Bản giao hưởng số 7 của Beethoven: Giao hưởng số 7 của Beethoven được ghi nhận ngay tức thì sau
khi ra đời, cả ở khía cạnh nghệ thuật lớn lao và khía cạnh được đại chúng yêu
thích. Riêng chương II trong bản giao hưởng này thường được trích ra biểu diễn
riêng và có lẽ đã từng là sáng tác cho dàn nhạc nổi tiếng nhất của ông.
Nhiều tác phẩm ngày nay được xem là có giá trị nhất của
Beethoven, đặc biệt là các tác phẩm giai đoạn cuối sự nghiệp, ban đầu được khán
giả đón nhận với một tâm trạng ngổn ngang phức tạp: ngợi khen, hoang mang, chống
đối. Ngược lại, có những tác phẩm từng rất nổi tiếng nhưng ngày nay lại ít quen
thuộc với khán giả – có thể kể ra trường hợp của Wellington’s Victory,
oratorio Christ on the Mount of Olives, bản thất tấu và khúc tình ca tuyệt diệu
Adelaide. Nhưng đôi khi tác phẩm của Beethoven lại được ghi nhận ngay tức thì,
cả ở khía cạnh nghệ thuật lớn lao và khía cạnh được đại chúng yêu thích, như
chương II trong bản Giao hưởng số 7, một chương nhạc thường được trích ra biểu
diễn riêng và có lẽ đã từng là sáng tác cho dàn nhạc nổi tiếng nhất của ông.Wagner gọi Giao hưởng số 7 là “sự thánh hóa vũ khúc” của
Beethoven với hàm ý ngợi ca tinh thần phóng túng của tác phẩm. Và ta thấy cách
nói này của Wagner thật xác đáng sau khi khảo sát nhịp điệu và vị trí của nó.
Isadora Duncan, Léonide Massine cùng nhiều vũ công, biên đạo múa khác đã thử sức
với những dàn dựng ballet trên nền nhạc Giao hưởng số 7. Khi nghe bản giao hưởng
rạng rỡ nhất của Beethoven này, thật khó mà không nghĩ rằng ông hẳn đã viết nó
trong giai đoạn bừng nở của tình yêu đôi lứa. Phải hơn một thế kỉ sau, các nhà
âm nhạc học mới có thể chứng minh rạch ròi điều mà trái tim thính giả cảm nhận:
sự thật là tác giả khi đó đang yêu. Beethoven hoàn thành Giao hưởng số 7 chỉ
vài tuần trước khi viết các lá thư nổi tiếng gửi cho “người yêu bất tử” Antonie
Brentano của mình vào tháng 7/1812. Giờ đây đã rõ là các lá thư đó cũng như bản
giao hưởng này đánh dấu cao trào của một tình yêu song phương say đắm, ấp ủ
trong nhiều năm nhưng rút cục không thể trọn vẹn do định mệnh.
Giao hưởng số 7 của Beethoven có độ dài từ 33 đến 44 phút,
được đề tặng Bá tước Moritz von Freis. Tác phẩm gồm bốn chương: I. Poco sostenuto - Vivace. |
Buổi hòa nhạc được tổ chức vào ngày 8/12/1813 tại Đại học Vienna. Với mục đích tốt đẹp, Beethoven đích thân chỉ huy; các nhạc công sáng giá nhất Vienna (Johann Hummel, Antonio Salieri…) ngồi trong dàn nhạc cùng bầu không khí mang hương vị chiến thắng đang đến gần và phòng hòa nhạc náo nhiệt, chật kín người nghe. Chương trình hòa nhạc chắc chắn là rất thích hợp: toàn bộ Giao hưởng số 7 giọng La trưởng của Beethoven, các hành khúc của Dussek và Pleyel do “kèn trumpet tự động” mà Mälze chế tạo chơi cùng phần đệm của cả dàn nhạc, và tác phẩm Wellington’s Victory (Chiến thắng của Wellington) hay còn gọi là Battle Symphony (Giao hưởng chiến trận) mang tính chương trình vốn được Beethoven sáng tác cho panharmonicon nhưng lại được dàn nhạc thật trình diễn trong dịp này. (Battle Symphony rất nổi tiếng vào thời đó nhưng ngày nay được xem như một sáng tác “tình thế” trong số các sáng tác viết cho dàn nhạc thời kỳ thành thục của Beethoven).
Đúng như mong đợi, buổi hòa nhạc thành công vang dội. Sau mười năm kể từ lần công diễn bản Piano Concerto số 3 với rất nhiều đổi thay, Giao hưởng số 7 được khán giả đón nhận nhiệt liệt. Thành công này chắc chắn có sự góp phần của dàn nhạc được luyện tập kĩ càng hơn mức bình thường. Franz Glöggl, người được Beethoven cho phép có mặt tại các buổi tập, kể lại chuyện các nhạc công violin từ chối chơi một đoạn nhạc mà họ than rằng quá khó. Beethoven đã năn nỉ họ mang phân phổ về nhà để luyện tập thêm. Glöggl thuật lại: “Trong buổi tập ngày hôm sau, đoạn nhạc đó được chơi một cách xuất sắc và các quý ông nhạc công đã hân hoan trước việc họ đã khiến Beethoven hài lòng.”
Trong số các nhạc công violin còn có nhà soạn nhạc Ludwig Spohr (1784-1859), người đã sửng sốt trước phong cách chỉ huy của Beethoven. Spohr chú ý tới cách Beethoven sử dụng “mọi cách thức cử động khác thường của toàn bộ cơ thể. Khi đến một đoạn sforzando [thuật ngữ chỉ cách chơi với cường độ mạnh và có nhấn], ông xoạc mạnh đôi cánh tay trước đó bắt chéo trên ngực với một sự mãnh liệt lớn lao. Tới đoạn piano [cường độ nhẹ] ông cúi người xuống càng lúc càng thấp hơn để thể hiện mức độ êm ái. Khi bắt vào đoạn crescendo [cường độ mạnh dần] ông lại vươn người lên dần dần và tới một đoạn forte [cường độ mạnh] thì ông nhảy dựng lên không trung.”
Ta có thể dễ dàng hình dung ra cách chỉ huy của Beethoven ngày ấy phải sinh động đến cỡ nào với một tác phẩm như thế này. Bản giao hưởng có phần mở đầu (introduction) chậm rãi trau chuốt nhất đồng thời dài nhất của Beethoven. Nhưng trên cả việc báo trước các yếu tố chủ đề của phần Vivace, phần mở đầu Poco sostenuto còn hàm chứa hình mẫu điệu thức cho toàn bộ bản giao hưởng. Phần mở đầu này kết thúc bằng một khoảng lặng dài trước khi chủ đề của phần Vivace vang lên, giống như việc về tới nhà và kể lại toàn bộ cuộc phiêu lưu ngay lập tức với nhịp 6/8 một cách hồ hởi.
Chương II – Allegretto gồm một chủ đề siêu việt cùng các
biến tấu trên nền một nhịp điệu trì tục toàn bộ chương nhạc: dài-ngắn-ngắn-dài-
dài (nốt đen-nốt trắng-nốt trắng-nốt đen-nốt đen). Jeffrey Kahane, một nhà
nghiên cứu về Hy Lạp cổ, đưa ra giả thuyết rằng cơ sở của nhịp điệu này được lấy
cảm hứng từ kiểu nhịp thơ dactylic hexameter thường được sử dụng trong nhiều sử
thi Hi Lạp và La Mã (như Odyssey của Homer và Aeneid của
Virgil). Cuốn sách yêu thích của Beethoven là Odyssey và trong nhật ký của ông
rõ ràng có một mục ghi “dactylic hexameter”. Một dòng thơ ở thể dactylic
hexameter gồm 6 ô nhịp (foot), mỗi ô nhịp là một dactyl, mỗi dactyl gồm 3 âm tiết
trong đó âm tiết đầu là âm tiết dài (nhấn - mạnh) còn hai âm tiết sau là âm tiết
ngắn (không nhấn - nhẹ). Ô nhịp thứ sáu của dòng thơ thường không phải là một
dactyl mà được thay bằng hai âm tiết nhấn. Vì thế hai ô nhịp cuối của dòng thơ
tạo thành kiểu nhịp nhấn: dài-ngắn-ngắn-dài-dài. Có thể coi bản giao hưởng này
là Odyssey bằng âm nhạc của Beethoven.
Trong những năm đầu sau buổi công diễn đầu tiên, khán giả
luôn yêu cầu được nghe dàn nhạc trình bày lại lần nữa chương Allegretto.
Trong thời đại của các thiết bị nghe nhìn tối tân hiện nay chương nhạc này cũng
thường xui khiến người nghe nhấn vào nút Repeat trên chiếc điều khiển từ xa.
Chương nhạc gây ảnh hưởng một cách khác thường lên các nhà soạn nhạc thế hệ sau
như trong các chương chậm của Giao hưởng giọng Đô trưởng và bản Piano Trio giọng
Mi thứ của Schubert, Giao hưởng “Nước Ý” của Mendelshohn, “Harold in Italy” của
Berlioz và nhiều tác phẩm khác.
Khúc scherzo tốc độ Presto trong chương III càng
làm lộ rõ diện mạo vũ khúc của tác phẩm. Tiếp theo là một trio được chơi đến
hai lần như trong một số tác phẩm khí nhạc khác của Beethoven.
Chương kết Allegro con brio ở hình thức sonata tràn
đầy năng lượng và hứng khởi. Đoạn coda dài hơn cả phần trình bày và phần phát
triển với những hợp âm được chơi với cường độ cực mạnh (fff). Trong suốt bản
giao hưởng, có một bè âm thanh đặc biệt do cách sử dụng kèn horn của Beethoven.
Tác phẩm được viết ở giọng La trưởng, điều đã tạo ra vẻ rực rỡ không thấy có
trong các bản giao hưởng trước đó của ông.
Tuy nhiên không phải không xuất hiện những ý kiến trái chiều
về kiệt tác giao hưởng này. Friedrich Wieck, một thầy dạy piano nổi tiếng thời
bấy giờ, người có mặt tại các buổi luyện tập cho lần công diễn đầu tiên, đã thuật
lại, các nhạc công và những người không chuyên đều nhất trí rằng Beethoven hẳn
đã soạn bản giao hưởng trong trạng thái say xỉn. Carl Maria von Weber nhận định
rằng bè trầm hòa âm ở đoạn coda trong chương đầu chứng tỏ Beethoven “đã đến độ
vào nhà thương điên”. Đến thế kỷ 20, nhạc trưởng Thomas Beecham tỏ ý khắt khe với
chương III, ông nói: “Anh biết làm gì với nó đây? Cứ như là cả đám bò Tây Tạng
nhẩy xồ ra.” Còn chính tác giả, ngay trong buổi đầu công diễn tác phẩm đã khẳng
định: “Trong những tác phẩm hay nhất của tôi, tôi có thể tự hào chỉ ra bản giao
hưởng giọng La trưởng”.
Sáng tác thời gian này là Giao hưởng số 7 và Giao hưởng số
8 được viết trong vài tháng tại Tceplitz năm 1812: Cuộc truy hoan của nhịp điệu
và giao hưởng hài hước, các tác phẩm mà có lẽ ông đã tỏ ra tự nhiên nhất và
như ông nói, “thả cửa nhất” (aufgeknoepft) với những luân chuyển giữa đùa vui
và cuồng nộ, những tương phản bất ngờ, những chớp lóe rối mù và hùng vĩ, những
bùng nổ nhận chìm Goethe và Zelter trong kinh hãi và khiến ở miền Bắc Đức có
ý kiến cho rằng Giao hưởng giọng La trưởng là tác phẩm của một kẻ say xỉn. Quả
thực tác phẩm là của một người say song có sức mạnh thiên tài. Beethoven nói:
“Tôi là thần Bacchus ép được thứ rượu tiên ngon tuyệt cho loài người. Chính
tôi trao tặng con người tinh thần cuồng nhiệt thiên tiên.” Wagner viết: “Tôi
thật không rõ liệu Beethoven có muốn miêu tả một lễ hội Thần rượu ở chương cuối
hay không. Tuy nhiên tôi nhận thấy trong kermesse (1) hăng say này dấu ấn
Flandre (2) được di truyền của ông, cũng như tôi nhận ra gốc gác của ông trong
sự tự do táo bạo về ngôn ngữ và phong cách, thứ lạc lõng một cách kiêu ngạo ở
xứ sở của kỉ luật và lòng thần phục. Chẳng ở đâu sức mạnh tự do và bộc trực
hơn trong Giao hưởng giọng La trưởng. Đó là sự tiêu hao điên rồ thứ năng lượng
siêu phàm mà không có mục đích nào khác ngoài để cho vui, một thú vui của con
sông tràn bờ và gây ngập lụt. Trong Giao hưởng số 8, sức mạnh có kém phần
hùng vĩ hơn song lại lạ thường hơn và đặc trưng con người hơn, kết hợp bi kịch
với hài kịch, kết hợp một sức mạnh của Hercule với những trò chơi và những ý
thích thất thường của con trẻ.” Romain Rolland, Cuộc đời Beethoven. |
1. Kermesse (tiếng Hà Lan) là tên một ngôi làng thuộc vùng Flandre (ngày nay thuộc lãnh thổ ba nước Bỉ, Pháp, Hà Lan). Tiếng Anh và Pháp đã vay mượn từ này và dùng với nghĩa “lễ hội” (ND).
2. Ông nội của Beethoven là người gốc vùng Flandre. Ông đã theo học trường dạy hát của Bỉ và đến năm 1732 thì đến cư trú tại Đức (ND).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét