«L’érotisme est une poétique corporelle et la poésie
une érotique verbale
(Tính nhục cảm là một thi pháp thân thể
và thi ca là một nhục cảm pháp ngôn từ)» (Octavio Paz)
Nhục cảm, trước hết, không phải là thân xác.
Vì bên cạnh cái thô nguyên, trần trụi của từ nhục (肉) còn có cái phóng khoáng, trữ tình của từ cảm (感): tất cả trình độ văn minh của một tập thể hay đẳng cấp một
tác phẩm, ở góc độ này, đều tùy thuộc vào sự chuyển hóa (transfiguration) của
thân xác dưới sức mạnh của cảm thức.
Trên con đường đi tìm sự thật nhân tính và chinh phục tự do của
mỗi cá thể, nhục cảm từ lâu đã là vùng cấm địa. Vì thế, con người phải vượt qua
những định kiến, thành kiến - trước tiên là ở chính mình -, phải đạp đổ những
thành lũy đạo đức, thật hoặc giả, bởi xã hội lúc nào cũng được rào quanh bằng mặt
nạ. Một nỗ lực không được phép ngưng nghỉ trong hành trình hướng về chân lý.
Tại Việt Nam, trên dòng thời sự đó đây, có không ít những sự
kiện đáng chú ý bắt nguồn từ nhục cảm. Theo sau, thường là những phản ứng ồn
ào, đầy ác ý, nhằm bóp chết trong trứng nước mọi toan tính phá lệ, mọi «mưu đồ
lật đổ» cái thường nhật. Bởi không riêng gì chế độ, mà ngay cả ở mức cá thể -
khi phải đối diện với chính mình - người ta vốn sợ sự thật. Nhất là khi nó đến
tự bên trong, từ sâu thẳm cõi lòng…
Nhưng nhục cảm xuất hiện không phải chỉ mới đây, mà ngay từ
khi có loài người. Và - đối với nó - hội họa, điêu khắc rồi văn chương, triết học,
đã lần lượt tích cực đóng vai trò chứng nhân, khai hóa, sáng tạo, làm tiền đề
hoặc khơi nguồn cho nhiều phát hiện quan trọng trong các ngành nhân văn, đặc biệt
là phân tâm học, cũng như một số bộ môn khoa học thực nghiệm, thuộc vào hàng
tiên tiến nhất hiện nay, lấy con người làm đối tượng.
Để gạn đục khơi trong, vượt lên trên những bức xúc có thể bị
gây ra bởi nạn khai thác thị hiếu tầm thường, xin mời bạn đọc hãy thử cùng nhìn
lại hiện tượng nhục cảm qua một số trường hợp khá tiêu biểu ở nước ta, trước
khi đối chiếu với cách tiếp cận thân xác ở những chân trời khác - chủ yếu là
qua các hệ quả đáng ghi nhận trên phương diện nghệ thuật, tư duy và tri thức của
họ - nhằm cuối cùng tiến tới một cái nhìn có cơ sở, rộng thoáng và nhân bản
hơn, về vấn đề này.
I. Một vài ví dụ biểu hiện nhục cảm tại Việt Nam
«Ngày 20/11, ngày Nhà giáo Việt Nam, một nhóm sinh viên Học
viện Ngân hàng Hà Nội đã post lên Facebook những bức ảnh chụp kỷ yếu của khoa
mình. Tạo dáng khác lạ nhưng rất phản cảm: nữ sinh dạng chân, vạch áo cử nhân
khoe thân trá hình trước Hoàng thành Thăng Long, một tập thể lớp xếp chữ
"SEX", phía sau là cột cờ Hà Nội»1.Sinh viên Học viện Ngân hàng xếp hình tại Hoàng thành Thăng LongCâu chuyện «nổ» ra năm 2013 trên báo chí như vậy. Đúng là
đã khá xa rồi, nhưng - đến từ thế hệ tuổi trẻ hôm nay - nó là một sự kiện xã hội
ít nhiều có tính «lịch sử», đáng nói ở nhiều khía cạnh: một sự táo bạo mang
chất đột phá về đề tài, phong cách và hoàn cảnh thể hiện.
Một bên chữ SEX, một bên cột cờ! «Cú sốc» tương đối dễ hiểu
đối với dư luận trong xã hội Việt Nam vốn được xem là truyền thống. Song, đáng
sốc và đáng tội hơn nhiều, chính là sự kiện quái gỡ được mô tả rất ngắn gọn: «chiều 22/11, A83 bộ Công An sẽ làm việc với nhà trường».1
Chính vì vậy, trên Blog Đoan Trang 2, người ta được đọc ngay
sau đó những phân tích chí lý về tình huống «dư luận của đất nước vốn tìm kiếm
từ khóa “sex” nhiều nhất thế giới này đã ném một núi đá lên đầu các bạn sinh
viên». Thông tin trong phần đầu câu tuy có thể không hoàn toàn chính xác về
con số sắp hạng thật sự3 nhưng vẫn rất thích đáng về nội dung cốt yếu, bởi nó đặt
mọi người trước một thực tế không thể chối cãi trong đời sống hừng hực ham muốn
- lại thêm đầy giả dối, mâu thuẫn giữa cái tôi với cái ta - ở thời đại internet
hiện nay và, do đó, đáng suy ngẫm.
Tác giả bài viết dưới bút danh Nguyễn Anh Tuấn đã nghiêm túc
phản biện, bác bỏ từng điểm một trong lập luận kết tội các sinh viên «có hành
vi đi ngược lại thuần phong mỹ tục» ngay giữa «Hoàng Thành là nơi linh thiêng» ấy. Trung thành với «ngữ cảnh» câu chuyện và mượn thủ thuật châm biếm diễu nhại
rất ư «hậu hiện đại», tác giả đã thẳng tay kết thúc bằng một gợi ý «phản đòn» đích đáng, đầy… ép phê:
«Nếu các bạn sinh viên kể trên đọc được những dòng này, hy vọng
các bạn nghĩ đến khả năng xếp thêm chữ FUCK, dành tặng cho tất cả, nhất là cho
cái phòng PA83 đang muốn đè bẹp quyền tự do biểu đạt của các bạn».
Trong cùng bối cảnh và gần như cùng khuôn khổ phạm trù, những
cuộc tranh luận gần đây hơn về tranh ảnh lõa thể 4-6 - tuy không «ấn tượng» bằng,
nhưng nằm ở một bình diện cao và rộng hơn - cho thấy nhiều điều không kém phần
ý nghĩa.
Khởi đầu từ sự kiện Thông tư số 1/2016 của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch đặt ra những quy định cấm đoán rất tùy tiện về cách thể hiện,
trình diễn đối với một số bộ môn bị coi là «nhạy cảm», các ý kiến chung - kể
cả của nữ giới5 - đã vạch trần tính chất hão huyền, phi lý, trong ý đồ của giới
«lãnh đạo văn hóa» nhất mực muốn đi lùng soát nhằm thủ tiêu mọi dấu hiệu «khả
nghi» của nhục cảm cho kỳ được, dĩ nhiên cùng với những phản ánh nghệ thuật của
nó: những ý đồ mà ngay trong chính họ, mới đây, có người cũng đã phải công nhận
là do mắc «bệnh quyền lực».7
Nhưng dù gì đi nữa, Bộ «Văn Hóa Du Lịch» và cái Phòng PA83
kia làm sao có thể chạm được đến tinh thần bay bướm của một Bùi Xuân Phái chẳng
hạn, thể hiện qua loạt tranh ông đã từng ngẫu hứng cho hội họa theo thơ Hồ Xuân
Hương leo đỉnh Bồng Lai 8?Họa phẩm Bùi Xuân Phái theo cảm hứng từ bài «Tranh
hai Tố nữ» của Hồ Xuân HươngLàm sao họ có thể đi ngược lại những sự thật tâm lý xã hội
rành rành, những khát khao dân dã, hồn nhiên xưa cũng như nay, bộc lộ qua nỗi
háo hức của quần chúng hàng năm đổ xô đi xem lễ hội phồn thực 9? Cảnh người đi xem lễ hội Trò Trám tại xã Tứ Xã,
huyện Lâm Thao (Phú Thọ)Chẳng lẽ cái Bộ Văn Hóa… Du Lịch quá rành rỏi này lại không
biết đến hình tượng nam nữ giao hợp nổi tiếng trên thạp đồng Đào Thịnh được
chưng như một «quốc bảo» tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Hà Nội, hay những
linga/ yoni đặc thù vẫn kiêu hãnh tồn tại ở nhiều vùng đất nước 10?Linga - Yoni tại tháp Pô Sah Inư(Phan Thiết) được xây dựng từ thế kỷ (tk) IXThạp đồng Đào Thịnh (có niên đại
~ 2500/ 2000 năm)Lại càng khó hơn nữa cho họ, nếu cứ muốn… cắm đầu phủ nhận những
bằng chứng lịch sử, đặc biệt được khai quật dưới ngòi bút sắc bén của một Tạ
Chí Đại Trường qua loạt bài «Sex ng» trên cái nơi mà họ (làm ra vẻ trịnh trọng) gọi là «Hoàng Thành linh thiêng» ấy!.
Đó là chưa nói đến địa hạt văn học mênh mông (mà chắc mười
cái Bộ «Văn Hóa Du Lịch» và Phòng PA83 kia cũng không sao bén mảng tới nổi,
hiển nhiên do thiếu trái tim và bị quá tầm12,13): đất màu giao thoa giữa hư cấu
và hiện thực, nó là địa đàng kỳ hoa dị thảo của muôn loài chữ nghĩa, mà trong
đó có biết bao hoa thơm cỏ lạ đã vươn lên từ chính những xuyến xao nhục cảm…
Nhưng nói cho cùng, ngay trong xã hội dân sự cũng không thiếu
kẻ thích chưng… bình phong mỹ tục, mà ta chẳng lạ gì. Trước đây, ngay một cây
bút uy tín như Nguyễn Văn Trung, khi xuất bản cuốn Ca tụng thân xác (Sài Gòn,
1967) cũng đã từng bị gán cho tội «viết khiêu dâm» (nên mới có một Tam Ích phải
lên tiếng bênh vực13). Mặc dù, vào thời đó, Cung Tiến dưới bút hiệu Thạch
Chương - theo Nguyễn Vy Khanh15 - đã từng đi trước và đi xa hơn nhiều, trong bài
«Giới thiệu một nhận thức siêu thực về nghệ thuật» (Sáng Tạo, bộ mới, số 5,
11-1960, tr. 97-102) với lời tuyên bố: "Chúng tôi muốn quay lại vũ trụ
hoang sơ dục tình nguyên vẹn mà tâm hồn mỗi kẻ còn trinh như sữa. Nhưng là cái
tinh khiết đáng sợ của con bò rừng. Nghệ thuật hôm nay là sự biểu lộ một
"furie du total", một tiếng gọi quay trở về rừng sâu thẳm mà ở đó còn
vẳng lên những tiếng cười điên mê, những tiếng la cuồng dại vọng về từ trăm thế
kỷ của bản năng thuần túy […]».
Ở Miền Nam trước 1975 có bài Hạ Hồng cũng ví von những câu «trần truồng yêu nhau trong trời đất, mùa hè của uyên ương», nhưng dẫu sao cái
phóng túng nổi tiếng ấy của Phạm Duy, ít ra là qua câu hát, vẫn không thể nào
sánh được với tuyên ngôn táo bạo - như một mặt khác nổi trội, nổi loạn - của
tác giả những Thu Vàng, Hoài Cảm, Hương Xưa.
Ngược dòng thời gian thêm nữa, ta sẽ gặp một Vũ Trọng Phụng sừng
sững trong vị trí độc đáo của ông trên văn đàn 16-18. Lập trường tiến bộ, nếu
không muốn nói là cách mạng, của con người tài hoa này - đặc biệt trên chủ đề
nhục cảm17 - đã khiến ông phải chịu bao «giông tố» trong hoạt động nghề nghiệp,
nhưng đồng thời cũng đã khách quan cứu vãn danh dự cho trí thức Việt Nam trong
cuộc tranh đấu chung nhằm bảo vệ những giá trị phổ quát, bị chà đạp chẳng những
ở thập niên 30 thế kỷ trước mà ngay cả bây giờ: độc lập tư duy, đa nguyên tư
tưởng, tự do sáng tác và sự thấu cảm với con người.
Hãy nghe nhà phê bình văn học Thụy Khuê nhận định:
«Vũ Trọng Phụng không phải là một tác giả dâm ô, kích dục,
ông chỉ là nhà văn đầu tiên dám đề cập đến vấn đề xác thịt và tính dục của con
người mà điều kiện viết của thập niên 30 cho là những cấm kỵ».17
Vâng, không phải ai cũng có thể nói được như thế - nhất là từ
một đại diện phái nữ - về họ Vũ, mà những lời lẽ trong Thay lời tựa của tiểu
thuyết Làm đĩ (1936) có thể không làm vừa lòng một số người19, kể cả vào thời
điểm hôm nay:
“Vì sao người ta lại coi tình dục là không quan trọng, là điều
nhơ bẩn? Sao người ta lại cam tâm ngu dốt như thế, lại đạo đức giả đến như thế? Sao lại không dám nói lên cái sự nó vẫn ám ảnh hết thảy mọi hạng người? Sao
lại không dám vứt bỏ cái sự hổ thẹn vô lý để giảng dạy về những bộ phận sinh dục
là những cái mà đấng Thượng đế dám ban cho nhân loại mà không hổ thẹn? Nói hay
im, bảo nhau biết điều hòa cái dâm để tô điểm cuộc đời, hay là cứ mặc quách để
cái dâm của loài người làm loạn loài người, ấy chỉ do đó mà ra sự hưng thịnh,
suy của nòi giống?”
Chính vì vậy, đánh giá sau đây có lẽ là đóa hoa đẹp nhất mà
Thụy Khuê đã xứng đáng dành cho tác giả Số đỏ:
«Vũ Trọng Phụng là nhà văn đã vẽ nên Con người toàn diện
(L'homme total) theo nghĩa của Sartre, nghĩa là ông nhìn thấy toàn diện mọi khía
cạnh của con người, của mọi hạng người, như trường hợp Nguyễn Du».17
Con người toàn diện ấy không những được vẽ nên trong văn
xuôi, mà cả trong thơ. Nhờ đó mới hé lộ phần góc khuất thường lẫn chìm trong
bán ảnh mộng - thực, nơi trú ngụ của khát khao ước muốn, dưới muôn dạng xuân thì,
mà những vần điệu tài hoa của thi sĩ họ Hàn đã hơn một lần làm thành bất tử:
“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi” (Bẽn Lẽn) 20
Hoặc:
“Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”… (Thức khuya) 21
Chạm chiếc đũa thần nhà thơ, nhục cảm bỗng chốc hóa ra những
tuyệt tác gợi tình trong thi ca hiện đại, mà Bích Khê - ngôi sao xứ Quảng - là
«nghệ nhân» hàng đầu, được ngay chính Hàn Mặc Tử ngưỡng mộ và phong cho danh
hiệu thi sĩ thần linh. Không nên quên rằng tác giả Tinh huyết là người đầu tiên
- và có lẽ duy nhất - đã có một tuyên ngôn nghệ thuật chân thành và triệt để,
vinh danh nhục cảm như nguồn lạc thú vô biên, vô giá của con người:
“Thơ lõa thể! Giai nhân tuần trăng mật
Nữ thần ơi! Ta nô lệ bên người” (Duy tân)
Tuyên ngôn đó, có thể đến từ một cơn mơ:
“Ôi đi! Đoàn tiên lột khỏa thân
Hoan hô xác thịt chiếm ngôi thần” (Mộng lạ),
hay bộc phát tự nhiên, như khi chàng đối diện với bức họa khỏa
thân gợi ra một Giáng Kiều diễm tuyệt trong Bích Câu Kỳ Ngộ:
“Hai vú nàng! Hai vú nàng! Chao ôi!
Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng” (Tranh lõa thể),
cũng như có lúc nó được tung hô lên thiên đỉnh, giữa bao la
non nước:
“Có ai biết trên cao
Da trời màu thịt sứa
Da trời se chất sữa
Truyền cảm hứng mênh mông” (Ngũ Hành Sơn - bài hậu).
Sóng nhục cảm truyền khắp không gian, đến như trời cao cũng
phải hiện nguyên hình da thịt là vậy. Cho nên, ta chỉ có thể đồng tình với phát
biểu sau đây của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên trong hội thảo Bích Khê tại Quảng
Ngãi, năm 2006:
“Thân xác, nhục thể tắm gội trong một tâm hồn mang khí vị thần
linh của thi sĩ đã biến thành hào quang lung linh. Thơ lõa thể của Bích Khê đã
phát quang như vậy. Và đó là phép thơ riêng của ông. Một phép thơ đã để lại những
lời thơ đầy hơi hám, nghĩa là có mùi vị, nghĩa là không bị tiệt trùng, nghĩa là
sống, mà Bích Khê tin chắc là tay khách đa tình sẽ chuyển trao”. 22
Nhục cảm, mà thi sĩ là thiên sứ loan truyền, đã gợi hứng cho
nhiều nhà phê bình đương đại. Trong số đó, Trần Đình Sử có lẽ là người đầu tiên
đã du nhập vào văn học Việt khái niệm lẫn thuật ngữ «ngôn ngữ thân thể», dựa
đặc biệt trên nền tảng hiện tượng luận của Merleau-Ponty kết hợp với quan điểm
xã hội học mới đây của John O'Neill. Họ Trần nhận xét: «Bích Khê là nhà thơ
có ngôn ngữ thân thể táo bạo nhất, mới mẻ nhất […]. Tất cả các phần thân thể
trong thơ Bích Khê đều trở thành ngôn ngữ của đam mê, khoái lạc, của mơ mộng, ước
ao, của cái đẹp trong trắng và vĩnh viễn». 23
Tuy chỉ đánh giá rất nhẹ nhàng rằng «Bích Khê có thể là nhà
thơ muốn bước qua cấm kỵ», Trần Đình Sử đã xuất sắc đi tới một công thức bén
nhọn, dễ ăn sâu: «quan niệm truyền thống đã lấy cái dâm mà che mất cái đẹp,
nhà thơ muốn qua cái dâm nhìn ra cái đẹp trần gian».
Trong cuộc hòa ca thú vị đó giữa các chuyên gia, Thụy Khuê -
qua một tiểu luận giàu ý sắc sảo về nhà thơ núi Ấn sông Trà - cũng đã tỏ ra nhất
trí với các đồng nghiệp nam và đồng thời nêu bật thêm hai khía cạnh tự do và hiện
đại, có ý nghĩa vừa như là thuộc tính vừa như là động lực của nhục cảm:
“Chàng đã vượt ra trên lễ giáo cổ truyền để tiến tới tự do
nghệ sĩ, dám phô bày nhục cảm xác thịt của mình trên trang giấy: Tú Uyên đã
"hiện đại hóa tư tưởng" của mình qua thơ Bích Khê; Bích Khê nói hộ
người xưa những ẩn ức dục tình của họ bằng tiếng thơ đời nay”. 24
Ẩn ức tình dục, đó cũng là một đề tài được đề cập khá nhiều
trong văn chương Việt những năm gần đây 23-25. Nếu Đoàn Cẩm Thi, trong một bài
viết năm 2004,25 chỉ đưa ra những nhận xét khá chung chung, như việc «các tác
giả đều tập trung phân tích những tổn thất do chiến tranh gây ra về mặt tình
yêu và tình dục» thì Nguyễn Huy Thiệp, sau đó, đã nói rõ ràng «phải ghi công
cho các nhà văn nữ với việc khai hóa đề tài tính dục» 25: một lần nữa, ta lại
được chứng kiến vai trò tiên phong của phụ nữ Việt Nam.
Họ Nguyễn nêu đích danh «người đầu tiên có những đóng góp
đáng kể là Phạm Thị Hoài với một loạt truyện ngắn như “Năm ngày”, “Thuế biển”,
“Chín bỏ làm mười” v.v…». Tuy nhiên, ông cho rằng «lối viết “gia giáo” của Phạm
Thị Hoài vẫn là một lối tiếp cận từ xa, sex trong tinh thần chữ nghĩa nhiều hơn
là ở những cảm giác trực tiếp».
Điều này tương phản hẳn với Đỗ Hoàng Diệu, mà Nguyễn Huy Thiệp
nhìn nhận là đã tạo ra, qua tác phẩm Bóng đè, «một sự bứt phá hiện đại và quyết
liệt hơn ở trong ý thức của người viết về đề tài này».
Gần đây hơn, tiểu thuyết Tình cát của Nguyễn Quang Lập được
Nguyễn Trọng Bình đặc biệt chú ý và dành cho một tiểu luận 27 với những phân
tích đi vào chiều sâu. Ông cũng ghi nhận việc tác giả «đã bàn trực diện và quyết
liệt hơn về những ám ảnh, mặc cảm cùng những ẩn ức về dục tính của người Việt
Nam trong chiến tranh». Nhưng nổi bật hơn là giả thuyết mà nhà phê bình đề xuất,
ở mức độ xã hội và lịch sử Việt Nam, về mối quan hệ giữa ẩn ức tình dục và sự «tha hóa, băng hoại thậm chí là vô đạo trong hành xử, ứng xử» của con người, một
mối quan hệ không phải không có cơ sở lý thuyết - chủ yếu được xác lập từ Freud
- mà ta sẽ đề cập sau.
Nhìn chung như vậy, trên dải giang sơn chữ S quen thuộc - từ
câu chuyện sinh viên «tạo dáng khác lạ» trên kia đến cái «bi kịch của đất nước
và con người» như Nguyễn Trọng Bình nhận định -, nhục cảm, quả thật, mang dáng
dấp một địa đạo xuyên suốt đời sống vật chất và tinh thần từng cá thể.
Nó râm ran kêu đòi quyền sống. Nó lật tẩy các chiêu bài giả dối
nhân danh đạo lý làm ngạt thở xã hội và đè nén con người, đi ngược với chiều hướng
thế giới cởi mở, với bản chất nhân loại hồn nhiên.
Bởi từ nhiều nơi trên trái đất, bất chấp những ý thức hệ dù
thuộc loại toàn trị khống chế hay gật gù «phải đạo», nhục cảm - với tư cách
là bộ phận cấu thành của nhân tính, với chiều kích văn hóa không chối cãi -, đã
để lại trong lịch sử loài người một thông điệp nhất quán nồng nhiệt, lạc quan,
ngang hàng với sự sống, qua những dấu ấn nghệ thuật và tư tưởng vừa táo bạo,
phong phú vừa sinh động, vượt thời gian.
Chú thích:
1/ Sinh viên xếp chữ phản cảm ở Hoàng thành Thăng Long
(22/11/2013), http://ione.vnexpress.net/
2/ SEX chưa rõ nghĩa..., Nguyễn Anh Tuấn (30/11/2013), http://www.phamdoantrang.com/
3/ Việt Nam thuộc top các quốc gia tìm kiếm "sex"
nhiều nhất thế giới,
http://www.doisongphapluat.com/
4/ Ảnh nude có cần thiết đối với đời sống cộng đồng?, http://vov.vn/
5/ Khỏa thân hay nude nghệ thuật? (27/05/2016), http://antg.cand.com.vn/
Đặc biệt có phát biểu của nữ nhạc sĩ Giáng Sơn.
(xem thêm Thế nào là tác phẩm 'nude lành mạnh'? ở
http://thanhnien.vn/
• Đáng mừng là phản ứng của xã hội dân sự đã thành công trong
việc khiến nhà cầm quyền cuối cùng phải đi đến việc hủy bỏ cái Thông tư số 1/2016 quái gỡ: http://thanhnien.vn/
6/ Làm sao để cảm nhận vẻ đẹp của hình ảnh khỏa thân trong
nghệ thuật?, Uyên Huy (viết trên Tạp chí Sông Hương, đăng lại ở: http://reds.vn/
7/ Cần bỏ “bệnh quyền lực” trong quản lý văn hóa!, http://laodong.com.vn/
8/ Đỏ mặt xem tranh Bùi Xuân Phái minh họa thơ Hồ Xuân Hương, http://reds.vn/
“Đó là bộ tranh của họa sĩ Bùi Xuân Phái vẽ theo ý
thơ của Hồ Xuân Hương, được cố danh họa thực hiện từ năm 1982 đến 1986. Bộ
tranh này hiện do người con trai của ông là họa sĩ Bùi Thanh Phương lưu giữ. Gầy
đây, nhiều tác phẩm trong bộ tranh đã được giới thiệu trên mạng”
9/ Đu cửa miếu Đụ Đị xem “chuyện ấy” lấy may (8/2/2017),
http://baotiepthi.com/
10/ a- Một ví dụ Linga-Yoni loại thường:
http://nld.com.vn/; trường hợp một Mukha - Linga trong ngôi tháp chính thờ vua Po Klong Garai
(1151-1205) ở Ninh Thuận: Mukhalinga, Tháp Chăm Ninh Thuận, Trần Tấn Vịnh,
Heritage (Vietnam Airlines magazine), tháng 12/2016, tr.107-108); http://www.vncgarden.com/;
Xem thêm ở: http://www.universalis.fr/encyclopedie/linga/
b- Về thạp đồng Đào Thịnh, xem chi
tiết và niên đại ở
http://www.dsvh.gov.vn/; hình trong bài được trích từ:
http://kienthuc.net.vn/
11/ Sex Và Triều Đại[I],
https://www.vanhoanghean.com.vn/, Tạ Chí
Đại Trường (viết cho Văn học số 195, tháng 7/2002, đăng lại trên mạng vào
tháng 3/2014) […] Sex Và Triều Đại [IV], https://www.vanhoanghean.com.vn/
12/ Một tựa đề tương đối khôi hài cho một thực tế ít đáng nực
cười hơn: Sách vi phạm thuần phong mỹ tục: phạt cũng... bí mật!
(28/9/2016), http://www.thesaigontimes.vn/
13/ Một triệu chứng khác cũng phát ra từ cùng ngòi bệnh lý:
Phạt nhạc cấm, khởi đầu của ‘Cách mạng Văn hóa’ ở Việt Nam?
http://www.voatiengviet.com/
14/ Văn học hiện tượng luận có phải là văn học khiêu dâm
không?, Tam Ích, Đặc san Văn, số 1, tr. 31-48 (Sài Gòn,1967), đăng lại trên mạng
ở: http://www.talawas.org/
15/ Tản mạn về dục-tính và nữ quyền, Nguyễn Vy Khanh, http://www.vanchuongviet.org/
16/ VŨ TRỌNG PHỤNG - TÀI HOA BẠC MỆNH, ĐỖ NGỌC THẠCH,http://newvietart.com/
17/ Mặt khuất của con người: cái dâm và cái ác trong tác phẩm
của Vũ Trọng Phụng, Thụy Khuê, http://thuykhue.free.fr/
18/ Văn học và ngữ cảnh văn hóa, Cao Kim Lan (11/11/2010) http://toquoc.vn/
“Khi tiếp nhận văn học được coi là một tiêu chí quan trọng để
định giá một tác phẩm văn học nghệ thuật, thì có thể nói những cách hiểu khác
nhau về tác phẩm của Vũ Trọng Phụng tuy tạo ra những xung đột (đôi khi kéo theo
những định kiến thật sai lầm), song nó lại là cánh cửa để ngỏ cho những cơ hội
phát hiện những giá trị mới từ những mã ngôn ngữ, mã nghệ thuật và văn hóa kết
tinh ở trong đó”.
19/ Xem thêm để nắm bối cảnh: “Để đáp lời báo Ngày nay: Dâm
hay không dâm?”, Vũ Trọng Phụng (Báo Tương lai, số 9, ngày 25/3/1937); đăng lại
trên mạng ở: http://chuyenvanlqd.blogspot.fr/
20/ Xin được nêu ra đây chỉ vì nó chứng tỏ mối quan tâm còn
có đó và được cập nhật: Trữ tình gợi cảm trong điên cuồng đau thương
(22/03/2017), http://news.zing.vn/
21/ Mời đọc những nhận xét thâm thúy của Thụy Khuê trong tiểu
luận
Hàn Mặc Tử, http://thuykhue.free.fr/
22/ Bích Khê, “thi sĩ thần linh” - “thơ lõa thể”, Phạm Xuân
Nguyên, http://www.talawas.org/
23/ NGÔN NGỮ THÂN THỂ, MỘT PHƯƠNG DIỆN VĂN HÓA (TRƯỜNG HỢP
BÍCH KHÊ), Trần Đình Sử, Văn
hóa Nghệ thuật. - 2006. - Số 8, tr.66-69, đăng lại trên mạng ở: http://www.bichkhe.org/
Nhiều người đã không ngần ngại “mượn” thuật ngữ (tương
đối) mới này của Trần Đình Sử trong các bài viết của họ, chẳng hạn như:
a/ Ngôn ngữ thân thể trong tiểu thuyết "Mẫu Thượng
Ngàn" của Nguyễn Xuân Khánh, TRỊNH THỊ LAN (18/5/2012), http://vanhoanghean.com.vn/
b/NGÔN NGỮ THÂN THỂ VÀ HÀNH TRÌNH ĐI TÌM CÁI ĐẸP CỦA NGUYỄN
HUY THIỆP, Đoàn Tiến Dũng (13/6/2013) http://nguvan.hnue.edu.vn/
24/ Bích Khê, Thụy Khuê,
http://thuykhue.free.fr/
25/ Chiến tranh, tình yêu, tình dục trong văn học Việt Nam đương đại,
Đoàn Cầm Thi, http://tonvinhvanhoadoc.vn/
26/ Tính dục trong văn học hôm nay, Nguyễn Huy Thiệp
(15/4/2006) http://vietbao.vn/
27/ ẨN ỨC TÌNH DỤC VÀ MẶC CẢM CHIẾN TRANH TRONG "TÌNH
CÁT" CỦA NGUYỄN QUANG LẬP, Nguyễn Trọng Bình
(10/10/2016), http://vanviet.info/
II. Đôi nét về nhục cảm trong hành trình văn minh nhân loại:
từ chứng tích đến suy nghiệm
Nhục cảm đi đôi cận kề với tính dục (sexualité) ở khởi điểm,
nhưng lại tách biệt hoàn toàn ở đích đến: nó không hề lấy chuyện sinh sản, duy
trì dòng giống làm cứu cánh.
Điều này đánh dấu một bước tiến lớn trong nhận thức của con
người về vai trò thực tế quan trọng của thân xác giữa lòng thế giới khả sắc (le
sensible).
Trăm sắc thái một hằng số nhân học
Thuở ban sơ, trước vô số những huyền nhiệm vượt ngoài tầm hiểu
biết, con người tìm cách bảo vệ và tôn vinh sự sống bằng mọi giá, đến độ có cả
tục thờ bộ phận sinh dục nam nữ, như ta vẫn còn thấy ngày nay ở một số dân tộc.
Rộng lớn hơn, việc giao phối âm dương được sùng bái nâng lên đến mức đất trời,
mà sự thỏa đáp viên mãn được tin là sẽ đem lại mưa thuận gió hòa cho mùa màng
cây trái, là điều kiện cốt tử để nhân loại cùng vạn vật tồn sinh.
Song, như được minh chứng qua hàng loạt tượng khắc trên các đền
đài nổi tiếng ở Khajuraho (Ấn Độ), nhục cảm dần dà chiếm vị trí chủ chốt: những
tư thế dáng điệu nhân vật trong các cảnh được trình bày - với sự tham dự của cả
thú vật trong vài trường hợp - hiển nhiên cho thấy là không nhằm phục vụ việc
sinh sôi nảy nở nào hết, cũng như chẳng dính dáng gì đến nội dung tín ngưỡng
ban đầu. Những chạm trổ trên tường đền Lakshmana (tk X) ở
Khajuraho 28Nghệ nhân ở đây chỉ minh họa một sự thật sâu đậm khác, được
thể hiện đặc biệt qua tác phẩm độc nhất vô nhị Kamasutra 29, ra đời từ khoảng
năm thế kỷ trước đó: nhục cảm chính thức được đăng quang, và danh nghĩa thờ
sinh thực khí nếu không là cái cớ thì cũng chỉ còn là một bóng mờ, giữa vô số
những mốc tiến hóa trải từ buổi bình minh nhân loại.
Trên phương diện này, tính phổ quát còn được thể hiện ở chỗ,
ngoài Ấn Độ, nhiều xứ khác - như Pérou 30, Hy Lạp, Ý (La Mã và vùng lân cận) -
cũng đã là nơi những biểu đạt nhục cảm không chủ đích sinh học được khắc ghi từ
rất lâu đời, ví dụ trên các bình gốm cổ (nhất là của vùng attique, trực thuộc
thành Athènes) như trong hình dưới đây 31. Cảnh nhảy múa komos 31 trên một lọ gốm Hy Lạp, khoảng
560 năm trước Công Nguyên (tr. CN)Phong phú hơn nữa, và đi trước những tranh in (estampes) Nhật
32 chừng hơn… hai chục thế kỷ, toàn bộ những tác phẩm tượng hình (figurés) khai
quật ở Pompéi 33 (cũng như ở Herculanum34 tuy thành phố này ít tuổi hơn) là cả một
kho tàng lịch sử về nhân học, xã hội học cũng như về nghệ thuật La Mã, kế thừa
của nền văn minh cổ Hy Lạp.
Mặt khác, do con người là sinh vật có tư duy và luôn cần nâng
cao hiện hữu bằng siêu nghiệm (transcendance) 35 cho nên, trở lại với bán-lục địa
hai sông Ấn Hằng, ta dễ nhận ra rằng trên đất Bà La Môn nhục cảm còn được tô đắp
thêm bằng một chiều kích tâm linh nào đó: trường phái Tantra 36 từ ấy ra đời,
mà trong số những «hậu duệ» của nó, ta có thể kể đến nhân sinh quan nặng tính
«duy sắc» được Osho khai triển ngày nay.37
Không xa xứ sở yoga cho lắm, người Hy Lạp cổ đại như vậy - vốn
không chút thua kém về óc tưởng tượng và lý luận - đã có nhiều sáng tạo đáng ngạc
nhiên trong lãnh vực nhục cảm, không giấu diếm che đậy hay chỉ dành riêng cho giới
quyền quý như ở các nước khác (và khía cạnh này dường như không phải là không
có liên hệ, hoặc tương thích, với ý niệm dân chủ mà quê hương của Homère,
Socrate cũng chính là đất khai sinh).
Có thể nói kỳ công của dân tộc Hy Lạp là họ đã để lại cho
nhân loại một di sản đồ sộ chẳng những về tư tưởng và nghệ thuật như ta đã biết
mà cả về đời sống cụ thể vật chất, về cách sống tự do thoải mái hàng ngày, qua
việc họ đã khôn khéo tháo gỡ được nghịch lý những đối lập - tuy tầm thường
nhưng kinh niên dai dẳng - giữa một bên là nhục cảm và bên kia là xã hội thị
phi quen thói bày trò cấm kỵ, một triệu chứng thường thấy ở những cộng đồng người
khi họ bắt đầu tự cho rằng phải đặt ra phép tắc khó khăn để chứng tỏ mình đã vượt
khỏi giai đoạn «bán khai».
Bằng cách nào?
Trước hết, theo thiển ý, chính là bằng huyền thoại. Thần thoại
Hy Lạp chứa đựng nhiều ý tưởng mạnh bạo - lắm khi tàn bạo - và đầy điều mộng ảo,
kỳ quái, với đặc trưng chủ yếu này: họ tự do dựng ra hình ảnh thần linh, trần
truồng thân thể và mang đủ mọi cá tính kể cả những thói hư tật xấu - thậm chí
những tội lỗi… «tày trời» nhất - của người trần tục. Nhờ đó, mọi sự diễn ra
theo một trình tự khá thuận lợi cho sự nhận diện trọn vẹn và đầy đủ những điều
thường hay bị chôn vùi, ẩn dấu trong nhân giới.
Trần truồng thân thể, ở đây, đồng nghĩa với hiện hữu chân thật
trong suốt, với sự trình hiện của mọi chi tiết như nó là - bao gồm những gì sâu
kín, toàn diện và riêng biệt nhất, mà mỗi cá thể mang trên người - không qua
trung gian, không nấp dưới bất cứ một lớp sơn nào, kể cả văn hóa (mà y phục
chính là một biểu hiện). Tượng thần Apollon tại dinh Belvédère
(Vatican)[bản sao La Mã theo bản gốc Hy Lạp (tk IV
tr. CN)] Chiến thắng của hai vợ chồng thần
Neptune và Amphitrite[tranh khảm La Mã tại Constantine,
Algérie (tk IV)]Bước thứ nhất, họ «cởi trói» cho mọi hình ảnh, ý tưởng cùng
cực, phi đạo lý - có khi loạn luân (xem vài tranh dưới đây) -, gớm ghiếc tàn tệ
nhất, khiến những thứ ấy vô hình trung được thẳng thắn đề cập, phơi bày giữa
thiên bạch nhật, chứ tuyệt nhiên không giấu diếm theo lối đặt điều cấm kỵ thường
thấy ở xã hội khác: bởi nó đến từ… thần giới!.
Nữ thần Vénus ngoại tình bị chồng là thần
Vulcain bắt
gặp khiến thần Mars phải chui trốn
LE TINTORET (1551)
Thần Ouranos (Uranus) bị chính con trai là thần
Cronos (Saturne)thiến sống - Giorgio VASARI (tk XVI)
Ẩn dụ «Chiến thắng của Vénus» 38 (với con là Cupidon)
- BRONZINO (~1545)Một dẫn chứng điển hình là vấn đề đồng tính luyến ái và/hoặc ấu
dâm 39, mà Hy Lạp trên thực tế là xứ phổ biến nhất - mặc dù không mang cùng ý
nghĩa như ngày nay -, bắt đầu bằng chuyện thần Zeus bắt cóc Ganymède (với nhiều
tranh, tượng còn để lại) rồi sau đó mới được đề cập qua một số những tác phẩm bất
hủ như Le Banquet 40 của Platon, đặc biệt với cặp đôi nổi danh
Socrate/Alcibiade.
Chính hoàn cảnh đó khiến Hy Lạp là nền văn minh đầu tiên - và
có lẽ duy nhất - đã để lại một kiệt tác điêu khắc trên chủ đề con người lưỡng
tính, mang tên Hermaphrodite say ngủ 41, tuy là đến thẳng từ thần thoại của họ
nhưng đồng thời cũng ít nhiều gợi ra một cách tinh tế tính chất hai mặt, đôi
chiều (ambivalence) của vấn nạn giới tính và bản thân đời sống con người.42Hermaphrodite say ngủ [bản sao La Mã (tk II)làm theo
bản gốc Hy Lạp trước đó 4 thế kỷ] Xin mở ngay một dấu ngoặc ở đây: với cái nhìn hiện nay, phải
chăng lối “giải phóng tư tưởng” này có tác dụng “đuổi tà” (exorciser) hoặc ít
ra cũng có hiệu ứng phá đi triệu chứng “dồn nén bệnh lý” theo nghĩa phân tâm học,
cuối cùng đem lại được sự tự nhiên cởi mở và một phong cách hồn nhiên nào đó - ở
mức vĩ mô - cho “tâm hồn” xã hội? Mặt khác, ta cũng đừng quên rằng catharsis
43 vốn là thao tác quen thuộc trên đất nước của Aristote, người đã lập thuyết về
nó và là một trong những nhà tư tưởng lớn nhất của nhân loại…
Bước thứ hai, xảy ra liên tục trong suốt cả ngàn năm sau - từ
Hy Lạp, La Mã cho đến các nền văn minh phương Tây khác -, đó là: tất cả những
phản ánh nghệ thuật thiên thân xác nhất đều được tự do sáng tác và trưng bày mọi
nơi, kể cả ở giáo đường.44 Lý do hết sức đơn giản và lôgic, không ai bắt bẻ được: nghệ nhân chỉ minh họa, nếu không phải chuyện Kinh Thánh thì cũng chỉ là… cổ
tích thần thoại.
Adam và Eve bị đuổi khỏi Thiên Đàng, MICHEL-ANGE (bích
họa vẽ ~1509/10 tại nhà thờ Sixtine, Vatican)Bước thứ ba - gần như một quy trình tái chế (recyclage)
- không còn tùy thuộc vào người Hy Lạp nữa, mà đến từ hào quang quá khứ vàng
son của họ, đó là sự quay về với «khuôn vàng thước ngọc» Hy-La trên khắp châu
Âu, lần thứ nhất vào thời kỳ Phục Hưng và lần thứ nhì vào giai đoạn tk. XVII-XVIII dưới màu cờ chủ nghĩa cổ điển 45.
Một hệ quả đáng lưu ý của trào lưu này là sự kiện tranh lịch
sử (chủ yếu là thần thoại Hy-La) đã từng được chính thức xếp vào hàng cao quý
nhất (và duy nhất được phép trình bày lõa thể) trong số năm thể loại đề tài mỹ
thuật ở Pháp theo những tiêu chuẩn quy định bởi Viện Hàn Lâm Hoàng Gia về Hội Họa
và Điêu Khắc (tk XVII-XVIII) 46: một đồng minh mới, đầy quyền lực, hỗ trợ cho
khuynh hướng biểu hiện nhục cảm thời ấy (và, trong một chừng mục nào đó, biện
minh cho lớp sau này), kể cả dưới dạng những chứng tật hoặc hành vi thái quá của
thần linh còn được lưu truyền.
Trường hợp lạ lùng của huyền thoại Leda
Trong thần thoại Hy Lạp, chuyện nàng Léda - vợ vua thành
Sparte bị thần Zeus giả dạng hóa thiên nga cưỡng hiếp - là một ví dụ khá đặc biệt: việc giao hợp giữa người và thú, ai cũng biết là tối kỵ, thế mà dưới cái «nhãn» thần thoại, nó được khai thác triệt để bởi cả một… «đạo quân» nghệ sĩ
tạo hình lừng danh trong lịch sử; có người còn làm nhiều phiên bản khác nhau nữa,
như thể nếu chỉ có một là chưa đủ!
Quả vậy, bản kê khai tác phẩm sẽ dễ thành “tràng giang đại hải”: từ thế kỷ XVI với Léonard de Vinci (nguyên bản bị mất), Michel-Ange (~1530
[nguyên bản bị mất] và 1535), Le Corrège (1531/32), Le Tintoret (1555) v.v... đến
thế kỷ XX với Gustav Klimt (1917), Otto Dix (1919), Dali (1949) v.v..., qua những
Rubens (1601/02), Nicolas Poussin (tk XVII), Jean Thierry (1717), Géricault
(1816/17), Delacroix (1834), Gustave Moreau (1865), Clésinger (1864),
Carrier-Belleuse (1870), Cézanne (1880/82), Ingres (1867)… Những sáng tác giá
trị thay nhau ra đời tại nhiều nước khác nhau trên châu Âu 47, từ cố đại Hy La
cho đến đương đại thế kỷ XXI, thế mà dường như vẫn… “chưa tát cạn nguồn”: quả
là một sự gợi hứng vô biên, hy hữu!
Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, ta sẽ không đi tìm lời
lý giải, mặc dù lý thuyết của Freud đề cập ở phần cuối sẽ cho ta những chìa
khóa cần thiết. Chỉ xin nêu lên ở đây mấy nhận xét nhỏ, dễ thấy trên bề mặt vài
tác phẩm trong số - gần như… không đếm xuể - những kiệt tác thường được nhắc đến.
Trước tiên, ta hãy thử quan sát tác phẩm tạm gọi là “nguyên
thủy” -hoặc ít ra cũng là xưa nhất - trong danh sách vừa nêu, qua hình chụp dưới
đây. Vóc dáng điệu bộ của thần Zeus đội lốt thiên nga quả là bao trùm, trấn áp,
cuồng bạo, trước một nàng Léda khép nép co ro, bị vùi dập, cưỡng bức: tất cả
tính đối cực, tương phản giữa bạo liệt và nhẫn nhục trên hai đối tượng khác
nhau đều toát ra từ bức phù điêu một cách tức thì, tự nhiên, nghĩa là hoàn toàn
trung thành với tinh thần truyện gốc.Phù điêu thời kỳ Hy Lạp hóa [hellistique] (có thể xưa
hơn tk II tr. CN)Ngược lại, điều cơ bản chủ yếu này sẽ gần như biến mất trong
hầu như toàn bộ các thế hệ nghệ phẩm về sau dẫu cho có cùng tên gọi. Trường hợp
họa phẩm của François Boucher (1703-1770) chẳng hạn là một ví dụ trong chuỗi
dài những ví dụ có thể được đơn cử: huyền thoại Léda chỉ là cái cớ cho họa sĩ
rococo hàng đầu này của Pháp tập trung lột tả khía cạnh nhục cảm, được chuyển tải
ở đây đặc biệt với sự hiện diện của một người đàn bà thứ hai trong tranh, hoàn
toàn xa lạ so với huyền thoại. Chủ ý đó của tác giả được khẳng định thêm qua việc
vài năm sau ông vẽ lại nhân vật nữ này, sau khi đổi màu tóc và khung cảnh,
trong một bức họa gần cùng dáng điệu - tựa đề L’Odalisque brune - đã từng làm
chảy nhiều bút mực 48, như được đối chiếu dưới đây.Léda và Thiên Nga (1741) - François BOUCHER Người tỳ thiếp tóc đen (~1743/45), cùng một tác
giảTuy nhiên, trên phương diện này, có người như nhà văn Pháp
đương thời Philippe Sollers, đã không ngần ngại nói thẳng thừng quan điểm của
mình, đánh giá phiên bản Léda của Véronèse mới thực sự đáng được xem là «một
trong những họa phẩm đẹp nhất thế giới».49
Chủ quan vốn là đặc trưng của nghệ thuật và sự thưởng ngoạn.
Song, phải nhìn nhận rằng, nếu trên bức phù điêu cổ đại con nga thần uy vũ, chiếm
lĩnh gần trọn hết không gian thì, trong tác phẩm của nhà danh họa Cộng Hòa
Venise thế kỷ XVI này, thời gian như dừng lại. Mọi cảm xúc êm ái ngưng đọng
trên nhân vật Léda lộng lẫy quyền quý. Từ những lọn tóc óng ả đến làn da tươi
mát. Từ mi mắt hờ khép đê mê đến ngón tay nuột nà cương mọng…
Hơn thế nữa, cái đẹp trong tranh còn vượt cao lên trên thân
xác, nhờ ở nét tỏa sáng của vầng trán, mái đầu, của phong cách vương giả trên từng
chi tiết điểm trang dành riêng cho cành vàng lá ngọc, như một ký hiệu văn hóa
không thể nhầm lẫn: nghệ sĩ theo đuổi một mục đích khác hơn là việc lập lại thần
thoại!.Léda và Thiên Nga (1585) - VẺRONÈSE (1528-1588)Trước một kiệt tác như vậy, người ta chỉ có thể tâm đắc với
nhận xét tổng quát của khách sành điệu René Hughe về trường phái Venise:
«[…] la beauté qu'elle poursuivit ne fut plus une conception
de l'esprit, mais un enchantement du regard; elle naît de la volupté d'une
chair plutôt que de l'exacte harmonie d'un corps et de ses proportions (cái đẹp
mà họ theo đuổi hết còn là một quan niệm của trí tuệ, mà là một sự mê thú của
cái nhìn; trường phái này ra đời từ niềm hoan lạc nhục thể nhiều hơn là từ sự
hài hòa chuẩn xác của một thân thể cùng những tỉ lệ cân đối của nó)».
Niềm hoan lạc đó không có biên giới, không mốc thời gian. Có
lẽ cũng chính nó - trong một bối cảnh nào đó - đã xâm chiếm tâm hồn Huy Cận tài
hoa của chúng ta, đưa chàng đến bến bờ diễm tuyệt, qua những vần điệu ngây ngất,
nên thơ, nghe chừng rất xứng hợp với người đẹp trong tranh Véronèse:
Ngực trắng giòn như một trái rừng
Mắt thì bằng rượu, tóc bằng hương… (Hồn
Xuân)
Từ ngôn ngữ thân thể đến diễn ngôn nhục cảm
Thân thể, nói như Thánh Paul trước khi bị ý thức hệ chống
thân xác chi phối, là «đền thiêng của Chúa Trời»50.
Ngôn ngữ thân thể, vì thế, đáng được xem như thuộc về bí nhiệm,
là bản năng không lời, là trực cảm giữa bên phát và bên nhận: nó là sự kiện
nhân văn khởi thủy, vốn có đó từ lâu, chẳng phải bây giờ mới xuất hiện như ta
tưởng.
Và một khi thành lời thì, như chương Nhã Ca (Cantique des
cantiques) 51 trong Kinh Cựu Ước, nó dễ trở thành khúc hoan ca về sự cuốn hút của
thân thể đền thiêng kia, nghĩa là của con người bằng xương bằng thịt, có khả
năng tận hưởng và biết vinh danh hương hoa nhựa sống cuộc đời.
Hình như chính vì vậy mà nhà điêu khắc thiên tài Gian Lorenzo
BERNINI (Le Bernin) ngay cả khi tạc tượng tôn giáo Thánh Thérèse xuất thần đã
không quên lưu dấu nhấn trần gian trên nét mặt và từng chi tiết mỗi ngón chân
tay của nhân vật hóa thân, khiến không ít tác giả 52-54 về sau đã mạnh dạn gợi
lên sự liên tưởng - tức thì, chân thật, nhưng «ngoại đạo» - đến trạng thái
khoái lạc tột cùng của một người thường trong giây phút nhập đỉnh yêu
đương.Trạng thái xuất thần của Thánh Thérèse ((1647-1652) -
Gian Lorenzo BERNINI (1598-1680)Nhưng «ngoại đạo» siêu hạng - do quan điểm cách mạng so với
thời đại -, thì ít ai bì kịp nhà bách khoa Diderot (1713-1784) của Pháp, người
nối tiếp truyền thống nhân bản và tự nhiên chủ nghĩa từ Montaigne, bởi bằng chữ
nghĩa ông đã đi xa hơn Le Bernin nhiều. Qua cuốn tiểu thuyết hồi ức La
Religieuse 55, một trong vô số những cống hiến đa diện đến từ bộ óc lỗi lạc của
thế kỷ Khai Minh này, tác giả dám để lại trên giấy trắng mực đen những lằn chớp
nhục cảm - dữ dội nhưng trung thực - đã gây nên chấn động một thời…
Ta vừa nói đến hương hoa nhựa sống cuộc đời: người Hy Lạp cổ
đại đã biết không bỏ lỡ cơ hội tận hưởng nó, đặc biệt bằng ca múa vui chơi, như
tục làm vũ hội komos cho nam giới mà ta đã thấy. Thêm vào đó, họ còn có lễ hội
Bacchanales 56, nơi tung hoành tỏa sáng những nàng kiều nữ bacchantes, là một
trong những đối tượng tạo hình rất được ưa chuộng ở phương Tây, từ lâu đã đi
vào «đền thiêng» lịch sử nghệ thuật, nhờ tài nghệ của nhiều họa sĩ và điêu khắc
gia lừng danh, mặc dù đôi khi có thể ít nhiều gây «scandale» trong dư luận tại
một thời điểm nào đó (như trường hợp tác phẩm Femme piquée par un serpent của
Clésinger dưới đây). Nàng bacchante nằm sõng soài trên thảm nho (1848) Người đàn bà bị rắn cắn 57 (1847),
tiền thân của tượng cạnh bên Auguste CLESINGER (1814-1883)
tiền thân của tượng cạnh bên Auguste CLESINGER (1814-1883)
Lễ hội bacchanale ở Andros (1523-1525)
- TITIEN (~1488-1490) Cơn mơ (1932) - PICASSO (1881-1973)Ngôn ngữ thân thể, như thế, là nét chung cho nhiều thế hệ nghệ
sĩ trong quá trình sáng tác của họ. Nếu không nắm bắt nó từ thực giới thì họ mượn
nơi cõi mộng, như Picasso đã làm trong tác phẩm cạnh bên. Nội dung và cốt cách
rất ư… “ngoại lệ” của họa phẩm này được gán cho một thiếu nữ, nhưng kỳ thật là
xuất phát từ trí tưởng của một đại diện phái nam 58 : chuyện gặp đầy dẫy và quá
thường, trông chẳng có gì quan trọng, nhưng hình như phải đợi đến Francesco
Alberoni 59 mới được nghe nói rành mạch về sự khác biệt cơ bản giữa hai giới
nam nữ trong lãnh vực này. Vì lẽ đó mà mỗi khi để cập đến nhục cảm, để cho
nghiêm túc và công bằng, ta cần phải xác định là của ai và từ phái nào. Sự phân
biệt này là rất khoa học, rạch ròi, dù không ai chối cãi hai sự kiện khá lý thú
trong lịch sử loài người cho thấy, một đằng, khuôn mặt Homo sapiens sapiens đầu
tiên biết được là hình tượng đầu một người đàn bà bằng ngà ma-mút 53 (sđd, tr.
30) và, đằng khác, pho tượng toàn thân xưa nhất hiện nay - mang tên Vénus de
Willendorf 60 - đập vào mắt khách thưởng ngoạn với những đặc trưng thân thể đáng
phô trương nhất của phái đẹp: giấc mơ nghệ thuật của nhân loại, tự ngàn đời, vẫn
là đặt vương miện trên lâu đài nữ tính.
Phụ nữ biết rất rõ điều ấy nên thông thường, cùng với phái
nam, tạo ra được một sự đồng thuận đáng yêu trong đời sống. Tuy nhiên, một dấu
ngoặc nhỏ vẫn là cần thiết ở đây, để tiếc cho hiện tượng “tuột dốc” đôi khi vẫn
còn phải gặp qua việc thân thể phái đẹp bị “xử dụng” thái quá - ngay cả bởi
chính nữ giới - như trường hợp nghệ cảnh (performance) trong hình bên, với tất
cả nghịch lý nội tại của nó: thân thể như phương tiện “câu mắt” khách qua đường.Nghệ sĩ Thụy Sĩ Milo Moiré trước sân nhà thờ Cologne, ngày 8
tháng giêng 2016 (sau vụ nhiều người nhập cư lợi dụng đám đông xúc phạm và cưỡng
hiếp phụ nữ trong đêm giao thừa tại đó), với biểu ngữ «Hãy tôn trọng chúng
tôi! Chúng tôi không phải là đích nhắm, ngay cả khi trần truồng!!!»
Mặt khác, trên chủ đề nhục cảm, ta không thể chỉ đóng khung
trong nghệ thuật tạo hình mà phải nhắc qua - dù chỉ lướt nhanh - rằng văn học
chưa bao giờ chịu lép vế.
Thật thế, viết về nhục cảm một cách phóng túng thì đã có khá
nhiều tác giả mà danh sách những trước tác không chính thống này của họ, nếu chỉ
nói riêng cho nước Pháp, có thể làm bạn đọc quen với “thư sách hàn lâm” sẽ ngạc
nhiên: từ một Ronsard (với bài thơ Quand au temple nous serons) hay Jean de La
Fontaine (Contes libertins) đến một Louis Aragon (Le Con d’Irène), qua những
Alfred de Musset (Gamiani ou Deux nuits d'excès), Charles Baudelaire (với những
bài thơ cấm 61), rồi Paul Verlaine (Poèmes érotiques), Guillaume Apollinaire
(Les Onze mille verges)… Toàn những tên tuổi hàng đầu, mà tài năng đều đã được
thử thách và công nhận hẳn hoi - ngoại trừ tác giả Les Fleurs du mal - qua những tác phẩm kinh điển của họ, vốn gắn liền với một tính chất văn học
tiêu biểu nào đó, nếu không phải thuộc loại đạo lý hay tiền phong thì quá lắm
cũng chỉ đến mức lãng mạn là cùng.
Tiến thêm một bước nữa, ra khỏi tiếng nói và xứ sở của
Molière, nếu đi tìm những nhà văn đã từng chịu búa rìu dư luận do «lỗi» những
đứa con tinh thần của họ - từ Lady Chatterley's Lover (D.H. Lawrence) cho đến
Fifty Shades of Grey (E. L. James) -, ta sẽ gặp những Nabokov (Lolita), Henry
Miller (Tropique du Cancer), Tanizaki (La Confession impudique) v.v…, hầu hết đều
là phù thủy văn chương, biết biến nhục cảm thành mặt trời mầu nhiệm, soi êm sưởi
ấm cho những hắt hiu quạnh quẽ phận người…
Trên lộ trình sáng tạo đó, dĩ nhiên nghệ thuật thứ bảy không
hề vắng mặt. Nhiều đạo diễn có tầm cỡ đã cố ý dành chỗ, trao lời cho nhục cảm
ít nhất một lần, như thể họ không chịu thiếu nó trong toàn bộ sự nghiệp điện ảnh
của mình. Giống hệt như tâm lý của Picasso khi luống tuổi, hay Rodin lúc cuối đời
vậy (đặc biệt qua loạt tranh nhà điêu khắc đã cẩn thận để riêng, có dán nhãn “bảo
tàng bí mật”, vừa được công bố mới đây 62). Đó là một Ōshima với L'Empire des
sens (1976), dù đã phải trần thân bào chữa cho nó trước tòa án 63. Hay một Lars
von Trier, vào độ chín muồi trên đỉnh danh vọng, đã nhất định hoàn thành cho kỳ
được bộ phim Nymphomaniac (2013). Ít bạo hơn, nhưng không kém phần khẳng định,
Kubrick - trong tác phẩm cuối cùng trước khi qua đời Eyes Wide Shut (1999) - đã
để cho Alice (Nicole Kidman) kết thúc phim bằng lời thủ thỉ ngắn gọn với ông chồng
Bill Harford (Tom Cruise), rằng “chuyện quan trọng nhất phải làm, càng sớm càng
tốt, là: yêu nhau.
Ngôn ngữ thân thể, trên thực tế, dễ trở thành diễn ngôn nhục
cảm.
Nói diễn ngôn bởi vì, theo gốc Hy Lạp (logos) của từ này,
thông điệp phát đi hết còn ở dạng cảm tính mà bao hàm một sự chọn lựa có ý thức,
một đề án nhân sinh nếu không nói là hiện sinh, một sự can thiệp của lý trí, chẳng
hạn như khi xác lập một luận thuyết về mối tương quan giữa con người với xác thịt.
Diễn ngôn ấy bắt nguồn từ đêm thời gian xa thẳm. Có thể là tới
tận 15 thế kỷ trước CN, như trường hợp một số ý niệm xuất phát từ kinh vệ đà
(véda) 36 của Ấn Độ, được triển khai về sau trong sử thi Râmâyana 64. Ở châu Âu,
ta có thể kể với chứng cớ thi sĩ triết gia la tinh Lucrèce 65 qua tác phẩm duy
nhất để đời De rerum natura (tk I tr. CN). Gần ta hơn, có nhiều tác giả bị lên
án vì quan điểm nhục cảm của họ, như văn sĩ kịch tác gia Ý Pietro Aretino
(Pierre Arétin, theo cách gọi của người Pháp) với Sonetti lussuriosi (Sonnets
luxurieux, 1524), hay bác sĩ triết gia Pháp Julien Offray de La Mettrie
(1709-1751) 66 với loạt sách “bộ tam” De la Volupté (1745), Discours sur le
bonheur (1748) và L’Art de jouir (1751) 67. Nhưng nổi bật nhất có lẽ là
Hildegarde de Bingen 68 (1098-1179), một bác sĩ nữ tu người Đức xuất chúng được
phong thánh từ thế kỷ XIII, rất đáng ngưỡng mộ về nhiều mặt, đặc biệt là việc
ngay vào thời đó - bất chấp dư luận và nhất là Giáo hội - bà đã dám đặt vấn đề
tình dục, thân xác và quyền của phụ nữ trong lãnh vực này 69 với tất cả ý nghĩa
nhân văn cụ thể, tiến bộ của nó.
Tuy nhiên, trên vấn nạn nhân sinh cơ bản đang bàn, nếu xét về
cách tiếp cận toàn diện và triệt để, có lẽ Charles Fourier 70 (1772-1837) rất
đáng được liệt vào hàng đầu. Thật thế, triết gia Pháp này đã đưa ra nhiều ý mới
lạ dù có khi không tránh khỏi cực đoan hoặc thiếu thực tế, chẳng hạn như mô
hình “hạnh phúc tập thể”, đặt tên là Harmonie (Hòa hợp), trong đó - theo ông -
sẽ không còn mâu thuẫn giữa công việc nhọc mệt và tận hưởng lạc thú, con người
sống chung, chia sẻ chẳng những về mặt kinh tế xã hội mà cả về đam mê nhục cảm.
Ngoài việc được Marx và Engels đánh giá như một khuôn mặt của “chủ nghĩa xã hội
phê phán-không tưởng”, ông còn làm cho nhiều người khâm phục trong số đó có nhà
văn nổi tiếng cùng thời Stendhal.71
Charles Fourier quan niệm có sự tương ứng hòa điệu giữa đam
mê của con người với các… tinh tú, và cố công lý giải điều ấy bằng cách xử dụng
một số khái niệm, thuật ngữ lấy từ thuyết vạn vật hấp dẫn của Newton cũng như từ
một số công trình thiên văn học của Képler (L’Harmonie du Monde,1619). So với
những ténor “đồng hội đồng thuyền” đi trước và sau ông, Fourier có nhiều điểm
tương tự nhưng cũng có cái khác biệt. Giống Arétin, ông cũng châm biếm, chỉ
trích kịch liệt những giả dối khôi hài đầy dẫy trong xã hội, nhất là ở giai cấp
thượng lưu. Cùng “chiến tuyến” với Hildegarde de Bingen, Fourier cũng gắt gao
lên án sự nô lệ hóa và những bất công mà nữ giới là nạn nhân (chú thích [CT]
71, sđd, tr.93,109, 205). Tuy nhiên, nếu sánh với La Mettrie - là người rất gần
ông trong việc đề cao nhục cảm -, thì Fourier không mang tư tưởng vô thần như
triết gia duy vật tác giả quyển l'Homme Machine (1748) nổi tiếng này: ông muốn
“kết hợp lòng yêu Chúa Trời với lòng yêu những khoái thú”, và cho rằng cái thần
thiêng (le sacré) cùng cái nhục cảm (l’érotique) gắn liền chặt chẽ với nhau, giống
y sự đi đôi giữa tình yêu và tôn giáo trong những xã hội chưa bị ảnh hưởng “văn
minh” như ở Tahiti vào thế kỷ XVIII (CT 71, sđd, tr.15, 23). Song, điều đó
không có nghĩa ông đồng ý với Giáo hội, mà là ngược lại: đi trước Nietzsche
(1844-1900) ít nhất một thế hệ trên lập trường này 72, Fourier phê phán gay gắt
Ky tô giáo mà ông cho là đã “phản lại huyền thoại nguyên thủy” (sđd, tr.16), đã
chủ trương “tội lỗi hóa” con người một cách có hệ thống, đặc biệt là về thân
xác 73. Những quan sát, nhận xét thấu đáo và những giải pháp táo bạo mà Fourier
đưa ra đã khiến có người xếp ông trong số những tài năng khai lối mở đường
(précurseur) cho ngành tình dục học (sexologie), với nét riêng là lối nói còn mạnh
hơn cả những “Sigmund Freud, Wilhelm Reich và Alfred Kinsey” trên một số phương
diện (sđd, tr. 9,30).
Tuy vậy, dưới góc độ triết học, phải nhìn nhận là diễn ngôn
nhục cảm đã thực sự tiến một bước dài với Schopenhauer (1788-1860): nhà tư tưởng
Đức độc đáo, uyên thâm Phật học bậc nhất châu Âu này đã dành cả một chương (số
44,Quyển IV) mang tên “Métaphysique de l’amour sexuel” trong bộ sách đồ sộ Le
monde comme volonté et representation - phiên bản bổ túc, ở lần in thứ nhì 74
(1844) - để phân tích, lý giải và đưa ra những luận cứ mà đến sau này người ta
mới thấy hết sự phù hợp với phân tâm học và nhiều ngành khoa học hiện đại. Đáng
lưu ý là Schopenhauer đã rất chính xác, mẫu mực, khi dùng từ “métaphysique”
(siêu hình học) để định tính những ý niệm mình diễn đạt. Sự phân biệt này là cần
thiết, để tránh bệnh lạm dụng từ ngữ dẫn tới những sai lạc trong lãnh hội: một
trường hợp thường gặp là hiện tượng lẫn lộn giữa mô hình lý thuyết với sự thật
được kiểm chứng, khi đề cập tới quan điểm các nhân vật nổi tiếng, khiến nhiều
người cứ tưởng mọi điều họ đưa ra đều đương nhiên phải đúng bởi vì là… khoa học.
Schopenhauer không tự khoác cho mình bộ áo khoa học. Chỉ nhờ
trực giác và suy nghiệm, ông đã lấp được lỗ trống bị bỏ quên hơn cả ngàn năm
trong lịch sử triết học kể từ Platon (Le Banquet, Phèdre) trên chủ đề tình ái,
bằng những đề xuất dễ “gây sốc” về bản chất nội tại của nó. Với Schopenhauer,
có lẽ lần đầu tiên thuật ngữ và khái niệm “xung lực tình dục (pulsion
sexuelle)” được ra mắt dưới dạng một định đề mà ta có thể coi như bao gồm ba vế:
- Trước hết: «tout état amoureux [Verliebtheit], si éthéré
qu’il puisse paraître, s’enracine dans la seule pulsion sexuelle (mọi trạng
thái yêu đương, dẫu có bay bổng đến thế nào đi nữa, thì cũng đều mọc rễ từ duy
nhất cái xung lực tình dục mà thôi)» (sđd, tr.1982);
- Thứ đến, nhìn kỹ hơn: «tout amour sexuel est fondé sur
l’instinct (mọi tình yêu dục tính đều được xây trên cơ sở bản năng» (sđd,
tr.1996);
- Và cuối cùng là sự định vị cái gốc của mọi hoạt động con
người: «Ce qui se manifeste dans la conscience individuelle comme pulsion
sexuelle, sur un mode général et sans viser un individu déterminé de l’autre
sexe, c’est, en soi et en dehors du phénomène, l’absolue volonté de vivre (Cái
hiện lên trong ý thức cá thể như xung lực tình dục, theo một thể cách tổng quát
và không nhắm một cá nhân nhất định nào của phái kia, cái đó - tự nó, và nằm
ngoài hiện tượng - chính là ý muốn tuyệt đối đòi sống» (sđd, tr.1985).
Chưa bao giờ nhục cảm lại được nhận diện rõ như thế, trong
cái lô gic mãnh liệt của sự sống trên trái đất. Và không ai (trừ chính đương sự
75) chối cãi được rằng Freud sẽ là người kế thừa xuất sắc những xác quyết
(assertion) cơ bản này, dẫn tới nhiều hiểu biết quan trọng và nhất là phát kiến
về vị trí độc tôn của vô thức 79 trong tiến trình hình thành và phát triển tâm
thức con người.
Chú thích:
28/ http://claude.dupras.com/
29/ https://fr.wikipedia.org/
30/
http://www.veroeddy.be/;
xem thêm ở:
http://www.dailymotion.com/
31/ https://fr.wikipedia.org/
32/ https://fr.wikipedia.org/; xem thêm
ở: http://www.nippon.com/
33/ https://fr.wikipedia.org/; xem thêm ở: http://www.lalibre.be/
và http://www.lemonde.fr/
34/ https://fr.wikipedia.org/
35/ Về siêu nghiệm trong nghệ thuật, mời xem
http://vanchuongviet.org/; riêng về một sự đồng quy thú vị với «tinh thần» định
lý Gödel, mời xem thêm ở
http://vanchuongviet.org/,
đặc biệt là đoạn này:
«Vòng tròn như vậy đã được khép kín, như thân phận con người,
giữa trần gian, một trần gian dẫu không lung linh thần thoại cũng chứa đựng vô
vàn hiện thực hấp dẫn vì đầy cái bất ngờ, vô định, cái bất khả quyết
(indécidables) như định lý Gödel283 nổi tiếng đã chỉ ra bởi lẽ, một đằng, bất cứ
thực thể dạng thức hoá (formalisé) nào - dựa trên một hệ công lý [toán học]
(axiomatique) hoàn chỉnh chặt chẽ đến đâu chăng nữa - cũng chứa đựng những «biểu
đề» (énoncé) không thể chứng minh được với chỉ riêng hệ công lý [toán học] nội
tại, huống hồ chi cuộc đời; đằng khác, do bất cứ thực thể nào cũng mang tính bất
toàn (incomplétude) nên điều kiện hoàn thiện tối thượng (ultime) cho mọi hệ thống
là sự vươn mở tới cái nằm ngoài nó: đây là một yếu tố tạo cơ sở luận lý cho sự
hiện hữu và tính tất yếu của siêu nghiệm, mà ta đã coi như một định đề
(postulat) ở trên (Chương 2 ***).»
36/ https://fr.wikipedia.org/
37/ Tantra, La Voie de l’Acceptation, Osho, Nxb Véga (2011)
38/ http://www.bergerfoundation.ch/
39/ https://fr.wikipedia.org/
40/ Le Banquet, Platon (bản dịch của Luc Brisson, nxb GF
Flammarion, Paris, tái bản năm 2001); về nhân vật Alcibiade, xem thêm ở:
https://fr.wikipedia.org/
41/ https://fr.wikipedia.org/
42/ https://nicolepeter.wordpress.com/
43/ Về catharsis (cùng với mimêsis, làm thành cặp đôi khái niệm
hàn lâm thường được nhắc tới trong Mỹ học), mời xem thêm ở:
http://vanchuongviet.org/ (phần tiểu tựa Đôi nét về những bước suy tưởng Mỹ học tiền hiện đại)
44/ Ví dụ các bích họa tuyệt tác bên trong nhà thờ Sixtine ở
Vatican:
http://www.rome-passion.com/; https://fr.wikipedia.org/wiki/
45/ https://fr.wikipedia.org/wiki/
46/ Về hệ cấp hàn lâm do lý thuyết gia André Félibien đặt ra
năm 1667, xem ở: https://fr.wikipedia.org/
47/ Mời đọc lướt qua (để đỡ… chóng mặt) danh sách một số nghệ
sĩ tạo hình khác (đã chọn cùng đề tài) được nhắc đến nhiều nhất trên mạng:
Jacopo Pontormo (1512), Francesco Bacchiacca (~ 1525), Antonio Abondo (~1550),
Lelio Orsi (1560), Hendrick ter Brugghen (~1570),Palma le Jeune (1590),
Wunderlich, Hans Baldung (tk XVI),Bartolomeo Ammanati (tk XVI), Vincent Sellaer
(tk XVI), Mola Pier Francesco (tk XVII), Karl Gustav Klingsted (tk XVIII),
Louis Lafitte (tk XVIII), Charles Joseph Natoire (tk XVIII), Jean-Baptiste
Marie Pierre(tk VIII), François-Édouard Picot (1832), Jean Esprit Marcellin
(1874), Louis Tournier (tk XIX), Bos Cornelisz (tk XIX), Jules Scalbert&t
Antoine Vizzavona (tk XIX), Leon Riesener(tk XIX), Maurice Ferarry(tk XIX),
Hippolyte-Joseph Cuvelier (tk XIX), Francis Derwent Wood (tk XIX-XX), Rudolph
Tegner (1902), André Lhote (1930), Alfred Janniot (tk XX), Georges d'Espagnat
(tk XX), Laria Simonneta(tk XXI), Tim Wetherell(tk XXI), Beauvais (tk XX-XXI),
Andrássy Kurta János (tk XX-XXI)…
48/ http://mucri.univ-paris1.fr/
49/ Trong Journal du mois, Le Journal du Dimanche 26/2/2006,
Philippe Sollers viết:
«… Ici, un aveu personnel: un des plus beaux tableaux du
monde, érotiquement suggestif, a toujours été pour moi « Léda et le cygne » de
Véronèse. On voit une splendide Vénitienne nue avec bijoux, sur laquelle Dieu
(pardon, Zeus) se dispose à opérer une pénétration profonde. Zeus, pour s’unir
à une mortelle, s’est transformé en un magnifique cygne blanc, et déjà son bec
jaune entre dans la bouche entrouverte de la voluptueuse pâmée (ce n’est pas
tous les jours qu’on fait l’amour avec le Divin lui-même). Une reproduction de
cette scène mystique m’accompagne depuis l’enfance. Je m’étonne aujourd’hui que
Véronèse n’ait pas été davantage inquiété par l’Inquisition, les papes ont donc
laissé passer ce genre de fantaisie hautement condamnable mais électrisante,
d’un surréalisme rarement égalé. A vrai dire, les dieux grecs, et surtout les
déesses, nous manquent, ils nous boudent depuis longtemps, ils ont fui loin de
nous, et j’ai peur de me retrouver seul avec eux. Tant pis, je les garde».
50/ http://www.theologieducorps.fr/
51/ Xem thêm Vấn đề nan giải dịch chương Nhã Ca trong Cựu Ước
- Tác phẩm tình dục tuyệt tác của nhân loại,
PHẠM TRỌNG CHÁNH: http://vanhoanghean.com.vn/
52/ Có thể tham khảo lời Jacques Lacan, trích dẫn trong
https://fr.wikipedia.org/:
«[...] pour Sainte Thérèse, enfin disons quand même le mot…
et puis en plus vous avez qu'à aller regarder dans une certaine église à Rome
la statue du Bernin pour comprendre tout de suite… enfin quoi: qu'elle jouit,
ça fait pas de doute! Et de quoi jouit-elle? Il est clair que le témoignage
essentiel de la mystique c'est justement de dire ça: qu'ils l'éprouvent mais
qu'ils n'en savent rien» (21 novembre 1972).
53/ Amours Histoire des relations entre les hommes et les
femmes, Jacques Attali (với sự cộng tác của Stéphanie Bonvicini), tr.168,
Librairie Arthème Fayard, 2007
54/ Je t’aime à la philo, Olivia Gazalé, tr. 104, nxb Robert
Laffont, 2012
55/ Diderot promenades dans l’œuvre, Jean-Claude Bonnet,
tr.141-143 (tiểu đoạn trích «La Religieuse»), Le Livre de Poche Classiques (2012)
56/ https://fr.wikipedia.org/ tư thế của kiều nữ bacchante nổi bật
trong tác phẩm của Titien đã gợi ý cho nhiều họa sĩ như Bellucci (1654-1726) với
Bacchus et Ariane (1675), hoặc Ingres (1780-1867) với L'Odalisque à l'esclave
(1839) và nhất là bức tranh trước đó, được nói đến nhiều nhưng đã bị mất, mang
tên La dormeuse de Naples (1809).
57/ Người mẫu cho cả hai tác phẩm này của nhà điêu khắc
Clésinger chính là Apollonie, một trong những người tình nổi tiếng có thân hình
đẹp của thi sĩ Baudelaire :http://edithsparis.com/
58/ So với họa phẩm «hàm hồ hai mặt» này (được chọn làm
áp-phích cho cuộc triển lãm hiện nay tại Paris EXPOSITION PICASSO 1932. ANNÉE
ÉROTIQUE, Musée national Picasso-Paris [từ 10/10/2017 đến 11/2/2018]:
http://www.museepicassoparis.fr/
Picasso còn đã đi xa hơn nhiều hơn nữa, đặc biệt trong một số
lớn những tranh đồ họa (dessin) rất «bạo», đã từng được triển lãm năm 2001 tại
Paris (xem bài Picasso érotique ou les surgissements du désir ở đây:
http://www.plumart.com/
59/ L’Erotisme, Francesco Alberoni, bản tiếng Pháp (Raymonde
Coudert dịch từ nguyên bản tiếng Ý), nxb Ramsay (1987): đặc biệt ở các tr.10,
15-17, 27.
60/ Nếu không kể tượng tìm thấy năm 1988 ở Galgenberg (được định
tuổi vào khoảng 30000 năm tr. CN): https://fr.wikipedia.org/
61/ http://www.pileface.com/; xem thêm: https://www.docs-en-stock.com/
62/ Rodin, son musée secret, Nadine Lehni, nxb Albin Michel
(2017) - Xem thêm ở: http://www.europe1.fr/ và http://www.lepoint.fr/
Riêng về Picasso, 30 năm trước bức Cơn Mơ khéo léo «ngụy
trang» ở trên, đã dám huỵch toẹt vẽ cảnh ái ân của bạn thân là Isidre Nonell với
một cô gái (hiện được chưng tại viện bảo tàng mang tên ông ở Barcelone): https://yourartshop-noldenh.com/
63/ Theo phụ bản kèm trong hộp DVD lưu hành (L'Empire des
sens, Nagisa Ōshima)
64/ a- Theo chú thích 36
(https://fr.wikipedia.org/wiki/), «Les véda sont des formules de
liturgie et de rituel qui apparaissent en Inde entre 1500-1000 av. J.- C. et qui
remontent à une tradition peut-être plus lointaine. Elles ne furent pas
transcrites avant le viiie siècle av.J.- C... De ces textes liturgiques et de
rituels sont issus de nombreux commentaires. À la suite du védisme qui place le
désir (kāma) à l’origine de la Création, le brahmanisme développe au contraire
une «idéologie de la rétention». Le tantrisme apparaît en réaction pour
restaurer le kāma en tant que voie de libération (moksha)».
b- https://fr.wikipedia.org/wiki/; xem thêm «Quan niệm về cái đẹp nhục cảm
của Ấn Độ cổ đại qua sử thi Ramayana», Phạm Phương Chi, Tạp chí Văn hóa Dân
gian, số 6 (96)/ 2004, đăng lại ở: https://khanhhoathuynga.wordpress.com/
65/ Lucrèce: vivre humainement parmi les humains, http://www.lemonde.fr/
66/ a- https://fr.wikipedia.org/wiki/Julien_Offray_de_La_Mettrie ; b- Xem thêm
Les plaisirs de l’amoralisme Pour une compréhension de l’hédonisme lamettrien,
Olivier Côté: http://www.revueithaque.org/
Ô riêng chú thích 36 ở trang 17, có nêu rõ rằng
<<Dans La Volupté, La Mettrie écrit plutôt, p. 277, que les remords
viennent «étouffer les dons de la Nature» [dons au sens de plaisir], mais
entre étouffer et refouler la sensation de plaisir, la différence paraît
minime, sinon nulle>>
67/ Triết gia Pháp Michel Onfray, là người rất ngưỡng mộ La Mettrie,
có xuất bản một tác phẩm với tựa đề cố ý trùng tên (L’Art de jouir. Pour un
matérialisme hédoniste, Grasset, 1991)
68/ https://fr.wikipedia.org/
69/
http://plume-dhistoire.fr/
70/ https://fr.wikipedia.org/
71/ Vers la liberté en amour, Charles Fourier, phiên bản nxb
Gallimard (1975), tr.2:
Theo người giới thiệu sách Daniel Guérin, Stendhal đã viết
trong Mémoires d’un touriste (1838) về Fourier rằng «On ne lui accordera que
dans vingt ans son rang de rêveur sublime»
72/ Một trong những câu nổi tiếng của triết gia hàng đầu này
là:
“Ce n’est que le christianisme, avec son fond de ressentiment
contre la vie, qui a fait de la sexualité quelque chose d’impur: il jette de
la boue sur le commencement, sur la condition première de notre vie”… (Le
Crépuscule des Idoles, Chương 12, tr. 235 Ce que je dois aux anciens, §4):
https://fr.wikisource.org/
73/ Olivia Gazalé, trong Je t’aime à la philo (chú thích 54),
đã trích dẫn giả thuyết của triết gia Paul Ricœur cho rằng việc Ky-tô giáo đã
đi lùi so với lúc đầu trên vấn đề thân xác là do chịu ảnh hưởng của những tín đồ
gnose ở vùng Cận Đông và Trung Đông (tr. 84-85). Mặt khác, Michel Onfray cũng
đã kịch liệt đả phá Nhà Thờ về những sai lầm «kinh điển» của họ, qua nhiều
tác phẩm, ngoài quyển đã nêu ở chú thích 67, như: Théorie du corps amoureux.
Pour une érotique solaire (2000); Journal hédoniste (nhiều Volumes kể từ
1991). Dĩ nhiên, đối mặt với triết gia rất «đắc truyền thông» này, đã có nhiều
ý kiến phản biện, chẳng hạn như bài viết đặc sắc của Jean-Michel Maldamé (o.p.
Dominicain): Michel Onfray ou l’hédonisme comme religion, https://www.cairn.info/
74/ Le monde comme volonté et représentation II, Arthur
Schopenhauer, Nxb Gallimard (2009) là ấn bản được dùng ở đây
75/ Freud chỉ nói tới sự trùng hợp «tình cờ» các ý tưởng của
mình với những người khác chứ chưa bao giờ nhìn nhận đã được «gợi ý» từ những
công trình có trước: xem thêm ở
http://www.schopenhauer.fr/
Trong Au-delà du principe de plaisir (1914) tr.
96-97), Freud viết:
«En ce qui concerne la théorie du refoulement, j’y suis
certainement parvenu par mes propres moyens, sans qu’aucune influence m’en ait
suggéré la possibilité. Aussi l’ai-je pendant longtemps considéré comme
originale, jusqu’au jour où Otto Rank eut mis sous mes yeux un passage du Monde
comme Volonté et comme représentation, dans lequel Schopenhauer cherche à
donner une explication de la folie. Ce que le philosophe dit dans ce passage au
sujet de la répulsion que nous éprouvons à accepter tel ou tel côté pénible de
la réalité s’accorde tellement avec la notion du refoulement, telle que je la
conçois, que je puis dire une fois de plus que c’est à l’insuffisance de mes
lectures que je suis redevable de ma découverte»
Và, trong lần tái bản năm 1920 của tác phẩm trên, Freud có
chua thêm (tr.107-108):
«Il est une chose que nous ne pouvons nous dissimuler:
c’est que, sans nous en apercevoir, nous avons pénétré dans les havres de la
philosophie de Schopenhauer, pour laquelle la mort serait le «résultat
proprement dit» et le but de la vie, tandis que l’instinct sexuel
représenterait l’incarnation de la volonté de vivre»
76/ Xem Les arguments des détracteurs du «Livre noir de la
psychanalyse», Jean-Paul Krivine, SPS n° 271, tháng 3/ 2006:
http://www.pseudo-sciences.org/
77/ Le crépuscule d’une idole, l’affabulation freudienne:
rideau de fumée autour du livre de Michel Onfray,
Jean-Paul Krivine
- SPS n° 291, 7/ 2010 và n° 293 (Hors-série psychanalyse), 12/ 2010; Michel
Onfray déboulonne Freud et fait grincer des dents (http://www.lemonde.fr/).
Xem thêm Michel Onfray et Freud: Mensonge, sexe et
occultisme (22/01/2013),https://www.unidivers.fr/, và BORIS
CYRULNIK - MICHEL ONFRAY/ DEFENSE ET CRITIQUE DE LA PSYCHANALYSE, http://michel-onfray.over-blog.com/
78/ La psychanalyse en procès, Le Nouvel Observateur hors
série N° 56, octobre/ novembre 2004: đặc biệt là bài
La psychanalyse a-t-elle une valeur scientifique? của
Jacques Van Rillaer, tr.78-81.
79/ Ngay cả Jung, người bạn (gần như đồng nghiệp) danh tiếng,
đồng hành thuở đầu với Freud trước khi có bất đồng gay gắt đến độ phải rời bỏ
ông (như một số chuyên gia lỗi lạc khác), cũng đã công nhận:
«C'est Sigmund Freud, qui le premier, a essayé d'explorer
empiriquement l'arrière-plan inconscient de la conscience.
Il a pris hypothèse que les rêves ne sont pas le produit du
hasard, mais sont en relation avec nos pensées et nos problèmes conscients. Une
telle hypothèse n'avait rien d'arbitraire. Elle s'appuyait sur la conclusion, à
laquelle étaient parvenue des neurologues éminents, (par exemple Pierre Janet),
que les symptômes névrotiques sont liés à une expérience consciente.
Il semble même que ces symptômes soient la manifestation de
zones dissociées de notre conscience, qui, à un autre moment et dans d'autres
conditions, peuvent redevenir conscientes».
[C.G. Jung "L'homme et ses symboles", Robert
Laffont (1964), tr. 25/26]
III. Nhục cảm giữa lòng khoa học và xã hội hiện đại
|
13/2/2018
Bùi Đức Hào
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét