"Giá như với bất kỳ ngọn núi nào, ta cũng thành
tâm, chánh niệm, tinh tấn như với Kailas, hẳn ngọn núi ấy sẽ trở
thành ngọn núi thiêng. Giá như mọi việc trong đời, ta
cũng thành tâm, chánh niệm, tinh tấn như với Kailas, hẳn ta
sẽ dễ dàng nhận ra nát bàn chẳng phải ở đâu xa..."
Núi thiêng Kailas
Trong dãy Hy Mã Lạp Sơn, tuy không cao như Everest
(8.848m) nhưng Kailas (6.714m) là ngọn núi thiêng liêng nhất trong
lòng hàng tỷ tín đồ Phật giáo, Indu giáo, Đạo Jains, và Đạo
Bon.
Với tín đồ Đạo Bon, Kailas là nơi ngự tọa của Thần
Bầu Trời. Với tín đồ Đạo Jains, Kailas là nơi người đầu tiên đạt đến
sự chứng ngộ. Với Indu giáo, Kailas là trú xứ của thần Shiva. Còn
các tín đồ Phật giáo thì tin rằng Đức Phật cùng 500 vị A
La Hán đã từng đặt chân lên Kailas vào thế kỷ thứ V trước Công
nguyên.
Kailas hay Ngân Sơn, được mệnh danh là ngọn núi thiêng,
là bàn thờ tối thượng, là siêu thánh địa, là cái thang huyền bí,
là trung tâm trái đất, là cái trục của thế giới, là trụ ăng-ten
vĩ đại thu hút năng lượng vũ trụ nuôi dưỡng trái đất tồn
sinh… Trừ mùa đông lạnh giá, mỗi ngày Kailas thu hút hàng
ngàn tín đồ hành hương từ khắp nơi hướng về.Núi thiêng KailasLần đầu tiên tôi được nghe và thật sự chấn động về
Kailas là dịp theo đoàn hành hương đất Phật mùa xuân năm
2003, khi thầy Huyền Diệu kể chuyến Kora của thầy quanh ngọn núi
thiêng. Được biết năm sau thầy lại hành hương Kailas, trong phút cảm
khái dạt dào, tôi xin thầy cho tôi cùng đi. Thầy nói: “Được. Nhưng trước hết,
khi về Việt Nam, anh hãy leo lên đỉnh Fanxipan, hướng về phía
Kailas, chắp tay cầu nguyện đức Quan Thế Âm phù hộ độ
trì”. Năm sau, tôi thành tâm làm y chang lời thầy dặn. Và chờ đợi phép
mầu. Năm 2007, thầy trở lại Huế. Mãi đến khi chia tay, tôi vẫn không
nghe thầy nhắc chi chuyện Kailas. Tôi nghĩ thầm, chắc mình không có duyên
với ngọn núi này.
Nhưng rồi cơ duyên đã đến. Tháng 11 năm 2010, Nguyễn
Tường Bách báo tin anh có ý định tổ chức một chuyến hành
hương Kailas. Tôi nhận lời.
Dặm dài gian khổ và hiểm nguy
Hóa ra cũng còn nhiều bạn khác hưởng ứng - bốn người, tám người,
rồi mười hai, cho đến khi chốt danh sách, đoàn lên đến 22 người. Xuất
phát từ TP Hồ Chí Minh, chúng tôi bay sang Bangkok, lên
Kathmandu (Nepal). Tại đây, chúng tôi kết hợp với đối tác Samrat
- một tổ chức du lịch chuyên nghiệp của Nepal, để bắt đầu cuộc hành
trình.
Con đường nối liền Nepal với Tây Tạng vắt qua
dãy Hy Mã Lạp Sơn. Hàng ngàn năm trước đó là con đường sạn đạo
giao thương hàng hóa giữa hai vùng miền, và giao lưu văn hóa giữa
các quốc gia. Từ năm 1993, với sự đồng thuận của Nepal, Trung Quốc nâng
cấp con đường thành đại lộ hiện đại với cái tên
thật mĩ miều: đường hữu nghị - không biết có bao nhiêu sản phẩm hữu nghị
kiểu ấy nối liền Trung Quốc với các nước bạn láng giềng môi hở răng lạnh.
Đến Men Chu, xe bắt đầu rẽ lên hướng Bắc, tiếp tục rong
ruổi qua những ngọn đèo trên 4.500m dọc theo dãy Hy Mã Lạp Sơn. Bức
tranh Tây Tạng trải dài ngút mắt, bên trái là những đỉnh núi cao vời
tuyết phủ, bên phải là thảo nguyên mênh mông. Trời Tây Tạng xanh
một màu xanh chi lạ, mây trắng phau và kiên cố như đã từng tồn tại thế
hàng vạn năm rồi. Không gian rực rỡ một thứ sắc màu thuần
tuý, thanh tịnh và trong suốt. Vài chú nai vàng ngơ ngác nghểnh
cổ chào khách phương xa. Trước sau cũng chỉ núi đồi và thảo nguyên,
nhưng bức tranh Tây Tạng cực kỳ biến hóa, đa sắc
màu, sinh động và hấp dẫn. Bởi vì đó là Tây Tạng - một cảnh
giới khác hoàn toàn so với cái trần gian dưới kia. Có lẽ nhờ thế
khách hành hương tạm quên đi dặm dài gian khổ và những cung đèo mà
chiếc xe bus như đang lòng lọng lao qua giữa lưng chừng trời. Và.
Cũng phải kể thêm tiếng hát Trọng Lý. Để bắt đầu, cô nói “Bây giờ cháu hát để
các cô chú ngủ nhé”, nhưng rồi khi cô hát thì không ai ngủ được cả. Ở bên nhà
tôi từng nghe Lý hát, nhưng sang đây, dưới sức nặng của một nền văn
hóa độc đáo và thâm hậu, tiếng hát Trọng Lý mang âm hưởng hoàn
toàn khác - sâu thẳm, huyền bí, và mầu nhiệm. Tôi không biết là do cô
cảm được cái hồn của Tây Tạng, hay do văn hóa Tây Tạng nhập
thần vào tiếng hát của cô. Thảo nào, trả lời câu hỏi cảm tưởng về
chuyến hành hương, cô nói “Cháu có cảm giác như được về lại ngôi
nhà xưa của mình”…Lý hát trên những dặm dàiĐó đây, trên các đỉnh đèo, rực rỡ màu cờ phướn ngủ
sắc. Mỗi lá phướn là một lời cầu nguyện, để rồi gió sẽ mang lời cầu
nguyện phước lành đi khắp muôn phương. Gần lên phía Bắc, đôi khi xe chạy men
theo dòng sông nước trong xanh lai láng, thì ra đó là Yarlung Tsangpo - một
trong những con sông vĩ đại nhất thế giới. Không gì xúc động bằng
được chiêm ngắm nước đầu nguồn của một con sông lớn.
Đoàn lần lượt nghỉ đêm tại các thị trấn Nyalam,
Saga, Paryang, Manasarovar, và sau cùng Darchen - dưới chân Kailas. Tưởng cũng
cần kể vô số những khó khăn mà khách hành hương phải đối mặt.
Kinh nhất là bệnh độ cao. Ở độ cao từ 3.500m trở lên, lượng oxy trong không khí
chỉ còn một nữa; hậu quả là người thở bị hụt hơi, khí lực tiêu
tán đi đâu hết, tệ nhất là như có hàng trăm mũi kim châm vào đầu. Cùng với
cái lạnh cắt da, điều kiện vệ sinh ngặt nghèo, không nuốt nổi bởi
không quen khẩu vị thức ăn Tàu hoặc Ấn Độ, đặc biệt tình
trạng mất ngủ thường trực... trừ một số ít bạn trẻ sớm thích
nghi, còn hầu hết đành chịu trận. Có người phải nhập viện, ngày về ai nấy thấy
mình nhẹ mất năm bảy cân.
Viên ngọc quý trong tuyết
Người Tây Tạng gọi Kailas là Kang Rinpoche - Viên
ngọc quý trong tuyết. Theo Tạng kinh, đó là một quần thể gồm năm đỉnh
núi đại diện cho năm loại trí của Phật mà Kailas
- pháp giới trí, là trung tâm; bốn đỉnh còn lại là bình đẳng chánh
trí, diệu quan sát trí, thành sở tác trí, đại viên kính trí. Đó
là trí tuệ của ngủ vị thiền Phật, nếu chứng ngộ, con người sẽ được
giải thoát hoàn toàn và đạt được cõi vị Phật.
Kailas còn được mệnh danh là “Vũ trụ
tâm linh”. Kinh Tạng Phật giáo gọi Kailas là núi Tu
Di. Là nơi có hang động của Tổ sư Milarepa, đạo tràng của Tổ
sư Liên Hoa Sanh, và hang động của Bồ Tát Quan Âm. Là ngọn núi
thiêng quanh năm tuyết phủ, nơi có nhiều hoa văn kỳ bí và độc đáo,
có dấu chân Phật, có lưỡi rìu nghiệp lực, có tảng đá nghiệp
lực, có mặt gương cong thời gian, có những đoạn đường đi qua người như
không có trọng lượng…
Kailas cũng còn là điểm khởi nguồn của bốn con sông lớn.
Người Tây Tạng gọi Brahmaputra (hay Yarlung- Tsangpo) từ phía Đông của
Kailas là con sông chảy từ hàm ngựa. Sông Sutlej từ phía Tây là con sông chảy từ
miệng voi. Sông Indus từ phía Bắc là con sông chảy từ miệng sư tử. Và
Karnali (hay Gogra) là con sông chảy từ miệng chim công. Do bốn
loài thú này là vật cưỡi của các vị Thiền Phật nên người Tây Tạng coi
những con sông này là một phần của Mandala vĩ đại mà trung tâm là đỉnh
Kailas thiêng liêng.
Ngay dưới chân Kailas là hai hồ thiêng Manasarovar và
Rakastal. Manasarovar hình mặt trời, Manas là trí tuệ hoặc tỉnh
thức. Manasarovar có nghĩa là Hồ tỉnh thức và khai sáng. Đối lập với
Manasarovar là Rakastal, hình mặt trăng, Rakas có nghĩa là bóng tối, vô
minh. Rakastal là hồ ma quỷ. Theo truyền thuyết, chính thần
Brahma đã tạo ra hồ Manasarovar để chứa đầy một thứ nước dùng để tạo ra sự sống.
Các tín đồ hành hương tin rằng ai tắm gội trong hồ này sẽ được rửa
sạch tội lỗi và thấu triệt những điều huyền bí. Hai hồ này
chính là hai huyệt đạo quan trọng của hai đường kinh mạch nối liền với bộ óc là
đỉnh Kailas uy nghi, huyền bí. Người Tây Tạng tin rằng
Kailas tượng trưng cho luân xa não bộ của thế giới, là nơi chứa
đựng những luồn từ điện linh thiêng nhất.Hồ thiêng ManasarovarChúng tôi nghỉ đêm nơi một khách sạn nhỏ bên bờ hồ
Manasarovar. Vài bạn trẻ trong đoàn gồng mình xuống tắm - Không biết nước hồ lạnh
giá có giúp làm thanh sạch tâm hồn và cái thân tứ đại của họ?
Phần tôi, tôi không tin điều kỳ diệu ấy, nhưng cũng cố lội xuống
ngang gối, uống vài hớp, vốc vài bụm rửa cái mặt nhớp nháp bụi đường. Và không
quên lấy ít nước hồ thiêng đem về làm kỷ niệm. Trước mặt tôi bây giờ
là chiếc ve con chứa nước hồ Manasarovar trong vắt, gợi nhớ một trời kỷ niệm,
trong đó ấn tượng sâu đậm hơn cả là buổi hoàng hôn lộng lẫy
và huyền bí trên hồ Manasarovar - Bỗng bên kia hồ, một chiếc cầu vồng ngũ
sắc xuất hiện, rực rỡ và đẹp đến ngẩn ngơ. Nhiều bạn trong
đoàn thành kính sụp lạy, miệng lâm râm niệm đức Quan Thế
Âm Bồ Tát. Tôi thừa nhận rằng, riết rồi đôi khi tôi cũng tỏ
ra biết kính sợ không thua gì họ.
Sáng và tối
Theo truyền thuyết, vào thế kỷ thứ XII, Kailas là nơi diễn
ra trận đấu phép giữa Đại hành giả Phật giáo Milarepa và
vua phép thuật Naro Bon của đạo Bon. Kết cục, Naro Bon bị thua và bị ném về
phía Bắc của Kailas, phía mặt đen của ngọn núi, là nơi có các thế lực quỷ thần.
Cũng từ sau chiến thắng của Đại hành giả Milarepa, Phật
giáo hoàn toàn thay thế Bon giáo, phát triển sâu rộng và trở
thành quốc giáo của Tây Tạng.
Không có được niềm tin tâm linh thâm hậu như
các bạn trong đoàn, tôi cứ băn khoăn hoài: Vì sao bên cạnh hồ tỉnh thức Manasarovar nhất
thiết phải có hồ ma quỉ Rakastal? Vì sao trên đất chư
thiên ẩn mật và mầu nhiệm lại tồn tại cái
tâm nhị nguyên - phân biệt thắng thua, đen trắng, xấu tốt,
được mất. Và vì sao…?
Tôi có chút kinh nghiệm từ chuyến hành
hương Tây Tạng năm 2002. Hồi ấy, trước khi lên đường, tôi không
may bị một trận cảm cúm nặng. Hậu quả là tám ngày lang thang trên
kinh đô xứ Phật, tôi liên tục bị chứng nhức đầu, khó thở, khịt ra
máu, khạt ra máu, và mất ngủ. Rút kinh nghiệm, lần này tôi dành hơn
năm tháng trước chuyến đi để tập luyện thể chất và chuẩn bị tinh
thần. Tôi thấy mình sung mãn không thua chi thời trai trẻ. Nhưng rồi
khó khăn lại ập đến. Trên chuyến bay từ Bangkok lên Kathmandu, người ta cho tôi
ăn thứ gì không biết mà vừa xuống máy bay, tôi đã gửi hết cả lại cho phi trường
quốc tế Nepal. Suốt hai ngày ở Kathmandu, trong lúc các bạn tham quan đó đây,
tôi phải nằm bẹp dí trên giường, chỉ uống nước và thuốc. Thế là sợ già chưa đủ
đô, tôi còn phải mang thêm cả bệnh tháo chảy. Không biết lần này nữa, liệu tôi
có vượt qua được không!
Anh trưởng đoàn phía đối tác Samrat cho biết, hai mươi
năm trong nghề, anh chỉ gặp có hai du khách cao tuổi hành
hương Kailas, một là ông già người Ấn Độ 75 tuổi, và nay là tôi
71 xuân thì. Sau khi cẩn thận ngắm nghía tướng tá của tôi, anh phán:
“Được, không sao. Tôi sẽ giúp”. Thế nhưng vào phút ngặt nghèo chuẩn bị xuất
phát vòng Kora quanh núi thiêng thì anh ta biến đâu mất. Các bạn trong
đoàn lo cho tuổi tác và sức khỏe của tôi nên ai cũng cực lực can
ngăn. Đặc biệt, tay hướng dẫn viên phía đối tác Tây Tạng cương
quyết không chịu để tôi đi; bực quá tôi thách anh ta đấu võ, nếu tôi thắng
thì anh ta phải đổi ý. Nhưng anh ta chỉ im lặng bỏ đi. Tôi quay
sang cầu cứu Trịnh Thanh Cường. Cường là hướng dẫn viên du lịch tâm
linh chuyên nghiệp. Anh, từng bốn lần thiền hành quanh
Kailas, ăn chay trường, giản dị, khiêm tốn, đạo hạnh,
làu thông giáo pháp… đến nỗi mọi người gọi anh là “Sư Cường”.
Cường chỉ nhỏ nhẹ nhưng không kém phần cương quyết: “Không được.
Nếu chú muốn đi thì chú phải ký vào “Sanh tử trạng” (Tờ cam đoan chết bỏ). Và
thế là tôi buông tay… Sau này có dịp phân tích khoảnh khắc đó, tôi thừa nhận rằng
tôi đã chịu bỏ cuộc vì một phần cái uy đức của “Sư Cường”, phần còn lại
là vì tôi hèn - tôi sợ chết. Trong thời gian chuẩn bị tinh
thần trước chuyến đi, tôi đã rất nhiều lần nghĩ về những hiểm nguy và cái
chết - vẫn thấy lòng nhẹ tênh. Vậy mà bây giờ trước cái chết thật,
tôi lại sợ.
Vòng Kora quanh Kailas, tổng cộng 52 km, mất ba ngày hai đêm,
còn gọi là cuộc hành thiền quanh núi thiêng - theo chiều kim đồng hồ đối với tín
đồ Phật giáo, và ngược chiều kim đồng hồ đối với môn đồ đạo Bon.
Với người Tây Tạng, cuộc hành thiền được xem là hành trình đi từ vô
minh đến khai sáng, từ kiêu mạn và tham đắm vật chất đến nhận
thức thấu đáo về nghiệp duyên cuộc đời; khách hành
hương có dịp đối diện với tâm thức mình, chứng
nghiệm những đổi thay trong tâm hồn mình.
Đã đến giờ khởi hành. Ai đi bộ thì đi bộ, ai đi ngựa thì
đi ngựa, hành lý đã có trâu Yak thồ. Tạm biệt Chukku Gompa. Tạm biệt
các bạn. Tạm biệt tôi.
Trên đường trở lại khách sạn ở Darchen (khoảng 7km)
cùng với các bạn trong đoàn không đăng ký vòng Kora, tôi tự an ủi mình:
có lẽ núi đã không chọn mình, có lẽ mình chưa đủ phước duyên để được đi.
Bỗng thấy mình phiêu diêu, thanh thoát,
và thông tuệ lạ thường - cái trạng thái tôi chưa từng gặp
bao giờ. Hình như bên Công giáo gọi đó là “mặc khải”, còn bên Phật
giáo gọi là “ngộ”. Lòng tràn ngập niềm hân hoan và an lạc đến
trào nước mắt… Bây giờ thì tôi đã nhận ra, dù vẫn không chắc - đó có phải
là ơn phước thật sự, hay chỉ là ảo giác của tình trạng kiệt
sức sau một trận quyết đấu, thậm chí hay là hệ quả của cái gọi là
“Phép thắng lợi tinh thần”?
Hai ngày chờ đợi, âu lo, hy vọng, cuối cùng 12
bạn tham gia vòng Kora đã trở về. Hồng Minh chỉ kịp ôm
chầm lấy tôi, trào lệ… rồi lăn ra giường, thở. Anh cho biết rất nhức
đầu, tức ngực và buồn nôn. Hồng Minh là bạn cùng phòng với tôi, anh là giám đốc
một công ty viễn thông ở Hà Nội; anh trẻ, khỏe và dẻo dai nhất đoàn.
Biết anh ốm, mọi người tụ lại thăm hỏi, động viên. Đó đây, có bạn
xầm xì trách Minh “Lên Kailas không với niềm tin tâm linh mà chỉ
đi với tinh thần thể thao nên bị trừng phạt đó”; có bạn xác
quyết là vì Minh đã ngạo phạm đức Đạt Lai Lạt Ma - chả là, có lần
Minh bình luận “Nếu ngài đạo hạnh và tài trí, thì sao ngài
để đất nước ngài bị ngoại xâm, còn con dân ngài lầm than cơ cực thế”.
Bạn khác thực tế hơn, khuyên Minh muốn tai qua nạn khỏi thì phải lo
mua lễ vật để cúng… Duy chỉ có Trọng Lý không nói gì; cô đến
ngồi bên, cầm tay, chia sẻ, cảm thông, cố truyền sang bạn chút sinh lực ít
ỏi của mình, và lặng lẻ khóc… Rốt lại, xem ra chỉ cô ấy đúng - Sự trừng
phạt không mang lại điều gì tốt lành; chỉ có tình
thương yêu, cảm thông, chia sẻ mới là nhựa sống giúp nhân loại hồi
sinh.
Buổi chiều, khi đã thấy khỏe khỏe, Minh bắt đầu kể vòng
Kora nhớ đời: Gần đến đèo Dolma, đói, lạnh, ngộp thở và yếu lả, Minh
rủ xuống bên đường. (Năm 2009, cũng tại cung đường này, đã có 21 du
khách người Ấn Độ gục chết vì thiếu oxy). Trong giây phút sắp bước
hẳn sang cõi chết, anh cảm thấy sáng láng lạ thường. Anh thấy lại vợ
con và những người thân yêu. Anh thấy đứa con trai út cưng nhất nhà đến
bên anh, khóc và nói “Ba ơi, ba đừng chết”. Anh thấy từng tốp du
khách nước ngoài đi qua, có người nói tội nghiệp, hắn sắp chết. Anh
thấy một đôi vợ chồng người Trung Quốc, chị vợ trẻ, đẹp, thùy mị; chị ngồi
xuống bên anh, thương cảm, rồi thận trọng trao cho anh bình
oxy duy nhất của mình trước khi tiếp tục cuộc hành
trình. Nhờ bình oxy, anh gượng đứng dậy được… Rồi anh thấy một thanh
niên Tây Tạng lướt tới gạ gẫm, sẽ dìu anh đi với giá 100 đô. Chốc
sau, hắn bỏ anh xuống, bảo muốn dìu tiếp thì phải thêm 100 đô nữa. Rồi lại bỏ
xuống, rồi lại thêm 100 đô nữa. Cứ thế cho đến khi đến nơi an
toàn. Riêng chị Ngọc Anh thì may mắn hơn vì chị đi bằng ngựa. Chị
nói, “Trên ấy có người tốt cũng có người xấu”. Một bạn khác phàn
nàn “Lên tới trú xứ của chư Phật sao vẫn thấy khổ quá, cả ác ôn quá - nhiều
những người gánh thuê, những người dắt ngựa (địu theo con nhỏ trước ngực), những
người dẫn đường mỗi đoạn đòi tiền”. Biết thì biết vậy nhưng sao lòng
vẫn thấy nhói đau.
Mấy ngày chờ đợi, tranh thủ những lúc khỏe khoắn,
tôi đi tìm góc độ thích hợp để được chiêm ngắm Kailas từ tầm xa,
nhưng chẳng thấy Kailas đâu, chỉ toàn mây mù sương khói.
Tưởng đã không có duyên với Kailas, ai ngờ, buổi sáng trước
khi rời Darchen, trời bỗng nắng, một thứ nắng vàng trong vắt và mộng
mị chỉ có ở Tây Tạng. Rồi, Kailas hiện ra, rõ mồn một và gần
như trong tầm tay với. Mọi người nhào hết cả ra sân - chiêm ngắm, thổn
thức, ngợi ca, và không quên tạo dáng ghi hình kỷ niệm.
Tạm biệt Ngân Sơn Buổi trưa và chiều, trên đường tham quan hồ
Rakastal, chúng tôi dừng lại nhiều nơi để được chiêm ngắm Kailas ở
nhiều góc độ khác nhau. Trên dãy Sven Hedin hùng vĩ phủ đầy tuyết trắng, bỗng một
ngọn núi vươn lên với dáng hình độc đáo và sáng láng lạ thường. Bằng
kinh nghiệm bản thân, trước những hiện tượng thế này, tôi
thường thả lỏng cái tâm văn hóa, không định vị, không dán nhản,
không phân biệt; cố nhìn ngắm sự vật như là sự vật, nhìn ngắm ngọn núi
đúng với bản thể của ngọn núi. Và trước mắt tôi, Kailas là
một kỳ quan - tuyệt mĩ.
Hóa ra là vậy, thì cũng như bao ngọn núi khác, Kailas không
nói gì, không tự vinh danh mình, không lập thuyết, không tranh thắng,
không lý luận dài dòng; Kailas không bắt ai phải thế này thế nọ,
Kailas chỉ thinh lặng, tự tại, lặng lẽ tỏa năng lượng yêu
thương của mình. Chỉ có con người mới chộn rộn và phân biệt nọ
kia.
Núi thiêng trong lòng ta
Trên đường trở lại Kathmandu, tôi có dịp nghe các bạn
chia sẻ những cảm nhận của mình về vòng Kora quanh Kailas. Với Thu, “Chuyển đi
giúp nảy nở trong mình lòng từ bi và bao dung”. Với Nhân,
“Thế giới rộng lớn quá. Ta là tất cả, tất cả là ta”. Với Anh Minh “Chưa
có niềm tin tâm linh. Không cảm thấy gì. Đi là chỉ để giúp
mẹ”. Minh là con trai của bác sĩ Ngọc Anh; hiện là sinh viên năm thứ
II đại học Ohio (Mỹ). Còn Lê Cát Trọng Lý, Lý: mong
manh như lau sậy gầy, trong veo như nước suối, hồn nhiên như trẻ
thơ, chín chắn như thầy giáo, dẻo dai như vận động viên leo
núi. Mà đúng là cô rất thích núi - “Núi rừng luôn mang đến nguồn năng
lượng vô hình giúp Lý sống có chất hơn”. Có lẽ nhờ thế mà cô đã hoàn
thành xuất sắc vòng Kora quanh Kailas. Cô chỉ nói ngắn gọn “Như trong một
giấc mơ”. Cũng như Anh Minh, Trung Hiếu “Chưa biết gì nhiều về Phật
giáo, chưa có niềm tin tâm linh. Cháu xin nghỉ phép về đi
là chỉ để giúp ba mẹ”. Hiếu là con trai của anh Nhân và chị Bình, là giảng viên
trường đại học Michigan (Mỹ). “Nhờ chuyến đi này mà cháu nhận
ra, ngoài đỉnh cao Kailas còn có thêm hai đỉnh cao nữa lung linh
không thua gì Kailas”. Đợi cho mọi người bớt sững sốt, Hiếu nói
tiếp. “Đỉnh cao thứ nhất, đó là tấm lòng hiếu đạo của chị Nhã Thanh. Để cầu
an cho mẹ, chị đã phát nguyện cạo đầu ngay bên bờ hồ thiêng
Manasarovar. Và đỉnh cao thứ hai, là tình nghĩa vợ chồng của chú Nguyễn Tường
Bách. Một đời, chú khát khao được hành thiền quanh Kailas, vậy
mà ngày lên đường, cô Vinh không được khỏe, chú đã quyết định ở
lại để chăm sóc vợ”. Tôi thật sự xúc động về phát hiện của Trung
Hiếu. Có lẽ còn một phần do tôi ấn tượng bởi hình ảnh của một
cháu Hiếu ít nói, hay cười, hiền hậu, và trong veo; sau lưng Hiếu
luôn với cái ba lô nặng trịch của mẹ, còn trước ngực là cái ba lô to
đùng của ba. Vậy thì, cháu Hiếu ơi, đáng ra phải nói, ngoài Kailas còn có
thêm ba đỉnh cao nữa lung linh không thua gì Kailas mới đúng, phải
không!.Ngân Sơn cũng bất ngờ hiện ra tạm biệt mọi
ngườiTrước khi lên đường, tôi đã có hơn năm tháng nổ lực đọc
sách, nghiên cứu, rèn luyện, khổ luyện, chánh niệm, tinh tấn, thành
tâm hướng về… Kailas như gần gũi, thân quen với tôi từ bao giờ. Chuyến hành
hương Kailas, tôi cũng có cảm giác như đang được về lại ngôi nhà
xưa của mình. Tôi thầm nghĩ, giá như với bất kỳ ngọn núi nào, ta
cũng thành tâm, chánh niệm, tinh tấn như với Kailas, hẳn ngọn
núi ấy sẽ trở thành ngọn núi thiêng. Giá như mọi việc trong
đời, ta cũng thành tâm, chánh niệm, tinh tấn như với
Kailas, hẳn ta sẽ dễ dàng nhận ra nát bàn chẳng phải ở đâu xa. Giá
như…Và, tôi muốn tổng kết thiên bút ký này bằng cảm thức của
mình, rằng, núi thiêng ở trong lòng ta.
Viết thêm cho lời kết
Thì cũng như mây trên đỉnh Ngân Sơn, tụ rồi tan. Mới
thôi mà đã. Tôi tranh thủ tập cho “Gia đình Kailas” bài ca tạm biệt
truyền thống của người Do Thái - bài Salom. Hơn hai ngàn năm trước, quốc
gia Do Thái loạn ly và tan rã; người Do Thái lưu lạc khắp
nơi trên thế giới. Sau mỗi lần gặp nhau, bao giờ họ cũng chỉ
nói với nhau một lời: “Hẹn sang năm gặp nhau ở Jerusalem”,
và rồi họ hát “Cầm tay phút chia ly. Bạn ơi vui lên đi. Xa cách ta
không nề, luôn nhớ nhau trong đời…”. Vậy đó, có thể hàng muôn vạn kiếp trước, chúng
ta cùng tu tập trong một ngôi chùa, rồi vì duyên nghiệp, mỗi
người tái sinh một ngả. Nay có cơ duyên gặp, giờ lại chia
xa. Hẹn ngày hết nghiệp, chúng ta lại trở về quây quần dưới
mái chùa xưa.Núi thiêng trong mỗi ngườiNhưng chẳng cần đợi lâu thế. Trong thư phòng nhà tôi có bức ảnh
cở lớn hình núi thiêng Kailas sáng láng trên nền xanh thẳm của mặt nước hồ
Rakastal. Mỗi lần nhìn thấy nó, là lại nhớ về bao ngọn núi thiêng tôi gặp trong
đời. Thế đấy, hởi “Gia đình Kailas”, các bạn là một phần không thể thiếu của ngọn
núi thiêng trong lòng tôi.
12/11/2012Nguyễn Văn DũngNguồn: Trung Tâm Văn Hóa Liễu Quán Huế
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét