Hình ảnh người phụ nữ trong văn du ký nửa đầu
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội phương Đông hàng ngàn năm tồn
tại trong văn hóa nam quyền, người phụ nữ bị nam giới thống trị, quyền sống và
quyền bình đẳng của họ bị hạn chế. Một cái nhìn mới chịu ảnh hưởng của ý thức về
nữ quyền trong văn hóa và văn học phương Tây đã nảy nở trong văn hóa và văn học
Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX, đến giai đoạn đầu thế kỷ XX có thêm những biến
chuyển mới mẻ, quan trọng. Văn du ký có đóng góp đáng chú ý trong quá trình
hình thành ý thức nữ quyền của toàn bộ nền văn học hiện đại hóa. Ý thức về nữ
quyền là một trong những dấu hiệu rõ nhất của hiện đại hóa văn học. Hiện đại
hóa văn học dân tộc gắn liền với sự thay đổi trong cái nhìn đối với phụ nữ. Bài
viết của chúng tôi sẽ tìm hiểu một số vấn đề của văn du ký viết về phụ nữ và phụ
nữ viết văn du ký với mong muốn phát lộ thêm những đóng góp của văn du ký trong
tiến trình hiện đại hóa dân tộc.
1. Văn du ký
Từ điển thuật ngữ văn học đã định
nghĩa: “Du ký - một thể loại văn học thuộc loại hình ký mà cơ sở là sự ghi chép
của bản thân mình đi du lịch, ngoạn cảnh về những điều mắt thấy tai nghe của
chính mình tại những xứ sở xa lạ hay những nơi ít người có dịp đến. Hình thức của
du ký rất đa dạng, có thể là ghi chép, ký sự, nhật ký, thư tín, hồi tưởng, miễn
là mang lại những thông tin, tri thức và cảm xúc mới lạ về phong cảnh, phong tục,
dân tình của xứ sở ít người biết đến… Dạng đặc biệt của du ký phát huy cái chất
ghi chép về miền xa lạ của nó là du ký về các xứ sở tưởng tượng, có tính chất
không tưởng hay viễn tưởng khoa học… Dạng du ký khác đậm đà phong vị phương
Đông là ghi chép cảm tưởng, nhận xét về những nơi danh lam thắng cảnh đất nước…
Thể loại du ký có vai trò quan trọng đối với văn học thế kỷ XVIII-XIX trong việc
mở rộng tầm nhìn và tưởng tượng của nhà văn. Sang thế kỷ XX, du ký mang nhiều
tính chất tư liệu khoa học do các nhà địa chất, nhà dân tộc học viết. Loại du
ký khoa học cũng rất thịnh hành” (10, 108).
Chúng ta đều biết, trong khoảng thời
gian nửa đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam chứng kiến sự xuất hiện của không ít các
tác phẩm thuộc nhóm thể loại văn du ký. Qua một thời gian dài ít được chú ý,
trong thập niên gần đây, thể văn du ký nói chung trong đó có văn du ký nửa đầu
thế kỷ XX ở Việt Nam đã bắt đầu thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu. Thực tế
trên cho thấy rằng, càng ngày, giới nghiên cứu càng quan tâm đến một kiểu thể
loại vốn bị xem là cận văn học, một thể loại dường như đứng bên lề của văn học.
Sự quan tâm đó có cơ sở thực tế bởi văn du ký cho đến nay, trong thế kỷ XXI, chẳng
những không mất đi tính hấp dẫn và sức sống mà trái lại đang có được một vị trí
nhất định trong đời sống văn học Việt Nam đương đại. Vì thế, nghiên cứu về thể
văn du ký không những có nội dung khoa học hàn lâm, thuộc nhóm vấn đề tổng kết
qui luật của văn học sử, mà còn có ý nghĩa thực tiễn đối với việc sáng tác, thưởng
thức và nghiên cứu văn du ký đương đại.
2. Văn du ký về phụ nữ
Nghiên cứu văn du ký viết về phụ nữ
và phụ nữ viết du ký có thể chỉ ra những đóng góp riêng của mảng văn này trong
hiện đại hóa văn học.
Nói đóng góp riêng vì văn du ký viết
về phụ nữ và phụ nữ viết du ký là những câu chuyện người thực việc thực, khác với
các hình tượng nhân vật nữ là sản phẩm hư cấu trong cả tiểu thuyết lãng mạn của
Tự lực văn đoàn và truyện, tiểu thuyết hiện thực phê phán. Và do đó, những vấn
đề nữ quyền đặt ra trong văn du ký phản ánh trình độ thực tế của ý thức nữ quyền
khác với trong tiểu thuyết, truyện ngắn thể hiện cái nhìn chủ quan của các tác
giả.
Như đã nói, nói đến vấn đề nữ quyền
trong văn du ký thì trước hết phải nói đến văn du ký mà người Việt viết trong
các cuộc tiếp xúc với người phương Tây. Sách sổ sang chép các việc (1822)
của Philiphê Bỉnh nhận xét về văn hóa ứng xử giữa nam và nữ ở Bồ Đào Nha: “Như
thói nước người mà bổn đạo nam nữ cũng ngồi với Vit vồ cùng thầy cả, vì ở nước
nào thì cứ thói nước ấy, mà thói An Nam là thói lịch sự cho đến nỗi có nhà mà vợ
chồng cũng chẳng ngồi ăn cơm với nhau vì cha thì ngồi với con giai, mà mẹ thì
ngồi với các con gái. Sau có một truyện bổn đạo u mê mà khi thầy cả đạo thánh đến
làm phúc, thì nó dọn một mâm cùng hai bát cơm cùng hai đôi đũa, người nhà thầy
liền hỏi rằng: hôm nay có cụ nào đây ru mà dọn hai bát cơm, nó thưa rằng có bà
mụ vì nó nghĩ rằng: bà mụ chính thì chẳng được ngồi với cụ, mà bà mụ tùy thì sẽ
ngồi với các thầy, vì nó thấy mâm cỗ ngày tết mà bổn đạo đến lễ lạt thì cũng lặng
bà mụ chính như Cụ lặng vậy” (2, 150-151). Trong nhiều điểm ngạc nhiên về văn
hóa phương Tây, Philiphê Bỉnh nói đến sự bình đẳng, tự nhiên của nam nữ ở
phương Tây, khác với Việt Nam (và phương Đông nói chung) có nghi lễ nam nữ thụ
thụ bất thân. Ông sử dụng khái niệm “thói lịch sự” để nhận xét nghi lễ nam nữ
thụ thụ bất thân của xứ mình, nó đã ăn sâu vào hành vi ứng xử của cả những người
trong gia đình, đến mức vợ chồng cũng không ngồi ăn cơm cùng nhau mà tách biệt,
chồng ngồi cùng con trai, vợ ngồi cùng con gái.
Theo hướng quan sát này thì phải kể đến
ấn tượng của nhà nho Cao Bá Quát trong chuyến đi dương trình hiệu lực sang vùng
Đông Nam Á quãng năm 1843 (hoặc 1844?). Ông đã viết bài thơ Tây dương thiếu
phụ ghi lại một hình ảnh lạ về một thiếu phụ phương Tây mặc đồ trắng như
tuyết (đồ trắng với người Việt Nam cho đến khi tiếp xúc với phương Tây là màu gợi
sự tang tóc - Hà Tôn Quyền cũng đã dùng cụm từ tuyết y khách để gọi
người Hà Lan), ngồi tựa vào vai chồng (theo nhà nho, nam nữ hữu biệt). Nhà
nghiên cứu Vĩnh Sính có so sánh mở rộng thú vị: Phúc Trạch Dụ Cát trong một
phái bộ Nhật Bản sang Hoa Kỳ công cán, rất ngạc nhiên khi thấy nam nữ khiêu vũ
chạy đi chạy lại trên sàn nhảy, hoặc một lần được mời đến ăn tối tại nhà người
Mỹ gốc Hà Lan, “khi bữa ăn thịnh soạn sắp sửa được bày dọn trên bàn, điều tôi
[Fukuzawa] thấy kì lạ nhất là bà chủ nhà vẫn ngồi trên ghế trò chuyện tỉnh bơ với
khách, trong khi ông chủ nhà thì xăng xít điều động người giúp việc dọn thức ăn
ra cho khách. Điều này thật hoàn toàn trái ngược với phong tục tập quán ở Nhật
Bản” (8). Tất cả các nước trong khu vực ảnh hưởng của văn hóa Khổng giáo đều
theo lễ tục “nam nữ thụ thụ bất thân” nên điều gây ấn tượng mạnh mẽ nhất cho
người các nước này chính là sự giao tế tự nhiên, bình đẳng nam nữ.
Phạm Phú Thứ đi sứ sang Pháp kể lại
trong Tây hành nhật ký sự có mặt của một phụ nữ người Việt lấy chồng
Pháp trong buổi tiếp tân mừng thọ vua Tự Đức. Ông chú ý đến cách ứng xử của “lễ
quan” (quan chức ngoại giao của Pháp) đối với bà Nguyễn Thị Sen, 75 tuổi-một phụ
nữ người Việt lấy chồng Pháp - “Đúng giờ khai mạc, Lễ quan nước đó tới chúc mừng.
A Ba Ly (Aubaret) giới thiệu Thị Sen và thuật lai lịch của bà này, Lễ quan quay
lại phía hai mẹ con và bắt tay thi lễ, xong rồi nhường bà ta ngồi trên tràng kỷ
(hỏi ra thì phong tục Tây đều coi trọng phụ nữ, phàm trong yến tiệc mà có phụ nữ,
thời kỳ thù tiếp cũng coi như nam giới chứ không phân tị hiềm gì, dẫu chưa quen
biết bao giờ cũng thế, huống chi Thị Sen lại là người Việt, nên các quan chức
nước đó càng kính mến hơn” (9, 91). Trong một đoạn văn ngắn, mặc dù giữ điềm
tĩnh, Phạm Phú Thứ vẫn phải ghi lại hai chi tiết quan trọng: nam nữ bắt tay
nhau và nam nhường ghế cho nữ.
Một sự kiện khác cũng gây ấn tượng
cho Phạm Phú Thứ: ông nhận được giấy mời của viên Đại học sĩ mời đến nhà dự tiệc,
trong giấy viết rằng “Đô Dư Anh Đê Luy và phu nhân kính mời quý ông, ngày mai hồi
6 giờ chiều, đến tệ xá đàm thoại”. Ông tìm hiểu mới hay “chiếu theo tục lệ của
nước này, chỉ khi nào họ coi trọng khách lắm thời trong thiếp mới đứng tên cả
hai vợ chồng mời” (9, 111).
Nhưng những cảm xúc lạ lùng của một
nhà nho ở những năm 1860 của thế kỷ XIX đến thế hệ Phạm Quỳnh ở đầu thế kỷ XX
không còn nữa. Chuyện nam nữ khiêu vũ ở Mỹ mà Phúc Trạch Dụ Cát thấy ngạc nhiên
thì Phạm Quỳnh bắt gặp ngay trong lễ hội chào mừng Quốc khánh Pháp. Không phải
trong nhà mà ngay trên đường phố, có tổ chức hẳn hoi, ở đầu các phố, có đặt bục
gỗ cho người đánh dương cầm, nam nữ khoác tay nhau, không phân biệt đẳng cấp tước
vị. Trong Pháp du hành trình nhật ký, Phạm Quỳnh đã dự nhiều buổi tiếp tân
của người Pháp có cả các bà vợ chủ nhà cùng chồng tiếp khách. Thực tế tiếp xúc
văn hóa và hiểu biết qua sách vở thì các sự kiện bề ngoài tương tự của bình đẳng
nam nữ không còn xa lạ nữa. Là một trí thức, lại thông thạo tiếng Pháp nên ông
đã đi sâu hơn vào văn hóa nữ quyền của phương Tây hơn hẳn các nhà nho như Phạm
Phú Thứ. Có buổi Phạm Quỳnh đến thăm và dự cuộc tiếp tân của một phụ nữ Pháp,
người đã dự buổi diễn thuyết của ông hôm trước về đề tài thi ca Việt Nam.
Điều đáng nói là vị phu nhân này không phải đơn giản là tiếp khách cùng chồng
mà là “chủ salon theo như lịch sử phong nhã của nước Pháp”. Trong cuộc tiếp
khách, có năm sáu vị phu nhân, ba bốn ông quí khách, “chừng là những tay văn
nhân tài tử cả”. Nghĩa là người phụ nữ bình đẳng so với nam giới không chỉ về
quyền mà quan trọng hơn, bình đẳng cả về học vấn, trí tuệ. “Bà mời ngồi chơi, rồi
hỏi chuyện về bên ta, nói về đạo Khổng, đạo Phật, về văn hóa Đông phương Tây
phương, trong bài diễn thuyết hôm qua bà lấy làm thích nhất là ở chỗ nói về cái
tục nam nữ giao ca ở nước ta, bà muốn biết rõ cách hát thì ở nhà quê ta thế
nào; mình cắt nghĩa cho nghe về cách hát trống quân, hát quan họ, (…); bà cho
cái tục đó là tuyệt thú mà nức nỏm khen” (3, tập III, 572). Người phụ nữ này am
hiểu và quan tâm nhiều vấn đề về văn hóa thế giới, người phụ nữ có tầm vóc trí
tuệ như vậy thì ở Việt Nam cho đến năm 1922 chưa thể có được. Vì thế mà Phạm Quỳnh
nghĩ “Bà chủ người tuyệt nhã; tuổi còn thanh xuân, hình dung yểu điệu, dáng dấp
dịu dàng, mà câu chuyện phong thú biết bao nhiêu! Thật là một bà chủ sa lông
theo như lịch sử phong nhã của nước Pháp. Bao giờ cho xã hội An Nam ta cũng có
những bậc đàn bà nhã thú như thế?” (3, tập III, 572). Đây là một mơ mộng tiến bộ,
có chút lãng mạn về người phụ nữ hiện đại, dựa trên thực tế quan sát thấy ở
phương Tây, chứ không phải là nhằm giải quyết vấn đề nữ quyền ở thực tế xã hội
Việt Nam. Người phụ nữ Việt Nam còn ở một khoảng cách quá xa với mẫu bà chủ sa
lông ở Pháp. Ở Việt Nam, sau bài du ký này quãng chục năm, cũng mới chỉ xuất hiện
các nhân vật phụ nữ đấu tranh cho quyền tự do hôn nhân, chống ách áp bức của đại
gia đình phong kiến, hình tượng những cô gái mới, tân thời chứ chưa thể hình
dung về kiểu phụ nữ trí thức chủ nhân sa lông văn hóa như ở Pháp được.
Một vấn đề khác mà ở trong nước, ngay
cả các nhà văn Việt Nam có tinh thần nữ quyền cao cũng khó mường tượng - đó là
việc một nữ diễn giả Pháp nói về quyền đàn bà được trụy thai (3, tập III, 399).
Ta biết Thiên chúa giáo thời đó chủ trương cấm phụ nữ “kế hoạch hóa gia đình”
nên bàn về bình đẳng nam nữ thì được nhưng nói đến đề tài cho phụ nữ quyền trụy
thai là cấm kỵ.
Một sự kiện khác là Phạm Quỳnh làm
quen ông Diagne (người Senegal, da đen, đã nhập tịch Pháp) là nghị sĩ thuộc nghị
viện Pháp, có vợ người Pháp có nhan sắc. Nếu so sánh với bài thơ Cô Tây
đen mà Tản Đà viết để chế giễu những cô gái Việt Nam lấy chồng tây đen (anh
tiếc cho em phận gái má đào/ tham đồng bạc trắng mới gán mình vào cái chú Tây
đen) thì mới thấy tầm nhìn, tầm hiểu biết của Tản Đà hạn hẹp do không có trải
nghiệm quốc tế. Tư tưởng văn hóa thuần chủng của nhà nho vẫn ám ảnh những tác
giả như Tản Đà. Phạm Quỳnh chỉ bình luận “ái tình thật không phân biệt gì giống
loài” (3, tập III, 563).
Nhìn chung, trong du ký ghi chép ở nước
ngoài thì những quan sát của Phạm Quỳnh cũng gợi mở cho văn hóa và văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ về nhiều vấn đề nữ quyền trên một phổ rộng hơn những vấn đề
đặt ra trong văn học lãng mạn trong nước.
Nhưng nước Pháp và phương Tây nói
chung cũng có vấn đề như nhiều nước khác mà cho đến tận nay nhân loại chưa giải
quyết được: phụ nữ bán hoa, những người sống trong xóm bình khang ở Paris. Phạm
Quỳnh cùng các thành viên trong đoàn, với tư cách là người đi xem để hiểu “kẻ
khác” không giữ thái độ giả đạo đức, quyết định đi “khảo sát”. Ông kể về khu
“Mông Mạc” (3, tập III, 484-485). Chỉ có điều, gái bán hoa ở đây được hành nghề
công khai, nơi này san sát lâu đài tửu quán, đèn điện sáng choang. Thơ ca ngâm
vịnh ở xóm Mông Mạc này rất nhiều, khách phong lưu như thi nhân, họa sĩ lui tới
thường xuyên tìm cảm hứng sáng tạo. Rõ ràng vấn đề người phụ nữ bán hoa trong
xã hội tư bản rất nan giải mà Phạm Quỳnh nhạy cảm nhìn nhận từ khá sớm.
Văn du ký viết trong nước đề cập đến
người phụ nữ có những bài của Mãn Khánh Dương Kỵ, Tam Lang viết về phụ nữ Chăm.
Ấn tượng của Tam Lang là người đàn bà Chăm quần quật làm lụng chợ búa, chăm
con, còn đàn ông Chàm chơi dài. “Trong gia đình Chàm, chỉ người đàn bà mới suốt
ngày bận rộn. Từ sáng đến tối họ làm hết các công việc khó nhọc như ra đồng cấy
gặt, ra tỉnh mua bán, vào Mọi đổi chác, rồi về nhà lại dã gạo, sàng gạo, chăn
con trẻ, giặt áo xống, nấu ăn, tiếp khách, dệt vải, xe bông. Sẩm tối, khi công
việc đã ngớt, người đàn bà Chàm, đầu đội chiếc bình đất lớn, lại ra sông, lạch,
vợi nước về dùng. Quần quật suốt ngày, thế mà họ không bao giờ có một tiếng
phàn nàn về chồng con là những kẻ suốt ngày ăn xong lại nằm, nằm chán lại chạy
nhông hoặc mơ màng ngồi hút thuốc” [1]. Đây rõ ràng là thân phận của phụ nữ
trong xã hội nam quyền điển hình. Bất bình đẳng tới mức khi ăn, người đàn ông
Chàm dùng đũa gắp thức ăn còn đàn bà Chàm lấy tay bốc (?).
Nhưng văn du ký về phụ nữ cũng có khi đề cập đến cách phục sức
và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt. Đi suốt từ Hà Nội qua cách tỉnh miền Trung vào
đến Sài Gòn, Mẫu Mục Sơn N.X.H so sánh cách phục sức của phụ nữ Bắc Trung Nam,
chê lối mặc của phụ nữ từ Hải Vân đến Sài Gòn, rồi phát biểu: “Về lối ăn mặc của
đàn bà ta, tôi tưởng không gì bằng lối ăn mặc của nhà quê Bắc Kỳ. Ta thử xem
cách ăn mặc các nước văn minh Thái Tây chú trọng nhất là chỗ ngực, đều để lộ
cái áo “sơ mi” ở ngực ra cho tôn lên. Vậy cái yếm của đàn bà mình thực là đẹp,
mà lại hợp vệ sinh, là giữ được kín bụng, lại giữ được khỏi vú sa. Và đàng lưng
hở lại mát, vì mình ở xứ nóng. Nếu ngực có đeo đồ trang sức, được cái yếm lại
tôn đẹp thêm lên. Cái yếm thực là một đồ ăn mặc đẹp đặc biệt của đàn bà nước
mình” (3, tập III, 40).
Văn du ký về phụ nữ tuy chưa phải thật phong phú song cũng
cho thấy cái nhìn hiện đại của các tác giả nam giới viết về phụ nữ. Cái nhìn hiện
đại phát hiện những vấn đề, những khía cạnh về người phụ nữ mà văn học trung đại
chưa hề chạm đến, và đồng thời trong các thể loại khác của văn học hiện đại
cũng chưa đề cập.
3. Văn du ký của phụ nữ
Trong bài Lịch trình tiến hóa của văn học phụ nữ
ta trên Tri tân năm 1943 (số chuyên san về văn học phụ nữ Việt Nam), Hoa
Bằng viết: “Từ khi có chữ quốc ngữ, báo quốc ngữ, chị em bạn gái nắm được cái lợi
khí ấy, thường hay giãi bày tâm tư ý tưởng trên báo chương… Từ khi Âu hóa, nhiều
bà chịu ảnh hưởng hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp của văn chương tây, nhất là tiểu
thuyết tây, rất dễ tiêm nhiễm cái tư tưởng lãng mạn trong văn học của họ. Một
khi áp dụng vào quốc văn, lắm cây bút nữ lưu đã tỏ ra chịu ảnh hưởng của Tây
phương một cách rất sâu xa” (1, 787). Ông điểm tên một số tác giả nữ như Tương
Phố Đỗ Thị Đàm, Đạm Phương nữ sử, Huỳnh Thị Bảo Hòa… Trong đó có tác giả nữ viết
du ký là Huỳnh Thị Bảo Hòa nhưng lại thiếu không nhắc đến Mộng Tuyết, Vân Đài.
Nhưng Hoa Bằng đã nhấn mạnh đúng một khía cạnh về chất lãng mạn, chịu ảnh hưởng
Tây phương của sáng tác các tác giả nữ.
Trong công trình nghiên cứu của Carl Thompson Travel
Writing, tác giả dành một chương về vấn đề giới và tính dục trong văn du
ký. Theo nhà nghiên cứu này, việc đi lại, tự do dịch chuyển thường được coi là
độc quyền đàn ông. Phụ nữ thường được liên tưởng với sự tĩnh tại, với công việc
nội trợ. Thường phụ nữ đi cùng cha mẹ, chồng, con trong các chuyến đi xa. Nhưng
trong văn du ký phương Tây thế kỷ XVIII-XIX, phụ nữ đã đi du lịch độc lập.
Người phụ nữ đi và viết về các chuyến đi bằng văn xuôi du ký
là hiện tượng mới mẻ chưa từng thấy trong văn học trung đại. Hồi trung đại,
không phải tuyệt đối không có phụ nữ đi và viết: ta biết có một Hồ Xuân Hương,
một bà Huyện Thanh Quan đi nhưng họ chỉ viết thơ và chất tự sự, chất lãng mạn của
văn du ký vắng bóng trong sáng tác của họ. Đến thời hiện đại, ta có Huỳnh Thị Bảo
Hòa đi du lịch Bà Nà, có Nguyễn Thị Kiêm đi suốt từ Nam ra Bắc để diễn thuyết về
nữ quyền, có Vân Đài bốn năm trên đảo Cát Bà, có Mộng Tuyết đi thăm Phú Quốc.
Qua các chuyến đi và tâm sự của họ ta hình dung rõ diện mạo của thế hệ phụ nữ mới,
hiện đại mà không những không gặp trong văn học trung đại mà cả các thể loại
khác của văn học hiện đại cũng không thể hiện.
Văn du ký của tác giả nữ trước hết là kết quả của việc người
phụ nữ đi-đi ra khỏi nhà, đi xa hay gần nhưng để có trải nghiệm của con người
xã hội. Những người phụ nữ Việt Nam truyền thống vốn sống trong những không
gian khép kín, gọi là khuê phòng, khuê các. Cô gái thôn quê của chàng trai
trong bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính cũng sống trong không gian khép
kín mà chàng gọi một cách văn hoa là “khuê các” (Bao giờ đến mới gặp đò/ Hoa
khuê các bướm giang hồ gặp nhau). Mở rộng hơn, họ sống trong không gian của
cánh đồng quê, dòng sông, chợ quê. Những người phụ nữ trung lưu có thể đi xa
theo chồng làm quan đây đó, nhưng trong thế phụ thuộc. Bản thân việc những người
phụ nữ Việt Nam đi du lịch xa đã là một bước đột phá trong tư tưởng xã hội. Nhiều
bậc cha mẹ, nhiều người chồng đã thấy cần tôn trọng quyền đi, quyền hiện diện
trong không gian xã hội ngoài gia đình. Người phụ nữ đi du lịch là một trong những
dấu hiệu quan trọng của hiện đại hóa xã hội. Trong tiểu thuyết và thi ca, chúng
ta hầu như không bắt gặp những nhân vật phụ nữ hư cấu đi du lịch ngoại trừ kiểu
nhân vật cô Tuyết giang hồ trong Đời mưa gió hoặc Tám Bính giang hồ
trong Bỉ vỏ. Đi vẫn là độc quyền của nam giới: một ly khách
trong Tống biệt hành của Thâm Tâm hay chàng Dũng trong Đoạn tuyệt của
Khái Hưng - Nhất Linh. Nhưng văn du ký đã cho thấy có thực những người phụ nữ kiểu
mới đi du lịch. Một khía cạnh mới của chủ nghĩa nữ quyền cần được phân tích. Chất
lãng mạn của tâm hồn phụ nữ đi du lịch đã được chúng tôi đề cập đến khi chọn
phân tích điểm nhìn về thân phận, hình ảnh người phụ nữ trong văn du ký của một
tác giả nữ tiêu biểu là Nguyễn Thị Kiêm.
Có một sự tương ứng giữa việc Nguyễn Thị Kiêm thực hiện một
cuộc hành trình từ miền Nam ra miền Bắc để cổ động việc đọc Phụ nữ tân
văn và tuyên truyền cho nữ quyền với sự kiện Nguyễn Thị Kiêm đăng đàn diễn
thuyết cổ vũ cho thơ mới. Đây là người phụ nữ nhiệt thành cổ vũ cho cái mới. Tối
ngày 26-7-1933 Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết tại Hội Khuyến học Sài Gòn. Đây là
buổi diễn thuyết đầu tiên trong lịch sử đã 25 năm của Hội mà diễn giả là phụ nữ.
Hai năm sau, tháng 11-1935, bà lại diễn thuyết một lần nữa về thơ mới tại Hội
Khuyến học. Năm 1934, Nguyễn Thị Kiêm, Phan Thị Nga và chủ nhiệm báo lên đường
đi ra Bắc để vận động cho báo Phụ nữ tân văn và chủ nghĩa nữ quyền.
Theo bài viết Phái bộ của Phụ nữ tân văn về tới Sài Gòn [2], “ngoài sự đồng bào nam nữ ở Bắc mua
báo Phụ nữ tân văn và cổ động giúp cho cơ quan này được thêm lực lượng
ra, các nữ phái viên của bổn báo, cô Nguyễn Thị Kiêm và Phan Thị Nga đã bắt đầu
thiệt hành một vài cái trách nhiệm trong chương trình phụ nữ chủ nghĩa…Có điều
này là hiển nhiên: hai cô bạn Kiêm và Nga trong phái bộ của Phụ nữ tân
văn đã gây được một cơ hội hay cho trào lưu của phụ nữ An Nam khắp ba kỳ”.
Đi từ Sài Gòn ra Hà Nội, Nguyễn Thị Kiêm có nhiều cảm tưởng về
mọi khía cạnh của thành phố cổ kính, từ các công trình lịch sử, các cảnh quan,
đến con người, lối sống. Nhưng là một phụ nữ có tư tưởng nữ quyền, cô quan tâm
nhiều hơn, có nhiều nhận xét đáng chú ý về người phụ nữ ở Hà Nội. Trong bài du
ký dưới dạng một bức thư gửi cho chị Huê, Nguyễn Thị Kiêm kể lại các ấn tượng,
suy nghĩ của mình về phụ nữ Hà Nội trong sự so sánh với phụ nữ Nam Kỳ. Chẳng hạn,
bán kem ở bờ hồ Hoàn Kiếm “không phải là mấy chú Chệc tèm lem mộc mạc đẩy xe
rung chuông, giữ độc quyền bán kem” mà “bán kem Hà Nội là mấy cô gái má phấn,
môi son, khéo nói, khéo mời, khéo chìu khách”. Chắc cô đã đọc báo chí nói chung
và Phụ nữ tân văn kể về những vụ tự tử của các cô thiếu nữ trẻ ở các
hồ Hà Nội [3] nên liên tưởng đầu tiên vụt đến
trong óc cô gái lớn lên ở Nam Kỳ khi đến Hà Nội là chuyện tự tử này. “Hôm tôi đến
Hà Nội ngày đầu, thấy Hồ Gươm lần thứ nhứt, tôi vụt hỏi: “Có phải hồ này người
gọi là mồ hồng nhan?”. Người ta gật đầu, tôi lại ngạc nhiên: “Làm sao mà tự
tử được giữa chốn đông đảo vui đẹp thế này. Cái chết này chẳng có tính cách cái
chết!”. Vì trước kia, nghe nói đến sự tự tử ở Hồ Gươm, tôi tưởng tượng ra một cảnh
sầm uất, vắng vẻ, xa thành phố, chỗ có chim ụt đếm giờ, dế gọi tỉ tê. Thế mà, sự
thật hồ Hoàn Kiếm là nơi nhiều người đắm đuối. Vợ chồng cãi cọ với nhau một
chút, vợ toan nhảy xuống hồ, học sinh chán bài, chán thi cũng toan nhảy xuống hồ,
con bị cha mẹ rầy la cũng định trầm mình nơi ấy. Sự chết dễ dàng, gần bên mình
lại làm cho người ta không xét đến cái giá trị của sự sống” (5, 13). Vấn đề khiến
Nguyễn Thị Kiêm quan tâm cũng là sự quan tâm chung của những ai chú ý đến biến
động trong quan niệm sống của các thiếu nữ đương thời, nói rộng hơn là những biến
đổi văn hóa trong chiều sâu của tâm lý con người. Điều này đã được nhà nghiên cứu
Nguyễn Nam phân tích thấu đáo và có những kết luận xác đáng (7). Nhà nữ quyền
trẻ tuổi không thể không lập tức liên tưởng đến thân phận người phụ nữ trong
giây phút đầu tiên bên hồ Hoàn Kiếm: cô nghĩ đến mấy chữ mồ hồng
nhan từ Truyện Kiều. Đây là nơi chôn vùi cuộc sống của những thiếu nữ
(chứ không phải của nam giới!). Nếu như Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ đem
chuyện các cô gái tự trầm để hài hước, giễu cợt thì Nguyễn Thị Kiêm nghĩ đây là
điều hệ trọng.
Nguyễn Thị Kiêm còn quan tâm đến phụ nữ miền Bắc ở nhiều
phương diện khác. Vẻ đẹp nền nã, có cái gì đó rất truyền thống toát lên từ cách
phục sức và nhất là hàm răng đen gây cho cô ấn tượng mạnh. “Nói đến chị em Hà
thành, tôi nhớ đến một câu của một người bạn trai Nam Kỳ: “Các cô gái ấy mỹ miều,
có hơi kín đáo, có hơi bí mật, mà cái miệng là cái hang sâu thẳm lọt mất biết
bao lời lẽ thâm trầm”. Bạn tôi phê bình thế là ngụ ý tiếc hàm răng nhuộm của chị
em làm nụ cười đen tối. Nhưng hiện nay, người đàn bà Bắc để răng trắng cũng nhiều.
Người có răng đen nếu nhuộm thật tốt, bóng láng như hạt huyền thì cũng đẹp
riêng một vẻ” (5, 14). Riêng ở điểm này, những yếu tố văn hóa riêng trong tục
nhuộm răng đen không được anh bạn của Nguyễn Thị Kiêm và chính Nguyễn Thị Kiêm
hiểu đúng. Điều mà họ muốn là thay đổi kể vẻ đẹp thẩm mỹ cho người phụ nữ Việt
Nam theo hướng hiện đại.
Một khía cạnh xã hội khác của người phụ nữ mà Nguyễn Thị Kiêm
quan sát thấy: sự bất công giữa tầng lớp giàu nghèo. “Đi ngoài đường, nhất là
buổi chiều và tối, người ta gặp rất nhiều bà nhiều cô ăn mặc sang trọng đẹp đẽ,
rất nhiều ông “mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”. Một cảm tưởng đầu thoạt
nhiên nảy trong trí tôi ngay lúc bước vào thành phố Hà Nội là ở đây, cái nghèo,
cái sang, thấy rõ rệt quá. Rõ rệt vì gần các ô tô lồng kiếng láng bóng, gần các
bộ áo xinh xắn huê dạng lại có mấy chục mấy trăm đốm vải nâu của dân nghèo, cái
màu nâu đã phai lợt với nắng, nước”. Trên kia chúng tôi đã dẫn ghi chép của
Tùng Vân về các cô gái Sơn Tây mặc cả áo vá đi hội. Chẳng phải để tỏ tài khéo
vá may như bà cụ giải thích cho Tùng Vân, đó chỉ là hiện thân của nỗi khốn khó
mà các cô gái Sơn Tây phải chấp nhận. Thì đây, một du khách từ Nam Kỳ ra lại
nêu vấn đề tương tự, không chỉ là biểu hiện của bất công giàu nghèo mà còn là
biểu hiện sự nghèo khó của kinh tế vùng Bắc Kỳ: “Ai có đến Sài Gòn, Huế rồi, mà
tới Hà Nội lần đầu thì có lẽ cũng nhận thấy cái rõ rệt đặc biệt ấy ở nơi đây”
(5, 14).
Nguyễn Thị Kiêm cũng không quên ghi nhận sự siêng năng chịu
khó của phụ nữ Bắc Kỳ. “Trong các tánh tốt của người đàn bà Bắc Kỳ, tánh siêng
năng bặt thiệp có lẽ là tánh chung. Phụ nữ Bắc Kỳ buôn bán giỏi, làm việc nhiều,
bằng hay là trội hơn đàn ông. Đây là kể hạng trung và hạ lưu. Đi ngoài đường,
mình thấy mấy cỗ xe chở cây, thùng, hàng nặng mà người kéo xe toàn là đàn bà,
hoặc đàn bà lẫn đàn ông. Ở thành phố Hà Nội chẳng có xe ngựa, xe bò, bao nhiêu
công việc nặng nề do tay người cả”. Trong lời khen có ngầm một ý ái ngại, cám cảnh.
Đây là cái nhìn thực sự tập trung vào thân phận phụ nữ, khác với cái nhìn của
Tam Lang (Một ngày ở xứ Chàm) đã nói ở trên tuy nói đến phụ nữ Chàm vất vả
gian khó nhưng chủ yếu nhằm phê phán đàn ông Chàm lười biếng, ỷ lại vợ.
Tinh thần phụ nữ mới của Nguyễn Thị Kiêm còn bộc lộ ngay
trong cái nhìn ngầm phê phán phong khí có vẻ suy đồi của thanh niên Hà Nội:
“Cách Hà Nội chừng hai cây số ngàn, có xóm Khâm Thiên, đây là xóm ả đào, xóm
đăng - xinh (dancing), chiều tối nào cũng tấp nập khách chơi, xe cộ… Thanh niên
Hà Thành rất có nhiều sự quyến rũ (tentations) chung quanh mình. Ở đất ngàn năm
văn vật này, phong cảnh hữu tình có thể đúc ra những óc lãng mạn mà cuộc chơi của
thành phố ánh sáng đang chực chờ để lôi cuốn, thâu nhập, rồi nhả ra những tâm hồn
bạc nhược chẳng có khí phách, chẳng có cái tinh thần mạnh mẽ đáng gọi là tinh
thần thanh niên” (5,15).
Chuyến đi của cô gái Nam Kỳ ra Bắc Kỳ rất có ý nghĩa đối với
văn học hiện đại. Ít nhất, ta có được một cái nhìn so sánh Nam Bắc của một người
phụ nữ trẻ tuổi, tân tiến, có tư tưởng hiện đại về quyền phụ nữ và về cuộc sống
nói chung.
Dọc đường đi ra Bắc, Nguyễn Thị Kiêm cũng thể hiện góc nhìn của
phụ nữ chú ý đến cảnh đời phụ nữ hay. Vùng Phan Rang Phan Rí đất cát khô bỏng:
“Ngồi trong xe đi qua mấy cánh đồng khô nóng ấy, mình tưởng tượng là lạc trong
bãi sa mạc nào. Thế rồi trong cái cảnh phẳng lặng đìu hiu ấy, ta lại gặp một
vài người đàn bà Chàm, mặc cũng dài, bó cái mình ốm, cao thẳng, đầu đội thúng
to, đi điềm nhiên trong khoảng vắng. Mấy người này mặt nám, tóc quăn có cái vẻ
lãnh đạm như tượng đồng… Thỉnh thoảng ta lại gặp người đàn bà mình, cũng da đen
mặt nám nhưng nét mặt dịu dàng hơn, nhưng lang thang rách rưới hơn, hai vai hoằng
hoại một gánh nặng, cúi đầu đi, đi như người có tội, trên mặt có vẻ vất vả đau
thương, đi như Đức chúa Giê Du mang cây thánh giá nặng. Họ là mấy đốm đen trơ
trọi trong cánh đồng trắng không bóng cây, không dạng nhà” (6, s. 258, tr. 10).
Một số tầm trích đủ để hình dung nét riêng biệt của văn du ký
tác giả nữ, họ quan tâm nhiều đến thân phận phụ nữ hơn các tác giả nam giới. Những
vấn đề phụ nữ nêu lên trong văn du ký, do các tác giả đi nhiều, thay đổi không
gian văn hóa trên phạm vi địa lý rộng, là những gì thực sự tác giả tai nghe mắt
thấy, nên có một giá trị riêng, khác với các vấn đề phụ nữ đặt ra trong các tác
phẩm hư cấu.
KẾT LUẬN
Hiện đại hóa văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX là
một quá trình bao gồm nhiều phương diện, nhiều xu hướng. Văn du ký là thể loại
văn xuôi trung gian đứng giữa các thể loại hư cấu như truyện ngắn, tiểu thuyết
và thể loại phi hư cấu nên có những đóng góp riêng so với mảng sáng tác hư cấu
trong công cuộc hiện đại hóa văn học dân tộc nửa đầu thế kỷ XX. Ba mảng nội
dung chủ đạo, nổi bật được xem như là đóng góp của văn du ký cho diện mạo của nền
văn học hiện đại là nhận thức về “người khác” từ nhu cầu tự thay đổi để phát
triển; tính chất lãng mạn của cảm hứng du lịch và ý thức nữ quyền thể hiện
trong văn du ký của các tác giả nam giới và văn du ký của chính các tác giả nữ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hoa Bằng (1943), Lịch trình tiến hóa của văn học phụ nữ
ta, Tri tân, s. 112
Philiphê Bỉnh (1822), Sách sổ sang chép các việc, Viện
Đại học Đà Lạt xuất bản, 1968. Bản Scan của Trường Đại học sư phạm Đà Nẵng.
Thanh Lãng giới thiệu.
Du ký Việt Nam - Tạp chí Nam phong (1917-1934) (2007), Nguyễn
Hữu Sơn sưu tầm và giới thiệu, 3 tập, Nxb Trẻ, Thành phố HCM.
Phan Khôi (1929), Luận về phụ nữ tự sát, Phụ nữ tân
văn s.22, 26-9-1929.
Nguyễn Thị Kiêm (1934), Thành phố Hà Nội với mấy cảm tưởng
đầu, Phụ nữ tân văn, s. 265, tr.13-15.
Nguyễn Thị Kiêm (1934), Dọc đường: cuộc hành trình từ
Nam ra Bắc, Phụ nữ tân văn, s. 264, 265, 1934.
Nguyễn Nam (2010), Phụ nữ tự sát-lỗi tại tiểu thuyết? Một
góc nhìn về phụ nữ với văn chương - xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX (lược
trích), Nghiên cứu văn học, số 7 (461), 53-65.
Vĩnh Sính (2004), Thử tìm hiểu chuyến đi về công vụ ở Hạ
Châu của Cao Bá Quát, chuyển dẫn theo sách Cao Bá Quát - Về tác giả
tác phẩm, Nxb Giáo dục, 2006, Hà Nội.
Phạm Phú Thứ (1863), Tây hành nhật ký, bản dịch,
Nxb Văn nghệ Thành phố HCM, 2001.
10. Từ điển văn học (bộ mới) (2004), Biên tập: Nguyễn
Huệ Chi, Trần Hữu Tá, Phùng Văn Tửu, Vũ Thanh, Nxb Thế giới.
[1] TS. Khoa Việt Nam học và Tiếng
Việt, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
[2] Tam Lang, Một ngày ở xứ
Chàm, Tri tân, số 1/1941, tr. 6.
[3] Phái bộ của Phụ nữ tân văn về tới
Sài Gòn, Phụ nữ tân văn, số 265, ngày 8-11-1934
[4] Trên Phụ nữ tân văn năm
1929, Phan Khôi viết “Gần nay, trong nữ giới ta có xảy ra nhiều vụ tự sát. Thì
cách hơn tháng trước, ở Hà Nội, trong một tuần lễ, mà hết bốn năm mạng vừa đàn
bà, vừa con gái; ba mạng thì trầm mình nơi hồ Hoàn Kiếm, còn thì quyên sanh vì ả
phù dung. Mới trong tuần đầu tháng chín tây đây, ở Nam Định có cô Trần thị Quế
cũng tự tử bằng cách sau đó, nhưng cứu được; còn ở Sài Gòn cũng có người đàn bà
gieo mình xuống sông Thị Nghè, mà đã hơn tuần lễ mới vớt được thây. Ấy là những
vụ chúng tôi biết được, hoặc còn nhiều nữa mà chúng tôi không được tin thì chưa
kể. Nhưng mới trong vài tháng mà số tự sát đến ngần ấy, cũng đã là nhiều rồi”
(4).
29/5/2019
Nguyễn Thị Thúy Hằng
Theo http://vsl.edu.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét