Vị trí của hát nói (ca trù)
Hát nói là một thể thi ca dân tộc được sinh ra từ nhu cầu của bộ môn nghệ
thuật ca trù và trở nên một thể thơ độc đáo trong nền văn học Việt Nam nói
chung, văn học chữ Nôm nói riêng. Trước nay cũng đã có một số công trình bài viết
nghiên cứu về thơ hát nói ca trù và cũng đã có nhiều vấn đề của hát nói được
làm sáng tỏ và khẳng định. Tuy nhiên vị trí và tầm vóc của hát nói trong văn học
sử nói chung và trong dòng văn học chữ Nôm nói riêng thì vẫn chưa được khẳng định
một cách mạnh mẽ.
1. Tên gọi, gốc gác, đặc điểm của thể hát nói
Trước đây, Nguyễn
Văn Ngọc trong Ðào nương ca nhắc rằng có người cho hát nói là lối nói sử.
Trương Tửu trong Văn nghệ bình dân Việt Nam cũng viết rằng điệu hát nói là những
điệu nói sử. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ðức Mậu cho biết năm 1900 đã có tài liệu nói
về ca trù và gọi hát nói là nói Nôm. Tuy nhiên, về vấn đề này, các tài liệu Hán
Nôm cũng vẫn còn cho những thông tin đáng chú ý, góp phần làm sáng tỏ hơn nữa về
tên gọi, gốc gác, đặc điểm của thể loại này.
Sách Ca trù thể cách (AB.160), viết
về hát nói như sau:
“Tiếng đàn của hát nói thuộc cung Nam. Nếu nữ hát thì gọi
là hát nói, nam hát thì gọi là Hà nam. Lối văn này, xưa và nay đều có. Lối văn
này, mối bài chỉ có 11 câu mà thôi. Câu 1 và 2 gọi là tổng mạo. Câu 3 và 4 gọi
là Thừa đề. Câu 5 và 6 thì dùng lối thất ngôn, hoặc cổ thi, hoặc quốc âm; như
là treo cái ý của toàn bài vào giữa bài thơ, để nói hết cái đại ý của toàn bài.
Các câu 7, 8, 9 đều nối theo cái ý của câu 5 và 6 mà phô diễn thêm ra, để làm
rõ ý nghĩa. Câu 11 là tổng kết ý nghĩa trong cả bài, mà cũng là một câu kết
thúc. Cũng có khi đến đây, lại thêm hai câu hoặc 4 câu nữa, liền sau đó nói
dông dài thêm cái dư ý của bài thơ, ấy là muốn dẫn cho dài thêm. Người trong
làng ca gọi là Hát nối.” (trang 12b)
Theo ghi chép trên, hát nói có 3 tên gọi
khác nhau: Hát nói (nếu là nữ hát), Hát Hà nam (nếu là nam hát), và Hát nối (chỉ
các bài dôi khổ). Sách Ca điệu lược ký (AB. 456), viết về “phép tắc” của hát
nói như sau: “Câu 1và 2 là tổng mạo. Câu 3 và 4 là thừa đề. Câu 5 và 6 dùng thất
ngôn hoặc ngũ ngôn, hoặc cổ thi, hoặc quốc âm, là câu nằm treo giữa bài hát, để
nói hết cái đại ý của bài hát. Ðến các câu 7, 8, 9, 10 thì cũng nối theo cái ý
của câu 5 , 6, để làm rõ ý nghĩa. Câu 11 tổng kết ý nghĩa cả bài, mà cũng là một
câu kết thúc… Hát nói về sau, rất hay dùng 4 câu hát mưỡu nữa.” (trang 2b và
3a)
Theo ghi chép trên, ban đầu hát nói không có các câu mưỡu, 4 câu mưỡu đặt
trước các bài hát nói là về sau thêm vào.
Sách Vũ trung tùy bút của Phạm Ðình Hổ,
trong phần Nhạc biện, không thấy ghi nhận thể thơ hát nói. Song ông có cho biết
về lối Hà nam như sau:
“Âm luật thời Hồng Ðức (1460 - 1479) đại lược có cung
Hoàng Chung, cung Nam, cung Bắc, cung Ðại thực, luật Dương kiều, Bát đoạn cẩm.
Gần đây giáo phường học theo nhưng cung Hoàng chung, gọi nhầm thành cung Huỳnh,
cung Ðại thực gọi nhầm thành Ðại thạch, Dương kiều thành Kiều dương, Hà nam
thành Xà nam.”
Theo ghi chép của Phạm Ðình Hổ, thì lối Hà nam đã có từ thời Hồng
Ðức, đến thời ông viết Vũ trung tùy bút thì đã bị gọi sai khác đi. Hà Nam có thể
là dạng thức rất sơ khai của điệu hát nói sau này.
Từ những ghi chép ở trên,
rút ra một số thông tin sau:
Về tên gọi, điệu hát nói còn có các tên gọi khác
nhau như:
Hát nói - khi nữ hát
Hà nam - khi nam hát
Hát nối - bài dôi khổ
Vào
niên hiệu Hồng Ðức (1470 - 1497), đời Lê Thánh Tông có thể đã thấy xuất hiện dạng
thức sơ khai của thể thơ hát nói (theo Phạm Ðình Hổ).
Về câu chữ và tên gọi các
câu thơ trong bài hát nói:
- Số câu trong bài: 11 câu
- 4 câu mưỡu
- Câu 1 và
2: Tổng mạo
- Câu 3 và 4: Thừa đề 3
- Câu 5 và 6: Dùng thơ Thất ngôn/ Cổ thi/
Thơ Quốc âm
- Câu 7, 8, 9,10: Triển khai ý câu 5 và 6
- Câu 11: Tổng kết toàn
bài.
Tham khảo một số sách báo và tiếp xúc với các nghệ nhân ca trù chúng ta được
biết, trên thực tế ngoài hát nói đủ khổ (11 câu thơ) thì thể hát nói còn có một
số biến thể khác như: Hát nói thiếu khổ (bài hát chỉ có 6 câu thơ); Hát nói dôi
khổ tức là dôi thêm một hoặc nhiều khổ (mỗi khổ 4 câu thơ), Hát nói gối hạc (một
vài câu thơ kéo dài ra, số chữ trong một câu thơ có thể lên tới 12, 18 hoăc
thâm chí 24 chữ). Và hát nói thường hay đi kèm với hát mưỡu. Hát mưỡu ít khi được
hát riêng rẽ với tư cách một bài hát trọn vẹn, mà thường được hát mở đầu hoặc kết
thúc cho một bài hát nói. Do vậy khi hát mưỡu kết hợp với hát nói lại có các dạng
Hát nói mưỡu tiền (hát mưỡu mở đầu rồi vào hát nói), Hát nói mưỡu hậu (hát mưỡu
kết thúc sau khi hát nói); Hát nói mưỡu đơn (hát mưỡu bằng một câu thơ lục
bát), Hát nói mưỡu kép (hát mưỡu bằng hai câu thơ lục bát).
2. Thể hát nói
trong thơ ca trù
Trong nghệ thuật ca trù, thơ là một thành tố quan trọng. Ca
trù có nhiều làn điệu, nhiều thể ca trù sử dụng các thể thơ quen thuộc và thuần
Việt như lục bát, song thất lục bát. Trong số 34 thể ca trù mà thư tịch Hán Nôm
có ghi nhận về lời thơ, thì các thể thơ được dùng là:
- Thể lục bát: dùng trong
17 thể ca trù - Thể song thất lục bát: dùng trong 1 thể ca trù
- Thể hát nói là thể riêng của ca trù
- Thể thơ 7 chữ và một câu lục cuối bài: dùng trong 3 thể ca trù
- Thể thơ 7 chữ và một câu lục bát cuối bài: dùng trong 1 thể ca trù
- Thể thơ Ðường luật (thất ngôn, tứ tuyệt): dùng trong 8 thể ca trù
- Thể phú: dùng trong 1 thể ca trù
- Thơ Ðường luật trường thiên: dùng trong 2 thể ca trù (trong đó có bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị)
Theo thống kê trên, thể thơ lục bát
là một thể thơ được sử dụng phổ biến trong ca trù. Và thể thơ này lại được sử dụng
chủ yếu trong làn điệu hát của ca trù. Các điệu hát được các nhà nghiên cứu ghi
nhận là các điệu ca trù cổ đều có ca từ là thơ lục bát. Ðó là các làn điệu: Bắc
phản, Chừ khi, Cung bắc, Dịp ba cung bắc, Ðại thạch, Hãm, Hồng hạnh, Non mai,
Thư phòng, Mưỡu, Ngâm vọng, Thổng. Trong các lối hát truyền thống như chèo,
quan họ cũng sử dụng thơ lục bát trong nhiều làn điệu. Ðiều này càng cho thấy sự
gần gụi của ca trù với các lối hát chèo và quan họ, nếu xét dưới góc độ thanh
điệu ca từ. Tuy vậy cùng sử dụng thể thơ lục bát, nhưng các lối hát truyền thống
này cũng đã tạo nên những vẻ đẹp khác nhau trong nhạc điệu làm phong phú cho vốn
âm nhạc cổ truyền Việt Nam, và càng khẳng định sức sống của thơ lục bát trong
văn học và văn hóa Việt Nam.
Trong số các thể thơ được dùng trong ca trù, thể
hát nói để lại số lượng tác phẩm lớn nhất, được ưa chuộng nhất. Hát nói đã gắn
với những tên tuổi lớn trong lịch sử văn học Việt Nam như: Nguyễn Công Trứ, Cao
Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh, Tản Ðà, Phan Bội Châu…
3.
Những vấn đề văn bản học của Hát nói Hát nói là một khu vực văn học khá phức tạp,
không chỉ vì nó có một số lượng văn bản lớn, mà còn ở chỗ nó rất phức tạp về
văn bản học. Mới đây nhất trong luận án Tiến sĩ về hát nói, Nguyễn Ðức Mậu cũng
không tạo được bước tiến mới trong vấn đề này, mặc dù anh biết nghiên cứu văn bản
học hát nói là một việc hệ trọng.
Theo thống kê của chúng tôi thì trong kho
sách của Viện nghiên cứu Hán Nôm có khoảng 40 văn bản Hán Nôm chép các bài hát
nói, trong đó có những cuốn Ca trù thể cách chép được 162 bài hát nói (AB.160),
hay 95 bài (AB.499)... Tình hình phức tạp về văn bản học của hát nói có thể
khái quát như dưới đây:
- Nhiều bài được chép trong nhiều văn bản, mỗi bài ở
các bản thường có khác nhau một số chữ dẫn đến tình trạng một bài thơ có nhiều
dị bản khác nhau.
- Hát nói thường được sáng tác và biểu diễn theo lối “tức tịch”
(ngay tại chiếu hát) và chủ yếu cho mục đích giải trí nên khi nó được chép
thành văn bản thì các yếu tố của văn bản thường bị bỏ qua, như: tác giả, thời
điểm niên đại, các yếu tố trong tiểu dẫn, v.v... nên việc xác định tác giả đích
thực cho tác phẩm cũng gặp không ít khó khăn. (Trường hợp thấy có lẫn hát nói của
Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ trong tác phẩm của Nguyễn Bá Xuyến, hay nhiều bài
thơ không xác định được tác giả...). Sự phức tạp về văn bản học của hát nói là
một khó khăn không nhỏ đối với việc nghiên cứu sự phát triển của thể loại, về vận
luật và các vấn đề liên quan.
Nghiên cứu về hát nói do vậy không thể bỏ qua
khâu khảo cứu văn bản, nhất là khi nghiên cứu về các tác giả và tác phẩm hát
nói có niên đại sớm và có ý nghĩa trong việc nghiên cứu nguồn gốc thể loại,
nhưng lại chưa rõ ràng về mặt văn bản.
Trường hợp bài Họa mi trong lồng của
Nguyễn Hữu Cầu; tác giả và tác phẩm Nguyễn Bá Xuyến, một số bài của Cao Bá Quát
và Nguyễn Công Trứ là những ví dụ về vấn đề này. Hát nói là một làn điệu của ca
trù. Thơ hát nói với tư cách là ca từ của một bộ môn nghệ thuật âm nhạc thính
phòng nên nghiên cứu văn bản hát nói không thể không đặt nó trong mối liên hệ với
âm nhạc hát nói ca trù. Trước đây, trong bài viết trên tạp chí Hán Nôm số 1 (8)
- 1998 chúng tôi có giới thiệu 34 tên sách Hán Nôm về ca trù hiện đang tàng trữ
tại Viện nghiên cứu Hán Nôm. Ðó phần lớn là các tập sách chép chuyên về ca trù;
chúng tôi chưa kể đến rất nhiều thi tập riêng của các tác gia có sáng tác hát
nói. Trong các thi tập ấy, hát nói chỉ là một bộ phận trong văn nghiệp của các
tác gia này. Vì thế, nghiên cứu văn bản học các tác phẩm hát nói chúng ta cần
phải tiến hành khảo sát văn bản học cả các văn bản thi tập của các tác gia.
4.
Những vấn đề về thể loại và khả năng thâu nhận của hát nói Vấn đề thể loại và
nguồn gốc thể loại cũng như việc xác định tác gia sớm nhất của hát nói luôn là
một vấn đề thu hút sự chú ý của các nhà làm văn học sử. Trước đây, cũng đã có
nhiều người cho rằng bài Ðại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của Tiến sĩ Lê Ðức
Mao (1462-1529) là bài hát nói ca trù cổ nhất. Thế nhưng gần đây đã có nhiều
nhà nghiên cứu đã xem lại vấn đề này và đã khẳng định rằng đó không phải là bài
hát nói và do vậy Lê Ðức Mao không phải là một tác gia hát nói. Nhận định này
đã được các nhà nghiên cứu tán thành.
Hát nói là một thể thơ mở, không hạn định
số câu trong bài và số chữ trong câu. Chúng ta có thể gặp trong bài hát nói một
câu thơ khá dài như:
Ôi nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió
thổi, như chiêm bao. (Chơi là lãi - Nguyễn Công Trứ )
hoặc những câu:
- Khi vườn
sau khi ao trước khi điếu thuốc khi miếng trầu khi trà chuyên năm ba chén khi
Kiều lẩy một đôi câu. (Anh giả điếc - Nguyễn Khuyến)
- Rồi cũng cờ, cũng biển,
cũng võng, cũng lọng, cũng hèo Cũng dương mắt ếch, vểnh tai mèo trong cõi tục.
(Thi hỏng - Trần Tế Xương) Chính những câu như thế là một cánh cửa nơi những
ý tưởng mới, những lối diễn đạt độc đáo ùa vào, phô diễn vẻ thanh kỳ, giàu sức
gợi. Ðề cập đến vấn đề thể loại của hát nói các nhà nghiên cứu thường muốn tìm
tới cội nguồn, nguồn gốc của hát nói. Ðó là một vấn đề lý thú nhưng khó trả lời
hoặc có quá nhiều đáp số, những đáp số dễ được chấp nhận nhưng cũng dễ bác bỏ.
Ðã có nhiều người cho rằng hát nói bắt nguồn từ Từ, lại cũng có người cho rằng
nó bắt nguồn từ thơ luật, từ song thất lục bát.
Quan sát việc sử dụng hát nói
trong các sinh hoạt đời sống, thì thấy hát nói được dùng trong nhiều hình thức
sinh hoạt của đời sống; chẳng hạn trong nghi lễ thờ cúng (hát cửa đình, trong
tín ngưỡng giáng bút, hát trong Thánh lễ Dâng hoa ở nhà thờ Thiên Chúa giáo),
trong ca quán, dinh thự, trong nhà tù. Ðiều này không những cho thấy tính phổ
biến của hát nói mà con cho thấy khả năng và dung lượng lớn của thể thơ này
trong việc phô diễn tâm tình và phản ánh xã hội.
Hơn nữa, hát nói cũng không
thuần nhất một thể thơ nào mà dường như nó mang trong mình những đặc điểm ưu việt
của các thể loại mà nó có ảnh hưởng, hay nói khác đi nó chọn lọc lấy những gì
hay nhất, giàu sức biểu cảm nhất mà lại phù hợp nhất trong phô diễn.
Chính khả
năng dung nạp và phô diễn đầy lợi thế của mình mà hát nói có được sự độc đáo.
Là một thể thơ phù hợp với hầu hết các tạng sáng tác của nhà nho mấy thế kỷ vừa
rồi. Khả năng dung nạp và đồng hóa của hát nói cho thấy đây là một thể thơ linh
hoạt và là thuận lợi lớn cho việc diễn đạt mọi cung bậc tình cảm của con người.
Các tác giả sách Việt Nam Ca trù biên khảo đã từng nhận định rằng: “Hát nói rất
phù hợp với những nội dung đứng giữa hai thái cực: một bên là những nội dung cô
đọng quá dành cho thơ luật, một bên là những nội dung khai triển quá như truyện
và ngâm dành cho lục bát và song thất lục bát.” (Sđd. tr.140).
Thật vậy, ta có
thể bắt gặp trong hát nói muôn nghìn tâm trạng, muôn nghìn biến thái vi tế nhất
của tâm hồn Việt Nam, khi thì hùng tráng trong những tỏ bày tráng chí hay ngợi
ca "địa linh nhân kiệt", lúc hào sảng trong cảm hứng đất nước non
sông, khi phiêu diêu mơ màng về một mối tình đẹp như mộng mà cũng mỏng manh như
mộng, lúc hóa thân trong cảm hứng vũ trụ, và cũng có khi là những gửi gắm nỗi
niềm trước sự hưng vong của thời cuộc.
Hát nói không nhằm tới việc thuyết giáo
hay rao giảng những nội dung nghiêm túc của luân lý trong học thuyết Khổng Mạnh.
Văn chương hát nói không chủ yếu nhằm chở đạo. Hát nói chỉ nhằm hướng đến một
nhu cầu rất chính đáng của con người đó là nhu cầu giải trí. Có lẽ trong văn
chương của ta, chưa có một thứ văn học nào nhằm đến giải trí như là hát nói.
Nhìn chung lại, những đặc trưng mà hát nói có được chính là vì nó là một thể
thơ phục vụ cho âm nhạc và để diễn tả tâm trạng phức tạp của trí thức bình dân
trong một giai đoạn lịch sử có nhiều biến cố. Nghiên cứu các đặc điểm thể loại
hát nói không thể không đặt trong bối cảnh văn hóa xã hội và trong lịch sử và đặc
trưng nghệ thuật ca trù.
5. Thi liệu hát nói
Thi liệu được sử dụng trong hát
nói thật dồi dào. Hát nói là một thể “văn chơi” nhằm đến sự giải trí, và thoát
khỏi sự kiềm tỏa của giáo lý Khổng Mạnh nên hát nói đã chọn cho mình nguồn thi
liệu phù hợp với mình từ vốn văn học cổ Trung Quốc. Ðó là cái chất thăng hoa
trong Ðường thi, Tống thi.
Hát nói sử dụng nhiều thi liệu từ nguồn thi ca cổ điển
Trung Hoa, nhưng dồi dào hơn cả là từ nguồn Ðường thi. Nhiều bài hát nói đã sử
dụng và chịu ảnh hưởng của Ðường thi ở 3 hoặc 4 chỗ với nhiều cấp độ ảnh hưởng
khác nhau. Ví dụ trong bài thơ Mượn rượu làm vui của Nguyễn Công Trứ, mức độ ảnh
hưởng rất cao:
Nhân sinh thích chí Chẳng gì hơn mượn rượu làm vui
Việc tày trời khi say đoạn cũng thôi
Một trận phá thành sầu, lũy não
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
Nhân sinh thất thập cổ lai hy (1)
Danh mà chi, lợi nữa mà chi
Mượn ba chén dập dìu trăng gió
Nghìn vàng hết, hết rồi lại có
Chén còn không, ngựa áo để làm chi (2)
Bên tai gác tiếng thị phi,
Màn trời chiếu đất dầu khi ngang tàng
Mơ màng trong cõi túy hương. (3)
Chú thích:
(1) Thơ Khúc giang của Ðỗ Phủ
(2) Lời ý từ thơ Tương tiến tửu của Lý Bạch.
(3) Túy hương: Làng say. Thơ Ðiệu cổ của Liễu Tông
Nguyên (đời Ðường) có câu:
Nhàn sự dữ thời câu bất liễu Thả tương thân tạm túy hương du
(Sự thanh nhàn cùng với thời gian thanh nhàn đều không hết,
Hãy đem
mình chơi tạm với làng say).
Chính vì sự ảnh hưởng của Ðường thi khá đậm đặc
như vậy nên chúng tôi đã làm một khảo sát về sự ảnh hưởng của Ðường thi vào hát
nói (chúng tôi lấy bản Việt Nam Ca trù biên khảo của Ðỗ Bằng Ðoàn và Ðỗ Trọng
Huề làm đối tượng khảo sát) để tìm hiểu về mức độ, phạm vi, và cơ chế ảnh hưởng
của Ðường thi đối với hát nói.
Kết quả khảo sát thấy có các trường hợp như sau:
- Có trường hợp nhan đề bài thơ hoàn toàn trùng hợp với nhan đề bài thơ trong
Ðường thi.
- Dịch toàn bài hoặc dịch một số câu từ Ðường thi và đưa vào trong
bài.
- Không trực dịch, cũng không phỏng dịch nhưng lấy ý từ Ðường thi.
- Lấy
nguyên văn hai câu thơ Ðường đặt vào bài thơ, nhưng hợp với toàn bài trong một
chỉnh thể nghệ thuật hoàn hảo.
- Cú pháp, từ ngữ, hình ảnh của Ðường thi gây hiệu
quả thẩm mỹ cao trong bài hát nói.
Ngoài việc sử dụng nguồn thi liệu từ thi ca
cổ điển Trung Quốc, hát nói còn sử dụng nhuần nhụy thi liệu trong thi ca dân
gian Việt Nam. Chính lối nói dân dã, giàu âm điệu và thêm chút dí dỏm tếu táo
trong dân gian đã được các nhà nho lựa chọn sử dụng. Hát nói của Tú Xương, Nguyễn
Khuyến và nhiều tác giả vô danh thuộc loại này. Và các tác giả này đã góp phần
mở rộng biên độ về sắc thái và nội dung phản ánh của hát nói.
6. Nội dung tư tưởng
của hát nói Hát nói là một thể thơ có khả năng đồng hóa và dung nạp cao. Nó
không những ôm chứa trong nó nhiều thể loại, nhiều cách diễn đạt, nhiều nguồn
thi liệu khác nhau mà hơn thế trong cấp độ của tư tưởng, hát nói cũng cho thấy
nó là một thể thơ hàm chứa và chịu ảnh hưởng của nhiều nguồn tư tưởng. Chúng ta
có thể gặp trong hát nói tư tưởng chính thống của nho gia biểu hiện qua hình ảnh
người quân tử gánh vác non sông, đau niềm nhân thế, quyết chí xông lên xốc lại
giang sơn theo tinh thần tự nhiệm (Nguyễn Công Trứ,). Chúng ta lại còn có thể
thấy tinh thần của Thiền trong những bài hát nói thoát tục của Chu Mạnh Trinh,
Nguyễn Thượng Hiền.
Nhưng nói về văn chương hát nói, không thể không đề cập đến
ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang. Và vấn đề này, đã được Nguyễn Văn Ngọc đề cập
rất sớm, trong sách Ðào nương ca, xuất bản năm 1932. Nguyễn Văn Ngọc cho rằng tư tưởng Lão Trang là cội nguồn tư tưởng để tạo nên cái hay đặc sắc của văn
chương hát nói. Ông viết: “Tư tưởng Lão Trang và các ‘sách ngoài’ giúp cho các
bài hát nói siêu việt” (Sđd, tr. XVII).
Tư tưởng Lão Trang đã đến với văn học
Việt Nam chủ yếu qua con đường ảnh hưởng từ văn học Trung Quốc. Kể từ khi hát
nói ra đời hoàn toàn hướng tới nhu cầu giải trí của tầng lớp trí thức, chủ yếu ở
nơi phố thị, tư tưởng Lão Trang đã tìm được mảnh đất để phát triển với một sức
sống mới.
Tư tưởng Lão Trang trong văn chương hát nói, biểu hiện tập trung ở những
khía cạnh:
1, Tinh thần tự do, tự tại thoát ra khỏi những quy phạm của Nho
giáo. 2, Thiên nhiên hát nói là thiên nhiên tiên giới và mộng ảo. 3, Hưởng lạc đã trở thành một triết lý để thực hiện “vô”. Tư tưởng Lão Trang có một vị trí đặc biệt trong văn chương hát nói, là cội nguồn của cái Ðẹp, cái Mộng, cái Huyền trong hát nói.
7. Vị trí và đóng góp của hát nói trong dòng văn học chữ Nôm của dân tộc
Trong bài viết Văn học chữ Nôm: tinh hoa - sáng tạo của văn học cổ điển
Việt Nam thời trung đại trên tạp chí Văn học số 8 - 1998, PGS Bùi Duy Tân cho rằng:
“Các thể loại: Truyện thơ, khúc ngâm, sử ca, ca trù là những sáng tạo thể loại
sáng giá nhất của văn học chữ Nôm thời trung đại”.
Nguyễn Ðức Mậu trong luận án
Tiến sĩ Thể loại hát nói trong sự vận động của lịch sử văn học được bảo vệ tại
Viện Văn học cũng đã tiến thêm một bước khẳng định thể loại văn học này. Nguyễn
Ðức Mậu dành hẳn chương 3: Hát nói là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo của thơ
ca dân tộc để phân tích cái hay, cái độc đáo của thể loại văn học này. Ðặc biệt,
Nguyễn Ðức Mậu đã có một nhận xét quan trọng: Hát nói đáp ứng những nhu cầu
khác truyện Nôm và ngâm khúc. Chính phát hiện này đã khẳng định tính độc lập độc
đáo của hát nói trong tiến trình thể loại văn học Việt Nam. Chỉ riêng nhận định
này thôi cũng có thể đặt ngang hàng (nếu không muốn nói là cao hơn) hát nói với
truyện Nôm và ngâm khúc rồi.
Tuy nhiên qua các chương và qua kết luận cuối cùng
của luận án, Nguyễn Ðức Mậu tỏ ra rất dè dặt trong khẳng định vị trí của hát
nói trong dòng văn học chữ Nôm nói riêng, và trong lịch sử văn học nói chung.
Từ
sự nghiên cứu về những đặc điểm độc đáo của hát nói về các phương diện như: đặc
điểm thể loại, hệ thống thi pháp, nội dung phản ánh và nội dung tư tưởng, cung
như khả năng phô diễn và đồng hóa các yếu tố bên ngoài của hát nói, chúng
tôi muốn khẳng định hát nói như một sáng tạo đặc biệt của văn học dân tộc, một
thể thơ có một vị trí cao trong dòng văn học chữ Nôm của dân tộc.
Trong truyền
thống thưởng ngoạn ca trù, văn nhân là người nghe hát, cũng đồng thời là những
người làm ra các bài thơ đó, lại cũng là người phẩm bình, chấm điểm cho tiếng
hát, tiếng phách của đào nương. Văn nhân và ca nữ là một mối quan hệ quan trọng
nhất của lối thưởng thức ca trù. Quá trình tham gia sinh hoạt ca trù là quá
trình sáng tạo, thưởng thức, thể nghiệm các tác phẩm văn chương của mình. Vì thế
có thể khẳng định một thành tựu nữa của hát nói là đã góp phần làm cho sáng rõ
hình ảnh của loại hình nhà nho tài tử trong văn chương Việt Nam. Cũng chính hát
nói là một thể thơ giàu khả năng dung nạp và biểu cảm mà nó luôn là một thể thơ
được nhiều thi nhân ưa thích và kết quả là đã có những đại biểu lớn như: Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh, Nguyễn Khuyến, Dương Lâm, Dương Khuê,
Chu Mạnh Trinh, Tản Ðà,... Các bài hát nói của mỗi tác gia này trong văn nghiệp
của họ rất đáng được nghiên cứu thành những công trình nghiên cứu riêng để từ
đó làm sáng tổ hơn nữa thể loại độc đáo này. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đề cập đến
một thực tế mà các nhà nghiên cứu thường ít để tâm lý giải, đó là trong khi hát
nói được nhiều người yêu thích thì lại có một bộ phận không nhỏ tác gia là trí
thức không hề chọn thể loại hát nói để biểu đạt tư tưởng, tình cảm. Một loạt
các tác gia không có các sáng tác hát nói như: Nguyễn Siêu, Vũ Tông Phan, Nguyễn
Văn Lý, Kiều Oánh Mậu, Vũ Phạm Khải, Phạm Thận Duật, Lý Văn Phức,... Họ là những
trí thức khá tiêu biểu, đồng thời cũng là những tác gia có nhiều tác phẩm nổi
tiếng viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm. Vậy chúng ta giải thích như thế nào về hiện
tượng này. Theo chúng tôi phải tìm lời giải thích dưới góc độ loại hình nhà nho
tài tử. Hát nói chỉ có thể do các nhà nho tài tử sáng tạo ra, ưa dùng nó và
hoàn thiện nó. Nhà nho tài tử là mẫu nhà nho coi tài và tình, chứ không phải đạo
đức, làm nên giá trị con người. Họ quan niệm tài có nhiều cách, hoặc là tài
kinh luân, hoặc là tài học vấn nhưng nhất thiết phải có tài văn chương, tài cầm
kỳ thi họa cùng với các tài nghệ tài hoa gắn bó với tình nữa. Ðó là định nghĩa
về nhà nho tài tử do Gs Trần Ðình Hượu đưa ra. Gần đây, theo Gs Trần Ðình Sử,
thì tài tử không phải là người tài theo quan niệm thông thường, mà là kẻ lấy
ngông làm tài, tài thoát ra thói tục, vì vậy mà nó gắn rất chặt với tài tình.
8. Kết luận: - Cho đến nay, cùng với truyện Nôm và Ngâm khúc, hát nói là một
trong ba thể loại thơ đặc trưng thuần Việt nhất của khu vực văn học chữ Nôm.
Trong khi truyện Nôm và ngâm khúc xuất hiện trước, có thành tựu trước nhưng
còn chịu nhiều ảnh hưởng từ văn học nước ngoài như (cốt truyện, thi liệu, nội
dung phản ánh, nội dung tư tưởng...) thì hát nói ra đời sau nhưng mức độ ảnh hưởng
từ văn học nước ngoài đã ít đi nhiều và sự ảnh hưởng cũng đã mang ở một cấp độ
khác. Hát nói đã khác nhiều so với các thể loại trước đó và có thể xem là thể
thơ thuần Việt nhất trong các thể loại của văn học chữ Nôm. Và do vậy nó phải
có vị trí xứng đáng trong các giáo trình văn học sử, trong hệ thống sách giáo
khoa và trong các hợp tuyển, tuyển tập.
- Từ vị thế ấy, hát nói cần được đầu tư
nghiên cứu hơn nữa ở tất cả các khâu như: nghiên cứu văn bản học (để xác định về
văn bản, tác giả, trữ lượng), nghiên cứu so sánh và loại hình (để thấy tính độc
lập của thể loại trong tiến trình văn học)...
Tài liệu tham khảo chính: 1. Ðỗ Bằng Ðoàn - Ðỗ Trọng Huề: Việt Nam ca trù biên khảo. Tác giả tự xuất bản.
Sài Gòn, 1962.
2. Ngô Linh Ngọc - Ngô Văn Phú: Tuyển tập thơ ca trù. Nxb Văn học.
Hà Nội, 1987.
3. Nguyễn Xuân Diện: Góp phần tìm hiểu lịch sử ca trù. Nxb KHXH.
Hà Nội, 2000.
4. Nguyễn Văn Ngọc: Ðào nương ca. Việt Văn thư xã, Vĩnh Long thư
quán. Hà Nội, 1932.
5. Nguyễn Ðức Mậu: Thể loại Hát nói trong sự vận động của lịch
sử văn học. Luận án tiến sĩ ngữ văn. Hà Nội, 2000.
6. Trung tâm Trung Quốc học:
Ðạo gia và văn hóa. Nxb Văn hóaThông tin. Hà Nội, 2000.
7. Trần Ðình Hượu - Lê
Chí Dũng: Văn học Việt Nam 1900 - 1930 (In lần thứ hai). Nxb Giáo dục. Hà Nội,
1996.
8. Bùi Duy Tân: Khảo và luận một số thể loại tác gia - tác phẩm văn học
trung đại Việt Nam. Tập hai. Nxb. Ðại học Quốc gia. Hà Nội, 2001.
9. Trần Ðình
Sử: Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Nxb. Giáo dục. Hà Nội,
1999.
10. Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại. Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Ðức.
Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội, 1968.
11. Thơ Hát nói xưa và nay. Hoài Yên và Nguyễn Xuân Diện sưu tập - tuyển chọn. Nxb. Văn hóa Dân tộc. Hà Nội, 2003, 420
tr.
12. Vũ trung tùy bút. Phạm Ðình Hổ. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch,
chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, Hà Nội, 2003.
Huế 2006
Nguyễn Xuân Diện
Theo http://nomfoundation.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét