Lần theo phong thủy
1. Núi
thiêng trong kinh thành
Trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã tuyên bố, Thăng Long
"ở nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi… đã đúng ngôi
Nam Bắc Đông Tây, lại tiện nghi núi sông sau trước”. Không thể phủ nhận rằng,
cùng với thiên thời và nhân hòa thì "địa lợi" là một trong những yếu
tố để người xưa đi đến quyết định chọn Thăng Long là kinh đô muôn đời cho con
cháu đời sau.
Sau hơn 1.000 năm tới nay, những yếu tố làm nên phong thủy của
Thăng Long xưa đã thay đổi đi nhiều, cần có một cuộc khảo sát dưới góc độ địa chí
mới có thể hình dung lại được.
“Thế rồng cuộn hổ ngồi”
Kinh đô Hoa Lư ở vị trí cuối non đầu nước, tiện cho việc lui
khi có giặc ngoại xâm đe dọa nhưng Lý Công Uẩn nhận thấy nếu cứ ở đây thì đường
sá đi lại không thuận tiện, không tương xứng với vị thế của đất nước đang vươn
lên nhanh chóng, nên muốn dời đô ra vị trí thành Đại La xưa. Ông cho người đi
thăm dò để biết thế đất, thế sông núi ở nơi mà ông sẽ dựng kinh đô mở mang cơ
nghiệp nhà Lý.
Trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn viết: “Huống chi thành Đại
La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn
hổ ngồi, chính giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt
đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối
tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa,
thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi
muôn đời”.Bản đồ kinh thành Thăng Long thời Hồng Đức (1490). Nguồn:wiki
Thế núi và mặt đất rộng và bằng phẳng mà Lý Công Uẩn nói
chính là yếu tố phong thủy của một vùng đất. Không chỉ có vậy, quanh
thành Đại La xưa còn có một dải sông Lô tiếp giáp với với vùng Phong Châu, Bạch
Hạc (nay thuộc Phú Thọ), Tam Đái (nay thuộc Vĩnh Phúc), dưới liền sông Đại
Hoàng, phủ Lý Nhân (nay thuộc Hà Nam). Dòng sông Nhĩ (đoạn sông Hồng chảy qua
Hà Nội) chảy vòng quanh như vành khuyên.
Với người xưa, phong thủy là yếu tố không thể thiếu được khi
người ta chọn vị trí đặt kinh đô, đặt phủ hay xây các công trình lớn như: cung
điện, đền đài. Các công trình nhỏ gồm: chùa, đình cũng không thể bỏ qua yếu tố
phong thủy.
Phong thủy hiểu một cách đơn giản là trước phải có tiền án,
công trình lớn thì là quả núi, ngọn đồi, nhỏ thì là mô đất để chắn, trấn giữ
không cho tà thần hung khí vào chính đường. Bên phải hay bên trái phải có gì được
mệnh danh là Bạch Hổ và Thanh Long để hỗ trợ. Sau lưng phải có cái gì đó làm chỗ
dựa vững chắc cho công trình gọi là hậu chẩm. Với kinh đô lại phải có sông hay
hồ dài gọi là long mạch và phải luôn được khai thông để giữ vượng khí.
Nếu mọi nếu tố thuận lợi nhưng về phong thủy lại thiếu hoặc
không đầy đủ thì người ta phải sửa lại thiên nhiên, đắp núi giả, đào lại sông uốn
nắn theo hướng muốn có. Mục đích của phong thủy là đảm bảo cho công trình tránh
được những tác hại của thiên nhiên huyền bí có được chỗ dựa vững chắc của khí
thiêng đất trời.Đền Sưa trên Núi Sưa (nay thuộc vườn Bách Thảo)
“Cao nhất xích vi sơn”
Từ khi Lý Công Uẩn xây cung ở phía Đông thành Đại La, ông đã
có ý định hoàn thiện các ảnh hưởng của phong thủy tới thành với mong muốn thành
bền vững trong đó có đắp núi đất.
Người xưa quan niệm “Cao nhất xích vi sơn” (cao một mét cũng
gọi là núi) nên núi ở Thăng Long và Hoàng thành không cao. Trong trại Hàng Hoa
xưa (nay là vườn Bách Thảo) có núi Sưa. Trên đỉnh ngọn núi này còn có
một ngôi đền nhỏ thờ Hắc đế. Tấm biển trên ngôi đền ghi dòng chữ:
“Sưa sơn lăng miếu”.
Ở đường Hoàng Hoa Thám có núi Voi. Cuối thế kỷ 19, chính quyền
Pháp đã cho phép xây dựng nhà máy bia Hommel (nay là Nhà máy bia Hà Nội) ở vị
trí này.
Trong thành Hà Nội xưa cũng có 4 quả núi. Sách Thượng kinh
phong vật chí viết: “Thượng kinh có núi Nùng ở giữa trên núi có một chỗ hõm xuống
gọi là rốn rồng. Phía Bắc có Tam Sơn, phía Tây có Thái Hòa, phía Tây Bắc có
Khán Sơn…”
Nùng Sơn là núi quan trọng nhất đối thành Thăng Long. Vua
Thành Thái đoán núi Nùng rất cao, có mây bao quanh nên mới viết: “Nùng lĩnh
phù vân kim cổ sắc” (Mây trên núi Nùng mang màu kim cổ). Người xưa có
câu: “Sơn bất tại cao, hữu thần tắc linh” nghĩa là núi thiêng không
bởi cao mà có thần trên đó là thiêng. Nùng Sơn là núi thiêng.
Nhà sử học Phan Huy Chú viết trong Hoàng Việt Dư địa
chí: “Núi Nùng ở giữa thành. Triều Lý định đô lấy núi làm đài chính điện, đến
thời Lê là điện Kính Thiên, nay (triều Nguyễn) là điện phía trước hoàng cung.
Xưa truyền rằng giữa núi có một lỗ hổng là nơi thông hơi của hồ ao và núi, nên
gọi là Long Đỗ (rốn rồng)”.Điện Kính Thiên chính là Núi Nùng xưa. Ảnh tư liệu
Sách Đại Nam Nhất thống chí của nhà Nguyễn cũng
chép: “Núi Nùng ở trong thành, có tên nữa là núi Long Đỗ. Lý Thái Tổ đóng kinh
đô, dựng chính điện ở trên núi, đời Lê gọi là điện Kính Thiên, bản triều (Nguyễn)
đặt làm hành cung, vẫn gọi theo tên cũ, năm Thiệu Trị thứ ba, đổi gọi là điện
Long Thiên, điện Đình ở núi Nùng, có xây bệ cao chín bậc, tả hữu có hai con rồng,
dài hơn một trượng, chế từ đời Lý”.
Ngôi làng nhỏ ven sông Tô Lịch xưa trở thành kinh đô năm 1010
thì thần Long Đỗ núi Nùng được vua Lý phong là “Quốc Đô Định Bang Thành hoàng Đại
Vương”. Khi xây chính điện thì đền thần Long Đỗ núi Nùng được dời ra ngoài
thành đền Bạch Mã, (nay ở số 78 phố Hàng Buồm). Người xưa gọi là “Nùng
Sơn chính khí” là khí chất thiêng liêng của Hà Nội cổ. Khi thành thất thủ, người
Hà Nội đã cảm khái:
Uất khi Nùng Sơn cây muốn cựa
Thương tâm Nhị thủy sóng tranh xao
Đời nhà Lê, vua Lê Thánh Tông thường lên Khán Sơn xem duyệt
binh vì xung quanh có khoảng rộng đủ chỗ binh lính diễu hành. Năm Dương Đức
(1673) vua Lê Gia Tông cho dựng chùa trên núi, chùa thờ Phật có cả tượng
Lê Thánh Tông.
Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại quân Tây Sơn lập ra triều Nguyễn
đã chuyển kinh đô vào Huế đồng thời cho phá thành Thăng Long thời Lê để xây
thành mới gọi là Bắc thành (sau gọi là thành Hà Nội). Vì kinh đô của Đại Nam ở
Huế nên Bắc thành phải nhỏ và thấp hơn. Tuy nhiên vị trí các quả núi trong
thành tượng trưng cho ngũ hành vẫn giữ nguyên.
Theo phong thủy, Khán Sơn tượng trưng cho sao Kim trấn trị
phía Tây của thành. Thời Tự Đức (1848) bố chánh Hà Nội là Lê Hữu Thanh
cùng với tổng đốc Hà Ninh là Hoàng Thu cho xây một ngôi đình nhỏ trên Khán Sơn
làm chỗ hội họp của văn nhân hàng tháng, họ uống rượu làm thơ. Các nhà Nho Hà Nội
như Lê Đình Diên, Nguyễn Siêu lên đây uống hoàng hoa tửu vào Tết Trùng cửu (9/9
Âm lịch). Sau khi Pháp chiếm thành Hà Nội, Khán Sơn bị bỏ hoang đổ nát rồi bị
phá hủy. Năm 1889, tượng Lê Thánh Tông được đưa về thờ ở chùa Dục Khánh bên cạnh
đền Huy Văn.
Tam Sơn nằm ở phía Bắc của thành là hai doi đất dính ở phía đầu
tách ra ở phía cuối, tượng trưng cho sao Thủy và Thổ, kết nối với đền Trấn Vũ tạo
thành vòng cung trấn giữ phía Bắc của thành. Tháng 4/1882, thực dân Pháp tấn
công thành, vì ít quân, vũ khí lạc hậu và nhiều tướng đảo ngũ nên thành thất thủ.
Giữ khí tiết với Thăng Long, Tổng đốc Hoàng Diệu đã treo cổ tự
vẫn trên Tam Sơn. Năm 1885, núi bị san phẳng, sang đầu thế kỷ 20 chính quyền
cho xây trường Alber Sarraut ở vị trí núi xưa. Phía Đông của thành có núi
Thái Hòa tượng trưng cho sao Mộc bị san phẳng năm 1885. Phía Nam vị trí Cột cờ
thời Lê cũng là một núi thấp tượng trưng cho sao Hỏa.
Dời đô về Thăng Long là sự lựa chọn, phát huy thuận lợi của
cả thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Về mặt địa lợi, sử gia Ngô Thì Sĩ đã phân
tích rất rõ: “Đất Long Đỗ là nơi Cao Biền đóng ở đấy, núi Tản Viên chống vững
một cõi, sông Phú Lương như hào trời sinh ra, ngàn dặm bằng phẳng, trăm họ
giàu có, phía tây thông với Sơn Tây, Tuyên Hưng; phía Bắc thấu đến Ninh Sóc,
Kinh Bắc. Miền Đông Nam thì vận chuyển bằng thuyền, miền Cần Xương thì liên tục
bằng trạm, là nơi trung tâm của nước bốn phương chầu về. Núi là vạt áo che,
sông là dải đai thắt, sau lưng là sông, trước mặt là biển. Địa thế hùng mạnh
mà hiểm, rộng mà dài, có thể làm cho nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền.
Hình thế nước Việt thật không nơi nào được như nơi này”. (Theo Trung tâm Bảo
tồn di sản Thăng Long - Hà Nội) |
Cùng với núi nhân tạo, Thăng Long còn có sông Tô Lịch được coi là long mạch. Sông Tô Lịch xưa dài 30 km, bề ngang rất rộng và là đường giao thông thủy quan trọng từ phía Đông Nam vào thành Thăng Long.
Tô Lịch bắt đầu từ Hà Khẩu (tương ứng với đầu phố Hàng Buồm hiện nay) nơi tiếp giáp với sông Hồng chảy qua Ngõ Gạch, Hàng Lược, men theo chân thành Thăng Long (nay là Phùng Hưng) qua các làng Thụy Khuê, Hồ Khẩu đến Yên Thái thì gặp sông Thiên Phù, nơi ngã ba này gọi là Giang Tân (nay là khu vực chợ Bưởi). Vì Tô Lịch cũng nhận nước của Thiên Phù rồi chảy qua Nghĩa Đô, đến Cầu Giấy theo đường Láng xuống Ngã Tư Sở. Từ ngã tư này, sông quặt theo hướng Đông Nam chảy qua Thượng Đình, Hạ Đình, Định Công đổ ra sông Nhuệ, đoạn sông này dài 13,5km.
Một thuyết khác kể, vào thế kỷ 9, khi Cao Biền làm Tĩnh hải vương quân Tiết độ sứ An Nam Đô hộ phủ, một hôm Cao Biền du ngoạn, xem phong thủy thì gặp một ông già hình nhân kỳ dị từ lòng sông bước lên. Cao Biền hỏi tên thì ông già nói: “Lão phu họ Tô, tên Lịch, quê ở gần đây”, nói xong ông già biến mất. Biết đây là thần sông nên Cao Biền đặt tên sông là Tô Lịch.
Khi Lý Công Uẩn dời Hoa Lư ra Hà Nội đã theo sông Tô Lịch vào thành Đại La. Trải qua các giai đoạn lịch sử, Tô Lịch có nhiều tên gọi khác như: Tô Lịch, Lai Tô, Hương Bài, Địa Bảo nhưng dân chúng Thăng Long thường gọi sông Tô.
Sông Tô là đường giao thông quan trọng nối từ Đông sang Tây kinh thành nên nhiều đoạn trên bến dưới thuyền bán buôn tấp nập. Nổi tiếng nhất là chợ Bạch Mã, tức chợ Đông ở gần Hà Khẩu. Thời Lý Trần, các vua thường đi thuyền rồng dạo chơi trên sông Tô đến cầu Mọc thì dừng lại vì ở đây có đình Lý Thôn, quanh đình cây cổ thụ sum suê, phong cảnh đẹp. Dọc theo sông Tô xưa có rất nhiều cầu.
Sông Tô nước chảy quanh co,
Cầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya
Đi đâu mà chẳng biết ta
Ta dân Kẻ Láng vốn nhà trồng rau
Sông Tô đoạn chảy qua Nam hồ Tây còn là con sông của trai thanh gái lịch những đêm trăng trong gió mát:
Biết nhà cô ở đâu đây,
Hỡi trăng Tô Lịch hỡi mây Tây Hồ?
Xưa làng Hồ Khẩu và Yên Thái làm giấy đều ngâm dó và đổ bọt giấy ra sông Tô. Nửa đầu thế kỷ 18, sông Hồng đổi dòng cát bồi lấp cửa sông Thiên Phù nên sông này thành sông chết vì thế Tô Lịch mất nguồn cấp nước. Mùa khô, nước sông Hồng cạn không thể cấp cho Tô Lịch và cho cả hồ Tây. Nhưng mùa mưa nước sông Hồng dâng cao lại qua cửa Hà Khẩu chảy vào Tô Lịch. Khi sông Hồng đổi dòng, cát bồi lấp Hà Khẩu nên nước không thể chảy vào Tô Lịch và Tô Lịch thành sông chết.
Năm 1889, người Pháp cho lấp khúc sông gần Hàng Chiếu làm chợ Đồng Xuân và sau đó làm cống ra đến tận trường Chu Văn An. Từ đó phần còn lại của con sông này bị lấp dần xóa sổ đoạn sông thắng cảnh và là một phần long mạch của Thăng Long - Hà Nội trong nhiều thế kỷ. Có người cho rằng vì thực dân Pháp… lấp long mạch nên họ phải trả giá bằng những thất bại thảm hại ở Việt Nam.
Xưa núi Nùng, sông Tô được coi là biểu tượng của Thăng Long. Tô Lịch hiện vẫn còn nhưng trở thành kênh thoát nước cho cả khu vực từ phía Tây kéo xuống phía Đông Nam thành phố, bắt đầu từ ngã ba Hoàng Quốc Việt và Lạc Long Quân. Hy vọng rằng, trong tương lai, nước sông Tô Lịch sẽ lại trong mát như câu ca dao xưa:
Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét