Thứ Bảy, 3 tháng 10, 2020

Tiếng con chim lợn kêu ngang qua - Phần 2

 Tiếng con chim lợn kêu ngang qua - Phần 2

SÁU
Ông Thanh bị dẫn ra khỏi vào nhà chiều ngày 19 tháng 10 năm 2003, lúc ấy độ ba giờ hay ba giờ hơn gì đó. Ngoài sân nắng đã bắt đầu dịu, cuối thu nên nắng chiều dịu sớm hơn và nhanh hơn ngày hè. Cũng như người cha của mình, ông Thanh ra đi khỏi nhà và đi luôn không trở lại ngôi nhà của mình nữa. Chỉ khác, cha ông ra đi đầy hăm hở, lao thẳng vào mặt trận và nằm lại cánh rừng vạt đồi đâu đó. Ông Thanh ra đi không hẹn ngày về.
Một tờ giấy khổ A4 được gọi là “giấy mời” ông lên công an huyện. Hai người công an viên xã là hai người bước vào nhà đầu tiên, họ đứng giữa nhà và gọi to tên ông Thanh lên. Khi ấy ông Thanh đang cùng bà vợ xếp lại những thứ xoong, nồi, bát, cốc, toàn những thứ đồ mấy hôm trước hai ông bà đã dùng để nấu nồi nước chè xanh rồi đem mang ra bán ngoài sân vận động mới của xã. Mấy ngày bán nước cũng đem lại cho họ chút niềm vui nho nhỏ. Tiền với người khó tuy ít nhưng bao giờ cũng quý. Hai người công an viên của xã ngập ngừng mãi mới giở tờ giấy ra đọc. Họ đọc ấp ủng bởi chính họ cũng khó tin cái điều được viết ra trong tờ giấy.
Hai người này không lạ gì ông Thanh, bởi họ không chỉ là người cùng xã với ông mà một người trong số hai người ấy chơi với ông từ nhỏ. Nhưng rõ ràng tờ giấy ghi khá đầy đủ khiến họ không chần chừ được. Cũng may cho hai người công an viên xã, đi cùng họ còn có mấy anh công an huyện cảnh phục chỉnh tề cùng nét mặt rất nghiêm trọng. Ông Thanh ban đầu định cất lời chối từ nhưng hai người công an viên của xã động khôn khéo vận động. “Thì ông cứ đi theo chúng tôi đã. Lên huyện mọi chuyện sáng tỏ. Lại về ấy mà”.

Ông Thanh bị dẫn đi ra khỏi nhà thật bất ngờ, làm sững sờ không chỉ chính ông, chính gia đình ông mà còn chính cả mọi người dân làng Me. Người làng Me hiền hòa và trầm tính bỗng xôn xao bàn tán. Đuổi theo đôi tai ông là bao tiếng nói, tiếng này chen tiếng khác, tiếng nói bênh chen tiếng cười trách móc, tiếng xì xèo chen tiếng chửi móc. Nói chung là ông bị dẫn đi một cách không đàng hoàng. Theo lệnh, một người công an của huyện tiến lại trước mặt vào nhanh chóng ngoặc vào hai cổ tay ông chiếc còng số 8 sáng quắc. Ngay lập tức ông Thanh bị dẫn đi bởi hai người công an kèm sát hai bên sườn cùng những cái đẩy lưng thúc giục. Trời cuối thu gió se se thổi nhưng bụng dạ ông Thanh nóng như đốt lửa. “Chuyện gì đã xẩy ra vậy?”. Ông Thanh tự hỏi và cả làng Me cùng ngoái đầu nhìn nhau hỏi thầm thì.
Họ đi như chạy. Ông Thanh tưởng không lấy kịp hơi, ngực ông căng lên để hít không khí. Vừa chạy vừa thở, tới đầu làng thì ông được cho lên một chiếc xe dạng bán tải nhưng được đóng thùng. Xe chạy một mạch thẳng tới trụ sở công an huyện.
– Thì ra mày là thằng Thanh còi. Tưởng ai hóa ra là người quen cũ.
Trong bóng tối nhờ nhờ của căn phòng khá hẹp và thiếu ánh sáng. Mọi thứ như bưng kín lấy mặt bởi còn chưa hết bất ngờ và chưa tan mệt mỏi. Ông Thanh hơi choáng váng. Ông chưa còn kịp cả sự định hình để biết căn phòng này đã có bao nhiêu người trong đó. Ông choáng váng đứng chân không vững, thực tình khi bị dẫn đi như bắt chạy đôi chân ông đã cuồng mỏi.
– Thằng Thanh còi. Cái thói vì đàn bà mà sinh táo tợn. Tưởng xa lâu rồi nào ngờ mày vẫn chứng nào tật nấy.
Không hiểu giọng nói kia đang nói gì mình nhưng ông Thanh cũng lơ mơ đoán, cách nói ấy chứng tỏ người đang hỏi ông là một người có lẽ ông và người ấy cũng biên biết tí ti về nhau. Bóng tối nhờ nhờ càng khiến ông thêm mệt mỏi. Người ngợm chân tay như muốn tháo rời ông Thanh cảm thấy hai cánh tay mình tê dại đi. Mà cũng phải thôi, ông đã bị còng chặt như thế này mấy tiếng đồng hồ rồi còn gì.
– Mày vẫn chứng nào tật nấy. Phen này thử còn mấy lả?
Giọng nói cay nghiệt hơn. Giọng nói như một nhát búa giáng xuống đầu làm ông Thanh càng thêm choáng váng. Không ai cho ông ngồi xuống cả. Những loạt câu hỏi bắt đầu vang lên truy tới tấp làm ông chưa nghe hết câu này đã phải nghe tiếp câu khác. Nhìn chung các câu hỏi truy tới tấp nhưng đều một giọng và đều lặp lại khiến ông ù hết cả đôi tai. Đôi tai đã ù ập từ lúc ông bị dẫn đi trong đường làng giờ đây càng ù ập hơn. Ánh mắt của ông mờ dại hẳn đi, trước mắt ông chỉ một thứ màu trắng nhờ nhờ trong căn phòng ngột ngạt khỏi thuốc lá và những câu hỏi tới tấp.
– Cho tôi ngồi ..
Ông Thanh cầu khẩn. Đôi chân tưởng không đứng nổi nữa. Hai bắp chân căng lên, tụ máu cứng dại.
– Mày đứng đấy mà trả lời.
– Tôi. Tôi mỏi quá.
– Thằng này giỏi gớm. Vào đây còn yêu sách.
– Nhưng … tôi đúng là không… không đứng nổi nữa rồi.
“Bốp”. Một cái tát nẩy lửa vào má phải tưởng bỏng cả mặt. Ông Thanh không kịp nhìn người vừa tát mình là ai. Quả tình cái tát nhanh quả là có hiệu nghiệm. Ông Thanh thấy hết mỏi chân ngay.
– Nhẹ không ưa. Mày thích nặng đòn à?
– Sao các ông lại đánh tôi?
– Chỉ có chúng tao hỏi mày, chứ mày không được hỏi chúng tao.
– Tôi làm gì mà các ông đánh?
– Gớm thật đấy. Phàm những thằng cãi lem lẻm là những thằng ngoan cố. Thanh ơi. Mày đã vào đây rồi đừng có cứng đầu mà khổ đó.
Không biết ai đó vừa đẩy ông Thanh tiến lên một bước lại sát gần người đang hỏi. Khói thuốc lá xông lên mù mịt càng khiến bầu không khí vốn đã thiếu lại thêm thiếu. Ông Thanh bỗng thấy bụng dạ sôi ầm ào. Cơn đói đưa lên tận cổ khiến họng ông cộm cạo. Cố căng đôi mắt đã mỏi rũ và cố nén đau đớn để nhìn người đang hỏi mình là ai. Một khuôn mặt cũng trắng nhờ nhờ như mặt ma đang lượn lờ trước mặt. Người đang hỏi ông không đứng yên, người này chắp tay sau lưng quay qua quay lại đến chóng cả mặt. Ông Thanh lí nhí.
– Cho tôi xin... xin tí nước.
– Lấy cho nó cốc nước. Thanh. Mày có nhận tội không?
Cốc nước được đưa tới và được dốc mạnh vào miệng. Ông Thanh nuốt không kịp cú dốc mạnh, sặc nước ho rũ rượi. Nước mắt ông chảy ra gặp khói thuốc lại giàn giụa cay sè.
– Giờ nghe chúng tao hỏi đây. Mày chỉ được nói “có” hoặc nói “không” thôi.
Im lặng như để những tiếng quát hỏi lấy lại hơi. Căn phòng đã tối sập. Ông Thanh cố hé mắt để quan sát nhưng không tài nào nhận ra được căn phòng này dài rộng ra sao. Trước mặt ông lại lờ mờ mấy bóng người lượn qua lượn lại. Một bóng người tiến sát lại gần ông. Ánh mắt của người ấy dí sát mặt ông. Ông Thanh khẽ quay đầu tránh hơi thở nồng nặc mùi rượu của người đó.
– Thanh. Nghe tao hỏi đây.
– Có.
– Chiều ngày mười lăm tháng mười mày ở đâu?
– Không.
Ông Thanh đáp có trả lời không như một phản xạ theo điều kiện. Người vừa hỏi tức quá gầm lên.
– Tao hỏi. Chiều ngày mười lăm tháng mười mày ở đâu?
– Có à không. À. Tôi... tôi ở nhà.
“Bốp, bốp”. Ông Thanh sa sẩm mặt mày. Hai cú tát liên tiếp không thương tiếc khiến ông sa sẩm mặt mày chực đổ gục. Mà ông đổ gục thật. Hai đầu gối bỗng oằn xuống, nó không còn giúp được đôi chân cũng đã mềm như hai sợi bún để nâng thân thể của ông được nữa. Ông Thanh ngã chúi người về phía trước. Cú ngã đập mạnh cả khuôn mặt ông xuống nền nhà. Đau cứng cả lưỡi. Ông Thanh không kêu đau lên được một tiếng.
– Vực nó dậy. Thằng này còi con mà gan quá.
Ai đó vừa xốc nách ông Thanh đứng dậy. Có thứ gì mằn mặn đầu lưỡi rồi tiếp theo là cảm giác buốt xót vành môi. “Còn cảm giác thấy vị mặn và buốt xót là chứng tỏ mình còn sống”. Ông Thanh tự nhủ. Quả tình sau cú ngã vừa rồi ông hình như ngất đi ít giây. Khi đổ sập xuống và nằm úp mặt trên nền nhà mát lạnh ông Thanh đã nghĩ mình chết rồi. Giữa lơ mơ thức tỉnh lẫn lộn ông Thanh hình dung ra nét mặt đầy lo lắng và chưa hiểu chuyện gì đang xẩy ra trong nhà mình của bà Chiên. Bà Chiên vừa xếp xong chồng bát vào chạn. “Vỡ đúng sáu cái”, bà lẩm bẩm trong miệng cốt là để ông Thanh không nghe thấy, bà nói trong vẻ vẫn còn chưa hết tiếc của nhưng ánh mắt bà bỗng trợn căng lên. Ánh mắt bà sửng sốt khi trong nhà bỗng nhiên xuất hiện hai người công an viên của xã cùng mấy người mặc cảnh phục đứng nhăm nhăm. Bà hét to đầy ngạc nhiên nhưng cũng kịp thời giang tay đẩy thằng Lợi và con Lanh vào góc trái của buồng. Bà sợ hai đứa không hiểu gì, chúng lại còn trẻ người non dạ sợ chúng làm những điều bậy bạ. Ông Thanh tròn mắt cũng ngạc nhiên không hơn gì bà Chiên. Hai người trước đó vừa mừng rỡ nói với nhau về khoản thu nhập mới. Họ còn nói vui hay là chuyển hẳn sang bán nước chè xanh. Ông Thanh sẽ đi lấy nước, con Lanh nấu nước, thằng Lợi đèo mẹ ra ngoài đầu làng ngồi bán. Mọi kế hoạch tưởng chừng đã chu tất.
Như để kiểm tra lần nữa, ông Thanh đưa môi liếm vành mép. Một thứ vị mằn mặn và nong nóng báo cho ông biết đó là máu. Không biết là do cái tát bốp hay do cú ngã dập mặt mà môi ông rách toác. Máu chảy mặn đầu lưỡi, chảy mặn vào sâu cuống họng. Nhắm mắt rùng mình, ông Thanh cố nuốt vội những giọt máu. Trong đầu ông lại hình như thấp thoáng bóng bà Chiên vừa ngã. Khổ thân bà ấy. Ông Thanh nói thầm trong cổ. Dạo này bà ấy hay lên cơn huyết áp bất thường. Không hiểu lúc mình bị dẫn đi bà ấy ngã có làm sao không?
– Thanh. Buổi chiều ngày mười lăm tháng mười vừa rồi mày ở đâu?
– Tôi ở nhà.
– Thằng này không già đòn chắc không nhận đâu?
– Tôi ở nhà. Đừng đánh. Hình như tôi ở…
– Mày ở đâu?
– Ở sân bóng.
– Mày còn ở đâu nữa?
– Tôi không nhớ. Hình như tôi ở nhà.
– Mày ở nhà mày thì tao hỏi làm gì.
– Tôi ở sân bóng.
– Láo quá. Thằng này láo quá.
Lại “Bốp. Bốp” liên tiếp. Mắt nẩy đom đóm. Muôn ngàn con đom đóm nhảy múa trước mắt ông Thanh. Tai ù lên và đau tận óc. Ông Thanh lại ngất đi. Hình như trước khi ông lại đổ gục xuống người vừa quát hỏi ông kịp giơ chân ra ngáng đỡ. Ông Thanh chỉ còn biết như thế rồi không biết thêm gì nữa. Cơn đói, cái lạnh, bị tát đau và những câu hỏi liên tiếp đã vắt kiệt sức ông. Khoảng không gian tối như hũ nút bao trùm khắp mọi tâm tưởng. Ông Thanh ngã chúi xong lệch về một bên sau cú giơ chân ngáng đỡ của người vừa hỏi. Ông nằm vật trên nền nhà.
Lạnh đến ào ào và ngấm khắp người. Lúc bị dẫn đi ông Thanh chỉ mặc độc chiếc áo sơ mi mỏng. Đang thu dọn đồ đạc nhà cửa giúp vợ,  người ra mồ hôi nóng bức. Giờ thì cái mệt, thì bị đánh đau và những cơn đói dồn lên cộm cạo như bào gan ruột khiến toàn thân ông lạnh toát. Ông Thanh rùng mình liên tục. Lạnh hình như cũng giúp ông tỉnh lại. Những bóng người cúi xuống nhìn ông chập chờn như những bóng ma.
Không biết ông nằm đó đã bao lâu. Có lẽ là một phút? Không năm phút? Chắc là gần mười phút? Mọi cảm giác nhận biết dần dần trở lại. Bên tai ông đã thoáng nghe thấy những tiếng người lao xao. “Thằng này cùng xã với tôi. Tôi biết nó từ bé. Nó gan lắm”. “Thằng này trông bé còi thế mà cũng táo tợn ghê”. “Thằng nào ban đầu mà chả chối tội nguây nguẩy. Cứ tẩn đau vào là nhận hết”… Ông Thanh chỉ láng máng nghe thế rồi lại chìm đi. Cảm giác nhận biết lại biến mất. Lâu lắm. Chắc độ mươi phút sau ông lại hồi tỉnh. Những ngón chân bắt đầu cựa quậy. Khắp quanh người đau ê ẩm.
– Nghe tao hỏi đây.
– Có.
– Buổi chiều ngày mười lăm tháng mười mày làm gì?
– Tôi bán nước cùng vợ.
– Cái đó bọn tao biết rồi. Sau đó mày làm gì nữa.
– Hình như …tôi đi lấy nước.
– Mày đi lấy nước ở đâu?
– Ở….
– Ở đâu?
– Ở... ở giếng Bà Cô.
– Có thế chứ. Sau khi lấy nước xong mày làm gì?
– Tôi mang về nhà.
– Có thực là mày về nhà không?
– Đúng.
– Có người nhìn thấy mày ở dốc gò sấu.
– Tôi lấy nước ở giếng Bà Cô đem về nhà thì phải qua dốc gò sấu chứ.
– Cãi này.
Những cú bạt tai liên tiếp. Những cú đấm vào bả vai, vào lưng xối xả. Ông Thanh lần này không gục ngã xuống nền nhà được nữa. Hai bên nách ông bây giờ đã có hai cánh tay chắc khỏe giữ và xốc người ông lên, người chới với, đầu mũi ngón chân cái khẽ chạm hờ vào đất, kiểu như người bị treo lủng lẳng. Những cú tát tai và những cú đấm lại liên tiếp. Không thể chống đỡ và cũng không thể lấy cú ngã gục để thoát đòn. Toàn bộ lưng, vai, bụng và mặt ông Thanh liên tiếp hứng những cú đấm trời giáng.
– Cho.. cho tôi nói.
– Mày nói đi. Buổi chiều sau khi lấy nước thì mày làm gì và ở đâu?
– Tôi không nhớ.
– Lại không nhớ này.
Đúng là ông Thanh không còn nhớ nỗi một điều gì nữa. Trận đòn lần này dữ dội hơn lần trước. Cũng có thể ông đã quá mệt và quá đói. Cũng có thể ông đã chịu mấy trận đòn nên cái đau chưa giảm lại phải nhận thêm những cái đau mới. Chưa bao giờ ông Thanh thấy mình phải chịu những cơn đau như thế. Hồi lên chín tuổi ông đã bị một cơn đau ghê gớm. Cơn đau ruột thừa tưởng thừa sống thiếu chết năm đó mỗi khi nghĩ lại ông vẫn còn rùng mình. Hồi đó do thiếu kinh nghiệm trước mỗi cơn đau trong bụng của con mà bà mẹ ông suýt nữa mất ông. May mà giời còn thương, giời còn cho ông sống.
– Mày có đến nhà cô Thoan không?
– Không. À có.
– Mày đã làm gì?
– Tôi không nhớ.
– Lại không nhớ rồi. Muốn tự nhớ hay để bọn tao đánh cho nhớ.
– Có….
***
Ông Thanh dựng chiếc xe đạp bên thềm nhà, ông tháo từng can nước khỏi giá đèo hàng rồi tiện thể hai tay xách luôn hai can nước đem cất vào trong buồng trái. Bà Chiên vốn tính cẩn thận, lại thương chồng vất vả, nên đã dặn đi dặn lại ông phải cất kỹ hai can nước vào tận trong buồng trái. “Để kềnh càng bên bậc thềm, thằng Lợi chạy đâu về vô ý va chân đánh đổ thì mệt”. Bà Chiên sợ ông lại phải ra ngoài giếng Bà Cô lấy lại lần nữa.
Ông Thanh đứng cạnh cửa buồng trái còn ngoái nhìn lại xem hai can nước đã cất thật chắc chắn chưa. Biết tính vợ hay cằn nhằn, nhất là cằn nhằn chuyện ông hay để đồ đạc linh tinh muốn tìm phải tìm bằng chết. “Ông chỉ được cái không để ý là giỏi”. Nhà này nếu không có bà Chiên thì có lẽ mọi thứ sẽ cứ rối tung lên. Ông thì vô tâm, bụng dạ thẳng ngay thì đã đành. Thằng Lợi ham chơi, chân tay lóng ngóng động vào thứ gì là đổ vỡ thứ nấy. Con Lanh thì khá hơn nhưng nó đôi khi còn lãng trí lắm. Con gái con lứa đến tuổi lấy chồng rồi mà hễ nhắc đông lại làm tây. Hễ bảo ngồi thì lại đứng. Đúng là con gái lớn, tuổi cập kê nên tính khí thất thường. Nhưng được cái nó thương bố thương mẹ nên tuy nhầm lẫn việc này việc khác nhưng còn giúp được.
Trời đã bắt đầu nhá nhem. Hôm nay là buổi bán nước cuối cùng ngoài sân vận động nên bà Chiên còn mải ngồi lại gọi là bán cố, thành thử con Lanh với thằng Lợi cũng phải ở ngoài đó mà đợi mẹ cùng về. Cũng tại người ta còn chùng chình tan trận rồi còn túm lại bàn tán. Bà Chiên nhắc ông Thanh về trước, về trước lấy sẵn hai can nước. “Biết đâu mai lại ra đây bán nữa” bà Chiên nói ngay khi thấy ông Thanh có vẻ chần chừ.
Ông Thanh thấy đoi đói. Cả ngày phơi mặt ngoài đó rồi còn gì. “Chắc là bà ấy cũng đói lắm đây?”. Ông Thanh nghĩ thầm, tay vội vàng đong mấy bát gạo, tính chuyện đặt sẵn nồi cơm chờ mẹ con bà Chiên về cùng ăn một thể. “Nhà có mấy người, ăn trước ăn sau mất cả vui”. Hơn nữa trong bữa ăn còn bàn thêm tí chuyện.
Bóng tối phủ rất nhanh. Ngoài đường làng, chốc chốc lại xẹt qua tiếng xe máy chạy. Xẹt qua rồi để vương lại những đụn khói xanh đen. Chiều tối sương xuống thấp. Sương xuống thấp dồn mùi khói xăng không đốt hết vào tận cửa nhà. Mùi khói ùa đến cay cay, sộc thẳng lên mũi làm ông Thanh muốn hắt hơi. Ông đứng đần người ra, đầu cui cúi, mồm há hốc đợi sẵn, mắt nhắm lại nhưng mãi mà vẫn không hắt hơi được. Hắt hơi cũng là một thứ khoái cảm. Ai không hắt hơi được sẽ rất khó chịu trong người. Hắt được một cái thật mạnh lỗ mũi, lồng ngực tưởng như được giãn ra, thấy nhẹ nhõm hẳn. Lại cúi đầu, nhắm mắt. Cuối cùng thì ông Thanh cũng hắt được một tràng hắt hơi rõ to rõ dài.
Làng vắng. Nhà ai hầu như đã về nhà nấy cả nên ngoài đường làng vắng hẳn. Ở làng Me này mỗi khi chiều xuống là trẻ con người lớn gọi nhau về nhà í ới. Hôm nay tiếng gọi nhau thưa vắng. “Chắc còn ở ngoài sân bóng?”. Ông Thanh nghĩ thế. Chưa bao giờ người làng Me lại được xem những trận đá bóng suốt từ sáng tới tận chiều. Những trận đá bóng đã đem đến cho cái làng xa khuất này niềm hứng khởi mới. Trước kia, chiều về, nhất lại là chiều cuối thu làng Me buồn phải biết. Việc huyện tổ chức giải bóng đá ngay tại xã nhà cũng là một cách để người làng Me xua đi cái vắng cái buồn. Thời buổi người ta đua nhau ra bám mặt đường mà. Làng Me nằm xa đường nên huyện nên xã ưu tiên cho xem những trận đá bóng tĩ tã. Gì thì gì cũng vui vui. Ông Thanh đã đặt xong nồi cơm điện. Quay đi quay lại mà chẳng biết phải làm cái gì tiếp theo. Có tiếng còi xe kêu “Bim. Bim” ngoài cổng, thì ra bà vợ ông gửi thằng cháu họ đem về giúp bó lá chè xanh. “Giờ mới năm rưỡi. Cô cháu bảo độ hơn nửa tiếng nữa cô cháu mới về cơ. Cô chú tháng này làm ăn trúng quả quá”. Mỉm cười chữa thẹn, ông Thanh mời thằng cháu họ vào nhà chơi, cũng định hỏi nhờ nó vài việc nhưng nó nói vội về. Chiếc xe máy phóng vụt đi. Vắng vẻ lại trở lại vắng vẻ.
Ông Thanh khẽ rùng mình. Khí lạnh chiều tối ở làng làm ông rùng mình. Cơn muốn hắt sì hơi lại ngọ nguậy gây cảm giác buồn buồn bên hai cánh mũi. Cũng như lúc trước, ông Thanh lại phải cố sức cúi đầu, há mồm chờ mãi mới hắt sì hơi được. Lần này tiếng hắt sì hơi dài hơn và to hơn. Tiếng hắt sì thành chuỗi dài vang lên tận mái nhà. Có tiếng gì như tiếng con chim đập cánh chực bay đi. Ông Thanh nghe rõ ràng như vậy nhưng cũng hơi giật mình. Nhà vắng, nghe tiếng động nào cũng sợ. “Bố mày chỉ được cái hay sợ vặt, sợ đâu đâu”. Có lần bà Chiên đã nói với hai đứa con. Thằng Lợi nhe răng, thổi phù phù qua kẽ răng làm giả tiếng “ma chơi”. Nó cười sằng sặc chạy núp sau lưng mẹ. Con Lanh thì tỏ ra cứng rắn hơn. Nó chẳng nói gì chạy vào trong nhà bật công tắc điện. Ánh sáng bùng lên làm chói hai con mắt. Ông Thanh cười trừ, mặt méo đi ngượng nghịu. Ông không ngờ bà Chiên, cái bà vợ ông lại nhắc lại chuyện hay sợ ma của ông có từ ngày bé.
Ngày bé thằng Thanh nhát như cáy. Cứ chiều xuống là ngồi ro ró trong nhà. Nó chẳng dám xuống bếp chứ nói gì đến việc mẹ nó sai nó sang hàng xóm vay giúp mẹ nó bơ gạo. Thằng Thanh ngồi ro ró, mắt len lén nhìn lên nóc nhà. Hình như có tiếng chân chuột chạy rinh rích. Mấy con chuột không biết vô tình hay chúng cũng có ý trêu thằng Thanh.
Lại vẳng lên tiếng con chim nào đó đập cánh. Sao dạo này lại có chim về đậu trên mái nhà mà đập cánh nhỉ? Lòng nhiều hồ nghi, ông Thanh trống ngực đập thình thình, chân luýnh quýnh bước ra khỏi nhà.
Trong một không gian nhập nhoạng sáng tối như thế này đến nhận biết còn chưa rõ ràng huống hồ là cảm xúc. Ông Thanh như bị thôi miên theo tiếng đập cánh bay đi của con chim. Ông vừa chạy theo tiếng chim đập cánh vừa ngửa mặt lên trời. Bất chợt con chim kêu đánh “éc” rồi lượn xuống bay là là sát đầu ông Thanh. “Một con chim lợn!”. Ông Thanh chờn chợn. Con chim lợn sà từ trên mái nhà xuống, nó bay là là và thấp tới những tưởng với tay là chạm được vào người nó. Ông Thanh vô hồn chạy theo. Mồ hôi vã ra như tắm.
Ông Thanh đã chạy ra tới con đường chính chạy giữa làng. Con đường nối làng Me sang các làng khác. Con chim lợn bay vụt lên đằng trước, nó bay cách mắt ông chỉ chừng sải tay với. Chưa bao giờ ông lại chạy nhanh như hôm nay. Chưa bao giờ ông lại chạy nhiều như hôm nay. Ông chạy mải miết theo tiếng đập cánh của con chim lợn bay đằng trước dẫn đường. Không có cảm giác mệt mỏi hay đói bụng. Tiếng đập cánh của con chim lợn bỗng như một âm thanh đầy khích lệ. Ông Thanh cố căng mắt trong bóng tối nhập nhoạng để khỏi bị mất hướng con chim lợn.
Con đường làng mọi bữa còn có người xe qua lại sao hôm nay bỗng dưng vắng vẻ. Không có một ai nhìn theo. Không có một ai chạy ra cùng chạy theo ông. Trước mắt ông là tiếng đập cánh của con chim lợn. Gió thổi vi vút sau lưng ông. Gió trượt qua vai ông. “Nó dẫn mình đi đâu nhỉ?”. Ông Thanh nghĩ trong hơi thở gấp gáp. Cảm tưởng như sắp mất một cơ hội nào đấy càng khiến những bước chạy của ông Thanh ráo riết hơn. Cảm giác như có chuyện gì đấy hệ trọng lắm càng làm cho ông Thanh háo hức. Trời tối hẳn.
Bóng tối bủa vây mọi hướng nhìn. Chỉ có tiếng đập cánh của con chim lợn là dấu hiệu duy nhất cho ông Thanh biết phía trước đang có thứ gì chờ đợi mình. Hình như đã ra tới bìa làng. Bằng chứng mà ông Thanh nhận ra là đã ra tới bìa làng là khoảng không gian chừng như rộng mở hơn. Gió thổi tới cũng mạnh mẽ hơn. Những bước chạy của ông càng gấp gáp.
Phía xa xa và hơi cao cao lấp ló ánh đèn. Ánh đèn tuy lấp ló nhưng ông Thanh cũng đoán định phía trước đó là dố gò sấu. Cảm giác sợ hãi tan biến. Có động lực vô hình nào đó đã xua tan nỗi sợ bóng tối của ông Thanh. Con đường lên dốc hôm nay như thấp xuống. Ông Thanh không thấy mỏi chân, không thấy mệt đứt hơi. Ánh đèn lấp ló như mời gọi.
Con chim lợn đột ngột dừng lại. Nó sà xuống đậu trên mái nhà, căn nhà đang lấp ló ánh đèn. Ông Thanh cũng ngập ngừng chạy chậm lại. “Nhà cô Thoan?”. Con chim lợn giang đôi cánh rộng của mình đập liên hồi. Thoáng băn khoăn vì chưa hiểu tại sao con chim lợn lại dẫn mình tới đây. Ông Thanh thôi chạy. Từ phía làng, loa phóng thanh của xã đang vọng lên những tiếng “Tút. Tút. Tút”. Ông Thanh ngần ngừ. “Mọi ngày mình đi từ nhà lên đỉnh dốc gò sấu nhanh cũng hơn nửa tiếng. Không hiểu sao hôm nay mình chạy như ma đuổi ấy?”. Nghĩ vậy nhưng ông vẫn nhấc từng bước chân một tiến sát cửa ngôi nhà của cô Thoan.
Vụt tiếng kêu “éc” nghe rợn cả người. Con chim lợn lại cất tiếng kêu sắc lạnh thường có của mình. Trong bóng tối ung ung kín bủa ông Thanh còn kịp nhìn thấy hai con mắt to tròn của con chim lợn đang đậu ngay trước mắt ông mở hết cỡ. Đôi mắt con chim lợn màu xanh lét, lại sáng quắc. Rồi nhanh như một tia chớp. Con chim lợn đập cánh bay vụt vào sâu trong gò sấu, nó bay về trú đậu trên những cành sấu xanh um như vốn thế.
Cánh cửa ngôi nhà cô Thoan đột ngột bị đẩy bung ra. Hình như chính mắt ông Thanh vừa thoáng thấy có bóng ai đó lao vụt ra và biến mất trong màn trời tối sầm mắt. “Có chuyện gì không biết?”. Ông Thanh chần chừ định quay đi. “Ban đêm ban hôm thế này mình chạy đến cửa nhà người ta làm gì?”. Câu hỏi tự trong đầu khiến những bước chân của ông Thanh chững lại. Hơi lui người, cách thức của những người toan tính quay về, ông Thanh cảm thấy miễn cưỡng và rất buồn cười nếu như lúc này ông lại sát ngôi nhà của cô Thoan. “Cô ấy đơn thân. Mình đến vào giờ này liệu có tiện không? Mình tới nhà cô ấy liệu có ai nhìn thấy không?”. Những băn khoăn dồn dập tới cùng những câu tự hỏi.
Tít sâu trong gò sấu con chim lợn hình như biết ông Thanh đang chần chừ nên nó lại đập đôi cánh. Nó đập đập liên hồi như nhắc ông không được bỏ cuộc. “Nhưng …Tốt nhất là quay về. Mình lại đó không tiện lắm”. Trong óc ông Thanh còn có sự phân vân khi chắc vào giờ này vợ và hai đứa con của ông đã về  nhà. Họ sẽ nghĩ gì nếu thấy nhà cửa vắng vẻ và nhất là không thấy ông đâu? Họ có biết là mình đang đứng trước cửa nhà cô Thoan ở tận đỉnh dốc gò sấu không?
Quay xuống tới gần chân dốc tự nhiên ông Thanh thấy trong bụng mình như có lửa cháy. Nóng và thôi thúc rất khác lạ. Ông dừng lại và ngước mắt nhìn lên đỉnh dốc. Con chim lợn đậu sâu tít trong gò sấu lại đập cánh. Tiếng đập cánh gọi ông quay trở lại. “Chắc phải có gì chứ?”. Lại tự hỏi mình và như một bản năng, ông Thanh lao một mạch lên đỉnh dốc.
Ông dừng trước cánh cửa đã bung sẵn. Ánh đèn điện soi mập mờ trong căn nhà im phắc. “Cô Thoan cô ấy đi đâu nhỉ?”. Ông Thanh vẫn đứng ngay cửa đưa vội mắt nhìn khắp lượt. Không một bóng người trong nhà. “Hay là cô Thoan bị làm sao?”. Cũng có thể lắm chứ. Nhà một mình dựng trên đỉnh dốc. Vắng vẻ và gió máy thế này cô ấy bị làm sao thì ai đến mà giúp đỡ được. Cũng có thể lắm chứ. Một mình ở đỉnh dốc xa làng cảm mạo biết lấy ai giúp. Một loạt những nghi ngờ đưa tới làm ông Thanh càng thêm túng nẫu. Nhưng liệu có một mình ở đây liệu có giúp gì được không? Ông Thanh bước một bước. Vừa bước ông vừa cất tiếng hỏi coi như là câu đánh tiếng. Ngộ nhỡ người ta tưởng mình là kẻ gian, người ta la ầm lên có mà bễ mặt.
Cái nhà cô Thoan này kể cũng lạ. Trong làng còn thiếu gì đất mà lại dựng nhà trên đỉnh dốc gò sấu cho xa xôi, cho cách trở. Cái nhà cô Thoan này kể cũng buồn cười. Gái một con hớ hớ như vậy mà ở một mình cũng liều thật. Chắc cô ấy ngại thân phận mình không có chồng, lại bỗng dưng có con, ở cạnh đông người, người nói ra kẻ nói vào rách việc?
Ông Thanh lại đánh tiếng thêm một lần nữa. Chẳng có tiếng nào đáp lại. Kỳ lạ thật. Rõ ràng mình thoáng thấy bóng người vừa chạy từ trong nhà ra kia mà. Bằng chứng là cánh cửa mở bung ra đấy thôi. Hay là cô ấy có việc gì gấp mà chạy đi không kịp khóa cửa? Ông Thanh đứng bên ngoài chiếc tủ quầy tạp hóa, mắt ngó ngó. Cái tủ quầy bằng nhôm kính, kê xoay ngang, hơi thụt vào nửa mét, mặt bưng kính hướng ra ngoài, nó ngăn cửa ra vào với bên trong nhà. Cái tủ đựng dăm thứ hàng tạp hóa lặt vặt, mà cô Thoan bán nhì nhằng, bán cho vui chứ trên đỉnh dốc gò sấu này mấy ai qua đấy mà mua. Chính những chiều ra giếng Bà Cô lấy nước, đi qua đây ông đã nhìn thấy cái tủ quầy hàng đó. Ông đã nhìn thấy cô Thoan gật đầu chào ông. Cô ấy còn đon đả chào mời “Bác mua gì giúp em không?”.
Bỗng ông Thanh giật bắn mình, đứng sững lại khi vừa bước vòng ra sau tủ. Ngay cạnh chân chiếc tủ quầy, phía bên trong nhà, có một người đang nằm vật ngửa. Người ấy không mặc áo. Chính xác hơn là chiếc áo bị rách toạc làm hở phần da bụng trắng phôm phốp. Cúi mặt nhìn thật kỹ. Ông Thanh đã nhận ra đó chính là cô Thoan. Không lẽ cô Thoan bị cảm. Rõ ràng là cô ấy bị cảm rồi nên mới nằm vật ngửa dưới đất chứ. Cô này liều quá đi mất. “Đấy, gió máy bất chợt, rồi cảm mạo thế này nếu không có ai tới kịp thì có giời cứu”. Miệng lẩm bẩm câu trách nhưng ông Thanh cũng cúi sát người cô Thoan hơn.
Ông Thanh ngần ngừ định quay ra cửa. Cô ấy trông như người không mặc áo thế này, mình động vào cô ấy tưởng mình sàm sỡ thì nhục lắm. Ông Thanh ngần ngừ lui lại. Có thứ gì ươn ướt bàn chân làm ông phải bận tâm. Ông nhấc chân lên, ánh đèn điện vàng ệch nhưng cũng đủ để soi nhìn, ông Thanh nhận ra bàn chân mình đỏ chót. Ông giật mình đưa tay sờ thử xem đó là thứ nước gì. “Máu!”. Ông Thanh dường như không tin vào mắt mình nữa. Quanh chỗ cô Thoan nằm là một vũng máu đỏ tươi. “Máu còn mới!”. Bây giờ ông Thanh mới hoảng thực sự. Hình như cô ấy bị chảy máu. Kinh nghiệm của người đàn ông đã lớn tuổi và đã xây dựng gia đình nhiều năm cho ông thầm đoán cô Thoan bị chảy máu. “Phụ nữ sau sinh cũng hay mắc chứng chảy máu cửa mình lắm”. Bà Chiên có lần đã nói với ông như vậy. Đó là cái lần đâu như cách đây vài năm, bên hàng xóm có cô gái đẻ bị băng huyết, máu chảy ồ ạt. Gia đình ấy đã tưởng mất người đến nơi rồi. “Cô ấy bị băng huyết”. Ông Thanh tự nhớ lại câu chuyện và tự khẳng định, ông cúi xuống lay gọi. Cô Thoan không hề có một động tĩnh nào cho thấy cô còn tỉnh. Ông Thanh càng bấn loạn. Mình đàn ông đàn ang thế này biết gì về bệnh của phụ nữ mà cứu giúp.
Ông Thanh đưa mắt dáo dác tìm quanh xem xem có thể có cách gì không. thực ra lúc này ông Thanh có tìm được thứ gì đại loại như bông băng chẳng hạn thì ông cũng chịu. Phụ nữ bị băng huyết tức là máu chảy ra từ cửa mình. Máu chảy ra từ cửa mình thì băng bó như thế nào? Mình cứ để tay ở đấy mà bịt để cầm máu thì ngượng chết. Cái ấy của vợ mình đã đành, cái ấy của người khác thấy không ổn. Nhưng không lẽ cứ để người ta chảy máu ồ ạt mà không tìm cách giúp?
Không gian như đặc quánh lại. Thời gian như dài vô tận. Ông Thanh chỉ còn biết ngồi thụp lay vai thật mạnh gọi cô Thoan tỉnh dậy nhưng ông càng lay gọi càng vô vọng. Cô Thoan nằm bất động, cô đang thờ ơ trước mọi cố gắng của ông Thanh. “Làm gì bây giờ?”. Càng nghĩ càng bấn. Đúng là đàn ông không có khiếu trong việc chăm sóc người ốm. Chợt ánh mắt của ông bắt gặp phải một vật gì sang sáng cách chỗ cô Thoan đang nằm chừng gần mét. Ông Thanh nhoài tay nhặt vội cái vật sang sáng đó lên. “Một con dao”.
Trên tay ông Thanh là một con dao gọt hoa quả. Loại dao nhỏ, lưỡi nhọn và dài như lá lúa, cán dao bằng nhựa màu vàng. Con dao trên tay ông dính máu thâm đỏ. Bấy giờ ông Thanh mới hú hồn thực sự. Ông chăm chú nhìn khắp lượt người cô Thoan. Bên mạng sườn phải của cô Thoan nhìn rất rõ có những vết như vết dao đâm. Máu chảy ri rỉ. Máu đã chảy thành vũng đọng bên sườn của cô Thoan.
Ông Thanh hốt hoảng ra mặt. Mặt ông cắt không còn giọt máu. “Cô Thoan vừa bị đâm chứ không phải bị chảy máu cửa mình”. Tuy sợ hãi nhưng ông cũng lấy hết sức bình tĩnh ghé tai sát ngực cô Thoan. Ngực lạnh toát và im phắc. Không một dấu hiệu cho thấy cô Thoan còn sống. “Cô ấy chết rồi ư? Mình đến không kịp ư?”
Đứng phắt dậy đầy vô vọng, ông Thanh tựa lưng vào chiếc tủ quầy nghĩ ngợi. Cánh cửa của chiếc tủ quầy đã bị bật tung. Dưới đất, ngay chỗ chân ông đứng vung vãi mấy thứ hàng tạp hóa lặt vặt. Dăm thứ hàng lặt vặt rơi vung vãi, rơi như nó vừa bị ai lục tung như tìm thứ gì. Ông Thanh đi từ bàng hoàng này tới bàng hoàng khác. Ánh mắt ông dừng lại trên chiếc giường độc nhất kê tít góc nhà. Bấy giờ ông lại thêm hốt hoảng. Trên giường đứa con của cô Thoan đang nằm im. “Nó còn sống hay cũng đã chết như mẹ?”.
Vẫn nắm chặt con dao trên tay, ông Thanh dò dẫm bước lại bên thằng bé. Cái bụng thằng bé đang phồng lên thụp xuống đã cho ông cảm thấy nhẹ hẳn người. Thằng bé vẫn ngủ ngon lành như trong căn nhà này chưa có chuyện gì xẩy ra.
Đi đi lại lại bên giường thằng bé con đang ngủ. Ông Thanh đang suy tính trong đầu. Không biết là trước tiên hẵng bế thằng bé này về nhà mình cho yên tâm đã hay cứ ở đây chờ đợi xem thế nào. Cô Thoan chắc đã chết. Im lặng kéo dài như vô tận. Sự im lặng nghe rõ từng hơi thở đang cuống cuồng trong ngực. Cuối cùng thì ông Thanh cũng nhớ ra. Ông thục tay trái vào trong túi quần rút ra chiếc điện thoại di động. Màn hình điện thoại vẫn đen ngòm. Lạ nhỉ, bà Chiên bà ấy về nhà không thấy ông đâu mà bà ấy không gọi điện xem ông đang ở đâu? Chắc cái nhà bà này tiếc tiền nên không dám gọi điện thoại đây. Chắc bà ấy chỉ nghĩ ông chạy quanh quẩn đâu đó nhà hàng xóm nên chẳng gọi làm gì cho phí tiền.
Loay hoay tìm số máy cần gọi. Ông Thanh run run bấm từng phím bấm. Một giây, hai giây rồi cả phút trôi qua đầu bên kia mới có người lên tiếng. Ông Thanh khó nhọc nói không ra câu khiến người bên kia cáu gắt. Máy phụt tắt. Ông Thanh lại run run bấm lại từng phím bấm. Lần này thì ông đã bình tĩnh hơn đôi chút. Ông nói bằng giọng thở ngắt quãng. “Cô… cô… Thoan đã… đã… chết. Có… có ai tới… tới đây giúp … giúp tôi không…?”
Khi mấy người dân trong làng chạy ùa đến nhà cô Thoan thì ông Thanh vẫn còn đứng trơ giữa nhà. Ông run cầm cập khi nghe thấy những tiếng chân người chạy xồng xộc chạy tới. Những tiếng bước chân chạy ồn ào. Những người đã bước vào trong nhà vô cùng kinh hoàng nhìn thấy cô Thoan đang nằm vật ngửa dưới đất trong tình trạng như không mặc áo. Họ càng kinh hoàng hơn khi thấy khắp trên quần áo người ngợm của ông Thanh là những vết máu dính bê bết. Bàn tay phải của ông Thanh đang run lẩy bẩy dư dứ con dao gọt hoa quả, con dao với những vết máu đã thâm sì.
Ai đó vừa thét lên một tiếng rất to kêu mọi người lui cả lại. Người ấy còn giang hai tay rộng ra theo cách định chống đỡ lại như định ngăn cản. Ông Thanh ngồi thụp xuống. Toàn thân ông chuyển màu da lạnh trắng như ma dại. Ông khóc tức tưởi. Khóc nghẹn trong cổ như một đứa trẻ tủi thân vì bị mẹ mắng oan.
Ngày thứ sáu sau khi bị bắt. Ông Thanh lại được dẫn vào phòng thẩm vấn. Căn phòng vẫn tối om om như năm buổi chiều trước. Chỉ khác là lần này người ta cho ông ngồi. Ông Thanh ngồi một mình, hai tay tuy bị còng nhưng còn được đặt lên mặt chiếc bàn gỗ trống trơn. Bên đối diện có một chiếc ghế có tựa lưng con đang bỏ trống.
– Thanh. Mày có muốn nhanh được về nhà không?
– Có.
– Muốn nhanh được về thì mau chóng nhận tội đi. Nhận tội sớm lúc nào nhanh về  lúc đó.
– Không.
Ông Thanh thấy lạ. Suốt năm ngày qua cái điệp khúc. Chiều tối bị lôi vào phòng thẩm vấn. Bị đứng kiểu chới với, hai bên sườn có hai người công an xốc nách. Bị nghe những câu truy hỏi dồn dập. Bị ăn những cái tát tai mảy đom đóm mắt. Bị bỏ đói. Và bị nhấm lạnh đến tê đờ mặt mày. Đều như vắt chanh. Năm ngày, năm buổi chiều tối. Mỗi buổi chiều nhập nhoạng tối hai tiếng đồng hồ chỉ được nghe và chỉ được trả lời “Có” hay “không”. Nghe chán thì bị đưa vào buồng tạm giam của trại giam Kế. Đến đây thì lại bị ăn đòn của bạn tù. Bị đứng liền tù tì suốt đêm mà hát.
Lòng lại đầy tủi thân. Ông Thanh rơm rớm nước mắt. Từ bé đến giờ chưa bao giờ ông bị đối xử như thế. Từ bé đến giờ chưa khi nào ông lại bị người ta bắt nạt một cách hành hạ thể xác đến như vậy.
– Cái tên Thủ có gợi cho mày tí gì không?
– Thủ Chằm?
– Mày cũng khôn lên rồi đấy.
Mừng như sắp chết đuối vớ được cọc. Mặt mày ông Thanh giãn ra sung sướng. “Có người quen biết cũng hơn”. Một chút nhận biết sót lại từ năm chiều tối trước đem lại cho ông tia hy vọng.
– Thủ Chằm?
Ông run run hỏi lại. Đầu vẫn không dám ngẩng lên. Bên phía bàn đối diện có bóng người vừa kéo chiếc ghế hơi lui ra và ngồi xuống. Người ấy chắc là đang nhìn ông chăm chú. Ông Thanh cảm thấy ánh nhìn đó qua hơi thở còn vương mùi rượu từ bên kia phả nhẹ sang. Người ấy im lặng như để ông Thanh trấn tĩnh lại. Cũng có thể là người ấy cho ông thêm ít phút để suy ngẫm?
– Mày có đau lắm không?
– Có.
– Mày có nhận tội cho đỡ bị đòn không?
– Không.
– Đừng dại. Tao nói thật.
– Có.
– Thế chứ.
– Có đúng là mày giết cô Thoan không?
– Không.
– Lại thế rồi.
– Mày có nhớ năm nào chúng mình gặp nhau trên đê không?
– Có.
– Mày có nhớ hôm ấy mày thế nào không?
– Không.
– Sao nhanh quên thế. Muốn uống nước không?
– Có.
– Có muốn tối nay lại về Kế không?
– Không.
– Thế thì nhận tội đi.
– Tội gì?
– Mày không nhớ đã làm gì ư?
– Không.
– Có nhớ gì về cô Thoan không?
– Có.
– Thế chứ.
– Nhớ Thủ Chằm không?
– Có.
– Biết Thủ Chằm bây giờ là ai không?
– Không.
– Có muốn biết không?
– Không. À có.
Sao hôm nay họ lại tỏ ra nhẹ nhàng nhỉ? Lại còn dỗ dành nữa? Ông Thanh đã tưởng buổi chiều  ngày thứ sáu này ông sẽ lại nghe được những câu hỏi như năm chiều trước.
– Ngẩng mặt lên nhìn tao này.
Ông Thanh từ từ ngẩng mặt lên. Nói thực, nếu bất ngờ hay tình cờ mà gặp ngoài đường thì người kia có xưng danh thì ông Thanh cũng không nhận ra. Ngồi trước mặt ông, ngồi chĩnh chệ trên chiếc ghế có tựa lưng là một thiếu tá công an. Người ấy mỉm cười nhìn ánh mắt ngơ ngác của ông vẻ khích lệ nhưng cũng hơi khiêu khích. Ông Thanh hơi cụp nhanh mắt xuống trước ánh mắt rất gờm gờm của người ấy.
– Sao? Vẫn chưa nhận ra Thủ Chằm ư?
– Thủ Chằm đó ư?
– Quả đất tròn mà Thanh. Tao không ngờ lại gặp mày. Mày làm tao khó xử đấy.
– Khó xử?
– Ừ. Mà này, hôm ấy không hiểu tại sao tao lại không đấm mày nhỉ. Đấm mày từ hôm ấy thì chắc đâu có ngày hôm nay.
– Tôi không hiểu.
– Mày thì hiểu làm sao được. Nói thật nhé.
– Tôi…
– Tao nói thật nhé. Mày cũng liều lĩnh lắm.
– Không.
– Mày liều lĩnh từ bé mà.
– Không.
– Cứ từ từ mà nghe đã Thanh. Mày liều lĩnh bởi cái thói vì gái ấy.
– Tôi không thế.
– Cãi rồi. Thế cô Thoan thì là thế nào?
– Tôi không biết.
– Cô Thoan kể cũng nõn nà thật. Gái một con cho con mắt phải mòn mà.
Ông Thanh đã phát ngán. Những câu nói chẳng đâu vào đâu làm ông mỏi mệt. Bấy giờ ông mới ngắm kỹ. Quả tình cái thằng Thủ Chằm ngỗ ngược ngày nào bây giờ trông khác hẳn. Thiếu tá Thủ ngồi rất chĩnh chệ và nói với ông những câu nói thong thả đến phát mệt. Một người đàn ông với khuôn mặt to, da mặt đỏ như vừa đi nắng về. Một người đàn ông trông oai vệ trong bộ cảnh phục màu cỏ úa. Chắc anh ta bây giờ làm to rồi? Có khi còn có trọng trách lớn nữa? Chắc quan trọng lắm đây? Ông Thanh ngập ngừng nói làm thân bởi thấy hy vọng.
– Tôi không nhận ra ..ra anh đấy.
– Lâu quá rồi còn gì. Mà hình như ba mươi mốt năm thì phải.
– Anh nhớ kỹ thật đấy.
– Nhớ chớ. Chuyện ấy quên sao được.
– Thế mà tôi quên mất.
– Đáng trách lắm. Nếu nhớ thì đâu nên nỗi.
– Anh Thủ này.
– Mày cứ nói.
– Anh tha cho tôi đi.
– Cái gì. Tha á?
– Vâng. Tha cho tôi.
– Chỗ người quen cũ. Tao nói thật nhé.
– Vâng.
– Mày có nhận tội không?
– Không. Tôi không làm gì cả.
– Mày có nhớ năm hôm trước như thế nào không?
– Có.
– Vậy thì nhận tội đi.
– Nhưng…
– Còn nhưng gì nữa. Mày nhanh chóng nhận tội. Tao nhanh chóng xong việc.
– Nhưng tôi không làm.
– Thế theo mày thì ai?
– Tôi không biết. Lúc tôi đến đã thấy thế rồi. Mà có gì lạ lắm.
– Ừ lạ thật đấy. Mày không làm thế thì ai?
– Chắc không phải tôi. Lúc tôi chạy đến có gì lạ lắm.
– Lạ nhỉ?
– Vâng.
– Thế thì nhận tội cho nhanh đi.
– Anh Thủ này.
– Hả?
– Anh thương tôi.
– Thương mày? Nhưng cấp trên của tao lại không thương tao. Thương mày thì tao chết à? Mày có nhớ vợ không? Nhớ Chiên ấy?
– Có.
– Tiếc cho Chiên quá. Tao nhớ Chiên là đứa con gái đảm và ngoan nhất làng Me hồi ấy. Hồi ấy con trai làng tao cứ tiếc mãi. Tao càng thấy tiếc cho Chiên.
– …
– Nhận đi. Rồi sớm được gặp Chiên. Tao cũng muốn được gặp Chiên. Chẳng biết nếu giờ gặp lại Chiên nghĩ về tao thế nào nhỉ?
– Không.
– Tùy mày. Hay là để tao ra ngoài cho mấy người khác vào nói chuyện với mày. Nói như mấy hôm vừa rồi ấy.
– Không. Tôi không làm chuyện ấy.
– Cũng ly kỳ đây. Tao hỏi thật nhé. Chỉ có mỗi mình mày. Mình mày với con dao và thái độ sốt sắng cũng kỳ lạ của mày. Không phải mày thì ai nhỉ?
– Tôi thấy có người hình như chạy từ trong nhà ra.
– Mày có nhìn rõ là ai không?
– Không. Tôi đoán vậy.
– Cũng khéo tưởng tượng lắm. Đừng có mà qua mắt bọn tao.
– Tôi á?
– Ừ. Chỉ ký nhận đi. Đơn giản là mày sẽ được gặp lại vợ con.
– Nhưng.
– Tao có ít thì giờ lắm. Mấy người ngoài kia không đợi được đâu.
– Đơn giản thế thôi ư?
– Ừ. Tao chuẩn bị sẵn rồi đây. Mày chỉ việc ký. Ký xong là xong.
Ông Thanh lặng đi giây lát. “Ký xong là xong. Có gì ra tòa nói sau”. Không ngờ cũng đơn giản thật. Im lặng tưởng như đếm được từng hơi thở. Phía bên kia bàn thiếu tá Thủ khoanh tay trước ngực. Nét mặt cũng căng ra chờ đợi. “Anh Thủ anh ấy là người quen. Anh ấy chắc sẽ nói giúp cho. Mình mà không nhận chắc hôm nay họ đánh mình chết mất”.
Tối hẳn. Căn phòng đã tối đi một cách kinh khủng. Trong bóng tối không thể nhận ra một hình thù nào, tâm can ông Thanh như lạc tới một nơi nào đó. Nơi đó chơi vơi và lạnh ngắt. Nơi đó mù mù và sặc sụa âm khí. Ông Thanh bỗng thấy lóa mắt, ai đó vừa bật công tắc đèn điện. Ánh sang vàng vọt đột ngột bừng tỏa tạo cho ông một cảm giác như vừa đâu đây. Hình như ông đang đứng giữa nhà cô Thoan? Ông đứng vô hồn, trên tay lăm lăm con dạo gọt hoa quả. Cô Thoan nằm vật ngửa dưới chân ông. Cô ấy đã chết. Máu chảy ra và đọng lại thành vũng cũng ngay dưới chân ông. Một mình ông đang đứng đấy bên cái xác của cô Thoan. Cô Thoan đã chết. Máu đỏ lòm dưới ánh đèn vàng vọt. Có tiếng con chim lợn kêu đánh “éc” vào màn đen.
Ông Thanh ngẩng phắt ngước mắt lên, đôi mắt thất sắc, đôi mắt của kẻ hoảng loạn.
Ông Thanh khẽ đưa đầu ngón tay đẩy nhẹ cánh cửa. Cánh cửa nhà cô Thoan mở thành một lối nửa thân  người. Êm ru không hề phát ra một âm thanh cọt kẹt nào. Nín thở ngóng tai nghe ngóng. Trong nhà cô Thoan vẫn điềm nhiên đứng chải tóc trước tấm gương treo trên tường. Yên chí là cô Thoan không biết. Cũng có thể là cô Thoan đã biết có người vừa đẩy cánh cửa nhà mình nhưng cô giả tảng làm ngơ? Đàn bà thường hay làm ngơ và giả tảng khi mà chính họ cũng đang chờ đợi. Ông Thanh nhẹ nhàng hít một hơi thở dài làm vốn rồi nghiêng người lách qua cánh cửa. Cô Thoan như tình cờ lại đứng xoay nghiêng. Qua phản chiếu trên tấm gương, ông Thanh nhìn rất rõ bộ ngực mây mẩy với hai đôi núm vú hồng hồng. Đôi núm vú hồng hồng đầy khơi gợi làm mặt ông Thanh đỏ lên xấu hổ. Sau cái xoay người cố khoe đôi núm vú trên bầu ngực mây mẩy ấy cô Thoan lại đứng im tư lự. Hình như cô ấy cũng đang chuẩn bị tư thế để đón nhận? Hình như cô ấy đang hơi lưỡng lự bởi cảm giác có tiếng chân người vừa bước vào nhà.
Ông Thanh đã tiến thêm một bước nữa. Vẫn nhẹ nhàng như bước chân của loài mèo. Lại đứng im nghe ngóng. Lại tiến thêm một bước nữa. Ông Thanh đã lọt hẳn người vào trong nhà. Ngọn đèn điện treo lủng lẳng bỗng lắc lư chao chao. Dấu hiệu cho thấy vừa có luồng gió thổi từ ngoài thổi vào nhà qua khe cánh cửa mở hé. Ông Thoan hơi ngập ngừng. Ông đưa tay lên cố ghìm những nhịp tim đang đập loạn xạ trong lòng ngực. Hình ảnh phản chiếu trên tấm gương lại thêm một lần nữa kích thích. Trong tấm gương là một người đàn bà đầy nhục dục với những biểu hiện khao khát rất rõ ràng. Ông Thanh đã vòng qua chiếc tủ quầy. Ông đã mạnh dạn hơn và bước vòng qua chiếc tủ quầy. Ông Chỉ còn cách hình ảnh trong tấm gương treo trên tường chừng một mét.
Đứng ở đây đã nghe rất rõ từng nhịp thở của cô Thoan. Đã thấy ngây ngây mùi sữa thơm tỏa ra từ chính đôi núm vú hồng hồng. Mùi thân thể đàn bà mà nhất là thân thể ấy vừa tắm gội xong sao hút mũi đến thế. Ông Thoan đứng cách cô Thoan chừng một mét mà mê đi. Mùi thân thể đàn bà từng giây từng giây cứ cuốn vào hai lõ mũi ông mời gọi. Một sự mời gọi đến không thể cưỡng nổi.
Mụ mẫm quá hóa mê dại. Ông Thanh đã tiến sát lưng cô Thoan. Chỉ cần một cái với tay nhẹ là ông đã chạm tới cái mùi đang cuốn hút hai lỗ mũi ông. Chỉ cần một cái tay với nhẹ là ông đã chạm tới hình ảnh đôi núm vú hồng hồng phản chiếu trên tấm gương. Cô Thoan bây giờ như một pho tượng. Cô đứng yên lặng tỏ rõ hơn sự chờ đợi.
Thật nhẹ nhàng và chính xác như được chuẩn bị trước. Ông Thanh từ phía sau lưng thọc luồn hai tay qua sườn cô Thoan. Ông luồn tay đúng lúc cô Thoan vừa giơ hai tay lên vén vén mớ tóc cuốn ngược lên đỉnh đầu. Một sự kết hợp ăn ý đến hoàn hảo không chê vào đâu được.
Như một lời mời được phát đi và được đón nhận. Ông Thanh đã vòng hai tay qua hết thân người cô Thoan. Lại như một sự kết hợp hoàn hảo nữa. Hai bàn tay của ông Thanh nhẹ nhàng đặt úp lên đôi bầu vú của cô Thoan. Đôi bầu vú mà ba buổi chiều nay chiều nào ông cũng nhìn trộm qua khe cửa. Đôi bầu vú mà những chiều đứng nhìn trộm ông đã thầm ao ước được đặt tay lên đó. Giờ thì nó đang gọn yên trong bàn tay ông. Ông Thanh nhắm mắt như để tân hưởng và co những ngón tay lại. Hai bàn tay ông đặt khít ôm trọn đôi bầu vú. Một cảm giác rần rật như điện lan truyền từ đôi bầu vú cô Thoan tới tận bụng ông Thanh. Cảm giác khoái cảm mới lạ níu chặt đôi bàn tay ông nơi đôi bầu vú cô Thoan.
Không phản ứng nào khác. Cô Thoan vẫn để yên cho đôi bàn tay ông Thanh đặt khít lên đôi bầu vú của mình. Cô đang lẫn lộn tưởng như đó là hai bàn tay của chính mình. Cô đang lầm tưởng rằng chính là cô đang tự nắm bóp đôi bầu vú của chỉnh mình.
Cho tới khi ông Thanh vòng cả người ôm ghì lấy cả thân hình của cô Thoan, ông phả những luồng hơi thở gấp gáp và nóng hổi lên bờ vai của cô, bấy giờ cô Thoan mới giật mình tỉnh khỏi cơn mê hoặc. Cô Thoan giật mình tỉnh mê và cựa quậy vùng vằng cố thoát khỏi hai vòng tay ngày một siết chặt. Cô đã quay người được và hoảng hốt nhận ra có người đàn ông lạ đang ôm ghì lấy mình. Bằng một phản ứng của bản năng, cô Thoan vươn người vùng vẫy mạnh hơn. Hình như sự phản ứng của tự vệ cùng với sức khỏe tràn trề của người đàn bà sau kỳ sinh nở đang mãnh liệt. Cô Thoan đã vùng người thoát được đôi vòng tay ôm siết của ông Thanh. Cô nhao người về phía chiếc tủ quầy. Với một người đang sống một mình giữa đỉnh dốc vắng lặng thì bản năng bao giờ cũng quyết liệt. Cô Thoan đã nhanh tay hơn ông Thanh khi tay cô đã với tới con dao gọt hoa quả mà cô đã đặt nó trên mặt chiếc tủ quầy. Cô nhẩy lùi sang một bên giữ khoảng cách giữa cô với ông Thanh đủ để ông không ôm cô được nữa. Cô Thoan thét lên rất to như một cách để xua đuổi và khua khua con dao về phía ông Thanh.
Mũi dao nhọn, lại ở trong tay của một người có phản ứng bất ngờ đang sợ hãi mà khua khoắng loạn xạ, mũi dao đã làm xoạc rách vạt áo của ông Thanh. Như một sự cùng đường của kẻ dâm cuồng bị bại lộ, ông Thanh bỗng trở nên quẫn trí. Ông lao đến bất chấp mũi dao vẫn dứ dứ về phía mình, ông ôm chặt lấy người cô Thoan. Và trong trạng thái đang kích động mạnh ông Thanh xô cô Thoan ngã ngửa ra. Con dao văng khỏi tay cô Thoan và rơi cách đó một đoạn nhưng đủ để ông Thanh nhoài tay với được.
Cho tới khi ông Thanh ngừng tay thì cô Thoan đã nằm im. Máu phun ra xối xả. Máu phun chảy đọng thành vũng ngay chỗ cô Thoan nằm.
BẢY
Trại giam Hoàng Tiến.
Chớm hè năm 2009.
Cơn mưa rào trút xuống tầm tã suốt hơn hai tiếng đồng hồ đầu giờ sáng nay đột ngột chấm dứt. Mưa tạnh hẳn. Nắng hè loang nhanh khắp các triền đồi. Quanh đây đưa lại tiếng lách rách lách rách của nước mưa chưa kịp thấm hết đang rồi hối hả lách xuyên qua từng gốc cỏ. Nước đọng chảy thành các dòng nhỏ rồi men theo những khe kẽ trên mặt đất xuôi xuống chân đồi. Những chùm lá vải theo gió đong đưa trước nắng, chúng có màu xanh mướt bởi vừa được tắm táp xong nhìn thích cả mắt. Không gian quyện một mùi hương hoa vải mới nở dìu dịu và sâu lắng lẫn bên hương bạch đàn chanh thoảng hoắc tạo nên thứ vị nồng ấm và dịu ngọt.
Ông Thanh như vừa bước ra từ ký ức, mắt háo hức nhìn cảnh vật xung quanh đầy lạ lẫm. Lâu lắm rồi ông mới có lại một cảm giác khoan khoái như thế. Nhưng cảm giác khoan khoái nhanh chóng biến mất nhường chỗ cho sự chán chường thường ngày. Từ góc sân này nếu nhìn ra đằng trước ông có thể hình dung ra đoạn đường nối từ quốc lộ 18 dẫn vào trại giam Hoàng Tiến. Hôm được đưa tới trại, qua ô cửa song sắt trên chiếc xe hòm bịt bùng dẫn giải tù nhân, ông đã he hé nhìn thấy con đường đó. Một con đường đất đỏ chạy song song với một con mương thủy lợi, đường đất cao cao giống như một con đê khiến ông bùi ngùi. Cảm giác như được đi trên triền đê sông Thương ở làng Me làm ông thấy nao lòng. Con đường chạy bên con mương chừng hơn hai cây số cho tới khi con mương thủy lợi chạm đầu một xóm nhỏ bên chân khu đồi bạch đàn và đổi hướng thì xuất hiện một ngã ba nhỏ. Ngã rẽ trái ngoặt vào trại giam Hoàng Tiến nằm sâu tít bên trong khu đồi bạch đàn và ngã rẽ phải dẫn vào một ngôi làng có tên gọi là “Làng Phong” ở tận phía cuối cánh đồng. Sau này ông Thanh nghe những người tới đây trước ông nói rằng. “Làng Phong” vốn đầu không phải là một cái tên làng. Mà làng phong là một chỗ mà những người mắc bệnh phong các nơi tụ về sinh sống, lâu ngày tụ thành một ngôi làng và tự nhiên được gọi thành tên. Một đằng là nơi giam giữ tù nhân, còn một nơi là chốn cho những người mắc bệnh phong trú ngụ. Thực cảnh như một mà hai như hai mà một. Đều là chỗ cho những con người bị xã hội ghét bỏ.

Nắng đã nhanh chóng chiếm lĩnh bầu trời và tràn ngập khắp các triền đồi. Dậy tiếng ong đập cánh bay vè vè quanh những tán lá vải. Xa một chút, ở phía sau lưng là dẫy núi Đông Triều mù mù sương khói. Quê ông, tỉnh Bắc Giang ấy, ở mãi phía sau dẫy núi mù sương kia. Sau vài động tác vươn vai ông Thanh thấy dễ chịu trở lại. Hình như cảm giác như vừa được nhìn thấy quê hương đã cho ông sự dễ chịu đó? Dạo này ông không còn đau mỏi chân tay như mấy năm trước nữa. Có thể gần năm năm ngồi tù đã cho ông cái gọi là sự thích ứng với hiện tại? Có thể buổi sáng hôm nay tiết trời chuyển tích cực đã cho ông những cảm giác thư thái? Mọi cái đều có thể và mọi thứ đều có thể. Thực ra mấy tháng gần đây ông Thanh thường xuyên được ra ngoài sân phơi nắng nhiều hơn. Mỗi tuần một lần vào ngày thứ hai đầu tuần. Lý do chính mà ông có được điều đó cũng bởi gần năm năm qua trong trại giam này ông là một trong số những phạm nhân có thái độ cải tạo tốt nhất. Không kêu ca phàn nàn. Không nổi sung bất chợt rồi chửi bới lung tung. Không cãi cọ hay đánh lộn  nhau. Không chậm chạp hay giả vờ đau yếu. Tất cả những thái độ đó của ông Thanh đã được anh cán bộ quản giáo trông coi buồng giam số 6 ghi nhận.
Nắng lên sau mưa thật khác lạ. Bầu trời cao xanh và trong veo. Gió mơn man thổi và không khí cũng trở nên trong veo. Cảm giác dễ chịu trở lại khiến ông Thanh tự nhiên thấy hứng khởi. Ông Thanh rút chiếc vỏ lon bia từ trong túi áo ra và từ tốn đặt nó xuống cạnh chân mình một cách cẩn thận quá mức. Ông đặt nằm chứ không đặt đứng. Hình như ông sợ đặt mạnh hay đặt đứng sẽ làm chiếc vỏ lon bia đó đổ kềnh và thêm gió thổi nó sẽ lăn trôi nhanh theo sườn đồi thoải thoải của khoảng sân trước trại. Đúng vậy, chiếc vỏ lon bia nhẹ tênh khẽ chùng chình theo hình dạng tròn vốn có, nó chùng chình lăn nhẹ chưa nổi một vòng rồi khựng lại bên một hòn đá nhỏ cỡ chỉ bằng viên bi ve. Ông Thanh đã khôn khéo đặt chiếc vỏ lon bia cạnh chỗ có một hòn đá nhỏ đó, đấy là vật chèn tình cờ nhưng lại có dụng ý.
Chiếc vỏ lon bia này vốn nằm lăn lóc cạnh bờ cỏ bên khoảng sân trước mặt buồng giam số 6, ai đó chưa kịp thu dọn sau một cuộc liên hoan của cán bộ trại, là một “đặc ân” mà anh cán bộ quản giáo còn khá trẻ có tên là Kiên đối với ông Thanh. Người cán bộ quản giáo phụ trách buồng giam số 6 ban đầu chưa hiểu ông Thanh định làm gì. Quy định trong trại giam nêu rõ, không cho phép bất cứ một người tù nào được đem những đồ vật bằng sắt hay thứ gì cưng cứng vào trong buồng giam, nhưng lần này thì phá lệ. Anh cán bộ quản giáo còn khá trẻ nên chắc dễ động lòng, sau khi nghe ông Thanh dụt dè trình bày mục đích của mình trong thái độ có vẻ không chút hy vọng, ông nói bằng cái giọng như chực khóc đã làm anh đồng ý. Lúc ấy ông Thanh đứng rập rình trước cửa buồng giam, ông chưa vào trong buồng giam ngay như mọi bữa sau khi đã hết giờ ra ngoài, ông đứng trước mặt anh cán bộ quản giáo cất giọng rụt rè nhưng đầy năn nỉ, ông xin anh cho phép mình được giữ nuôi con bọ ngựa non cùng lời thỉnh cầu được đem vào buồng giam chiếc vỏ lon bia. Nhìn bộ mặt tồi tội cùng mục đích hết sức đơn giản là xin giữ nuôi con bọ ngựa non của ông Thanh; anh cán bộ ngần ngừ suy nghĩ, khẽ rướn mắt qua vai ông Thanh để nhìn vào sâu tít trong buồng giam để kiểm tra, thấy vẻ ôn ổn, thấy bên trong không có biểu hiện nào đặc biệt thì anh gật đầu. “Lần đầu và lần cuối đấy nhé”.
Ông Thanh mừng hơn trẻ con được mẹ đi chợ về đưa cho mẩu quà. Ông lắc lắc mãi bàn tay anh cán bộ quản giáo để nói lời cảm ơn. Thực ra anh quản bộ quản giáo không lấy làm lo lắng cho hành động của ông Thanh. Ở trại giam nào cũng vậy. Nhất là những trại giam được giao nhiệm vụ giam giữ những tù nhân phải thụ án cao, thường người tù hay xin cán bộ quản giáo cho những đặc ân. Khi thì là một hơi thuốc lá. Khi thì là nhờ gửi mấy dòng thư. Chẳng có người tù nào đi xin một đặc ân khác lạ như ông Thanh, được nuôi một con bọ ngựa non. Trong thâm tâm anh cán bộ quản giáo thì không chóng thì chầy con bọ ngựa non này sẽ chết và ông Thanh thể nào cũng phải nghĩ cách đem chiếc vỏ lon bia rỗng ra ngoài bờ cỏ mà thôi. Cho ông ta tí chút gọi là được thỏa nguyện cũng là cách để ông ta cải tạo tốt.
Ông Thanh đứng yên vài giây, mắt đăm đắm nhìn chiếc vỏ lon bia đã nằm an tọa cạnh viên đá nhỏ. Đúng ra ông làm như thế cũng là để con bọ ngựa đang ở trong đó được ổn định sau “chuyến công du dập dình trong túi áo”. Hình như phải như vậy ông mới yên tâm. Còn sớm, mỗi lần người tù được ra ngoài sân phơi nắng chừng hai mươi phút nên ông Thanh không vội vã. Một chiếc vỏ lon bia không có giá trị gì với người khác nhưng với ông Thanh thì nó vô cùng quý giá. Sau khi được phép của anh cán bộ quản giáo, ông Thanh hí hửng mang vào trong buồng giam. Chính ông đã dành cả buổi sáng hôm đó để ngồi bệt dưới sàn buồng giam, nhẹ nhàng mài mài phần đầu của chiếc vỏ lon đó. Ông mài mài vừa độ để có thể cậy phần đầu vỏ ra được để làm thành một cái nắp vỏ lon mở ra lắp vào vừa khít mà không hề phải cắt gọt hay đục rập. Hài lòng với kết quả của mình, ông Thanh mới thong thả nhẹ nhàng thả con bọ ngựa non vào trong đó. “Mày sẽ ở trong đó”. Ông Thanh nói với con bọ ngựa và ghé mắt nhìn vào trong ruột vỏ lon bia qua lỗ hở mà phần giật nắp lon bia để lại. Thật hoàn hảo.
Yên tâm nhìn khoảng trời trong veo đến mát mắt, ông Thanh hít một hơi thở dài. Bao giờ cũng vậy, ông Thanh hít một hơi thở thật dài ngỡ luồng khí vào sâu tới tận dạ dày rồi mới nít thở nhẹ nhàng cậy nắp chiếc vỏ lon bia. Ông vẫn nít thở như vậy mà từ từ nghiêng dốc phần đầu đã mở của chiếc vỏ lon, ông dốc dốc thật từ từ để con bọ ngựa tự chui ra khỏi chiếc vỏ lon bia. Mọi động tác đều cẩn thận đến chậm chạp.
Cũng như chủ nhân của mình, con bọ ngựa sau khi chui ra khỏi chiếc vỏ lon, nó không nhấc những chiếc chân dài của mình để tạo ra một bước đi đầu tiên, nó ngẩng đầu đứng thẳng như cũng đang vươn người lấy lại tư thế, bởi suốt tuần nó bị nhốt khòng khòng trong lòng vỏ lon bia. Mới qua mấy tháng mà con bọ ngựa đã lớn trông thấy. Bộ cánh mỏng tơ ngắn cũn ngày nào giờ đã dài chấm đuôi. Đôi kiếm càng ngỡ chỉ chực gẫy giờ đã cứng cáp. Con bọ ngựa sau khi đã lấy lại được tư thế dáng hình của mình thì nó trông khá vẻ oai vệ, nó vươn vươn và ngoay ngoáy đôi kiếm càng trước không khí một vài lượt về phía trước như để tỏ sự lẫm liệt của mình và tỏ rõ sức mạnh của đôi kiếm càng rồi mới hạ xuống rất khiêm tốn. Nó đứng yên lặng trên đám cỏ, không hề cúi đầu ăn nhanh thứ cỏ mới non sau mưa. Nó đứng yên lặng như chủ nhân của nó đang đứng ngay đó rất lặng yên. Rất lạ, con bọ ngựa này không hề tỏ dấu hiệu sẽ bước đi nữa hay đập đôi cánh mỏng như tờ giấy để chực bay đi. Cũng có thể suốt mấy hôm bị nhốt trong chiếc vỏ lon bia con bọ ngựa này cũng cuồng chân bó cẳng. Nó cuồng chân bó cẳng nên không thể cất mình bay lên được. Nó cuồng chân bó cẳng nên không thể bước đi tiếp được. Nó đứng đó yên lặng nhưng khẽ run rẩy thân mình trước làn gió thổi qua chân, không bước đi và cũng không bay đi. Con bọ ngựa đứng song hàng với chủ nhân của mình và lia lia đôi mắt to tròn nhìn cảnh vật xung quanh.
– Rước cái của nợ ấy làm gì cho mất thời giờ
– Anh bảo cái gì ạ?
– Tao thấy mày cũng lạ. Thân mình lao tù lại rước thêm một con bọ ngựa tù lao làm gì. Tao á. Được ra ngoài thế này thì tranh thủ mà hít tí khí mà ngắm tí trời. Đợi lúc hết giờ trở lại trong kia nằm chờ qua ngày.
– Nhưng con bọ ngựa này lạ lắm anh ạ.
– Lạ cái cóc khô. Nhưng sao ngần bấy ngày rồi mà nó chưa chết nhỉ?
Người bạn tù cùng ra ngoài sân sáng nay với ông Thanh là người không hề xa lạ. Một người đàn ông dáng cân đối, cao hơn ông Thanh nửa cái đầu và chắc cũng cùng tuổi với ông nhưng sự từng trải đến uy quyền được thể hiện qua đôi chân mày díu vào nhau và đôi mắt sâu luôn nhìn mọi thứ xung quanh rất lạnh lùng. Ông ta nhìn bề ngoài có vẻ lụng thụng trong bộ quần áo sọc đen nhưng cơ bắp chân tay của ông ta đủ làm ông Thanh phát ngại. Chính ông ta là người đã cho ông Thanh biết thế nào là sức mạnh của cơ bắp ngay trong cái đêm đầu tiên ông Thanh “xô khám”. Người đàn ông trong bóng đêm đã ôm riết lấy cả người ông Thanh mà huých huých vào mạng sườn, huých huých vào mông ông Thanh những cú huých huých hối hả. Mãi mấy ngày sau, nghĩa là khi hai người đã tạm quen quen thì người bạn tù này mới nửa đùa nửa thật nói cho ông Thanh biết vì sao mình lại có những hành động kỳ quái chưa có tên gọi ấy. “Thằng tù nào chả vậy. Như tao với mày ấy. Biết đến khi nào mới được gần vợ. Không làm thế nó bức bối lắm”. Ông Thanh ngượng chín cả mặt như chính ông là người đã làm cái hành động kỳ quái đó. Ông ngượng nhưng không dám “từ chối” cái hành động đó. Nỗi sợ bị đánh còn ám ảnh nhất là nỗi sợ không làm hài lòng những người bạn chung tù.
– Mày chắc còn hy vọng cái gì.
– Anh hỏi gì ạ?
– Nẫu. Tao không hiểu sao mày cứ vâng dạ ngoan ngoan thế. Đã gọi là thằng tù với nhau rồi thì trên dưới làm gì có.
– Nhưng…
– Mày biết tao thế nào không?
– Dạ. Em không  biết.
– Có tao ở đây và chơi với mày những thằng khác phải tránh đấy.
– Vâng ạ. Em biết ơn anh lắm.
– Lại khuôn phép rồi. Tao có nói là mày ngoan ngoãn với tao đâu.
– Thế là gì ạ?
– Mày có nhìn thấy cái này không?
Người bạn tù vén tay áo lên. Thật hiếm lại có một người nằm tù mấy năm lại có những cơ bắp còn chắc đến thế.
– Sức mạnh của tao đấy.
– Dạ em thấy đúng thế ạ.
– Lại một thằng ngố nữa. Thái độ của mày ngố lắm. Tao bắt đầu nghi ngờ rồi đấy.
– Không ạ. Em không dám.
– Tao có nói nghi ngờ cái sự “ngoan ngoãn” của mày đâu. Tao nghi ngờ cái khác kia.
– Dạ. Em đâu có.
– Thôi mày cứ lo chuyện con bọ ngựa của mày đi. Tao còn theo dõi tiếp. Khi nào thật chắc tao sẽ cho mày biết.
Người bạn tù quay đi. Ông ta cảm thấy đã phí thời gian khi đứng nói chuyện với ông Thanh. Ông ta lảng ra một góc sân và ngồi xuống. Ngồi khoanh chân bằng trên nền sân. Hai bàn tay ông tay đặt ngửa chồng lên nhau. Dáng ngồi thẳng. Mắt nhắm lại. Toàn bộ thân hình ông ta tập trung vào sự thu hút khí trời. Với ông ta thì thời gian lúc này chẳng gì quý hơn là tranh thủ hít thở bầu không khí thật sự. Lát nữa vào trong kia chỉ còn ngửi thấy mùi thân thể của những người tù lâu ngày không được tắm rửa cẩn thận, nó hôi mù mù đến lợm giọng.
Ông Thanh ngần ngừ liếc nhìn trộm người bạn tù đang ngồi như người ngồi thiền cánh đó không xa, ông chưa dám làm công việc của mình. Câu nói của người bạn tù làm ông chợt hai hãi như sắp phải chịu một thứ gì đó. Người này thật lạ? Ban đêm là ôm diết lấy người mình một cách hùng hục như làm chuyện ấy với vợ vậy. Đến sáng thì lại dửng dưng như chưa hề có chuyện gì xẩy ra. Hôm nay ông ta nói “nghi ngờ” là nghĩa làm sao? Tuy mải chăm sóc cho con bọ ngựa nhưng lòng dạ ông Thanh thấy rối bời. Những tưởng đã qua nỗi ám ảnh về những ngày ông bị triệu lên công an huyện thẩm vấn. Những tưởng đã qua nỗi lo lắng về những trận đòn do bạn tù gây ra. Ông Thanh lo sợ điều gì sẽ xẩy ra nên vội vàng đẩy đẩy ngón tay cố lùa con bọ ngựa chui trở lại vào trong chiếc vỏ lon bia. Thật lạ lùng. Con bọ ngựa ngúc ngoắc đôi kiếm càng rồi giương lên như chống đối. Con bọ ngựa lui lui những chiếc chân gai cào tỏ ý không muốn vào trong chiếc vỏ lon. Nó ngơ ngơ đôi mắt to tròn và trong như giọt sương nhìn thẳng vào mắt ông Thanh. Rất lạ lùng. Ông Thanh hơi hốt mà dừng ngón tay đang run run lại.
– Không có gì phải sợ.
Không tưởng tượng được điều gì đã và đang xẩy ra. Ông Thanh ú ớ, mắt mờ dại đi. Nắng sau mưa sáng rực rỡ khiến ánh nhìn của ông cũng bị nhòe đi. Con bọ ngựa thôi nhìn vào đôi mắt của ông Thanh. Nó quay đôi kiếm càng khua khua lên trời như thách thức những làn gió đang thổi sát mặt đất. Ở trên triền đồi gió thổi luôn cọ sát mặt đất, thổi làm bay dạt những chiếc lá cỏ non. Như sợ không kịp, ông Thanh vơ tay bứt bứt những chiếc lá cỏ non nhất nhét vội vào trong chiếc vỏ lon bia. Hàng tuần ông đều bứt cỏ cho vào đó. Khẩu phần ăn của con bọ ngựa từ hôm nay cho tới sáng lần sau ông mới được ra ngoài sân.
Giọng nói không biết từ đâu đưa tới đó ông Thanh đã từng nghe. Chỉ khác ông đã từng nghe vào lúc ban đêm. Lúc đó trong buồng giam chỉ vang lên thứ âm thanh duy nhất là những tiếng ngáy như sấm rền của những người bạn tù. Đêm đầu tiên xin được nuôi con bọ ngựa ông đã cẩn thận đặt chiếc vỏ lon bia ngay sát bên cạnh gối. Ông chỉ sợ ngủ quên ngộ nhỡ người bạn tù nằm bên cạnh ôm diết lấy mình mà đè bẹp chiếc vỏ lon bia thì con bọ ngựa sẽ chết lòi ruột. Ông đặt nó bên cạnh gối những phía trên gần đỉnh đầu. Cẩn thận vẫn hơn vì nếu ông bị người bạn tù đó lại ôm diết thì chiếc vỏ lon cũng không sao.
Nửa đêm im ắng, ông Thanh vẫn chưa ngủ được. Tự dưng có con bọ ngựa khiến ông thấy bồn chồn. Thấy mình phải có trách nhiệm nuôi giữ nó. Đó là niềm an ủi đối với ông cho qua ngày đoạn tháng. Đêm chìm sâu trong tiếng ngáy của những người bạn tù. Ông Thanh nhẹ nhàng tranh thủ lúc người bạn tù hay ôm diết lấy người mình giờ đã lăn ra ngủ mới dón dén kéo chiếc vỏ lon bia lại. Ông hơi nghiêng nghiêng vỏ lon bia nghe ngóng. Trong chiếc vỏ lon bia, con bọ ngựa chừng như biết chủ nhân của mình đang có ý kiểm tra bèn gài gại nhè nhẹ những chiếc chân gai cào của mình. Kê sát bên tai, tiếng gài gại chân của con bọ ngựa đủ để ông Thanh biết rằng con bọ ngựa vẫn còn sống. Ông hé mắt nhìn qua chỗ giật nắp bia hy vọng nhìn thấy rõ con bọ ngựa. Trong đó tối mù mù.
Bất chợt thoảng xa vời một giọng nói chỉ mình ông nghe thấy. Giọng nói khẽ khàng đủ cho ông biết là có âm thanh đang vọng từ trong chiếc vỏ lon bia ra nhưng ông không thể nghe được giọng nói ấy đang nói gì. Một chút hồ nghi lẫn lộn làm ông thấy lạnh lưng. “Có lẽ mình tưởng ra thế”. Ông Thanh tự vẫn và ngủ thiếp đi.
Vài ngày rồi vài tháng. Hễ đêm xuống sâu là ông Thanh lại tỉnh dậy. Ông dón dén kéo chiếc vỏ lon bia lại sát đầu mình. Thời gian hình như cũng dần định hình. Thứ âm thanh ban đầu mà ông Thanh ngỡ là tiếng chân con bọ ngựa gài gại vào thành vỏ lon cũng đã rõ ràng. Nó gài gại như thứ âm thanh nghe quen quen. Cố nặn óc để nhớ, cuối cùng ông Thanh cũng nhớ ra đó là tiếng rào rào của đoàn bộ đội hôm nào hành quân dưới mưa mà ông đã thấy. Lần này mắt không nhìn được những tiếng rào rào của nước mưa rơi bồm bộp lên những tấm vải mưa. Tiếng rào rào của những bước chân lép nhép cất từng bước nặng nhọc ngược lên đỉnh dốc. Tiếng rào rào của những hơi thở gắng gượng. Đoàn bộ đội đã tới đỉnh dốc. Ông Thanh đã nhìn thấy cha mình. Cha của ông quay mặt lại phía ông giơ giơ ngón tay như đang vẫy.
Hốt hoảng, ông Thanh chồm bật dậy. Thì ra ông vừa nằm mơ. Nhưng thực là lạ. Chỉ từ hôm ông nuôi con bọ ngựa trong chiếc vỏ lon bia thì những âm thanh nghe quen quen kia mới trở lại. Thực là lạ, những âm thanh đó chỉ vọng lên mỗi mình ông nghe thấy
Người bạn tù nằm cạnh ông Thanh thì ra cũng tuổi Sửu như ông. Đó là một người có bản tính khác hẳn với ông Thanh. Ông ta không âu sầu như ông Thanh. Ông ta không có nỗi sợ hãi lẩn quất như ông Thanh. Một người luôn tỏ ra có bản lĩnh trong mỗi hành động. Những ngày tháng nằm bên người bạn tù ấy tự nhiên ông Thanh thấy như có “chỗ dựa”. Không phải vì những cái ôm diết tới nóng bỏng sau lưng mà có một điều gì đó từ ông ta truyền tới. Nhưng sáng nay ông ta nói “nghi ngờ” là nghĩa làm sao? Ông Thanh chưa ngủ được. Câu nói tưởng chơi chơi vậy mà nó làm ông phải bận tâm. Hình như người này đọc được suy nghĩ của người khác? Hình như người này biết được sự thật mà chính ông không nghĩ ra.
Đêm rất sâu. Ngoài khoảng sân trước cửa buồng giam hương hoa vải luồn theo gió tới chỗ ông nằm đem theo cảm giác thân thuộc làm ông Thanh thấy nhơ nhớ như đang nhớ một điều gì mà ông không nhớ nổi. Ở trại giam Hoàng Tiến này ban giám thị trại đã bắt buộc những người tù thụ án thấp, những người tù phạm tội không phải là tội trọng hoặc những người tù cải tạo tốt, vào công việc lao động hàng ngày như một liệu pháp cho công tác cải tạo, lại đồng thời cải thiện đời sống cả trại. Chính khu đồi đầy bạch bàn cao vút sau lưng các buồng giam là công sức của những người tù. Chính những gốc vải được trồng thành từng dẫy thẳng đẹp trong khu vườn trước mặt mỗi buồng giam cũng là công sức của những người tù. Ông Thanh đã vài lần được phép ra ngoài và được tham gia vào công việc chăm sóc những thứ cây đó. Thu năm ngoái, dẫy vải cho lứa bói quả dầu tiên. Những người tù như ông dĩ nhiên đã được hưởng đôi chút thành quả đó. Đang mơ màng tận hưởng hương hoa vải trong đêm bỗng người bạn tù nằm bên cạnh khẽ cựa mình. Ông Thanh cảnh giác nhưng trong bụng đã sẵn sàng đón nhận những vòng tay ôm diết lấy người mình như mọi đêm.
– Mày không ngủ à?
Tiếng hỏi làm ông chột dạ. Vẫn nằm ngửa, hai tay chắp trên bụng, người bạn tù lại cất tiếng hỏi.
– Tao biết mày không phải thế.
Một câu hỏi nhỏ nhưng giọng từ tốn không hề làm phiền những người tù khác cùng buồng giam cũng đủ cho ông Thanh biết người bạn tù đó đang hỏi mình. Ông cẩn thận hỏi lại.
– Anh bảo sao cơ?
– Trông cái tướng nhát chết của mày, trông cái mắt ngơ hiền của mày và nhất là nhìn thái độ chăm chút của mày với con bọ ngựa, tao biết mày không phải như thế.
– Em không hiểu.
– Mày không hiểu là phải.
Thoáng dừng vài giây người bạn tù lại nói tiếp.
– Nếu mày biết thì mày không thế.
Ông Thanh vẫn chưa hiểu. Nín lặng để suy nghĩ nhưng càng nín lặng ông lại càng lâm vào ngõ cụt.
– Mày có giết người ta đâu mà nhận.
Hoảng sợ thực sự. Năm năm rồi ông Thanh đã ngỡ quên được câu chuyện đó không ngờ đêm nay người bạn tù này lại khơi lại. Trong tù đã có luật bất thành văn là những người tù chẳng bao giờ tự nhắc lại chuyện mình đã làm và chẳng khi nào hỏi han nhau về quá khứ. Đó là điều cấm kỵ bởi hễ những ai đã vào đây thì chẳng có ai là người tốt đẹp cả. Câu nói đầy tính khẳng định của người bạn tù trong đêm nay khiến ông hoảng sợ. Ông sợ phải nhớ lại và sợ phải nói lại chuyện cũ.
– Thôi mày ngủ đi. Ngủ say vào.
Người bạn tù quay mặt đi ngủ tiếp. Ông ta thật dễ ngủ. Vừa quay đi đã cất tiếng ngáy ầm ầm làm ông càng thấy phân vân. Câu nói của ông ta khiến ông bắt đầu nghi ngờ lại chính mình. Nghi ngờ tất cả những gì ông đã tin là thật.
Ông Thanh nghi ngại nhưng thuận tay kéo lon bia lại gần đầu mình. Tiếng gài gại quen quen lại vọng ra nhưng lần này tiếng gài gại như thúc giục hơn. Tiếng gài gại nho nhỏ nhưng rõ ràng là đang định bày tỏ điều gì. Ông Thanh ghé mắt nhìn qua lỗ giật nắp lon. Không thấy gì sất, bên trong lon bia tối om om.
– Mày vẫn không ngủ được à?
Người bạn tù bỗng hỏi lại. Câu hỏi của ông ta lần này khá thân tình.
– Mày dại lắm.
– Anh bảo ai dại.
– Mày.
– Em không hiểu.
– Tao có nghề nên tao biết.
– Anh biết.
– Ừ.
– Nhưng….
– Mình cùng tuổi sửu. Cái tuổi con trâu cày vất vả nhưng chỉ được người ta cho ăn cỏ thôi. Mà cỏ thì cũng lắm loại. Tao được ăn thứ cỏ ngon còn mày được ăn thứ cỏ dại.
– Cỏ dại.
– Mày ăn cỏ dại nên mày mới dại. Tao ăn cỏ ngon nên tao mới tưởng ngon. Tưởng ngon mà hóa ra cũng dại chẳng khác gì mày.
– Anh cũng như em á?
– Không. Mày khác, tao khác. Chỉ giống nhau là bây giờ cùng nằm ở đây thôi.
Người bạn tù thở dài ngao ngán. Ông ta lại quay mặt đi ngủ tiếp. Người đâu thật lạ? Ngủ rồi thức. Thức rồi ngủ. Nói chuyện hỏi han rồi ngủ. Ngủ tưởng say lại quay ra nói chuyện hỏi han. Ông ta cứ như ma ấy? Một con ma còn sống nằm sờ sờ ngay bên cạnh mình? Ông Thanh thấy muốn vùng dậy chạy ra ngoài nhưng ông biết là không thể làm thế được.
Trân trân nhìn lên trần buồng giam. Mắt ông không thể nhìn thấy được gì ngoài một màu mông lung chập chờn trước mặt. Người bạn tù đã ngủ say. Lần này ông ta ngủ say thật sự. Bằng chứng là chờ mãi ông Thanh cũng không thấy người này quay mặt lại và hỏi tiếp. Không có gì là sự thật và không có gì là không phải là sự thật. Trước mắt là khoảng mông lung chẳng rõ ràng. Trước mắt là những băn  khoăn kèm nỗi sợ khi người bạn tù bỗng dưng nói những câu nói làm ông khó hiểu. Đêm sâu như giấu kín. Ông Thanh nằm ngửa, hai tay vòng ra sau gáy làm gối. Đôi mắt trong trong không muốn nhắm. Ông sợ nếu bây giờ nhắm mắt và ngủ đi thì những câu nói của người bạn tù ban nãy sẽ tan biến.
Thực ra những câu nói của người bạn tù đã làm ông Thanh thấy bận tâm. Nhưng là cái bận tâm để lắng nghe chứ không phải là cái bận tâm lo sợ ban đầu. Cái bận tâm của suy xét.
Ông Thanh giơ tay đẩy mạnh cánh cửa. Cánh cửa như chưa hề khóa chốt bật mở tung và giang rộng ra. Cô Thoan không hề giật mình hay hốt hoảng. Cô vẫn đứng trước tấm gương treo trên vách. Ông Thanh chựng lại vài giây. Căn nhà trống vắng không có lấy một chiếc ghế. Ngần ngừ định quay ra nhưng tấm lưng để trần của cô Thoan làm ông thấy tiếc rẻ. Hình như cô Thoan này cô ấy đang chờ đợi? Ông Thanh nín một hơi thở dài rồi từ từ tiến lại gần cô Thoan hơn. Đứng ở đây ông đã cảm thấy hơi nóng từ thân thể cô đang tỏa về phía mình. Cái hơi nóng của người đàn bà đang độ cho con bú còn ngây ngất mùi thơm của sữa. Ông Thanh lại hít một hơi thở dài. Ông hít cái mùi thơm da thịt đàn bà đang như khỏa trần trước mắt mình. Dừng lại hay bước tiếp? thoáng phân vân và thoáng thấy chuyện tội lỗi sắp xẩy ra làm ông Thanh lúng túng. Nhưng cái mùi thơm da thịt cùng mùi sữa ngầy ngậy cứ hút lấy hai lỗ mũi của ông. Ông Thanh dón dén bước thêm hai bước chân nữa. Từ đây chỉ cần với tay là ông đã có thể chạm tới da thịt của người đàn bà hơ hớ thân hình đang đứng trước mặt. Cô ấy có chờ đợi như mình đã nghĩ không? Cô ấy có mong được như mình đã nghĩ không? Một loạt các câu hỏi lần lượt xuất hiện trong đầu khiến ông Thanh như ù hết cả đầu. Bước thêm một bước chân nữa là ông đã tới sát người cô Thoan. Bước thêm một bước chân nữa là ông đã chạm tới điều mà ba buổi chiều hôm nay ông đứng ngoài cửa lén nhìn qua khe cửa. Bước thêm một bước chân nữa là ông đã có thể thảo được niềm khao khát bấy nay. Bước thêm một bước chân nữa là ông đã…..
– Không!
Bất chợt ông Thanh hét lên rất to. Tiếng hét làm cả buồng giam cùng ồn ào như tổ ong vỡ. Ông vùng ngồi dậy, mắt hoảng loạn nhìn khoảng mông lung đang kín đặc trong buồng giam.
– Không phải tôi!
Vẫn hoảng loạn như chưa dứt ra khỏi dòng cảm xúc ông Thanh lại hét lên. Người bạn tù nằm bên cạnh tỏ ra rất có kinh nghiệm với những trường hợp một người tù nào đó tự dưng sinh hoảng loạn, ông ta đã ôm chặt lấy người ông. Vẫn ôm và giữ như vậy ông ta nói bằng thứ giọng đầy quyền uy của mình.
– Mọi người ngủ tiếp đi. Thằng này mê sảng đấy mà.
Buồng giam trật tự trở lại. Hơn nữa những người tù ở đây chẳng lạ gì những chuyện xẩy ra như cơm bữa như vậy. Một người tù mới tới còn chưa hết bàng hoàng tỉnh dậy giữa đêm la hét là chuyện vặt. Một người tù nhớ vợ nửa đêm mò dậy khua khoắng loạn xạ là chuyện thường tình. Một người tù quá dằn vặt với những tội lỗi mà mình gây ra đêm đêm thức dậy ngồi ôm đầu bịt tai rồi la hét chẳng có gì mới. Một người tù cảm thấy lạc lõng hoặc u sầu đêm không dám ngủ nói lảm nhảm cũng là chuyện thường thấy. Đám người tù cùng buồng sau khi đã buông vô số câu chửi thề rồi lại lăn ra ngủ tiếp. Nếu như không có người bạn tù nằm bên cạnh luôn có sức mạnh lạ lùng và uy quyền thì có lẽ đêm nay thế nào ông Thanh cũng bị những người đã bị ông vô tình quấy rầy kia chùm chăn đánh cho một trận nhừ đòn. Trong tù thường cũng là như vậy, kẻ nào làm người khác cảm thấy bị quấy rầy nếu không phải ăn đòn ngay trong đêm thì hôm sau cũng phải chịu hình phạt. Thứ hình phạt rất tùy hứng do người được gọi là “buồng trưởng” nghĩ ra. Án phạt hết sức đơn giản. Đổ phân cho cả buồng một tháng tròn.
Khéo léo vừa ôm vừa đỡ ông Thanh nằm xuống. Người bạn tù nằm bên cạnh vẫn giữ chặt ông Thanh trong vòng tay mình vừa dỗ dành hệt như một bà mẹ dỗ dành đứa con mình thôi khóc. Ông Thanh ngắc ngứ đầu vì bị ôm chặt tới ngột thở. Ông cựa quậy cố lấy hơi thở dồn dập như vừa trải qua một việc vô cùng cực nhọc. Tiếng thở dồn dập cũng dần dần nhỏ lại.
– Mày bình tĩnh lại chưa?
– Em bị làm sao à?
– Lại còn hỏi nữa. Thôi để tao ôm cho mà ngủ.
– Em thấy lạ lắm. Em không thế.
– Tao cũng biết như thế. Sao mày lại chịu.
– Em cũng không biết nữa. Nhưng…
– Nhưng gì?
– Hình như đúng là như thế.
– Nẫu quá. Mày đi tù là phải.
Đúng là không có người bạn tù nằm bên cạnh thì ông Thanh chắc không thoát đòn. Người đàn ông này thực sự có uy quyền trong buồng giam này cho dù ông ta không làm “buồng trưởng” hay đại loại như một thứ “đại ca” trong tù. Cánh tay săn chắc đầy cơ bắp của người bạn tù đã cho ông Thanh một vòng ôm chặt cứng. Ông cứ nằm nguyên trong vòng tay ấy mà lịm thiếp đi. Ông mơ mơ như đã tới một nơi nào đó. Nơi đó ông chưa hề tới bao giờ.
Ông Thanh đã đi tới một vạt đồi rộng mênh mông nhưng trơ trọi không có lấy một mầm cây nào gọi là sống. Chỉ chĩa thẳng lên trời vô số những mỏm cây cụt thân, cụt đầu trơ trơ màu than đen. Không gian đặc sặc một mùi khét cháy đến khó thở. Đâu đây thi thoảng lại bật lên tiếng lửa cháy sèo sèo, tiếng nổ lép bép. Lửa vẫn âm ỉ cháy trên mặt đất. Chân không có giầy, không có dép, ông Thanh chân trần lò dò đi trên những vạt đồi đang cháy nham nhở đó. Nhưng thật lạ là ông không hề thấy bỏng gan bàn chân hay bàn chân bị bỏng rộp. Vạt đồi mênh mông quá và không một bóng người. Ông Thanh lo ngại cất tiếng gọi to. Từ phía dẫy núi xa xa đằng trước mặt vọng lại thành chùm âm thanh nghe rờn rợn. Lúng túng không biết là làm thế nào mà mình đến được nơi đây nhưng quay về thì ông cũng không thể  nhận ra được lối. Hình như có một cơn gió vô hình nào đã đưa ông tới đây. Bộ quần áo tù với những sọc dọc màu đen bản rộng khiến ông như một cái cây sắp bén lửa. Hoảng sợ ông lại cất tiếng gọi. Không có tiếng nào đáp trả. Vạt đồi lại bật lên tiếng lửa cháy sèo sèo, tiếng củi cháy nổ lép bép. “”Đây là đâu?”. Ông Thanh đành tự hỏi và không thể tự trả lời câu hỏi của mình được. Vòm trời đọng khói tạo thành đám mây mù giăng kín không cho con mắt của ông có thể nhận dạng đây là xứ sở nào. Bỗng đâu đưa tới mùi thịt cháy. Thứ mùi ban đầu khen khét như mùi thịt nướng rồi chuyển sang thành thứ mùi như mùi người chết. Không gian đậm đặc mùi tử khí lờm lợm.
Ông Thanh thất kinh. Hình như ông lạc tới một nơi vừa xẩy ra những cái chết. Bằng chứng là mùi tử khí ngày thêm nồng nặc. Chới với tay giơ về phía trước như tìm chỗ bấu víu. Không có gì. Đôi tay ông càng chới với thì người ông như bị kéo gục xuống mặt đất. “Mình sẽ nằm cùng những xác chết ư?”. Hoảng sợ lên tới tột đỉnh thì tự nhiên ông nghe thoảng bên tai tiếng gì rất nhỏ. Mùi tử khí cũng bay đâu mất. Vạt đồi mênh mông chỉ còn lại những tiếng lửa cháy sèo sèo cùng tiếng củi nổ lép bép. Tiếng lạ lùng thoảng bên tai lại dội lên. Lần này thì ông nghe rõ đó là tiếng đập cánh của con bọ ngựa. Mừng hơn bắt được của, ông Thanh quýnh lên định chạy. Tiếng đập cánh của con bọ ngựa nghe lượn bên tai. Ông Thanh ngẩng nhìn lên. Phía trước mặt ông con bọ ngựa không biết bằng cách nào đã thoát ra khỏi chiếc vỏ lon bia. Nó không đập cánh để bay nữa mà hạ xuống mặt đồi âm ỉ cháy nhảy choi choi, nó nhảy choi choi đằng trước mặt ông Thanh như một kẻ làm nhiệm vụ dẫn đường. Nó nhảy choi choi trên vạt đồi nóng rẫy lên vì lửa cháy. “Nó chết cháy mất?”. Ông Thanh vội nhao theo con bọ ngựa hy vọng đỡ nó lên nhưng hễ ông nhao gần tới chỗ nó thì nó lại bật đôi kiếm càng nhảy ra xa cách ông một đoạn. Nó nhảy ra xa và tiếp tục dụ dẫn ông đi theo nó.
Không biết ông đã đi theo con bọ ngựa được bao lâu nhưng rõ ràng là ông và con bọ ngựa đã đi gần hết vạt đồi cháy. Sắp tới một con suối cạn, ông Thanh đoán là vậy. Thấp thoáng đằng trước hiện rõ một cái bãi sâu và dài, ở đó thấy vô vàn những viên đá mồ côi hình tròn, hòn to như cái cối đá, hòn nhỏ cũng bằng quả bưởi. Đá mồ côi nằm chòng chọc, nằm lổm nhổm, cơ man là đá mồ côi nằm đè lên nhau chứng tỏ cũng lâu rồi con suối này không có nước chảy qua.
Con bọ ngựa vẫn nhảy choi choi chưa có dấu hiệu nó sẽ dừng lại hoặc là ông có thể với tay chạm tới nó. Ông Thanh đã nản vì mỏi và vì thấy mình đã thua trong cuộc dượt đuổi này. Bỗng bên tai ông vọng lên tiếng ai đó thủ thỉ.
– Cố lên con.
– Ai vừa nói đấy?
– Cố lên con.
– Ai nói đấy?
– Con không nhận ra ai ư?
– Không ạ.
– Cố lên. Cố lên rồi hẵng tin và hẵng khẳng định là không phải là mình.
– Sao không phải là mình?
– Thì chính con đã hét lên như vậy sao.
– Không!
Ông Thanh hét lên. Tiếng hét to và vang làm dẫy núi phía xa xa vọng lại hàng trăm hàng vạn tiếng “Không”.
Con bọ nhựa dừng lại cách ông Thanh tầm tay với. Nhưng nó không biểu hiện cho thấy nó muốn ông Thanh với tay bắt lấy nó. Ông Thanh cũng thôi ý định bắt con bọ ngựa trở lại. Ông không có chiếc vỏ lon bia trong tay. Con bọ ngựa dừng lại nghênh đôi kiếm càng lên như chỉ trỏ. Nó chỉ trỏ rất quyết liệt như bắt buộc ông Thanh phải để ý theo hường chỉ của nó. Thận trọng và hơi chần chừ, ông Thanh nhìn chăm chú về phía hướng chỉ của con bọ ngựa. Đôi kiếm càng của con bọ ngựa lại chỉ quyết liệt hơn. Bây giờ thì ông Thanh thấy mạnh dạn hẳn, ông dò dẫm đôi bàn chân không giầy không dép trên đất bỏng tiến tới bên con suối cạn.
Trong lòng con suối cạn cơ man là đá mồ côi lớn nhỏ nằm chồng đè lên nhau ấy ông Thanh bỗng thất kinh nhận ra, dải dác và nằm lẫn bên những hòn đá mồ côi là những hộp sọ người. Những chiếc hộp sọ người màu sáng ngà nhìn nổi bật, nằm dải dác, những chiếc hộp sọ người phơi ngửa lên nhìn bầu trời qua hai hốc mắt to tròn như hai con ốc nhồi đen hoắm. Ông Thanh co dúm người lại không dám bước tiếp nữa. Cảnh tượng hãi hùng làm ông cứng đờ đôi chân. Ánh mắt ông bỗng chạm vào một vật lạ còn mơi mới và có vẻ như không hề hấn gì qua thời gian và qua lửa cháy. Dưới mặt đất, ngay trước mắt ông, ngay trên nền đồi cháy bỏng có một chiếc mũ mềm, chiếc mũ bộ đội màu xanh lá lúa như ánh tươi lên và độc lạ giữa bao la chết chóc. Ông Thanh không tài nào hiểu nổi bởi sự thật lạ lùng là chiếc mũ vải mềm nằm rơi trên đất đang âm ỉ cháy mà nó vẫn còn nguyên vẹn. Ông Thanh sờ sợ nhưng không cưỡng được bèn cúi xuống nhặt chiếc mũ lên. “Mũ của bố”. Ông kêu lên hốt hoảng nhưng lóe lên sự trông đợi. “Mũ của bố”. Không còn nghi ngờ gì nữa. Chiếc mũ trên tay ông đúng thật là chiếc mũ vải mềm mà hơn bốn mươi năm trước ông đã được cha mình cho đội thử một lần. Ông mừng rú lên, cuống cuồng chạy bổ về phía con suối cạn. “Bố nấp ở đâu thế? Bố ra với con đi. Con không nhìn thấy bố đâu cả?
Ông Thanh cứ hét gọi như vậy. Chiếc mũ rõ ràng là ông đã cầm nắm rất chặt bỗng nhiên buông đâu và biến mất. Trên tay ông chỉ là một nắm đất cháy đen.
– Ông cụ mộng báo như vậy chắc là ông cụ rất muốn về đấy.
– Bố em muốn về?
– Đúng.
– Nhưng thân em tù tội như thế này thì đón ông cụ về bằng cách nào? Hơn nữa nếu ông cụ mà về thấy em như vầy chắc cụ lại muốn đi thôi.
– Ông cụ không tin mày làm nên tội.
– Nhưng… nhưng đúng thế mà.
– Còn vợ con mày chứ. Nói vợ con đi đón ông cụ về.
– Anh nói em mới nhớ ra đấy.
– Mày nhớ cái gì?
– Tháng trước vợ em lên trại thăm nuôi. Vợ em hình như cũng nói như anh.
– Tao đã bảo mà. Nói thật nhé. Tao cũng là con liệt sĩ nên tao biết.
– Anh… mà cũng… cũng là con liệt sĩ?
– Đúng. Nhưng chuyện ấy nói sau, giờ nói chuyện tìm cách đi đón ông cụ về. Này, không phải nhà nào cũng đi đón được liệt sĩ đâu nhé. Không phải liệt sĩ nào cũng muốn về đâu nhé.
– Em không hiểu.
– Nhiều nhà cậy nhờ thày này thợ kia tới nhà làm lễ cúng gọi hồn, có nhà còn bỏ ra cả đống tiền để thuê ngoại cảm mà có tìm và đón được liệt sĩ đâu. Tao cũng là con liệt sĩ nên tao biết. Chẳng tin cái bọn lường gạt đó được. Liệt sĩ là chuyện tâm linh. Mà chuyện tâm linh không phải hễ muốn là ứng báo được. Ông cụ nhà mày đã ứng báo thế là ông cụ linh lắm. Phải những người thực sự muốn về mới mộng về ứng báo.
– Em tưởng.
– Mày cứ tưởng, thế nên mày cũng đáng phải học bài học.
– Anh nói tiếp đi.
– Có nhà vợ chồng con cái lục đục. Anh em tỵ nạnh chẳng thèm ngó mặt nhau, có nhà anh em tranh giành nhau mà đâm ra mất hết tình thân. Liệt sĩ về mà làm gì cho khổ tâm. Lại có nhà có người chuyên làm chuyện mất nhân tâm, ví dụ như cướp của giết người hay tham ô hoặc luồn lách tìm cách thăng quan tiến chức mà giẫm đạp lên nhau, giẫm đạp lên cương thường đạo lý chẳng hạn. Liệt sĩ về làm gì cho xấu mặt.
– Em…
– Mày từ từ đã. Tao đã nói hết đâu. Liệt sĩ là chuyện tâm linh. Mà tâm linh tức là chuyện của cái tâm. Cái tâm sống ở trên đời của con cháu có sống tốt, có ăn hiền ở lành, liệt sĩ mới mộng báo đón về. Cái tâm đục, cái tâm ác thì có đem cả núi tiền mời thầy mời thợ, liệt sĩ cũng cạch mặt. Mày biết không. Người chết đi là chết cái thân xác, còn linh hồn thì không mất. Linh hồn bay đâu đó nhưng những người trần như tao với mày làm gì đúng hay sai linh hồn nhìn thấy hết. Chỉ ác nỗi linh hồn đâu phải là con người nên linh hồn chỉ thấy chứ không ngăn cản hay đồng tình được. Linh hồn trông thấy hết nên chuyện có muốn về hay không muốn về đều là do linh hồn quyết định. Người sống không làm thay không quyết định được.
– Anh nói hay quá. Nhưng em…
– Mày còn cấn cá chuyện của mày chứ gì?
– Vâng.
– Linh hồn thấy hết.
Người bạn tù không nói tiếp nữa. Ông Thanh thấy hoang mang nhưng cũng bắt chước cách ngồi như người bạn tù. Ông ngồi xếp bằng, hai lòng bàn tay để ngửa đặt chồng lên nhau. Đó là cách tốt nhất để ông và ông Dương, tên của người bạn tù nằm bên cạnh ông, trao đổi mà không làm ai để ý, không làm phiền ai và nhất là không ai được biết họ trao đổi gì. Sáng nay nắng vắng, vòm trời âm u báo hiệu sắp có mưa. Đó cũng là biểu hiện có tính thất thường của thời tiết buổi giao thời cuối xuân chuyển sang đầu hạ.
– Anh cũng là con liệt sĩ thật à?
– Tao với mày có nhiều thứ giống nhau lắm.
Ông Dương vẫn chăm chú ngồi như ngồi thiền mà tranh thủ hít thở không khí. Vẫn không nhúc nhích người, ông Dương thong dong đáp.
– Tao với mày giống nhau trước hết là hai thằng cùng tuổi sửu, thứ nữa là cùng là con liệt sĩ, cùng vào tù bởi cái tội liên quan đến người. Nhưng lại khác…
Ông Dương lại im lặng. Trên trời một đám mây xám lững lững trôi qua khiến mặt đất cũng tối sầm lại.
– Anh nói em không hiểu.
– Đấy khác nhau là ở chỗ đó. Mày dại quanh năm. Tao dại một lần. Nhưng tao nhìn mặt mày, tao thấy mày còn có cơ, còn tao thì mất. Mất vĩnh viễn. Mất không bao giờ lấy lại được.
– Em không hiểu.
– Số mày như có đám mây xám trôi qua. Mây trôi qua trời trong trở lại. Số tao thì khác. Mày vào tù vì tội “giết người” còn tao ở ngục vì tội “giúp người thân”.
– Giúp người thân mà phải vào tù? Anh nói thế em chịu.
– Mày dại do là mày mù quáng mà sinh ngộ nhận. Mày ngộ nhận nhưng còn có linh hồn che chở. Tao khác mày chỗ đó. Là vì tao cũng ngộ nhận. Nhưng tao ngộ nhận về sức mạnh của bản thân. Mày biết sức mạnh của bản thân là gì không?
– Em chịu.
– Sức mạnh của bản thân chính là quyền lực ở đời. Tao tin tao có quyền lực, tao tin tao có chức có quyền và hơn nữa tao lại quá tin vào những người có thể che chở cho tao. Hóa ra nhầm, làm gì ở đời này làm gì có chuyện người ngoài máu mủ lại dại dột đi che chở hay hứng cho mình.
– Em chịu.
– Mày chịu là phải. Tao nói thật nhé. Hóa ra ở đời cứ thường dân như mày lại sướng.
– Em mà sướng á? Em sướng đâu nỗi thế này.
– Mày sướng vì mày không có chức có quyền. Chức quyền như tấm áo mặc. Áo mặc dù đẹp dù tốt đến đâu cũng còn có ngày rách ngày phải thay, huống hồ chức quyền chỉ như thứ phù du. Mà đã là thứ phù du thì người ta vứt bỏ hay không thèm ngó ngàng cũng là chuyện thường ở đời.
– Như em thì sướng. Lạ thật đấy.
– Chứ sao.
Lại lặng im như để những câu nói nhấm vào trong dạ. Ông Dương vừa tỏ ra hiểu biết vừa tỏ ra chẳng hiểu gì cả. Ông Thanh thấy mừng bởi ông Dương xem ra cũng chẳng hơn gì mình. Cũng dại đấy thôi.
– Người tính chẳng bằng trời định.
– Đúng. Do trời định hết. Con người ta có số thật mày ạ. Khôn hay dại cũng đều có số. Chẳng ai cưỡng được cái số nên ráng mà chịu. Đấy là tao nói chung chung thế. Tao khuyên mày đừng tin vào số. Không ai cưỡng được số nhưng không lẽ cứ chấp nhận cái số không dưng quàng vào mình.
Ông Thanh sững sờ không tin. Ông đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Thì ra ông Dương này cũng rất đặc biệt. Thế mới biết tại sao trong trại giam này, trong buồng giam này, tuy ông Dương không phải loại “đầu gấu” hay “buồng trưởng” vậy mà tất thẩy người tù và kể cả cán bộ quản giáo của trại cũng tỏ ra tôn trọng. Một con người không dữ tợn trong tù hay bất hảo ngoài đời vậy mà ai cũng vị nể. Thì ra ông Dương vốn là một sĩ quan cấp cao công an thành phố H. Một cán bộ công an từng nổi tiếng với những chiến công đánh án táo bạo. Một người từng khiến bao kẻ giang hồ đất cảng phải xanh mắt.
– Tao cũng vì tình thân mà dại một lần. Ở đời, mà nhất là đã làm con người không thì đơn giản như mày nghĩ đâu.
– Dạ.
– Mày có cam tâm nhìn người thân của mình sắp nguy khốn không? Không chứ gì. Mày có cam tâm thấy người thân của mình sắp chết mà không giang tay ra đỡ không? Không chứ gì. Nhìn mặt mày tao biết mày còn có cơ đấy.
– Em chưa hiểu lắm.
– Mấy lần vợ mày lên thăm nuôi mày tao nhìn là biết ngay.
– Anh biết gì?
– Tao biết vợ mày rất tin mày. Vợ mày không chịu cam tâm nhìn cảnh mày lao ngục đâu.
– Vợ em á. Bà ấy làm thế nào?
– Vợ mày làm thế nào tao không biết được và cũng không nói vào được. Nhưng mắt vợ mày luôn ẩn giấu một điều gì muốn làm cho mày. Miễn là bà ấy không làm cái điều dại dột như tao đã làm ấy.
Ông Dương từng là một cán bộ cao cấp trong ngành công an. Ông vào tù vì tội “Tổ chức đưa người phạm pháp trốn đi nước ngoài”. Mà người kia đâu xa lạ, người ấy chính là anh ruột ông. Đúng là không nỡ cam tâm nhưng không phải hành động nào cũng đáng ngợi khen cả. Ông Thanh thấy những điều ông Dương nói với mình nó cứ như một linh cảm mơ hồ. Đêm hôm qua, trong giấc mơ ông đã tới một nơi xa vắng đầy chết chóc. Hình như ông đã được gặp cha mình mà ông không tài nào thấy mặt được. Không lẽ người chết đi rồi nhưng linh hồn còn lẩn khuất đâu đây? Không lẽ cha ông đã hiểu tường tận. Nhưng tận sâu trong lòng mình ông Thanh vẫn còn nghi hoặc chính bản thân mình. Nghi hoặc mà ông không thể lý giải được. Chính ban nãy ông Dương có nói: “Người có dã tâm ác độc nhìn mắt là thấy ngay. Những người ấy đôi mắt nhìn ngược lên thấy tròng con người trắng rã. Người khác nhìn vào tự dưng thấy chùn tay. Người ngay lòng thẳng dạ tròng con người có màu nâu nhẹ. Mắt mày nâu nhẹ thấy biết ngay là người dễ bị kẻ khác bắt nạt”.
Ông Dương ể oải đứng lên.
– Mày tin những điều tao vừa nói đi.
– Thế anh có đón được ông cụ nhà anh về không?
– Tao đùa đấy. Mà này, ở đời làm gì có chuyện người dưng đỡ đần nhau. Họ sẵn lòng hại nhau chứ nói gì đến việc đi làm gì đấy giúp nhau. Chỉ có người thân thôi. Người thân biết dại cũng cố giúp, huống hồ người thân của mình biết mình mắc hàm oan.
Ông Thanh cũng vội vã đứng lên theo. Hai mươi phút ra ngoài sân phơi nắng đã hết. Theo bản năng và cũng là theo thói quen, con bọ ngựa sau cái gẩy ngón tay nhẹ của ông Thanh đã tự giác rồi ngoan ngoãn chui vào trong chiếc vỏ lon bia. Ông Thanh nhấc chiếc vỏ lon bia lên. Không ghé mắt nhìn qua lỗ giật nắp lon n hư mọi lần mà lần này ông nâng dí chiếc vỏ lon bia lên sát tận tai. Từ trong chiếc vỏ lon bia những chiếc chân gai cào của con bọ ngựa đang gài gại. Thứ âm thanh thủ thỉ và an ủi ông suốt bao tháng ngày qua cứ âm thầm vọng ra.
TÁM
Nắng lên cao.
Trời rất trong và rất xanh.
Và mây trắng.
Từng đụn mây xốp nhẹ như những đụn bông trắng tinh ai đó mới vãi lên nền trời tạo nên nét chấm phá cho bầu trời cao nguyên mùa xuân xanh ngăn ngắt. Từng đụn mây trắng chậm dãi phiêu du. Bà Chiên hết ngước nhìn bầu trời lại quay ngang nhìn qua ô cửa kính ô tô. Núi đồi hai bên đường, bầu trời trước mắt, tất cả đang hòa cùng vẻ nõn xanh của màu lá cây cà phê điệp điệp trùng trùng tưởng mênh mông đến vô tận.
Con đường mềm mại như một dải lụa dài vô tận và đen óng. Dải lụa vừa mới nhuộm xong đem trải phơi, nằm thở phập phồng trong gió sớm. Con đường dải lụa dập duềnh, khi trồi lên lúc hạ xuống, khi lại uốn mình lượn qua những khúc quanh của triền đồi càng khiến cảnh vật hai bên đường thêm ngút ngát. Choáng ngợp trước bức tranh thiên nhiên cứ lần lượt trải ra, lần lượt mất hút, rồi lại lần lượt xuất hiện. Lần đầu tiên được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên rừng núi Tây Nguyên vừa mang nét hoang sơ lại vô cùng kỳ vĩ càng mỗi lúc càng hút hết tầm mắt của bà Chiên. Thằng Lợi thì lại háo hức hơn, nó nhấp nhổm ngồi không yên trên ghế, luôn miệng xít xoa đi từ ngạc nhiên này tới những bất ngờ khác. Với nó chuyến đi này, hay chính xác hơn là tại thời điểm này không khác gì một chuyến du lịch mà trước đây nó chưa bao giờ nghĩ tới. Trong giấc mơ của nó nó cũng chưa khi nào mơ thấy.

Tạm quên mục đích của chuyến đi, bà Chiên mạnh dạn hơi nhô đầu ra khỏi cửa kính xe, gió thổi hất bay mái tóc. Gió sớm trên cao nguyên thổi lành lạnh đem tới sự tỉnh táo. Bà Chiên hơi so người che cái mát lạnh giữa khung trời đã ngập nắng. Mùa xuân trên cao nguyên thật độc đáo. Ánh nắng lên nhanh và trải ngập một màu ngà ngọc lại non mướt trên những tán lá xanh. Cảm giác như trở lại thời thiếu nữ làm bà ngất ngây. Lâu lắm rồi bà Chiên mới có lại cảm xúc nao nao của ngày xưa.
Ngày xưa tức cái ngày bà và ông Thanh lần đầu tiên đi chơi với nhau dưới ánh trăng vậy. Dưới ánh trăng thanh từng gốc lúa vừa ấm chân đang rùng mình e thẹn trước ánh sáng vàng vàng từ trên trời dọi xuống. Những gốc lúa như những cô gái vừa chạm tuổi trăng tròn e lẹ nửa muốn giấu nỗi niềm thầm kín nửa muốn khơi ra trước thiên nhiên. Đêm càng khuya ánh trăng càng huyền ảo. Tựa đầu bên vai anh Thanh, Chiên thấy lòng mình thổn thức. Nhưng đó là cái thổn thức của người con gái lần đầu tiên cảm nhận thực sự hơi thở của chàng trai ở ngay bên cạnh. Một cảm giác tin cậy đến sẵn lòng khiến Chiên chỉ còn biết mặc nhiên cho những nụ hôn tưởng không bao giờ dứt của anh Thanh đặt trên môi mình.
Đêm càng khuya cảnh vật càng tĩnh lặng. Trong cái tĩnh lặng đến ngọt ngào ấy Chiên thấy mình như người hạnh phúc nhất trên đời này. Cô khẽ ngước lên nhìn anh Thanh. Cả hai chưa tan được cảm giác xấu hổ của nụ hôn đầu đời. Mặt cô đỏ ửng lên, hai má nóng bừng như hơ lửa. Bên cạnh cô, anh Thanh cũng mơ màng trước phút giây đầu tiên được có cạnh mình một người con gái. Cả hai vừa yên lặng vừa khao khát, chốc chốc lại quấn lấy nhau hôn không dứt. Ngoài xa xa, cánh đồng như được ai đó tô những màu vàng lóng lánh. Mặt ruộng khẽ xao động trước những cơn gió thổi nhẹ. Gió thổi là là mặt nước làm gợn lên những lớp sóng nhỏ lăn tăn.
Bất giác bà Chiên thấy xấu hổ. Cảm giác ngào ngạt ngày nào làm bà chợt đỏ hây gò má. Thằng Lợi không biết là mẹ nó đang có những dòng hồi ức tươi đẹp, nó nghĩ tại gió thổi mạnh quá nên hai má mẹ nó mới đỏ lên như thế. Vòm trời cao nguyên như nới rộng ra. Vòm trời cao nguyên như đẩy cao lên. Đọng mãi trong ánh mắt là màu xanh bạt ngàn của cây cà phê. Dọc hai bên đường 14, cà phê ngút ngàn đang trổ hoa. Từng chùm hoa cà phê trắng tinh khôi nở bừng trên từng mắt lá. Nhắm mắt nhìn xa xa mà tưởng tượng, những vạt đồi cà phê đồng loạt trổ hoa giống hệt như một dải rừng cây bên châu Âu đang được tuyết rơi phủ trắng. Hình ảnh đó hai mẹ con bà Chiên chỉ có thể thấy được trong phim ảnh, còn bây giờ hình ảnh đó gần đến nổi có thể ngửi thấy được cả hương vị của những bông tuyết trắng. Bất chợt hiện ra. Bất chợt biến mất rồi lại bất chợt hiện ra. Hoa cà phê nở trắng ngần, không rực rỡ sắc màu, không kiêu sa, chỉ khiêm nhường nơi đầu cành nhưng nó lại làm những vạt đồi điệp trùng như một bức tranh sáng tạo độc nhất của thiên nhiên, một bức tranh màu trắng chen màu xanh thật gợi cảm.
Bà Chiên bỗng tư lự. Trong đầu bà, bà không thể tưởng tượng ra nổi nơi đây từng là một chiến trường rộng lớn và vô cùng ác liệt. Những điều thấy trong giấc mộng lần lượt hiện ra như một cuốn phim được quay chậm lại. Gió thổi mạnh, khói bốc lên mù mịt, khói phủ kín mọi quả đồi cháy khét. Tiếng nổ chát chúa ngỡ vỡ đất vỡ trời. Tiếng la hét ồn ã. Tiếng kêu la khủng khiếp. Những bóng người lao lên. Những bóng người đổ xuống. Mặt đất giẫy lên dưới những tiếng nổ ầm vang. Bầu trời rách toạc sau những ánh sáng chớp lóe.
Xe lại lượn qua một khúc quanh. Những vạt đồi nương cà phê được thay thế bởi những cánh rừng cao su cũng bạt ngàn và cũng ngút ngát mênh mông. Từng thân cây cao su cao lớn vươn thẳng, xòe lên trời những chùm lá xanh thẫm đung đưa trước gió. Xe lướt bên cánh rừng cao su như đang đi xuyên qua bức tranh được vẽ nên từ cây và lá. Thằng Lợi mở to đôi mắt đầy phấn chấn. Ở vào cái tuổi mười chín nhiều ước vọng nên nó cảm như mình đang viễn du trong một cuộc chu du không dứt. Thực phí nếu như nó không được tham gia chuyến đi này. Xe vừa ra khỏi cánh rừng cao su lại lạc vào những vạt đồi nương cà phê nối tiếp nhau. Rồi lại mất hút phía sau những vạt đồi nương cà phê hoa nở trắng ngát. Một cánh rừng cao su với những hàng cây thẳng hàng đứng vút cao nữa lại xuất hiện. Cứ thế và cứ thế. Những bức tranh xanh trắng tưởng không bao giờ dứt.
Càng gần tới trưa nắng càng lên cao. Gió thổi lồng lộng. Bóng những vạt đồi nương cà phê ngả nghiêng cành lá. Bóng những cánh rừng cao su dào dạt đầy sôi động. Xe đã đi vào địa phận huyện Ngọc Hồi. Đã thấp thoáng những ngôi nhà phía xa xa, những ngôi nhà như những bông hoa dị biệt nở trên triền đồi. Những ngôi nhà ẩn khuất trên những vạt đồi nương cà phê, những ngôi nhà dần tiến lại phía con đường rồi dần lùi xa sau xe. Chưa bao giờ hai mẹ con bà Chiên lại có được những hình ảnh sống động đến thế. Thò tay qua cửa kính, thằng Lợi làm như nó đã túm được một bông hoa cà phê cánh trắng. Nó hí hửng nắm chặt bàn tay lại vì ngỡ bông hoa trắng ngoài kia đã nằm gọn trong đó. Nhất định lúc quay về nhà nó sẽ kể cho chị Lanh nghe. Chị Lanh nó dạo này cứ hai ba ngày lại gọi điện về nhà. Nghe nó nói nó sẽ cùng mẹ vào Tây Nguyên chị nó ghen ra mặt. Bằng chứng là giọng chị nó qua điện thoại cứ nghèn nghẹn. Giọng nói của chị nó đầy tiếc nuối. Nhất định nó sẽ kể cho chị Lanh nghe như chị đã yêu cầu. Chị Lanh đã dặn. “Đi trong đó về nhớ kể hết cho chị nghe đấy nhé”.
Bà Chiên bất giác buồn buồn. Bà co người lại như để tránh gió tạt vào mặt như để che đi cảm xúc. Tiếng bánh xe đều đều nghe ràn ràn, vòng quay bánh xe liên tục cuốn vào bụng xe dải lụa đen bóng. Lấp ló bên khóm cà phê là những bóng người lúc hiện lúc ẩn. Đó là những người đi chăm sóc, đi tưới nước cho cây. Không biết họ có nhận ra trên chuyến xe này có hai mẹ con mình không nhỉ? Với những ai lần đầu tới miền đất lạ thì họ đều có chung suy nghĩ là những người dân nơi họ đi qua đều nhìn họ suy đoán. Suy đoán xem trên xe kia là ai? Suy đoán những người xa lạ ấy tới chốn này làm gì? Và nói chung mọi hành động của hai mẹ con bà chắc những người dân đang lúi cúi trong nương cà phê kia nhìn thấy hết. Cảm giác vừa ngài ngại muốn che giấu lại vừa muốn cho mọi người biết làm bà Chiên thêm đỏ hồng gò má.
Bìa sách “Tiếng con chim lợn 
kêu ngang qua” của Nguyễn Trọng Văn
Anh Thanh cúi xuống nhìn sâu vào hai đôi mắt của Chiên. Đôi mắt của cô lúc này trông như đôi vầng trăng đang soi anh vằng vặc. Hình như cả cánh đồng lúa mới cấy cũng dồn hết trong đôi mắt ấy. Hình như tất cả những ngôi sao trên vòm trời đều sa hết trong đôi mắt ấy. Còn Chiên, cô cũng mở to đôi mắt. Cô muốn thu nạp hết hình ảnh anh Thanh trong đêm nay vào cả mắt cô. Cô muốn những hình ảnh thân thương ấy mãi mãi nằm yên lành trong đó. Mãi mãi không rời xa cô.
Buồn rầu trở lại, bà Chiên buông tiếng thở dài. Bà áy náy là chuyến đi này không có ông Thanh. Bà tự dằn vặt mình. Bà tự chua xót với mình. Những ao ước đã tan vụn thành mây thành khói. Tan vụn từ buổi chiều cuối của một ngày đầu thu cách đây gần sáu năm ấy. Chiều muộn ngày ấy nếu bà cùng về với ông Thanh thì đâu nên nhẽ. Chiều muộn ngày ấy nếu bà không nấn ná bên sân vận động mới của xã để cố bán thêm chút nước chè xanh thì đâu nên nỗi. Cái ngày ấy nếu…
Từ sau buổi nói chuyện với thằng Lợi, cuối mùa thu năm ngoái, về linh cảm của bà thấy như ông nội của nó muốn trở về làng, làm bà Chiên trong người lúc nào cũng như có lửa đốt. Bất cứ làm gì hay nghĩ gì bà đều có cảm giác bồn chồn. Cũng phải thôi, khi người ta đã nói ra ý nghĩ định làm một thứ gì đó mà chưa làm được thì trong lòng luôn áy náy. Hơn nữa đây lại là câu chuyện tâm linh nên bồn chồn cứ nối tiếp bồn chồn. Khổ thân cho vong linh ông cụ, ngần bấy mươi năm nằm xa quê hẳn vong linh ông cụ luôn đau đáu nỗi nhớ quê nhà. Ông cụ ra đi xa quê cũng đã bốn mươi mốt năm rồi còn gì. Thời gian quá dài để một con người sinh ra và phương trưởng. Thời gian quá dài để nỗi nhớ quê hương thêm dằng dặc. Ở làng Me, ở xã Hùng Tiến này đã có bao gia đình đi tìm và đã đón được hài cốt liệt sĩ về làng. Nhà người ta làm được sao nhà mình lại không làm được? Ý nghĩ nung nấu lớn dần thành câu hỏi, thành nỗi băn khoăn khiến bà Chiên cứ như người đang mắc nợ. Món nợ tâm linh hay cũng là ước nguyện của ông cụ.
Nhưng có biết bao khó khăn trước mắt mà bà không tài nào tự giải quyết được. Đầu tiên là sự chấp thuận của địa phương. Chuyện này mới nghĩ ba đầu xem ra tưởng dễ hóa mà lại khó. Hôm bà đi cùng ông trưởng thôn, một người bà con họ hàng, trong làng tới gặp ông chủ tịch xã bà đã bao ngần ngại. Ông chủ tịch xã Hùng Tiến mới được bầu, đâu như do huyện thuyên chuyển về, lại là người thôn Chằm nên bà ít hy vọng. Không hiểu người ta có thông cảm với mình không? Không hiểu người ta có đồng tình với mình không? Mặc dù ông trưởng thôn nói khích lệ nhưng bà vẫn e ngại.
Quả đúng như bà Chiên băn khoăn. Ông chủ tịch xã Ngọc Hùng chắp hai tay sau lưng đi đi lại lại. Bà Chiên giống như một con “đông tây nam bắc”, bà cứ ngúc ngoắc cái đầu quay qua quay lại theo từng bước chân đi qua đi lại của ông chủ tịch. Đến khi bà mỏi nhừ cổ thì ông chủ tịch xa mới dừng những động tác đi qua đi lại lại. Khẽ đẩy hai chén nước mới rót còn nóng hổi về phía trước mặt hai người, bà Chiên và ông trưởng thôn, ông chủ tịch xã hắng giọng vài lần rồi mới lên tiếng.
– Nhà nước đã có chính sách với liệt sĩ. Các địa phương có liệt sĩ nằm lại đều đã tiến hành quy tập vào nghĩa trang của địa phương đó. Mình tự nhiên tới và xin mang về chắc cũng làm họ phật lòng. Làm như vậy khác nào nói địa phương người ta không làm tốt chính sách. Chắc họ không đồng ý đâu.
– Nhưng đây lại là liệt sĩ chưa được quy tập.
Ông trưởng thôn nhanh chóng giải thích thêm. Ở nhà tức là trước lúc tới gặp ủy ban xã, ông trưởng thôn đã dặn bà Chiên rất cụ thể “Lên ủy ban bà cứ để tôi nói. Bà nói không đâu vào đâu không khéo làm khó thêm”.
– Đấy. Liệt sĩ chưa được quy tập lại càng  khó. Biết người nằm ở đâu mà tìm. Nghe linh tinh nguy hiểm lắm. Mấy vụ ngoại cảm lùm xùm các ông các bà nghe cả rồi chứ?
– Chúng tôi không nhờ ngoại cảm.
– Không ngờ ngoại cảm thì phải có ai biết chứ, ví dụ như người cùng đơn vị chẳng hạn. Người cùng đơn vị… nhưng đã gần bốn mươi năm rồi còn gì. Dễ gì tìm được, mà tìm được không chắc người ta đã nhớ. Vả lại bây giờ các ông các bà đã có ai cùng đơn vị với ông cụ chưa?
– Không có.
– Thế thì không ổn rồi.
– Nhưng… chúng tôi tin chắc là tìm được.
– Tôi tin các ông các bà nhưng còn vấn đề nữa. Phức tạp lắm.
Ông chủ tịch xã im lặng hồi lâu, ông giả tảng thổi phù phù chén nước nóng để tránh câu nói tiếp. Một sự im lặng kéo dài làm bà Chiên chực khóc. Sống mũi cay cay. Khóe mắt ngân ngấn nước. Phụ nữ vốn nhậy cảm và bà Chiên đã quá hiểu thực cảnh nhà mình nên sự im lặng và câu nói “Phức tạp lắm” của ông chủ tịch xã là bà Chiên biết ngay là ông chủ tịch xã muốn nói gì. Ông ấy đã nại ra mọi lý do để thể hiện sự chần chừ, thể hiện sự vướng mắc tế nhị. Ông trưởng thôn quá nhiệt tình nên không dự đoán có tình huống khó xử, ông nhấp nhổm mấy lần toan lên tiếng nhưng bà Chiên ý tứ kéo nhẹ vạt áo. Căn phòng làm việc của ông chủ tịch xã im lặng như đã đóng cửa. Im lặng đến độ nghe rõ từng nhịp chuyển động giật cục của kim giây trong chiếc đồng hồ chạy pin để trên bàn.
Xe đi qua một đoạn đường đang sửa chữa. Cú xóc nẩy người đã lôi bà Chiên trở lại thực tại. Quả tình từ khi bắt đầu rời nhà tới giờ, bà luôn mang trong mình hai tâm trạng. Một tâm trạng của trách nhiệm trước vong linh cha chồng. Và một tâm trạng trước những tự trách móc, tự dằn vặt mình. Thằng Lợi đã thôi không ngoái đầu ngoái cổ nhìn ngắm nữa. Thanh niên là thế. Hăng hái nhưng chóng chán. Cũng có thể là nó đã mệt mỏi. Chặng đường đi những cả ngàn ki lô mét chứ có ít đâu. Nó chưa bao giờ được đi xa mà nhất là lại đi xa như thế này. Hơn nữa lại đi trong một trách nhiệm thay thế cha nó. Người lái xe mấy hôm trước còn thỉnh thoảng nói chuyện. Chú tài xế đi nhiều nên qua đâu cũng có chuyện để nói, đến đâu cũng có người để quen. Không hiểu sao sáng nay chú tài xế này lại không nói năng gì? Cũng có thể chú tài xế muốn để cho hai mẹ con bà tự hỏi và tự trả lời. Tự cũng có cái hay là sau đó thì rất nhớ. Nhưng tự thì khó tới cái đích được.
Hết tết. Rồi hết tháng giêng ta. Tháng hai năm Kỷ Sửu cũng trôi vèo. Bụng dạ bà Chiên càng thêm lửa đốt. Bà không oán trách ông chủ tịch xã bởi ông ấy cũng có cái đúng. Xét về tình thì gia đình bà là gia đình chính sách. Nhà bà là gia đình liệt sĩ. Xã không ủng hộ thì ủng hộ ai. Nhưng nói về lý thì gia đình bà lúc này lại là gia đình có người phạm trọng tội đang thụ án. Xã mà đi giúp gia đình tội phạm khác nào bảo xã dung túng cho những hành động trái pháp luật. Ông chủ tịch xã im lặng và nói phức tạp là cái phức tạp đó. Trách họ không được nhưng bụng dạ bồn chồn khiến bà ăn ngủ thấy bứt dứt. Hình như vong linh ông cụ biết được điều còn khó khăn đó nên càng đến gần tiết thanh minh vong linh ông cụ càng thôi thúc. Nguyện vọng của người đã khuất tuy không thể hiện nghe thấy được hoặc nhìn thấy được nhưng cứ qua ánh mắt của ông cụ trong tấm hình là biết. Ánh mắt nhìn bà Chiên, nhìn cô con dâu của ông cụ, cứ chập chờn, cứ hờn trách. Mỗi lần thắp một nén hương trên ban thờ khấn vong linh ông cụ là mỗi lần tim bà Chiên cứ nhoi nhói. Lòng dạ thêm bồn chồn càng làm bà thêm rối bấn. Nói chuyện qua điện thoại với con Lanh nó cứ động viên. Con bé xa nhà mới được gần một năm mà đã tỏ ra hiếu biết. Đúng là nó đi xa nhà như đã được học thêm được một sàng khôn.
Về gần trưa vòm trời càng cao thêm. Mây loãng ra, chúng không vón thành từng đụn nữa mà loãng ra dài và mảnh, nhìn như những làn khói đốt gốc rạ ở giữa cánh đồng chang chang nắng. Khí lạnh mát cũng giảm. Những đụn mây trắng đã phiêu bồng sang xứ khác. Ánh nắng soi óng những chiếc lá xanh của vạt đồi nương cà phê nối nhau hai bên đường. Ánh nắng soi làm con đường như dài rộng ra. Ánh nắng như mời thêm gió. Từng cơn gió cao nguyên thổi tung tăng qua những vạt đồi. Thổi lao xao chùm lá cao su. Những gốc cây cao su vẫn đứng im trước từng cơn gió thổi. Ánh nắng làm con đường xa thêm bảng lảng. Con đường bỗng biến thành dải lụa đen vàng xao động. Vẻ biến đổi của cánh rừng cao su. Vẻ biến đổi của những vạt đồi nương cà phê và nhất là vẻ biến đổi của con đường dưới nắng làm ánh mắt của hai mẹ con bà Chiên đi từ ngạc nhiên này tới ngỡ ngàng khác. Thằng Lợi đã háo hức trở lại. Tuổi trẻ là thế, ít sâu sắc nhưng được cái thích ứng rất nhanh. Nó không buồn buồn, không tư lự như mẹ nó.
Xe từ từ dừng lại và nép bên đường.
Chỗ ấy, bên phải con đường dải lụa đang nằm trải phơi có nhánh đường đất đỏ, dạng đường mòn, hằn lõm vệt bánh xe máy dẫn vào nương cà phê. Nhánh đường nội bộ nối những vạt đồi nương cà phê này với nương cà phê khác, nối dẫn tới tận những chân dẫy núi cao xa hút. Đã tới địa điểm hai mẹ con bà cần đến. “Cách thị trấn Plei Kần chừng mười tám cây số thì con xuống xe”. Bà Chiên nhẩm lại lời dặn dò mà bà được mộng báo. Đưa mắt quan sát để khẳng định địa điểm xuống xe là đúng, bỗng bà Chiên lúng túng ra mặt và thấy hoang mang. Sự lúng túng và hoang mang thể hiện qua đôi mắt ngơ ngác của bà. Trước mắt bà là một khoảng xanh vô tận chứ không phải những vạt đồi nham nhở và cháy khét. Trước mắt bà là khoảng không gian yên bình đến lặng im chứ không phải là cánh rừng ầm vang tiếng súng. Trước mắt bà là một nơi xa lạ mà bà chưa một lần đặt chân tới. Hoang mang và lúng túng, bà Chiên liếc nhìn thái độ của thằng Lợi. Thằng Lợi chưa hiểu câu chuyện, nó còn đang ngẩn ngơ trước những chùm hoa cà phê nở thành dãy dọc hai bên cành cà phê. Hoa cà phê trắng tinh khôi càng trắng hơn dưới ánh nắng. Thằng Lợi có mối quan tâm lớn lúc này là muốn được ngắt chùm hoa cà phê. Nó cười một mình, nụ cười của chàng trai đã có dấu hiệu thích nhìn bạn gái. Trong đầu nó đang mường tượng ra nếu như bên cạnh nó lúc này là một cô bạn gái. Nó sẽ dắt tay cô bạn gái mới quen kia chạy hút vào nương cà phê. Hai đứa tuy dắt tay nhau nhưng mỗi đứa lại tự chọn lựa chùm hoa cà phê cho riêng mình để quay ra khoe với nhau xem chùm hoa của ai ngắt được là chùm hoa trắng nhất, là chùm hoa đẹp nhất.
– Lợi. Con xem giúp mẹ là có đúng chỗ này không?
– Tôi chạy xe qua đây nhiều lần rồi, tôi biết đúng là chỗ mà chị đã nói.
Chú tài xế bây giờ mới lên tiếng. Giọng chắc nịnh đầy tin cậy.
– Chỗ này nghe nói năm bảy hai đánh nhau dữ lắm. Chắc quá đi rồi.
– Nhưng tôi thấy nó lạ lắm không giống như…
– Bà chị của tôi ơi. Ngần bấy năm qua rồi. Cảnh vật không thay đổi mới là lạ. Tin tôi đi.
– Nhưng mà Lợi con cứ xem giúp mẹ. Chú tài chú ấy nói cũng không sai nhưng con cũng xem lại giúp mẹ.
– Con xem bằng cách nào?
– Ừ nhỉ.
Bà Chiên càng hoang mang. Nắng ban trưa soi lấp lóa càng làm bà thêm hoang mang. Cánh rừng cà phê xanh ngút ngàn nở vẽ muôn hoa trắng như thử thách nhận thức của bà. Một thoáng ngần ngừ, bà Chiên tủi thân khẽ rơi những giọt nước mắt. Đã đến đây rồi không lẽ chịu bó tay mà đành quay về? Đã đến đây rồi mà không làm trọn được tâm nguyện thì day dứt lắm. Bà Chiên cứ đứng thở ngắn than dài, chịu chưa nghĩ được cách nào để xác định. Thằng Lợi đã thôi dòng mơ mộng yêu đương. Nó băn khoăn nhìn mẹ rồi lại nhìn những cây cà phê rung rinh hoa trắng. Thực tình nó cũng chưa nghĩ gì hơn mẹ nó. Hai mẹ con đứng thẫn thờ suy tính.
Một cơn gió thổi từ sâu trong những hàng cà phê thổi vọng ra. Gió man mát như làn gió ấy vừa thổi qua mặt nước. Cơn gió thổi thoáng qua nhưng đủ cho hai mẹ con bà thấy đỡ tủi. Mùi hoa cà phê thơm nồng nàn thơm quyến rũ theo làn gió bủa ra vây quanh chỗ hai mẹ con bà Chiên đang bần thần đứng. Lẫn trong mùi hoa cà phê đang tỏa ra ngan ngát là một mùi hương thoảng nhè nhẹ, mùi hương tuy là lạ nhưng có thể nhận ra được giữa mùi thơm của muôn hoa.  Khen khét giống như mùi của lửa cháy.
Tiếng đạn đại bác nổ, tiếng đất đá rơi rào rào đột ngột im phắc. Trời đã hửng nắng song không có nấy một tia nắng nào có thể xuyên qua được màn khói bụi vây bủa như bưng lấy mắt. Trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến nhảy vội lên bờ công sự. “Bên ấy còn ai không?”. Tiếng gọi quay sang bên trái. “Bên ấy còn ai không?”. Tiếng gọi quay sang bên phải. Vừa chụm tay làm loa, trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến vừa ngó trước quay sau, quay phải ngó trái gọi to. Giọng đã khản đi mà vẫn không có tiếng nào đáp trả. Im lặng quá. “Anh em mình hy sinh cả rồi sao?”. Trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến bỗng nhiên thấy đơn độc giữa đỉnh đồi khét trơ, đất đá cây cối nháo nhào trộn lẫn vào nhau đang âm ỉ cháy.
Đêm cách đây hai ngày, khi tiểu đoàn được lệnh “nhổ” điểm cao 875, một điểm cao tiền duyên của căn cứ Plei Kần. “Nhổ” được điểm cao 875 cũng có nghĩa là xé toang cánh cửa chốt chặn đường 14, làm bàn đạp cho quân ta bao vây tiến tới đánh tiêu diệt địch trong căn cứ Plei Kần. Nhiệm vụ rất cụ thể và cũng rất khó khăn bởi quân địch ở điểm cao 875 tuy không đông, chừng một đại đội nhưng chúng được pháo binh từ các căn cứ quanh đây luôn chi viện. Đặc biệt là pháo 155 ly của địch ở Plei Kần lúc nào cũng có thể bắn tới dữ dội. Nổ súng bất ngờ và nhanh chóng, tiểu đoàn đã đẩy lùi số quân ngụy đóng trên điểm cao xuống chân núi. Lũ lính ngụy bị đòn đánh choáng váng không kịp kháng cự, hoảng sợ bỏ chạy  về co cụm trong căn cứ Plei Kần. Tiểu đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ ban đầu và được bổ sung nhiệm vụ mới. Đó là để lại một đại đội có tăng cường làm nhiệm vụ chốt chặn trên điểm cao 875 không cho quân ngụy tái chiếm lại điểm cao 875.
Trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến chạy đi chạy lại hy vọng tìm được anh em mình. Đợt pháo 155 ly dập lên điểm cao của địch vừa rồi kéo dài và dữ dội tưởng không mở được mắt. Khói đạn bao phủ mù mịt khắp trận địa, những tiếng nổ chát chúa ngỡ nát vụn cả trời. “Bọn này lắm pháo nhiều đạn thật”. Trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến đã mấy lần bị đất lấp vùi lại mấy lần tự gạt đất ngoi lên. Giờ trận địa bỗng nhiên im phắc như nơi đây chưa hề hứng chịu những trận pháo kích của địch. Mắt ngó từng căn hầm, mắt dòm từng hố đạn. Tuyệt nhiên vắng lặng. Những đoạn chiến hào hoặc bị pháo bắn sạt đổ hoặc bị lấp đầy đất đá. Những căn hầm biến dạng, chỉ còn lại là những hố đạn đen sì. Không gian sặc một mùi khét lẹt. Mắt cay sè vì khói và vì thấy lẻ loi, trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến ngồi thụp ngay trên bờ công sự.
“Làm gì tiếp theo đây?”. Trong đầu bắt đầu vang lên những câu hỏi. “Bỏ về phía sau? Không được. Như thế là bỏ trận địa. Bỏ trận địa tức là đảo ngũ”. Nghĩ tới đây trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến thấy như mình vừa phạm vào một điều gì hệ trọng lắm. “Lệnh của trên là, bằng mọi giá phải giữ được điểm cao ít nhất là ba ngày. Ba ngày đủ để cho đội hình trung đoàn hành tiến theo đường 14 tiến đánh bao vậy Plei Kần”. Đinh ninh nhớ lại nhiệm vụ, trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến lẩm nhẩm. “Sáng nay nữa là đã sang ngày thứ ba. Không hiểu đội hình của trung đoàn đã vượt hết đường 14 chưa?”.
Sau khi mất điểm cao 875, quân địch trong căn cứ Plei Kần không tổ chức cho bộ binh đánh ra mà chúng lợ dụng sức mạnh của pháo binh liên tục pháo kích lên điểm cao. Chúng hy vọng gây sát thương lớn cho quân ta ở đó. Những đợt pháo kích suốt hơn hai ngày qua quả tình cũng đã làm quân ta thương vong nặng nề. Anh em hứng chịu hết đợt pháo này chưa kịp khôi phục công sự chiến đấu lại phải hứng chịu đợt pháo kích mới. Hơn hai ngày trằn mình giữa tiếng đạn nổ, trằn mình giữa khói bụi và thương vong nên quân số hao đi trông thấy. Đại đội trưởng đã phân công trung đội của trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến giữ hướng chính diện. Hướng chịu nhiều đạn pháo của địch nhất.
Cố căng tai ra để kiểm tra lần nữa. Vẫn không có một tín hiệu nào cho thấy anh em mình đang ở đâu. “Không có lẽ mọi người đã được lệnh rút mà mình không hay? Không lẽ lúc mờ sáng nay anh em đã rút”. Trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến đâm phân vân, lúc mờ sáng nay pháo địch bắn lên dữ dội. Sức ép của một quả đạn 155 ly nổ gần đã hất trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến văng lên khỏi công sự  và ngất đi. Đất đổ rơi xuống ào ào vùi lấp nửa người, phải gắng lắm trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến mới tự gạt đất ngoi lên được. “Anh em đã rút đi không kịp tìm mình. Hay là mình cũng rút? Không được. Không được nghe lệnh chính thức mình không thể rời trận địa được. Nhưng liệu quân ngụy đánh lên mình một mình làm sao giữ được?” Cả đống băn khoăn khiến trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến lâm vào trạng thái khó xử.
Bầu trời đã quang trở lại. Từng cơn gió mạnh mẽ thổi thốc từ chân điểm cao làm bốc vung lên những đám bụi đỏ lòm. Khắp trận địa phủ đặc một màu đỏ của bụi. Nhảy xuống một đoạn giao thông hào còn khá nguyên vẹn để tránh gió bụi, trung đôi phó Nguyễn Hữu Tiến vừa lau lại khẩu AK vừa kiểm tra số đạn còn lại. “Chết rồi. Còn mỗi một băng. Làm sao bây giờ?”. Như một người bị dồn vào thế khó, trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến toan ngóc đầu lên nhìn quanh quất xem anh em mình còn bỏ sót băng đạn nào không thì loạt đạn pháo tiếp theo chụp xuống nổ dậy đất. Báo hiệu cho một đợt pháo kích dữ dội mới. Chúi đầu cố tránh đất đá cây cối khỏi vung vào người, trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến đưa tay gạt chốt an toàn. Súng đã lên đạn. Những tiếng nổ dậy đất vang lên không ngớt. Mặt đất rung lên bần bật. Mặt đất giẫy lên như con cá còn tươi nằm trong chảo nóng.
“Chắc giờ này ở nhà thằng Thanh con mình đã được nghỉ hè. Không biết nó có chạy chơi đâu không? Chơi đâu thì chơi chứ chạy chơi ngoài đê nguy hiểm lắm. Sơ sẩy chân tay mà ngã thì khốn”. Trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến mơ mơ nhớ về nhà. “Bây giờ mà mình được về nhà thì thằng Thanh khoái lắm đây. Đã bốn năm mình xa nhà rồi còn gì. Năm nay nó đã mười một mười hai tuổi rồi. Nó học lớp mấy rồi nhỉ?”. Luồng suy nghĩ bị cắt ngang bởi một quả đạn 155 ly nữa nổ gần miệng chiến hào. Đất vung lên rồi đổ xuống đánh rầm. “Khiếp. Chúng bắn mới khiếp chứ”. Trung đôi phó Nguyễn Hữu Tiến chỉnh lại tư thế ngồi. Sức mạnh của quả đạn vừa rồi đã đẩy người xô lệch đi như ngã ngửa ra.
“Thằng Thanh chắc nhớ bố lắm đây. Hôm mình dẫn nó lên chơi trên đê nó cứ hỏi mãi những câu hỏi vớ vẩn. Thôi kệ đi. Trẻ con ấy mà. Chúng hỏi nhưng chúng có biết chúng đang hỏi câu gì đâu”. Trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến tự an ủi. Một cành cây văng ụp xuống che kín bầu trời vốn sặc sụa khói bụi. Cành cây làm đoạn chiến hào mà trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến đang ngồi nấp đã tối đen lại thêm tối đen. Những tiếng nổ dậy đất liên tiếp như không muốn dừng. “Chúng bắn xong là xua quân lên đấy”. Tự nói như vậy, trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến lại sốc lại khẩu AK.
Dứt đợt pháo. Trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến lại nhảy lên bờ công sự. “Ngồi mãi đây không ổn. Lên đó xem xem chúng có hành động gì tiếp theo chứ. Bọn này chắc cay cú lắm đây? Chúng còn chưa quên đòn choáng váng ban đầu mà. Chúng còn bắn pháo thăm dò chán?”. Trên trận địa khói bụi đang bốc lên dầy đặc.  Không một tia nắng mặt trời nào có thể dọi xuống điểm cao 875 được. Không thể nhận ra bất cứ một thứ gì. Cuối tháng năm rồi mà tối om om như giữa đêm tháng chạp vậy. “Thằng Thanh nhà mình khoái trò đánh trận lắm. Cái thằng chỉ thích nghe kể chuyện ngày xưa cánh đồng làng mình là một bãi chiến trường rộng lớn. Mà đúng quá đi chứ”. Ý nghĩ nhớ nhà lại ùa tới làm trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến chợt thấy buồn buồn. “Không hiểu thằng Thanh đã lớn bằng ngần nào rồi nhỉ? Chắc cũng lại thấp nhỏ như bố nó thôi”
Một cơn gió thổi mạnh thốc cuốn từ chân điểm cao lên. Bụi đỏ bám kín mặt mày. Trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến vơ chiếc mũ tai bèo đang đội trên đầu xuống định lau mặt. Như sực nhớ ra điều gì, trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến dừng vội tay. Gió vẫn thổi thốc lên. Chiếc mũ tai bèo chợt lật bật kiểu như có ai đó đang níu tay hỏi muốn cầm. Cảm giác rất rõ ràng đang giật giật đang thúc giục mãnh liệt. Trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến đã nhớ ra. “Thằng Thanh nhà mình thích chiếc mũ này lắm. Mình đã hứa với nó là lần về thăm nhà sau sẽ lại cho nó đội”. Trận địa lại im lặng nhưng đó là sự im lặng của chờ đợi điều khủng khiếp hơn.
Nhảy nhanh xuống và lần theo đoạn giao thông hào tới căn hầm sập gần đó. Quáng quàng như chỉ sợ không còn thời gian. Trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến vội vã bới đất lục tìm. Căn hầm sập này đêm hôm qua mấy người còn lại trong trung đội đã trú ở đó. Nó phải còn thứ gì chứ? Trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến vừa bới đất vừa hy vọng. Đây rồi. Có thế chứ. Một mảnh tăng bộ đội, thứ vải ni lông quàng che mưa sót lại sau những đợt pháo dập của địch giờ rách nham nhở. Ngoắc tay lấy con dao găm giắt bên sườn, trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến lại vội vã cắt cắt những chỗ rách. Vừa đủ thành một mảnh lành lặn cỡ bằng khổ một tờ báo.
“Tốt rồi”. Trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến đặt chiếc mũ tai bèo vào giữa mảnh tăng, “Cất đi để mang về làm quà cho thằng Thanh”. Vừa nói vừa cẩn thận vuốt gấp mảnh tăng ni lông cho vuông vức, cho chặt chẽ, cuối cùng thì chiếc mũ tai bèo đã được bọc kín. Trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến còn cẩn thận đút “gói quà” vào trong chiếc ăng gô, loại vật dụng được trang bị để chứa khẩu phần ăn hàng ngày. Đậy nắp ăng gô thật chặt lại lúc đó trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến mới thực sự hài lòng. “Mình còn chiếc mũ còn”. Tự yên tâm với thành quả vừa làm và yên chí với món quà vừa cất kín, trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến giắt đeo chiếc ăng gô vào dây thắt lưng và lại nhảy lên bờ công sự.
Gió thổi lồng lộng, điểm cao 875 lúc này giống như một cái cây to đơn độc bị gió xô nghiêng ngả. Bầu trời chao đảo. Mặt đất chao đảo. Tiếng đạn nổ long óc. Tiếng lửa cháy xèo xèo. Tiếng đất đá vung lên rồi đổ xuống rào rào tung bụi đỏ mịt mù. Trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến thấy cả người mình như được ai đó hất bổng lên. Chới với trên mặt đất và như đang quay tròn lơ lửng. Cả người trung đội phó Nguyễn Hữu Tiến xoay tít mù như một chiếc chong chóng. Rồi bỗng nhiên chiếc chong chóng bị trăm ngàn bàn tay thi nhau giằng xé. Bộ cánh làm bằng giấy của chiếc chong chóng rách tua tủa, trơ khấc cái khung thân làm bằng tre nhưng cũng đang bén lửa. Chiếc chong chóng vừa rơi phịch xuống mắt đất như bị ai đó ném phũ phàng, vừa bốc cháy đùng đùng. Lửa cháy tứ tung khắp điểm cao, khói đạn và bụi đỏ dầy đặc. Chiếc chong chóng, mà giờ chỉ còn là cái khung bằng tre đang cháy, lăn tuồn tuột xuống chân điểm cao 875, nó lăn bằng một sức đẩy vô hình không gì níu giữ được.
Cuối cùng thì mẹ con bà Chiên cũng có được một người dẫn đường. Chú  tài xế sau khi nói hai mẹ con bà ngồi trú tạm trong nương cà phê vừa nghỉ ngơi vừa tranh thủ ăn bữa trưa đã chuẩn bị sẵn thì đánh vụt xe đi. Chiếc ô tô loại bảy chỗ ngồi, hiệu Inôva, phóng đi đâu không rõ, bà Chiên đâm hốt hoảng. Không lẽ anh ta bỏ mặc cho hai mẹ con bà cứ ngồi đây rồi không biết sẽ làm gì tiếp theo? Nhưng anh ta bảo cứ đợi thì đành ngồi đây mà đợi chứ sao. Hơn nữa chú tài lái chiếc xe này do đích thân ông trưởng thôn tìm thuê giúp. “Một người thạo đường đất và quen biết lắm người trong đó. Toàn chỗ những người có thể giúp ta được”. Ông trưởng thôn nói như đinh đóng cột.
Hôm cùng bà Chiên lên ủy ban xã xin ý kiến chỉ đạo không thành, trên đường quay về chừng như ông trưởng thôn cũng rất áy náy. Dọc đường ông luôn phác ra một loạt những kế hoạch làm bà rối tung cả đầu. Thực tình là chỗ bà con họ hàng trong làng nên ông cũng có nghĩa vụ đền đáp với liệt sĩ. Đấy cũng là trách nhiệm nhưng việc ông có nghĩ, có phác ra bao nhiêu kế hoạch cũng chẳng đủ. Và một kế hoạch mới nhất sau bao ngày suy tính mà ông trưởng thôn đưa ra đã dẫn tới chuyến đi này của hai mẹ con bà Chiên. “Coi như việc này do gia đình tự nguyện tiến hành làm lấy. Địa phương coi như gia đình quên chưa báo cáo. Hợp tình và hợp lý”. Ông trưởng thôn tỏ ra tâm đắc với kế hoạch của mình. Ông sốt sắng tìm thuê xe và dặn kỹ trước khi hai mẹ con bà đi. “Khi nào về tới gần làng thì gọi điện báo”. Đơn giản như cách để xem hai mẹ con bà đi có đến nơi về có đến chốn không.
Chú tài xế đã đánh xe quay lại, chú tài còi bấm bin bin gọi hai mẹ con bà Chiên. Bà Chiên mừng suýt khóc. Đàn bà là vậy, dễ xúc động và luôn cảm thấy yếu đuối trước những thử thách, trước những chờ đợi. Chú tài xế đánh xe quay về đúng lúc hai mẹ con bà đã tưởng bị bỏ rơi, chú dẫn tới trước mặt hai mẹ con bà một người đàn ông chừng sáu mươi hai sáu mươi tư tuổi. Một người đàn ông Tây Nguyên đích thị. Ông này mặt tròn tròn, tóc quăn lượn sóng nhưng đã bạc cước, nước da màu đỏ đồng. Ông ta ăn mặc mới lạ kỳ. Chiếc áo kiểu vạt buông, may bằng vải thổ cẩm màu đen, với những sọc đỏ dài chạy suốt thân trước, tay áo được khoét hở nách lộ căng những cơ bắp trên cánh tay. Ông ta mặc một chiếc quần bộ đội cũ, ống sắn tới gối, có thể ông này vừa đi nương về hoặc cũng có thể đoạn đường sắp tới sẽ dài dài . “Còn hơn cả sự trông đợi. Ông đây đã nhận giúp là xong phéng”. Chú tài nói dứt khoát ngay khi hai mẹ con bà thấy tiếng chân người đi tới bèn ló mắt ra khỏi bụi cà phê. Thằng Lợi đứng ngẩn mặt ra nhìn cái ông người dân tộc Giẻ Triêng, như lời giới thiệu của chú tài xế. Với nó hình ảnh này cũng lạ lẫm và đầy bí ẩn như những cánh rừng cao su hay những vạt đồi nương cà phê mà nó đã nhìn không chán mắt.
Bà Chiên lí nhí cất câu nói cám ơn ông người dân tộc Giẻ Triêng đã nhận lời giúp hai mẹ con bà. Bà bấy giờ mới thực sự tin câu nói của ông trưởng thôn về người lái xe. Chú tài nhay nháy mắt, vẻ tỏ ra tự mãn về sự thông thạo của mình với thằng Lợi. Hai chú cháu nó suốt dọc đường đi đã nên thân. “Sao ở đời còn lắm người tốt thế?”. Bà Chiên tự nhủ sau khi chú tài hẹn tầm trưa hôm sau quay xe lại đón đúng ở chỗ này.
Nhánh đường đất đỏ in hằn vết bánh xe máy chui qua những lùm cà phê. Chui qua mùi hương nồng nàn vây bọc làm thằng Lợi thích mê tơi. Nó căng căng chân đi kiểu đi nhay nhảy. Từng hàng cây cà phê cao hơn tầm tay với xòe rộng tán lá che rợp con đường, càng vào sâu trong nương cà phê ánh sáng càng giảm đi, có đoạn con đường thẫm lại. Ông người Giẻ Triêng chẳng nói chẳng rằng chân bước lên phăng phăng đi trước. Tay lăm lăm con dao phát cây, chứng tỏ ông ta rất biết đường dẫn tới địa điểm mà bà Chiên nói lúc họ gặp nhau. Địa điểm bà Chiên có được trong giấc mộng báo chỉ đại khái nói là điểm cao 875. Họ đi vội vã. Vừa hết nương cà phê này lại chui qua một nương cà phê khác, tưởng chừng khắp nơi đây chỉ có cà phê với cà phê. Nhánh đường đất đỏ cũng lần lượt hiện ra như nó chẳng bao giờ chấm dứt. Ông người Giẻ Triêng vẫn lầm lũi đi trước dẫn đường và vẫn chẳng nói chẳng rằng như lúc họ mới gặp nhau. Hình như những người dân tộc đều ít nói? Chốc chốc ông lại quay mặt lại nhìn xem hai mẹ con bà Chiên đi theo có kịp không. Quay đầu lại nhìn hai mẹ con ông người Giẻ Triêng lại ngước nhìn bầu trời. Có vẻ như ông muốn nhắc đi nhanh kẻo không kịp tới nơi trước khi mặt trời lặn. Con đường mòn chạy xuyên những nương cà phê ướt sũng nước. Thằng Lợi đi khá khó khăn bởi nó chưa quen đi đường đất ướt. Mỗi bước chân của nó dường như ngày mỗi nặng nề. Đất đỏ dưới nền đường đã biến đôi dép của thằng Lợi thành một đôi dép có đế bằng đất dầy bám chặt. Lưỡng lự giây phút, thằng Lợi quyết định tụt dép đi chân trần giống ông người Giẻ Triêng. Quả tình những bước chân của nó đã nhẹ nhàng hơn và đỡ bị hút xuống đất hơn.
Ông người Giẻ Triêng vẫn phăng phăng đi với những bước đi chắc chắn. Người dân tộc hình như đã đi là đi một mạch cho tới đích chứ không ngần ngừ hay vừa đi vừa tính nghỉ. Tính cách của họ thật dứt khoát chứ không có tính lưỡng lự. Lần đầu tiên được gặp và được một người dân tộc Tây Nguyên đích thị dẫn đường đã làm bà Chiên hơi ngỡ ngàng. Bà cứ ngỡ những người dân nơi này chắc gì đã nhiệt tình tới mức bỏ cả việc nhà để đi giúp những người từ nơi xa đến. Bà nghĩ như vậy trong lúc đầu bà phân vân đặt ra bao câu tự hỏi. Những người dân tộc ở đây liệu họ có khắt khe hay tò mò không? Bây giờ cứ nhìn thái độ của ông người Giẻ Triêng này cũng đủ biết người dân tộc Tây Nguyên thật thà và không có tính thóc mách. Họ dường như không quan tâm đến thái độ dò hỏi của người đi theo mình. Họ dường như không muốn biết những người mà mình đang dẫn đi này ở đâu tới và nhằm mục đích gì.
– Bác ơi! Sắp tới chưa ạ?
– Dà. Đi mỏi chân thì tới thôi.
Thằng Lợi nghe vậy mà đầy ngao ngán. Với nó thì đôi chân đã mỏi nhừ từ lâu rồi nhưng với ông người Giẻ Triêng này mà mỏi chân thì còn xơi. Còn xơi nghĩa là nó còn phải gắng sức cố lên mà đi nữa. Chiếc ba lô học sinh trên lưng nó lúc này sao bỗng nặng ghê gớm dù thực tình tuy nó căng phồng nhưng cũng chỉ những thứ lặt vặt đơn giản và nhẹ. Thằng Lợi nhăn mặt ngán ngẩm luồn tay vén hai dây quai bô lô. Nó không dám nói tới chuyện xin được nghỉ ít phút. Nắng đã ngả sang chiều nhưng dường như những vạt đồi nương cà phê nối nhau còn chưa dứt. Điều này làm thằng Lợi thêm lẫn bấn.
Chiếc ba lô này do ông trưởng thôn cho mượn chứ nó làm gì có. Ngày bố nó, tức ông Thanh bị bắt đi, nó mới mười ba tuổi. Mười ba tuổi nghĩa là nó đang học lớp 7. Cái tuổi còn quá nhỏ để hiểu được sự đời nhiều phức tạp. Vậy mà nó hiểu. Đơn giản là nó không dám trở lại lớp học nữa bởi những ánh mắt bi phẫn và sự xa lánh của lũ bạn cùng lớp. Không đứa con gái hay thằng con trai nào trong lớp lại gần bên nó chứ nói gì chúng nghịch chơi với nó. Dại gì chơi với con của một kẻ “giết người”. Dại gì chơi để rồi những đứa bạn khác cũng tránh xa mình. Thế là thằng Lợi bỏ học. Nó bỏ học mặc cho mẹ nó nói thế nào cũng không nghe. Nó chạy một mạch từ trường về nhà. Nó chạy tút vào tận buồng rồi cài then trái cửa lại khóc dấm dức. Khóc cho tới khi bà Chiên đi làm về cứ tưởng nó mải chơi đâu mà bổ đi tìm. Bà chạy tìm khắp làng cũng không thấy thằng Lợi đâu. Bà đứng bần người giữa nhà mà lo lắng. Không hiểu thằng Lợi do mải chơi gì mà mãi tối rồi vẫn chưa về, hay là thằng này bỏ đi đâu thì khốn? Mấy hôm nay bà thấy nó buồn buồn ra mặt.
Cho tới khi con Lanh vào buồng lấy gạo nồi cơm mới thấy cửa buồng được cài then trái mới phát hoảng. Thằng Lợi khóc chán mệt quá ngủ tít mít. Con Lanh phát hoảng kêu mẹ tới, hai mẹ con nghe tiếng thở lẫn trong tiếng thút thít vọng ra mới bớt tá hỏa. Thằng Lợi bỏ học từ hôm đó. Tội nghiệp thằng bé nhưng bà Chiên cũng chịu. Bản thân bà cũng phải chịu nghe nhiều lời ong tiếng ve, mà toàn là những lời độc địa. Là người lớn, hơn nữa bà không vững thì hai đứa trẻ còn biết bấu bám vào ai. Con Lanh tuy cũng bị ghét bỏ lây nhưng nó thương mẹ. Thương mẹ mà cố gạt mọi chuyện bên tai để cùng mẹ lo chuyện đồng áng. Lúc này mà nằm nhà hay chạy trốn thì chết đói. Con Lanh nghe mẹ nó nói thế nên cũng gượng theo mẹ ra đồng. Nhưng thằng Lợi còn quá nhỏ. Nó quá nhỏ để có thể gạt được ưu phiền mà đứng lên.
Lại một vạt đồi nương cà phê nữa. Mùi hoa cà phê nồng nàn không xua được cảm giác mệt mỏi của hai đôi chân thằng Lợi. Bà Chiên với tay vỗ vỗ vào lưng ba lô. Bà muốn cầm giúp thằng Lợi chiếc xẻng mà nó đã vác suốt từ lúc rẽ vào con đường mòn chạy xuyên nương cà phê đến giờ. Với bà Chiên thì lúc này không thấy mệt. “Con cứ đi hết những vạt đồi thấp thì tới điểm cao 875”. Lời dặn dò trong giấc mộng báo làm bà thấy cái đích cần tới. Đã xác định được đích tới nên bà không thấy mệt. “Con tới nơi cha sẽ chỉ bảo tiếp”.
Họ rồi cũng vượt hết những nương cà phê. Đã thấy trước mặt dẫy núi xanh thẫm rậm rì cây lá. Mắt bà Chiên sáng lên. Lúc này ông người Giẻ Triêng mới bảo dừng lại. Họ phải vượt ngược lên đỉnh điểm cao 875 rồi mới sang được sườn đồi bên kia. “Cha nằm dưới chân điểm cao 875”. Bà Chiên thận trọng nhắc lại với ông người Giẻ Triêng như vậy.
Trời bắt đầu chuyển về chiều tối. Mặt trời đã thôi tỏa ánh nắng. Mặt trời đã mất hút sau dẫy núi phía tây. Cảm giác se se lạnh dần lan khắp cơ thể lúc họ ngồi nghỉ lấy sức vượt dốc. Ông người Giẻ Triêng bấy giờ mới ngừng hút thuốc. Suốt dọc đường đi luôn kèm bên tiếng thở phì phì là những làn khói thoát ra sau mỗi lần tiếng “bập bập” phát ra từ chiếc tẩu mà ông người Giẻ Triêng luôn ngậm lệch một bên miệng. Một người hút thuốc phát khiếp. Bà Chiên thầm nghĩ nhưng cũng thấy vui vui. Mùi khói thuốc tỏa về phía sau, về phía hai mẹ con bà khen khét làm không gian bên đường đi như được ai đốt củi sưởi lửa. Có thứ mùi vị ấy cũng làm ấm lên, làm không khí đỡ lạnh mát.
Ông người Giẻ Triêng dốc dốc nõ tẩu váo lóng bàn tay. Dốc xong ông tra tiếp một mồi thuốc rõ to vào đó. Chắc mồi thuốc này đủ tới chỗ mình phải tới? bà Chiên ước đoán. Nắng đã tắt hẳn. Bầu trời cao nguyên vụt cao cao và tải mênh mông. Bầu trời trong thanh nhè nhẹ đủ để tầm nhìn được rõ ràng. Về tối cao nguyên vẫn anh ánh sáng.
Điểm cao 875 nổi bật trên nền trời đã bắt đầu chuyển từ anh ánh sáng sang màu xanh đâm đẫm. Nó càng nổi bật cũng bởi vì giữa rất nhiều những vạt đồi lúp xúp nối nhau được phủ đầy cây cà phê thì điểm cao 875 nhô hẳn lên. Ánh sáng mặt trời chiếu dọi ban ngày dường như đã hút hết vào những cánh hoa cà phê và giờ là lúc những cánh hoa cà phê trắng tinh trả lại cho không gian màu trắng sáng ấy. Ông người Giẻ Triêng cười khà khà vẻ tự mãn nguyện, nụ cười đầu tiên kể từ khi họ đi với nhau đến giờ. Nụ cười hồn nhiên cũng làm bà Chiên chẳng biết mô tê nhưng cũng cười theo. Thằng Lợi thấy thế cũng nở một nụ cười. Nó đã bớt mệt. Đôi chân dù nghỉ ít phút nhưng cũng đỡ nặng nề. Gió thổi khoáng đạt, từng làn gió thổi trong buổi chiều tối chạy thung thăng trên những chùm lá cây cà phê. Đâu đây vọng lại những tiếng u oa bởi gió khi chạy thung thăng đã xoa xít những chùm lá xanh làm phát lên tiếng động. Lao xao như trăm ngàn lời nói khiến vẻ ban đêm đang chậm rãi tới gần bỗng như thân thiện hẳn.
Vượt qua một con suối cạn, dấu hiệu ngăn cách những vạt đồi nương bạt ngàn cà phê với điểm cao 875 mọc dầy những cây rừng cao lớn. Đoàn người cứ ngược thẳng lên đỉnh điểm cao. Phải ngược lên như vậy mới xác định được chính xác phương hướng. Ông người Giẻ Triêng nói như vậy và liên tục vung dao phát lá cây mở lối. Con dao phát cây từ trưa đến giờ mới có dịp phát huy tác dụng. Lá cây rừng phát tới đâu bàn chân của ông người Giẻ Triêng đặt tới đó. Hai mẹ con bà Chiên cứ tuần tự cắm cúi đi theo dấu chân của ông người Giẻ Triêng.
Ngược thẳng dốc lên đỉnh nên khá vất. Thằng Lợi nghiến răng cố gắng sức để khỏi tụt lại. Nói thực nếu bây giờ mà nó tụt lại thì chỉ có nước lạc trong rừng. Đường đi vừa đi vừa phát lá. Bây giờ bị tụt lại mà lạc thì chắc có nước chết. Nghĩ vậy nên thằng Lợi không dám nhụt ý chí. Ông người Giẻ Triêng dường như càng đi xa, dường như đường đi càng khó khăn, dường như trời càng tối thì ông càng dẻo dai. Mỗi bước đi của ông bao giờ cũng bắt đầu bằng một động tác vung dao lên phát lá. Người dân tộc dẻo dai quá. Bà Chiên thầm cảm phục.
Chừng hơn giờ đồng hồ ngược lên đỉnh điểm cao. Hơn một tiếng đồng hồ vất vả cuối cùng họ cũng lên tới đỉnh điểm cao 875. Trên này cây cối khá rậm rạp và bóng tối bủa bưng che mọi tầm mắt. Phía bắc là phía nào bây giờ? Bà Chiên lại thần người hoang mang. Bốn bề vây quanh là cây lá và bóng tối. Thật như lạc vào nơi chốn của sự bưng bít. Thằng Lợi thì lộ rõ vẻ thất vọng hơn mẹ nó. Với nó bây giờ chỉ toàn một màu đen của bóng tối.
Ông người Giẻ Triêng lại trở lại thái độ lầm lũi ít nói ban đầu. Ông bập bập liên tiếp mấy hơi thuốc rồi mới ngửa đầu lên nhìn trời. Hai bàn tay ông giơ thẳng hướng lên trời như đang nói lời cầu khấn với trời đất. Mà đúng là ông người Giẻ Triêng cầu khấn thật. Ông cất lên những câu nói bằng tiếng địa phương nghe rất ma mị và thành kính. Hồi lâu như vậy ông mới từ từ buông đôi tay xuống. Ông lại bập bập mấy hơi thuốc. Nõ của chiếc tẩu ngậm lệch bên miệng ông đỏ lừ lửa cháy.
Thả một làn khói thuốc sặc mùi khen khét, bấy giờ ông người Giẻ Triêng mới thong thả chỉ tay về phía trước mặt. “Phía bắc đó”. Bà Chiên nhớn mắt nhìn theo hướng tay chỉ của ông người Giẻ Triêng. Chỉ có màn đêm đen thẫm bưng bủa. “Từ đỉnh điểm cao 875 con đi xuôi xuống chân theo đúng hướng bắc. Tới gốc cây cụt có hình thằng người thì dừng lại. Cái cây này mới bị đạn pháo địch bắn cụt ngọn hồi sáng”. Bà Chiên nhắm mắt, khẽ thầm thì.
Cũng như lần đi ngược lên, lần đi xuống này ông người Giẻ Triêng lại lầm lũi đi trước. Lại vừa đi vừa vung dao phát lá cây. Nói thực lên dốc đã vất xuống dốc lại càng vất hơn. Cả thân người lúc nào cũng chỉ chực ngã dúi về phía trước. Từng bước chân chồn dồn làm đầu gối run bần bật. Thằng Lợi hết quờ tay bám cây rừng làm chỗ vịn lại lo lắng ngoái cổ xem mẹ nó đi đứng thế nào. Đoạn đường đi xuống hoàn toàn dựa vào cảm giác và trông cậy vào việc ông người Giẻ Triêng phát lá tới đâu. Mấy bận bà Chiên bủn rủn đầu gối chực ngã. Mấy bận bà vịn kịp được vào cây bên lối đi. Trong bóng tối che mắt họ lẳng lặng đi xuống chân núi.
Bà Chiên bỗng thấy hoảng hồn. Chân dốc đã trước mặt như lời ông người Giẻ Triêng vừa nói mà không thấy gốc cây cụt có hình thằng người đâu cả. Khắp quanh đây toàn những thân cây cao vút và xum xuê tán lá. Một thoáng chơi vơi trong lòng khiến bà trượt chân ngã khuỵu xuống. Chẳng cây cối nào cho bà kịp với tay đứng vững. Thằng Lợi cũng chẳng kịp chìa lưng đỡ mẹ. Bà Chiên ngã khụy xuống nhưng rất may là bà không bị lăn trôi xuống dưới chân. Bà ngã khuỵu theo kiểu nằm bò ngay chỗ bà vừa run run chồn dồn đầu gối.
Chợt ngay bên sườn bà có gì đấy rung mạnh. Sự rung động chỉ có mỗi mình bà nhận ra bởi nó rung ngay trong túi áo của bà. Một thoáng lúng túng rồi bà cũng nhớ ra trong túi áo của bà có chiếc điện thoại di động. Bà cất nó ở đó và quên phắt rằng đã mang theo nó. Thực ra từ lúc rời nhà vào đây tới giờ bà có việc gì phải gọi điện thoại đâu. Ông trưởng thôn dặn khi nào gần về tới làng mới gọi kia mà. Con Lanh cũng thế. Bà đã nói với nó khoảng năm bảy hôm nữa mới gọi về nhà. Bà áng chừng tầm ngày đó hai mẹ con bà mới về mà.
Chiếc điện thoại rung hối thúc. Bà Chiên vội móc túi áo lấy nó ra. Thật kỳ lạ, màn hình điện thoại đang bật sáng nhưng không có tín hiệu nào cho thấy có người gọi vào máy. Hay là do lúc ngã khuỵu mình đè phải phím nào đấy? Hay là lúc móc túi áo mình lấn bấn đụng tay mở máy? Bà Chiên run run giơ chiếc điện thoại lên trước mặt. Ánh sáng trên màn hình điện thoại vẽ ra xung quanh một màu sáng nhờ nhờ. Ánh sáng yếu ớt nhưng cũng đủ cho bà nhìn được xung quanh là gì. Quái lạ, bà Chiên lẩm bẩm, cột báo sóng trên màn hình không hề có lấy nửa vạch. Quái lạ, chính bà đã nhắc thằng Lợi đặt cho bà chế độ ánh sáng màn hình chỉ có năm giây thôi mà. Không hiểu sao màn hình vẫn sáng lâu lâu như nó không muốn tắt.
Ngần ngừ giây lát để tự định vị linh tính mách bảo, bỗng bà Chiên nói thất thanh. “Đây rồi! Đây rồi! Ông cụ linh báo cho biết chỗ ông cụ nằm đây rồi!”. Như một phép nhiệm màu. Cả thằng Lợi, cả ông người Giẻ Triêng cùng đồng thanh reo lên mừng rỡ. Họ đã được linh báo rằng họ đã tới đúng chỗ cần tìm. “Cha nằm dưới đất sâu chừng một mét. Con nhớ  nhé”. Bà Chiên quýnh lên cuống quýt. Người bà nóng hầm hập như đang lên cơn sốt. Không gian bỗng quang quẻ lạ thường. Chợt thoảng lên thứ mùi khen khét nhưng không phải là thứ mùi từ chiếc tẩu của ông người Giẻ Triêng.
Thận trọng và rất nhẹ nhàng. Bà Chiên đặt lên mảnh ni lông mà thằng Lợi vừa trải ra những thứ đồ mà bà đã chuẩn bị sẵn. Một nải chuối chín vàng. Năm quả cam cũng vàng ửng. Một tệp tiền vàng xếp ngăn nắp. Một bao thuốc lá và một lạng chè. Bầy xong những thứ đó bà Chiên mới nở nút chai rượu và rót đầy vào ba chiếc chén sứ. Lại thận trọng và thành kính. Bà Chiên cắm bảy nén hương xuống đúng chỗ đất mà bà vừa ngã khuỵu. Trong thâm u của rừng cây. Trong bóng đêm bưng bủa. Mùi hương trầm ngan ngát dần loang ra khắp xung quanh. Thằng Lợi vẻ hai hãi đứng nép bên người ông người Giẻ Triêng. Ông người Giẻ Triêng hình như đa quen với những tình huống như thế này nên không rằng không nói. Ông giắt con dao phát cây vào bên sườn rồi đưa tay cầm chiếc xẻng thằng Lợi đang giữ. Mọi cử chỉ của ông người Giẻ Triêng đều cho thấy ông đã sẵn sàng xúc những xẻng đất sau khi bà Chiên xong các thủ tục.
Dưới ánh sáng nhờ nhờ của màn hình điện thoại. Từng xẻng đất đỏ au được xúc lên và đổ gọn sang bên cạnh. Ông người Giẻ Triêng quả đúng như lời giới thiệu của chú tài xế. “Ông ấy đã nhận lời giúp mình là xong phéng”. Chưa đầy mười lăm phút cái hố xúc đất đã sâu một mét. Đất đỏ ướt mềm mềm lại khá tơi xốp nên việc xúc lên cũng thuận lợi. Bà Chiên vô cùng kinh ngạc khi độ sâu của cái hố vừa người đứng xúc tới khoảng cách một mét. Dưới đỏ màu đất đỏ au ban đầu đã biến mất. Nó nhường chỗ cho một lớp đất cháy đen. Mùi tanh tanh như mùi gỉ sắt của đất cháy đen bốc lên làm bà Chiên rùng mình lợm giọng. Bà ứa nước mắt xúc động.
“Thân thể cha đã tan hòa với đất. Con sẽ không tìm được xương cốt hay gì khác đại loại như xương cốt đâu”. Bà Chiên lại lẩm nhẩm những lời nói bà đã nghe được. Nhưng làm thế nào bây giờ? không tìm được xương cốt thì biết mang gì về làng cho gọi là đã đón được ông cụ? Những băn khoăn dồn dập đưa tới khiến tâm can bà bấn loạn. Ông người Giẻ Triêng cũng cảm thấy lúng túng. Dưới lòng hố chỉ còn lại toàn thứ đất cháy đen và tanh tanh như mùi sắt gỉ.
“Ở dưới lớp đất cháy đen còn có một thứ quà nhỏ. Con hãy lấy nó lên và mang về. Đó là quà cha gửi cho thằng Thanh, chồng con. Nó thích thứ quà đó lắm”. Thật nhẹ nhàng như sợ làm hỏng một thứ đồ vật dễ vỡ, ông người Giẻ Triêng từ từ đưa từng lưỡi xẻng lách bóc lần lần qua lớp đất cháy đen. Lại cũng vô cùng kinh ngạc khi ông đưa lên mặt đất một vật thể lạ. Đó là một chiếc ăng gô bằng nhôm không hề méo mó hay gỉ thủng, vỏ ăng gô sám đen. Mở nắp ăng gô ra, mọi người cùng thất kinh khi trong đó là một gói ni lông nhỏ gấp vuông vức, khá chặt chẽ và chỉ to bằng cỡ bàn tay. Gói vải tăng ni lông bộ đội qua năm tháng vẫn nguyên vẹn không hề mục rách. Mọi người lại nhanh chóng tháo giở chiếc gói ni lông đó ra. Qua ánh sáng của màn hình điện thoại di động. Một chiếc mũ tai bèo bộ đội giải phóng vẫn còn tươm tươm và cũng không hề mục rách, không hề biến màu. Quá kinh ngạc và khâm phục sự linh ứng đến diệu kỳ mọi người cùng chấp tay khấn bái.
Ông người Giẻ Triêng đưa tay gạt những giọt nước mắt đang lăn trên gò má. Không ngờ cái ông dân tộc cả ngày chẳng nói năng gì lấy hơn một câu nói này lại xúc động thực sự. Bà Chiên vừa mếu máo khóc gọi tên liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến vừa giục thằng Lợi xúc ba xẻng đất cháy đen. Bà thanh kính gói ba xẻng đất cháy đen đó vào vuông lụa đỏ. Bà gói rất khẽ khàng như sợ làm đau ai đó. “Con hãy mang chút đất cháy đen này về đồng làng mình. Cha được như vậy là toại nguyện lắm.
CHÍN
Bà Chiên đã sắp xong mâm cơm cúng.
Chưa tới trưa mà nắng đã như hun như đúc, khí nóng phả hầm hập. “Không hiểu sao năm 2013 này nắng nóng sớm thế? từ đầu năm tới giờ đợt này đã là đợt thứ ba rồi. Đợt nắng nóng này chẳng biết còn bao lâu?”. Lẩm nhẩm như người mới học được điều mới mẻ, bà Chiên xoay xoay sửa lại cho mâm cơm cúng được đặt ngay ngắn trên ban thờ. Bà cũng không quên đặt bên tấm ảnh chân dung liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến ba “linh vật” mà bà đã cùng thằng Lợi mang từ điểm cao 875 về. Đó là chiếc ăng gô bộ đội, mảnh tăng ni lông và chiếc mũ tai bèo. Ba “linh vật” này cứ đến ngày giỗ liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến là bà lại cung kính đặt lên ban thờ.
Hẵng còn sớm. Thằng Lợi nghe mẹ nhắc bèn vụt đi, nó chạy sang xóm bên mời ông trưởng thôn. Nhà có mỗi hai mẹ con, mâm cơm cúng cũng đủ đầy, mời thêm ông ấy sang dự cho ấm cúng. Coi như tiện thể được cám ơn ông ấy. Hơn nữa ông trưởng thôn làng Me này đâu phải người xa lạ. Họ hàng làng xóm đỡ đần nhau khi có công có việc đã đành nhưng việc ông ấy đứng ra lo liệu việc đón liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến về làng trang trọng quá làm bà Chiên cứ ơn mãi mà chưa có dịp bầy tỏ.
Loanh quanh một nhoáng đã xong hết mọi việc, bà Chiên thấy chân tay trở nên thừa thãi. Nắng chói chang thổi những luồng hơi nóng khiến không gian như dồn lại. Chật hẹn và thiêu đốt. Chốc chốc lại nghe tiếng “tách” của viên ngói nứt. Chốc chốc lại giật nẩy mình bởi tiếng nổ đánh “bốp” của ống tre nào đấy trên nóc nhà. Những âm thanh tuy không mới lạ nhưng nó kêu trong hoàn cảnh vắng vẻ này làm bà Chiên thấy ngài ngại. Ngước mắt nhìn lên ban thờ. Tấm ảnh liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến đang mở to nhìn xuống vẻ hài lòng.
“Vậy là ông cụ về đồng làng đã được bốn năm”. Bốn năm qua trong lòng  trong dạ bà Chiên tuy có đôi chút thanh thản nhưng nỗi trống vắng và mặc cảm thì chưa khi nào nguôi dứt. Bốn năm qua là bốn năm bà trông chờ vào sự linh ứng của vong linh liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến. Nhưng cũng đã đi qua bốn năm mà bà chưa nhận được một tín hiệu nào gọi là khả dĩ. Làng mạc vẫn thế. Nghĩa là vẫn nhìn mẹ con bà bằng những ánh mắt dị nghị. Làng mạc vẫn thế. Nghĩa là dư luận đàm tiếu quanh chuyện cũ thi thoảng lại dấy lên làm bà không yên trong dạ. Những con mắt xa lánh, tránh như tránh hủi càng khiến mẹ con bà thấy khó sống. Trầy trật qua ngày lắm lúc chỉ muốn đi quách đâu cho nhẹ. Đấy là bà Chiên nghĩ thế chứ đi đâu ở đâu bây giờ. Làng mình sờ sờ ra đấy còn khó nói gì tới một nơi chốn mới lạ.
Hè này ông Thanh cũng đã xa nhà được chín năm bảy tháng. Thời gian quả là một thử thách ghê gớm. Thời gian cứ ngày này qua ngày khác bào xói tâm can bà. Nó cứ làm bà nhức nhối đêm đêm. “Cứ thế này không khéo ông ấy chết rục trong tù cũng nên”. Bà Chiên rùng mình nghĩ đến một hôm nào đó, sẽ cũng lại là bà với thằng Lợi, tới trại giam Hoàng Tiến để nhận xác ông Thanh. Nghĩ thế tuy biết là nghĩ quẩn nhưng mù mịt thế này biết làm sao được.
Mắt ngóng ra ngoài đầu ngõ. “Sao chưa thấy ông trưởng thôn tới nhỉ?”. Bà Chiên vẻ sốt ruột. Cơm canh đợi lâu nguội ngắt ăn kém ngon đi. Đã mấy bận bà đánh tiếng ngỏ ý muốn được cám ơn ông trưởng thôn cho chu tất nhưng ông ấy cứ gạt phắt. Bữa nay làm mâm cơm cúng ngày giỗ liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến, bà phải nói mãi ông ấy mới nhận lời. “Hay là ông ấy lại giữ ý?”.
Buổi sáng cách đây bốn năm, hôm bà cùng thằng Lợi ở trong Tây Nguyên về tới đầu tỉnh, bà mới gọi điện báo cho ông trưởng thôn biết. Vậy mà bà không ngờ mọi việc lại diễn ra ngoài sức tưởng tượng khiến bà xúc động. Xe mới vừa rẽ vào đầu con đường dẫn vào làng đã thấy ông trưởng thôn đứng đợi. Ông trưởng thôn sáng nay ăn mặc khác hẳn với mọi ngày. Mọi ngày ông ấy ăn mặc xềnh xoàng như sắp sửa đi cày ruộng. Sáng nay ông trưởng thôn chỉn chu trong chiếc áo vét màu đen không biết mượn của ai đó. Chiếc áo vét rộng thùng thình và vẻ mặt ngường ngượng của ông trưởng thôn lúc ấy làm thằng Lợi phì cười. Bọn trẻ, nhất là bọn mới lớn thường không biết che giấu cảm xúc. Chúng thấy sao là nói vậy. Ông trưởng thôn cười hề hề, thái độ chân thành và cử chỉ nhiệt tình. Ông xăng xái lại bên hai mẹ con bà cứ như ông đang làm việc nhà ông ấy vậy. Bà Chiên thở nhẹ, như trút được nỗi lo lắng trong người, cảm giác mệt mỏi đường xa biến mất. Xe chạy tới nhà văn hóa của làng Me thì dừng lại. Bà Chiên bỗng thấy nghẹn ngào pha chút bối rối. Trước mắt bà, gần như cả làng Me, gần như cả xã Ngọc Hùng cùng ra đón di hài liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến. Ông chủ tịch xã cũng có mặt. Bà Chiên có nằm mơ cũng không dám mơ tới quang cảnh long trọng và uy nghiêm này.
Chiếc tiểu sành đựng trong đó vuông lụa đỏ bọc ba xẻng đất đen, gọi là di hài của liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến, được chuyển ra khỏi xe. Rất nhanh chóng chiếc tiểu sành được phủ một lá cờ đỏ. Có những người cựu chiến binh của làng, của xã ăn vận như những người chiến sĩ thực thụ. Quần áo đồng loạt như nhau, đều là bộ quân phục màu trắng. Mũ kê pi cũng màu trắng, vành mũ gắn ngôi sao vàng, đội ngay ngắn trên đầu. Trông đoàn người ra đón cứ như họ chuẩn bị đi dự lễ giao quân đầu năm vậy. Bà Chiên quá sững sờ trước những gì đã thấy, bà quá xúc động mà bật khóc. Đoàn cựu chiến binh tản ra thành hàng đôi, trật tự nhưng nét mặt thì biểu lộ vẻ đầy phấn khởi, đi sau di hài liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến; di hài do đích thân ông chủ tịch xã, ông trưởng thôn và hai cựu chiến binh làng Me ghé tay đỡ bước đi, tiếp đó là dòng người già trẻ lớn bé trai gái. Ai ai cũng chậm rãi cất từng bước chân một. Họ cẩn trọng rước di hài liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến về nhà. Rất trang nghiêm và xúc động trong âm thanh réo rắt bi ai của tiếng kèn thổi, trong âm thanh ỉ a não buồn của tiếng nhị kéo, trong âm thanh trầm chắc rắn rỏi của tiếng trống đánh, tất cả đều do “phường bát âm” của xã bên thể hiện.
Từ lối ngõ rẽ vào tới tận sân nhà là những lá cờ chuối màu đỏ được cắm dọc hai bên. Sáng nay nắng đẹp nên màu đỏ của những lá cờ chuối thêm rực đỏ. Trong sân nhà một chiếc bàn độc được phủ vải trắng kê chính giữa. Chiếc bàn độc đã được bầy biện đầy đủ những thứ lễ nghĩa của một buổi viếng người quá cố. Di hài liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến được đặt trên chiếc kệ vững chắc ngay phía dưới chiếc bàn lễ. Âm thanh xúc động do phường bát âm trình tấu tạm ngừng khi lễ truy điệu chính thức bắt đầu, ông chủ tịch xã đọc bài điếu văn ngắn gọn. Không biết ai đó đã kịp choàng lên người bà Chiên, choàng lên người thằng Lợi bộ quần áo vải xô trắng, họ cũng đã kịp thắt giúp vành khăn tang trắng. Hai mẹ con bà lúc này hoàn toàn quên hẳn chuyện mệt mỏi đường xa, đứng chắp tay cám  ơn bà con làng xóm.
“Vậy là ông cụ nhà mình đã mồ yên mả đẹp trong nghĩa trang liệt sĩ”. Thế mà trên đường trở về, ngồi trên xe bụng dạ bà Chiên cứ lo canh cánh. Lo không biết đón ông cụ về làng làng sẽ đối xử ra sao? Lo không biết chính quyền xã có làm khó dễ không? Lo chỉ có hai mẹ con biết xoay xở công việc thế nào? Còn bao thứ lo khác mà bà chưa nghĩ ra. “Không có tay ông trưởng thôn ghé vào giúp thì không biết ra sao” Thầm cám ơn ông trưởng thôn lần nữa, bà Chiên lại ngóng mắt nhìn ra đầu ngõ. Nắng trải trắng trên từng ngọn cây.
Chờ đợi sinh rỗi việc. Bà Chiên ngồi thừ trên ghế. Mắt lúc ngóng ra đầu ngõ, lúc ngước nhìn ban thờ. Tuần hương mới cháy được một phần ba. Chắc còn đợi thêm ít nữa. Đằng nào cũng phải đợi hương cháy hết thì mới bưng mâm xuống rồi sau đó mới thụ lộc được. Những tiếng nổ “tách’ những tiếng nổ “bốp” ran ran khiến căn nhà tưởng như đang có nhiều người quây tụ. Vậy là vui rồi. Con Lanh mới gọi điện về sáng hôm qua, giọng nó hồ hởi lắm. Những năm năm hơn rồi còn gì nữa. Nó xa nhà chừng bấy năm là cũng chừng bấy năm bà Chiên luôn canh cánh thương phận đứa con gái sớm phải gánh gian truân. “Quả tình nếu như không có mấy món tiền con Lanh gửi về thì có lẽ mình cũng chịu”.

Bìa sách “Tiếng con chim lợn kêu ngang qua” 
Tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Văn

Lần vào Tây Nguyên đón ông cụ cách đây bốn năm, bà Chiên đã nẩy sinh suy tính. Bà ấp ủ suy tính đó chờ dịp nào thuận thì mới đem ra bàn. Sáng nay con Lanh gọi điện về nhà, bà mới chỉ nói nhắc nó thu xếp chuyện ở bên đó để về nhà sơm sớm. “Đợi nó về rồi bàn tính hay cứ nói trước xem ý thằng Lợi ra sao? Chả có gì để nghĩ, bà Chiên lại sực nhớ tới suy tính hôm nào. Nắng nóng gay gắt ngồi trong nhà vẫn thấy ngột ngạt. Trên ban thờ khói hương chậm tỏa đang luẩn quẩn những vệt khói vừa thanh vừa mỏng. Mùi hương nồng thơm nhẹ tỏa xuống chỗ bà Chiên đang ngồi.
“Trong đó đất đai màu mỡ. Người dân tộc tốt bụng lại chan hòa”. Bà Chiên bồi hồi nhớ lại. Bà nhớ những vạt đồi nương cà phê ngút ngát nối nhau tưởng không dứt. Bà nhớ cái ông người Giẻ Triêng người thì chân chất, tuy ít nói nhưng việc đâu ra đấy. “Trong ấy người ta cư xử tốt. Mình tới ở chắc họ cũng không làm phiền”. Nghĩ tới đây thì những suy tính mới gọi là manh nha chợt như thúc giục. “Phải rồi. Có lẽ nhân bữa cơm giỗ này cứ thử thăm dò ý tứ ông trưởng thôn xem sao, cứ thử bàn sơ sơ chuyện bán căn nhà này đi lấy ít vốn, cộng với tiền con Lanh gửi về nữa. Vào trong đó sinh sống”.
Trước mắt bà Chiên đang vẽ ra hình ảnh gia đình bà đang sinh sống trong Tây Nguyên. Nhà bà cũng sẽ có những vạt đồi nương cà phê mùa xuân nở ngàn hoa trắng muốt. Nhà bà cũng sẽ có những người hàng xóm vui tính và tốt bụng. “Phải rồi. Con Lanh đã hăm nhăm hăm sáu tuổi”. Tuổi ấy ở làng này, người bình thường đã chẳng có thằng con trai nào đánh tiếng dạm hỏi về làm vợ, huống hồ con Lanh lại là con ai. Ở làng Me đã bao năm nay thành tục, con gái chỉ hăm mốt hăm hai đã con bồng con bế. Có khi phải vào trong đó sinh sống may ra con Lanh nhà mình mới lấy được chồng. Là cha là mẹ ai mà chẳng muốn con cái lớn khôn có nơi có chốn. Nhà có con gái tuổi cưng cứng như trong nhà có họa rình sẵn.
“Phải rời làng vào Tây Nguyên sinh sống thôi”. Ý nghĩ rất cương quyết làm bà Chiên như sắp tháo được gánh nặng. Vào trong đó, lạ người lạ nước, ai biết chuyện ra sao đâu mà dị nghị. Vào sống trong đó có khi dễ thở mình lại đỡ hẳn đau yếu. “Chốc nữa ông trưởng thôn tới mình cứ thử nói. Chí ít thì ông ấy cũng là trưởng thôn, là người có trách nhiệm với làng với xóm”. Ngóng mắt lần nữa ra ngoài đầu ngõ, bà Chiên đinh ninh trong đầu “kiểu gì ngồi ăn bữa cơm trưa nay sẽ nói”.
Tiếng kêu “tách” của viên ngói nứt trên mái nhà khiến bà thấy bàng hoàng cứ như việc đã định xong xuôi vậy. Không được, bỏ làng đi như vậy khác nào chạy trốn? Ông Thanh ở tù chẳng biết có ngày về. Mình còn ở làng nghĩa là còn dăm tháng nửa năm cũng có được một lần lên trại thăm nuôi ông ấy. Mình còn ở làng tức còn trông chờ phận may biết đâu ông ấy lại có khi sớm về nhà? Vào trong đó, đường xá xa xôi, thời gian cách trở, không có điều kiện thăm nuôi khác nào bỏ mặc ông ấy. Bỏ mặc ông ấy là có tội. “Một ngày nên nghĩa vợ chồng kia mà”. Ông ấy dù sao cũng là với bà ngần bấy năm. Con cái lớn khôn dễ gì chúng cũng theo mẹ mà bỏ mặc bố nó.
Thấy như vừa mắc tội, bà Chiên bùi ngùi vén vạt áo lên lau nước mắt. Vô tình khi ngước lên mắt bà bắt gặp cái nhìn của liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến, cái nhìn từ trong tấm ảnh trên ban thờ nhìn xuống bà bằng vẻ mặt trách móc. “Không được. Ông cụ mới về làng chưa được bao lâu. Mình cùng các con bỏ vào trong đó biết lấy ai hương khói, biết lấy ai chăm nom ngôi mộ cho ông cụ”. Buồn phiền thêm buồn phiền, bà Chiên mặt thừ ra tội nghiệp
Khói hương trên ban thờ chậm tỏa, khói ngưng quền quện, khắp ba gian nhà đọng một mùi thơm ngây ngây. Bà Chiên lại ngóng mắt nhìn ra ngoài đầu ngõ, nắng soi nhoang nhoáng như có bóng ai đó vừa ngang qua. Bóng người quen quen, dập dình ngoài đầu ngõ rồi quay đi vội vã. Nắng chang trắng mặt sân nhà như những ảo hình lay động. Cảm giác khi ngồi nhìn nắng chờ đợi một mình đúng là dễ tạo ảo giác và gây buồn ngủ. Bà Chiên hơi thiu thiu. Đầu nghẹo nghiêng vào bên thành ghế, mắt lơ mơ, những tiếng nổ “tách” hay “bốp” trên nóc nhà không làm bà bận tâm nữa. Cơn buồn ngủ kéo đến cũng làm bà thôi nghĩ ngợi. Căn nhà im ắng vắng. Thứ im ắng vắng trong mùi hương đang chậm trôi.
Từ thị xã Ninh Hòa, bà Chiên bắt chuyến xe khách lên thành phố Buôn Mê Thuột. Đấy là đích đến của chuyến xe, chứ còn bà, bà không đi lên tới tận Buôn Mê Thuột. Chuyến xe đã xếp đủ khách nổ máy rù rù chuyển bánh. Nó bắt đầu hành trình lên cao nguyên theo đường quốc lộ số 26. Cũng như đường quốc lộ số 14 của chuyến đi lên cao nguyên bốn năm về trước, đường quốc lộ số 26 trải dài như dải lụa đen mới nhuộm, uốn lượn men theo các triền đồi. Trên xe đã râm ran câu chuyện. Xe chở khách có khác, mấy chục con người đủ mọi lứa tuổi đã kịp làm quen với nhau. Những vị khách người dân tộc ăn vận như đi hội. Người dân tộc hình như bao giờ cũng như đi hội vậy? Bà Chiên thầm đoán. Đã quen với hình ảnh người dân tộc Tây Nguyên nên bà Chiên không tò mò. Bà cúi người luồn tay đẩy chiếc túi đeo vai, hành lý mang theo, xuống gầm ghế và chậm rãi ngắm nhìn cảnh vật hai bên đường. Đang giữa hè nên nắng chói chang làm những chiếc lá cây ánh lên vàng vàng.
Lần đi này bà Chiên đi có một mình. Thằng Lợi phải ở nhà trông coi nhà cửa. Hơn nữa chuyến đi này bà không hề nói rõ sự thực đi để làm gì cho thằng Lợi biết. Nói cho thằng Lợi biết nó lại cười cho. Thanh niên bây giờ làm gì có đứa nào tin vào chuyện cũ nói lại, tin vào sự ứng báo mộng mị. Thằng Lợi  còn trẻ người non dạ, nói cho nó nghe không khéo nó can ngăn lại làm hỏng chuyện. Cũng vả lại đã đâu vào đâu đâu. Lần đi này trong lòng bà có những cảm xúc lẫn lộn. Hy vọng mơ hồ và mong manh như đốt lửa tìm kim trên rừng. Có thể đúng và có thể sai.
Đúng hai tuần sau hôm làm giỗ cúng cha chồng, bà Chiên khăn gói vào Tây Nguyên. Bà không nói với ông trưởng thôn là đi đâu và làm gì, bà chỉ nói với thằng Lợi là bà đi chơi như kiểu đi cho khuây khỏa vậy. Thằng Lợi hỏi đi đâu bà cũng mập mờ nói tránh. Nói thế nhưng nào giấu được nên bà cũng phải vòng vo cái ý định đưa cả nhà vào Tây Nguyên lập nghiệp. Thằng Lợi mới đầu nghe mẹ nói chuyện rời làng vào Tây Nguyên thì mừng ra mặt. Thanh niên mới lớn thường thích bay nhảy mà. Nó tưng tửng mặt. Nhìn cái mặt của nó ai không biết cứ ngỡ ngày nay ngày mai là nó cùng mẹ nó đã rời làng rồi. Thằng Lợi đi đi lại lại chân tay vung vẩy. Nó tưng tửng phác ra ôi bao là dự định. Nào là nhà mình cũng sẽ có những nương cà phê nở hoa trắng muốt. Nào là nhà mình cũng sẽ có những chiếc xe ô tô loại bán tải chạy ngoằn nghèo khắp các vạt đồi. “Nhà mình giàu đến nơi rồi!”. Thằng Lợi phấn khích nói oang oang làm bà Chiên phải bật dậy giơ tay bịt mồm nó lại.
Bà Chiên vào Tây Nguyên lần này có một mình. Bà đâu có ý định đưa cả nhà vào trong đó lập nghiệp. Cái ý nghĩ đó bà đã gạt phắt trước khi thằng Lợi mời được ông trưởng thôn sang dự bữa cơm giỗ liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến. Cũng may là bà đã gạt phắt nên cuộc ăn không bàn gì tới chuyện rậm rình bỏ làng. Bữa ăn chỉ nói về sắp tới đây phải lo việc gì làm cho thằng Lợi. Ông trưởng thôn tỏ ra thông cảm nên nói hứa sẽ tìm việc gì đó. Ngặt nỗi thằng Lợi bỏ học từ cấp 2 nên lo việc gì cũng thấy khó. Thời buổi bây giờ học xong cấp 3 hẳn hoi cũng chẳng xin nổi một chân phụ hồ nói chi mới đầu cấp 2 đã nghỉ học. Biết thế nhưng ông trưởng thôn cũng động viên. “Thiếu gì việc. Không làm xa thì làm gần. Ở ngay làng cũng làm giàu được cháu ạ”. Thực ra ông trưởng thôn không nói chiều lòng. Ông ấy nói cũng có cái đúng. Nuôi gà nuôi lợn đấy thôi. Làm kinh tế là phải biết mạnh dạn mà đầu tư. Ở làng nuôi gà nuôi lợn cũng khối nhà khấm khá. Đợi con Lanh về, hai chị em nó làm kinh tế hộ như ông trưởng thôn nói cũng tốt. Bà Chiên an ủi thằng Lợi.
Xe gừ gừ leo dốc. Tư thế ngồi chợt hơi ngả ra cùng chặng đường đi cũng đã dài dài làm mấy người ghế trước, ghế sau chập chờn ngủ. Chẳng còn nghe những tiếng nói chuyện râm ran ban đầu nữa. Bà Chiên che mồm ngáp rõ dài tưởng sái quai hàm. Suốt hai ngày qua toàn ngồi tàu, bà đâu có ngủ được giấc nào cho ra giấc. Tiếng bánh tàu hỏa nghiến ray sình sịch chẳng giây nào ngớt, những toa tàu chốc chốc lại giật giật va nhau kêu loảng xoảng làm bà khó ngủ. Hai ngày ngồi gà gật trên ghế trong những âm thanh khó chịu. Giờ ngồi trong ghế xe khách êm êm, tiếng xe chạy đều đều nghe rù rù như những lời ru rỉ khiến hai mắt bà nhíp lại.
“Con đi theo đường quốc lộ số 26, tới thì trấn Ea Kar, cách Buôn Mê Thuột chừng năm mươi cây số thì xuống xe”. Mắt vẫn nhắm cho đỡ mỏi, miệng lẩm nhẩm, bà Chiên cố căng đầu ra để nhớ. Mình mà ngủ quên thì lỡ. Đinh ninh như vậy nhưng cơn buồn ngủ nào có buông tha. Nắng chiếu gay gắt qua cửa xe. Nắng soi nóng bỏng những tấm kính chắn gió, ngồi trong xe mà mồ hôi nhễ nhại như người đi làm đồng vừa về. Bà Chiên thấy ngột ngạt. Chính cơn ngột ngạt đã giúp bà tỉnh lại.
Hôm ông trưởng thôn sang nhà dự bữa giỗ, bà Chiên đã bóng gió nói tới việc bà không tin tội lỗi là do ông Thanh gây ra. Hình như ông trưởng thôn cũng đồng tình. Những là cách đồng tình kiểu an ủi chứ nói ra lấy đâu căn cứ. Chuyện rõ ràng mười mươi như vậy nói làm sao khác được. Nhưng tính nết của ông Thanh thì ông trưởng thôn còn lạ gì. “Ông Thanh nhà bà nhát như cáy ấy. Người vậy làm chuyện ác không được”. Được câu nói mát cả ruột, bà Chiên rưng rưng. Hóa ra ông trưởng thôn cũng là người hiểu biết. Ông ấy có hiểu biết nên ông ấy còn biết động viên. Chứ cứ như những người khác thì chỉ còn nước bán cả nhà đi nơi khác may ra mới sống được. Người ta có thể chịu đựng được khó khăn, chịu được bệnh tật những chẳng thể chịu được điều tiếng, chịu được búa dìu dư luận. Đã bao lần bà Chiên muốn gieo mình xuống sông Thương chết đi cho rảnh. Nhưng nghĩ tới thằng Lợi nghĩ tới con Lanh sẽ bơ vơ bà lại thôi ngay ý nghĩ. Cha nó đang tù tội. Mẹ muốn chết khác nào đem con bỏ chợ.
Ông trưởng thôn là người hiểu biết. Không có ông ấy thi thoảng động viên hay giúp đỡ thì gần mười năm qua bà chẳng biết dựa vào đâu. Bây giờ khó nhất là chuyện phải lo việc gì cho thằng Lợi, cho con Lanh. Chúng nó sống tinh thần đã khổ không lẽ để chúng nó khổ cả vật chất.
Quay quay đầu, vặn vẹo người cho đỡ mỏi. Bà Chiên đưa mắt nhìn qua cửa kính của xe. Cũng những vạt đồi cà phê nối nhau tưởng không bao giờ dứt. Trong này đất tốt thật đấy. Kể không vào trong này sinh sống cũng thấy tiếc. Giá mà không có chuyện gì xẩy ra nhà mình vào cả đây có hay không? Giá mà ông Thanh không lâm vào cảnh tù tội có hay không? Nhưng nói đi thì phải có nói lại. Không có “chuyện” của ông ấy chắc gì mình có được chuyến đi này? Đúng là con người thật. Có cái này lại ước cái khác. Thôi lo chuyện cho ông ấy xong xuôi đã. Tính lúc nào mà chẳng được.
“Tới thị trấn Ea Kar con hỏi đường về xã Ea Kmút, thôn Đoàn Kết. Nhớ đừng hỏi lầm đường đấy”. Bà Chiên lại lẩm nhẩm. Từ đây tới thị trấn còn chưa đầy  mười cây số nữa. Chú phụ xe vừa cho mình biết mà. Tự dưng bụng dạ bà Chiên thấy nôn nao. Gần mười cây số nữa là bà sẽ xuống xe. Gần mười cây số nữa bà sẽ đi tới một nơi của tia hy vọng cuối. Bụng dạ nôn nao nhưng là cái nôn nao của tâm trạng bồn chồn. Hy vọng có. Sợ thất vọng có. Không hiểu có đúng như mình được biết không? Không hiểu khi mình tìm tới đúng nơi đó liệu có được những gì mình mong muốn không? Không hiểu một mình mình có làm được điều gì không? Có bao nhiêu khó khăn bầy ra trước mắt ngay từ khi còn chưa tới nơi định đến.
Thằng Lợi ban đầu nghe mẹ nói sẽ trở vào Tây Nguyên lần nữa đã không tin vào tai mình. Nó ngỡ bà Chiên nói vui. Nó ngỡ bà nhớ phong cảnh trong đó đẹp như tranh vẽ mà nói cho vui. Cũng có thể mẹ nó thử xem ý tứ của nó ra sao? Thằng Lợi đứng phắt dậy khi bà Chiên nói xong câu thứ nhất. Nó há to miệng thể hiện sự vui mừng của mình. Nhưng cuối cùng thì nó ỉu xìu mặt, ngồi phịch xuống mép giường khi bà Chiên nói cho nó biết, bà vào Tây Nguyên một mình thôi. Vào thử xem xem thế nào. Biết đâu thuận thì trở ra rồi tính sau. Cũng phải đợi chị Lanh nó về nhà nữa chứ. Vả lại bây giờ mà bỏ đi vắng hết người làng lại thêm lời dị nghị. Lần trước nói đi đón ông cụ thì không sao. Bây giờ nói đi đâu và làm gì là có chuyện dị nghị ngay. Làng Me bé như lòng bàn tay. Chuyện trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã tường mà. Được giải thích như vậy nên thằng Lợi im lặng. Nó không nghe lời mẹ thì nghe lời ai. Với nó chuyện mẹ nó vào Tây Nguyên lần này là chuyến đi tính chuyện làm ăn. Ai mà chẳng phải làm ăn. Không làm chết đói nhăn răng cũng chẳng ai cho.
Xuống xe ở thị trấn Ea Kar, hỏi đường về xã Ea Kmút nhưng bà Chiên không gọi xe ôm. Mặc dù mấy bác xe ôm vừa thấy chuyến xe khách chạy tà tà rồi dừng đỗ bên lề đường là ùa ra chào mới rối rít, có bác xe ôm còn nhiệt tình giằng cầm hộ túi đồ như bắt chẹt phải ngồi lên xe. Bà Chiên tay giữ chặt chiếc túi, xua xua, lắc lắc từ chối mọi lời mời mọc của mấy bác xe ôm, bà quyết định đi bộ. Không vội vàng được. Bà nghĩ thế và quyết định đi bộ để vừa đi vừa nghĩ. Nghĩ làm thế nào tới được đúng địa chỉ. Nghĩ làm thế nào để công việc không bị hỏng. “Con cẩn thận. Chỉ dò la manh mối thôi đừng dò hỏi kỹ. Dò hỏi kỹ quá sinh động là hỏng việc đấy”. Đang giữa trưa nắng đổ gắt, con đường liên xã như được nhuộm thêm màu đỏ. Con đường xuyên qua những nương cà phê ngút ngát. Có lúc con đường lại trằn mình ra không gì che chắn mặc cho nắng chiếu nóng ran mặt đường. Càng đi càng thấy mệt. Nắng cao nguyên thật khó chịu. Những ánh nắng nóng thổi khô khốc, thổi táp héo cỏ cây. Đã bắt đầu vào mùa mưa ở Tây Nguyên nhưng năm nay không hiểu sao nắng nóng vẫn còn kéo dài tới cuối tháng năm sang đầu tháng sáu mà chưa dứt. Mặt mũi bà Chiên đỏ phừng phừng, mồ hôi thấm đẫm lưng áo, bà cố bước từng bước chân nặng nhọc. “Con nhớ nhé. Thôn Đoàn Kết”. Lại lẩm nhẩm như học sinh không học thuộc bài, bà Chiên cắm cúi bước đi.
Thôn Đoàn Kết hóa ra lại là một thôn không khó tìm, những căn nhà cất dọc hai bên con đường đất đỏ hình thành nên thôn, con đường trong thôn chạy thông với con đường liên xã. Làng của người Tây Nguyên không giống làng của người miền Bắc? Những căn nhà đủ kiểu lô nhô không bám hẳn mặt đường mà tách xa ẩn khuất trong những khu vườn cà phê. Trong thôn, nhà của người Kinh, dân đi kinh tế mới, thường là nhà xây. Nhà nào khấm khá thì bốn năm gian, đổ mái bằng. Nhà nào vừa phải thì làm ba gian, mái lợp tôn màu đỏ. Những căn nhà người Kinh bao giờ cũng có khoảng sân trước cửa. Nhà của người dân tộc, những căn nhà của hộ định cư vẫn mang dang dấp phong cách truyền thống, nhà có sàn thấp và xây gạch chứ không làm bằng gỗ. Nhưng đều là nhà xây dựng kiểu đồng loạt giống hệt nhau. Đó là những căn nhà do nhà nước đầu tư nhằm khuyến khích bà con định cư được ổn định đời sống và xây dựng nếp sống mới.
Bà Chiên thấy hồi hộp, bà đã đi tới giữa làng, tim đập thình thịch như trống trận. Có gì đấy làm bà ngập ngừng dừng chân. Những hồ nghi dồn dập khiến bà thấy tưng tức trong lồng ngực. Đè tay chẹn nhịp tim đang dồn dập bà Chiên chợt phân vân. Mình có đường đột không? Mọi lý lẽ đều là giả thiết và đều do bà được ứng báo. Ngộ nhỡ không phải thì đáng trách lắm? Ngộ nhỡ mình ngộ nhận thì ăn nói ra sao?
Vịn tay vào một thân cây to bên đường để thở. Nắng gay gắt cộng với chặng đường đi bộ dưới nắng giữa trưa cùng trạng thái hồi hộp làm mặt bà đỏ bầm. Cảm giác nghẹt thở làm bà hoa mày chóng mặt. Người như kẻ ốm dở vậy? Bà Chiên tự an ủi và cố vịn tay vào thân cây. Bà run run lảo đảo đầu óc quay cuồng, chân tay chới với.
– Bà gì ơi! Bà làm sao thế?
Giọng con gái nghe ngọt thừ chợt vang lên, câu hỏi thảng thốt cùng tiếng chân chạy lại. Bà Chiên cũng chỉ nghe được có thế. Bà ngã khuỵu xuống ngay dưới chân gốc cây. Bàn tay của bà không còn đủ vững để vịn đỡ vào thân cây được nữa.
– Thôi chết. Bà này. À không, cô này bị say nắng rồi.
Vẫn cáo giọng con gái ngọt thừ lay gọi làm bà Chiên muốn trả lời mà không tài nào cất nổi một câu nói. Bóng người con gái vừa chạy tới cúi xuống xốc hai nách bà lên. Đứng lên rồi lại khuỵu xuống. Phải ba bốn lần như vậy bà Chiên mới lê lết chân theo cô gái vào nhà. Khổ thân cô gái, sức người mỏng mảnh mà lại vừa xốc nách vừa dìu người bà đi nên cô cũng thở to thành tiếng. Hai người dìu nhau vào được bên trong nhà.
– Cô bị say nắng rồi ha. Cô ngồi tạm đây, để cháu cởi bớt chiếc áo, quạt mát một chốc là dịu ngay ấy ha.
– May quá. Nếu không gặp cháu thì.
– Cô ở ngoài bắc mới vô ha?
– Sao cháu biết?
– Cô nói giọng bắc ha. Ở làng này cũng có nhiều người miền bắc vô nhưng ở lâu lâu họ cũng nói theo cách trong này. Cô vô đúng ngày nóng nhất đấy.
– Vậy à cháu?
– Dạ.
Cô gái quay đi. Quả tình được ngồi thở trong nhà, được cởi bớt áo và được quạt mát nên bà Chiên cũng nhanh hồi sức. Thực ra bà là dân lao động nên chuyện như hôm nay rất hiếm. Hiếm nhưng còn có sức vóc nên cũng nhanh hồi. Cô gái đã quay lại. Được cốc nước mát cảm thấy nhẹ đi đến tám chín phần.
– Cô đi có một mình ha?
– Ừ. Cô đi có một mình. Cháu cũng ở một mình à?
– Dạ không. Chồng cháu ảnh kêu lên Buôn Mê Thuột có chút công việc. Cháu mới đi gửi cơm cho con nhỏ nhà cháu về. Cháu về vậy mà kịp thời ha.
Bà Chiên suýt bật cười. Cô gái này ăn nói nghe thật ngọt, mát cả lòng. Lại còn cái âm “ha” nhấn nhá ở cuối mỗi câu nói nữa chứ. Đúng là con gái trong này ngoan hiền thật. Thằng Lợi nhà mình vào đây mà lấy được gái trong này chắc nhà mình vui lắm. Bà Chiên đã tinh tỉnh đôi chút. Nỗi mong ước có con dâu lại dội về làm bà thấy nhẹ hẳn người. Cô gái này dáng người thanh mảnh. Người thanh mảnh là chịu khó lắm. Bấy giờ bà Chiên mới để ý tới cô gái. Cô chừng chạc tuổi thằng Lợi hoặc ít hơn một hai tuổi. Nhưng chắc là bằng tuổi. Chính cô ấy vừa nói qua bên hàng xóm gửi cơm cho đứa con nhỏ đấy thôi.
– Cô còn mệt ha. Hay là cô ở tạm nhà cháu với hai mẹ con cháu. Chồng cháu đi vắng chưa biết khi nào về. Có cô nhà thêm vui chứ một mình cháu buồn thấy mồ ha.
Rất tự nhiên và chân thành, cô gái không ngần ngại giữ bà Chiên nghỉ lại. “Mình ở lại nhờ nhà cô gái này ít hôm cũng được. Tiện thể còn dò la”. Bà Chiên vẻ trong lòng đã đồng ý nhưng vẫn nói từ chối.
– Cô ở lại có tiện không?
– Tiện mà cô ha. Chồng cháu cũng người ngoài bắc. Cháu là con dâu ngoài đó. Có cô mới vô ở lại nói thêm câu chuyện ngoài mình, cô ha.
– Cháu có con trai hay con gái?
– Dạ bé gái cô ha.
– Hay đón nó về bà cháu chơi với nhau.
– Dạ.
Cô gái thấy mừng vội chạy ào ra ngoài đường. Người trong này chân thật và tốt tính thật. Tự dưng cái suy tính rời làng vào Tây Nguyên hôm nào lại réo giục. Bà Chiên bần người ra nghĩ ngợi. “Con không được dò hỏi mà chỉ quan sát rồi tính lựa chuyện thôi. Dò hỏi sinh động không khéo không được việc”.
– Con vô nhà chào bà đi.
– Dạ. Con chào bà… chào bà ngoại bắc.
Con bé chừng lên hai. Khuôn mặt tròn tròn đứng khoanh tay chào. Nó còn “con chào bà ngoại bắc nữa chứ”. Bà Chiên thấy vui lây. Với trẻ con cứ hễ ai là bà thì đều là bà ngoại cả. Bà ngoại yêu bé nhiều hơn mà.
Chiều đang xuống. Căn nhà tuy mới xây nhưng xem ra nó còn tềnh toàng lắm. Chững tỏ cặp vợ chồng trẻ này mới ở riêng chưa lâu. Bà Chiên đã khỏe hẳn. Nắng chiều cao nguyên dịu đi trông thấy. Gió rừng thổi tới làm không khí dễ chịu hẳn. Mát và sảng khoái. Có trẻ con nên trong nhà líu lo. Con bé có vẻ bện bà Chiên, bằng chứng là nó bám bà suốt. Cũng có thể nó ít khi được gặp bà ngoại thật của nó nên nó bám mình? Bà Chiên thầm nghĩ. Cô gái này sao tốt tính thế nhỉ? hình như người trong này rất tin người? Không tin người mà họ dám đặt vấn đề giữ mình nghỉ lại? Không tin người mà sao họ chẳng có lấy một chút phân vân.
– Cô vô làm gì vậy ha?
– À. À… cô vào xem sao. Cô tính chuyển nhà vào cả trong này sinh sống cháu ạ.
Không ngờ bà Chiên kịp biến báo. May mà bà con kịp nói như vậy. Chứ nói vào đây để tìm người thì hỏng bét.
– Thế thì cô may rồi đấy ha.
– Cháu nói may là nghĩa làm sao?
– Dạ. Ở trong này cũng có nhiều người muốn bán rừng bán nương lắm cô ha.
– Sao họ lại muốn bán.
– Dạ. Người dân tộc không quen trồng cà phê. Họ chỉ thích đốt rẫy thôi. Cùng lắm là làm thuê cũng được. Thôn này có mấy nhà bà con tính chuyện bán lại nương đấy cô. Cô muốn mua để hôm nào chồng cháu về. Chồng cháu biết những ai muốn bán.
– Người dân tộc không thích trồng cà phê à?
– Dạ. Họ không quen thôi. Hơn nữa trồng cà phê lại đòi hỏi nhiều vốn. Bà con lấy đâu vốn. Bán lại rồi đi làm thuê còn lợi hơn ha.
Một buổi chiều và đêm được nghỉ ngơi đủ để bà Chiên hồi phục hoàn toàn. Một ngày mới đã tới. Thong dong bước ra trước sân nhà để hít thở không khí sớm mai, bỗng bà Chiên rùng mình ngoái vội vào trong nhà. “Khi nào vào thôn thấy một cây cẩm lại to đứng đơn độc chắn trước cửa nhà là con đã tới đúng nhà ấy”. Trước mắt bà là một cây cẩm lai cao chừng hai mươi nhăm ba mươi mét, cây cẩm lại đang mở xòe tán lá hình chiếc ô. Không hiểu sao giữa những vạt đồi chỉ toàn cây cà phê đang trĩu quả đỏ quả xanh này lại có một cây cẩm lại đứng sừng sững một mình.
Bà Chiên hốt hoảng lại ngó vội vào trong nhà lần nữa. Hóa ra như một sự sắp đặt, trưa hôm qua bà đã tới đúng cái nhà của con người mà bà muốn tìm để lôi ra sự thật thì  bà bị say nắng. “Không lẽ cô gái ngoan hiền kia lại là vợ của thằng ấy?”. Bà Chiên lúng túng. “Tìm được thằng ấy là ra mọi chuyện”. Câu nói bâng quơ của bà Thìn làm bà thấy lo âu. Cả đêm qua bà đã ngủ ở trong căn nhà đó. Cả chiều qua, cả đêm qua bà đã rất vui vẻ với vợ con của thằng ấy? Trời đất như quay cuồng. Sao ở đời lại có những éo le đến vậy? Cô gái kia sao lại dây vào mối duyên phận oan nghiệt thế? Bà Chiên bỗng không biết phải làm gì lúc này. Quay vào nhà và tiếp tục vui cùng đứa con của thằng ấy? Hay bỏ đi như trốn chạy? Không được. Bà vào đây là để tìm cách lôi ra ánh sáng kẻ thủ ác đích thực chứ đâu phải vào đây để rồi bỏ đi? Một loạt những băn khoăn làm bà rối bời. Cô gái này tốt và ngoan quá.
– Chồng cháu tên là gì?
– Dạ. Ảnh tên Lý. Nguyễn Chung Lý mà cô. Nhưng sao cô lại hỏi vậy?
– Cô hỏi để biết thôi. Mà này…
– Dạ.
– Chồng cháu người ngoài bắc à?
– Dạ. Ảnh người ngoài bắc.
– Có phải làng Me không?
– Dạ. Nhưng sao cô biết?
– À không. Cô tình cờ hỏi hú họa vậy thôi. Ngoài bắc người ta hay đặt tên làng đại loại như Me như Mận. Con nhỏ đâu rồi cháu?
– Cháu cho nó sang bên hàng xóm. Cô chưa khỏe hẳn, nó quấy chơi lại làm cô mệt thêm. Vả lại, cô còn đi đâu đó thăm làng chứ.
– Bao giờ chồng cháu về nhà?
– Cháu không rõ.
– Liệu chồng cháu hôm nay có về không?
–  Ảnh nói ảnh đi xong công việc thì về. Mà sao cô lại muốn hỏi chồng cháu.
– Là cô hỏi thăm thế thôi.
– Cô ơi. Cháu cứ thấy lạ là không hiểu sao chúng cháu lấy nhau mà chồng cháu không cho cháu hay gì về gia đình nhà ảnh cả. Cũng chẳng thấy có ai từ ngoài bắc hỏi han cháu. Làm dâu như cháu nghĩ tủi thấy mồ cô ha.
Bà Chiên im lặng. Cô gái cũng im lặng. Mỗi người theo đuổi một suy nghĩ. Vậy là mình đã tìm đúng nơi đúng chỗ. “Thằng Lý, thằng con riêng của chồng bà Thìn? Đúng là nó rồi”. Ở làng Me ai mà không biết bà Thìn. Một người đàn bà chạc tuổi bà Chiên nhưng luống tuổi mới xây dựng gia đình. Chồng của bà Thìn nghe đâu người mãi tận Lạng Sơn kia. Ông ấy góa vợ. Không hiểu do ai manh mối mà về tận làng Me hỏi lấy bà Thìn làm vợ. Lấy bà Thìn rồi ông ấy ở luôn lại làng cùng với thằng Lý con riêng của mình. Thằng Lý đâu như hơn tuổi thằng Lợi lẫn cả con Lanh. Tính khí nó lì lợm lại chẳng chơi thân với đứa trẻ nào. Chắc là nó ở nơi khác tới nên ít bạn bè. Ít chơi bời với trẻ con trong làng.
Từ ngày thằng Lý con riêng của bà Thìn bỏ đi đâu biệt tăm, người ta thấy ngôi nhà của vợ chồng bà Thìn kín đáo hẳn. Ông chồng của bà Thìn là người Sán Dìu, lại về quê vợ ở rể nên cũng chẳng mấy giao du nhưng từ sau hôm thằng Lý bỏ nhà đi ông ấy chẳng biết làm gì mà cả ngày ở sau vườn đào đào bới bới. Có người đã thấy ông ấy hì hụi đào một chiếc hố dài dài, đã đùa. “Ông tìm vàng hay đào hố chôn mình đấy?”. Thằng Lý bỏ đi, đâu như cũng trùng với dịp ông Thanh bị bắt đi? Trẻ con lạ làng, lạ bạn, lại chắc không ở được với dì ghẻ nên bỏ về quê trên Lạng Sơn ở với họ hàng? Gì thì giọt máu đào hơn ao nước lã mà. Con cháu nhà người ta người ta cưu mang. Mong gì ở thứ dì ghẻ, lại là thứ dì ghẻ không đẻ đái sinh con. Đàn bà không có con khác nào cái giỏ không có hom.  Có gì đưa vào tuột ra hết. Cũng có lẽ vì vậy nên từ khi thằng Lý bỏ đi vợ chồng bà Thìn đâm lánh mọi người. Họ mặc cảm chuyện riêng tư chuyện gia đình ấy mà.
Mấy tháng lại đây tự dưng bà Thìn hay tình cờ đảo qua ngõ nhà bà Chiên. Ánh mắt bà Thìn nhìn rất nhanh vào nhà, vẻ mặt lấm lét như người mắc lỗi. Thực ra tuy cùng làng nhưng hai bà ít quan hệ. Thời trẻ bà Thìn đi công nhân lâm trường mãi trên Sơn Động. Đi công nhân lâm trường mãi nên muộn chồng? Chắc thế nên khi bỏ lâm trường về lại làng bà Thìn không quan hệ chơi bời với ai cho dù bà ấy cũng cùng tuổi với bà Chiên. Thực ra bà Thìn về làng và lấy chồng chưa được bao lâu thì xẩy ra “chuyện ông Thanh”. Chuyện xẩy ra ấy cả làng Me đều xa lánh nhà bà Chiên chứ đâu có mỗi bà Thìn xa lánh. Nghĩ vậy nên bà Chiên cũng bỏ qua. Người ta xa lánh cũng có lý đúng của người ta. Mình thích hay không cũng không được.
Bà Thìn như tình cờ đi ngang qua và dừng lại trước ngõ, bà nhìn trước ngó sau chừng như không thấy ai thì nói bâng quơ. Giọng nói gấp gáp và thái độ thì sợ sệt. Câu nói vọng vào nhà đủ cho bà Chiên nghe được. “Tìm được thằng ấy là ra mọi chuyện”. Ban đầu nghe câu nói vọng vào bà Chiên thấy dửng dửng. Chẳng biết bà Thìn nói thằng nào? Chẳng biết bà Thìn nói ám chỉ cái gì? Nhà mình đã lắm chuyện lắm rồi nghĩ làm gì câu nói bâng quơ của người qua đường. Nhưng bà Thìn đâu chỉ tình cờ ngang qua một lần, bà ấy đâu có nói bâng quơ một lần. Chết nỗi bà Chiên đâu có để tâm. Người làng hay nói điều dị nghị ấy mà.
“Kẻ giết người là một thằng còn trẻ. Nó bỏ làng Me trốn đi rồi”. Bà Chiên giật bắn mình. Ba gian nhà vẫn vắng lặng. Ông trưởng thôn và thằng Lợi chưa thấy đâu. Trên ban thờ hình như vừa vọng xuống tiếng nói ban nãy. Bà Chiên cuống cuồng chắp tay khấn vái. “Con nam mô a di đà phật, con lạy cha. Nếu đúng như cha vừa chỉ con xin cha dẫn đường cho con đi tìm kẻ đã làm gia đình con tan nát. Con xin cha nói cho con biết kẻ rắc họa vào nhà con đang ở đâu? Con xin cha thương vợ chồng con, xin cha thương hai cháu”.
Không gian vắng lặng như chưa hề có chuyện gì xẩy ra. Khói hương đã cháy gần hết. Từng đụn khói không bay tỏa hết mà quền quện như không muốn bỏ đi. Mùi hương trầm thơm ngát nồng nồng làm ba gian nhà ấm cúng hẳn. Bà Chiên vẫn ngơ ngác như chưa tỉnh lại. Ánh mắt bà vẫn nhìn lên tấm chân dung liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến như cố van nài. Không có âm thanh nào đáp lại. Chỉ chi thoảng dội từ trên nóc nhà xuống tiếng “tách” của viên ngói nứt. Chỉ thi thoảng dội từ trên nóc nhà xuống tiếng “bốp” của gióng tre nổ. Bấy giờ bà Chiên mới mang câu nói vọng vào nhà của bà Thìn để đối chứng. Vậy là linh tính mách bảo hay chính vong linh của ông cụ mách bảo trùng với câu nói của bà Thìn. Bà ấy biết chuyện nhưng giấu suốt. Tại sao bà Thìn lại đi giấu chuyện kia chứ? hay là bà ấy bị ông chồng người dân tộc Sán Dìu của mình bỏ bùa mê thuốc lú bây giờ mới tỉnh? Hay là bà ấy vì sợ quá mà mắc bệnh cấm khẩu?
– Cô đang nghĩ gì vậy ha?
– Không. Cô xin phép đi quanh thôn một lát.
– Trưa cô nhớ về ăn cơm, cô ha.
Cô gái nói với theo. Vẫn cái giọng ngọt thừ ấy nhưng bà Chiên thấy ngài ngại. Bà cảm thấy sờ sợ.
Nhẩn nha từ đầu làng tới cuối thôn cũng vừa đẫy một buổi sáng. Thảo nào mà người ta lại gọi thôn này là “Thôn Đoàn Kết”. Một thôn mới lập bao gồm cả người Kinh lẫn người dân tộc, Ba Na có, Ê Đê có. Những căn nhà xinh xinh nhìn thích mắt, lấp ló giữa những vườn cà phê. Những căn nhà nhìn lạ lẫm với những ánh mắt ngồi trên sàn ngó xuống nhìn người đàn bà xa lạ đang đi dọc con đường màu đỏ mịn. Sáng nay nắng lên sớm. Ánh nắng soi cao thêm gốc cây cẩm lai đứng chơ vơ. “Con nên cẩn thận. Thằng ấy nó dễ manh động”. Bà Chiên vừa đi vừa chắp mối lại các hiện tượng cùng những câu nói.
Đầu tiên là bà Thìn. Bà ấy chắc biết chuyện ngay từ đầu nhưng sao lại giấu suốt? Giấu những gần mười năm còn gì? Đã giấu kỹ vậy sao tự dưng bà ấy lại nói ra? Cũng có thể lương tâm bà Thìn day dứt. Thôi đúng rồi. Làng Me còn lan truyền, còn dặn lại nhau đời này qua đời khác. “Những ai đã ăn, đã uống nước giếng Bà Cô mà không trung thực sẽ bị đầy đọa mà không sống nổi”. Lời nguyền mắc họa khi đem nước giếng cô làm hàng hóa cùng với lời thề độc về sự không trung thực đã giúp người làng Me bao đời nay sống với nhau tình thân như ruột thịt. Làng Me tuy bé nhỏ nhưng những người làng lớn bên cạnh có bao giờ bắt nạt được đâu. Tuy bé nhỏ nhưng được cái biết bảo ban nhau, biết giúp đỡ nhau. Thảo nào gia cảnh bên nhà bà Thìn mấy năm nay như rối loạn. Nghe đâu thằng con trai lớn của ông chồng Sán Dìu của bà Thìn làm ăn chẳng biết ăn chia thế nào để bạn hàng đâm chết. Rồi thằng Lý bỏ đi. Rồi nhà ấy cửa giả luôn im ỉm như buôn hàng cấm. Bà Thìn nói ra cũng có nghĩa như tháo được ách, được cùm. Cởi được lòng cho nhẹ vợi. Cũng có khi bà Thìn ban đầu không biết chuyện. Nếu biết chuyện chắc không giấu được. Đàn bà dù kín đáo đến đâu cũng chỉ “sâu sắc như cơi đựng trầu”. Hay là bà ấy bị ông chồng người Sán Dìu khống chế. Có thể lắm. Bà ấy chỉ như tình cờ ngang qua nhà mình thôi mà. Bà ấy chỉ nói bâng quơ thôi mà.
Rồi ông cụ nhà mình hiện về ứng báo đúng ngày giỗ nữa chứ. Vong linh ông cụ thiêng nên biết chọn dịp nào thích hợp để ứng báo. Vậy mà mình đã trót có lời trách ông cụ chần chừ mãi. Bà Chiên suỵt sùi ngân ngấn nước mắt. Vong linh dù có thiêng đến đâu cũng chỉ là cái vong vô hình vô ảnh. Trách hờn cái vô hình vô ảnh khác nào mình đi trách linh tinh. Vong linh có thể nhìn thấy được chuyện trần gian nhưng vong linh không làm gì để ngăn cản được. Ông cụ là vong linh nên ông cụ kín kẽ và cẩn thận. Mỗi lời nói của vong linh là lời nói độc đùa làm sao được. Bà Chiên chắp tay như khấn vái. Tự đáy lòng bà biết mình có lỗi với vong linh cha chồng. Bà Chiên nhớ lại chuyện ông cụ ứng báo cho bà và thằng Lợi đi đón về làng. Chỉ riêng chuyện chiếc mũ tai bèo thôi cũng đủ cho bà mối khi nhớ lại rùng mình thành tâm. Ông cụ đã ứng báo là không trật được.
Giời đất run rủi thế nào để mình đến đúng cửa nhà thằng Lý ở thì say nắng. Say nắng rồi để cô gái xinh ngoan là vợ của “thằng ấy” lại rước mình vào nhà nghĩ dưỡng. Run rủi như định mệnh vậy. Lại còn đứa con gái lên hai nữa. Nó mới lên hai tuổi, tức là còn quá nhỏ để ăn nói lượn lờ theo kiểu người lớn. Nó khoanh tay “Con chào bà ngoại bắc chắc là có lý do gì chứ?”. bà Chiên phân vân, con bé chào như vậy cũng có nghĩa là trong đầu óc non nớt của nó không có hai từ “bà nội”. Có thể cha nó, tức thằng Lý ấy không bao giờ nói chuyện với vợ với con về người mẹ của mình. Thằng Lý không công nhận bà Thìn là mẹ đã đi một nhẽ nhưng nó không nhắc hai từ “bà nội” với con chứng tỏ thằng Lý còn đang giấu vợ giấu con chuyện gia đình nhà mình  ở ngoài bắc.
Thằng Lý muốn giấu tiệt chuyện nó đã làm, tức là nó đã biết ngần bấy năm tội lỗi do chính nó gây ra đã có người chịu thay. Tội lỗi của nó qua ngần bấy năm chắc đã chôn vào quên lãng. Mấy ai còn cất công tìm lại chuyện cũ mà chuyện cũ lại không hề có một căn cứ gì để lần ra. Chẳng có một căn cứ gì để kết luận nó là thằng gây án. Bà Chiên bất giác lo âu. Ngần bấy năm thằng Lý giấu kín tung tích. Cũng ngần bấy năm chuyện tày trời đã khép lại. Bây giờ mình đường đột đến và gặp nó. Gặp nó rồi nói với nó rằng: “Mày là thằng tội phạm” thì có khác nào câu nói hàm hồ. Không khéo nó nổi sung lên thì hỏng thêm nhiều việc. Mình chờ nó về để gặp nó và chỉ với chứng cứ là câu nói bâng quơ của bà Thìn, bà mẹ ghẻ của nó, nó sẽ cười và trả lời, chắc do bà dì ghẻ cay nghiệt với con chồng nên đặt điều vu khống. Hơn nữa câu nói bâng quơ của bà Thìn chẳng có gì là chứng cớ. Bảo nó tự giác nhận tội ư? Họa là nói chuyện bảo nó lên trời.
Đấy ông Thanh nhà mình đấy. Ông ấy ra tòa một mực kêu oan mà có ai thèm nghe. Ông ấy ra tòa còn có cả ông luật sư cũng nói có dấu hiệu oan sai mà tòa có thấu. Bà Chiên bùi ngùi nhớ lại. Hôm tòa xử, ông Thanh với đầy đủ chứng cứ không thể chối cãi. Nào là có mỗi mình ông ấy có mặt tại hiện trường. Nào là trên tay ông ấy còn con dao dính máu. Nào là khắp người cô Thoan toàn vết tay vết chân của ông Thanh. Như thế là tội mười mươi rồi còn gì. Khổ thân ông Thanh, cả đời chưa bước chân ra khỏi làng Me thì nói gì không bị người ta bắt nạt. Đàn ông đàn ang gì mà lành hiền quá. Ra tòa, tòa đổ diệt cho cũng chấp nhận. Sau lần này, nếu như được thế, không hiểu ông ấy có sáng lên tí nào không.
Ngay mình nữa. Trách chồng thì hãy trách mình trước. Ông Thanh bị dồn đẩy đến mu muội đã đành, đằng này mình đường đường chính chính mà cũng có khá hơn đâu. Mỗi năm một lá đơn kêu oan cho chồng. Vị chi mười năm đủ mười lá đơn mà đơn kêu có tới nơi đâu. Cũng tại mình là người nhà quê. Người nhà quê biết chỗ nào để gửi đơn nên cứ qua huyện qua tỉnh. Huyện với tỉnh hứa lần một rồi hứa lần mười. Toàn là hứa không thôi. Thời buổi này có nhiều tiền thì tội to thành tội nhỏ. Thời buổi này có ít tiền thì tội nhỏ thành tội to. Không tiền có mà đi kiện củ khoai. Không tiền thì có mà đợi đến mùa quýt. Không tiền có mà chờ vào mắt. Thấy mình tất tả không xong có người đã nói vậy. Nào là còn “Nhất thân nhì quen nữa”. Tội nặng nhẹ cũng tùy vào vị thân sơ. Mình là người nhà quê chẳng quen biết, thiếu học hành, tiền nong ăn đong từng bữa, người ta cứ dựa vào chỗ yếu của mình để chèn ép. Nhưng ơn giời, giờ còn có lúc có mắt. Giời thương vợ chồng mình nên giời còn cho ông cụ nhà mình cái anh linh. Ông cụ anh linh là do giời thương cảm. Nhưng đấy mới là vong linh ông cụ thay giời báo ứng, dễ gì giời với đất hòa hợp được với nhau?
Cảm thấy chuyện đang đi vào ngõ cụt, bà Chiên mặt tần ngần, mắt ngơ ngác đứng giữa nắng nhìn cây nhìn lá. Màn xanh kín mít như phủ kín mọi suy tính của bà. Hôm ở giữa tòa, ông Thanh đã nói đến là ông ấy hình như nhìn thấy có bóng người chạy vụt từ trong nhà cô Thoan ra trước khi ông ấy bước vào mà có ai để ý. Người ta đã khép cho ông Thanh nhà mình toàn những tội tầy đình. Nào là ý định thông dâm không thành sinh ý đồ cưỡng dâm. Nào là cưỡng dâm không được sinh giết người diệt khẩu. Ông chánh tòa hôm ấy tuyên đọc mà đến bây giờ bà Chiên còn hãi hùng, còn kinh sợ. Giọng ông chánh tòa nghe như sấm dậy khiến bà Chiên suy sụp, bà đổ gục người trong sự thất kinh. Ôi chao. Giọng ông chánh tòa đanh sắc và lạnh lùng, ông ấy tuyên án một cách dửng dửng trong tiếng thét tuyệt vọng của mình, trong tiếng nấc nghẹn oan ức của ông Thanh. “Ông ấy cũng đáng lắm. Ông chánh tòa ấy”. Bà Chiên bật cười xong vội tắt ngay nụ cười vừa hé. Mình nói như vậy là không được, nói vậy là nói ác cho người ta. Chuyện ông ấy bị tai biến giờ sinh lú lẫn là chuyện sức khỏe con người. Con người ta ai nắm tay được từ  đêm đến sáng. Sông Thương kia kìa, sông ấy còn có khúc đục khúc trong đấy thôi.
– Cô đã tìm được nhà nào kêu bán nương cà phê chưa?
Giọng con gái ngọt thừ làm bà Chiên giật bắn cả mình. Cô gái trẻ, vợ thằng Lý đang đứng ngay trước mặt.
– Cháu chỉ lo cô không quay lại nhà cháu nữa?
– À.
Bà Chiên ấp úng. Quả tình lúc này bà tự nhiên bỗng thấy ghê ghê cô gái. Nụ cười hiền và giọng nói ngọt thừ làm bà tự dưng thấy sờ sợ, muốn nhụt chí.
– Cháu đợi cô mãi ha.
Nét mặt cô gái tỏ vẻ mừng rỡ nhưng giọng nói chuyển run rẩy.
– Chồng cháu đang giấu cháu điều gì. Cô ơi, không lẽ cô biết mà cô cũng giấu cháu?
MƯỜI
Đêm trên cao nguyên.
Không khí chuyển mát lạnh giúp thân thể nhớp bức ban ngày nhanh chóng trở lại khô thoáng. Tinh thần cũng trở nên dễ chịu. Đứa con gái nhỏ lên hai đã ngủ say ấm trong lòng bà Chiên. Nghĩ cũng thấy tội, con nhỏ này chắc từ lúc sinh ra đến giờ hình như đã thiếu bàn tay chăm sóc của bà nội, bà ngoại hay sao mà mới chập tối đã bám diết đòi mình bế ngủ? Được nằm trong lòng bà Chiên, lại được bà vỗ vỗ lưng nên con bé vừa đặt là ngủ ngay. Bà Chiên ngồi dựa lưng vào thành giường, đầu hơi cúi xuống ngắm nghía mặt con nhỏ. Con nhỏ này trông kháu đáo để. Cái miệng xinh xinh mở he hé làm toát lên mùi thơm thơm sữa mẹ. Cái mũi tèn tẹt trông ngộ nghĩnh trên gương mặt bụ bẫm.
Đã lâu lắm rồi bà Chiên mới có lại cảm giác được ôm ấp một đứa trẻ trong vòng tay. Những hơn hai mươi năm rồi còn gì. Hơn hai mươi năm bà không phải nuôi con nhỏ. Và còn suốt mười năm qua nữa, mười năm qua bà mải lo toan gồng gánh việc nhà thay ông chồng đi tù nên chẳng có khi nào được rảnh để bế đứa trẻ nào đấy. Ngắm nhìn con nhỏ ngủ yên lành trong lòng làm bà Chiên thấy bẽ bàng. Ước muốn được bế những đứa cháu của mình lại ập đến. Đợt này nếu việc được xong xuôi thế nào cũng phải giục hai đứa nhà mình lập gia thất.
– Không hiểu ở ngoài bắc, chồng cháu, ảnh ấy đã làm chuyện gì?
Cô gái ngồi tựa vai bên cạnh vai bà Chiên rụt rè mở đầu. Chiều tối nay cơm nước xong sớm. Ba bà con cô cháu tính lên giường ngồi nói chuyện. Trời đêm trên cao nguyên thật tĩnh lặng. Nhà không có ti vi, cũng không đài báo. Bóng đèn điện lại mập mờ, tỏa thứ ánh sáng hiu hắt. Không tính lên giường ngồi nói dăm ba thứ chuyện lai rai, đợi cơn buồn ngủ tới thì còn biết làm gì. Thực tình bà Chiên đã dịu đi đôi chút. Giọng nói ngọt thừ cùng cử chỉ chân thật của cô gái, vợ thằng Lý, đã giúp bà nhanh chóng xua đi ác cảm. “Cô gái này chẳng qua cũng là cái số không may. Không may nên không biết mình đã mắc vào duyên phận oan nghiệt”. Tự trong lòng bà, bà cũng cảm thấy thương thay cho cô gái. “Cô ấy chưa biết chuyện gì. Nếu biết chuyện không hiểu cô gái non nớt này có chịu đựng nổi không?”. Bà Chiên mặt đần ra thương cảm.
– Không hiểu ảnh còn đang giấu cháu điều gì mà cháu thấy lạ lắm cô ha?
Vẫn là cô gái lên tiếng. Bà Chiên lòng còn ái ngại. Biết có nên nói chuyện thật với cô gái này không nhỉ? Mục đích của mình vào đây là để dò hỏi tìm ra kẻ thủ ác đích thực kia mà? Nhưng nói ra cho cô gái này nghe không hiểu cô ấy đón nhận thế nào? Sẽ nổi đóa lên và gào thét đuổi bà ra khỏi nhà chỉ vì cái tội mồm miệng ác khẩu? Sẽ ôm mặt khóc tức tưởi vì đã bị lừa dối? Nhưng liệu mình nói ra cô ấy có tin không? Không tin là cái chắc. Ai lại vớ vẩn đi tin vào lời nói của một cái bà lạ hoắc chẳng biết từ đâu tới? Lòng dạ đàn bà vốn dĩ hẹp hòi, bình thường thì nghi ngờ, bình thường thì nói không hợp. “Nhưng cứ thử động vào chồng bà mà xem, nhất là bét nhé”. Cũng như mình đấy thôi. Có khi nào mình chịu buông đâu. Mười năm qua mình hễ nghe thấy ai nói gì gì về ông Thanh là mình đâu chịu để yên. Không chửi giả được thì đành nín nhịn nhưng bụng thấy căm cái mặt con người nào nói tệ về ông Thanh. Nhưng không nói thật cho cô ấy biết thì mình cũng chẳng biết làm cách nào để thằng Lý nhận tội. Thằng ấy không tự giác nhận tội thì công mình khác nào công cốc. Tất cả trông chờ vào cô gái này. May ra chỉ có cô ấy lựa lời thằng Lý mới nghe ra?
– Chồng cháu luôn có hành động lạ lùng lắm cô ha.
– À à.
– Chúng cháu mới cưới nhau chỉ được có ba năm mà đêm nào nằm bên chồng cháu cứ ngỡ như nằm bên ác mộng.
– Con chó con của bà, ngủ trông đáng yêu quá.
Bà Chiên nói lảng nhưng thực bụng đang rất nóng lòng muốn nghe cô gái nói tiếp. Bà cúi xuống ghé môi thơm vào má con nhỏ.
– Mỗi khi ảnh nằm bên cháu là ảnh lại có những cử chỉ kỳ quặc.
– Kỳ quặc sao?
– Ảnh đang nằm bỗng chồm lên nhìn cháu chằm chằm. Mắt sợ lắm cô ha. Mắt ảnh nhìn cháu cứ như định ăn thịt cháu vậy.
– Vợ chồng trẻ nào mà chẳng yêu nhau quá. Chắc là yêu quá nên mới mạnh mẽ thế. Tại cháu cũng xinh nữa.
– Không đâu cô ơi. Ảnh luôn miệng nói là nhà có ma.
– Có ma. Con trai gì mà nhát thế. Chú… chú ấy nhà cô cũng… nhát ma lắm.
– Con trai thì nhát ma ha? Cháu nghĩ khác.
– Nghĩ sao?
– Ảnh đang ngủ bật ngồi dậy kêu cháu đóng chặt cửa lại. Cháu đã đóng cửa chặt lâu rồi mà. Cứ đêm xuống vợ chồng đang ngủ là ảnh tỉnh dậy mắt trợn tròn nhớn nhác miệng nói lảm nhảm. Ảnh nói ảnh toàn gặp ma thôi. Đêm thì ảnh nói có người đàn bà đầu tóc ướt đẫm nước như vừa mới gội, đứng cuối giường nhìn chằm chằm vào mặt ảnh chắp tay van xin. Có đêm ảnh hốt hoảng ngồi dậy chỉ tay nói có người đàn ông mặt mũi mình mẩy đầy máu. Người ấy xuất hiện chập chờn đứng từ ngoài xa mà chửi rủa ảnh. Có đêm ảnh lại nói người đàn bà tóc ướt mọi đêm lại đến, người ấy thôi chắp tay van xin ảnh mà thẽ thọt ngồi xuống cạnh giường, người đàn bà ấy đưa tay dắt tay ảnh kéo dậy rủ đi chơi.
– Chắc là chồng cháu mắc bệnh hoang tâm?
– Hoang tâm là bệnh chi cô ha?
– Là bệnh luôn ảo giác tự phác ra những chuyện ma mị ấy.
– Mà ảnh đi chơi đêm thật cô ha.
– Đang ngủ bật dậy đi chơi ngoài đêm một mình?
– Dạ. Ảnh bật dậy tự ra mở cửa rồi đi ra ngoài trời đêm cứ như đi chơi với ai đấy. Cháu sợ ảnh mộng du đi đứng không khéo vấp ngã nên ra gọi về thì ảnh lại vùng chạy. Chạy vấp thì ngồi thụp xuống ôm mặt khóc tu tu.
– Cũng lạ lùng thật.
– Gần đây mỗi tối trước khi đi ngủ, ảnh kêu cháu trói tay ảnh lại. Hỏi sao vậy thì ảnh trả lời “trói đi không thì chết đấy”. Cô bảo có sợ không?
– Cháu có thấy chồng cháu nói chuyện gì không? Chuyện trước kia ấy?
– Không cô ha. Nhưng dạo này ảnh hay gọi điện thoại vào nửa đêm lắm.
– Gọi cho ai?
– Cháu không rõ, vì ảnh dậy gọi điện thoại là ra khỏi nhà. Ảnh đi mãi tận cuối vườn cà phê mới gọi điện thoại. Gọi xong là ảnh tháo sim vứt đi luôn. Để cháu lấy cho cô xem mấy cái sim. Ảnh vứt đi nhưng không biết cháu đã dậy theo ra, cháu núp cạnh chỗ ảnh đứng gọi điện thoại. Cháu biết hết nhưng lại không nghe rõ ảnh nói gì hết. Lại gần sợ ảnh làm bậy. Hôm sau khi ảnh đi đâu đó cháu mới ra chỗ đêm qua nhặt cái sim ảnh vứt cất đi. Phải mười mấy cái sim chứ bộ. Toàn sim rác thôi cô ha.

Bà Chiên không còn nghi ngờ gì nữa. Đích thị thằng Lý là hung thủ thật sự rồi. Câu nói của bà Thìn bữa nào “Tìm được thằng ấy là ra mọi chuyện” lại thêm cho bà sự củng cố của những gì vừa chắp mối. Vong linh ông cụ nhà mình cũng chỉ khá tường tận. Chỉ có điều làm cách nào cho ra chuyện bây giờ?
– Có phải ngày còn ở ngoài ấy, ở ngoài bắc đó cô, chồng cháu đã làm chuyện gì ghê gớm lắm phải không cô? Mà sao khi vô trong này, nhà ảnh chỉ có mỗi ảnh thôi?
– Cô không biết.
– Thế cháu với chồng cháu thế nào mà quen nhau?
– Dạ. Chuyện kỳ cục lắm cô. Ảnh làm thuê cho xưởng sơ chế cà phê của ông Năm Hùng cạnh nhà cháu, trông ảnh mặt mũi cũng đường được. Lại chỉ có mỗi mình. Cháu thấy thương ảnh thì nhận lời thương ảnh thôi.
– Ừ. Đàn bà con gái chúng mình hay thương người.
– Có gì sai hả cô?
– Thương người thì tốt chứ đâu có sai.
– Những ngày đầu ảnh cũng chăm chỉ và thương cháu lắm.
– Cháu vừa xinh lại vừa ngoan. Cô mà có con trai cô gả cho cháu ngay.
– Dạ. Con cám ơn cô. Nhưng sao gần đây ảnh lại tỏ ra lạ lùng. Ảnh nhìn cháu như nhìn người xa lạ. Ngồi trong nhà mình mà mắt ảnh cứ lấm la lấm lét. Chốc chốc lại giật mình rồi nhìn trộm cháu nữa kia.
– Thế chồng cháu nói đi khi nào về?
– Ảnh đâu có nói khi nào về. Cô ơi, cô có cách nào giúp cháu không?
Bà Chiên im lặng. Tiếng gió thổi ngoài vườn cà phê vọng vào u oa như tiếng con trẻ đang khóc. Âm thanh rờn rợn khiến cô gái nép chặt vào người bà Chiên. Hình như thằng Lý cũng linh tính biết chuyện mình đi tìm nó nên nó trốn đi? Thằng Lý lần này lại trốn đi nữa thì mình biết tìm nó ở đâu? Nó trốn biệt tăm đã gần mười năm. Mười năm đủ để người ta quên rằng còn có nó tồn tại. Mười năm đủ để mọi chuyện chìm vào quên lãng. Mười năm cũng là thời gian chẳng có ai đi lật lại chuyện cũ để tìm ra sự thật. Và cũng có nghĩa là ông Thanh đành an phận với những ngày còn lại của đời mình ở trong trại. Hy vọng đã tắt rồi ư? Không lẽ ông giời cũng chỉ thương vợ chồng mình đến đường đây thì cạn? Còn cô gái này nữa. Liệu cô ấy có hiểu vợ chồng mình đã chịu oan nhục như thế nào không? Liệu cô ấy có dám giúp mình không?
– Cô ơi. Có phải chồng cháu đã làm gì nên chuyện không cô?
– Cô không biết.
– Có phải là chuyện này không cô?
– Cháu nói chuyện gì?
– Hồi sáng qua, trước lúc cô tới, cháu có đem giặt cái vỏ gối của chồng cháu. Ảnh chẳng chịu cho cháu đem giặt. Cháu giặt vụng đấy.
– Hả.
– Cháu thấy trong vỏ gối có mấy tờ báo cũ. Toàn báo Pháp luật thôi cô ha.
– Cháu có xem không?
– Mới đầu cháu nghĩ chồng cháu hay kêu đau đầu. Nghĩ ảnh để báo cũ trong vỏ gối để thấm mồ hôi cho đỡ đau đầu. Nhưng lạ lắm cô ha.
– Lạ sao?
– Toàn là báo nói về vụ án. À phải rồi. Cháu nghĩ ra rồi. Toàn là báo nói về vụ án giết người ở làng… làng Me thôi ha.
Bà Chiên bất ngờ. Nhưng bà vẫn bình tĩnh được. Giả như không quan tâm đến chuyện vụ án. Bà Chiên lấy tay vỗ vỗ lưng con nhỏ.
– Mà vụ án ấy người ta xử xong rồi. Báo còn đăng cả ảnh tên giết người nữa. Không hiểu chồng cháu giữ mấy tờ báo cũ ấy để làm gì? Cô có cách nào giúp cháu hiểu được không?
– Cháu hỏi cô có cách nào giúp cháu được không ư?
– Dạ.
– Thôi cô cháu mình cùng ngủ đi. Cũng mệt rồi. Sáng mai có khi cô mới nghĩ ra cách.
– Cô hứa đấy ha.
Mình có nên nói thật ngay bây giờ với cô gái này không? Hay là sáng mai hẫng nói? Nói thật với cô ấy may ra mình còn có chút hy vọng cuối cùng? Cô gái này thật nhậy cảm và rộng lượng. Nhìn những gì cô ấy đã cư xử với mình là đủ biết. Cô gái này có đủ nghị lực của tuổi trẻ để dám đương đầu với thử thách. Cứ trông vào thời gian vừa qua của cô ấy là biết. Nói ra để cô ấy lựa lời khuyên nhủ chồng. Thằng Lý chắc quá dằn vặt mà sinh ác mộng. Hẳn tâm can nó đang day dứt, đang lên án chính mình. Nó đã biết nghĩ chuyện năm xưa nó gây nên tội. Thằng Lý biết cuộc chạy trốn của nó đã đến nước cùng. Nhưng tự nó nó không thể tự vượt qua được. Có thể nó đang cần một ai nó giúp nó? Nói ra với cô gái này đi.
Không. Như thế là mình sẽ làm cô gái ngoan hiền này tan nát cõi lòng. Nhưng chỉ có mỗi cô gái này là mới có thể làm được cái điều mười năm nay mình không làm nổi. Nói cho cô ấy biết, có thể nói ra cô ấy sẽ đau khổ. Nhưng đau một lần để rồi cô ấy làm lại hạnh phúc của cái gia đình nhỏ của cô ấy. Đau một lần mới có được những ngày yên ấm.
Sáng sớm, bà Chiên vội vã rời khỏi giường. Hai mẹ con cô gái vẫn còn ngủ say. “Mình cũng là đàn bà con gái. Mình cũng là vợ, mình cũng là mẹ. Mình đâu có muốn người khác cũng lâm vào cảnh ngộ như mình. Mình đâu có muốn người khác cũng phải gánh chịu thiệt thòi, phải gánh chịu điều tiếng. Rồi đây khi mình, khi gia đình mình yên ổn trở lại thì cô gái này. Chính cô gái này sẽ phải sống trong sự dầy vò, sống những năm tháng trong cảnh chia lìa. Phận làm đàn bà mấy ai được sung sướng”.
Bà Chiên đã rẽ vào nương cà phê, lối đi tắt sang con đường liên xã để ra ngoài thị trấn Ea Kar. Đêm qua khi cả hai cùng ngả người nằm xuống là cô gái ngủ say tít. Được nằm trong vòng tay ôm giữ của bà nên cô gái thấy như có chỗ che chở. Đêm qua, khi cô gái đã ngủ say bà Chiên vẫn không sao ngủ được. Bà không muốn ngủ.
Mạnh mẽ lên và dũng cảm chấp nhận nhé cô gái ngoan hiền.
“Chỉ còn mỗi cách đó thôi, con gái ạ!”.
Bốn tháng sau.
Tiếng chân cào gài gại của con bọ ngựa làm ông Thanh thêm trằn trọc. Không hiểu đêm nay làm sao mà ông khó chợp mắt. Cũng có thể tiết trời đã chuyển sang thu, một chút hanh hao, một chút bức bối, làm ông khó ngủ. Một mùa thu nữa đang tới. Nghĩ tới mùa thu là trong cổ họng ông Thanh lại nghẹn ngào dâng cục. Ông không ngờ mùa thu đối với mình lại là một mùa của nghiệt ngã. Mùa thu của mười năm trước gia đình ông bất ngờ bị gặp tai ương. Mùa thu của mười năm trước ông bất ngờ bị lâm vào cảnh oan khốc. Tiếng chân gài gại vào vỏ lon bia của con bọ ngựa làm ông giật mình thổn thức. Mới chốc mà đã mười năm. Mới chốc mà bay tan mọi mơ ước. Thời gian thật quá tàn khốc, nó có thể làm con người ta già đi. Và nó cũng có thể làm con người ta vĩnh viễn mất đi mọi thứ.
“Mình ơi!”.
Khẽ khàng ngồi dậy và đưa tay gạt những giọt nước mắt vừa tứa ra nơi khóe mắt. Hình như ông vừa nghe thấy tiếng vợ mình gọi. Tiếng của bà Chiên không lẫn được. “Mình ơi!”. Tiếng gọi ấy đã mười năm nay ông không được nghe lại. Chắc là mình nhớ vợ quá nên sinh ra lầm tưởng thôi. Ông Thanh tự an ủi. Nỗi nhớ vợ làm ông thấy quặn trong bụng. Không hiểu giờ này bà ấy cũng thức như mình hay đã ngủ say. Mỗi lần bà ấy cùng thằng Lợi lên trại giam thăm ông là mỗi lần sau khi bà ấy về ông Thanh lại khóc. Ông đã làm vợ con khổ ải. Ông đã làm hại cuộc đời của vợ của con. Những lần bà ấy lên rồi bà ấy về, ông Thanh lại nghĩ quẩn. Hay là tìm cách gì chết đi?. “Mày mà nghĩ quẩn tìm cách chết đi thì vợ con mày lại khổ thêm đau khổ. Gắng quên đi để sống tới ngày ấy chứ”. Người bạn tù nằm bên cạnh ông, ông Dương ấy, quả là một người tinh tế. Dường như ông ấy đọc được hết mọi ý nghĩ trong đầu ông Thanh. Quả tình nếu không có ông Dương tinh tế nhận ra suy nghĩ của mình, rồi kịp thời can ngăn có lẽ mình đã sang thế giới bên kia rồi. Tự cười mắng mình vu vơ quẩn dại. Dại mãi không khôn được. Dại mãi đâm khổ vợ khổ con. Ông Thanh nhắm mặt lại cố xua đi ý nghĩ dại dột vừa xuất hiện trong đầu
Ông Thanh thẫn thờ, đang hiện hữu trước mắt ông những hình ảnh khó phai mờ. Ông đang trở lại tuổi thơ của mình. Chú bé Thanh lên bảy tuổi háo hức theo chân cha lên bờ đê sông Thương hóng gió. Mùa này sông Thương nước réo rắt. Dòng nước đỏ ngầu từ thượng nguồn đổ về ầm ầm đang chen lấn dòng nước trong xanh chảy lững lờ. Chỉ có một điều lạ là dòng nước màu đỏ trưa hôm nay lại chuyển dòng. Nó vốn chảy bên bờ hữu chợt chuyển hết sang bên bờ tả. Bên tả tức là bên hai cha con chú bé Thanh đang đứng. Tiếng nước vỗ oàm oạp kiên trì gặm nhấm thân đê. Gió thổi lồng lộng. Cha chú bé Thanh nhấc chiếc mũ tai bèo đang đội trên đầu xuống và chụp lên đầu chú bé Thanh. Vành mũ xòe rộng che rợp ánh mắt của chú. Trong vành mũ đang che rợp ấy chú bé Thanh không nhìn thấy gì cả.
– Mai bố đi chiến đấu à?
– Ừ. Con ở nhà ngoan nhé.
– Bố ơi!
– Gì nữa hả con?
– Thế bố đi chiến đấu bố có bị chết không?
– Không. Làm sao mà phải chết?
– Nhưng nếu mà bố chết bố đừng làm ma hiện về trêu con nhé.
– Không có ma. Mà nếu có ma thì ma chẳng thể trêu được người.
– Vì sao hả bố?
– Ma à? À là vì ma vô hình vô ảnh. Có ai nhìn thấy ma đâu mà thấy sợ.
– Sao mọi người cứ nói dọa ma?
– Ma không dọa được người. Chỉ có con người dọa con người thôi.
– Nhưng con sợ.
– Nếu dũng cảm thì không sợ. Dũng cảm thì chẳng ai dọa được mình.
– Lớn lên con cũng muốn dũng cảm như bố.
Hai cha con đã đi một đoạn đường đê khá dài. Nước vẫn vỗ oàm oạp vào thân đê như thách thức. Dòng nước ngầu đỏ đã lấn hết dòng nước trong xanh.
– Bố ơi.
– Gì con?
– Tại sao nước màu đỏ lại lấn hết nước trong hả bố?
– À là vì nước màu đỏ nhiều hơn và chảy nhiều hơn.
– Thế cái gì nhiều hơn đều có thể lấn cái ít hơn hả bố.
– Đúng. Nhiều hơn là mạnh hơn. Mạnh hơn nên có thể áp đặt ít hơn.
– Thế áp đặt là gì?
– À, áp đặt là dùng sức mạnh bắt kẻ yếu phải khuất phục. Ví dụ như bố đi chiến đấu ấy. Quân ta mạnh hơn đã khuất phục quân địch yếu hơn, bắt quân địch phải đầu hàng.
– Thế cứ hễ quân ta là mạnh còn quân địch là yếu hả bố?
– Con hỏi lôi thôi quá đấy. Đại loại như thế.
– Nhưng..
– Con nhớ nhé. Mạnh mẽ thì không sợ gì cả. Yếu đuối thì dễ bị bắt nạt.
Ông Thanh phì cười. Sao hồi đó mình trẻ con thế nhỉ? mà đâu có trẻ con. Cha mình đã nói đúng: Ai yếu hơn sẽ bị bắt nạt. Sao bây giờ mình mới nhận ra chân lý ấy nhỉ?
Hình ảnh năm xưa biến mất. Khắp trong buồng giam đang ồn ào những tiếng người ngủ ngáy. Ông bạn tù nằm bên cạnh, ông Dương ấy, cũng đang ngáy ồng ộc. Người khỏe là người ngủ ngáy to. Ai ngáy to là người ấy khỏe. Ngày bé chú bé Thanh đã được mẹ giải thích như vậy khi cái đêm mà cha chú ngủ ở nhà. Cha chú cũng ngáy ầm ầm. Tiếng ngáy làm chú khó ngủ nhưng khi được nghe mẹ giải thích như vậy thì chú bé Thanh cũng kêu ò ò trong cổ. Chú rất muốn được là người ngủ ngáy to.
Chắc là nửa đêm về sáng. Nửa đêm về sáng không khí thường ngưng lại. Dấu hiệu của sự chuyển giao trời đất. Ông Thanh nằm ngửa. Hai tay bắt sau gáy nghĩ ngợi. “Vậy là mình bị bắt đã được ba ngàn sáu trăm hai mươi bốn ngày”. Từ khi bị bắt đến giờ ông Thanh luôn đếm mỗi ngày qua đi bằng một sợi tóc mà ông tự nhổ ở trên đầu mình. Mọi ngày phải sáng hẳn ông mới nhổ sợi tóc nhưng hôm nay ông đã nhổ sợi tóc sớm. Cũng chẳng biết làm gì. Nhổ cất luôn đi cho xong một việc. Nhổm dậy cất sợi tóc vừa nhổ vào vỏ bao thuốc lá ông Thanh vừa nghĩ. Nhưng sao hôm nay mình lại mong ngày mới đến sớm thế nhỉ?
Mung lung và lẫn lộn. Một thứ cảm giác lạ lùng chợt tới khiến ông Thanh cứ lẫn lộn giữa không gian mung lung khó đoán định. Tiếng gài gại của con bọ ngựa như lời nói thủ thỉ càng làm ông thấy trong lòng khó tả. Linh cảm mơ hồ chợt tới. Vui không ra vui. Buồn không ra buồn. Chỉ phảng phất một cảm giác chờ đợi điều gì đấy sắp xẩy ra.
Đêm vắng tanh. Có gì đấy rất xa xôi níu hai mắt ông lại. Ông Thanh chập chờn nhắm mắt, lòng dạ lơ mơ. Một tiếng nổ cực lớn đã dựng ông Thanh dậy. Tiếng nổ cực lớn kèm theo cột khói bốc cao. Khói tỏa mù mịt khắp đỉnh đồi. Khói bao chùm lên vạn vật. Giữa làn khói mù mịt ấy ông Thanh bỗng thấy có bóng người đang lảo đảo cố đứng dậy. Người ấy nhìn xa xa không rõ mặt nhưng rất rõ cái bóng người lảo đảo đứng lên rồi lại ngã. Ngã xuống rồi lại lảo đảo cố đứng lên.
Trên đỉnh đồi mịt mù khói bụi chỉ duy nhất có bóng người đang lảo đảo ấy. Người ấy đã đứng lên được và vùng chạy. Cách chạy có vẻ cuống quýt như sợ không kịp. Vừa chạy bóng người ấy vừa đặt tay phải giữ chặt một bên sườn. Bàn tay giữ chặt như bóng người ấy đang cố giữ bằng được một thứ gì.
Cố dụi mắt để nhìn cho rõ hơn. Ông Thanh bây giờ đã nhìn bóng người đang lảo đảo vùng chạy kia là ai. Ông kêu lên giọng thất kinh. “Đúng là bố rồi”. Tiếng kêu của ông Thanh hình như cũng vọng tới chỗ bóng người đang vùng chạy. Bóng người ấy thoáng ngập ngừng dừng lại. Mắt quay nhìn về phía ông Thanh. Rất rõ ràng. “Đúng là bố rồi. Bố ơi, bố chạy đi đâu thế?”. Cha ông Thanh ngập ngừng dừng lại, quay cái nhìn về phía ông Thanh. Một cột khói nữa bùng lên sau một tiếng nổ chát chúa. Bóng người cha của ông Thanh bị hất tung lên. Hai tay vung ra bơi bơi, hai chân đạp đạp chới với. Rồi cả người cha ông Thanh bị ném mạnh xuống mặt đất. Rồi cả người cha ông Thanh bị cuốn nhanh xuống chân đồi. Cả người cuốn đi như gió lốc. “Thanh ơi. Cha đi đây”.
Ông Thanh choàng người. Không gian trong buồng giam vẫn im ắng. Mọi hoạt động lúc này chỉ duy nhất là những tiếng ngáy ậc ậc. Cuống quýt như vừa bị mất thứ gì, ông Thanh vơ tay tìm chiếc vỏ lon bia. May quá nó vẫn ở phía trên gối. Từ trong lòng chiếc vỏ lon bia lại thẻ thọt vọng ra những tiếng gài gại của con bọ ngựa. “Mình vừa mộng mị ư?”. Lo hãi lại tới. Ông Thanh lật đật cậy nắp vỏ lon bia. Ông nghiêng nghiêng chiếc vỏ lon nhưng vô ích. Không thấy con bọ ngựa đâu cả. Ông đưa mắt nhòm vào trong lòng vỏ cũng tuyệt nhiên không thấy gì trong đó. Mặt thừ ra tiếc nuối. Con bọ ngựa này đã làm bạn với mình năm năm qua. Năm năm qua nó thường gài gại chân động viên mình. Năm năm qua nó như người bạn tâm tình. Nhưng rõ ràng mình vừa còn nghe thấy tiếng nó gài gại chân kia mà? Lòng đầy nghi vấn ông Thanh lại đóng nắp lon bia lại. Ông từ từ ghé tai lắng nghe. Trong lòng chiếc vỏ lon bia lại vọng ra tiếng chân gài gại. Hay là mình mơ ngủ sinh lú? Ông Thanh lại cậy nắp vỏ lon. Ông từ từ dốc nhẹ nhàng hy vọng con bọ ngựa sẽ chui ra như mọi ngày. Tuyệt nhiên không. Lòng chiếc vỏ lon bia trống không như nó chưa từng có thứ gì ở trong đó.
Trạng thái chưa hết lâng lâng, tinh thần tràn đầy phấn chấn. Thượng tá Đỗ Đình Thủ quay người bên phải quay người bên trái trước tấm gương đủ soi toàn thân treo trong phòng ngủ của hai vợ chồng. “Ngạc nhiên chưa?”. Đầy vẻ tự hào, thượng tá Đỗ Đình Thủ nhìn hình ảnh mình phản chiếu trong tấm gương cất to câu hỏi. Không có tiếng đáp lại. Trong tấm gương hiển hiện đầy đủ một sĩ quan công an với bộ cảnh phục màu xanh mạ. Người sĩ quan công an đó trông khá oai vệ và thái độ tỏ vẻ cương quyết. Tất cả những gì gọi là đẹp đều được tấm gương phản chiếu khá chân thực ngoại trừ về hình dáng. Đó là một người đàn ông chừng năm mươi nhăm năm mươi bảy tuổi, dáng đậm, đặc biệt là vòng bụng. Vòng bụng không biết che giấu sự dư thừa về lượng mỡ của nó, cho dù bộ cảnh phục đã ôm gọn lấy thân hình nhưng vòng bụng vẫn lộ ra khó coi. Một người đàn ông với vòng bụng nổi vồng thành cục tròn như người đó đang cất quả bóng đá trong bụng áo. Không sao, vấn đề là nhìn hình ảnh vẫn cho ta cảm giác về một người đàn ông mạnh mẽ và đầy phong độ là được.
Thượng tá Thủ nhướn mắt nhìn qua vai mình trong tấm gương và chợt nhăn mặt. Trên chiếc giường nệm ga thơm sức, như một hình ảnh làm phông nền trong tấm gương, cô vợ trẻ vẫn ngủ tít mít. Tiết thu hanh hao, trời gần về sáng hơi se lạnh khiến cô vợ càng vùi đầu vào gối ngủ say sưa. “Đúng lúc người ta cần một lời khen thì lại ngủ”. Giọng hơi tranh trách, thượng tá Thủ quay người lại để mục sở thị. Cô vợ trẻ nằm nửa nghiêng nửa ngửa trễ nải khoe thân hình trên chiếc giường một cách như có chủ ý. Chiếc áo váy ngủ cổ khoét trễ để lộ bộ ngực nây nẩy phập phồng theo nhịp thở. Cảm giác xác thịt ồ ạt kéo tới khiến thượng tá Thủ lại nhăn mặt. Đêm qua cuộc nhậu kéo dài. Lại liu tiu hơi rượu nữa nên mọi ham muốn hụt bay đâu mất. Bây giờ đã tinh tỉnh cảm giác ham muốn lại dồn về làm thượng tá Thủ muốn nhảy phắt lên giường đè sấp lên người cô vợ. Vợ trẻ cũng đáng lắm. Các cụ chẳng nói “Sướng như lấy được vợ trẻ là gì”.
Nhưng thượng tá Thủ không làm như thế. Ở người đàn ông này từ lâu đã hình thành một sở thích hành lạc khá kỳ quặc. Đó là không bao giờ cho phép vợ, bồ hoặc bất cứ người đàn bà nào được trút bỏ xiêm y ngay trước mặt mình. Hành động khám phá thân xác phụ nữ qua những động tác tự tay mình cởi bỏ dần áo quần của đối tác luôn là điều thượng tá Thủ ham thích. Đàn bà cho dù có là con điếm đi chăng nữa vẫn phải là đàn bà. Nghĩa là phải tỏ ra sự ngôn hạnh. Hơn nữa, tự tay khám phá dần mới tạo hứng thú hoan lạc. Chứ cải ngữ đàn bà chưa chi đã cởi áo quần thật khó coi. Thượng tá Thủ nhăn mặt lần nữa nhìn cô vợ trẻ quần áo vẻ trễ nải nằm lả lơi trên giường. Nếu như hôm khác thế nào cô vợ trẻ cũng bị dựng dậy và bắt phải ăn mặc đầy đủ. Thôi chuyện hôm nay để đấy. Cũng tại mình mải mê giao lưu với anh em quá mà cô ấy không đợi được. Cũng phần vì mình con vui. Tha cho một lần cũng chẳng chết ai.
Căn nhà mua lại, nó mới chỉnh trang xong và gia chủ mới chính thức làm lễ tân gia chiều tối qua, tọa lạc trên đường phố Xương Giang, một đường phố nằm giữa lòng thành phố Bắc Giang. Một căn nhà bốn tầng, toàn bộ mặt tường phía ngoài, với những ô cửa sổ và cửa ra vào tất tật đều được sơn màu trắng cổ điển nhưng sang trọng. Tự hào về “chiến tích” tậu được và sửa chữa nhà thấy ưng ý đã tăng thêm cho thượng tá Thủ cảm giác viên mãn. Mấy ai được như mình. “Ôi, Tôi phục tôi quá”. Thượng tá Thủ mỉm cười và quay lại dí dí cái miệng đang cười sát tận mặt tấm gương. Đến lúc này mới thấy rõ, phản chiếu lại là một bộ mặt nổi sần mụn với những cục thịt mần đỏ, tác hại của rượu bia và thuốc lá, cùng cặp mắt lúc nào cũng như thèm ngủ. Bực mình với tấm gương, thượng tá Thủ lùi nhanh người lại. Cảnh giác nhìn nhanh cô vợ trẻ đang nằm. “Cô ấy không thấy điểm xấu đó”.
Căn nhà này là kết quả của việc “chia tay tình cũ đón tình mới”. Hú vía. Những năm tháng chung sống với bà vợ cũ thượng tá Thủ đã chuẩn bị cho mình một kế hoạch dài hơi, “lúc nào cũng có thể ra đi mà không tiếc nuối”. Hú vía. Những năm cùng bà vợ cũ thượng tá Thủ đã khôn khéo che giấu “quỹ đen” mà bà vợ không hay. Gọi là “quỹ đen” nhưng thực ra nó gấp hàng chục, thậm chí hàng trăm lần “quỹ đỏ” đưa cho bà vợ giữ hàng tháng. Bà ấy có muốn cũng không nắm được bởi món quỹ đen đó nằm ngoài tầm kiểm soát. Là một điều tra viên kỳ cựu nên thượng tá Thủ luôn biết cách “dồn” vào cái quỹ đen của mình những khoản tiền khá khá. Địa bàn phân công phụ trách thì rộng lại vô cùng phức tạp. Án gần như tuần nào cũng có. Và dĩ nhiên có án là có tiền. Ở đời họa có là người dở hơi hay loại người thiểu năng trí tuệ mới không chuyện đem tiền “chạy án”. Đấy tiền “quỹ đen” ở đấy mà ra chứ còn đâu nữa. Lại còn tiền thưởng do đánh án nhanh, đánh án thành công nữa. Tiền được “chi màu” của việc hóa giá tài sản do phạm tội mà có nữa. “Chào, xin chào những chiến công của tôi”. Thượng tá Thủ giơ tay làm động tác điều lệnh khá thuần thục. Chuyện ở trong ngành những ba mươi năm rồi chứ có ít đâu.
Thượng tá gãi gãi nốt mụn đỏ cạnh sống mũi, mình cũng khôn đấy chứ. Khi ký vào tờ đơn ly dị, thượng tá Thủ giả như đàng hoàng không mẩy may trước ít vốn nhỏ cùng ngôi nhà xây hai tầng ở quê, thôn Chằm. Để lại cho mẹ con bà ấy hết. Rất thanh thản và nhẹ nhàng thượng tá Thủ chuyển về ở tạm trong cơ quan vài tháng, rồi như anh em đồng nghiệp thương tình, kẻ ít, người nhiều cho mượn tiền để tậu và sửa chữa căn nhà trên thành phố chỉ có mỗi bốn tầng nho nhỏ. Và như một tất yếu. Cô bồ trẻ hằng xưa phải che che đậy đậy giờ chững chạc đàng hoàng trong vai trò “bà thượng tá trưởng phòng”.
Nghĩ tới đây thượng tá Thủ lại mỉm cười viên mãn. Ở đời không có gì là không làm được. Ai liều thì thành công. Ai hèn thì thất bại. Tổng kết lại cuộc đời mình tính cho đến đêm nay thượng tá Thủ luôn hài lòng về bản thân. Hài lòng về cô bồ trẻ xinh đẹp phải dấm dúi vụng trộm ngày nào, giờ cô bồ trẻ xinh ấy đang thỏa thê nằm phơi mộng đẹp trên chiếc giường hạnh phúc. Thượng tá Thủ cảm thấy bức bối chỉ muốn lao thật nhanh lên giường cho bỏ những ngày chịu đựng che che giấu giấu.
Nhưng để tạo sự bất ngờ và lãng mạn. Vợ trẻ thích lãng mạn chứ không ưa lối vồ vập kiểu ăn thịt người ta. Lại cũng là thói quen của mình, thượng tá Thủ nhớ lại những lần trước vì quá mạnh tay mà cô vợ trẻ “cấm vận” mấy bữa. Với lại không có gì phải vội, sáng nay là chủ nhật cơ mà. Cứ tà tà và thật lãng mạn vào cho cô ấy thích. Nghĩ vậy, thượng tá Thủ mở tủ lấy ra và gắn lên ngực áo tấm huân chương. Tấm huân chương, lý do nữa để cuộc nhậu hôm qua kéo dài, lý do đã quá khuya muộn rồi mình vẫn chưa lên giường. Hôm qua thực sự là một ngày đáng nhớ trong cuộc đời của thượng tá Thủ. Buổi sáng, cơ quan làm lễ trao thưởng huân chương và trao quyết định đề bạt chức vụ trưởng phòng. Buổi chiều, bản thân làm lễ “tân gia” mừng nhà mới và đón cô bồ trẻ về nhà chính thức tuyên bố là vợ. Mân mê tấm huân chương trên tay, thượng tá Thủ vê vê từng cánh sao nhỏ. “Đeo vào để chứng tỏ mình là một chiến sĩ công an lừng lẫy”. Thầm nghĩ như vậy và cũng để cho cô vợ trẻ khi được đánh thức và mở mắt nhìn lên sẽ thấy một vị “anh hùng” quỳ bên cạnh nàng đang nằm và cất lên những câu nói hào hoa.
Quá đắc chí với dự định của mình, thượng tá Thủ thong thả làm vài động tác khởi động. “Cũng coi như vận động chân tay”. Đi thong thả và hết sức dón dén, thượng tá Thủ từ từ đến bên cạnh giường cô vợ trẻ đang nằm. Từ từ hạ người thấp xuống, chân phải duỗi về phía sau, chân trái chống gập rất lãng mạn. Từ từ hít thở cho nhịp tim được nhẹ nhàng, thượng tá Thủ vừa chuẩn bị cất lên câu nói đánh thức vợ dậy thì nghe như có tiếng lật bật dưới tầng một. Tiếng lật bật nghe như tiếng cánh cửa sổ quên không cài, bị gió đêm thổi lật bật cắt đứt dòng suy tưởng lãng mạn. Tiếng lật bật này cũng có dấu hiệu khả nghi bởi hình như ngoài trời không hề có cơn gió nào. Tiếng động bất ngờ đã cắt đứt niềm ham muốn dục vọng. Bằng phản xạ của một điều tra viên lão luyện, thượng tá Thủ từ từ thu hai chân lại và từ từ đứng thẳng người lên. “Cái quái gì không biết?”.
Đảo nhanh và nhẹ nhàng một lượt quanh tầng một. Không có gì khác. Hơn nữa mấy cánh cửa sổ đều đóng khóa chặt chẽ. “Vậy tiếng động giống tiếng cánh cửa bị gió thổi là ở đâu ra?”. Thượng tá Thủ băn khoăn ngồi phịch xuống chiếc ghế phô tơi bọc da màu be hồng êm ru và thụt lún. Ngồi như co mình giữa bao bọc thật dễ chịu và tin cậy. Thượng tá Thủ lim dim nhắm mắt tận hưởng. Tiếng lật bật giống tiếng cánh cửa sổ quên không cài lại khẽ khàng vang lên. Phía đối diện với chỗ thượng tá Thủ đang ngồi có một người đàn ông cũng đang ngồi im lặng. Người đối diện hướng đôi mắt nhìn thẳng vào thượng tá Thủ. Người đối diện này chừng bốn mươi tuổi nhưng có vẻ khắc khổ. Bằng chứng là nước da không sạch sẽ cho lắm, bộ quần áo kiểu bộ đội đã rung rúc nhìn nhầu nhĩ. Người đối diện này hình như đang chờ đợi gì ở thượng tá Thủ.
– Này. Đằng ấy vào nhà bằng cách nào đấy?
– Tôi vào đây lâu rồi. Tôi đợi ông lâu rồi.
Thôi chết. Thượng tá Thủ giật mình. Không lẽ chiều qua hoặc đêm qua mình mải mê giao lưu với anh em đồng chí thì con vợ trẻ ranh này đem giai vào nhà? Thật quá đáng. Nó dám giỡn cả mình nữa à? Theo thói quen thượng tá Thủ giật tay về phía cạp quần tìm khẩu súng giắt ở đấy.
– Không như ông điều tra viên nghĩ đâu.
– Gì? Đằng ấy nói gì? Không như nghĩ là thế nào?
– Cô vợ trẻ của ông không mở cửa cho tôi vào. Tôi cũng chẳng có tình ý gì với cô vợ trẻ của ông cả. Tôi chờ ông. Ông thượng tá kính mến.
– Vậy đằng ấy vào bằng cách nào và vào đây đợi tớ có việc gì?
– Dĩ nhiên là có việc rồi. Nhưng ông điều tra viên cứ thư thư đã.
Vậy là người đối diện này đã chờ tới tận lúc này để gặp mình. Hẳn là có việc quan trọng đây? Dù sao mình vẫn là chủ nhà, thượng tá Thủ rót chén nước chè nóng đẩy về phía người đối diện. Cha này chắc tìm mình để chạy án đây? Dạo này án cũng thưa thưa. Án thưa thưa mình cũng thưa thưa tiền hẳn. Nhưng sao cha này muốn chạy án mà cứ lừ lừ như ông từ vào đền vậy? Thế thì phải ra giá cao vào cho chừa cái tội cứ lòng vòng chậm rãi kia đi.
– Cũng không phải như ông điều tra viên vừa nghĩ đâu.
– Cái gì? Đằng ấy nói tớ nghĩ cái gì?
– Tôi tìm gặp ông không phải để đưa tiền cho ông để chạy án.
– Vậy gặp tớ có việc gì. Nói nhanh lên. Sốt ruột quá. Này tớ còn chưa ngủ đêm nay đâu đấy.
– Ông điều tra viên không cần ngủ đêm này làm gì.
– Dở hơi à. Nào có việc gì nói nhanh lên.
– Ông cứ bình tĩnh đã.
Thượng tá Thủ đã khó chịu ra mặt nhưng cũng cẩn thận nhìn kỹ người đối diện. Quái, cha này nhìn quen quen. Quen lắm kia. Đặc biệt là thái độ khá nhún nhường. Thượng tá Thủ cố nhíu đôi lông mày rậm của mình để nhớ xem là người đối diện này là ai.
– Đằng ấy là… là thằng Thanh làng Me. Đúng không?
– Không phải.
– Ừ không phải. Thằng Thanh là thế quái nào được. Nó đang rục tù kia kìa. Có mà phép trời cũng không đưa nó tới đây được.
Nói vậy nhưng thượng tá Thủ hơi run run. Không lẽ là thằng Thành thật cũng nên. Nhìn giống lắm. Thằng này chắc trốn tù về đây tìm mình để trả thù đây?
– Đằng ấy không phải thằng Thanh thật chứ?
– Thật.
Ngả người chìm sâu vào ghế phô tơi, thượng tá Thủ thở phào như vừa trút được gánh nặng. Mắt nhắm lim dim tỏ rõ sự đã yên tâm, thượng tá Thủ mỉm cười. Cái thằng Thanh còi làng Me thật ngu hết chỗ. Chỉ việc mang tiền ra là xong tội cũng hèn. À mà ngu thì chết chứ có bệnh tật gì. Hồi ấy nó cứ như một thằng đần bậc nhất vậy. Thút thít khóc như trẻ con mới lạ chứ. Lại còn van xin mình bỏ qua chứ. Bỏ qua cho nó ư? Họa có mà hâm. Nó chạy tiền thì mới lo được. Ở đời này, lại dính nghi an không nôn tiền ra có mà rục tù con ạ. Rất thích chí với những gì vừa phân tích, thượng tá Thủ lại mỉm cười.
– Nhưng mà này. Đằng ấy vào đây cũng phải có chuyện gì chứ?
– Có đấy.
– Không chơi nó suông đâu đấy. Nói suông thì tớ cũng chịu. Còn cấp trên cấp dưới nữa. Không ai sống bằng nước bọt đâu.
– Ông điều tra viên vừa có nhắc tới thằng Thanh làng Me.
– Ừ phải rồi. Một thằng đàn ông kém cỏi nhất thế giới này.
– Nhưng chính ông điều tra viên đã đẩy thằng Thanh kém cỏi ấy vào tù.
Thượng tá Thủ cười khẩy. Tay vỗ vỗ thành ghế tỏ ý xem thường người đối diện với câu nói của người ấy.
– Dĩ nhiên là không phải tôi.
– Vậy thì ai? chính ông đã ép cung thằng Thanh đấy thôi.
– Tôi đâu có ép cung nó?
– Vậy ai?
– Cơ chế này. Tôi chỉ hoàn thành công việc của một điều tra viên. Có án cũng có nghĩa là phải có đối tượng nghi án.
– Có án cũng có nghĩa là có nghi án?
– Đúng. Có đối tượng nghi án cũng có nghĩa là phải có án phạm.
Người đối diện có vẻ đuối lý. Ông ta ngồi im vẻ mặt tư lự. Cũng có thể là người đối diện đang tìm câu phản đòn lại. Thượng tá Thủ thấy hứng thú với con người lạ lùng bỗng dưng xuất hiện này. Quả tình vụ án làng Me xẩy ra đã mười năm. Một vụ án không khó để nhanh chóng xác định nghi án. Một vụ án không khó để bắt nghi án cúi đầu nhận tội. Thượng tá Thủ lại cười khẩy. Nụ cười khẩy lần này hàm ý hơi giễu bản thân mình. Một vụ án mà chỉ đánh vèo một cái “xong”.
Người đối diện cựa quậy. Từ bộ quần áo rung rúc của ông ta tỏa ra thứ mùi khen khét như mùi lửa cháy. Từ bộ quần áo rung rúc của ông ta khẽ rơi bay ít bụi đỏ. Người đối diện có vẻ khó nhọc với những câu nói của mình. Ông ta hít hơi rất dài rồi mới nói tiếp được.
– Ông điều tra viên không thấy dấu hiệu oan sai ư?
– Oan á? Cũng có khi.
– Nghĩa là ông điều tra viên cũng công nhận thằng Thanh bị oan?
– Cứ cho là thế đi.
– Ông cho là thế sao ông không minh oan cho người ta?
– Cái gì? Đằng ấy coi thường tớ quá đấy.
– Tôi không có ý ấy.
– Mới đầu tớ cho thằng Thanh là hung thủ thật. Nhưng qua điều tra thấy có nhiều dấu hiệu cần sáng tỏ thêm.
– Ông biết thế sao không làm?
– Đằng ấy cũng vui tính ra phết nhỉ. Muốn làm thì phải nôn ra chứ. Ai làm không công cho. Hơn nữa đây lại là một vụ trọng án xẩy ra trên địa bàn tớ phụ trách. Cũng nghi nghi thằng Thanh không phải nhưng hiện trường chẳng để lại gì. Phải điều tra lại biết ngày nào mới phá được án. Đằng ấy biết không?
– Ông nói biết gì?
– Cái gì mà không có chỉ tiêu. Mà chỉ tiêu nào mà không có mốc thời gian hoàn thành.
– Tôi không hiểu?
– Không hiểu thật à?
– Vâng.
– Ví dụ thế này nhé. Cấp trên giao chỉ tiêu trên địa bàn mỗi năm dự kiến xẩy ra bao nhiêu vụ án. Có mấy án trọng, mấy án thường. Rồi án trọng thì bao lâu phá xong án. Án thường thì  xử thế nào?
– Tôi không hiểu?
– Chán đằng ấy lắm. Cái gì cũng có chỉ tiêu kế hoạch hết. Bên điều tra chúng tớ để xẩy ra án trên địa bàn mình phụ trách nếu chậm phá án coi như thành tích năm đó đi tong. Thành tích đi tong cũng có nghĩa là lên lương, thăng quân hàm, lên chức cũng theo đó mà chậm lại. Ở đời ai mà không thích thành tích. Này tớ trông đằng ấy cũng hình như là bộ đội thì phải?
– Vâng.
– Bộ đội đằng ấy có đăng ký thi đua không?
– Có.
– Đấy. Bộ đội đằng ấy có thích lập chiến công không?
– Có.
– Đấy. Thành tích rồi được khen thưởng ai mà chẳng hám. Thành tích nó giống như cái chứng chỉ để mình tiến thân vậy. Không có thành tích thì mong nước mẹ gì.
– Nhưng chuyện oan khuất của thằng Thanh thì khác.
– Chẳng có gì khác. Phá án là lập thành tích rồi.
– Nhưng để phá án ấy các ông đã bỏ sót nhiều tình tiết ngoại phạm. Mà những tình tiết ấy là cơ sở cho suy luận vô tội.
– Ái chà. Đằng ấy cũng thông thạo đấy nhỉ.
– Các ông không làm thế?
– Đằng ấy thông minh còn ngắn lắm. Việc đầu tiên là phá án đã. Muốn phá án nhanh thì phải tẩn, kể cả mình chuẩn bị cho nghi phạm lời khai. Còn khi ra tòa nghi phạm kêu oan kêu gì gì đấy sau.
– Nghĩa là chỉ biết việc mình còn việc người đẩy cho người?
– Chứ sao. Thời buổi cả nước thích thành tích mà. Bên điều tra bọn tớ xong việc, lĩnh thưởng và đi làm án khác. Bên tòa án thì lo chuyện xử án. Chắc bên họ cũng vậy thôi.
– Ông nói vậy nghĩa là thế nào? Vậy ai đẩy thằng Thanh vào tù?
– Cơ chế này.
– Ông điều tra viên nói tôi không hiểu.
– Đằng ấy chán bỏ mẹ. Ở đâu cũng có chỉ tiêu hết. Chỉ tiêu phá án này. Chỉ tiêu xử án này và chỉ tiêu thành tích nữa. Cơ chế nó thế mà.
– Cơ chế?
– Phải. Do cơ chế hết. Cơ chế bảo sao thì nó là như vậy. Có ai xử được cơ chế đâu. Họa có giời.
– Các ông không nghĩ tới thân phận con người?
– Xưa rồi Diễm. Bây giờ ai biết phận người nấy. Có tiền nhiều thì phận phúc. Tiền ít thì phận hẩm hiu.
– Bất chấp vô tội hay có tội?
– Cũng vậy thôi. Ai khôn hơn thì người ấy hưởng.
Thượng tá Thủ cười sằng sặc. Lần đầu tiên mới được nói chuyện với một người dở hơi nên cũng đáng cười lắm. Kể người đối diện này cũng kỳ lạ. Đột nhập vào nhà mình chỉ để nói chuyện đẩu đâu thôi. Chuyện thằng Thanh còi ấy mà. Xưa quá rồi Diễm ơi. Mười năm qua nó đã an phận với bức tường trại giam rồi.
Thượng tá Thủ bỗng ngơ ngác. Phòng khách đặt dưới tầng một cửa giả vẫn im ỉm. Không có dấu hiệu nào cho thấy có kẻ nào vừa đột nhập. Không có dấu hiệu nào cho thấy mình vừa nói chuyện với ai đó. Con chó lai to xù vẫn nằm áp tai xuống nền nhà ngủ ngon lành. Cô vợ trẻ trên chiếc giường kê trên tầng hai chắc vẫn say sưa với những giấc mơ của cô ấy. Người đối diện không có. Chiếc ghế phô tơi đối diện đang trông không. Lạ nhỉ? Không lẽ mình đứng mà mơ? Nhưng rõ ràng là mình vừa ngồi nói chuyện với người đối diện kia mà?
Thượng tá Thủ bước lại chiếc ghế đối diện. Chén nước chè khô tận đáy chứng tỏ trong đó không hề có một giọt nước. Đặt tay sờ sờ mặt ghế, chỗ người đối diện vừa ngồi. Cảm như âm ấm như ai vừa đứng dậy. Thoảng bốc lên thứ mùi tanh tanh giống như mùi cá ươn. Phân vân và hoang mang, thượng tá Thủ không hiểu chuyện gì vừa xẩy ra. Tất cả như một giấc mơ và tất cả như một hiện thực. Thằng vừa nói chuyện với mình biến đâu rồi nhỉ? Phải tìm thằng ấy lại. Nó mà đi nói linh tinh thì mình chết.
Đẩy toang cánh cửa ra vào của ngôi nhà. Thượng tá Thủ chạy vội ra đường phố, dớn dác đưa mắt tìm. Bên ngoài màn trời còn đang mơ màng sương sớm đầu thu. Một chiếc ô tô tải sầm sầm lao tới. Tiếng phanh xe kêu cháy đường.
Vụt tiếng kêu đánh “éc” của con chim lợn bay ngang qua.
Ông Thanh ngửa mặt nhìn quanh ngơ ngác. Rõ ràng là tai ông vừa nghe tiếng con chim lợn kêu ngang qua. Nỗi tiếc nuối con bọ ngựa còn chưa khuất lấp lại vẳng bên tai tiếng kêu báo điềm gở. Trời hẵng còn mờ mờ. Vẫn chưa tới sáng kia mà. Rõ ràng tiếng kêu vừa nghe thấy không thể nhầm lẫn với tiếng kẻng báo thức được. Trong buồng giam những người tù còn cố ngủ thêm ít phút.
Ngước mắt nhìn lên ô thoáng. Bên ngoài gió thổi nhẹ, những cành lá bạch đàn đu đưa lòa xòa chạm vào ô thoáng tạo ra âm thanh như tiếng chân của con bọ ngựa đang gài gại. Hôm nay đã là ngày thứ ba ngàn sáu trăm hai mươi bốn của mình. Tự dưng ông Thanh run bắn người. Sẽ lại có ngày thứ bốn ngàn, ngày thứ năm ngàn, ngày thứ sáu ngàn và ngày thứ bao nhiêu ngàn nữa? Tuyệt vọng như không có lối thoát, ông Thanh trong lòng thẫn thờ tiếc nuối con bọ ngựa. Nó bay đi đâu mất không biết? Nhưng sao mình còn như vẫn nghe thấy tiếng chân nó gài gại? Con bọ ngựa này không biết là thực hay là mơ? Năm năm qua nó đã gắn bó với mình sao bỗng dưng biến mất không dấu vết?
Những ngày gần đây ông Thanh thấy con bọ ngựa chợt phình ra và cao lớn khác thường, nó tỏ ra chật chội khi ở trong lòng của chiếc vỏ lon bia, ông Thanh đã tính kiếm cho nó một chiếc tổ mới. Có khi nó chờ đợi tổ mới không được mà nó đã tự tìm tổ lấy cho mình rồi? Hay là hồi đêm mình quên đậy nắp? Hay là ai đó trêu mình lựa lúc mình ngủ say đem giấu nó đi? Việc mình giữ nuôi con bọ ngựa này không ít lần bị bạn tù dọa vứt. Vậy thì mình thật đáng trách. Mình vô tâm quá. Nó như người bạn với mình mà mình vô tâm kể cũng đáng trách thật. Nghĩ tới đây ông Thanh tự đấm vào ngực mình như một sự trừng phạt.
Không biết con chim lợn nào ăn đêm bay ngang thế nhỉ? Nó cất tiếng kêu đánh “éc” sởn hết gai ốc. Mỗi khi nghe tiếng con chim lợn kêu là mỗi lần ông Thanh còn chưa thấy hết hú hồn. Tiếng kêu oan nghiệt của con chim lợn trong một chiều tối năm nào đã khiến ông phải nằm ở đây. Giá như chiều tối hôm ấy không có tiếng con chim lợn kêu.
Thật nhẹ nhàng và chính xác như được chuẩn bị trước. Ông Thanh từ phía sau lưng thọc luồn hai tay qua sườn cô Thoan. Ông luồn tay đúng lúc cô Thoan vừa giơ hai tay lên vén vén mớ tóc cuốn ngược lên đỉnh đầu. Một sự kết hợp ăn ý đến hoàn hảo không chê vào đâu được.
Như một lời mời được phát đi và được đón nhận. Ông Thanh đã vòng hai tay qua hết thân người cô Thoan. Lại như một sự kết hợp hoàn hảo nữa. Hai bàn tay của ông Thanh nhẹ nhàng đặt úp lên đôi bầu vú của cô Thoan. Đôi bầu vú mà ba buổi chiều nay chiều nào ông cũng nhìn trộm qua khe cửa. Đôi bầu vú mà những chiều đứng nhìn trộm ông đã thầm ao ước được đặt tay lên đó. Giờ thì nó đang gọn yên trong bàn tay ông. Ông Thanh nhắm mắt như để tận hưởng và co những ngón tay lại. Hai bàn tay ông đặt khít ôm trọn đôi bầu vú. Một cảm giác rần rật như điện lan truyền từ đôi bầu vú cô Thoan tới tận bụng ông Thanh. Cảm giác khoái cảm mới lạ níu chặt đôi bàn tay ông nơi đôi bầu vú cô Thoan.
Không phản ứng nào khác. Cô Thoan vẫn để yên cho đôi bàn tay ông Thanh đặt khít lên đôi bầu vú của mình. Cô đang lẫn lộn tưởng như đó là hai bàn tay của chính mình. Cô đang lầm tưởng rằng chính là cô đang tự nắm bóp đôi bầu vú của chính mình.
Cho tới khi ông Thanh vòng cả người ôm ghì lấy cả thân hình của cô Thoan, ông phả những luồng hơi thở gấp gáp và nóng hổi lên bờ vai của cô, bấy giờ cô Thoan mới giật mình tỉnh khỏi cơn mê hoặc. Cô Thoan giật mình tỉnh mê và cựa quậy vùng vằng cố thoát khỏi hai vòng tay ngày một siết chặt. Cô đã quay người được và hoảng hốt nhận ra có người đàn ông lạ đang ôm ghì lấy mình. Bằng một phản ứng của bản năng, cô Thoan vươn người vùng vẫy mạnh hơn. Hình như sự phản ứng của tự vệ cùng với sức khỏe tràn trề của người đàn bà sau kỳ sinh nở đang mãnh liệt. Cô Thoan đã vùng người thoát được đôi vòng tay ôm siết của ông Thanh. Cô nhao người về phía chiếc tủ quầy. Với một người đang sống một mình giữa đỉnh dốc vắng lặng thì bản năng bao giờ cũng quyết liệt. Cô Thoan đã nhanh tay hơn ông Thanh khi tay cô đã với tới con dao gọt hoa quả mà cô đã đặt nó trên mặt chiếc tủ quầy. Cô nhẩy lùi sang một bên giữ khoảng cách giữa cô với ông Thanh đủ để ông không ôm cô được nữa. Cô Thoan thét lên rất to như một cách để xua đuổi và khua khua con dao về phía ông Thanh.
Mũi dao nhọn, lại ở trong tay của một người có phản ứng bất ngờ đang sợ hãi mà khua khoắng loạn xạ, mũi dao đã làm xoạc rách vạt áo của ông Thanh. Như một sự cùng đường của kẻ dâm cuồng bị bại lộ, ông Thanh bỗng trở nên quẫn trí. Ông lao đến bất chấp mũi dao vẫn dứ dứ về phía mình, ông ôm chặt lấy người cô Thoan. Và trong trạng thái đang kích động mạnh ông Thanh xô cô Thoan ngã ngửa ra. Con dao văng khỏi tay cô Thoan và rơi cách đó một đoạn nhưng đủ để ông Thanh nhoài tay với được.
Cho tới khi ông Thanh ngừng tay thì cô Thoan đã nằm im. Máu phun ra xối xả. Máu phun chảy đọng thành vũng ngay chỗ cô Thoan nằm.
“Không. Không. Không”. Ông Thanh gào lên tức tưởi. Dường như ông bất lực hoàn toàn. “Không phải tôi. Không phải tôi. Tôi bị oan… oan…”. Ông Thanh vẫn gào lên thảm thiết. Tiếng gào nức nở.
Sáng hẳn. Tiếng kẻng báo thức vang lên kịp thời đã lôi tâm thần ông Thanh trở lại trạng thái bình thường. Những người tù ồn ào ngồi dậy. Vẫn những cái ngáp dài cùng những câu chửi tục tằn. Vẫn những tiếng bẻ đốt xương ngón tay ngón chân kêu khùng khục cùng những tiếng người vội vã đi tiểu xối nước ầm ĩ. Vẫn những câu mắng mỏ cùng những ánh mắt ngái ngủ nhìn nhau càu cạu. Vẫn những thứ mùi khai khẳm bốc lên cùng thứ mồ hôi nách khét ngạt. Vẫn những động tác tranh nhau như cướp giật cùng những bãi nước bọt bắn vung vãi. Vẫn là tiếng người cán bộ quản giáo buồng ghé mắt ngó vào nhắc nhở. Vẫn và vẫn không có gì khác.
Ông Thanh ể oải đứng dậy. Thói quen nhường nhịn từ ngày mới vô khám đã làm ông trở nên chậm chạp. Mấy bận cán bộ quản giáo buồng đã nhắc nhở nhưng ông không sửa được. Ông không dám sửa thì đúng hơn bởi vì nếu ông sửa sẽ làm mếch lòng những người tù khác.
– Phạm nhân. À không. Ông Nguyễn Hữu Thanh. Khẩn trương mặc quần áo, thu dọn tư trang lên gặp Ban giám thị trại.
– Thanh ơi. Mừng cho mày rồi.
Khi ông Thanh còn chưa hiểu câu gọi nhắc vừa rồi của người cán bộ quản giáo buồng là thế nào thì ông Dương, người bạn tù nằm bên cạnh, đã bật người nhao tới bên cạnh, ông Dương nắm nắm lấy tay ông Thanh lắc lắc.
– Thanh ơi. Thế là mày mừng rồi. Cuối cùng thì mày cũng đã được có ngày mừng nhất.
Ông Thanh chưa rõ thực hư. Mặt đần ra cười ngượng nghịu. Những người tù khác đang dở việc riêng cũng bỗng xôn xao. Họ xúm lại bên ông Thanh sờ sờ nắn nắn. Có người còn thẳng tay nắn vuốt hạ bộ của ông Thanh rồi nhe bộ răng vàng ỉn cười hềnh hệch.
– Về nhà với vợ hì hì… làm chuyện ấy thật oách vào nhé. Làm hộ bọn tao nữa.
Ông Thanh vẫn đần thối ra ngỡ ngàng.
Ngày thứ ba ngàn sáu trăm hai mươi bốn.
– Thanh. Về với vợ không được kể chuyện tao nghe không. Tao cấm đấy.
Ông Dương vừa nói vừa đẩy mạnh người ông Thanh ra khỏi cửa buồng giam.

Khởi ý định viết, 18 tháng 11 năm 2013
Hoàn thành, 18 tháng 3 năm 2014
Nguyễn Trọng Văn
Theo https://vanhocsaigon.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...