
scientifiques, ils ne pourront jamais lire une oeuvre de philosophie ou de
sociologie, et finiront par se demander s'il est scientifiquement légitime de
dire de la Terre qu'elle est “bleue comme une orange”.151 Trích dẫn bởi nguồn 77**, tr.137152 Arthur Danto, L’art contemporain et la
clôture de l’histoire, nxb. Seuil, 1996, tr.23 153 Trích dẫn bởi nguồn 77**, tr.260154 Octavia Paz, Point de convergence. Du
romantisme à l’avant-garde, nxb. Gallimard, 1974, tr.190155 Harold Rosenberg, The De-definition of
Art, nxb. Collier Books, 1972, tr.55156 Trích dẫn bởi nguồn 77**, tr.213157 Thomas McEvilley, Art & Otherness,
1992 (bản dịch tiếng Pháp L´Identité culturelle en crise, nxb. Jacqueline
Chambon, 1999, tr. 73 và tiếp theo)158 Susan Sontag, Against Interpretation and
Other Essays, Nxb Andre Deutsch, London, 1987 [bản dịch của Nguyễn Đăng
Thường ở http://lythuyetvanhoc.wordpress.com]159 «Trao đổi thư từ Kandinsky-Schönberg» (Thư của
Schönberg ngày 24 tháng 1911), Contrechamps, số 2, tr. 13160 Maurice Merleau-Ponty, Phénoménologie de
la perception, nxb. Gallimard, Paris,1945, tr.490161 Maurice Merleau-Ponty, Sens et non
sens (1948), tái bản Gallimard, Paris,1996, tr.35162 Xem ở http://fr.wikipedia.org/163 Alain Badiou, Le Siècle, Paris,
nxb. Seuil, 2005, tr. 191164 Daniel Bell, Les contradictions
culturelles du capitalisme, nxb PUF, 1979, tr.26/27165 Kandinsky, Du spirituel dans l’art et
dans la peinture en particulier, bản dịch Denoel, 1969, tr.67166 Nguồn 77**, tr.258167 Xem ở http://fr.wikipedia.org/168 Nguồn 155, tr.12169 Thierry de Duve, Au nom de l'art (Pour
une archéologie de la modernité), nxb. Minuit, 1989, tr.77-> Tuy nhiên, cần lưu ý thêm điều này: chính Duchamp
đã thú nhận trong diễn văn đọc tại Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại New York
năm 1961, nhân cuộc triển lãm Art of assemblage rằng ready made
của ông chế ra là phi thẩm mỹ, nhằm đáp ứng cho tình trạng người thưởng
ngoạn đã trở thành kẻ «bị gây mê » hoàn toàn (Marcel DUCHAMP, «À propos
des Ready-mades» trong Duchamp du signe, Paris, Flammarion, 1994,
tr. 191-192). Nguyên văn: «Il est un point que je veux
établir très clairement, c'est que le choix de ces ready-mades ne me fut jamais
dicté par quelque délectation esthétique. Ce choix était fondé sur une réaction
d'indifférence visuelle, assortie au même moment à une absence totale de bon ou
de mauvais goût… en fait, une anesthésie complète». Quả tình
không thể rõ hơn!170 Xem ở http://en.wikipedia.org/171 Xem ở http://en.wikipedia.org/wiki/172 Nguyễn hữu Các, Cái Đẹp cứu rỗi nhân loại trong Nguyễn
đình Thi, Bí mật cuộc đời, nxb. Văn học, 2008, tr. 43-48173 E. Hamilton, The Greek Way, W.W. Norton, New
York (1964), tr.67174 Phim của Roman
Polanski, ra năm 2002,
dựa trên tiểu thuyết tự truyện của Władysław Szpilman175 Trích dẫn ở http://www.spiritualite2000.com/blogue/176 Diễn văn Benoît XVI với nghệ sĩ
21/11/2009. http://www.zenit.org/177 Xem ở http://www.liturgiecatholique.fr/178 Xem ở http://www.vatican.va/holy_father/179 Ví dụ trên: Le blog de Laurence
Duarte, http://beautifulideas.blog.lemonde.fr/;
Café philo: la beauté sauvera-t-elle le monde? (27/6/2009), http://cheminphilo.blogspot.com/180 Nguồn 77**, tr.308-309181 Jean-François Lyotard, Le Postmoderne expliqué aux
enfants, nxb. Galilée, 1988, tr.28182 Như trên, tr.24183 Jean-François Lyotard, sđd (phần «Thư gửi Thomas E.
Carrroll ngày 15 tháng 5 năm 1982»), dòng 15-16184 Như trên, dòng 18185 Trích dẫn bởi Thierry de Duve trong bài giảng «Esthétique», http://documents.univ-lille3.fr/files/espaces/composantes/186 Umberto Eco (chỉ đạo), Histore de la
laideur, nxb. Flammarion (2011)187 Harold Rosenberg, sđd, tr.100188 http://webcache.googleusercontent.com/ :www.independent.co.uk/arts-entertainment/189 Về cuộc triển lãm của Wim Delvoye : http://www.francetv.fr/culturebox/blog/190 Ý kiến Marie-Laure Bernadac trong bài báo ở http://webcache.googleusercontent.com/191 Murakami à Versailles: audace ou sacrilège ?, http://www.lemonde.fr/-> Marc Jimenez, trong bài báo của mình (được nhắc tới
trong đường dẫn vừa nêu ) có trích dẫn Clement Greenberg nói về kitsch,nguyên
văn như sau : << ...[Clement Greenberg] prévoyait et déplorait dès
la fin des années 1930 l'hégémonie planétaire du kitsch, c'est-à-dire d'un art et
d'une littérature "populaires et commerciaux faits de chromos, de
couvertures de magazines, d'illustrations, d'images publicitaires, de
littérature à bon marché, de bandes dessinées, de musique de bastringue, de
danse à claquettes, de films hollywoodiens, etc.">>192 Marc Fumaroli, L'Etat, le patrimoine et
"le business des biens culturels"(1/10/2011), http://www.lemonde.fr/193 Pierre Wat, Pendant le scandale, l'art
continue, http://www.lemonde.fr/194 Dany-Robert Dufour, Créateurs en mal
de provocation, http://www.monde-diplomatique.fr/195 Luc Ferry, L'art contemporain est-il
nul? (28/07/2010),
http://www.lefigaro.fr/196 Aude de Kerros, Sacré art contemporain,
nxb. Jean-Cyrille Godefroy, 2012197 Đoàn Tử Huyến : Mạc Ngôn, Tác giả tiêu biểu
của nền văn học Trung Quốc đương đại, http://www.diendan.org/Xem thêm ý kiến Phạm Xuân Nguyên ở http://vtc.vn/198 Frederick Turner, The New Classicism and
Culture, http://webcache.googleusercontent.com/( Những đoạn trích trong bài được mượn từ bản dịch tiếng
Việt của Nguyễn Tiến Văn mà chúng ta phải tri ân, mặc dù một số từ và câu dịch
chưa hoàn toàn chuẩn xác: CHỦ NGHĨA KINH ĐIỂN MỚI VÀ VĂN HOÁ, http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:HBmIWRtwdZQJ:www.thotanhinhthuc.org/199 Khái niệm về sự giống mẫu thật được đề cao trong
nhiều khảo luận về nghệ thuật đương đai, ví dụ như Esthétique
contemporaine. Art, représentation et fiction (2005) [bài viết tập hợp
bởi JP. Cometti, J. Morizot, R. Pouivet , coll.« Textes clés »,Vrin,
2005,giới thiệu bởi Nicolas Wanlin ở http://www.fabula.org/200 Tuấn Thảo, Edward Hopper: Bậc thầy của nghịch
lý hiện thực, http://www.viet.rfi.fr/201 Alain Beaulieu, L'art figural de Françis Bacon et
Brian Ferneyhough comme antidote aux pensées nihilistes, http://www.uqtr.ca/202 Theo wikipedia http://fr.wikipedia.org/203 Roger Pouivet, L'ontologie de
l'oeuvre d'art, Vrin, collection "Essais d'art et de philosophie", in
lần 2 có sửa chữa và viết thêm, 2010204 Bùi Văn Nam Sơn có phổ biến một đoạn dịch
Heidegger rất hay trong "Ranh
giới cho những khả thể của con người" (Câu chuyện của Bùi Văn Nam Sơn và
Nguyễn Thị Từ Huy) , http://vanhoanghean.vn/205 Foucault (Michel), 1966 : Les mots et les
choses, NRF Gallimard, coll. Bibliothèque des sciences humaines, Paris206 Phỏng vấn bởi Hélène Pelletier-Baillargeon :
«Interview de Fernand Dumont. Les alentoursdu rapport Dumont», Maintenant, số 112(1972),
tr.17=>Nguyên văn phát biểu của Dumont :«La transcendance n’est pas au-dessus de l’humain,
elle est au contraire en-dessous c’est-à-dire au coeur même de l’humain. La
transcendance c’est ce quibrise, qui ouvre, qui défait et dépasse les conformismes, les
systèmes, les doctrines pour projeter en avant, là où se vit le tragique de la
condition humaine. Elle n’ajoute rien, au contraire elle retranche :elle écarte le fatras des livres pour inviter à la
simplicité, pour retourner au fondamental, à l’essentiel.» 207 Fernand
Dumont, L’anthropologie en l’absence de l’homme, Paris :
P.U.F.(1981), tr. 168208 Nicole
Aubert, Un individu paradoxal, trong «L’individu
hypermoderne», Ramonville Saint-Agne, nxb. Erès, 2004, tr. 14.209 Félix Torres, Déjà
vu, Post et néo-modernisme: le retour du passé, nxb. Ramsay (1986)210 Howard
Gardner, “Truth, Beauty, and Goodness Reframed Educating for the
Virtues in the Twenty-First Century” (04/2011): xem giới thiệu ở http://news.harvard.edu/211 Xem ở
http://en.wikipedia.org/212 Antoine Compagnon, phỏng
vấn đăng trong Le Point 16/8/2012 tr.78-79213 Yves Citton, « Il
faut défendre la société littéraire », trong La Revue
Internationale des Livres et des Idées, 08/07/2008, http://www.revuedeslivres.onoma6.com/214 Luận án của
Victoria Reichelt tại Đại học Griffith, Nam Brisbane, Úc (2005): Painting’s
Wrongful Death: The revivalist practices of Glenn Brown and Gerhard Richter, được
giới thiệu ở http://www4.gu.edu.au:8080/
3. Vấn nạn Việt Nam
Có lẽ chưa bao giờ, trong suốt lịch sử mấy nghìn năm, dân tộc
Việt Nam lại phải đối mặt với một nghịch lý chua cay, nghiệt ngã như hôm nay
: sau chiến thắng giành lại chủ quyền và thống nhất lãnh thổ, đất nước- thay
vì đi vào kỷ nguyên phát triển vinh quang- lại bị ngập chìm trong bóng
tối một quá trình suy vong, rệu rã.215
Ở đây, ta sẽ không bàn đến khía cạnh chính trị bởi nó ngoài
đề, nhưng bối cảnh đó là cái nền chung không chối cãi cho mọi phân tích liên
quan đến thực trạng xứ sở.
Trên bình diện văn hóa - là phạm vi giới hạn của bài viết
này -, một giả thuyết dễ dàng đến ngay, sát với chủ đề của chúng ta, đó
là : những thất bại đớn đau đã thấy, nghĩ cho cùng, đều bắt nguồn từ sự
đánh mất những giá trị cơ bản, dẫn tới sự phá sản của vốn liếng nhập cuộc.
Nói cách khác, cái nền tảng ban đầu của đất nước ngay từ trong
kháng chiến đã ngầm chứa tất cả những nhân tố độc hại làm triệt
tiêu mọi khả thể thăng tiến nhân văn và phát triển xã hội : hận thù được tôn
lên thành động cơ đấu tranh chính thống 216, tri thức là dấu vết
đáng ngờ của một thứ « tội tổ tông » làm nhơ lý lịch, di sản văn
hóa cha ông không mấy khi tránh khỏi bị quy kết là «tàn dư phong kiến»,
và mãi đến hôm nay vẫn tiếp tục bị lạnh lùng phá hủy...217
Một hệ tư tưởng dựa trên những xác quyết u ám như vậy, thì
lấy gì để vực dậy Quê Hương, để nâng tầm dân tộc sau cuộc chiến thảm khốc vừa
qua (một dân tộc dẫu không may mắn có được một Minh Trị Thiên Hoàng như nước
Nhật- thay vì một Tự Đức- ở khúc quanh định mệnh của lịch sử cận đại, nhưng
cũng đã từng sản sinh những Lý Thường Kiệt 218, Trần Nhân Tôn 219,
Nguyễn Trãi 220)?
Dân tộc đó đang gánh chịu sự xuống cấp trầm trọng về vật chất
lẫn tinh thần. Non nước xác xơ. Tuổi trẻ tiều tụy221. "Gia tài của
mẹ, một bọn lai căng; gia tài của mẹ, một lũ bội tình" : câu hát nổi
tiếng của Trịnh Công Sơn - tự bao giờ- vẫn giữ nguyên thời gian tính, như lằn
roi quất lên gương mặt thời đại.
Đến hôm nay, “máu và nước mắt từng ngày vẫn đổ” 222. Đó
là nỗi khổ nhục lớn.
Đó cũng là một trong những tiền đề cho những xót xa, suy ngẫm
nơi mỗi chúng ta. Song, trong khuôn khổ Chương cuối Phần III*** của loạt bài
này, ta cần có một độ lùi tối thiểu đối với thời cuộc để thử điểm lại-
dưới góc độ học thuật- những điều kiện cơ bản hãy còn quá khiếm khuyết, chưa
cho phép văn học nghệ thuật Việt Nam ngẩng đầu đối mặt với thử thách.
Bất luận thời nào, cách mạng đích thực phải là cách mạng
nhân văn. Thế mà, từ nhiều thập kỷ qua, cái Đẹp đã dấu mặt, tư duy tắt ngấm.
Giữa khoảng trống chơ vơ là những quờ quạng, thao thức vô hình. Và nỗi bất lực
triền miên...
Nhưng giải pháp làm sao ló dạng, khi chính chúng
ta chưa đặt được cho mình câu hỏi bộc phá, đủ sức vạch mở- từ tọa độ dân
tộc- một không gian suy tưởng ăn khớp với thời đại, tạo ra sức bật ý
nghĩa nơi từng chủ thể biết nhen nhúm, thổi bùng ngọn lửa xác tín thiêng
liêng về những giá trị sống chết và ý nghĩa sâu thẳm của hiện hữu, cần
được khám phá, tái hiện, triển khai, dưới gam màu độc đáo và âm sắc riêng lạ của
mỗi cảnh đời?
Chúng ta đang dẫy chết trong sự thờ ơ, nhát sợ, tầm thường. Còn
cái Đẹp, tự nó - và muôn đời -, là thách thức. Khi không gian mỗi ngày thêm ngạt
thở, thì cái Đẹp là sinh lộ thanh thoát cho những dũng cảm nhân cách,
sâu lắng tư duy và tinh khiết tâm hồn : hành trình Mỹ học, do đó, cũng là
hành trình thăng hoa nhân tính và dẫn tới siêu nghiệm (transcendance), như đã
thấy trên (Chương 2)***.
Ở Việt Nam, do triết học vốn đã thiếu vắng trong cốt hồn
văn hiến lại càng không có chỗ đứng trên sân chơi học thuật đương thời, nên
những thách thức của cái Đẹp khó lòng vượt qua cảm tính để thâm nhập tâm thức,
xoáy mạch trầm tư. Thay vào đó, văn học nghệ thuật - trong tư thế độc
lập từ ngoại biên chính trị - là tác nhân sung mãn nhất còn lại, có khả
năng và trách nhiệm chấp nhận thách đố - mà khởi đầu là sự tập trung
khắc phục những hạn chế nội tại - để lột xác vươn lên, soi rọi nhân thế, nắm bắt
sự thật, khơi gợi những chân trời khả thể, kích hoạt cuộc hồi sinh,
chính danh đóng trọn vai trò vượt lịch sử (transhistorique) đầy khó
khăn, tế nhị, nhưng vô cùng thanh cao của nó: sáng tạo và khai phóng.
Bởi cái Đẹp đánh thức con người. Bởi sáng tạo không ngừng
kêu đòi cảm hứng. Thôi thúc, quyết liệt. Như cách mạng chờ ngòi lửa. Như hạn
hán đợi cơn mưa.
Tín hiệu đáng mừng hay bức tranh siêu thực?
Những tin tức về số phận dành cho người nghiên cứu nhóm thơ hậu
hiện đại Mở Miệng 223-224 gần đây, đã khiến dư luận cảm thấy - nếu không
công phẫn - ít nhất là một sự thất vọng bàng hoàng. Mặc dù vậy, bên cạnh
bao bức xúc khác, nếu xét kỹ dưới góc nhìn thuần túy văn hóa thì thời sự văn
nghệ Việt Nam trong vòng hai năm nay thật ra cũng không phải không có một số dấu
hiệu tương đối tích cực, cho ta ít nhiều hy vọng.
Ví dụ đầu tiên: Vi Thùy Linh mang thơ vào Nhà hát Lớn, biến
văn chương thành «sự kiện» sáng giá trong đêm nghệ thuật cuối năm
2012 tại Hà Nội. Phải nhìn nhận đây là một sáng kiến táo bạo về cách làm, tạo
được ấn tượng tốt ở nhiều người, từ nhà sử học Dương Trung Quốc225-226đến nhà
phê bình Phạm Xuân Nguyên227, nếu chỉ nhắc đến chừng ấy ý kiến phát biểu. Một sự
động viên giỏi, vận dụng hiệu quả nguyên lý tiếp cận thị trường hiện đại và
khéo dựa trên những phương tiện sân khấu ca, vũ, nhạc cộng thêm với cả mỹ thuật
đương đại: tất cả nhằm để vinh danh Thơ (mà cụ thể trước mắt là sự đăng quang
những sáng tác của nhà thơ).
Một ví dụ khác - ít rầm rộ hơn, nhưng không kém phần ý nghĩa-,
đó là việc một Tủ sách Văn học Việt Nam đương đại mới ra đời 228 tại
Pháp nhờ công sức của dịch giả Đoàn Cầm Thi cùng nhà văn Thuận, mà chỉ
riêng bức ảnh dưới đây cũng đủ làm toát lên vẻ sáng tự tin của một thế hệ xông
xáo, tài năng và đẹp rạng rỡ. Rạng rỡ cũng còn là tin vui khác về việc tiểu
thuyết "Biển và Chim Bói Cá" của nhà văn Bùi Ngọc Tấn được giải thưởng
tại liên hoan "Sách và Biển" 2012 trên đất Pháp...229
Nhà văn Thuận (trái) và dịch giả Đoàn Cầm Thi tại lễ ra mắt Tủ
sách Văn học Việt Nam đương đại tại Pháp
Bìa tác phẩm «Biển và chim bói cá» bản tiếng Pháp
Rời văn học bước sang mỹ thuật, người ta lại tiếp tục thấy
thích thú trước những chứng từ mới mẻ, phong phú- có khi cảm động- của Nguyễn
Quân230, Hoàng Hưng231, Đào Mai Trang232, Phạm Trung. Không cảm sao được,
khi biết rằng nhiều nghệ sĩ trẻ phấn đấu hết mình cho nghệ thuật, chẳng hạn như
trường hợp tác giả cuối vừa nêu, cùng với Bùi Như Hương, phải bỏ thêm tiền túi
ra233 - mặc dù đã có được hỗ trợ của các quỹ và tổ chức văn hóa đỡ đầu 234 -
để in tập sách Nghệ thuật đương đại Việt Nam 1990-2010 bằng tiếng
Anh, chỉ vì lý do... «tiếng Anh nhiều người mua hơn ; từ đó, họ
mới có tiền in bản tiếng Việt»! Một tập sách đã khiến Tôn Nữ
Thị Ninh phải tâm đắc: “Nếu còn là đại sứ, tôi hoàn toàn không ngại
ngần mang cuốn sách này làm quà tặng cho nước ngoài, để họ hiểu thêm về văn hóa
Việt Nam”.235
Hết mình cho nghệ thuật, đó cũng là điều công chúng đã từng cảm
nhận từ những người như Đào Anh Khánh, đặc biệt qua tác phẩm đồ sộ «Cây đời» 236 được
trình diễn nơi công cọng cách đây hơn hai năm, với một ngân sách 2 tỷ đồng237. «Chân
bị gãy [...] mà trong suốt 4 tháng luyện tập, và cả trong đêm diễn anh vẫn phải
mang đôi nạng; [...] vẫn đang là “con nợ” của 600 triệu và nhiều dự định
[...], một nghệ sĩ “ròng” như anh dễ gì từ bỏ đam mê máu thịt»: Vi Thùy
Linh đã thuật lại với những chi tiết chính xác như vậy238 về nghệ sĩ tiền
phong này.
Hàng ngàn người đã đến với triển lãm “Cây Đời”
của Đào Anh Khánh khai mạc vào tối 15/10/2010 tại Long Biên, Hà Nội.
Chưa hết. Mỹ thuật mới của Việt Nam còn xuất hiện ở những nơi
khó ngờ tới nhất : một cuộc triển lãm nghệ thuật đương đại mang tên Đất
Mường đã mở cửa cuối tháng 9/ 2011 tại Bảo tàng Không gian văn hóa Mường
(tỉnh Hòa Bình), cùng lúc với Festival Văn hóa truyền thống của người Mường239.
Trong bài viết đã dẫn 230, Nguyễn Quân khẳng định:
«Nếu có một bộ phận văn hóa nghệ thuật nào phát triển lạ lùng, nhanh mạnh
gây ảnh hưởng nhất ở ta hai thập kỷ qua thì đó chính là CA [Contemporary Art,
Nghệ Thuật Đương Đại; BĐH chú thích] chứ không phải âm nhạc, điện ảnh,
sân khấu hay thơ văn…!».
Về phần mình, Hoàng Hưng cũng đã có nhận xét đầy lạc
quan: «[...] Sang đầu thế kỷ mới, tình hình rõ ràng là
khác, khi xu hướng mỹ thuật khái niệm, mỹ thuật ngoài giá vẽ, tiến tới mỹ thuật
công cộng (public art), cụ thể qua các thể loại sắp đặt, trình diễn, video… với
một thế hệ tác giả trẻ có tư duy mở rộng, tiếp nhận ngày càng sâu rộng những
giá trị phổ quát Tự do, Nhân quyền, Dân chủ. Ta bắt đầu nghe được những tiếng
nói chính trị xã hội cất lên trong Mỹ thuật» 231
Thật đáng mừng. Song, phác qua vài nét như vậy, bức tranh văn
học nghệ thuật Việt Nam có vẻ quá... hồng đi chăng? Nhất là khi không dễ gì
quên ngay «những điều trông thấy»: từ sự thiếu nghiêm túc tràn lan240-242 -
thậm chí có cả hiện tượng «đạo» tranh! 243 - về phía người
làm nghệ thuật, đến sự kiểm soát không đúng chỗ của chính quyền 244mà
lập luận chính thức không dựa trên gì khác hơn là thực tế xuống cấp tệ hại của
một số bộ môn trình diễn245. Riêng về nghệ thuật đương đại, hãy nghe ý kiến
của Mai Chi: «Trong khung cảnh rất nhiều sắp đặt và trình diễn được làm cẩu
thả, dễ dãi và hình thức, đi kèm với các tuyên ngôn của nghệ sĩ không ăn
nhập, rối ren, đau đầu và “sai chính tả” thì dường như công chúng mong muốn
nhìn thấy sự thể hiện của kỹ thuật, tay nghề và công sức240».
Màn trình diễn tác phẩm "Bay lên" của
Lại Thị Diệu Hà
Màn trình diễn ngồi WC đọc báo của Lê Anh Hoài 242:
thế này mới là «đương đại» đúng kiểu... Marcel Duchamp ư?
Nhưng không phải chỉ các nghệ sĩ sa đà mới đáng trách, mà
ngay cả những nhà lý luận phê bình, theo Huỳnh thị Nga246, cũng không hề «nhẹ tội». Ngoại trừ - và đó là điều đáng suy ngẫm - các tác giả người
nước ngoài: khi Laurent Colin- măc dù chỉ được gọi là
«a-ma-tơ» - viết xuất sắc một bài phân tích về nghệ thuật đương đại
Việt Nam247, hay khi Nora Taylor - với tư cách nhà nghề - phản hồi sắc bén các ý
kiến này248, thì đó chẳng những là bằng cớ về trình độ «hiểu biết sâu sắc và
có kiến giải xác đáng» của giới sành điệu đến từ phương Tây, mà còn
thể hiện tấm lòng tha thiết của họ đối với nghệ thuật một đất nước họ
vốn nặng tình. Và kết luận đầy thất vọng của vị nữ giáo sư môn Nghệ sử
Đông Nam Á Trường Nghệ thuật Chicago này, vì thế, nghe như một lời
giã biệt não nùng:
<< Tôi đây cũng buồn vì không có nhiều nghệ sĩ Việt
Nam đủ giỏi để các nhà phê bình nghệ thuật, các nhà sử học, và các nhà sưu tầm
có thể “ngấu nghiến” lao vào mà viết sách về họ. Nói cho cùng, tôi - một chuyên
gia về “Nghệ thuật Việt Nam” - lâu lâu cũng phải tự hỏi, liệu mình có nên tiếp
tục viết về nghệ sĩ Việt Nam không [...] Có lẽ đã đến lúc chúng ta đem cái ý tưởng
“Việt Nam và nghệ thuật Việt Nam phải có gì đó độc nhất vô nhị” mà chôn đi
thôi. Chúng ta, những người nước ngoài, những kẻ đã từng yêu và còn yêu Việt
Nam, nên để cho hai thứ ấy tự lớn lên mà không có chúng ta thôi>>.
«Tự lớn lên» thế nào đây, khi còn phải gặp không
biết bao nhiêu chướng ngại, chẳng hạn trường hợp những «biện pháp»
kỳ lạ mà nhà cầm quyền vừa mới đưa ra ( đại loại như dự thảo Bộ Văn
Hóa Thông Tin và Du Lịch nghiêm cấm các hành vi «mỹ thuật làm lộ...
bí mật, an ninh»249, hoặc việc <>250, theo cách nói của báo
chí cách đây không lâu khi bàn về đề án thi tuyển sinh Đại Học, Cao Đẳng hệ
chính quy vào các trường khối văn hóa - nghệ thuật)?
Trong hoàn cảnh đó, giả thuyết lạc quan nhất là, rất có thể,
những cái lố bịch, ép uổng, uất ức đó sẽ làm nổ ra cái mới - nếu không là
cái lớn - còn ẩn tàng trong nghệ thuật, một nền nghệ thuật dấn thân - như câu nói
nổi tiếng của Pompidou ở đầu bài*** - mà Phạm Trung dường như cũng đã phần nào
khởi họa, qua một phát biểu thoạt trông rất nhẹ nhàng của anh:
«Nghệ thuật đương đại có mặt mạnh là tính phản biện xã
hội. Nghệ sĩ có quyền bộc lộ bằng rất nhiều hình thức khác nhau thái độ của họ
trước thực trạng xã hội; [...] một xã hội nhạy cảm, lành mạnh phải
biết nhìn ra những khuyết tật của mình để chỉnh sửa. Tác phẩm hay, ý nghĩ thâm
thúy, sâu sắc, sẽ đọng lại với thời gian. Những tác phẩm gây sốc có vẻ ghi điểm
rất nhanh, tác giả có được tên tuổi rất nhanh nhưng không có sức sống lâu bền.233»
“Cột chiến thắng” (Đinh Gia Lê)
Nghệ sĩ Trương Tân và tác phẩm “Bỉm” cùng chi tiết mô-tip ở
cuối
Tuy nhiên, những tác phẩm như « Bỉm » của Trương
Tân (2007) hay “Cột chiến thắng”của Đinh Gia Lê mà Hoàng Hưng có nhắc tới 231, hãy
còn quá ít ỏi, hoặc bị dìm ngay từ trong trứng nước. Và không có chờ đợi nào
cho sự xuất hiện của một Ngải Vị Vị (Ai Weiwei)251 Việt Nam.
Chuỗi dài trông ngóng trên nền những phẩm tính khiếm diện
Ngược lại, nhiều tiếng nói từ trong252-256 và cả
ngoài nước257-258 mấy năm gần đây đã gióng lên những hồi thở than thấm
thía về tình trạng thiếu khởi sắc của đời sống văn nghệ Việt Nam. Nguyên
Ngọc đặt dấu hỏi: «Sao văn học chúng ta không có tác phẩm lớn?». Tống
Văn Công nhận xét: «Suốt 30 năm chống "văn hoá thực dân mới"
làm cho văn học nghệ thuật chúng ta gần như dừng lại ở nội dung giáo điều và
hình thức thể hiện của thế kỷ 19. Sau khi mở cửa, người Việt Nam mới nhận ra nền
văn học nghệ thuật của mình yếu kém đến thảm hại! ***, 123 ».
Không chỉ dừng ở thời điểm «mở cửa» mà tính đến
luôn cả giai đoạn hiện tại, một người như nguyên Viện trưởng Viện Văn Học
Việt Nam Phong Lê cũng phải nói thẳng ra rằng “tình hình văn học từ
năm 1995 đến nay chưa tạo được cái gì mới, mặc dù có nhiều cái lạ”. Nhưng
nào phải chỉ thiếu cái mới không thôi đâu: đối với phê bình văn học
chẳng hạn, Phạm Quang Đẩu lo sợ nó sẽ « tuyệt chủng »256 !
Về phần mình, Huỳnh Như Phương buông tiếng thở dài não ruột
: « Thế kỷ XXI đã qua đi hơn một thập niên nhưng con đường của văn học
Việt Nam vẫn còn dang dở. Những khuynh hướng nghệ thuật, dù trung tâm hay ngoại
biên, đều dang dở. Những tài năng cũng dang dở. Nỗi khao khát một nền văn
học đỉnh cao vẫn chưa được thỏa nguyện.»
Có một cái gì ray rứt hơn cả nỗi buồn : một sự tức tối. Văn
nghệ hết còn là chuyện đơn thuần thưởng ngoạn nhàn du, mà là thách thức của thế
kỷ.Trong một bài báo mang tựa đề « Thấy Mạc Ngôn đoạt Nobel mà sốt cả
ruột! », Trần Đăng Khoa tuyên bố không quanh co : « Sốt ruột và
đau đớn. Tại sao cũng da vàng mũi tẹt như mình mà lão làm được nhiều việc lớn
như thế, mà mình cứ bi bét mãi ? »259
Não trạng này không chỉ có mặt tiêu cực. Bởi tình trạng
« bi bét » đó kêu đòi một phân tích thấu đáo, một ý thức trách nhiệm,
một quy trình (procédure, theo nghĩa Chất lượng học [ Qualitologie] )
phản tỉnh. Phản tỉnh cho mọi người, cho tất cả những ai trong lãnh vực sáng tạo.
Hơn bao giờ hết, thách thức của cái Đẹp ăn sát với đời sống : nó là tiếng nói vẳng
ra từ tấm gương soi mặt mỗi ngày.
Chính vì vậy, trong định nghĩa về phẩm tính của trí thức nói
chung, nhà khoa học Chu Hảo đã không quên nhấn mạnh đến « năng lực sáng tạo
ra các giá trị mới của tri thức khoa học-công nghệ hoặc/và văn hóa-nghệ
thuật 260». Muốn tạo ra giá trị mới, ít nhất phải dám khai phá.
Thế nhưng, nếu dựa trên đánh giá thành quả năm 2012 của chủ tịch Hội Nhà
Văn Hà Nội Phạm Xuân Nguyên, thì « ngay cả người trẻ cũng hiền. Rất
ít người dám thể hiện, dám thử thách [...] Trước hết phải cái lạ, cái khác, cái
mới. Nhưng rõ ràng Văn học Việt Nam đang thiếu cái táo bạo, vẫn còn hiền
quá 261».
Hiền : phải chăng là do cái gốc thiếu tiết tháo hoặc « không có
số phải tiết tháo» như cách nói rất mềm của tác giả « Bước qua
lời nguyền » Tạ Duy Anh262 ? Quanh đi quẩn lại, phải nhìn nhận là cái
phẩm chất tiết tháo đó, cho đến giờ hình như chỉ nổi bật ở một số nhà báo- chứ
không phải nhà văn, trừ vài ngoại lệ- đã cứu danh dự cho hai tiếng sĩ khí : những
Điếu Cày, Huỳnh Ngọc Chênh, Huy Đức, Nguyễn Đắc Kiên.... Vâng, nhưng văn học
không phải là sử học, thời sự hay chính trị, mà là một thứ nhân học toàn
diện- đa thanh, đa sắc, đa thì- hơn. Nó đòi hỏi chẳng những sự dũng cảm mà nhất
là tài năng nghệ thuật. Và trên mặt này, ít ai nói được- một cách cô
đọng, rốt ráo, triệt để và đầy hình ảnh- như Nguyễn Hoàng Đức263 về
căn bệnh trầm kha của văn học Việt. Hãy bình tâm đón nhận những lời tâm huyết của
ông, cho dù đó là những sự thật mích lòng :
« Sự phản tỉnh của người Việt xưa nay vẫn rất yếu đuối vì dựa
trên tâm trí văn hóa tiểu nông nhũn nhẽo cảm xúc, lý trí bấy bớt, thiếu đào tạo
về kỹ năng tư duy phản tỉnh, quen tự hào vặt vãnh, rồi mắc chứng đố kỵ tủn mủn
không muốn ai hơn mình, ngay cả con lợn nhà khác cũng không nên có quyền lớn
nhanh hơn con lợn nhà mình. Dân trí chung đã thế, xét vào giới văn học, lại chủ
yếu là các nhà thơ sản phẩm của đời sống nông nhàn, dong chơi vu vơ không có mục
đích chính yếu nào của cuộc đời lớn hơn việc nhàn tản, nhưng vẫn tranh thủ vừa
du hí vừa lượm lặt kiếm tí danh nhà thơ-nhà văn. »
Cái nhức nhối nằm ở chỗ ông không nói chuyện cũ xưa mà
là thời sự nóng hổi, và chỉ đích danh :
« Mới đây, khi nhà văn Mạc Ngôn được giải Nobel, nhà thơ
Trần Đăng Khoa có viết [...] thấy không mấy cuốn hay vượt hơn những tác phẩm của
Mạc Ngôn như “Mông to vú nở” hoặc “Đàn hương hình”. Anh Khoa nói thế, có lẽ anh
chưa đọc và quan tâm đến những tác phẩm như “Anh em nhà Caramadop” của
Dostoievski, hay “Vụ kiện” của Kafka… ; tôi nói thế không hề võ đoán mà dựa
trên những hiện thực của văn chương Việt Nam. »
Quả thế, người đọc không khỏi giật mình trước những gì
được Nguyễn Hoàng Đức đem ra chỗ sáng :
« Để hiểu được những tác phẩm trên, người ta phải uyên
thâm [...] Tôn giáo, thần học, công lý phổ quát chưa bao giờ là mối quan tâm của
người Việt cả, vì người Việt sống chủ yếu theo “phép vua thua lệ làng”, và
“chuông làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Phải nói mặt bằng
tri thức của các cây bút Việt còn rất lẹt đẹt, thuyền thúng bơi khỏi ao làng,
ra đại đương được vài chuyến, tưởng sẽ trưởng thành nào ngờ toàn đi mua ụ nổi,
tầu cũ về kiếm mấy đồng lãi cò con. Làm sao hiểu được lộ trình của những con tầu
phá băng đi tìm những vỉa quặng mới cho nhân loại? »
Từ đó, ông vạch rõ thêm những hạn chế trong tầm nhìn và cách
nhìn của người làm văn học bấy lâu nay:
« Nhiều nhà thơ, đặc biệt thuộc thế hệ già Việt đừng cứ
ngửa cổ lên là chẳng nhìn thấy vòm mái nào khác Nguyễn Du cả. Hãy xé cái vòm ấy
ra để nhìn thấy bầu trời đầy sao lý tưởng của nhân loại. Văn chương gốc của Tầu
còn ở mức tả thực, kinh nghiệm dân tộc, chưa bao giờ nhắm đến lý tưởng cao vời
của nhân loại phổ quát, thì bản sao phát sinh từ bản gốc đó có được bao nhiêu ý
nghĩa mà cứ nhìn ngắm nghía suýt xoa hoài không chán vậy ! Để có một nền
văn học tiến bộ xứng đáng chúng ta cần phải có một cách nhìn mới. »
Cái nhìn mới đó, ông đề nghị ta nên học hỏi ở cách những
khuôn mặt lớn Trung Hoa đã dám thẳng tay chỉ trích chính nước họ, ví dụ như :
<< 1. Tôn Trung Sơn, lãnh tụ lập thuyết
của Trung Quốc, có trình độ học vấn khá cao, bằng bác sĩ, biết tiếng Đức, tiếng
Nhật, tác giả cuốn “Chủ nghĩa tam dân” đã phản tỉnh: Sách Trung Quốc chỉ rặt
bạo lực và hận thù, càng đọc ít sách Trung Quốc càng tốt. Không đọc gì là tốt
nhất.
2. Lỗ Tấn, được coi là cha đẻ
của văn học hiện đại Trung Quốc, học vấn cao, biết nhều ngoại ngữ. Ông phản tỉnh: người
Trung quốc chỉ giỏi ăn thịt người. Câu phản tỉnh này bao hàm nghĩa rất rộng,
giỏi ăn thịt người tức là trình độ còn dã man hoang rợ lắm, nói gì đến văn hóa
hay văn học?... >>
Để cập nhật luồng tư tưởng phê phán triệt để này trên đất
láng giềng phương Bắc, Nguyễn Hoàng Đức đã trích dẫn Tàn Thuyết (Can
Xue) 264, nữ văn sĩ nổi tiếng của họ hiện nay, qua một bài phân tích của
bà nhan đề Tác phẩm vĩ đại trong mắt tôi, mà theo ông là
« một cơ hội hiếm có khác khiến giới văn học Việt Nam soi lại mình, để thấy
tầm vóc mình ở chỗ nào » :
« Bởi quá đề cao và sùng bái truyền thống của dân
tộc mình (Trung Quốc), cho nên [...] đã không thấy được hoặc không có khả năng
tiến sâu vào địa giới của tinh thần. Mà những tác phẩm này chỉ dừng lại cái gọi
là “kinh nghiệm dân tộc”, “tả thực”. Và sức sống của chúng tất nhiên chỉ là sự
ngắn ngủi và tạm bợ; cường độ phê bình về chúng cũng đáng ngờ.
[...] Những tác phẩm vĩ đại đều là những tác phẩm tự kiểm
điểm, tự phê phán.
[...] ngọn nguồn của văn học là ở phương Tây. Còn Trung Quốc,
từ khởi thuỷ, văn học không được xem là sản phẩm tinh thần tồn tại độc lập. Văn
học Trung Quốc từ xa xưa cho đến nay đều thiếu khuyết đặc trưng cơ bản nhất của
văn học - đó là sự nhận thức tự giác về bản chất tự thân của chính con người
[...] Dù là tác phẩm vĩ đại trong số đó như Hồng lâu mộng thì ngày nay nhìn lại
cũng đã quá lỗi thời rồi, bởi nó không đủ sức khiến người ta phải suy ngẫm và
phấn chấn, mà sự miêu tả tâm lý cũng quá nông cạn thiển cận, nó không nói tới
mâu thuẫn nội tâm, và giống như văn học từ thời thơ ấu của loài người
[...] Trong ý nghĩa này, văn học của đại lục đang đứng trong sự khủng hoảng,
những tác phẩm khám phá nhân tính ở tầng sâu, nâng cao tính dân tộc chưa thực sự
trở thành một trào lưu ».
Tàn Thuyết còn cho rằng hiện tượng « rất nhiều nhà
văn mới 40 tuổi đã bắt đầu thoái hoá, hoặc không viết nổi nữa hoặc viết qua
quýt lừa dối người đọc» là do " tâm lý tự cao tự đại dân tộc mà ra" .
Và bà kết luận bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc :
«Văn hoá của chúng ta đã phá huỷ và đầu độc các thiên
tài của chúng ta. Sự khiếm khuyết về tinh thần trong văn hoá Trung Quốc đã khiến
cho văn học đại lục ngày nay không thể sinh sôi và phát triển được, giống như một
đứa bé mang bộ mặt già nua, mãi mãi là một ông già lõi đời, mãi mãi tự mãn,
khéo léo như một người thợ giỏi nhất thế giới; nhưng chỉ có điều không biết tự
kiểm, không biết tự phê.”
Động tác tự kiểm, tự phê đó chính là bước đầu tiên và có tính
quyết định trong quy trình phản tỉnh. Nó phải được nối tiếp bằng những
« công đoạn » cần thiết sau đó, theo trình tự một phương pháp luận (méthodologie)
chặt chẽ- như thường được áp dụng trong khoa Tiếp cận thị trường-, bao gồm phân
tích, đánh giá, định vị và đề ra chiến lược cho từng văn nghệ sĩ một, cũng như
cho toàn bộ nền văn học nghệ thuật265 : biện pháp chẩn đoán và giải
quyết vấn đề, y như cho một doanh nghiệp đang lao đao ở mép bờ khánh
tận...
Song, đó là những gì không thuộc chủ đích những dòng này. Ở
đây, ta sẽ chỉ nhìn lại những nhận định đáng lưu ý nhất của một số ngòi bút uy
tín, về những nhược điểm của văn học nghệ thuật Việt Nam nói chung : họ đã can
đảm thắp lên ánh lửa phê phán quý báu, nhưng tiếc thay vẫn chưa đánh thức được
Nàng Tiên sáng tạo hãy còn mê thiếp giữa rừng văn. Điều đó không tùy thuộc ở họ,
mà bắt nguồn từ những cội rễ sâu xa.
Từ truyền thống thiếu óc phê phán đến hiện trạng một nền văn
nghệ không trí nhớ
Phẩm tính trí tuệ hàng đầu, nhưng hiếm thấy ở nhiều nền văn
minh trong đó có Việt Nam - và vì thế đã gây bao trì trệ, mất mát và thậm chí tội
ác-, là óc phê phán (esprit critique) 266. Nó không bẩm sinh, nhưng một
khi được rèn luyện thì trở thành phản xạ tự nhiên cho mọi cơ thể trí thức trưởng
thành, luôn biết phản biện- kể cả tự phản biện- một cách có hệ
thống trước khi đi đến kết luận, biết khảo sát thấu đáo từng vấn đề dưới nhiều
góc cạnh khác nhau để phân biệt đúng sai. Yêu cầu vì chân lý ở đây đòi hỏi phải
có một "đạo đức trí tuệ" khe khắt, đủ sức "khách quan hóa"
tối đa từng quan điểm của chính cá nhân mình hoặc của bất cứ ai- kể cả những bậc
thầy - để khỏi bị lầm lạc. Nó là vị thần hộ pháp đặc biệt chở che cho những con
người quá lý tưởng, dễ tin, khỏi bị mê hoặc bởi những "thần tượng",
những khẩu hiệu "công bằng", "tiến bộ", của loài phù thủy
diễn ngôn...
Óc phê phán là văn hóa của văn hóa, là tủy sống của sự mẫn tuệ,
là kháng thể (anticorps) chống lại lối suy nghĩ một chiều và nhất là bệnh mù
quáng ý hệ. Vì vậy, trên diễn đàn tranh luận báo chí năm rồi tại Pháp về chủ đề
so sánh các nền văn minh chẳng hạn, triết gia Pierre-Henri Tavoillot 267 đã
không ngần ngại khẳng định rằng phương Tây hơn nhiều xứ khác nhờ có văn hóa biết tự
phê phán.268
Đối với Việt Nam, óc phê phán là mắc xích quan trọng thiếu
mất trong quá trình phát triển trí tuệ dân tộc269 và do đó là lỗ hổng lớn
trong «gien» suy tưởng của mỗi cá nhân. Thiếu chìa khóa mở
cánh cửa tư duy hiện đại, chúng ta phải chịu cảnh đứng mãi bên lề chân
lý: thiếu sáng suốt, cận tầm nhìn và do đó, để mất nhiều cơ hội lịch sử.
Sự thể chung như thế đã đành. Nhưng tệ hại hơn nữa, trong
lãnh vực văn học, là thực tế này : từ nhiều năm qua, không ít những ý kiến xác
đáng được đề xuất, gây tiếng vang trong dư luận, song vẫn chẳng làm thay đổi gì
được bao nhiêu. Do người làm văn nghệ thiếu óc phê phán, không
nhìn ra giá trị những lời chẩn bệnh dành cho mình chăng? Hay vì bản thân nền văn
nghệ không thể nào tự điều tiết? Bất luận nguyên nhân thế nào thì hậu quả
vẫn là một: sự sa sút, teo mòn của văn học nghệ thuật, tức là bầu sữa dưỡng
nuôi - đồng thời là bằng cớ chứng thực - cuộc sống tinh thần, là óc tưởng tượng, là
chuyển động chiều sâu trong tâm thức cộng đồng.
Trên thực tế, văn học chẳng những đã lão hóa mà - nguy hơn-
còn như bị khoét thủng bởi một thứ bệnh Alzheimer nào đó. Bằng cớ là những phân
tích sắc bén của Nguyễn Huy Thiệp - viết mãi từ cuối thập niên 80/đầu 90 thế kỷ
trước, được in lại trong tập Giăng lưới bắt chim 270(giải thưởng lý
luận phê bình của Hôi Nhà Văn Hà Nội năm 2006) - cũng đã tỏ ra vô tác dụng. Thậm
chí, có nhà nghiên cứu- trong danh sách những tác phẩm chính về lý luận
văn học ông đưa ra gần đây271 - không hề nói tới cuốn sách này ( mà
chính Hoàng Ngọc Hiến đã long trọng đánh giá là " sự kiện văn học quan trọng",
do "chính Hội Nhà Văn Việt Nam xuất bản", và là "một trong những
việc làm sáng giá nhất của Hội Nhà Văn Việt Nam từ Đổi mới đến
nay" [Nguyễn Huy Thiệp, sđd,tr.305]) Rất có thể, chỉ
vì nhà nghiên cứu ấy không ưa «giọng điệu» của tác
giả Tướng về hưu ; nhưng thế thì giải thích sao đây, việc những
lời lẽ ôn tồn, thuyết phục, của nhà thơ dân tộc Chăm Inrasara hết mình cổ
võ cho sự cách tân văn học - đặc biệt trong quyển Song thoại với cái mới - 272,
cũng bị bỏ quên nốt?
Và điều khó tưởng tượng- khó chấp nhận- nhất là một công
trình xuất sắc và quan trọng hàng đầu như Lý luận và văn học ( giải
thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1991) 273 của Lê Ngọc
Trà, cũng không thấy được nhắc tới. Chả lẽ đó là "hình phạt"
- vào giờ này ! - dành cho tác giả câu viết quá hiển nhiên " bây giờ
mọi thứ đều đã đa nguyên" ông để trên mạng từ cách đây cả mấy năm274?
Văn học nghệ thuật Việt Nam thiếu dưỡng khí từ lâu, điều đó
ai cũng biết. Nhưng xuôi tay bỏ cuộc, hoặc hời hợt đánh mất chính mình- qua một
thái độ đầy vẻ tự cao tự đại, coi thường những ý kiến phê bình, một mực "bế
quan tỏa cảng" bất chấp những trần tình-, là một sai lầm to lớn có thể dẫn
đến hiểm họa diệt vong, y hệt như trong lịch sử cận đại của dân tộc : một
nền văn nghệ không trí nhớ là một thứ con hoang không gốc gác cội nguồn, vô
phương tiến hóa.
Không trí nhớ cũng vì không muốn nhớ. Chẳng những đối với lý
luận phê bình, mà cả với văn học sử : những bất công, nông cạn trong lối đánh
giá "phải đạo" một thời- đối với Đông Dương Tạp Chí 275, Phong
Hóa/Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn 276, Nguyễn Văn Vĩnh 277-278 Phạm
Quỳnh279 v.v.-, may thay gần đây đã dần dà được sửa chữa, nhờ ý thức và
sáng kiến đến từ xã hội công dân. Để khỏi đắc tội với tiền nhân, hổ thẹn với hậu
thế. Để hàn gắn lại phần nào hiện tượng mà nghệ sĩ Pháp-Việt Nhất
Lý tâm đắc gọi là sự đứt đoạn văn hóa 280.
Nguyễn Đình Đăng
"Sự ra đời của chữ Quốc ngữ - Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn
Vĩnh" 278
Hoa Phong Lan của Nhất Linh (28/10/1957)276c
Đứt đoạn văn hóa, ở mức độ cá nhân, đồng nghĩa với sự
chối nhận chính mình, là buông thả, là tự hủy. Nó dẫn tới những suy sụp tệ hại
về nhân cách- đáng xấu hổ cho dân tộc-, khiến nhiều người phải ra
tay "lập biên bản"- nói theo thuật ngữ quen thuộc của Inrasara
(sđd) - trên mạng gần đây.281-282
Trong lãnh vực thuần túy mỹ thuật, đứt đoạn văn hóa là thực
chất sự để mất đẳng cấp mà Jean-Francois Hubert, thuộc hãng đấu giá
nghệ thuật Christie's, đã thẳng thắn chỉ ra với nhiều tiếc nuối
( bởi ông là một trong số rất ít chuyên gia nước ngoài về mỹ thuật châu
Á còn " bênh vực" cho hội họa Việt Nam hiện nay )
: “Hội họa Việt Nam giai đoạn Trường Mỹ thuật Đông Dương đã tạo ra rất
nhiều họa sĩ được thế giới biết đến, hơn hẳn các nước lân cận như
Indonesia, Thái Lan, Campuchia, Lào, kể cả Trung Quốc và Nhật Bản [BĐH
nhấn mạnh]. Cho đến nay tình hình ngược lại, nghệ thuật đương đại của
các nước lân cận được thế giới biết đến nhiều hơn Việt Nam”.283
Đó là một mất mát lớn. Bởi vì, nói như Phạm Vĩnh Cư284,
" nếu ta tính đến những cống hiến còn khiêm tốn của văn chương và
những khó khăn trong sự trưởng thành âm nhạc bác học ở ta, thì có thể nói rằng
những thành tựu cao nhất của hội họa VN cũng là những thành công
cao nhất của nghệ thuật Việt Nam từ sau 1945".
Khi không còn sự tiếp nối, kế thừa, luân lưu tư tưởng
giữa các thế hệ, thì nghệ thuật bị bứt gốc. Tại cuộc tọa đàm "Nghệ
thuật đương đại tiếp cận di sản” do Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam tổ chức
mới đây, các diễn giả cũng đã không làm gì khác hơn là nhấn mạnh trên những
điều mà thế hệ các nghệ sĩ sau này dường như không mấy
để ý, chẳng hạn việc "các bậc nghệ sĩ danh tiếng Việt Nam đi trước, có ảnh
hưởng tầm quốc tế, đều có một nền tảng văn hóa di sản cực kỳ chuẩn mực".285
Trong lãnh vực văn chương, Nguyễn Huy Thiệp còn đặt mốc
cao hơn : người cầm bút phải " hiểu biết sâu sắc dân tộc"'
không phải chỉ "theo lối một nghệ sĩ"- vì " điều đó sẽ hạn
chế sức nặng tác phẩm" - mà là " theo lối một nhà tư tưởng".
Ông nhìn nhận việc này " đòi hỏi nhà văn một sức làm việc phi thường,
một lòng dũng cảm phi thường, một sức chịu đựng phi thường" ( Nguyễn
Huy Thiệp, sđd, tr.32- 33). Đó là cái giá mồ hôi nước mắt phải trả để
may ra có được những sáng tạo tầm cỡ.
Nghĩ cho cùng, giữa văn hóa thiếu óc phê phán và văn nghệ
không trí nhớ có một mối quan hệ nhân quả : không đủ sức để tra vấn lịch sử
và chính mình thì tác phẩm đương nhiên sẽ mang nhiều lỗ trống do thiếu tư
duy, và- tệ hơn- những khoảng trắng do e dè húy kỵ. Cho tới nay, những người
làm nghệ thuật (kể cả nhà văn) dường như đã tránh né hoặc chưa khai thác đủ
quá khứ. Không phải thứ quá khứ ám ảnh hay ve vuốt. Cũng không phải thứ
khuynh hướng hoài cổ hoặc tôn sùng quá đáng những thành tựu cổ điển (như quan
điểm284 cho rằng văn học hiện tai không thể nào sánh nổi với những Nam
Cao, Vũ Trọng Phụng ! ).
Mà là thực tế này : những thử thách cùng cực của đất nước,
những vết cắt đớn đau trên con người cụ thể, những tiếng kêu xé lòng từ mỗi mảnh
đời « độc bản », tất cả dường như vẫn chưa thật sự được "cháy
lên" trong tác phẩm, chưa hóa thân ra sắc màu kiệt tác.
Văn hóa, dù của cá nhân hay dân tộc, đều phải có hệ quy chiếu
(référentiel). Do đó, một nền văn nghệ không trí nhớ sẽ chỉ tương đương với sự
xóa sổ, chôn vùi sự kiện, kể cả những sự kiện sống còn : nó lười
lĩnh, tùy tiện, không tìm tòi tra vấn, không học hỏi trau dồi. Tình trạng
bông lông vô định đó khiến ta không thể nào không đặt vấn đề nguyên nhân và
trách nhiệm.
Do thời thế khó khăn ư? Không hẳn vậy, bởi lịch sử nhân loại
đã cho thấy những bằng chứng ngược lại : ví dụ trường hợp " dưới
chính thể toàn trị ở nước Nga sau 1917, vẫn nảy nở những tài năng siêu đẳng,
làm gương cho nhiều thế hệ đồng nghiệp noi theo." 284
Do thiếu đề tài ư? Không chắc, vì ta không thể coi nhẹ điều
mà nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, với tư cách Phó Tổng thư ký thứ nhất Hội
Nhà văn Á - Phi hiện nay, đã thổ lộ trong một cuộc phỏng vấn hồi đầu
năm 286:
"Nhiều nhà văn châu Âu chia sẻ với tôi rằng họ thèm
khát hiện thực của châu Á - châu Phi. Con đường của các nhà văn trẻ châu Âu
cũng khó khăn hơn vì hiện thực xã hội khu vực họ đang sống không có nhiều biến
động, thử thách. Trong khi con đường dành cho các nhà văn trẻ châu Á - châu
Phi vẫn còn rậm rì, thậm chí chưa có dấu chân người qua. Lợi thế tuyệt vời đó
đang mời gọi các nhà văn trẻ Á - Phi". Nói rõ hơn, ông cho rằng
" những xung đột về văn hóa, chính trị, kinh tế ở hai châu lục Á -
Phi đang đặt ra rất nhiều vấn đề cho văn học và nhiều người tin rằng trong
tương lai, khu vực này sẽ sinh ra những tác giả lớn. Văn học châu Á và châu
Phi cũng sẽ được đọc nhiều hơn. Ngay cả tác phẩm của những tác giả Á - Phi định
cư ở các nước châu Âu cũng sẽ được đọc nhiều hơn."
Do thiếu tài năng ư? Hình như đây mới là điểm mấu chốt. Là
người trong cuộc, Nguyễn Việt Hà 287đã tỏ ra rất chắc chắn :
" Văn học nói riêng cũng như nghệ thuật nói
chung, chưa đồng hành được với đời sống là do nó thiếu tài năng chứ không phải
là do vấn đề nó phản ánh [...] Còn nếu có điều gì cản trở chúng ta (tôi hiểu
là tác phẩm) chưa có tác giả lớn thì đó không phải là lỗi của chúng ta. Bởi
đơn giản đấy là ý Chúa".
Nhưng tài năng, dẫu có là ân sủng của Thượng đế, cũng tùy
thuộc rất nhiều vào nỗ lực cá nhân. Không bằng lòng với những công thức
có sẵn- dù là định lượng theo kiểu Thomas Edison ( "Thiên tài là do 1% cảm
hứng và 99% lao động") hay định tính theo cách Benjamin Franklin
( " Thiên tài không rèn luyện thì như chất bạc còn nằm trong mỏ")-,
Nguyễn Huy Thiệp, cùng một vài tác giả khác như Inrasara- ở những mức
độ khác nhau-, đã ra công nghiền ngẫm kiếm tìm cho sự hoàn thiện của nền văn
học Việt Nam bằng những lời lẽ xác đáng, chân thành và quyết liệt nhất. Ở
đây, ta tạm thời không đề cập đến mảng văn học hải ngoai.
Những ý kiến tâm huyết về lối ra cho văn học
Trước hết, hãy nghe Inrasara phát biểu - từ
thời điểm 2006- về nhóm Mở Miệng, mà nhiều độc giả chỉ mới "tái
khám phá" gần đây qua "vụ án" Nhã Thuyên : "Có
thể nhận định rằng, sau Sáng Tạo những năm 60 của thế kỉ trước, Mở Miệng là
nhóm thơ đầu tiên đặt dấu ấn rất đậm trong dòng chảy của thơ Việt. Chúng ta
hy vọng năm khuôn mặt này làm nên cuộc cách tân lớn. Nhưng rồi họ cũng không
thể. Tại sao?" (Inrasara, sđd, tr.256).
Không trở lại những lý do và đề nghị giải pháp tác giả đưa
ra, ta cũng thấy sự quan tâm và trân trọng của ông đối với thơ hậu hiện
đại như vậy là đi trước rất nhiều người. Hãy đến ngay với ý kiến cơ bản
nhất của ông, trong cách lý giải về sự trì trệ của văn học nói chung :
" [...] phải có chiến lược vĩ mô, dài lâu và liên tục. Không
chỉ nhu yếu phẩm mới cần tiếp thị, quảng bá… mà tác phẩm nghệ thuật cũng thế". Để
nhấn mạnh ý nghĩa của việc dám mang "chí lớn", Inrasara mượn
lời Italo Calvino làm đề từ cho một bài viết của mình :
“Những dự án mang tham vọng quá trớn có thể bị chối từ
trong nhiều lĩnh vực nhưng không thể bị chối từ trong lĩnh vực văn chương.
Văn chương chỉ còn sức sống nếu chúng ta tự đặt ra cho chính mình những mục
tiêu bất khả lượng đạt, vượt quá tất cả những hy vọng về sự thành tựu. Chỉ chừng
nào các nhà thơ và nhà văn tự đề ra cho chính mình những công tác không có bất
cứ ai dám tưởng tượng đến, thì văn chương mới đạt được tác dụng của nó...”(sđd,
tr.48)
Ý chí và mục tiêu- rất "strategic
marketing"- như vậy đã rõ; nhưng còn điều kiện sáng tác, và nhất là
năng lực đòi hỏi ở người cầm bút, thì sao? Nguyễn Huy Thiệp đã cố gắng
tìm cách trả lời qua gần 300 trang sách, với " bức xúc đổi mới[...]
bộc lộ có khi còn mạnh mẽ và quyết liệt hơn trong những truyện ngắn và vở kịch" của
ông, theo lời Hoàng Ngọc Hiến ( Nguyễn Huy Thiệp, sđd,
tr.292) .
Về hiện trạng, với con mắt phê phán- là bước đầu tiên
trong tiến trình phản tỉnh-, họ Nguyễn đã không ngại ngùng hạ bút:
"Trong khu vực văn chương ở ta, trừ đôi ba người thực
sự xuất chúng, còn nhìn chung văn chương của các cụ ta xưa và những nhà văn
hiện đại ngày nay, so với nhiều dân tộc khác, phải thừa nhận là kém cỏi"(sđd,
tr.31). Nếu nhìn cận cảnh, vẫn theo ông, thì "khoảng hơn
chục năm trở lại đây, ở Việt Nam không có những nhà văn có phong độ, khí
phách lớn. Đến ngay cả nỗi buồn cũng không phải là những nỗi buồn lớn"(tr.256).
Không chỉ có thế. Tình hình chung còn tệ đến nỗi họ Nguyễn phải
dùng những tiếng nặng nề hơn, như để thét to lên cho hả dạ :
" Văn học Việt Nam gần đây mất đi khả năng tưởng
tượng, lãng mạn, mơ mộng và nhiệt huyết sống. Nó trở nên thực dụng, ê chề, lọc
lõi, oái oăm, đôi khi đểu cáng " ( tr.257).
Rồi, bằng một "tông" trầm đến độ nghe như nghẹn lại,
họ Nguyễn bộc lộ những thao thức của mình:
" Có lẽ chưa bao giờ dân tộc Viêt Nam lại cần đến các
nhà văn có tư tưởng sáng suốt như trong thời điểm hiện nay [...] Chúng ta cần
phải tỉnh táo nhận ra rằng tình trạng hiện nay của dân tộc ta là thê thảm.
Tôi không muốn nói đến tình trạng thiếu thốn vật chất mà muốn nói đến thế giới
tinh thần của họ [...]Tôi đã thấy sự nghèo đói nhưng tôi không sợ. Tôi
đã thấy sự sai lầm trong công việc ở nhiều nơi nhưng tôi không sợ. Tôi chỉ sợ
khi con người không còn sự tôn trọng lẫn nhau, không còn lòng dũng cảm, không
còn đức tính trung thực và như thế sẽ không đào đâu ra được tình yêu tuyệt đối" ( tr.33-34).
Rõ ràng là hết sức thời sự, những dòng tác giả viết từ
..1989 !
Có điều, cái nghịch lý cho tất cả chúng ta là- bất luận hoàn
cảnh ra sao và ở thời điểm nào- ta vẫn phải gìn giữ cái tình yêu tuyệt đối ấy.
Bởi lẽ, ngay cả ở thơ- xưa nay vốn là niềm hãnh diện của số đông
người Việt - Nguyễn Huy Thiệp cũng phát hiện ra là chẳng có gì :
"Tôi không dám khẳng định rằng một dân tộc đi đâu cũng thấy tiếng
thơ véo von là một dân tộc suy đồi nhưng bất hạnh là chắc chắn" (
tr.41).
Có lẽ không một ai khác, từ trước đến nay, dám nói như vậy.
Và ông giải thích : "Khi hình thức (thơ) bình dân được tư tưởng (thơ)
bình dân nhân lên nhiều lần theo cấp số nhân (giống như cơm bình dân, nhà nghỉ
bình dân) thì tình trạng cả nước làm thơ, thiếu vắng một đẳng cấp ngoại hạng,
thượng lưu thì đấy là một bi kịch, một sự cay đắng vô cùng cho văn học" (
tr.164).
Chúng ta đã nhầm lẫn quá lâu trong những ảo tưởng. Điểm mạnh
của những phát biểu như trên là giúp đặt lại toàn diện vấn đề : sự kém cỏi bắt
nguồn từ tình trạng thiếu căn bản, yếu tư duy và nghèo trực giác ( họ Nguyễn gọi
đó là khả năng "thấu thị" của "thiên nhãn").
Về những điều kiện chủ quan tối thiểu cần thiết cho người cầm
bút, Nguyễn Huy Thiệp đã khéo léo trích dẫn nhiều lần Lê Quý Đôn
trong các tiểu luận, để làm nổi bật những đòi hỏi khắt khe cơ bản được xác định
từ lâu bởi bậc danh tài dân tộc :
" Văn học không phải là trò chơi, là câu chuyện phiếm.
Muốn văn hay phải hiểu biết và từng trải nhiều. Văn chương chữ nghĩa không phải
là lời nói suông. Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có núi
sông kỳ lạ của thiên hạ thì không thể làm văn được" (tr.47).
Ý thức rõ như vậy nên họ Nguyễn đã buột miệng : " làm
người thật khó, làm một nhà văn càng khó hơn"(tr.83). Đi xa hơn nữa trong
lịch sử minh triết, ông mượn lời Khổng Tử làm khởi điểm để yêu cầu nhà
văn trước hết phải chính danh :
"...hình như nghĩa "chính danh" của một nhà
văn là toàn bộ thần thái tạo nên hình ảnh tác phẩm của anh ta [...] Tôi muốn
nói là nhà văn cũng phải viết trên một cơ sở lý luận, một quan niệm nhất định[...]tính
bản thiện là hạt nhân cơ bản tạo nên con người[...] Có lẽ, điều kiện để
cho mọi người đạt tới chính danh chỉ đơn giản có vậy thôi "(tr.22-23).
Nhưng đặc sắc nhất trong những góp ý của
Nguyễn Huy Thiệp có lẽ là đòi hỏi về sự chính xác :
"Ở ta, tôi nghĩ rằng phải hết sức chú ý đến yếu tố
chính xác trong các giá trị thẩm mỹ văn chương. Chính xác ở ngôn từ thể hiện.
Chính xác ở bản thân sự kiện. Chính xác ở tư tưởng. Thậm chí chính xác ở thể loại.
Chính xác ở chức năng văn học. Văn học nước ta mới hình thành chưa được
100 năm. Đã đến lúc văn học phải bước những bước chính xác trên hành trình gian
khổ của nó. Chính xác cũng là một trong những điều kiện thiết yếu của cái đẹp" (tr.35).
Về vai trò và cách tiếp cận của nhà văn, họ Nguyễn khẳng
định, với một sự sáng suốt hiếm thấy, nhất là khi đối chiếu với tình hình những
chuyển biến gần đây :
<<Nhân dân đang cần những cuốn sách giúp họ nhận thức lại
mình [...]
Nhân dân chẳng cần nhà văn phải chỉ bảo "hướng tiến
lên" cho họ thế nào, tự họ sẽ đi tìm lấy>> (tr.34).
Muốn thế thì, theo quan điểm của ông khi đề cập tới thi ca, "chỉ có đối mặt
thẳng thắn, lý giải nó bằng triết học, nhà thơ mới tìm ra được một giải
pháp tương đương, có tính chất toàn bộ nhằm chống chọi và giữ được thế cân bằng
với cái ác trong bản chất sự sống"(tr.39). Chữ "nó" trong bài viết
chỉ "tính thiện", nhưng nếu ta có thay bằng "cuộc đời" hay
" thân phận", thì ý nghĩa thâm trầm của câu văn vẫn nguyên vẹn.
Hình như Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn nhấn mạnh nhiều nhất đến
tầm quan trọng của triết học. Ông nói không quanh co với thi nhân :
"Cần phải tiến tới triết học. Đấy là đích đi đến của nhà
thơ. Nhưng muốn tiến tới triết học, nhà thơ bắt buộc phải vượt qua nhịp cầu tâm
lý học. Nhà thơ – nhà tâm lý không thiếu việc làm: anh ta liên tục quan sát,
liên tục nhận xét và liên tục tìm cách cải thiện các mối quan hệ để thể nghiệm
những nhận xét ấy " (tr.40-41).
Thậm chí, nếu phải chọn thì, theo ông, "nhà
thơ – nhà triết học dứt khoát phải biết gạt các cảm xúc sang bên để nghiền ngẫm
về bản chất" (tr.40).
Quan niệm triệt để này có thể làm ta ngạc nhiên, nhất là đối
với thi ca vốn là lãnh địa muôn đời của cảm xúc : phải chăng đó chỉ là một cách
nói của tác giả, trước sự tràn ngập của cái khả sắc (le sensible), nhận chìm
luôn cả cái khả tri (l'intelligible) quý báu?
Đừng quên rằng cái họ Nguyễn gọi là triết học hoàn toàn không có tính suy biện
(spéculatif) lý thuyết khô khan mà hừng hực hơi thở cuộc sống.
Bằng chứng thứ nhất là, ngay khi viện dẫn Lê Quý Đôn luận về "đạo" ("Vô
luận cổ văn hay kim văn, tuy thể loại và câu văn có khác nhau, nhưng đại để đều
phải có nội dung là đạo"), ông cũng uốn nắn theo hướng lập trường rất duy
thực giới (le réel) của mình, như một tuyên ngôn văn học gãy gọn, chắc
nịch và sâu sắc :
"Ta cũng có thể coi đạo như một mạch sống. Cảm nhận được mạch sống của
thời, thể hiện được bằng con chữ, đấy là văn chương thần thánh"(tr.55).
Bằng chứng thứ hai là khi chê trách Chế Lan Viên, ông
có nói rõ:
"Chế Lan Viên chỉ băn khoăn về các chân lý hình nhi thượng mà thôi. Hỡi
ơi, ngoài những chân lý hình nhi thượng, đời [BĐH nhấn mạnh] còn
có bao điều khác nữa" ( tr.82).
Bằng chứng thứ ba, hết sức cơ bản : Nguyễn Huy Thiệp có lẽ là người đầu tiên
trong văn học Việt Nam nói đến tín ngưỡng với cuộc sống.
Ông quả quyết : " đối với nhà văn không có lòng tín ngưỡng với sự sống
thì những trang viết của anh chỉ có thể dừng ở mức độ viết kiếm ăn thôi chứ
nâng lên được tầm văn học thì còn lâu mới với tới [...] cuối cùng trên từng
trang viết nhà văn phải dần dần tạo cho mình một quan niệm tín ngưỡng ít nhất
ra cũng với mình. Tín ngưỡng đó hướng về đấng tối cao của sự sống" (tr.19).
Nguyễn Huy Thiệp nhiều lần nói tới "tín ngưỡng", "đức
tin"(tr.36), rồi " kinh nghiệm tâm linh"(tr.40)..., như một cách
phản ứng sau những lầm lạc của chính mình ( ?) và của thời đại. Ông thú nhận :
" Chúng ta đã quá tự tin, vô thần khi coi nhẹ mặt tâm linh trong đời
sống con người. Điều ấy thật khủng khiếp: ô trọc và vô văn hóa sẽ ngự trị khắp
nơi" ( tr.52).
Phát biểu như vậy, họ Nguyễn đã cùng lúc công nhận hai điều.
Một là, về lập trường, « ý thức tín ngưỡng, hướng thượng, vươn lên sự
cao cả, chân lý, cái đẹp, sự tuyệt đối phải là những hòn than ủ đỏ trong tác phẩm
nhà văn » (tr.34).
Hai là, về cứu cánh, "thơ là kết quả của trạng thái sáng tạo trong đó
Sự Thật biểu hiện. Quan niệm ấy na ná như một quan niệm tôn giáo nhưng thật ra
không thể hiểu khác được" (tr.41).
Quan niệm này khá thú vị, bởi nó dẫn tới sự gặp gỡ tột cùng với
cái siêu nghiệm (transcendance). Trong văn chương Việt Nam, tuy ít
nhiều cũng đã có điểm xuyết đôi nét siêu nghiệm - từ vẻ đẹp huyền thoại của
câu chuyện Từ Thức đến những cảm xúc mê say của một Tú Uyên trong Bích Câu Kỳ
Ngộ -, nhưng rồi mạch cảm hứng ấy dường như đã bị cắt đứt, phải ngừng lại ở một
Bướm Trắng, hay Dòng Sông Thanh Thủy, là những tác phẩm tiêu biểu mà chỉ có một
số hiếm hoi nhà phê bình đã công tâm nêu rõ giá trị mỹ học. 288-289
Trong một chừng mực nào đó, công trạng lớn nhất của Nguyễn Huy Thiệp, ngoài những
tác phẩm để đời, có lẽ là sự thấu cảm - bằng trực giác - và ý muốn khôi phục
vai trò khai mở của tính siêu nghiệm - mặc dù ông không gọi đích danh thuật ngữ
này - cho văn học Việt Nam.
Điều đó bao hàm, như một hệ luận, những đòi hỏi gắt gao
đối với mọi dự án sáng tạo, đặc biệt ở thời buổi hiện nay.
Về phía nhà văn, theo họ Nguyễn, thì: <<Có lẽ đã đến lúc người ta
phải nghĩ đến một "typ" nhà văn khác: lớp nhà văn trí thức của một xã
hội phát triển. Họ viết văn có bài bản, có lý luận, lý lẽ chứ không mò mẫm>> (tr. 257).
Về phía nền văn học thì: "Khi văn học chưa đạt được tới ngưỡng của
tri thức văn hóa của thời đại nhà văn đang sống thì văn học không thể có sức mạnh
được" (tr.19).
Trên phương diện này, Inrasara cũng có nhận xét tương tự đối với thi ca :"Khủng
hoảng lẩn quẩn mãi trong vòng bế tắc nghề nghiệp với phản kháng mang tính cục bộ,
nhất thời, chưa một lần được chúng ta đẩy tới cấp độ cao hơn. Thì làm thế nào
tư tưởng chúng ta có thể lớn? Nền thơ tiếng Việt có thể lớn? (Inrasara, sđd,
tr.89).
Ông hô hào: "... chúng ta cần phát biểu
nhiều hơn nữa, có nghề [BĐH nhấn mạnh] hơn nữa. Để có thể
khai mở một trào lưu sáng tác, một trường phái văn chương. Các ý kiến cảm tính,
cảm nhận mơ hồ hay quan điểm còn rời rạc… cần được đúc kết và nâng cấp thành một
hệ thống lý thuyết. Làm nền tảng cho sáng tạo chuyên nghiệp" (Inrasara, sđd,
tr.15).
Nhưng hệ thống mới nào đây? Khác với Nguyễn Huy Thiệp,
Inrasara cởi mở, nồng nhiệt với cái đương đại (họ Nguyễn cho «đương đại
là suy đồi» [NHT, sđd,tr.183]), và nhất là những khuynh hướng hậu hiện đại
mà ông say sưa giới thiệu, cổ võ một cách chân tình. Ông không ngớt trích dẫn
những Mary Klages («hãy chơi với cái vô nghĩa [nrasara,
sđd, tr.190]), Mikhail Epstein ( Hậu hiện đại tháo gỡ vấn đề tha hóa
bằng cách tháo gỡ luôn hiện thực” [tr.189 ]) v.v..., nhưng đồng thời sự
«lương thiện trí thức» đã khiến ông không thể không nhìn nhận giới
hạn mỹ học của nó («... dù Mở miệng đóng góp vào kho tàng văn chương
Việt lượng ngôn từ mới, húy kị đáng kể nhưng, nếu chúng ta từ chối các từ cao
sang, ngôn ngữ thơ của thi sĩ trẻ sẽ nghèo nàn biết bao. Vô hình trung chúng ta
tự buộc tay chân mình, chặt gẫy đôi cánh chưa có gì là khỏe khoắn của mình, cuối
cùng tự rơi vào một thế bí hệt thế hệ hôm qua, nhưng ở chiều ngược lại: đối xử
phân biệt với ngôn ngữ quý phái!» [tr.89]; <<Một số “tác
giả” còn quyết liệt đẩy quan niệm thơ về phía cực đoan hơn nữa! Các khái niệm:
hay, đẹp, có hồn, rất thật…, cần phải bị biến mất mà thay vào đó là những khái
niệm mới: vui, buồn cười, quái chiêu… [...]. Một không khí tạp nham, hỗn độn,
rối mù mù nhưng… vui vẻ!>> [tr.213]).
Mặc dù những thành tựu rất hứa hẹn ghi nhận mới đây trong
lãnh vực truyện hậu hiện đại 290, sự dè dặt của Inrasara xác nhận - ở
trường hợp Việt Nam - cơ sở thực tế của những kết luận về sự bế tắc - ở phương
Tây và có lẽ trên cả toàn cầu - của «giải pháp hậu hiện đại», như đã
phân tích (Chương 2 ***). Nhất là, đến đây, ta còn có thêm một lẽ rất hiển
nhiên này: nếu «hậu hiện đại tháo gỡ hiện thực»,
thì để làm thêm được cái gì sau đó?
Chính Heidegger, cha đẻ của thuật ngữ thời thượng «tháo
gỡ (giải cấu trúc)», cũng đã giải thích cặn kẽ rằng thao tác
này của chủ thể chỉ có mục đích «trở về nguồn» để nắm bắt
cho được «những ý niệm uyên nguyên đích thực».291
Vậy vấn đề là ta có khám phá hay phát minh ra được ý
niệm mới nào không.
Nhưng muốn tiến tới đó, mà chỉ biết miệt mài "có công mài sắt" trong một góc riêng, thì không đủ. Chưa nói đến tài
năng, người làm văn nghệ còn phải ấp ủ biết bao thứ tình cảm lớn: cái
tham vọng canh cánh bên lòng, cái ám ảnh cào xé tâm tư, cái chất liệu nóng bỏng,
những thôi thúc mãnh liệt, những cảm hứng diệu kỳ đó, lấy ở đâu ra, nếu không
phải là ngay giữa lòng đời, trên mảnh đất thiêng liêng đã nhận từ cha ông và sẽ
còn phải trân trọng trao lại con cháu?
Nguyên Sa, từ lâu, đã diễn tả mối trăn trở ấy với tất cả bầu
máu nóng và chiều sâu tâm hồn, mà khoảng cách 45 năm qua dường như
không hề làm mất thời gian tính hay cường độ suy tư:
"Những sa đọa chính trị đó bây giờ đã tan thành hơi thở,
lẫn trong nước uống, chìm trong món ăn. Chỗ nào cũng đầy rẫy những
tên lừa bịp lộn sòng [...] Đó là cái số phận chung. [...]. Cho nên, trong nước mẹ
khổ đau này, văn nghệ không thể không bị ám ảnh bởi lo âu hơi nóng sẽ vĩnh
viễn trở thành băng giá được. Phải ôm lấy những khổ đau ấy [...] Phải giải
quyết số phận đó. Bởi vì đó là số phận của văn nghệ. Hơi nóng đó bay đi
văn nghệ cũng chẳng còn. Đóng góp vào việc giải quyết những khổ đau của
dân tộc bằng tác phẩm (BĐH nhấn mạnh) là đóng góp vào việc giải
quyết số phận của chính văn nghệ."
Và nhà thơ kết thúc, dứt khoát như một lời tuyên thệ:
“Bây giờ chưa có gì cả. Bây giờ chỗ đứng của văn nghệ cũng
như của dân tộc là tảng đá sắp rời khỏi núi. Là căn bệnh dịch hạch đang lan
tràn trên đất nước. Dịch hạch chết chóc. Dịch hạch nghèo đói. Dịch hạch tan
nát. Văn nghệ phải làm khỏe chính nó bằng cách làm khỏe dân tộc. Bằng cách cúi
đầu hôn lên những vi trùng tàn phá thân thể dân tộc. Đó là con đường, mặc dầu đe
dọa, bằng kiên trì, tin
tưởng và tình yêu, tôi sẽ tiến tới”.» 292
Đó cũng là con đường đưa đến - hoặc đúng hơn, trở về - siêu
nghiệm, một siêu nghiệm tại thế 293 theo nghĩa của Fernand
Dumont như đã đề cập kỳ trước***.
Vòng tròn như vậy đã được khép kín, như thân phận con người,
giữa trần gian, một trần gian dẫu không lung linh thần thoại cũng chứa đựng
vô vàn hiện thực hấp dẫn vì đầy cái bất ngờ, vô định, cái bất khả quyết (indécidables) như định
lý Gödel294 nổi tiếng đã chỉ ra bởi lẽ, một đằng, bất cứ thực thể
dạng thức hóa (formalisé) nào - dựa trên một hệ công lý [toán học] (axiomatique)
hoàn chỉnh chặt chẽ đến đâu chăng nữa - cũng chứa đựng những «biểu
đề» (énoncé) không thể chứng minh được với chỉ riêng hệ
công lý [toán học] nội tại, huống hồ chi cuộc đời; đằng khác, do bất
cứ thực thể nào cũng mang tính bất toàn (incomplétude) nên điều kiện
hoàn thiện tối thượng (ultime) cho mọi hệ thống là sự vươn mở tới cái nằm
ngoài nó: đây là một yếu tố tạo cơ sở luận lý cho sự hiện hữu và tính tất
yếu của siêu nghiệm, mà ta đã coi như một định đề (postulat) ở trên (Chương 2
***).
Như vậy, những tiếng nói thiết tha của một số tác giả uy tín -
từ nhiều phía và ở nhiều thời điểm khác nhau - đã góp phần xác định một quan điểm
đáng mong ước cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam nói chung, trong thời “bá đạo”
(tr.25), “mạt pháp” (tr.183)- như Nguyễn Huy Thiệp thường gọi -, giữa một xã
hội được ông lý giải là “không có những tác phẩm văn học hay, không có những
tác phẩm văn học giá trị, nghĩa là nhân tính mất đi” (tr.264). Ông
tuyên bố:
“dân chủ tức là vương chính, khủng bố tức là bá chính [...]
Tiêu chuẩn đầu tiên của văn minh là tính khoan dung và sự phi bạo lực”; “không
khí dân chủ cộng với chỗ dựa kinh tế lành mạnh là những cơ sở để tiến tới một
thể chế chính trị vương đạo. Chỉ có một thể chế chính trị vương đạo mới làm cho
bản tính con người phát triển hết” (tr.25).
Tất cả gần như đồng nhất với nhận định trong suốt của
Bùi NgọcTấn rằng “Tiểu thuyết không thể tương hợp được với thế giới toàn trị” 295 và
đồng thời cũng nêu lên vấn đề lương tâm, đạo đức đối với nghệ thuật. Trên mặt
này, Nguyễn Huy Thiệp khẳng định không chút do dự, như một thứ kim chỉ nam cho
kẻ sĩ mọi thời:
“Trinh khiết giữa cuộc đời ô trọc và phàm phu, hướng tới
sự sống, tuyệt giao với mọi biểu hiện suy đồi theo tôi, đấy chính là đạo đức rồi.
Chỉ cần một thứ để làm nên bất tử thôi: Tác phẩm” (tr.42).
Cũng như Tình Yêu, cái Đẹp là thiên sứ đến với nhân gian để
làm thăng hoa cuộc sống và ban cho con người chiếc đũa tiên vượt thoát sự tầm
thường.
Nó là khát vọng khôn nguôi trong tâm can khả sắc*, là ám ảnh
sáng tạo không ngừng của nỗ lực tư duy**, là phần thưởng cao quý cho khách tao
nhân sau những thử thách cam go, như hành trình “tìm tới cội nguồn, cái gốc
gác, cái động mạnh chủ của cuộc sống”- theo cách nói của Bùi Ngọc Tấn 295 -
để thấu hiểu, khai phá, diễn đạt và hiến dâng tơ thắm cho đời.
Cuộc sống và con người, những huyền nhiệm, những thế giới vô
biên đầy ẩn số ! Hegel rồi Merleau-Ponty đã lần lượt cho ra đời Hiện tượng
học của tinh thần và Hiện tượng học của tri giác ; Michel Henry
đã viết cả ngàn trang Hiện tượng học thân xác và đời sống 296:
nhưng triết học vẫn chưa - và có lẽ sẽ không bao giờ- xác lập được một Hiện tượng
luận đầy đủ cho con người toàn diện.
Bên cạnh đó, nghệ thuật là những đóm sáng diệu kỳ lóe lên
trong quá trình sáng tạo từ thuở bình minh của nhân loại297. Hơn thế nữa, nó hiện
diện thường trực. Bởi vì, chẳng những “là hình thức của tư duy, thiếu nó ý
thức con người sẽ không tồn tại, cũng như không thể tồn tại ý thức với chỉ một
nửa bán cầu đại não” như Yuri Lotman đã nói 298, nó còn là chứng
tích ý nghĩa nhất xuyên qua các thời đại, như nhận xét sắc sảo của Claude
Lévi-Strauss, mà Đặng Tiến299đã nhắc đến trong bài viết kỷ niệm sinh nhật 100
tuổi của nhà nhân chủng học lừng danh này để ta cùng suy ngẫm:
“Tình cờ, xoá đi mười, hai mươi thế kỷ lịch sử, kiến thức
chúng ta về bản chất con người cũng không thay đổi bao nhiêu. Mất mát không bù
đắp lại được là những tác phẩm nghệ thuật mà những thế kỷ kia đã tạo nên. Vì
con người chỉ khác nhau, thậm chí chỉ tồn tại, qua tác phẩm của mình. Như tượng
gỗ sinh ra từ thân cây, chỉ có tác phẩm nghệ thuật mới chứng tỏ được hiển
nhiên, rằng qua thời gian giữa người với người, có cái gì đó đã thực sự xảy
ra».
Cái Đẹp đã thực sự đến. Và sẽ mãi mãi đồng hành với ta,
bao lâu cuộc đời còn giữ trọn sắc màu nhân tính.
3. Vấn nạn Việt Nam
Có lẽ chưa bao giờ, trong suốt lịch sử mấy nghìn năm, dân tộc
Việt Nam lại phải đối mặt với một nghịch lý chua cay, nghiệt ngã như hôm nay
: sau chiến thắng giành lại chủ quyền và thống nhất lãnh thổ, đất nước- thay
vì đi vào kỷ nguyên phát triển vinh quang- lại bị ngập chìm trong bóng
tối một quá trình suy vong, rệu rã.215 Ở đây, ta sẽ không bàn đến khía cạnh chính trị bởi nó ngoài đề, nhưng bối cảnh đó là cái nền chung không chối cãi cho mọi phân tích liên quan đến thực trạng xứ sở. Trên bình diện văn hóa - là phạm vi giới hạn của bài viết này -, một giả thuyết dễ dàng đến ngay, sát với chủ đề của chúng ta, đó là : những thất bại đớn đau đã thấy, nghĩ cho cùng, đều bắt nguồn từ sự đánh mất những giá trị cơ bản, dẫn tới sự phá sản của vốn liếng nhập cuộc. Nói cách khác, cái nền tảng ban đầu của đất nước ngay từ trong kháng chiến đã ngầm chứa tất cả những nhân tố độc hại làm triệt tiêu mọi khả thể thăng tiến nhân văn và phát triển xã hội : hận thù được tôn lên thành động cơ đấu tranh chính thống 216, tri thức là dấu vết đáng ngờ của một thứ « tội tổ tông » làm nhơ lý lịch, di sản văn hóa cha ông không mấy khi tránh khỏi bị quy kết là «tàn dư phong kiến», và mãi đến hôm nay vẫn tiếp tục bị lạnh lùng phá hủy...217 Một hệ tư tưởng dựa trên những xác quyết u ám như vậy, thì
lấy gì để vực dậy Quê Hương, để nâng tầm dân tộc sau cuộc chiến thảm khốc vừa
qua (một dân tộc dẫu không may mắn có được một Minh Trị Thiên Hoàng như nước
Nhật- thay vì một Tự Đức- ở khúc quanh định mệnh của lịch sử cận đại, nhưng
cũng đã từng sản sinh những Lý Thường Kiệt 218, Trần Nhân Tôn 219,
Nguyễn Trãi 220)? Dân tộc đó đang gánh chịu sự xuống cấp trầm trọng về vật chất
lẫn tinh thần. Non nước xác xơ. Tuổi trẻ tiều tụy221. "Gia tài của
mẹ, một bọn lai căng; gia tài của mẹ, một lũ bội tình" : câu hát nổi
tiếng của Trịnh Công Sơn - tự bao giờ- vẫn giữ nguyên thời gian tính, như lằn
roi quất lên gương mặt thời đại. Đến hôm nay, “máu và nước mắt từng ngày vẫn đổ” 222. Đó
là nỗi khổ nhục lớn. Đó cũng là một trong những tiền đề cho những xót xa, suy ngẫm
nơi mỗi chúng ta. Song, trong khuôn khổ Chương cuối Phần III*** của loạt bài
này, ta cần có một độ lùi tối thiểu đối với thời cuộc để thử điểm lại-
dưới góc độ học thuật- những điều kiện cơ bản hãy còn quá khiếm khuyết, chưa
cho phép văn học nghệ thuật Việt Nam ngẩng đầu đối mặt với thử thách. Bất luận thời nào, cách mạng đích thực phải là cách mạng
nhân văn. Thế mà, từ nhiều thập kỷ qua, cái Đẹp đã dấu mặt, tư duy tắt ngấm.
Giữa khoảng trống chơ vơ là những quờ quạng, thao thức vô hình. Và nỗi bất lực
triền miên... Nhưng giải pháp làm sao ló dạng, khi chính chúng
ta chưa đặt được cho mình câu hỏi bộc phá, đủ sức vạch mở- từ tọa độ dân
tộc- một không gian suy tưởng ăn khớp với thời đại, tạo ra sức bật ý
nghĩa nơi từng chủ thể biết nhen nhúm, thổi bùng ngọn lửa xác tín thiêng
liêng về những giá trị sống chết và ý nghĩa sâu thẳm của hiện hữu, cần
được khám phá, tái hiện, triển khai, dưới gam màu độc đáo và âm sắc riêng lạ của
mỗi cảnh đời? Chúng ta đang dẫy chết trong sự thờ ơ, nhát sợ, tầm thường. Còn
cái Đẹp, tự nó - và muôn đời -, là thách thức. Khi không gian mỗi ngày thêm ngạt
thở, thì cái Đẹp là sinh lộ thanh thoát cho những dũng cảm nhân cách,
sâu lắng tư duy và tinh khiết tâm hồn : hành trình Mỹ học, do đó, cũng là
hành trình thăng hoa nhân tính và dẫn tới siêu nghiệm (transcendance), như đã
thấy trên (Chương 2)***. Ở Việt Nam, do triết học vốn đã thiếu vắng trong cốt hồn
văn hiến lại càng không có chỗ đứng trên sân chơi học thuật đương thời, nên
những thách thức của cái Đẹp khó lòng vượt qua cảm tính để thâm nhập tâm thức,
xoáy mạch trầm tư. Thay vào đó, văn học nghệ thuật - trong tư thế độc
lập từ ngoại biên chính trị - là tác nhân sung mãn nhất còn lại, có khả
năng và trách nhiệm chấp nhận thách đố - mà khởi đầu là sự tập trung
khắc phục những hạn chế nội tại - để lột xác vươn lên, soi rọi nhân thế, nắm bắt
sự thật, khơi gợi những chân trời khả thể, kích hoạt cuộc hồi sinh,
chính danh đóng trọn vai trò vượt lịch sử (transhistorique) đầy khó
khăn, tế nhị, nhưng vô cùng thanh cao của nó: sáng tạo và khai phóng. Bởi cái Đẹp đánh thức con người. Bởi sáng tạo không ngừng
kêu đòi cảm hứng. Thôi thúc, quyết liệt. Như cách mạng chờ ngòi lửa. Như hạn
hán đợi cơn mưa. Tín hiệu đáng mừng hay bức tranh siêu thực? Những tin tức về số phận dành cho người nghiên cứu nhóm thơ hậu
hiện đại Mở Miệng 223-224 gần đây, đã khiến dư luận cảm thấy - nếu không
công phẫn - ít nhất là một sự thất vọng bàng hoàng. Mặc dù vậy, bên cạnh
bao bức xúc khác, nếu xét kỹ dưới góc nhìn thuần túy văn hóa thì thời sự văn
nghệ Việt Nam trong vòng hai năm nay thật ra cũng không phải không có một số dấu
hiệu tương đối tích cực, cho ta ít nhiều hy vọng. Ví dụ đầu tiên: Vi Thùy Linh mang thơ vào Nhà hát Lớn, biến
văn chương thành «sự kiện» sáng giá trong đêm nghệ thuật cuối năm
2012 tại Hà Nội. Phải nhìn nhận đây là một sáng kiến táo bạo về cách làm, tạo
được ấn tượng tốt ở nhiều người, từ nhà sử học Dương Trung Quốc225-226đến nhà
phê bình Phạm Xuân Nguyên227, nếu chỉ nhắc đến chừng ấy ý kiến phát biểu. Một sự
động viên giỏi, vận dụng hiệu quả nguyên lý tiếp cận thị trường hiện đại và
khéo dựa trên những phương tiện sân khấu ca, vũ, nhạc cộng thêm với cả mỹ thuật
đương đại: tất cả nhằm để vinh danh Thơ (mà cụ thể trước mắt là sự đăng quang
những sáng tác của nhà thơ). Một ví dụ khác - ít rầm rộ hơn, nhưng không kém phần ý nghĩa-, đó là việc một Tủ sách Văn học Việt Nam đương đại mới ra đời 228 tại Pháp nhờ công sức của dịch giả Đoàn Cầm Thi cùng nhà văn Thuận, mà chỉ riêng bức ảnh dưới đây cũng đủ làm toát lên vẻ sáng tự tin của một thế hệ xông xáo, tài năng và đẹp rạng rỡ. Rạng rỡ cũng còn là tin vui khác về việc tiểu thuyết "Biển và Chim Bói Cá" của nhà văn Bùi Ngọc Tấn được giải thưởng tại liên hoan "Sách và Biển" 2012 trên đất Pháp...229 Nhà văn Thuận (trái) và dịch giả Đoàn Cầm Thi tại lễ ra mắt Tủ sách Văn học Việt Nam đương đại tại Pháp Bìa tác phẩm «Biển và chim bói cá» bản tiếng Pháp Rời văn học bước sang mỹ thuật, người ta lại tiếp tục thấy
thích thú trước những chứng từ mới mẻ, phong phú- có khi cảm động- của Nguyễn
Quân230, Hoàng Hưng231, Đào Mai Trang232, Phạm Trung. Không cảm sao được,
khi biết rằng nhiều nghệ sĩ trẻ phấn đấu hết mình cho nghệ thuật, chẳng hạn như
trường hợp tác giả cuối vừa nêu, cùng với Bùi Như Hương, phải bỏ thêm tiền túi
ra233 - mặc dù đã có được hỗ trợ của các quỹ và tổ chức văn hóa đỡ đầu 234 -
để in tập sách Nghệ thuật đương đại Việt Nam 1990-2010 bằng tiếng
Anh, chỉ vì lý do... «tiếng Anh nhiều người mua hơn ; từ đó, họ
mới có tiền in bản tiếng Việt»! Một tập sách đã khiến Tôn Nữ
Thị Ninh phải tâm đắc: “Nếu còn là đại sứ, tôi hoàn toàn không ngại
ngần mang cuốn sách này làm quà tặng cho nước ngoài, để họ hiểu thêm về văn hóa
Việt Nam”.235 Hết mình cho nghệ thuật, đó cũng là điều công chúng đã từng cảm nhận từ những người như Đào Anh Khánh, đặc biệt qua tác phẩm đồ sộ «Cây đời» 236 được trình diễn nơi công cọng cách đây hơn hai năm, với một ngân sách 2 tỷ đồng237. «Chân bị gãy [...] mà trong suốt 4 tháng luyện tập, và cả trong đêm diễn anh vẫn phải mang đôi nạng; [...] vẫn đang là “con nợ” của 600 triệu và nhiều dự định [...], một nghệ sĩ “ròng” như anh dễ gì từ bỏ đam mê máu thịt»: Vi Thùy Linh đã thuật lại với những chi tiết chính xác như vậy238 về nghệ sĩ tiền phong này. Hàng ngàn người đã đến với triển lãm “Cây Đời” của Đào Anh Khánh khai mạc vào tối 15/10/2010 tại Long Biên, Hà Nội. Chưa hết. Mỹ thuật mới của Việt Nam còn xuất hiện ở những nơi
khó ngờ tới nhất : một cuộc triển lãm nghệ thuật đương đại mang tên Đất
Mường đã mở cửa cuối tháng 9/ 2011 tại Bảo tàng Không gian văn hóa Mường
(tỉnh Hòa Bình), cùng lúc với Festival Văn hóa truyền thống của người Mường239. Trong bài viết đã dẫn 230, Nguyễn Quân khẳng định:
«Nếu có một bộ phận văn hóa nghệ thuật nào phát triển lạ lùng, nhanh mạnh
gây ảnh hưởng nhất ở ta hai thập kỷ qua thì đó chính là CA [Contemporary Art,
Nghệ Thuật Đương Đại; BĐH chú thích] chứ không phải âm nhạc, điện ảnh,
sân khấu hay thơ văn…!». Về phần mình, Hoàng Hưng cũng đã có nhận xét đầy lạc
quan: «[...] Sang đầu thế kỷ mới, tình hình rõ ràng là
khác, khi xu hướng mỹ thuật khái niệm, mỹ thuật ngoài giá vẽ, tiến tới mỹ thuật
công cộng (public art), cụ thể qua các thể loại sắp đặt, trình diễn, video… với
một thế hệ tác giả trẻ có tư duy mở rộng, tiếp nhận ngày càng sâu rộng những
giá trị phổ quát Tự do, Nhân quyền, Dân chủ. Ta bắt đầu nghe được những tiếng
nói chính trị xã hội cất lên trong Mỹ thuật» 231 Thật đáng mừng. Song, phác qua vài nét như vậy, bức tranh văn học nghệ thuật Việt Nam có vẻ quá... hồng đi chăng? Nhất là khi không dễ gì quên ngay «những điều trông thấy»: từ sự thiếu nghiêm túc tràn lan240-242 - thậm chí có cả hiện tượng «đạo» tranh! 243 - về phía người làm nghệ thuật, đến sự kiểm soát không đúng chỗ của chính quyền 244mà lập luận chính thức không dựa trên gì khác hơn là thực tế xuống cấp tệ hại của một số bộ môn trình diễn245. Riêng về nghệ thuật đương đại, hãy nghe ý kiến của Mai Chi: «Trong khung cảnh rất nhiều sắp đặt và trình diễn được làm cẩu thả, dễ dãi và hình thức, đi kèm với các tuyên ngôn của nghệ sĩ không ăn nhập, rối ren, đau đầu và “sai chính tả” thì dường như công chúng mong muốn nhìn thấy sự thể hiện của kỹ thuật, tay nghề và công sức240». Màn trình diễn tác phẩm "Bay lên" của Lại Thị Diệu Hà Màn trình diễn ngồi WC đọc báo của Lê Anh Hoài 242: thế này mới là «đương đại» đúng kiểu... Marcel Duchamp ư? Nhưng không phải chỉ các nghệ sĩ sa đà mới đáng trách, mà
ngay cả những nhà lý luận phê bình, theo Huỳnh thị Nga246, cũng không hề «nhẹ tội». Ngoại trừ - và đó là điều đáng suy ngẫm - các tác giả người
nước ngoài: khi Laurent Colin- măc dù chỉ được gọi là
«a-ma-tơ» - viết xuất sắc một bài phân tích về nghệ thuật đương đại
Việt Nam247, hay khi Nora Taylor - với tư cách nhà nghề - phản hồi sắc bén các ý
kiến này248, thì đó chẳng những là bằng cớ về trình độ «hiểu biết sâu sắc và
có kiến giải xác đáng» của giới sành điệu đến từ phương Tây, mà còn
thể hiện tấm lòng tha thiết của họ đối với nghệ thuật một đất nước họ
vốn nặng tình. Và kết luận đầy thất vọng của vị nữ giáo sư môn Nghệ sử
Đông Nam Á Trường Nghệ thuật Chicago này, vì thế, nghe như một lời
giã biệt não nùng: << Tôi đây cũng buồn vì không có nhiều nghệ sĩ Việt
Nam đủ giỏi để các nhà phê bình nghệ thuật, các nhà sử học, và các nhà sưu tầm
có thể “ngấu nghiến” lao vào mà viết sách về họ. Nói cho cùng, tôi - một chuyên
gia về “Nghệ thuật Việt Nam” - lâu lâu cũng phải tự hỏi, liệu mình có nên tiếp
tục viết về nghệ sĩ Việt Nam không [...] Có lẽ đã đến lúc chúng ta đem cái ý tưởng
“Việt Nam và nghệ thuật Việt Nam phải có gì đó độc nhất vô nhị” mà chôn đi
thôi. Chúng ta, những người nước ngoài, những kẻ đã từng yêu và còn yêu Việt
Nam, nên để cho hai thứ ấy tự lớn lên mà không có chúng ta thôi>>. «Tự lớn lên» thế nào đây, khi còn phải gặp không
biết bao nhiêu chướng ngại, chẳng hạn trường hợp những «biện pháp»
kỳ lạ mà nhà cầm quyền vừa mới đưa ra ( đại loại như dự thảo Bộ Văn
Hóa Thông Tin và Du Lịch nghiêm cấm các hành vi «mỹ thuật làm lộ...
bí mật, an ninh»249, hoặc việc <>250, theo cách nói của báo
chí cách đây không lâu khi bàn về đề án thi tuyển sinh Đại Học, Cao Đẳng hệ
chính quy vào các trường khối văn hóa - nghệ thuật)? Trong hoàn cảnh đó, giả thuyết lạc quan nhất là, rất có thể,
những cái lố bịch, ép uổng, uất ức đó sẽ làm nổ ra cái mới - nếu không là
cái lớn - còn ẩn tàng trong nghệ thuật, một nền nghệ thuật dấn thân - như câu nói
nổi tiếng của Pompidou ở đầu bài*** - mà Phạm Trung dường như cũng đã phần nào
khởi họa, qua một phát biểu thoạt trông rất nhẹ nhàng của anh:
«Nghệ thuật đương đại có mặt mạnh là tính phản biện xã hội. Nghệ sĩ có quyền bộc lộ bằng rất nhiều hình thức khác nhau thái độ của họ trước thực trạng xã hội; [...] một xã hội nhạy cảm, lành mạnh phải biết nhìn ra những khuyết tật của mình để chỉnh sửa. Tác phẩm hay, ý nghĩ thâm thúy, sâu sắc, sẽ đọng lại với thời gian. Những tác phẩm gây sốc có vẻ ghi điểm rất nhanh, tác giả có được tên tuổi rất nhanh nhưng không có sức sống lâu bền.233» “Cột chiến thắng” (Đinh Gia Lê) Nghệ sĩ Trương Tân và tác phẩm “Bỉm” cùng chi tiết mô-tip ở
cuối Tuy nhiên, những tác phẩm như « Bỉm » của Trương
Tân (2007) hay “Cột chiến thắng”của Đinh Gia Lê mà Hoàng Hưng có nhắc tới 231, hãy
còn quá ít ỏi, hoặc bị dìm ngay từ trong trứng nước. Và không có chờ đợi nào
cho sự xuất hiện của một Ngải Vị Vị (Ai Weiwei)251 Việt Nam. Chuỗi dài trông ngóng trên nền những phẩm tính khiếm diện Ngược lại, nhiều tiếng nói từ trong252-256 và cả
ngoài nước257-258 mấy năm gần đây đã gióng lên những hồi thở than thấm
thía về tình trạng thiếu khởi sắc của đời sống văn nghệ Việt Nam. Nguyên
Ngọc đặt dấu hỏi: «Sao văn học chúng ta không có tác phẩm lớn?». Tống
Văn Công nhận xét: «Suốt 30 năm chống "văn hoá thực dân mới"
làm cho văn học nghệ thuật chúng ta gần như dừng lại ở nội dung giáo điều và
hình thức thể hiện của thế kỷ 19. Sau khi mở cửa, người Việt Nam mới nhận ra nền
văn học nghệ thuật của mình yếu kém đến thảm hại! ***, 123 ». Không chỉ dừng ở thời điểm «mở cửa» mà tính đến
luôn cả giai đoạn hiện tại, một người như nguyên Viện trưởng Viện Văn Học
Việt Nam Phong Lê cũng phải nói thẳng ra rằng “tình hình văn học từ
năm 1995 đến nay chưa tạo được cái gì mới, mặc dù có nhiều cái lạ”. Nhưng
nào phải chỉ thiếu cái mới không thôi đâu: đối với phê bình văn học
chẳng hạn, Phạm Quang Đẩu lo sợ nó sẽ « tuyệt chủng »256 ! Về phần mình, Huỳnh Như Phương buông tiếng thở dài não ruột
: « Thế kỷ XXI đã qua đi hơn một thập niên nhưng con đường của văn học
Việt Nam vẫn còn dang dở. Những khuynh hướng nghệ thuật, dù trung tâm hay ngoại
biên, đều dang dở. Những tài năng cũng dang dở. Nỗi khao khát một nền văn
học đỉnh cao vẫn chưa được thỏa nguyện.» Có một cái gì ray rứt hơn cả nỗi buồn : một sự tức tối. Văn
nghệ hết còn là chuyện đơn thuần thưởng ngoạn nhàn du, mà là thách thức của thế
kỷ.Trong một bài báo mang tựa đề « Thấy Mạc Ngôn đoạt Nobel mà sốt cả
ruột! », Trần Đăng Khoa tuyên bố không quanh co : « Sốt ruột và
đau đớn. Tại sao cũng da vàng mũi tẹt như mình mà lão làm được nhiều việc lớn
như thế, mà mình cứ bi bét mãi ? »259 Não trạng này không chỉ có mặt tiêu cực. Bởi tình trạng
« bi bét » đó kêu đòi một phân tích thấu đáo, một ý thức trách nhiệm,
một quy trình (procédure, theo nghĩa Chất lượng học [ Qualitologie] )
phản tỉnh. Phản tỉnh cho mọi người, cho tất cả những ai trong lãnh vực sáng tạo.
Hơn bao giờ hết, thách thức của cái Đẹp ăn sát với đời sống : nó là tiếng nói vẳng
ra từ tấm gương soi mặt mỗi ngày. Chính vì vậy, trong định nghĩa về phẩm tính của trí thức nói
chung, nhà khoa học Chu Hảo đã không quên nhấn mạnh đến « năng lực sáng tạo
ra các giá trị mới của tri thức khoa học-công nghệ hoặc/và văn hóa-nghệ
thuật 260». Muốn tạo ra giá trị mới, ít nhất phải dám khai phá.
Thế nhưng, nếu dựa trên đánh giá thành quả năm 2012 của chủ tịch Hội Nhà
Văn Hà Nội Phạm Xuân Nguyên, thì « ngay cả người trẻ cũng hiền. Rất
ít người dám thể hiện, dám thử thách [...] Trước hết phải cái lạ, cái khác, cái
mới. Nhưng rõ ràng Văn học Việt Nam đang thiếu cái táo bạo, vẫn còn hiền
quá 261». Hiền : phải chăng là do cái gốc thiếu tiết tháo hoặc « không có
số phải tiết tháo» như cách nói rất mềm của tác giả « Bước qua
lời nguyền » Tạ Duy Anh262 ? Quanh đi quẩn lại, phải nhìn nhận là cái
phẩm chất tiết tháo đó, cho đến giờ hình như chỉ nổi bật ở một số nhà báo- chứ
không phải nhà văn, trừ vài ngoại lệ- đã cứu danh dự cho hai tiếng sĩ khí : những
Điếu Cày, Huỳnh Ngọc Chênh, Huy Đức, Nguyễn Đắc Kiên.... Vâng, nhưng văn học
không phải là sử học, thời sự hay chính trị, mà là một thứ nhân học toàn
diện- đa thanh, đa sắc, đa thì- hơn. Nó đòi hỏi chẳng những sự dũng cảm mà nhất
là tài năng nghệ thuật. Và trên mặt này, ít ai nói được- một cách cô
đọng, rốt ráo, triệt để và đầy hình ảnh- như Nguyễn Hoàng Đức263 về
căn bệnh trầm kha của văn học Việt. Hãy bình tâm đón nhận những lời tâm huyết của
ông, cho dù đó là những sự thật mích lòng : « Sự phản tỉnh của người Việt xưa nay vẫn rất yếu đuối vì dựa
trên tâm trí văn hóa tiểu nông nhũn nhẽo cảm xúc, lý trí bấy bớt, thiếu đào tạo
về kỹ năng tư duy phản tỉnh, quen tự hào vặt vãnh, rồi mắc chứng đố kỵ tủn mủn
không muốn ai hơn mình, ngay cả con lợn nhà khác cũng không nên có quyền lớn
nhanh hơn con lợn nhà mình. Dân trí chung đã thế, xét vào giới văn học, lại chủ
yếu là các nhà thơ sản phẩm của đời sống nông nhàn, dong chơi vu vơ không có mục
đích chính yếu nào của cuộc đời lớn hơn việc nhàn tản, nhưng vẫn tranh thủ vừa
du hí vừa lượm lặt kiếm tí danh nhà thơ-nhà văn. » Cái nhức nhối nằm ở chỗ ông không nói chuyện cũ xưa mà
là thời sự nóng hổi, và chỉ đích danh : « Mới đây, khi nhà văn Mạc Ngôn được giải Nobel, nhà thơ
Trần Đăng Khoa có viết [...] thấy không mấy cuốn hay vượt hơn những tác phẩm của
Mạc Ngôn như “Mông to vú nở” hoặc “Đàn hương hình”. Anh Khoa nói thế, có lẽ anh
chưa đọc và quan tâm đến những tác phẩm như “Anh em nhà Caramadop” của
Dostoievski, hay “Vụ kiện” của Kafka… ; tôi nói thế không hề võ đoán mà dựa
trên những hiện thực của văn chương Việt Nam. » Quả thế, người đọc không khỏi giật mình trước những gì
được Nguyễn Hoàng Đức đem ra chỗ sáng : « Để hiểu được những tác phẩm trên, người ta phải uyên
thâm [...] Tôn giáo, thần học, công lý phổ quát chưa bao giờ là mối quan tâm của
người Việt cả, vì người Việt sống chủ yếu theo “phép vua thua lệ làng”, và
“chuông làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Phải nói mặt bằng
tri thức của các cây bút Việt còn rất lẹt đẹt, thuyền thúng bơi khỏi ao làng,
ra đại đương được vài chuyến, tưởng sẽ trưởng thành nào ngờ toàn đi mua ụ nổi,
tầu cũ về kiếm mấy đồng lãi cò con. Làm sao hiểu được lộ trình của những con tầu
phá băng đi tìm những vỉa quặng mới cho nhân loại? » Từ đó, ông vạch rõ thêm những hạn chế trong tầm nhìn và cách
nhìn của người làm văn học bấy lâu nay: « Nhiều nhà thơ, đặc biệt thuộc thế hệ già Việt đừng cứ
ngửa cổ lên là chẳng nhìn thấy vòm mái nào khác Nguyễn Du cả. Hãy xé cái vòm ấy
ra để nhìn thấy bầu trời đầy sao lý tưởng của nhân loại. Văn chương gốc của Tầu
còn ở mức tả thực, kinh nghiệm dân tộc, chưa bao giờ nhắm đến lý tưởng cao vời
của nhân loại phổ quát, thì bản sao phát sinh từ bản gốc đó có được bao nhiêu ý
nghĩa mà cứ nhìn ngắm nghía suýt xoa hoài không chán vậy ! Để có một nền
văn học tiến bộ xứng đáng chúng ta cần phải có một cách nhìn mới. » Cái nhìn mới đó, ông đề nghị ta nên học hỏi ở cách những
khuôn mặt lớn Trung Hoa đã dám thẳng tay chỉ trích chính nước họ, ví dụ như : << 1. Tôn Trung Sơn, lãnh tụ lập thuyết
của Trung Quốc, có trình độ học vấn khá cao, bằng bác sĩ, biết tiếng Đức, tiếng
Nhật, tác giả cuốn “Chủ nghĩa tam dân” đã phản tỉnh: Sách Trung Quốc chỉ rặt
bạo lực và hận thù, càng đọc ít sách Trung Quốc càng tốt. Không đọc gì là tốt
nhất. 2. Lỗ Tấn, được coi là cha đẻ
của văn học hiện đại Trung Quốc, học vấn cao, biết nhều ngoại ngữ. Ông phản tỉnh: người
Trung quốc chỉ giỏi ăn thịt người. Câu phản tỉnh này bao hàm nghĩa rất rộng,
giỏi ăn thịt người tức là trình độ còn dã man hoang rợ lắm, nói gì đến văn hóa
hay văn học?... >> Để cập nhật luồng tư tưởng phê phán triệt để này trên đất
láng giềng phương Bắc, Nguyễn Hoàng Đức đã trích dẫn Tàn Thuyết (Can
Xue) 264, nữ văn sĩ nổi tiếng của họ hiện nay, qua một bài phân tích của
bà nhan đề Tác phẩm vĩ đại trong mắt tôi, mà theo ông là
« một cơ hội hiếm có khác khiến giới văn học Việt Nam soi lại mình, để thấy
tầm vóc mình ở chỗ nào » : « Bởi quá đề cao và sùng bái truyền thống của dân
tộc mình (Trung Quốc), cho nên [...] đã không thấy được hoặc không có khả năng
tiến sâu vào địa giới của tinh thần. Mà những tác phẩm này chỉ dừng lại cái gọi
là “kinh nghiệm dân tộc”, “tả thực”. Và sức sống của chúng tất nhiên chỉ là sự
ngắn ngủi và tạm bợ; cường độ phê bình về chúng cũng đáng ngờ. [...] Những tác phẩm vĩ đại đều là những tác phẩm tự kiểm
điểm, tự phê phán. [...] ngọn nguồn của văn học là ở phương Tây. Còn Trung Quốc,
từ khởi thuỷ, văn học không được xem là sản phẩm tinh thần tồn tại độc lập. Văn
học Trung Quốc từ xa xưa cho đến nay đều thiếu khuyết đặc trưng cơ bản nhất của
văn học - đó là sự nhận thức tự giác về bản chất tự thân của chính con người
[...] Dù là tác phẩm vĩ đại trong số đó như Hồng lâu mộng thì ngày nay nhìn lại
cũng đã quá lỗi thời rồi, bởi nó không đủ sức khiến người ta phải suy ngẫm và
phấn chấn, mà sự miêu tả tâm lý cũng quá nông cạn thiển cận, nó không nói tới
mâu thuẫn nội tâm, và giống như văn học từ thời thơ ấu của loài người
[...] Trong ý nghĩa này, văn học của đại lục đang đứng trong sự khủng hoảng,
những tác phẩm khám phá nhân tính ở tầng sâu, nâng cao tính dân tộc chưa thực sự
trở thành một trào lưu ». Tàn Thuyết còn cho rằng hiện tượng « rất nhiều nhà
văn mới 40 tuổi đã bắt đầu thoái hoá, hoặc không viết nổi nữa hoặc viết qua
quýt lừa dối người đọc» là do " tâm lý tự cao tự đại dân tộc mà ra" .
Và bà kết luận bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc : «Văn hoá của chúng ta đã phá huỷ và đầu độc các thiên
tài của chúng ta. Sự khiếm khuyết về tinh thần trong văn hoá Trung Quốc đã khiến
cho văn học đại lục ngày nay không thể sinh sôi và phát triển được, giống như một
đứa bé mang bộ mặt già nua, mãi mãi là một ông già lõi đời, mãi mãi tự mãn,
khéo léo như một người thợ giỏi nhất thế giới; nhưng chỉ có điều không biết tự
kiểm, không biết tự phê.” Động tác tự kiểm, tự phê đó chính là bước đầu tiên và có tính
quyết định trong quy trình phản tỉnh. Nó phải được nối tiếp bằng những
« công đoạn » cần thiết sau đó, theo trình tự một phương pháp luận (méthodologie)
chặt chẽ- như thường được áp dụng trong khoa Tiếp cận thị trường-, bao gồm phân
tích, đánh giá, định vị và đề ra chiến lược cho từng văn nghệ sĩ một, cũng như
cho toàn bộ nền văn học nghệ thuật265 : biện pháp chẩn đoán và giải
quyết vấn đề, y như cho một doanh nghiệp đang lao đao ở mép bờ khánh
tận... Song, đó là những gì không thuộc chủ đích những dòng này. Ở đây, ta sẽ chỉ nhìn lại những nhận định đáng lưu ý nhất của một số ngòi bút uy tín, về những nhược điểm của văn học nghệ thuật Việt Nam nói chung : họ đã can đảm thắp lên ánh lửa phê phán quý báu, nhưng tiếc thay vẫn chưa đánh thức được Nàng Tiên sáng tạo hãy còn mê thiếp giữa rừng văn. Điều đó không tùy thuộc ở họ, mà bắt nguồn từ những cội rễ sâu xa. Từ truyền thống thiếu óc phê phán đến hiện trạng một nền văn nghệ không trí nhớ Phẩm tính trí tuệ hàng đầu, nhưng hiếm thấy ở nhiều nền văn
minh trong đó có Việt Nam - và vì thế đã gây bao trì trệ, mất mát và thậm chí tội
ác-, là óc phê phán (esprit critique) 266. Nó không bẩm sinh, nhưng một
khi được rèn luyện thì trở thành phản xạ tự nhiên cho mọi cơ thể trí thức trưởng
thành, luôn biết phản biện- kể cả tự phản biện- một cách có hệ
thống trước khi đi đến kết luận, biết khảo sát thấu đáo từng vấn đề dưới nhiều
góc cạnh khác nhau để phân biệt đúng sai. Yêu cầu vì chân lý ở đây đòi hỏi phải
có một "đạo đức trí tuệ" khe khắt, đủ sức "khách quan hóa"
tối đa từng quan điểm của chính cá nhân mình hoặc của bất cứ ai- kể cả những bậc
thầy - để khỏi bị lầm lạc. Nó là vị thần hộ pháp đặc biệt chở che cho những con
người quá lý tưởng, dễ tin, khỏi bị mê hoặc bởi những "thần tượng",
những khẩu hiệu "công bằng", "tiến bộ", của loài phù thủy
diễn ngôn... Óc phê phán là văn hóa của văn hóa, là tủy sống của sự mẫn tuệ,
là kháng thể (anticorps) chống lại lối suy nghĩ một chiều và nhất là bệnh mù
quáng ý hệ. Vì vậy, trên diễn đàn tranh luận báo chí năm rồi tại Pháp về chủ đề
so sánh các nền văn minh chẳng hạn, triết gia Pierre-Henri Tavoillot 267 đã
không ngần ngại khẳng định rằng phương Tây hơn nhiều xứ khác nhờ có văn hóa biết tự
phê phán.268 Đối với Việt Nam, óc phê phán là mắc xích quan trọng thiếu
mất trong quá trình phát triển trí tuệ dân tộc269 và do đó là lỗ hổng lớn
trong «gien» suy tưởng của mỗi cá nhân. Thiếu chìa khóa mở
cánh cửa tư duy hiện đại, chúng ta phải chịu cảnh đứng mãi bên lề chân
lý: thiếu sáng suốt, cận tầm nhìn và do đó, để mất nhiều cơ hội lịch sử. Sự thể chung như thế đã đành. Nhưng tệ hại hơn nữa, trong
lãnh vực văn học, là thực tế này : từ nhiều năm qua, không ít những ý kiến xác
đáng được đề xuất, gây tiếng vang trong dư luận, song vẫn chẳng làm thay đổi gì
được bao nhiêu. Do người làm văn nghệ thiếu óc phê phán, không
nhìn ra giá trị những lời chẩn bệnh dành cho mình chăng? Hay vì bản thân nền văn
nghệ không thể nào tự điều tiết? Bất luận nguyên nhân thế nào thì hậu quả
vẫn là một: sự sa sút, teo mòn của văn học nghệ thuật, tức là bầu sữa dưỡng
nuôi - đồng thời là bằng cớ chứng thực - cuộc sống tinh thần, là óc tưởng tượng, là
chuyển động chiều sâu trong tâm thức cộng đồng. Trên thực tế, văn học chẳng những đã lão hóa mà - nguy hơn-
còn như bị khoét thủng bởi một thứ bệnh Alzheimer nào đó. Bằng cớ là những phân
tích sắc bén của Nguyễn Huy Thiệp - viết mãi từ cuối thập niên 80/đầu 90 thế kỷ
trước, được in lại trong tập Giăng lưới bắt chim 270(giải thưởng lý
luận phê bình của Hôi Nhà Văn Hà Nội năm 2006) - cũng đã tỏ ra vô tác dụng. Thậm
chí, có nhà nghiên cứu- trong danh sách những tác phẩm chính về lý luận
văn học ông đưa ra gần đây271 - không hề nói tới cuốn sách này ( mà
chính Hoàng Ngọc Hiến đã long trọng đánh giá là " sự kiện văn học quan trọng",
do "chính Hội Nhà Văn Việt Nam xuất bản", và là "một trong những
việc làm sáng giá nhất của Hội Nhà Văn Việt Nam từ Đổi mới đến
nay" [Nguyễn Huy Thiệp, sđd,tr.305]) Rất có thể, chỉ
vì nhà nghiên cứu ấy không ưa «giọng điệu» của tác
giả Tướng về hưu ; nhưng thế thì giải thích sao đây, việc những
lời lẽ ôn tồn, thuyết phục, của nhà thơ dân tộc Chăm Inrasara hết mình cổ
võ cho sự cách tân văn học - đặc biệt trong quyển Song thoại với cái mới - 272,
cũng bị bỏ quên nốt? Và điều khó tưởng tượng- khó chấp nhận- nhất là một công
trình xuất sắc và quan trọng hàng đầu như Lý luận và văn học ( giải
thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1991) 273 của Lê Ngọc
Trà, cũng không thấy được nhắc tới. Chả lẽ đó là "hình phạt"
- vào giờ này ! - dành cho tác giả câu viết quá hiển nhiên " bây giờ
mọi thứ đều đã đa nguyên" ông để trên mạng từ cách đây cả mấy năm274? Văn học nghệ thuật Việt Nam thiếu dưỡng khí từ lâu, điều đó
ai cũng biết. Nhưng xuôi tay bỏ cuộc, hoặc hời hợt đánh mất chính mình- qua một
thái độ đầy vẻ tự cao tự đại, coi thường những ý kiến phê bình, một mực "bế
quan tỏa cảng" bất chấp những trần tình-, là một sai lầm to lớn có thể dẫn
đến hiểm họa diệt vong, y hệt như trong lịch sử cận đại của dân tộc : một
nền văn nghệ không trí nhớ là một thứ con hoang không gốc gác cội nguồn, vô
phương tiến hóa. Không trí nhớ cũng vì không muốn nhớ. Chẳng những đối với lý luận phê bình, mà cả với văn học sử : những bất công, nông cạn trong lối đánh giá "phải đạo" một thời- đối với Đông Dương Tạp Chí 275, Phong Hóa/Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn 276, Nguyễn Văn Vĩnh 277-278 Phạm Quỳnh279 v.v.-, may thay gần đây đã dần dà được sửa chữa, nhờ ý thức và sáng kiến đến từ xã hội công dân. Để khỏi đắc tội với tiền nhân, hổ thẹn với hậu thế. Để hàn gắn lại phần nào hiện tượng mà nghệ sĩ Pháp-Việt Nhất Lý tâm đắc gọi là sự đứt đoạn văn hóa 280. Nguyễn Đình Đăng Hoa Phong Lan của Nhất Linh (28/10/1957)276c
Những ý kiến tâm huyết về lối ra cho văn học
Không chỉ có thế. Tình hình chung còn tệ đến nỗi họ Nguyễn phải
dùng những tiếng nặng nề hơn, như để thét to lên cho hả dạ : " Văn học Việt Nam gần đây mất đi khả năng tưởng
tượng, lãng mạn, mơ mộng và nhiệt huyết sống. Nó trở nên thực dụng, ê chề, lọc
lõi, oái oăm, đôi khi đểu cáng " ( tr.257).
Rõ ràng là hết sức thời sự, những dòng tác giả viết từ
..1989 ! Có điều, cái nghịch lý cho tất cả chúng ta là- bất luận hoàn
cảnh ra sao và ở thời điểm nào- ta vẫn phải gìn giữ cái tình yêu tuyệt đối ấy.
Bởi lẽ, ngay cả ở thơ- xưa nay vốn là niềm hãnh diện của số đông
người Việt - Nguyễn Huy Thiệp cũng phát hiện ra là chẳng có gì :
"Tôi không dám khẳng định rằng một dân tộc đi đâu cũng thấy tiếng
thơ véo von là một dân tộc suy đồi nhưng bất hạnh là chắc chắn" (
tr.41). Có lẽ không một ai khác, từ trước đến nay, dám nói như vậy.
Và ông giải thích : "Khi hình thức (thơ) bình dân được tư tưởng (thơ)
bình dân nhân lên nhiều lần theo cấp số nhân (giống như cơm bình dân, nhà nghỉ
bình dân) thì tình trạng cả nước làm thơ, thiếu vắng một đẳng cấp ngoại hạng,
thượng lưu thì đấy là một bi kịch, một sự cay đắng vô cùng cho văn học" (
tr.164). Chúng ta đã nhầm lẫn quá lâu trong những ảo tưởng. Điểm mạnh của những phát biểu như trên là giúp đặt lại toàn diện vấn đề : sự kém cỏi bắt nguồn từ tình trạng thiếu căn bản, yếu tư duy và nghèo trực giác ( họ Nguyễn gọi đó là khả năng "thấu thị" của "thiên nhãn"). Về những điều kiện chủ quan tối thiểu cần thiết cho người cầm
bút, Nguyễn Huy Thiệp đã khéo léo trích dẫn nhiều lần Lê Quý Đôn
trong các tiểu luận, để làm nổi bật những đòi hỏi khắt khe cơ bản được xác định
từ lâu bởi bậc danh tài dân tộc : " Văn học không phải là trò chơi, là câu chuyện phiếm.
Muốn văn hay phải hiểu biết và từng trải nhiều. Văn chương chữ nghĩa không phải
là lời nói suông. Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có núi
sông kỳ lạ của thiên hạ thì không thể làm văn được" (tr.47). Ý thức rõ như vậy nên họ Nguyễn đã buột miệng : " làm
người thật khó, làm một nhà văn càng khó hơn"(tr.83). Đi xa hơn nữa trong
lịch sử minh triết, ông mượn lời Khổng Tử làm khởi điểm để yêu cầu nhà
văn trước hết phải chính danh : "...hình như nghĩa "chính danh" của một nhà
văn là toàn bộ thần thái tạo nên hình ảnh tác phẩm của anh ta [...] Tôi muốn
nói là nhà văn cũng phải viết trên một cơ sở lý luận, một quan niệm nhất định[...]tính
bản thiện là hạt nhân cơ bản tạo nên con người[...] Có lẽ, điều kiện để
cho mọi người đạt tới chính danh chỉ đơn giản có vậy thôi "(tr.22-23). Nhưng đặc sắc nhất trong những góp ý của
Nguyễn Huy Thiệp có lẽ là đòi hỏi về sự chính xác : "Ở ta, tôi nghĩ rằng phải hết sức chú ý đến yếu tố
chính xác trong các giá trị thẩm mỹ văn chương. Chính xác ở ngôn từ thể hiện.
Chính xác ở bản thân sự kiện. Chính xác ở tư tưởng. Thậm chí chính xác ở thể loại.
Chính xác ở chức năng văn học. Văn học nước ta mới hình thành chưa được
100 năm. Đã đến lúc văn học phải bước những bước chính xác trên hành trình gian
khổ của nó. Chính xác cũng là một trong những điều kiện thiết yếu của cái đẹp" (tr.35). Về vai trò và cách tiếp cận của nhà văn, họ Nguyễn khẳng
định, với một sự sáng suốt hiếm thấy, nhất là khi đối chiếu với tình hình những
chuyển biến gần đây : <<Nhân dân đang cần những cuốn sách giúp họ nhận thức lại
mình [...] Nhân dân chẳng cần nhà văn phải chỉ bảo "hướng tiến
lên" cho họ thế nào, tự họ sẽ đi tìm lấy>> (tr.34).
Hình như Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn nhấn mạnh nhiều nhất đến
tầm quan trọng của triết học. Ông nói không quanh co với thi nhân : "Cần phải tiến tới triết học. Đấy là đích đi đến của nhà
thơ. Nhưng muốn tiến tới triết học, nhà thơ bắt buộc phải vượt qua nhịp cầu tâm
lý học. Nhà thơ – nhà tâm lý không thiếu việc làm: anh ta liên tục quan sát,
liên tục nhận xét và liên tục tìm cách cải thiện các mối quan hệ để thể nghiệm
những nhận xét ấy " (tr.40-41). Thậm chí, nếu phải chọn thì, theo ông, "nhà
thơ – nhà triết học dứt khoát phải biết gạt các cảm xúc sang bên để nghiền ngẫm
về bản chất" (tr.40). Quan niệm triệt để này có thể làm ta ngạc nhiên, nhất là đối
với thi ca vốn là lãnh địa muôn đời của cảm xúc : phải chăng đó chỉ là một cách
nói của tác giả, trước sự tràn ngập của cái khả sắc (le sensible), nhận chìm
luôn cả cái khả tri (l'intelligible) quý báu?
Bằng chứng thứ hai là khi chê trách Chế Lan Viên, ông
có nói rõ:
Phát biểu như vậy, họ Nguyễn đã cùng lúc công nhận hai điều.
Quan niệm này khá thú vị, bởi nó dẫn tới sự gặp gỡ tột cùng với cái siêu nghiệm (transcendance). Trong văn chương Việt Nam, tuy ít nhiều cũng đã có điểm xuyết đôi nét siêu nghiệm - từ vẻ đẹp huyền thoại của câu chuyện Từ Thức đến những cảm xúc mê say của một Tú Uyên trong Bích Câu Kỳ Ngộ -, nhưng rồi mạch cảm hứng ấy dường như đã bị cắt đứt, phải ngừng lại ở một Bướm Trắng, hay Dòng Sông Thanh Thủy, là những tác phẩm tiêu biểu mà chỉ có một số hiếm hoi nhà phê bình đã công tâm nêu rõ giá trị mỹ học. 288-289 Trong một chừng mực nào đó, công trạng lớn nhất của Nguyễn Huy Thiệp, ngoài những tác phẩm để đời, có lẽ là sự thấu cảm - bằng trực giác - và ý muốn khôi phục vai trò khai mở của tính siêu nghiệm - mặc dù ông không gọi đích danh thuật ngữ này - cho văn học Việt Nam. Điều đó bao hàm, như một hệ luận, những đòi hỏi gắt gao đối với mọi dự án sáng tạo, đặc biệt ở thời buổi hiện nay. Về phía nhà văn, theo họ Nguyễn, thì: <<Có lẽ đã đến lúc người ta phải nghĩ đến một "typ" nhà văn khác: lớp nhà văn trí thức của một xã hội phát triển. Họ viết văn có bài bản, có lý luận, lý lẽ chứ không mò mẫm>> (tr. 257). Về phía nền văn học thì: "Khi văn học chưa đạt được tới ngưỡng của tri thức văn hóa của thời đại nhà văn đang sống thì văn học không thể có sức mạnh được" (tr.19). Trên phương diện này, Inrasara cũng có nhận xét tương tự đối với thi ca :"Khủng hoảng lẩn quẩn mãi trong vòng bế tắc nghề nghiệp với phản kháng mang tính cục bộ, nhất thời, chưa một lần được chúng ta đẩy tới cấp độ cao hơn. Thì làm thế nào tư tưởng chúng ta có thể lớn? Nền thơ tiếng Việt có thể lớn? (Inrasara, sđd, tr.89). Ông hô hào: "... chúng ta cần phát biểu nhiều hơn nữa, có nghề [BĐH nhấn mạnh] hơn nữa. Để có thể khai mở một trào lưu sáng tác, một trường phái văn chương. Các ý kiến cảm tính, cảm nhận mơ hồ hay quan điểm còn rời rạc… cần được đúc kết và nâng cấp thành một hệ thống lý thuyết. Làm nền tảng cho sáng tạo chuyên nghiệp" (Inrasara, sđd, tr.15). Nhưng hệ thống mới nào đây? Khác với Nguyễn Huy Thiệp, Inrasara cởi mở, nồng nhiệt với cái đương đại (họ Nguyễn cho «đương đại là suy đồi» [NHT, sđd,tr.183]), và nhất là những khuynh hướng hậu hiện đại mà ông say sưa giới thiệu, cổ võ một cách chân tình. Ông không ngớt trích dẫn những Mary Klages («hãy chơi với cái vô nghĩa [nrasara, sđd, tr.190]), Mikhail Epstein ( Hậu hiện đại tháo gỡ vấn đề tha hóa bằng cách tháo gỡ luôn hiện thực” [tr.189 ]) v.v..., nhưng đồng thời sự «lương thiện trí thức» đã khiến ông không thể không nhìn nhận giới hạn mỹ học của nó («... dù Mở miệng đóng góp vào kho tàng văn chương Việt lượng ngôn từ mới, húy kị đáng kể nhưng, nếu chúng ta từ chối các từ cao sang, ngôn ngữ thơ của thi sĩ trẻ sẽ nghèo nàn biết bao. Vô hình trung chúng ta tự buộc tay chân mình, chặt gẫy đôi cánh chưa có gì là khỏe khoắn của mình, cuối cùng tự rơi vào một thế bí hệt thế hệ hôm qua, nhưng ở chiều ngược lại: đối xử phân biệt với ngôn ngữ quý phái!» [tr.89]; <<Một số “tác giả” còn quyết liệt đẩy quan niệm thơ về phía cực đoan hơn nữa! Các khái niệm: hay, đẹp, có hồn, rất thật…, cần phải bị biến mất mà thay vào đó là những khái niệm mới: vui, buồn cười, quái chiêu… [...]. Một không khí tạp nham, hỗn độn, rối mù mù nhưng… vui vẻ!>> [tr.213]). Mặc dù những thành tựu rất hứa hẹn ghi nhận mới đây trong
lãnh vực truyện hậu hiện đại 290, sự dè dặt của Inrasara xác nhận - ở
trường hợp Việt Nam - cơ sở thực tế của những kết luận về sự bế tắc - ở phương
Tây và có lẽ trên cả toàn cầu - của «giải pháp hậu hiện đại», như đã
phân tích (Chương 2 ***). Nhất là, đến đây, ta còn có thêm một lẽ rất hiển
nhiên này: nếu «hậu hiện đại tháo gỡ hiện thực»,
thì để làm thêm được cái gì sau đó? Chính Heidegger, cha đẻ của thuật ngữ thời thượng «tháo gỡ (giải cấu trúc)», cũng đã giải thích cặn kẽ rằng thao tác này của chủ thể chỉ có mục đích «trở về nguồn» để nắm bắt cho được «những ý niệm uyên nguyên đích thực».291 Vậy vấn đề là ta có khám phá hay phát minh ra được ý niệm mới nào không. Nhưng muốn tiến tới đó, mà chỉ biết miệt mài "có công mài sắt" trong một góc riêng, thì không đủ. Chưa nói đến tài năng, người làm văn nghệ còn phải ấp ủ biết bao thứ tình cảm lớn: cái tham vọng canh cánh bên lòng, cái ám ảnh cào xé tâm tư, cái chất liệu nóng bỏng, những thôi thúc mãnh liệt, những cảm hứng diệu kỳ đó, lấy ở đâu ra, nếu không phải là ngay giữa lòng đời, trên mảnh đất thiêng liêng đã nhận từ cha ông và sẽ còn phải trân trọng trao lại con cháu? Nguyên Sa, từ lâu, đã diễn tả mối trăn trở ấy với tất cả bầu máu nóng và chiều sâu tâm hồn, mà khoảng cách 45 năm qua dường như không hề làm mất thời gian tính hay cường độ suy tư: "Những sa đọa chính trị đó bây giờ đã tan thành hơi thở,
lẫn trong nước uống, chìm trong món ăn. Chỗ nào cũng đầy rẫy những
tên lừa bịp lộn sòng [...] Đó là cái số phận chung. [...]. Cho nên, trong nước mẹ
khổ đau này, văn nghệ không thể không bị ám ảnh bởi lo âu hơi nóng sẽ vĩnh
viễn trở thành băng giá được. Phải ôm lấy những khổ đau ấy [...] Phải giải
quyết số phận đó. Bởi vì đó là số phận của văn nghệ. Hơi nóng đó bay đi
văn nghệ cũng chẳng còn. Đóng góp vào việc giải quyết những khổ đau của
dân tộc bằng tác phẩm (BĐH nhấn mạnh) là đóng góp vào việc giải
quyết số phận của chính văn nghệ." Và nhà thơ kết thúc, dứt khoát như một lời tuyên thệ: “Bây giờ chưa có gì cả. Bây giờ chỗ đứng của văn nghệ cũng
như của dân tộc là tảng đá sắp rời khỏi núi. Là căn bệnh dịch hạch đang lan
tràn trên đất nước. Dịch hạch chết chóc. Dịch hạch nghèo đói. Dịch hạch tan
nát. Văn nghệ phải làm khỏe chính nó bằng cách làm khỏe dân tộc. Bằng cách cúi
đầu hôn lên những vi trùng tàn phá thân thể dân tộc. Đó là con đường, mặc dầu đe
dọa, bằng kiên trì, tin tưởng và tình yêu, tôi sẽ tiến tới”.» 292 Đó cũng là con đường đưa đến - hoặc đúng hơn, trở về - siêu nghiệm, một siêu nghiệm tại thế 293 theo nghĩa của Fernand Dumont như đã đề cập kỳ trước***. Vòng tròn như vậy đã được khép kín, như thân phận con người, giữa trần gian, một trần gian dẫu không lung linh thần thoại cũng chứa đựng vô vàn hiện thực hấp dẫn vì đầy cái bất ngờ, vô định, cái bất khả quyết (indécidables) như định lý Gödel294 nổi tiếng đã chỉ ra bởi lẽ, một đằng, bất cứ thực thể dạng thức hóa (formalisé) nào - dựa trên một hệ công lý [toán học] (axiomatique) hoàn chỉnh chặt chẽ đến đâu chăng nữa - cũng chứa đựng những «biểu đề» (énoncé) không thể chứng minh được với chỉ riêng hệ công lý [toán học] nội tại, huống hồ chi cuộc đời; đằng khác, do bất cứ thực thể nào cũng mang tính bất toàn (incomplétude) nên điều kiện hoàn thiện tối thượng (ultime) cho mọi hệ thống là sự vươn mở tới cái nằm ngoài nó: đây là một yếu tố tạo cơ sở luận lý cho sự hiện hữu và tính tất yếu của siêu nghiệm, mà ta đã coi như một định đề (postulat) ở trên (Chương 2 ***). Như vậy, những tiếng nói thiết tha của một số tác giả uy tín -
từ nhiều phía và ở nhiều thời điểm khác nhau - đã góp phần xác định một quan điểm
đáng mong ước cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam nói chung, trong thời “bá đạo”
(tr.25), “mạt pháp” (tr.183)- như Nguyễn Huy Thiệp thường gọi -, giữa một xã
hội được ông lý giải là “không có những tác phẩm văn học hay, không có những
tác phẩm văn học giá trị, nghĩa là nhân tính mất đi” (tr.264). Ông
tuyên bố: “dân chủ tức là vương chính, khủng bố tức là bá chính [...]
Tiêu chuẩn đầu tiên của văn minh là tính khoan dung và sự phi bạo lực”; “không
khí dân chủ cộng với chỗ dựa kinh tế lành mạnh là những cơ sở để tiến tới một
thể chế chính trị vương đạo. Chỉ có một thể chế chính trị vương đạo mới làm cho
bản tính con người phát triển hết” (tr.25). Tất cả gần như đồng nhất với nhận định trong suốt của
Bùi NgọcTấn rằng “Tiểu thuyết không thể tương hợp được với thế giới toàn trị” 295 và
đồng thời cũng nêu lên vấn đề lương tâm, đạo đức đối với nghệ thuật. Trên mặt
này, Nguyễn Huy Thiệp khẳng định không chút do dự, như một thứ kim chỉ nam cho
kẻ sĩ mọi thời: “Trinh khiết giữa cuộc đời ô trọc và phàm phu, hướng tới
sự sống, tuyệt giao với mọi biểu hiện suy đồi theo tôi, đấy chính là đạo đức rồi.
Chỉ cần một thứ để làm nên bất tử thôi: Tác phẩm” (tr.42). Cũng như Tình Yêu, cái Đẹp là thiên sứ đến với nhân gian để
làm thăng hoa cuộc sống và ban cho con người chiếc đũa tiên vượt thoát sự tầm
thường. Nó là khát vọng khôn nguôi trong tâm can khả sắc*, là ám ảnh sáng tạo không ngừng của nỗ lực tư duy**, là phần thưởng cao quý cho khách tao nhân sau những thử thách cam go, như hành trình “tìm tới cội nguồn, cái gốc gác, cái động mạnh chủ của cuộc sống”- theo cách nói của Bùi Ngọc Tấn 295 - để thấu hiểu, khai phá, diễn đạt và hiến dâng tơ thắm cho đời. Cuộc sống và con người, những huyền nhiệm, những thế giới vô
biên đầy ẩn số ! Hegel rồi Merleau-Ponty đã lần lượt cho ra đời Hiện tượng
học của tinh thần và Hiện tượng học của tri giác ; Michel Henry
đã viết cả ngàn trang Hiện tượng học thân xác và đời sống 296:
nhưng triết học vẫn chưa - và có lẽ sẽ không bao giờ- xác lập được một Hiện tượng
luận đầy đủ cho con người toàn diện. Bên cạnh đó, nghệ thuật là những đóm sáng diệu kỳ lóe lên
trong quá trình sáng tạo từ thuở bình minh của nhân loại297. Hơn thế nữa, nó hiện
diện thường trực. Bởi vì, chẳng những “là hình thức của tư duy, thiếu nó ý
thức con người sẽ không tồn tại, cũng như không thể tồn tại ý thức với chỉ một
nửa bán cầu đại não” như Yuri Lotman đã nói 298, nó còn là chứng
tích ý nghĩa nhất xuyên qua các thời đại, như nhận xét sắc sảo của Claude
Lévi-Strauss, mà Đặng Tiến299đã nhắc đến trong bài viết kỷ niệm sinh nhật 100
tuổi của nhà nhân chủng học lừng danh này để ta cùng suy ngẫm: “Tình cờ, xoá đi mười, hai mươi thế kỷ lịch sử, kiến thức
chúng ta về bản chất con người cũng không thay đổi bao nhiêu. Mất mát không bù
đắp lại được là những tác phẩm nghệ thuật mà những thế kỷ kia đã tạo nên. Vì
con người chỉ khác nhau, thậm chí chỉ tồn tại, qua tác phẩm của mình. Như tượng
gỗ sinh ra từ thân cây, chỉ có tác phẩm nghệ thuật mới chứng tỏ được hiển
nhiên, rằng qua thời gian giữa người với người, có cái gì đó đã thực sự xảy
ra». Cái Đẹp đã thực sự đến. Và sẽ mãi mãi đồng hành với ta,
bao lâu cuộc đời còn giữ trọn sắc màu nhân tính.
|
Chú thích:* Xem Phần I :http://www.vanchuongviet.org/** Xem Phần II:http://www.vanchuongviet.org/*** Xem Phần III (kỳ1: http://vanchuongviet.org/; kỳ
2: http://vanchuongviet.org/) 215 Lữ Phương, Ngày 30/4 khởi đầu một
trào lưu bất đồng, http://www.bbc.co.uk/216 Đến nỗi một người như Trần Bạch Đẳng đã
từng đặt điều kiện là Phạm Duy phải… “tự sát đi, chúng ta sẽ xét”! (Báo
SGGP, 12/2/1989, tr.2; trích dẫn bởi Kiến Văn, Đoàn Kết, số tháng 3/1989,
Pháp): xem chứng từ của Nguyễn Ngọc
Giao: http://www.diendan.org/nhung-con-nguoi/vi-sao-toi-da-mong-pham-duy-song-lau217 " Coi thường di sản sẽ phải trả
giá” ,http://petrotimes.vn/news/vn/van-hoa-giai-tri-the-thao/coi-thuong-di-san-se-phai-tra-gia.html;
xem thêm : Phạm Xuân Nguyên, Bắn vào di tích bằng súng
gì?, http://phapluattp.vn/2013051110489646p0c1085/ban-vao-di-tich-bang-sung-gi.htm218 http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD_Th%C6%B0%E1%BB%9Dng_Ki%E1%BB%87t219 Hoàng Văn, Có một Viện Trần Nhân Tông ở
Đại học Harvard (Hoa Kỳ), http://vanhoanghean.vn/van-hoa-va-doi-song/cuoc-song-quanh-ta/4946-co-mot-vien-nghien-cuu-tran-nhan-tong-o-dai-hoc-harvard-hoa-ky.html;
Vũ Quần Phương, Trần Nhân Tông: Yêu đời và siêu
thoát, http://www.vanhoanghean.com.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/5037-tran-nhan-tong.html ;
Nguyễn Huệ Chi – Trần Thị Băng Thanh, Sự thống nhất giữa hoàng đế, thi
nhân và thiền gia trong một nhân cách - Trần Nhân Tông (27 Tháng 8/
2012), http://www.vanhoanghean.com.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/4947-su-thong-nhat-giu-hoang-de-thi-nhan-va-thien-gia-trong-mot-nhan-cach-tran-nhan-tong.html220 Mai Khắc Ứng, Gặp Nguyễn Trãi bên pháo
đài Quebec, http://vanhoanghean.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/nhin-ra-the-gioi/4661-gap-nguyen-trai-ben-phao-dai-quebec.html
; Thơ Nguyễn Trãi vòng quanh nước Mỹ, http://www.tienphong.vn/van-nghe/538825/Tho-Nguyen-Trai-vong-quanh-nuoc-My-tpp.html221 Giáp Văn Dương, Người Việt trẻ tự đốt đuốc
mà đi, http://www.giapvan.net/2013/04/nguoi-viet-tre-tu-ot-uoc-ma-i.html. èPhải
chăng ta có thể xem tuổi trẻ mô tả ở đây là tuổi trẻ đa số thường ngày, tồn
tại cùng lúc với một tuổi trẻ siêu tuyệt mà hiện thân là những Nguyễn
Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Trịnh Kim Tiến, theo “quy luật”cá
nhân ưu tú của lịch sử? 222 Nguyễn Thị Từ Huy, Máu và nước mắt từng
ngày vẫn đổ, http://quechoa.vn/2013/05/16/mau-va-nuoc-mat-tung-ngay-van-do/; Xem thêm : http://boxitvn.blogspot.co.uk/2013/07/chung-ta-co-im-lang-ma-nhin-anh-ay-chet.html223 Phạm Thị Hoài, Cú giãy cuối cùng của nền
Phê bình Chỉnh huấn ,http://www.procontra.asia/?p=2703 ; Khước từ thoả
hiệp để lựa chọn tự do,http://www.procontra.asia/?p=2749224 Luận văn Đỗ Thị Thoan, một Nhân Văn Giai
Phẩm thứ hai (RFI P/v nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên,5-8-13) ;
Xem thêm :Nguyễn Hưng Quốc,Vụ án Nhã Thuyên,https://www.facebook.com/notes/nguy%C3%AAn-h%C6%B0ng/v%E1%BB%A5-%C3%A1n-nh%C3%A3-thuy%C3%AAn-nguy%E1%BB%85n-h%C6%B0ng-qu%E1%BB%91c/610293042334390225 Khi văn học tự cho mình quyền sang trọng, http://laodong.com.vn/Van-hoa/Khi-van-hoc-tu-cho-minh-quyen-sang-trong/93972.bld 226 ViLi mang đến cuộc tình tự văn chương –
âm nhạc, http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/vili-mang-den-cuoc-tinh-tu-van-chuong-am-nhac-2396964.html 227 Phạm Xuân Nguyên, Linh là lạ, http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/pham-xuan-nguyen-linh-la-la-2400695.html 228 Đoàn Cầm Thi (Diệp Anh phỏng vấn), Đưa
văn học Việt Nam sang Pháp:Phiêu lưu và kỳ vọng, http://www.tienphong.vn/van-nghe/597546/Phieu-luu-va-ky-vong-tpp.html và
, mới
đây : http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-toan-canh/doan-cam-thi-va-cuoc-phieu-luu-mang-van-hoc-viet-den-phap-n20130320083029299.htm 229 Nhà văn Bùi Ngọc Tấn đoạt giải thưởng
Henri Queffélec của Pháp ( Mặc Lâm pv,
15/4/2012), http://www.rfa.org/vietnamese/programs/LiteratureAndArts/bui-ngoc-tan-mlam-04152012133126.html ;
Ngoài ra, "Chuyện kể năm 2000" của Bùi Ngọc Tấn cũng mới được dịch và xuất bản ở
Pháp ( http://www.diendan.org/Doc-sach/CK2000FR )230 Nguyễn Quân, Nghệ thuật đương đại sống với
cộng đồng, http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&CategoryID=41&News=4711231 Hoàng Hưng, Mỹ thuật và chính trị ở Việt
Nam hiện
nay, http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/%20my-thuat-va-chinh-tri-o-viet-nam-hien-nay232 Đào Mai Trang, Một làn sóng nghệ thuật mới
đang đến, http://tailieu.vn/xem-tai-lieu/mot-lan-song-nghe-thuat-moi-dang-den.1262460.html233 Nghệ thuật đương đại từ không đến có hộ
khẩu
(04/10/2012), http://www.thanhnien.com.vn/Pages/20121004/Nghe-thuat-duong-dai-tu-khong-den-co-ho-khau.aspx234 Theo nguồn
http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/6/65/65/200764/Default.aspx :
« Dưới sự tài trợ của Quỹ Trao đổi và phát triển văn hóa thuộc Đại sứ quán
Đan Mạch tại Hà Nội, cuốn sách tiếng Anh “Vietnamese contemporary art
1990-2010” (Nghệ thuật Việt Nam đương đại 1990-2010) của hai nhà nghiên cứu Bùi
Như Hương và Phạm Trung đã được NXB Tri thức ấn hành »235 Trinh Nguyễn, Sứ giả của nghệ thuật
đương đại, http://www.thanhnien.com.vn/Pages/20120803/Su-gia-cua-nghe-thuat-duong-dai.aspx236 NS Đào Anh Khánh trình diễn tác phẩm
"Cây đời", http://thethaovanhoa.vn/truyen-hinh-ttvh/ns-dao-anh-khanh-trinh-dien-tac-pham-cay-doi-n20101017104906621.htm237 Đào Anh Khánh gãy chân vẫn dựng
"Cây đời", http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-toan-canh/dao-anh-khanh-gay-chan-van-dung-cay-doi-n20101013094411293.htm238 Đào Anh Khánh sau "Cây đời":
Trời Đất sẽ phù trợ giấc mơ của
anh, http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-toan-canh/dao-anh-khanh-sau-cay-doi-troi-dat-se-phu-tro-giac-mo-cua-anh-n20101017111114352.htm ; Tuy nhiên, cũng cần xem thêm : Nghệ thuật cũng phải tôn trọng lề thói ứng
xử, http://sgtt.vn/Van-hoa/175661/Nghe-thuat-cung-phai-ton-trong-le-thoi-ung-xu.html239 Nghệ thuật đương đại hội tụ về “đất’’ Mường, http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-toan-canh/nghe-thuat-duong-dai-hoi-tu-ve-dat-muong-n20110927135713888.htm
; xem thêm: Đưa nghệ thuật đương đại về “nơi hẻo
lánh”, http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-toan-canh/dua-nghe-thuat-duong-dai-ve-noi-heo-lanh-n20121028065655987.htm240 Mai Chi, Nghệ thuật đương đại
2011: Quyết liệt và bảo thủ( 23/01/2012), http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-toan-canh/nghe-thuat-duong-dai-2011-quyet-liet-va-bao-thu-n20120117230437527.htm241 “Thổi còi” nghệ thuật đương đại, http://www.thanhnien.com.vn/pages/20121130/thoi-coi-nghe-thuat-duong-dai.aspx242 Trình diễn nghệ thuật đương đại hay những
trò lố, http://laodong.com.vn/Tin-tuc/Trinh-dien-nghe-thuat-duong-dai-hay-nhung-tro-lo/34439 ;
xem thêm : "Sốc"
với màn w.c.doc và những đồn thổi
, http://www.baomoi.com/Home/SachBaoVanTho/giadinh.net.vn/Soc-voi-man-wcdoc-va-nhung-don-thoi/5658127.epi243 Thế mà là nghệ thuật ư? Dễ dãi vậy ư?
(20/ 12/12) , http://soi.com.vn/?p=94841 ; xem
thêm : Nghệ thuật đương đại dễ vậy sao (01/01/2013 )http://thethaovanhoa.vn/dien-dan-van-hoa/nghe-thuat-duong-dai-de-vay-sao-n20121227133306852.htm244 Trình diễn nghệ thuật đương đại hay những
trò lố, http://laodong.com.vn/Tin-Tuc/Trinh-dien-nghe-thuat-duong-dai-hay-nhung-tro-lo-bai-2/34684245 Những lệch lạc về thẩm mỹ trong nghệ thuật
biểu diễn (04/01/2013 ), http://www.nhandan.com.vn/cmlink/nhandandientu/thoisu/chinh-tri/binh-luan-phe-phan/nh-ng-l-ch-l-c-v-th-m-m-trong-ngh-thu-t-bi-u-di-n-1.384915. à Riêng
về cách ăn mặc thiếu thẩm mỹ của các ca sĩ ở Việt Nam, chúng tôi đã có dịp đề cập
trong một bài viết ởhttp://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=15112246 Huỳnh Thị Nga, Phê bình lý luận mỹ thuật:
Hổng, http://laodong.com.vn/Van-hoa/Phe-binh-ly-luan-my-thuat-Hong/94227.bld247 Laurent Colin ( Hồ Như Mai dịch), Nghệ thuật
đương đại Việt Nam có (còn) gì để nói? (Bản tổng hợp, không hình ảnh, 20.
02. 12 ), http://soi.com.vn/?p=63755 à Xem thêm bài tiếng Pháp ở - Carnets du Vietnam, No 33, Avril
2012, p. 30 : L’art contemporain vietnamien a-t-il (encore)
quelque chose à dire ? par Laurent Colin248 Nora A. Taylor, Sao “Nghệ thuật
đương đại Việt Nam có (còn) gì để nói” lại phải quan trọng thế? , http://soi.com.vn/?p=69659249 Ngại hoạt động mỹ thuật lộ bí mật, an
ninh!
(15/01/2013), http://phapluattp.vn/20130115124022267p0c1021/ngai-hoat-dong-my-thuat-lo-bi-mat-an-ninh.htm250 Bộ Giáo dục «đuổi » văn hóa
ra khỏi nghệ thuật?(
30/01/2013), http://www.baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/giao-duc/201301/Bo-Giao-duc-duoi-van-hoa-ra-khoi-nghe-thuat-2214742/ ; Xem thêm : a/Môn Văn bị thất sủng thì phi nhân tính lên ngôi (Phỏng vấn Võ
thị Hảo), http://phunutoday.vn/xi-nhan/trai-hay-phai/201302/Mon-Van-bi-that-sung-thi-phi-nhan-tinh-len-ngoi-2211309/ ; b/GS Chu Hảo:Sẽ cho ra lò những “thợ” văn nghệ vô cảm?, http://www.baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/giao-duc/201303/GS-Chu-HaoSe-cho-ra-lo-nhung-tho-van-nghe-vo-cam-2342550/ ; c/
Các lối giải thích của Bộ
( http://www.baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/giao-duc/201302/Khong-thi-Van-truong-nghe-thuat-se-chon-duoc-nhan-tai-2342379/
)251 http://fr.wikipedia.org/wiki/Ai_Weiwei252 Nguyên Ngọc, Sao văn học chúng ta không
có tác phẩm lớn? (17/12/2010
), http://vietnamnet.vn/vn/van-hoa/3324/sao-van-hoc-chung-ta-khong-co-tac-pham-lon-.html253 Phong Lê, Khối C thất thế: "Sự xuống
cấp của văn hóa"(29/05/2011), http://www.bee.net.vn/channel/1988/201105/Khoi-C-that-the-Su-xuong-cap-cua-van-hoa-1800602/;=>
Nguyễn Thị Từ Huy, trong Sự mất tự do của một số người là điều kiện cho tự
do của mọi người viết : « Bản thân cái lạ chưa là giá trị, cái
lạ-hay mới là giá trị. Hiện nay không ít các cây viết trẻ tìm kiếm cái lạ một
cách điên cuồng, nhưng vẫn hiếm thấy cái lạ-hay. Cái lạ hay này nó phải có máu
của tư tưởng mới thành được, nếu không chỉ còn là thời thượng »«
(http://boxitvn.blogspot.fr/2012/10/su-mat-tu-do-cua-mot-so-nguoi-la-ieu.html )254 Văn chương đỉnh
cao?, http://nguyentrongtao.info/2011/07/25/van-ch%C6%B0%C6%A1ng-d%E1%BB%89nh-cao/255 HUỲNH NHƯ PHƯƠNG, Còn đó giấc
mơ văn học đỉnh cao, http://www.viet-studies.info/HuynhNhuPhuong_VanHocDinhCao.htm256 Phạm Quang Đẩu, Phê bình văn học: Liệu
có “tuyệt chủng”?, http://quyphanchautrinh.org.vn/a/news?t=3&id=1001838257 Trần Hữu Dũng, Thời vắng những nhà văn
hoá lớn?( Tháng 12,
2010), http://www.viet-studies.info/THDung/THDung_VangNhaVanHoaLon.htm ; Trách
nhiệm văn hoá là trách nhiệm chung ( cuối năm
2011), http://www.viet-studies.info/THDung/THDung_TrachNhiemVanHoa.htm258 Nguyễn Hưng Quốc, Văn học Việt Nam : một
nền văn học nghiệp
dư, http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=1633610C9F879C8A495E106BDF53B998?action=viewArtwork&artworkId=669; Xem thêm : Toàn cầu hóa và văn học Việt
Nam, http://viendongdaily.com/toan-cau-hoa-va-van-hoc-viet-nam-KTVSUbk8.html259 Trần Đăng Khoa: Thấy Mạc Ngôn đoạt Nobel
mà sốt cả ruột!, http://www.tienphong.vn/van-nghe/611723/Tran-Dang-Khoa-Thay-Mac-Ngon-doat-Nobel-ma-sot-ca-ruot-tpp.html260 Giáo sư Chu Hảo: Là trí thức, cần nhận
thức đầy đủ trách nhiệm trước vận mệnh của dân tộc , http://vanhoanghean.vn/van-hoa-va-doi-song/khach-moi-cua-tap-chi/5546-giao-su-chu-hao-la-tri-thuc-can-nhan-thuc-day-du-trach-nhiem-truoc-van-menh-cua-dan-toc.html261 Phạm Xuân Nguyên, Văn học Việt, xin đừng
hiền
quá!, http://vnmedia.vn/VN/van-hoa/tin-tuc/58_723607/van_hoc_viet_xin_dung_hien_qua.html262 Tạ Duy Anh: Phần lớn nhà văn "thiếu
tiết
tháo"!, http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130216/ta-duy-anh-phan-lon-nha-van-thieu-tiet-thao.aspx263 Nguyễn Hoàng Đức, Văn học Việt Nam có cơ
hội soi
gương, http://www.viet-studies.info/NguyenHoangDuc_VanHocSoiGuong.htm264 TànTuyết-Kafka của phương
Đông, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=508:tan-tuyt-kafka-ca-phng-ong&catid=96:gii-thiu-sach&Itemid=145
; Xem thêm : http://www.tienve.org/home/authors/viewAuthors.do?action=show&authorId=735265 Vấn đề này đã được đề cập trong một
bài viết trước đây:Thử nhận định về Gió Lẻ sau hiện tượng Cánh Đồng Bất Tận
trong hành trình văn học Nguyễn Ngọc
Tư,http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=13867266 Tham khảo
:http://fr.wikipedia.org/wiki/Esprit_critique267 Xem tiểu sử ở : http://fr.wikipedia.org/wiki/Tavoillot268 Pierre-Henri
Tavoillot, L’Occident est superieur par l’autocritique, Le Monde
24/2/2012, tr.20269 Nguyễn Hưng Quốc, Tinh thần phê
phán,http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=3941;
Xem thêm về tư thế tiên phong của Trần Đình Hượu trên vấn đề này
: Trần Đình Hượu, người đi ngược đám đông270 Nguyễn Huy Thiệp, Giăng lưới bắt
chim, tái bản bởi Đông A - NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006(xuất bản lần đầu
bởi Văn Mới- 2003) ;è Xem thêm các ý kiến không đồng tình về tính chất
« tiểu luận phê bình » của một số bài : GIĂNG LƯỚBẮT GIẢI
THƯỞNG,Thế giới mới số 712, năm 2006, đăng lại ở http://www.viet-studies.info/GiangLuoiBatGiaiThuong.htm;
Đỗ Ngọc Thạch(th.12-2010), NGUYỄN HUY THIỆP 'GIĂNG LƯỚI BẮT
CHIM', http://www.bichkhe.org/home.php?cat_id=147id=2561&id=1413271 Nguyễn Ngọc Thiện, Khát vọng về cái
đẹp, lòng nhân ái, cảm xúc hyền diệu, công sức về câu chữ…,http://vanhocquenha.vn/vi-vn/113/50/khat-vong-ve-cai-dep-long-nhan-ai-cam-xuc-hyen-dieu-cong-suc-ve-cau-chu%E2%80%A6/113211.html272 Inrasara, Song thoại với cái mới, NXB
Hội Nhà văn & Nhà sách Kiến thức, Hà Nội, 2008273 Lê Ngọc Trà, Lý luận và văn học,
NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1990 ; Xem thêm : Đặng Tiến, Lê
Ngọc Trà, Văn học & dân chủ, http://www.diendan.org/tai-lieu/bao-cu/so-012/le-ngoc-tra-van-hoc ; Trần Quí Phiệt ,Văn học và Phê bình văn học:Giới thiệu tư tưởng Lê Ngọc
Trà, http://www.viet-studies.info/TranQuiPhiet_GioiThieuLeNgocTra.htm274 Lê Ngọc Trà, Thế nào là xây dựng một nền
Lý luận văn học Việt Nam hiện đại (2/2/2009), -http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=101&News=2658&CategoryID=37275 Nguyễn Lân Bình, Đông Dương tạp chí - tờ
báo chữ Quốc ngữ sớm nhất ở Hà Nội (tháng 9 năm
2012),http://tannamtu.com/a/news?t=7&id=996030276 Nguyễn Huệ Chi, THỬ ĐỊNH VỊ TỰ LỰC
VĂN ĐOÀN, http://boxitvn.blogspot.fr/2012/09/ung-ngay-nay-80-nam-truoc-bao-phong-hoa.html
(a) ; Xem thêm :Số đặc biệt Phong Hoá - Ngày
Nay, http://www.diendan.org/cac-so-dac-biet/dac-biet-phong-hoa-ngay-nay (b);
Nguyễn Tường Thiết, Hai Vẻ Đẹp của Nhất
Linh, http://damau.org/archives/17752 (c)277 Nguyễn Lân Bình, Chúng ta hiểu gì
về tờ báo duy nhất của người Việt
, http://tannamtu.com/a/news?t=7&id=1012821 ;Những điều chưa biết
về học giả Nguyễn Văn
Vĩnh, http://sgtt.vn/Van-hoa/177629/Nhung-dieu-chua-biet-ve-hoc-gia-Nguyen-Van-Vinh.html278 Nguyễn Đình Đăng,Tôi đã vẽ bức tranh “Sự ra đời
của chữ Quốc ngữ (Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh)” như thế
nào?,http://www.tannamtu.com/a/news?t=91&id=983005279 Ra mắt sách lạ kỳ của Phạm Quỳnh, http://www.tienphong.vn/van-nghe/564156/Ra-mat-sach-la-ky-cua-Pham-Quynh-tpp.html;
Và nhiều tư liệu quan trọng ở
đây: http://quyetnguyenblog.blogspot.fr/2012/06/mot-so-bai-viet-ve-pham-quynh.html280 Nghệ sĩ Nhất Lý, Những tiền đề của tự do
văn hoá..., http://sgtt.vn/Van-hoa/174588/Nhung-tien-de-cua-tu-do-van-hoa.html281 Giáp Văn Dương, Sự tùy tiện đã thành bản
sắc?, http://www.giapvan.net/2013/03/su-tuy-tien-thanh-ban-sac.html282 Nguyễn Lân Dũng: Rất nhiều người Việt
ham tiền, vô cảm, hèn nhát, http://giaoduc.net.vn/Vi-khat-vong-Viet/GS-Nguyen-Lan-Dung-Rat-nhieu-nguoi-Viet-ham-tien-vo-cam-hen-nhat/296341.gd ;Vài
ví dụ
khác ::http://vietnamnet.vn/vn/doi-song/111840/nha-ngoai-giao-ke-chuyen-nguoi-viet-xia-rang-giua-thu-do-phap.html ; http://vietnamnet.vn/vn/doi-song/111731/xau-ho-vi-tri-thuc-viet-cung--tham-an-tuc-uong-.html
v.v…283 Hội họa Việt Nam có nhiều nghịch
lý, http://citinews.net/giai-tri/hoi-hoa-viet-nam-co-nhieu-nghich-ly-Q7AJ6WA/284 Phạm Vĩnh Cư, Văn chương và Hội họa
Việt Nam (II), http://www.baodatviet.vn/van-hoa/goc-nhin-van-hoa/201304/Van-chuong-va-Hoi-hoa-Viet-Nam-ii-2345630/285 Ứng xử với quá khứ: Đối thoại giữa nghệ
thuật đương đại và di sản (06/07/2013), http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1420&Chitiet=66526&Style=1286 Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: Văn hoá đánh
thức nhân cách một dân tộc,http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-toan-canh/nha-tho-nguyen-quang-thieu-van-hoa-danh-thuc-nhan-cach-mot-dan-toc-n20130214081223864.htm287 Nguyễn Việt Hà, Nhà văn nào cầm bút cũng
phải có nghĩa khí, http://sgtt.vn/Loi-song/176959/Nha-van-nao-cam-but-cung-phai-co-nghia-khi.html288 Đặng Tiến, Hạnh phúc trong tác phẩm Nhất
Linh , http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/hanh-phuc-trong-tac-pham-nhat-linh289 Huỳnh Phan Anh, Đi tìm tác phẩm văn
chương , Đồng Tháp xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr.130-131( trích dẫn bởi
Trần Hoài
Anh : http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=19829 )290 Đà Linh, MỘT NIỀM VUI VĂN HỌC MỚI, http://www.diendan.org/Doc-sach/niem-vui-van-hoc : à « Với
666 trang, 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] thực sự là một bước đi tiếp
trong sáng tạo, một sự cố gắng, nỗ lực rất lớn của Đặng Thân, đặc biệt trong bối
cảnh cuộc sống đang diễn ra với nhiều mặt, đa chiều, phức tạp, nhiều tầng nấc
đan xen, chằng chịt, với tốc độ chóng mặt, mà nhiều nhà văn đã chững lại, thậm
chí rất khó khăn để tiếp tục sáng tạo... đã thêm khẳng định bản lĩnh, tâm huyết
và đặc biệt là gương mặt, giọng điệu văn học thời kỳ mới, nổi bật trên văn đàn
của anh »291 Martin Heidegger, Les problèmes
fondamentaux de la phénoménologie, trad. fr. Jean-FrançoisCourtine, (Paris
: Gallimard, 1985), tr.41 àNguyên
văn câu viết : « L'interprétation conceptuelle de l'être et de ses
structures, c'est-à-dire la construction réductrice de l'être, implique donc
nécessairement une destruction, autrement dit une dé-construction ( Abbau)
critique des concepts reçus, qui sont d'abord nécessairement
en usage, afin de remonter aux sources où ils ont été puisés. C'est
seulement par cette destruction que l'ontologie peut phénoménologiquement
s'assurer pleinement de l'authenticité de ses concepts » 292 NguyênSa,Văn nghệ trong việc làm khỏe
dân tộc (trích từ tạp chí Nghiên Cứu Văn Học, không rõ năm, hình như là số
3 năm 1968), đăng lại trong THƯ QUÁN BẢN THẢO SỐ 56 THÁNG 6– 2013
(tr.93-94), http://phayvan2009.files.wordpress.com/2013/06/tqbt-56-e-book1.pdf293 Từ này gần với khái niệm
"immanence-transcendance" của J.P.Sartre trong Critique de la
dialectique , và không dính dáng gì với từ tương tự được G. Genette
dùng trong tác phẩm của ông (L’œuvre de l’art, Immanence et
transcendance, Paris, Seuil,1994)294
http://fr.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A9or%C3%A8mes_d'incompl%C3%A9tude_de_G%C3%B6del ) è «Les théorèmes
d'incomplétude de Gödel [ ...] : le premier dit essentiellement
qu'une théorie suffisante pour faire de l'arithmétique est nécessairement
incomplète, au sens où il existe dans cette théorie des énoncés qui ne sont pas
démontrables et dont la négation n'est pas non plus démontrable :
c'est-à-dire qu'il existe des énoncés que l'on ne pourra jamais déterminer en
restant dans le cadre de la théorie. Sous le même genre d'hypothèses sur les
théories considérées, le second théorème affirme qu'il existe un énoncé
exprimant la cohérence de la théorie - le fait qu'elle ne permette
pas de démontrer tout, et donc n'importe quoi - et que cet énoncé ne peut pas
être démontré dans la théorie elle-même. »295 Bùi Ngọc Tấn – Người chăn kiến (Phạm
Tường Vân PV), http://www.viet-studies.info/BuiNgocTan_PhamTuongVan.htm296 Michel Henry, Philosophie et
Phénoménologie du corps, PUF, collection "Epiméthée", 1965, et
réédition 1987 ; Phénoménologie de la vie ( Tome I-IV ), PUF,
collection "Epiméthée", 2003-2004297 Phạm Anh Tuấn, Một xã hội vắng bóng những
"tuyệt
tác"! (15/10/2011), http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-10-13-mot-xa-hoi-vang-bong-nhung-tuyet-tac-298 Ju. Lotman, Về bản chất của nghệ thuật, (Trần
Đình Sử dịch từ tiếng Nga, trong tập Ju. Lotman và trường phái kí hiệu
học Tartu – Matskva, M. Nxb. “Gnozís”, 1994), http://lythuyetvanhoc.wordpress.com/2010/10/01/ju-lotman-v%E1%BB%81-b%E1%BA%A3n-ch%E1%BA%A5t-c%E1%BB%A7a-ngh%E1%BB%87-thu%E1%BA%ADt/299 Đặng Tiến, CLAUDE LÉVI-STRAUSS Bách niên
giai lão, http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/claude-levi-strauss.
Có lẽ chưa bao giờ, trong suốt lịch sử mấy nghìn năm, dân tộc
Việt Nam lại phải đối mặt với một nghịch lý chua cay, nghiệt ngã như hôm nay: sau chiến thắng giành lại chủ quyền và thống nhất lãnh thổ, đất nước - thay
vì đi vào kỷ nguyên phát triển vinh quang - lại bị ngập chìm trong bóng
tối một quá trình suy vong, rệu rã.215 Ở đây, ta sẽ không bàn đến khía cạnh chính trị bởi nó ngoài đề, nhưng bối cảnh đó là cái nền chung không chối cãi cho mọi phân tích liên quan đến thực trạng xứ sở. Trên bình diện văn hóa- là phạm vi giới hạn của bài viết
này-, một giả thuyết dễ dàng đến ngay, sát với chủ đề của chúng ta, đó
là: những thất bại đớn đau đã thấy, nghĩ cho cùng, đều bắt nguồn từ sự
đánh mất những giá trị cơ bản, dẫn tới sự phá sản của vốn liếng nhập cuộc.
Nói cách khác, cái nền tảng ban đầu của đất nước ngay từ trong
kháng chiến đã ngầm chứa tất cả những nhân tố độc hại làm triệt
tiêu mọi khả thể thăng tiến nhân văn và phát triển xã hội : hận thù được
tôn lên thành động cơ đấu tranh chính thống 216, tri thức
là dấu vết đáng ngờ của một thứ « tội tổ tông » làm nhơ lý lịch, di
sản văn hóa cha ông không mấy khi tránh khỏi bị quy kết là « tàn dư phong kiến »,
và mãi đến hôm nay vẫn tiếp tục bị lạnh lùng phá hủy...217 Một hệ tư tưởng dựa trên những xác quyết u ám như vậy, thì
lấy gì để vực dậy Quê Hương, để nâng tầm dân tộc sau cuộc chiến thảm khốc vừa
qua (một dân tộc dẫu không may mắn có được một Minh Trị Thiên Hoàng như nước
Nhật - thay vì một Tự Đức - ở khúc quanh định mệnh của lịch sử cận đại, nhưng
cũng đã từng sản sinh những Lý Thường Kiệt 218, Trần Nhân Tôn 219,
Nguyễn Trãi 220) ? Dân tộc đó đang gánh chịu sự xuống cấp trầm trọng về vật chất
lẫn tinh thần. Non nước xác xơ. Tuổi trẻ tiều tụy221. "Gia tài của
mẹ, một bọn lai căng; gia tài của mẹ, một lũ bội tình" : câu hát nổi
tiếng của Trịnh Công Sơn - tự bao giờ - vẫn giữ nguyên thời gian tính, như lằn
roi quất lên gương mặt thời đại. Đến hôm nay, “máu và nước mắt từng ngày vẫn đổ” 222. Đó
là nỗi khổ nhục lớn. Đó cũng là một trong những tiền đề cho những xót xa, suy ngẫm
nơi mỗi chúng ta. Song, trong khuôn khổ Chương cuối Phần III*** của loạt bài
này, ta cần có một độ lùi tối thiểu đối với thời cuộc để thử điểm lại-
dưới góc độ học thuật- những điều kiện cơ bản hãy còn quá khiếm khuyết, chưa
cho phép văn học nghệ thuật Việt Nam ngẩng đầu đối mặt với thử thách. Bất luận thời nào, cách mạng đích thực phải là cách mạng
nhân văn. Thế mà, từ nhiều thập kỷ qua, cái Đẹp đã dấu mặt, tư duy tắt ngấm.
Giữa khoảng trống chơ vơ là những quờ quạng, thao thức vô hình. Và nỗi bất lực
triền miên... Nhưng giải pháp làm sao ló dạng, khi chính chúng
ta chưa đặt được cho mình câu hỏi bộc phá, đủ sức vạch mở- từ tọa độ dân
tộc- một không gian suy tưởng ăn khớp với thời đại, tạo ra sức bật ý
nghĩa nơi từng chủ thể biết nhen nhúm, thổi bùng ngọn lửa xác
tín thiêng liêng về những giá trị sống chết và ý nghĩa sâu thẳm của
hiện hữu, cần được khám phá, tái hiện, triển khai, dưới gam màu độc
đáo và âm sắc riêng lạ của mỗi cảnh đời? Chúng ta đang dẫy chết trong sự thờ ơ, nhát sợ, tầm thường. Còn
cái Đẹp, tự nó- và muôn đời-, là thách thức. Khi không gian mỗi ngày thêm ngạt
thở, thì cái Đẹp là sinh lộ thanh thoát cho những dũng cảm nhân cách,
sâu lắng tư duy và tinh khiết tâm hồn : hành trình Mỹ học, do đó, cũng là
hành trình thăng hoa nhân tính và dẫn tới siêu nghiệm (transcendance), như đã
thấy trên (Chương 2)***. Ở Việt Nam, do triết học vốn đã thiếu vắng trong cốt hồn
văn hiến lại càng không có chỗ đứng trên sân chơi học thuật đương thời, nên
những thách thức của cái Đẹp khó lòng vượt qua cảm tính để thâm nhập tâm thức,
xoáy mạch trầm tư. Thay vào đó, văn học nghệ thuật- trong tư thế độc
lập từ ngoại biên chính trị- là tác nhân sung mãn nhất còn lại, có khả
năng và trách nhiệm chấp nhận thách đố- mà khởi đầu là sự tập trung
khắc phục những hạn chế nội tại- để lột xác vươn lên, soi rọi nhân thế, nắm bắt
sự thật, khơi gợi những chân trời khả thể, kích hoạt cuộc hồi sinh,
chính danh đóng trọn vai trò vượt lịch sử (transhistorique) đầy khó
khăn, tế nhị, nhưng vô cùng thanh cao của nó: sáng tạo và khai phóng. Bởi cái Đẹp đánh thức con người. Bởi sáng tạo không ngừng
kêu đòi cảm hứng. Thôi thúc, quyết liệt. Như cách mạng chờ ngòi lửa. Như hạn
hán đợi cơn mưa. |
|
Tín hiệu đáng mừng hay bức tranh siêu thực? Những tin tức về số phận dành cho người nghiên cứu nhóm thơ
hậu hiện đại Mở Miệng223-224gần đây, đã khiến dư luận cảm thấy - nếu
không công phẫn - ít nhất là một sự thất vọng bàng hoàng. Mặc dù vậy, bên
cạnh bao bức xúc khác, nếu xét kỹ dưới góc nhìn thuần túy văn hóa thì thời sự
văn nghệ Việt Nam trong vòng hai năm nay thật ra cũng không phải không có một
số dấu hiệu tương đối tích cực, cho ta ít nhiều hy vọng. Ví dụ đầu tiên: Vi Thùy Linh mang thơ vào Nhà hát Lớn, biến
văn chương thành «sự kiện » sáng giá trong đêm nghệ thuật cuối năm
2012 tại Hà Nội. Phải nhìn nhận đây là một sáng kiến táo bạo về cách làm, tạo
được ấn tượng tốt ở nhiều người, từ nhà sử học Dương Trung Quốc 225-226 đến nhà
phê bình Phạm Xuân Nguyên227, nếu chỉ nhắc đến chừng ấy ý kiến phát biểu. Một
sự động viên giỏi, vận dụng hiệu quả nguyên lý tiếp cận thị trường hiện đại
và khéo dựa trên những phương tiện sân khấu ca, vũ, nhạc cộng thêm với cả mỹ
thuật đương đại: tất cả nhằm để vinh danh Thơ (mà cụ thể trước mắt là sự
đăng quang những sáng tác của nhà thơ). Một ví dụ khác- ít rầm rộ hơn, nhưng không kém phần ý
nghĩa-, đó là việc một Tủ sách Văn học Việt Nam đương đại mới
ra đời 228 tại Pháp nhờ công sức của dịch giả Đoàn Cầm Thi
cùng nhà văn Thuận, mà chỉ riêng bức ảnh dưới đây cũng đủ làm toát lên vẻ
sáng tự tin của một thế hệ xông xáo, tài năng và đẹp rạng rỡ. Rạng rỡ cũng
còn là tin vui khác về việc tiểu thuyết "Biển và Chim Bói Cá"
của nhà văn Bùi Ngọc Tấn được giải thưởng tại liên hoan "Sách và Biển"
2012 trên đất Pháp...229
Nhà văn Thuận (trái) và dịch giả Đoàn Cầm Thi tại lễ ra mắt Tủ sách Văn học Việt Nam đương đại tại Pháp Bìa tác phẩm « Biển và chim bói cá » bản tiếng Pháp Rời văn học bước sang mỹ thuật, người ta lại tiếp tục thấy
thích thú trước những chứng từ mới mẻ, phong phú- có khi cảm động- của Nguyễn
Quân230, Hoàng Hưng231, Đào Mai Trang232, Phạm Trung. Không cảm sao được,
khi biết rằng nhiều nghệ sĩ trẻ phấn đấu hết mình cho nghệ thuật, chẳng hạn
như trường hợp tác giả cuối vừa nêu, cùng với Bùi Như Hương, phải bỏ thêm tiền
túi ra233 – mặc dù đã có được hỗ trợ của các quỹ và tổ chức văn hóa đỡ đầu 234 -
để in tập sách Nghệ thuật đương đại Việt Nam 1990-2010 bằng tiếng
Anh, chỉ vì lý do... « tiếng Anh nhiều người mua hơn ; từ đó,
họ mới có tiền in bản tiếng Việt » ! Một tập sách đã khiến Tôn
Nữ Thị Ninh phải tâm đắc : “Nếu còn là đại sứ, tôi hoàn toàn không
ngại ngần mang cuốn sách này làm quà tặng cho nước ngoài, để họ hiểu thêm về
văn hóa Việt Nam”.235 Hết mình cho nghệ thuật, đó cũng là điều công chúng đã từng
cảm nhận từ những người như Đào Anh Khánh, đặc biệt qua tác phẩm đồ sộ
« Cây đời » 236 được trình diễn nơi công cọng cách đây
hơn hai năm, với một ngân sách 2 tỷ đồng237. «Chân bị gãy [...] mà trong
suốt 4 tháng luyện tập, và cả trong đêm diễn anh vẫn phải mang đôi nạng ;
[...] vẫn đang là “con nợ” của 600 triệu và nhiều dự định [...], một nghệ sĩ
“ròng” như anh dễ gì từ bỏ đam mê máu thịt » : Vi Thùy Linh đã thuật lại
với những chi tiết chính xác như vậy238 về nghệ sĩ tiền phong này. |
Dưới một góc độ khác, trước Heiddger ngót hai thế kỷ, Kant đã đưa ra những luận cứ vững chắc - lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại - để xác lập nền tảng của mỹ học, và đồng thời chỉ ra tính siêu nghiệm (transcendance) của cảm quan thẩm mỹ qua cái ông gọi là sensus communis. Đó là cái khiến người ta có thể - và tất yếu đi đến - đồng cảm với nhau một cách hoàn toàn tự nhiên. Đó là một ý tưởng (idée) thuộc về lý trí (raison), chứ không phải một ý niệm (concept) vốn thuộc trí năng (entendement), theo cách phân biệt tinh tế của Kant. Nó ở tầng siêu nghiệm, vượt khỏi trí năng: sự tồn tại cùng những đặc tính ưu việt của nó xứng đáng được chấp nhận như một định đề (postulat) mỹ học cơ bản.
Nhìn lại hội họa, ngọn đèn pha của Mỹ thuật, thì rõ ràng trường hợp những thành tựu đặc biệt của Glenn Brown và Gerhard Richter, như đã biết, quả đã không lọt khỏi cặp mắt xanh các nhà nghiên cứu. Nó trở thành ví dụ tiêu biểu214 phản chứng luận điểm lỗi thời về «cái chết của hội họa». Đối với chúng ta, nó còn cho không ít bài học sâu sắc về quá trình tra vấn, suy nghiệm của những nghệ sĩ tài ba chân chính, đưa họ cuối cùng tới bến những khám phá bất ngờ về khả năng khai mở kỳ diệu của nghệ thuật: phải chăng đó cũng là quy trình phản tỉnh, cần thiết và bổ ích nhưng - tiếc thay - hình như hãy còn quá thiếu vắng trong vận động văn nghệ Việt Nam, trên bước đường khai phóng?
Đó là một mất mát lớn. Bởi vì, nói như Phạm Vĩnh
Cư284, " nếu ta tính đến những cống hiến còn khiêm tốn của văn
chương và những khó khăn trong sự trưởng thành âm nhạc bác học ở ta, thì có
thể nói rằng những thành tựu cao nhất của hội họa VN cũng là những
thành công cao nhất của nghệ thuật Việt Nam từ sau 1945". |
6/10/2013
Bùi Đức Hào
Nguồn: Diễn Đàn Forum
Theo https://vanchuongviet.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét