Dự báo thời tiết qua ca dao, tục ngữ Lao động sản xuất ra của cải vật chất bao giờ cũng là một quá
trình tương tác với điều kiện tự nhiên. Vì thế con người luôn luôn phải dựa vào
tự nhiên để vừa tận dụng, khai thác những mặt thuận lợi đồng thời cũng phải tìm
cách thích ứng, hài hòa với tự nhiên. Vi vậy việc khám phá để chinh phục và
thích ứng với tự nhiên, phục vụ nhu cầu tồn tại và phát triển luôn là mối quan
tâm hàng đầu của các cư dân nông nghiệp. Khi khoa học kỹ thuật chưa phát triển,
con người chỉ có thể quan sát thực tế để rút ra những quy luật nhằm thích ứng với
tự nhiên và vận dụng nó vào đời sống hàng ngày. Chính vì thế ca dao, tục ngữ phản
ánh về những hiện tượng khí hậu, thời tiết là một bộ phận quan trọng ra đời sớm
nhất thể hiện những chiêm nghiệm và dự báo thời tiết của cha ông ta từ ngàn xưa
để lại được lưu truyền trong kho tàng tri thức ca dao, tục ngữ của người Việt.
Để nương nhờ vào tự nhiên nhưng không hoàn toàn lệ thuộc vào
tự nhiên, con người phải hiểu được các cấu trúc và quy luật của yếu tố tự nhiên
để đề phòng và kịp thời ứng phó. Trong ứng xử với tự nhiên, một mặt con người
biểu thị sự quy phục, sợ hãi, nương nhờ vào tự nhiên nhưng mặt khác con người lại
thể hiện sự vươn lên nắm bắt, làm chủ các quy luật của tự nhiên.
Nhưng thái độ sùng bái, tâm lý nương nhờ thiên nhiên của cư
dân nông nghiệp được hiểu ra sao, đến mức độ nào không dễ gì có thể xác định được.
Việc thống kê để tìm ra tần xuất những câu có nội dung phản ánh thái độ của cư
dân với tự nhiên có thể giúp chúng ra phần nào hình dung được mức độ đó.
Thực tế thống kê cho thấy, trong số 411 câu ca dao, tục ngữ
nói về khí hậu thời tiết thì có 57 câu (chiếm tỉ lệ 14%) phản ánh nội dung con
người phụ thuộc, nương nhờ, vào tự nhiên. 354 câu (chiếm 86%) nói về kinh nghiệm
dự báo thời tiết. Chúng tôi tạm gọi loại này là con người làm chủ được tự
nhiên. Những kinh nghiệm này rút ra thông qua việc quan sát trực tiếp và quan
sát các sự vật trung gian.
1. Con người phụ thuộc, nương nhờ vào tự nhiên
Từ buổi bình minh của lịch sử, thiên nhiên là môi trường sống
thân thuộc nhưng cũng hết sức khắc nghiệt đối với con người. Rừng rậm hoang vu,
đầm lầy biển cả, mưa nắng thất thường… luôn là mối lo âu canh cánh trong lòng
người nông dân “Ba tháng trông cây không bằng một ngày trông quả”. Nhưng rồi
trước thiên nhiên - những đấng siêu nhiên đáng tôn sùng, người nông dân lại tự
động viên an ủi mình “Biết sự trời mười đời chẳng khó”. Vì vậy cách
khôn khéo nhất của người nông dân là gửi gắm lòng tin vào đấng tối cao là ông
Trời để cầu xin Trời đất phù hộ độ trì cho con người và vạn vật tốt tươi, mưa
thuận gió hòa. Họ luôn “Trông trời, trông đất trông mây, trông mưa, trông
nắng trông ngày trông đêm…”,” Ơn trời mưa nắng phải thì// Nơi thì bừa cạn,
nơi thì cày sâu…”, “Nhờ trời mưa thuận gió hòa // Nào cầy nào cấy, trẻ già
khuyên nhau// Chim, gà, cá, lợn, cành cau// Mùa nào thức nấy giữ màu nhà
quê”, Lạy trời mưa thuận gió hòa// Để cho chiêm tốt, mùa tươi em mừng//
Ngô khoai chẳng được thì đừng// Có nếp có tẻ trông chừng có ăn… Người Việt
cũng như nhiều cư dân nông nghiệp khác thường mang tâm lý phụ thuộc vào thiên
nhiên, kính sợ và phụ thuộc vào Trời.
Con số thống kê cho thấy trong tổng số 57 câu có nội dung con
người phụ thuộc vào Thiên nhiên, Trời đất đều bắt đầu bằng các động từ
có ý nghĩa cầu xin, trông mong và tỏ lòng biết ơn như: “Trông trời”, “Ơn
trời”, “Lạy trời” để cầu xin trời đất mang đến cho họ những điều tốt lành,
mưa thuận gió hòa.
Biểu đồ 1: Biểu thị hành động và đối tượng con người nương nhờ
vào thiên nhiên:
Mưa liên quan đến việc được mùa hay mất mùa trong sản xuất
nông nghiệp. Ánh sáng mặt trời thì cung cấp nguồn năng lượng cho cây trồng tiến
hành quang hợp để duy trì và phát triển sự sống. Tất cả đều ảnh hưởng trực tiếp
đến toàn bộ đời sống của cây trồng từ khi hạt nảy mầm, phát triển cho đến khi
cây ra hoa kết trái. Thiếu một trong ba yếu tố quan trọng đó sẽ dẫn đến mất mùa
hoặc năng suất kém. Chính vì vậy người nông dân đã nương nhờ và gửi gắm niềm
tin vào đấng siêu nhiên để mong ước cuộc sống ấm no. Mặc dù con người cũng phải
vận lộn để chinh phục thiên nhiên ”Ngăn đồng đổ nước ra sông”, để điều
tiết nước cho phù hợp với nhu cầu sinh trưởng của cây trồng, nhưng đến khi con
người cố gắng hết sức mà vẫn không được ông Trời đáp lại mà còn bị trừng phạt bởi
thiên tai, hạn hán, lũ lụt… thì họ chỉ còn biết oán trách, dỗi hờn và lo
âu: “Một mình lo bẩy lo ba/ Lo từ nắng lửa, lo ra mưa dầu”; “Trách ai bằng
trách ông trời”, “Trời nắng, trời gió, trời mưa mặc trời”, “Trách trời sao
chóng rạng đông,… Vì thế, mọi người mong sao cho được “Trời yên bể lặng” thì
mới được “yên tấm lòng”. Lòng mong mỏi, niềm hy vọng tha thiết đó đã được
thể hiện qua những câu ca dao “Người ta đi cấy lấy công// Tôi nay đi cấy
còn trông nhiều bề// Trông trời, trông đất, trông mây// Trông mưa, trông gió,
trông ngày, trông đêm// Trông cho chân cứng đá mềm// Trời êm bể lặng mới yên
tấm lòng”.
2. Con người làm chủ tự nhiên
Miền Bắc là nơi có bốn mùa, mùa nào cũng có những thử thách
khắc nghiệt đi kèm với những thuận lợi. Mùa xuân ấm áp cây cối tốt tươi cũng là
mùa của sâu bệnh. Mùa hè nắng nhiều sinh hạn hán, mưa lắm hay gây ra lụt lội,
mùa đông gió rét, sương muối tác hại đến vật nuôi, cây trồng… Bằng những chiêm
nghiệm, quan sát trực tiếp các hiện tượng thiên nhiên và những biểu hiện của
các vật trung gian người ta đã rút ra những kinh nghiệm có tính quy luật của
các hiện tượng làm biến đổi thời tiết, khí hậu giúp người nông dân biết trước để
góp phần hạn chế những tác hại của thiên tai và rủi ro trong sản xuất.
Qua số liệu thống kê cho thấy có 354 câu trên tổng số 411 câu
nói về khí hậu, thời tiết, chiếm 86% có nội dung về thời tiết với đầy đủ các
khía cạnh thể hiện con người đã cố gắng tìm cách để chinh phục và làm chủ thiên
nhiên. Trong đó, 76 câu (chiếm 21%) qua quan sát những biểu hiện của động vật,
51câu (chiếm 15%) qua quan sát những biểu hiện của thực vật, 227 câu (chiếm
64%) nói về các hiện tượng tự nhiên khác cùng tham gia vào dự báo thời tiết.
Để hạn chế được thiệt hại do thiên nhiên gây ra, con người đã
vươn lên nắm bắt các quy luật hoạt động của thiên nhiên trong không gian và
trong thời gian: “Làm ăn biết vận biết tuần, biết tuần, biết vận mười phần
lợi hơn”. “Biết tuần”, “Biết vận” là nói lên những kinh nghiệm dày dạn của
người nông dân. Vẫn biết “Gió mưa là việc của trời”, nhưng ông cha ta
đã nắm bắt được sợi dây liên hệ những việc của trời với các hiện tượng trên mặt
đất. Họ không chỉ trông trời mà còn trông đất, trông mây, trông mưa, trông gió,
trông ngày, trông đêm mà họ còn giải mã được những ký hiệu về hiện tượng thời
tiết để chủ động trong mọi công việc của nhà nông. Muốn làm chủ được thời tiết,
người nông dân đã dựa vào việc quan sát các biểu hiện của sự vật trung gian và
các hiện tượng tự nhiên để đoán định thời tiết rút ra những quy luật. Muốn làm
được điều đó, người nông dân đã có những cảm quan riêng của mình bằng cách quan
sát. Để hiểu sâu hơn ý nghĩa của những kinh nghiệm này, xin xem những phân tích
cụ thể dưới đây:
2.1 Quan sát các hiện tượng tự nhiên
Theo các chuyên gia về khí tượng, thủy văn các hiện tượng về
khí hậu thời tiết có thể chia thành 3 loại [1]: Hiện tượng xảy ra trong tầng khí quyển gần
mặt đất như: mây, mưa, gió, sương… Những hiện diện trong khí quyển
như dông, sấm, chớp… Những hiện tượng quang học trong khí quyển
như cầu vồng, quầng, tán… Tất cả những hiện tượng thiên nhiên đó đã
được phản ánh với mật độ khá dày trong kho tàng ca dao, tục ngữ về khí hậu thời
tiết.
Bảng 1: Các hiện tượng tự nhiên tham gia vào dự đoán thời
tiết:
Hiện tượng tự nhiên |
Số lượng (câu) |
Tỉ lệ (%) |
Tổng (số lượng/ %) |
||
Các hiện tượng tự nhiên tham gia vào dự báo thời tiết |
Hiện tượng ở tầng khí quyển gần mặt đất |
Mưa |
29 |
12.8 |
77/33.9% |
Nắng |
22 |
9.7 |
|||
Mây |
8 |
3.3 |
|||
Gió |
11 |
4.9 |
|||
Sương |
7 |
3.0 |
|||
Hiện tượng trong khí quyển |
Dông |
7 |
3.0 |
27/12.0% |
|
Sấm |
5 |
2.2 |
|||
Chớp |
15 |
6.6 |
|||
Hiện tượng quang học trong khí quyển |
Cầu vồng |
6 |
2.6 |
43/ 19.0% |
|
Quầng |
5 |
2.2 |
|||
Tán |
3 |
1.3 |
|||
Trăng |
12 |
5.3 |
|||
Sao |
6 |
2.6 |
|||
Ráng |
4 |
1.8 |
|||
Mống |
7 |
3.0 |
|||
Thời gian nông lịch |
Tháng |
29 |
12.8 |
29/13.0% |
|
Các hiện tượng khác |
51 |
22.1 |
51/22.0% |
||
Tổng |
227 |
100 |
227/100 |
Con số thống kê ở bảng 1 cho thấy người Việt tích lũy được một
kho kinh nghiệm làm căn cứ dự báo hết sức phong phú về tình hình thời tiết qua
mối quan hệ giữa các hiện tượng của tự nhiên. Con người có thể căn cứ vào các
hiện tượng trong khí quyển, hiện tượng khí quyển gần mặt đất, hiện tượng quang
học, thời gian nông lịch như “tháng”: và các hiện tượng xung quanh khác để
nhận biết được thời tiết sắp diễn ra như thế nào. Từ kết quả phân tích tư liệu
cho biết các hiện tượng khí quyển gần mặt đất như: mưa, nắng, mây, gió,
sương tham gia vào dự báo thời tiết, chiếm tỷ lệ cao nhất (33.9%) so với
thời gian nông lịch và các hiện tượng tự nhiên khác tham gia vào dự báo thời tiết
(22%). Chẳng hạn: Mặt trời có quầng thì hạn, mặt trăng có tán thì mưa, Mặt
trăng úa đỏ trời sắp có mưa, Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa, Nắng lắm thì
mưa nhiều, Sấm động gió ta;; Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm… Hay căn
cứ vào các hiện tượng quang học trong khí quyển như: “quầng, tán, ráng, vồng,
trăng, sao…” Ví dụ: Ráng mỡ gà ai có nhà thì chống; Nắng chóng trưa, mưa
chóng tối; Mống đông, vồng tây, không mưa dây cũng bão giật”; Trăng quầng
thì cạn (hạn hán), trăng tán thì mưa… Hiện tượng trong khí quyển như “Dông,
sấm, chớp”; chẳng hạn như: “Chớp đàng đông nước đồng tràn ngập, Chớp Đông
nhay nháy gà gáy thì mưa, Sấm ra cà trổ, Sấm tháng chín, nhịn ăn rau, Chớp bể
chớ mừng, chớp rừng chớ lo”. Người nông dân có thể xem các hiện tượng của
thiên nhiên cũng có thể dự báo được kết quả của mùa vụ, cây trồng “Cày ruộng
tháng năm, xem trăng rằm tháng tám”.
Trong số các hiện tượng tự nhiên tham gia vào dự báo thời tiết
thì mưa, nắng có tần số xuất hiện cao nhất so với các hiện tượng ở tầng
khí quyển gần mặt đất, chiếm 33.9%. Vì vậy người dân rất chú trọng quan sát đến
hai kiểu thời tiết này dưới nhiều góc độ. Tiếp đến là tần số xuất hiện của hiện
tượng chớp, gió, mây. Bởi vì tất cả những hiện tượng này có ý nghĩa quyết
định trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và nó xuất hiện thường xuyên trong thế
giới tự nhiên nên đã được ông cha ta quan sát để rút ra kinh nghiệm và đưa vào
lời ăn tiếng nói hàng ngày, gần gũi với đời sống của người dân. Những hiện tượng
đó có thể quan sát ở nhiều góc độ, nhiều biểu hiện khác nhau. Và điều đó cũng
chứng tỏ những biểu hiện báo hiệu trời mưa, nắng, gió được quan sát qua các kiểu
hiện tượng báo trước như: chớp, gió mây, mống, ráng, trăng, sao… luôn là đối tượng
tìm hiểu của người bình dân.
Thời gian nông lịch trong năm của người Việt từ ngàn xưa cho
đến nay được chia thành 12 tháng: từ tháng giêng đến tháng mười hai hay còn được
chia thành mùa: xuân, hạ, thu, đông. Theo đó, tất cả các hiện tượng thiên nhiên
diễn ra hàng ngày đều được đề cập tương đối đầy đủ trong đó. Điều này đã được
người nông dân đúc kết: “Qua giêng hết năm, qua rằm hết tháng”. Căn cứ
vào thời gian mà người nông dân quan sát, chiêm nghiệm thời tiết trong ngày và
trong năm “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, ngày tháng mười chưa cười đã tối”,
“Tháng bảy nước nhảy lên bờ”, “Tháng chín mưa rươi, tháng mười mưa cũ”, “Tháng
ba mưa đám, tháng tám mưa cơn”, “Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc,
tháng ba rét nàng Bân…Người dân Việt từ xa xưa đã quan sát hiện tượng để đưa ra
những nhận xét tinh tế trước sự biến đổi của thời tiết. Không chỉ có sự khác biệt
giữa mùa này, mùa kia mà còn có sự thay đổi rõ nét trong một mùa. Các tháng
trong năm được nhắc đến nhiều nhất đó là tháng giêng, tháng bảy,
tháng ba, tháng chin, tháng mười. Những hiện tượng thời tiết được
cha ông ta quan sát cụ thể, tỉ mỉ và phải chăng ngày nay có một nền chiêm tinh
học về dự báo thời tiết được kế thừa từ những tri thức dân gian của ông cha. Để
rồi từ đó mới phát minh ra những công cụ đo nắng, đo mưa, tính gió, tính mây để
dự báo thời tiết từng ngày cho con người như ngày nay.
Trong bảng thống kê các thực thể trong tự nhiên và các vật dụng
trong nhà cũng tham gia vào dự báo thời tiết. Những đối tượng được quan sát
chúng tôi xếp vào cột các hiện tượng khác có số lượng gồm 51 câu (chiếm 22.1%).
Những thực thể ngoài thiên nhiên và đồ vật hiện hữu xung quanh đời sống hàng
ngày của con người cũng đã có những biểu hiện ra bên ngoài mà con người quan
sát được như: ”Ao tù vẩn đục và hôi, bọt nổi lên nước thì trời sắp mưa”; “Chĩnh
đổ mồ hôi mưa trôi đầy đồng”; ”Đá đổ mồ hôi, mưa trôi đầy đồng”…
Dù có biểu hiện ở mặt này hay mặt khác nhưng tất cả các sự vật,
hiện tượng tham gia vào dự báo thời tiết đều có những biểu hiện nhạy cảm và gần
gũi với đời sống con người.
2.2 Dự báo thời tiết qua quan sát động vật
Việc quan sát động vật làm căn cứ cho dự báo thời tiết là một
trong những nội dung quan trọng được người Việt đề cập trong kho tàng ca dao, tục
ngữ. Tuy số lượng câu ca dao, tục ngữ không nhiều, chỉ với 76 câu, nhưng những
chỉ báo thu nhận được qua biểu hiện của động vật là rất quan trọng vì đó là những
đối tượng nhạy cảm với những giác quan có liên hệ chặt chẽ với tự nhiên. Các
loài động vật báo hiệu thời tiết được phản ánh qua ca dao, tục ngữ có thể phân
ra thành 5 nhóm như sau: Nhóm các loài chim, nhóm côn trùng, nhóm động vật
lưỡng cư, nhóm động vật dưới nước và nhóm bò sát.
Bảng 2: Động vật tham gia vào dự báo thời tiết:
Động vật |
Số lượng (câu) |
Tỉ lệ (%) |
Tổng (số lượng/ tỉ lệ%) |
||
Động vật tham gia vào dự báo thời tiết |
Nhóm các loài chim |
Én |
17 |
23.0 |
30/37.4 |
Cò |
6 |
8.0 |
|||
Sếu |
1 |
1.3 |
|||
Ác |
1 |
1.3 |
|||
Bồ câu/Cu cu |
3 |
4.0 |
|||
Nhóm côn trùng |
Kiến |
10 |
13.1 |
21/ 27.7 |
|
Chuồn chuồn |
5 |
6.5 |
|||
Ong |
2 |
2.6 |
|||
Đom đóm |
2 |
2.7 |
|||
Mối |
1 |
1.3 |
|||
Tò vò |
1 |
1.3 |
|||
Nhóm động vật dưới nước |
Cá |
13 |
17.1 |
17/24.1 |
|
Ốc |
3 |
4.0 |
|||
Cua |
1 |
1.3 |
|
||
Nhóm động vật lưỡng cư |
Cóc |
3 |
3.9 |
5/6.6 |
|
Ếch |
2 |
2.7 |
|||
Nhóm bò sát |
Tắc kè |
1 |
1.3 |
3/3.9 |
|
Rắn |
2 |
2.7 |
|||
Tổng |
76 |
100 |
76/100 |
Những loài vật gắn bó với đồng ruộng thường có những biểu hiện
dự báo về thời tiết. Hàng ngày trên cánh đồng của mình, người nông dân nhìn vào
những loài vật để cảm nhận sự thay đổi của thời tiết. Từ đó, họ có cách ứng dụng
thời tiết vào trong công việc canh tác của nhà nông cho phù hợp và kịp mùa vụ.
Trong số các con vật có khả năng báo hiệu thời tiết, được nhắc
đến nhiều nhất là nhóm các loài chim, chiếm tỉ lệ 37.4%, trong đó số lần nhắc đến
loài chim én chiếm tới 23%. Có thể én là con vật liên quan mật thiết đến hiện
tượng nắng, mưa. Chẳng hạn: “Én bay thấp mưa ngập bờ ao // Én bay cao mưa
rào lại tạnh, Én ra tháng ba, ngâu ra tháng bảy…”. Tiếp đến là nhóm côn
trùng (kiến, chuồn chuồn, ong, đom đóm, mối, tò vò) chiếm 27.7%; nhóm động vật
dưới nước (cá, ốc, cua) chiếm 24.1% đứng vị trí thứ ba là; nhóm động vật lưỡng
cư (cóc, ếch) chiếm 6.5% và cuối cùng là nhóm bò sát (tắc kè, rắn) chiếm tỉ lệ
thấp nhất là 3.9%.
Trong tổng số 16 loài vật tham gia vào dự báo thời tiết, sau
con chim én với tần số nhiều nhất là 17 lần là con cò, xuất hiện 6 lần (tỉ lệ
8.0%), con ác, con sếu xuất hiện ít nhất là 1 lần (1.3%). Con én là một loài
chim nhỏ trong tự nhiên, lông màu đen, cánh dài và nhọn, chân ngắn để có thể đậu
được nhưng không thể đi lại được trên mặt đất. Chim én bay nhanh (35m/s), thường
gặp nhiều vào mùa xuân. Vào những ngày cuối đông sang xuân, những đàn chim én
di trú để tránh cái lạnh của mùa đông. Để rồi khi xuân về, én cùng gió bay về
quê hương của mình và bắt đầu bước vào một cuộc sống mới. Ở Việt Nam, chim én
được coi là sứ giả của mùa xuân, mùa xuân và chim én là hai biểu tượng có quan
hệ mật thiết với nhau, nhất là ở nơi có khí hậu nhiệt đới như nước ta. Ở châu
Âu, chim én trở thành một hình ảnh biểu trưng cho sự hồi quy vĩnh cửu và bố cáo
về sự phục sinh. Trong thần thoại thế giới Celtic, chim én lại biểu trưng cho sự
phì nhiêu, sự luân phiên và sự đổi mới. Còn trong Đạo Hồi, chim én biểu trưng
cho đức lương thiện và là loài chim của thiên đường. Với khả năng nhạy cảm và
tinh tế của loài chim én, người Việt đã quan sát chim én để biết được diễn biến
của thời tiết sắp xẩy ra. Chim én đã được lưu truyền trong kho tàng ca dao, tục
ngữ người Việt về nội dung dự đoán thời tiết khá đậm nét.
Tần số xuất hiện đứng thứ hai sau nhóm các loài chim là nhóm
các con vật sống dưới nước: cá, ốc, cua xuất hiện 17 lần chiếm 24.1%.
Trong số đó cá (nói chung) là một con vật được nhắc đến nhiều nhất 13 lần (tỉ lệ
17.1%). Trong đời sống người Việt, cá là sinh vật quen thuộc và gợi liên tưởng
mạnh hơn cả. Với đặc điểm bản thể cá là một sinh vật mà đời sống gắn với không
gian nước rộng lớn, cá có khả năng báo hiệu sự thay đổi của thời tiết “Cá
ngoi mặt nước là trời sắp mưa, Gió bấc cá thu, sương mù cá đục, Mồng bốn cá đi
ăn thề, mồng tám cá về cá vượt vũ môn”…
Nhóm côn trùng gồm có 5 loài vật: kiến, chuồn chuồn,
ong, mối, tò vò tham gia vào dự báo thời tiết với tổng số xuất hiện 14 lần
(chiếm tỉ lệ 18.6%) đứng thứ 3 trong nhóm thực vật tham gia vào dự báo thời tiết.
Trong nhóm đó có chuồn chuồn xuất hiện nhiều nhất là chuồn chuồn 5 lần, kiến 3,
ong 2, đom đóm 2, mối và tò vò 1 lần. Chuồn chuồn trong thiên nhiên là một
trong những loài côn trùng có khả năng thể hiện giá trị thẩm mỹ cao của lớp sâu
bọ do có đôi cánh chập chờn với các loài hoa, với thiên nhiên khoáng đạt. Vì vậy
chuồn chuồn là loài vật rất nhạy cảm với thời tiết. “Chuồn chuồn bay thấp
thì mưa, bay cao thì nắng bay vừa thì râm”
Nhóm động vật lưỡng cư chỉ có 2 loại (cóc, ếch) và nhóm bò
sát (tắc kè, rắn) tham gia vào dự báo thời tiết. Đây là loại động vật rất nhạy
với thời tiết, nhưng tính dự báo của chúng khá đơn điệu nên cũng chỉ được nhắc
đến trong một số trường hợp.
2.3 Dự báo thời tiết qua quan sát thực vật
Nóng ẩm là điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển
cây trồng và vật nuôi ở nước ta. Không chỉ căn cứ vào các loài động vật cư dân
vùng đồng bằng Bắc Bộ còn dựa vào các loài thực vật để dự đoán thời tiết. Xin
xem bảng thống kê dưới đây:
Bảng 3: Thực vật tham gia vào dự báo thời tiết:
Thực vật |
Số lượng (câu) |
Tỉ lệ (%) |
Tổng (số lượng, %) |
|||
Thực vật tham gia vào dự báo thời tiết |
Cây trồng |
Cây lương thực |
Lúa |
18 |
35.0 |
22/42.7 |
Khoai |
4 |
7.9 |
||||
Cây ăn quả |
Nhãn |
3 |
5.9 |
12/23.8 |
||
Bưởi |
2 |
4.0 |
||||
Ổi |
1 |
2.0 |
||||
Dâu |
2 |
4.0 |
||||
Chuối |
1 |
2.0 |
||||
Sim |
1 |
2.0 |
||||
Trám |
1 |
2.0 |
||||
Cau |
1 |
2.0 |
||||
Cây hoa màu |
Dưa |
3 |
5.9 |
6/11.7 |
||
Cà |
2 |
3.9 |
||||
Mía |
1 |
2.0 |
||||
Cỏ cây (có trong tự nhiên) |
Cây |
(Rễ) si |
4 |
8.0 |
7/14.0 |
|
Tre |
1 |
2.0 |
||||
Xoan |
1 |
2.0 |
||||
Bàng |
1 |
2.0 |
||||
Cỏ |
Cỏ gà |
3 |
5.9 |
4/7.8 |
||
Rêu |
1 |
2.0 |
||||
Tổng |
51 |
100 |
51/100 |
Trong số các loài thực vật tham gia vào dự báo thời tiết, có thể chia ra thành 5 nhóm: Nhóm cây lương thực (lúa, khoai), nhóm cây hoa màu (dưa, cà, mía), nhóm cây ăn quả (nhãn, bưởi, ổi, dâu, chuối sim, trám, cau) nhóm cỏ cây (có trong tự nhiên) (cỏ gà, rêu, (rễ) si, tre, xoan, bàng). Nhóm cây lương thực tuy chỉ có mặt 2 loại lúa và khoai nhưng có tần số xuất hiện cao hơn cả 22/51 lần (chiếm tỉ lệ 42.7%), lúa xuất hiện 18 lần, khoai xuất hiện 4 lần. Điều này cũng dễ hiểu vì nền sản xuất của Việt Nam chủ yếu là sản xuất nông nghiệp trong đó cây lúa chiếm một vị trí rất quan trọng. Cây lúa rất gần gũi với người nông dân, lúa được coi là món ăn chính để nuôi sống con người. Vì vậy ngoài việc xuất hiện tên chính là lúa, chúng tôi còn thống kê được 23 lần xuất hiện với các tên của biến thể như: mạ, đòng đòng, thóc, gạo “Chớp đàng đông mưa dông mạ tốt; Trông mưa cho tốt lúa đòng // Cho khoai có củ, nạ dòng có con; Tre ngà trổ hoa, lúa mùa rồi hỏng // Tháng tám mưa trai, tháng hai mưa thóc, Tháng chín mưa rươi, tháng mười mưa mạ, Sấm động đằng Tây thì đầy bồ thóc,…
Các nhóm cây có tần số xuất hiện tiếp theo lần lượt là nhóm
cây ăn quả 12 lần với 8 loài cây khác nhau, chiếm 23,8%, Nhóm cỏ cây (nói
chung) xuất hiện 11 lần với 6 loại cây chiếm tỉ lệ 21.8%. Cuối cùng là loại cây
hoa màu với số lần xuất hiện là 6 với 3 loại cây trồng chiếm tỉ lệ 11.7%. Trong
nhóm thực vật, ngoài việc quan sát sự thay đổi của cây lúa, người nông dân còn
rất chú ý đến những biểu hiện của cây nhãn, cỏ gà, rễ si, dưa, cà, chuối, tre…
để dự báo thời tiết.
KẾT LUẬN
Từ những nhận định của các nhà nghiên cứu cho rằng: “Con
người luôn trông chờ vào thiên nhiên” nhưng qua khảo sát và phân tích tư
liệu ca dao, tục ngữ thì cho thấy con người thể hiện sự quy phục, nương nhờ vào
thiên nhiên chỉ chiếm có 14%. Những câu ca dao, tục ngữ có liên quan đến dự báo
thời tiết thể hiện con người vươn lên để nắm bắt được quy luật của thiên nhiên,
làm chủ thiên nhiên thì lại chiếm 86%. Điều đó cho phép tôi có nhận xét: Theo
tư duy thông thường con người luôn phải nương nhờ, trông cậy vào tự nhiên nhưng
trên thực tế Con người thể hiện luôn vươn lên nắm bắt quy luật để làm chủ
tự nhiên.
Con người phụ thuộc vào Thiên nhiên, Trời đất đều bắt đầu bằng
các động từ “Trông trời”, “Ơn trời”, “Lạy trời” để cầu xin trời đất
mang đến cho họ những điều tốt lành. Trong đó: Mưa, nắng là hai hiện
tượng có tần số xuất hiện cao nhất so với các hiện tượng tự nhiên tham gia vào
dự báo thời tiết.
Chim én và cá là con vật được nhắc đến nhiều
nhất trong số các con vật tham gia vào báo hiệu thời tiết. Vi chim én là con vật
liên quan mật thiết đến hiện tượng nắng, mưa; Cá là sinh vật quen thuộc và gợi
liên tưởng mạnh hơn cả so với các loài vật dưới nước khác. Trong số các loài thực
vật tham gia vào dự báo thời tiết thì cây lúa và những biến thể của
cây lúa như: mạ, đòng đòng, thóc, gạo xuất hiện nhiều nhất. Điều đó
chứng minh cây lúa không chỉ chiếm vị trí quan trọng. trong đời sống con người
mà còn cả trong dự đoán, báo hiệu thời tiết, nông lịch.
Có thể thấy tuyệt đại đa số những câu ca dao, tục ngữ có liên
quan đến tên gọi thực vật trên ruộng vườn và xung quanh nhà ở của người Việt đồng
bằng Bắc Bộ tham gia vào dự báo thời tiết còn hầu như các tên gọi thực vật ở
Nam Bộ không thấy xuất hiện. Điều đó càng khẳng định quá trình lịch sử của vùng
đồng bằng Bắc Bộ hình thành lâu đời hơn, xa xưa hơn đồng bằng Nam Bộ. Do đó những
loại cây vùng Bắc Bộ gắn bó hơn với đời sống của người Việt so với các loài thực
vật được canh tác ở vùng đất mới khai khẩn sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Trần Thúy Anh (2009), Ứng xử cổ truyền với tự nhiên và
xã hội của người Việt châu thổ Bắc Bộ qua ca dao, tục ngữ, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
2. Nguyễn Duy Cách (2001), Tri thức về lao động sản xuất
qua ca dao, tục ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 4, tr.15.
3. Nguyễn Nghĩa Dân (1987), Đạo lý trong tục ngữ, Tạp chí
Văn học, số 5, tr. 57-66.
4. Chu Xuân Diên (2004), mấy vấn đề văn hóa và văn học dân gian
Việt Nam, Nxb Văn nghệ TPHCM, tr. 282.
5. Vũ Dung, Thúy Anh, Vũ Quang Hào (1997), Từ điển thành ngữ
và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
6. Vũ Minh Giang (2009), Lịch sử Việt Nam truyền thống và
hiện đại, Nxb Giáo dục.
7. Diệp Đình Hoa (2000), Người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
8. Phan Huy Lê (chủ biên), (1997), Cuộc sống nông thôn ở
châu thổ sông Hồng, Nxb Thế giới, Hà Nội.
9. Đỗ Kim Liên (2006), Trường ngữ nghĩa về cây lúa và các sản
phẩm từ lúa phản ánh đặc trưng văn hóa lúa nước trong tục ngữ người Việt, Tạp
chí Văn hóa dân gian, số 4 tr. 34-39.
10. Nguyễn Trọng Lực (1949), Tiếng nói của đồng ruộng (hay
là nghề nông Việt Nam qua ca dao, tục ngữ), Nxb Khoa học Xã hội. H
11. Hoàng Hữu Triết, (1973), Bước đầu tìm hiểu về khí tượng
dân gian Việt Nam , Nxb Giáo dục, H, tr. 5
12. Trần Quốc Vượng (2005), Môi trường con người và văn
hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
[1] Hoàng Hữu Triết,
(1973), Bước đầu tìm hiểu về khí tượng dân gian Việt Nam , Nxb Giáo dục,
H, tr. 5.
31/5/2019
Nguyễn Thị Phương Anh
Theo http://vsl.edu.vn/
Nguyễn Thị Phương Anh
Theo http://vsl.edu.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét