Tiếng con chim lợn kêu ngang qua - Phần 1MỘT
Đêm vụt tiếng kêu “éc” của một con chim lợn bay ngang
qua.
Ông Thanh giật thót người. Mồ hôi vã ra thành hạt. Đầu tiên mồ
hôi vã ra ở trên trán rồi tiếp theo là vã ở dưới lưng. Trong giây lát khắp người
ông bỗng ướt đầm như vừa ngoi ở dưới ao lên. Ông Thanh bật choàng ngồi dậy, trống
ngực đập thình thịch. Bần thần hồi lâu mãi không nghĩ ra mình đang ở đâu. Không
gian trong buồng giam đặc quánh những giấc ngủ. Chốc chốc lại rống lên tiếng
ngáy của ai đó. Tiếng ngáy kiểu cố lên, tiếng ngáy nghe ằng ặc, đứt từng quãng
ngắn, nghe như một người đang bị một người khác khi ngủ mệt đã vung cánh tay chẹn
ngang cổ họng. Liếc mắt nhìn xung quanh như để xem xem có ai cũng bị đánh thức
đột ngột như mình không. Không một ai cả, buồng giam lúc này như một chiếc tổ
kén bọc kín bưng. Ông Thanh xoay người nhìn xung quanh thêm một lần nữa. Hình
như tiếng kêu của con chim lợn vừa bay ngang qua chỉ có mỗi mình ông nghe thấy?
Nét mặt phân vân, bàn tay ông quờ quạng như để kiểm chứng là mình đang tỉnh hay
đang mê, bàn tay ông vô tình đè nghiến mạng sườn của người bạn tù nằm bên cạnh.
Người đó rên ư ử, lẩm bẩm như chửi ai, rồi ưỡn người duỗi thẳng chân, rồi lại
ngủ tiếp.Nhà văn Nguyễn Trọng Văn
Từ hồi tối đến giờ ông Thanh luôn ngủ những giấc ngủ chập chờn.
Giấc ngủ ngon và sâu đã lâu rồi không đến. Những mỗi khi màn đêm buông xuống đối
với ông là những đêm vật vã, ông không dám cựa mình để đổi tư thế nằm bởi mỗi
khi cựa mình ông lại chạm vào người nằm bên cạnh nhưng cứ nằm mãi một tư thế
trong giấc trằn trọc thì cũng khác nào đang chịu cực hình. Ông rất thèm ngủ
nhưng lại không dám ngủ. Sự vô lý này đêm nào cũng tới. Thức thì mệt bã người
mà ngủ thì những giấc mộng mị chập chờn nhưng ào ào kéo đến ngay khi ông vừa chợp
mắt. Những giấc mộng mị vừa xa lạ vừa gần gũi khiến ông không phân biệt được
đâu là thực đâu là mơ.
Ngồi mãi cũng thấy nản, trời còn lâu mới sáng. Ông Thanh dón
dén đứng dậy, rõ ràng đôi tai ông vừa bắt được tiếng con chim lợn kêu. Tiếng
con chim lợn đi ăn đêm bay ngang qua kêu tiếng “éc” rồi im bặt. Bàng hoàng như
người không xác định được đâu là ranh giới giữa đêm với ngày, ông Thanh ngồi im
ngơ ngác thêm mươi phút nữa rồi mới tạm thấy tỉnh đôi chút. Ông sờ soạng nhưng
lần này đã có ý hơn để không làm phiền người bên cạnh, ông tìm cách đứng dậy.
Ông đứng vô hồn, rồi như vô định ông đưa bàn tay phải rê rê lần theo mảng tường
cố vơi với lên ô cửa thông gió kiêm thông sáng ở tít trên cao. Ô thoáng đó rộng
chừng ba mươi ba nhăm phân, cao chừng hai mươi phân, nó lại được ken đặc hàng
song sắt cắm dọc cắm ngang, những chiếc song sắt to bằng ngón tay cái đã chia ô
thoáng thành nhiều ô nhỏ. Những ô nhỏ ấy dường như chặn hết mọi luồng ánh sáng
nếu chúng muốn lọt vào buồng giam. Những khi tươi tỉnh hay muốn xem xem bên
ngoài thế nào ông Thanh thường ngước nhìn lên ô thoáng. Ông cố lọc trong ánh
sáng nhờ nhờ đang cố tình chui qua ô thoáng để đoán định thời tiết ở ngoài ấy.
Đêm nào trời quang mây rạng, ánh sáng từ những ngôi sao hắt vào buồng giam tỏ
hơn tuy nó bàng bạc và lành lạnh. Đêm nào thời tiết u ám hay mây mưa phủ kín,
ánh sáng mù mù nhìn mà không đếm được trên cái ô thoáng vốn nhỏ ấy hàng song sắt
đã chia nó ra thành bao nhiêu ô nhỏ khác.
Đứng kiễng chân chập dài đến đau cứng mười đầu ngón chân mà
ông Thanh vẫn không tài nào với được tới ô thoáng. Thực ra ông Thanh thừa biết,
ông có với cả ngày cũng không tới được chỗ cần với bởi ô thoáng đó đã được đặt ở
vị trí rất cao trên bức tường. Giả thử bây giờ có hai người đàn ông đứng công
kênh nhau cũng còn lâu mới chạm tới mép dưới của ô thoáng nữa là lúc này đây
ông chỉ có mỗi mình. Nhưng rõ ràng ông vừa nghe tiếng con chim lợn đi ăn đêm về
vừa bay ngang qua cất tiếng tiếng kêu khô khốc. Tiếng chim lợn kêu “éc” nghe thoảng
lạnh và chờn rợn đủ giúp ông dứt hẳn cơn ngủ lơ mơ. Ông Thanh cố với tay hy vọng
là nắm được hay chí ít là chạm tới tiếng con chim lợn, ông muốn xua đuổi, muốn
lấy tay bịt tiếng kêu ấy đi bởi với ông tiếng kêu ấy gần như là một sự ứng báo
cho một điềm gở sẽ tới với chính ông.
Thất vọng, ông Thanh lại ngồi xuống. Ông ngồi bệt một cách cẩu
thả, co gập đôi cẳng chân. Ông ngồi thu lu trên chiếc chiếu cói cũ mèm, thâm
đen vì mồ hôi, chính chỗ mồ hôi của ông làm thâm đen chiếc chiếu, nó in lằn
hình người nằm trên đó. Đã chớm thu, hơi lạnh ngấm từ bệ xi măng lên sống lưng
buôn buốt. Dạo này ông Thanh thấy đầu những ngón chân ngón tay của mình bứt dứt
như muốn tuột ra. Nó vừa ê ê vừa buôn buốt khiến ông liên tục vặn vẹo. Mỗi lần
vặn vẹo là mỗi lần đốt xương bị bẻ kêu đánh khục. Đó là thứ âm thanh ông còn cảm
nhận được, nó nói lên rằng ông vẫn còn cảm giác là người thật.
Ngồi phủ phục, tâm trí lãng đãng không ra vui chẳng ra buồn.
Sáu tháng đủ để ông Thanh quen được với những mảng tường xám lạnh. Sáu tháng đủ
để ông Thanh biết rằng mọi cơ hội đã hết. Không còn cơ hội nào nữa ư? hình như
ông Thanh vừa tự hỏi. Không có một chút âm thanh nào đáng được gọi là tiếng nói
của người đáp trả lời. Khu trại giam vào ban đêm càng thêm sâu thêm tĩnh lặng bởi
nó nằm lọt gọn giữa một cánh rừng bạch đàn hơn mười năm tuổi. Những bóng cây bạch
đàn cao, thẳng, thân vỏ màu trắng, đứng ngạo nghễ như những hàng rào ngạo nghễ.
Thân cây bạch đàn ướt đẫm sương đêm làm tỏa ra thứ mùi hương thơm như mùi lá
chanh bị vò. Cả cánh rừng bạch đàn lúc này cũng đang chìm sâu trong giấc đêm. Một
ngày đã sắp trôi qua, lại một ngày nữa lại sắp đến. Nghĩ tới chuyện đêm qua
ngày tới làm tâm trí ông Thanh càng thêm não nề. Sáu tháng đủ để ông quen với
thực tại nhưng cũng đã sáu tháng ông Thanh vẫn chưa hết bàng hoàng. Sự việc diễn
ra không như ông nghĩ. Ông đã nghĩ nó chỉ là cái gì đó tạm thời chứ đâu sẽ vĩnh
viễn chấm dứt mọi cơ hội. Sự việc diễn ra không như người ta đã nói với ông. Một
cảm giác bị đánh lừa làm ông xa xót tự trách mình dại dột. Nhưng trách mà làm
gì được nữa. Sự dại dột đã đẩy ông vào một tình cảnh khó tháo gỡ.
Mình đã là một con người độc ác ư? mình đã là một con người bị
xã hội lên án ư? mi xứng đáng như vậy lắm. Ông Thanh buông tiếng thở dài. Đêm
như kẻ đồng lõa với nỗi trống trải. Đêm như kẻ chung tình với sự cô đơn. Nhưng
đêm lại không cho ông một chút an ủi. Lại hóng tai lên phía ô thoáng. Tự dưng
lúc này đây ông Thanh lại thèm được nghe lại tiếng kêu “éc” của con chim lợn đi
ăn đêm về ngang qua. Loài chim lợn thật khó lường. Chúng chỉ cất một tiếng kêu
rợn gáy rồi im bặt. Không cho người ta nghe lại để phân biệt đó là tiếng chim
thật hay chỉ là ảo giác âm thanh. Không cho người ta nghe lại để xác định tiếng
kêu đó ở gần hay ở xa. Tiếng kêu “éc” khô khan, gọn lỏn và độc địa.
Sinh năm 1961, tuổi Tân Sửu, có nghĩa là lúc này mình đã bốn
mươi ba tuổi. Tự dưng ông Thanh lại nghĩ đến tuổi tác. Cũng phải thôi, đêm mà
không ngủ được thì con người ta thường hay lo xa, con người ta thường nghĩ từ
lúc này đến lúc chết sẽ còn bao nhiêu ngày bao nhiêu tháng nữa. Tự dưng ông
Thanh lại nghĩ đến cái ngày chính là mình bị chết chứ không phải người đàn bà
cùng làng với ông đã bị chết. Người đàn bà kém ông tám tuổi đã chết thảm bởi những
nhát dao đâm chí mạng. Người đàn bà đơn thân đã chết nằm lạnh cứng bên cạnh đứa
con trai nhỏ, nó mới mười tháng tuổi. Thằng bé bị đánh động khóc giẫy lên, lăn
tuột khỏi giường, theo bản năng có tính tồn vong, nó trườn về chỗ người mẹ đang
nằm, nó tru tiếng khóc gào sữa mẹ.
Ông Thanh nhắm tịt mắt lại. Đầu ngoáy liên tục như cố xua đi
hình ảnh người đàn bà làm mẹ đơn thân nằm bất động dưới nền nhà ướt lạnh. Người
đàn bà mà từ thân thể đang toát lên mùi sữa thơm ngậy. Mùi sữa mẹ trào từ đôi bầu
vú căng đầy, những giọt sữa chảy tràn phung phí dính đọng trên ngực. Sữa chảy
tràn trong khi đứa con đang gào khóc đòi bú liên tục ré lên. Ông Thanh lại
ngoáy đầu thêm nữa, ông cố gắng xua đi hình ảnh người đàn bà với những vết dao
đâm ngang sườn. Máu phun ra xối xả. Máu phun ra, máu chảy thành dòng xuống đất,
máu phun ra lẫn với những giọt sữa đang chảy. Mùi máu tanh tanh mằn mặn nhanh
chóng lấn át mùi sữa thơm ngậy.
Đúng rồi! Ông Thanh “á” lên. Đúng rồi, vào đúng thời khắc ấy
có tiếng con chim lợn kêu ngang qua. Tiếng con chim lợn kêu trong đêm bao giờ
cũng đi kèm với việc trong làng này sẽ có một ai đó vừa mới chết hoặc một ai đó
sắp chết. Loài chim lợn chuyện săn chuột trong đêm rất thính với những âm khí.
Người sắp chết âm khí nặng nề bao quanh chỗ người ấy nằm. Con chim lợn đậu im
lìm như một người ngồi ngủ gật. Con chim đậu trên một cành cây cao gần đó
giương to đôi mắt xanh quắc rình rập và chờ đợi. Người vừa chết linh hồn thoát
khỏi xác nhẹ như một làn gió bay vút lên cao. Loài chim lợn cũng vội vã bay vút
theo làn âm khí đó để lấy lại nguồn năng lượng sắp mất. Chúng nạp năng lượng
cho mình bằng cách lấy lại năng lượng bỏ đi của con người. Có lẽ vì thế nên
chim lợn rất tinh ranh. Chúng có trí khôn và nhanh nhẹn hiếm có. Trong màn đêm
đen kịt đôi mắt to, tròn, đôi mắt màu xanh ma dại và sáng quắc của chúng nhìn
xuyên thấu màn đêm. Hình như tinh khí của một con người vừa mới chết đã
được con chim lợn thu nạp và chính thứ gọi là tinh khí của người đó đã
giúp nó trở thành một loài chim có bản lĩnh săn bắt độc đáo trong màn đêm sâu
đen. Nó cất tiếng kêu “éc” báo hiệu sự nhận biết đặc biệt ấy rồi bay vụt qua,
đường bay của nó nhanh và vụt lạnh đến dựng tóc gáy.
Hãi hùng hiện trên nét mặt, ông Thanh cảm thấy sợ hãi, toàn
thân ông run lên như phải lạnh, ông lấy hết sức cố gắng thu gọn hai chân lại. Sự
đơn độc làm tăng thêm sự sợ hãi. Ông Thanh cố thu mình hơn nữa trên chiếc chiếu
cói đã bắt đầu thâm cũ, ông tự tìm cho mình một chỗ để bấu víu. Chiếc chiếu đã
cũ và cứ động mạnh là rụng dời từng chiếc cuống chiếu. Cuối cùng như đã cảm thấy
đôi chút yên tâm, ông Thanh lần tay nhặt từng chiếc cuống chiếu vừa rụng để gom
trên lòng bàn tay. Ông Thanh lẩm nhẩm đếm và mỗi câu đếm lại càng thấy thêm sự
trống trải. Hình như những gì gần gụi nhất cũng đang dần bỏ ông mà ra đi? Hình
như mũi ông vừa ngửi thấy mùi tử khí? Thứ mùi khăm khẳm thật khó giải thích khiến
ông lợm giọng. Thứ mùi mà ông đã từng ngửi thấy. Hình như trong trại giam này
có người tù nào vừa chết. Hình như trong trại giam này có ai sắp chết. Tiếng
con chim lợn kêu lạnh tanh và dửng dưng như người khách qua đường. Nhưng tiếng
kêu ấy không vô tình. Ông Thanh chợt nghĩ như vậy và nhắm hai mắt lại hòng xua
đuổi ý nghĩ về những cái chết đang đến. Trước mắt ông lại thấp thoáng hình ảnh
người đàn bà cùng làng kém ông tám tuổi đang nằm sóng sượt. Máu đã thôi phun chảy,
máu đã khô cứng lại, thâm sì và chét cứng bên cái thân xác đàn bà trắng lồ lộ,
rách bươm áo quần. Trong cái dáng nằm bất động ấy ông Thanh vẫn hình dung ra một
thân hình đàn bà nằm hớ hênh, ông vẫn hình dung ra vẻ mời gọi đầy nhục dục của
thân xác.
Sáu tháng qua ông Thanh chưa lúc nào xua được nỗi ám ảnh về
cái chết của người đàn bà cùng làng ấy. Nó đeo đẳng lòng ông mỗi khi ông chập
chờn ngủ. Cái chết của một người này là nỗi tiếc thương của người khác. Cái chết
của người này là nỗi đau, là nỗi cơ khổ của một người khác. Ông Thanh đang đau
nỗi đau về cái chết của người đàn bà cùng làng kém ông tám tuổi. Người đàn bà
làm mẹ đơn thân nằm sóng sượt dưới nền nhà. Máu phun ra lênh láng bên những giọt
sữa chảy ra từ đôi bầu vú căng đầy.
Mình bây giờ khác nào một người bỏ đi. Ông Thanh cho là như vậy.
Sáu tháng ngồi trong buồng giam là sáu tháng ông luôn tự dằn vặt, luôn tự đặt
những câu hỏi, luôn tự tìm những câu trả lời mà không khi nào ông có câu trả lời
thỏa đáng. Chỉ tới khi mệt quá ông thiếp lả đi thì ông mới tạm nguôi ngoai. Nhưng
mỗi khi ông mệt quá thiếp lả đi thì trong đầu óc của ông lại chập chờn những giấc
mộng mị lạ lùng. Ông vừa nằm mơ được đến một nơi quen quen. Một nơi chưa bao giờ
ông được đặt chân tới nhưng hình ảnh của nơi đó hiện rõ mồn một trong đầu ông.
Một nơi thấy có cảm giác như đã quen quen nhưng rất xa xôi. Ông Thanh mộng du
trong mộng mị.
Trời nhập nhoạng tối. Cuối thu, bóng tối lại đến càng nhanh.
Mới gần sáu giờ chiều mà màn đen đã bao trùm lên mọi con đường nhỏ nhất. Mặt
người cũng như nhọ đi rất khó nhận ra nhau rằng quen hay lạ, rằng trai hay gái,
rằng trẻ hay già. Ông Thanh mệt mỏi đẩy chiếc xe đạp ngược đoạn dốc ngắn, dốc
này không cao, người bình thường chẳng coi đó là con đường dốc nhưng lúc này với
ông Thanh nó lại như cao lên. Cả ngày nay ông đã phơi mình ngoài trời hanh nắng
nên khá mệt. Đôi bên giá đèo hàng là đôi can nước loại can nhựa hai mươi lít,
đôi can đầy nước ông vừa đong bên chiếc giếng ven đường. Chiếc giếng này tuy nhỏ
nhưng bù lại nước trong và mát.
Nhọc nhằn vừa đẩy xe vừa thở, mỗi bước chân của ông nện trong
bóng tối nghe thậm thịch như những bước chân trâu. Từ đoạn đường dốc này về tới
nhà ông chừng còn mươi mười lăm phút đẩy xe đi bộ nữa. Mươi mười lăm phút để
ông thấy cần phải cố sức. Mệt và đói, cả ngày hôm nay ông đã cùng bà vợ phơi trần
ngoài sân vận động. Cái sân lép nhép những nước với cỏ này ngày thường là chỗ
cho bọn trẻ trong làng chạy đuổi nhau mấy ngày nay nhường chỗ cho những trận
thi đấu bóng đá. Gọi là “bóng đá làng” nhưng ở cái làng quê chưa tối đã đêm này
thì mấy hôm nay khác gì làng mở hội. Những trận đấu bóng đá nhoe nhoét bùn đất
lại là cơ hội cho bà vợ ông tranh thủ kiếm tí chút. Bà tranh thủ đun nồi nước
chè xanh đem bán cho người xem lẫn người chơi. Thế mới có chuyện mấy ngày nay cứ
chiều buông, trận đấu tan là ông lại xuôi con dốc ngắn xuống cái giếng nhỏ ven
đường đong đầy hai can nước. Nước ở cái giếng nhỏ ven đường này xem ra lại nấu
lá chè xanh rất hợp. Màu nước chè xanh ngắt lại trong veo để vừa đủ nguội dễ uống
mấy bát vẫn thấy thèm.
Ông Thanh đã lên tới đỉnh dốc, đoạn này tương đối bằng phẳng
bởi người dân trong làng đã san nó lấy chỗ dựng lên mấy túp nhà. Bóng tối bủa
bưng, le lói ánh đèn hắt ra từ căn nhà nhỏ ngay giữa đỉnh dốc. Ngôi nhà nhỏ này
không lạ không vì bởi mấy hôm nay ông Thanh thường qua lại, mà bởi chính trong
ngôi nhà nhỏ ấy có cô Thoan. Cô Thoan người là gốc ở làng này nhưng lại mới mẻ.
Một người đàn bà chừng ba mươi tư ba mươi nhăm tuổi, da trắng hồng thứ nước da
của những người đàn bà mới sinh nở lần đầu và còn đang trong thời kỳ cho con bú.
Một chút tò mò chợt lóe trong cái đầu mệt mỏi của ông Thanh. Mình có nên
lại gần xem xem không nhỉ? Tiếng là người cùng làng nhưng kỳ thực cô Thoan mới
trở về làng không lâu. Người đàn bà quá lứa trở về làng cùng với đứa con trai
còn đỏ hỏn trên tay từng làm rộn lên bao lời eo xèo bàn tán. Một người đàn bà
không chồng, tha hương đâu đó bỗng nhiên trở về làng đem theo một hình hài bé
nhỏ. Những lời eo xèo bao giờ cũng dừng lại ở câu hỏi không có lời giải đáp rằng
“ai là cha” của đứa trẻ. Với cái làng quê thuần phác này thì tự dưng trong làng
có người đàn bà sinh con mà không rõ ai là chồng luôn là điều kích thích đám
đàn ông trong làng bàn tán. Kích thích đám đàn ông lân la tìm cách làm quen và
gạ gẫm. Với suy nghĩ của họ thì hễ đã là đàn bà như vậy sẽ rất dễ tính, rất lẳng
lơ và rất khao khát đàn ông.
Ông Thanh lưỡng lự. Nói gì thì nói ông đã khi nào tường mặt
cô Thoan đâu. Mặt mũi người ta ngang dọc còn chưa rõ nói gì tới chuyện nhận xét
hay đánh giá tư cách. Nhất là sự đánh giá đó thuộc về đánh giá đạo đức. Dựng
chiếc xe đạp bên một gốc cây, ông Thanh thong thả bước lại gần ngôi nhà nhỏ.
Bên trong vắng lặng, nếu không có ánh đèn le lói lọt qua khe cửa thì ông Thanh
đã dừng lại. Nhưng ánh sáng le lói cứ như mời gọi, nó xui đẩy ông Thanh them từng
bước lại gần hơn.
Người bạn tù nằm bên cạnh chắc là ngủ mớ, ông ta cất tiếng gọi
ú ớ. Tiếng gọi ú ớ làm ông Thanh bừng người. Thì ra ông vừa thiếp đi trong một
giấc mộng mị. Chưa ra khỏi bàng hoàng, ông Thanh lại cố co hai cẳng chân thêm
sát vào bụng, ông ngồi dúm dó sát tường. Nửa đêm về sáng không khí càng thêm lạnh.
Khí lạnh bên ngoài thấm qua mảng tường và từ mảng tường xâm nhập cơ thể, nó đã
chia thân thể ông Thanh làm hai phần. Phần lưng dựa sát tường lạnh toát như chà
bị nước đá. Phần bụng nóng ran như phải đang hơ lửa, đổ vã mồ hôi. Hai tay ông
đan vào nhau ôm ghì đôi cẳng chân, giấc mơ ập đến làm ông sợ hãi. Ông lại co chặt
hai bàn tay đang đan vào nhau, co chặt đến nỗi nó tê cứng làm dính chặt các
ngón tay với nhau. Ông không tài nào gỡ được hai tay của mình đang đan chặt
như một chiếc gông gông đôi cẳng chân của ông lúc này cũng đang tê cứng. Một
cơn đau kiểu đau của người bị chuột rút khiến ông tái dại mặt mày. Cơn đau truyền
từ hai bàn tay sang đôi cẳng chân, truyền từ cẳng chân sang phần bụng, truyền từ
phần bụng lên đỉnh đầu. Mồ hôi thi nhau vãi tứa ra. Ông Thanh cảm thấy ướt lạnh
như đang ngồi trong vũng nước lạnh, ông rùng mình trong cơn đau dữ dội khắp người.
Rất lâu như vậy. Ông Thanh đành nhăn nhó mặt mày ghìm tiếng
rên la nén chịu đau. Thực ra ông không dám kêu. Ông mà kêu la đau đớn trong lúc
này sẽ làm mấy người bạn tù cùng buồng giam thức giấc. Sẽ có tiếng chửi rủa
cùng những mắng mỏ, lời đe nẹt vang lên? Nó sẽ xẩy ra điều tệ hại ấy vào thời
điểm có thể. Sẽ có tiếng xít xoa hỏi thăm khe khẽ và rất nhẹ nhàng bên cạnh? Nó
sẽ như vậy bởi sáu tháng qua ông Thanh đã kịp cho mình những chuẩn bị cho mọi
tình huống.
Hồi mới bị bắt và bị tạm giam tại trại giam Kế ông Thanh đã từng
bị như thế. Ông bị tống vào buồng biệt giam sau suốt một buổi chiều lử đử bởi
những câu hỏi lục vấn, những câu hỏi liên tục khiến ông không kịp trả lời. Mệt
quá ông rũ người gục mặt trên chiếc ghế không có tựa lưng, ông lại bị nâng mặt
lên và hỏi và hỏi liên tục. Có lúc ông tưởng như mình sắp chết, có lúc ông muốn
buông xuôi cho xong chuyện. Nhưng cái mà ông muốn buông xuôi lại hình như không
làm hài lòng những người đang tra hỏi ông. Cuối cùng khi bóng tối vừa buông xuống,
người tra hỏi ông cũng thấm mệt, ông bị tống vào phòng biệt giam. Nghĩa là từ
giờ phút này ông bị coi như kẻ đã thành án, hơn nữa lại là một án rất nặng. Một
buồng biệt giam chật hẹp nhưng khá kiểm ngặt bởi bốn bức tường cao, dầy
và lạnh lùng tới mức dửng dưng. Sau cú đẩy lưng mạnh cùng câu nói “vào đây rồi
xem mày còn ngoan cố được nữa không” của hai chiến sĩ công an dẫn giải, ông
Thanh thấy sa sẩm mặt mày. Chưa kịp phân biệt đâu là lối cửa mình vừa bị đẩy
vào và đâu là mảng tường lạnh lùng đằng trước mà chắc cả mặt ông sẽ va vào đó.
Theo phản xạ của những người bị xô đẩy ông Thanh chỉ kịp đưa tay đỡ để tránh đập
mặt vào mảng tường thì đã bị ngay một cú thọi chính giữa trán, ông ngã bật ngửa
về phía sau, mắt nẩy ngàn vạn hoa đom đóm. Sa sẩm lại thêm sa sẩm. Buồng biệt
giam tối om. Đau tái dại nhưng ông Thanh vẫn cố gượng dậy hy vọng tránh được cú
thọi tiếp theo.
– Thằng con cặc. Mày nhẩy vào mặt thằng bố mày thế hử?
Tiếng một ai đó cục cằn vang lên. Hình như là tiếng của người
vừa cho ông ăn quả thọi, giọng nghe đầy cáu bẳn, kiểu giọng khê khê của người
đang ngủ dở giấc. Từ miệng của người vừa nói đó bốc lên thứ mùi như thứ mùi
phân trong chuồng lợn. Người đó ông Thanh chưa hề gặp và thực ra lúc này ông
cũng không thể kịp nhìn được mặt mũi người đó thế nào. Mùi phân chuồng lợn đang
như phả ập vào mặt làm ông thấy khó chịu. Trong bóng tối ông Thanh cũng lờ mờ
nhận ra buồng biệt giam này chỉ có hai người. Một là người vừa cất tiếng chửi đổng
và một người là chính ông. Hai người đang ở rất sát gần nhau, bằng chứng là người
kia không cần đứng dậy, người ấy chỉ nằm thôi đã vung tay thọi quả đấm vào
chính giữa trán ông. Ông Thanh miệng xít xoa vội luống cuống.
– Tôi. Tôi xin lỗi.
– Xin lỗi cái con củ cặc. Nhớ là thằng bố mày đang nằm ở đây
nhé.
Lại một cú thọi vào giữa trán nữa kèm theo tiếng chửi cục cằn.
– Mày là thằng nào. Tội gì mà vào đây thế hả con?
– Dạ. Tôi tên là Thanh.
– Bố mày có hỏi tên mày là cái gì đâu. Bố mày hỏi mày là thằng
nào cơ mà.
– Dạ.
– Muốn dạ hử?
– Dạ không ạ.
Ông Thanh đáp lí nhí, dúm dó mặt mày vì đau và cũng vì quá sợ.
Cũng may là không có thêm một cú thọi nữa vào giữa mặt. Ông ngồi phệt ngửa ngay
dưới đất, ngay chỗ ông đang ngã ngồi nhăn mặt cố nén đau để quan sát. Ánh sáng
soi từ chiếc bóng điện cảnh giới treo ngoài buồng giam chiếu qua ô thoáng đủ để
ông quan sát. Cách không xa, chỉ chừng bước chân, trên cái giường đơn kê sát tường
có một người đàn ông đang nằm, bộ quần áo cùng màu xám lụng thụng như kéo dài
thân hình người ấy dài ra hơn mức bình thường. Ông ta hình như trước đó đang ngủ,
người nằm nghiêng quay mặt ra ngoài, một chân co một chân duỗi, bàn tay phải vẫn
còn nắm nắm như ông ta chưa thôi ý định cho thêm vài quả thọi nữa. Trông
thái độ ấy ông Thanh đã thấy ngài ngại, nhất là hai cú thọi vào giữa trán ông
ban nãy. Cú thọi thẳng tay của người lâu ngày không được đụng chạm chân tay nên
có sức mạnh thoát ra ghê gớm. Chắc là một người đã vào đây trước mình? Ông
Thanh trộm nghĩ. Người này có vẻ bàng quang trước sự sợ hãi và đau đớn của ông
Thanh. Người này có vẻ không cần biết là phải nằm dịch sang một bên để nhường
cho người mới bị đưa vào là ông Thanh có được tí chút chỗ đặt lưng. Căn phòng
nhỏ, chỉ độc một chiếc giường đơn mà lại là chiếc giường đã có chủ. Mình sẽ nằm
đất ư? vẻ như biết thân biết phận, ông Thanh vẫn ngồi ngửa người đẩy tay lết giật
lùi hòng thoát ra xa, cái chính là ông đề phòng người kia bỗng đâu lại vùng dậy
và thọi cho ông mấy quả thọi nữa vào giữa mặt thì khốn. Mấy hôm nay ông Thanh
đã liên tục bị những cú thọi vào mặt vào ngực vào lưng vào tay. Toàn thân ông
đang đau thành cơn đau dài ê ẩm. Mi mắt sưng húp, gò má nổi cục thâm máu đọng.
Bộ ngực rã rời như bị tháo từng chiếc giẻ xương sườn. Những tưởng bị tống vào
đây sẽ thoát những cú thọi ai dè còn bị thọi thêm. Ê chề và hận tủi ông Thanh sụt
sùi khóc như một đứa trẻ. Rồi nhanh chóng ông chợt nhớ ra trước mặt mình còn có
người đàn ông đang nằm ông Thanh vội im phắt.
– Tội tình nỗi gì mà nức nở thế con?
– Dạ.
– Dạ cái củ cặc. Bố mày hỏi mày tội gì kia mà?
– Tôi. Tôi không biết.
– Mày làm bố mày ngứa tay rồi đấy. Vô lý, không mắc tội thì
người ta dỗi hơi mà tống mày vào đây à?
– Tại người ta…người ta đánh…đánh tôi đau quá.
– Chắc là họ lại muốn nhờ tới bố mày nữa đây?
Người đàn ông kia từ từ nhổm ngồi dậy, ông ta chĩa đôi mắt vằn
đỏ nhìn gờm gờm vào ông Thanh. Ông Thanh co người lại giống hệt con cua gặp ếch,
đôi mắt của người ấy như lưỡi dao sắc lẹm. Đôi lưỡi dao đang khía vào thân thể
ông từng nhát khía một. Bỗng người đàn ông đổi thái độ. Ông ta hỏi nhẹ nhàng
hơn.
– Mày đứng lên được không?
– Tôi. Tôi đứng được ạ.
– Mày lại bên bức tường kia. Thế. Một chân co lên. Một chân đứng.
Thế thế.
Ông Thanh vội vã đứng bật dậy để làm theo. Mấy ngày vừa qua
cũng đủ cho ông biết thế nào là không vâng lời người khác. Không vâng lời mà cứ
nói và làm theo ý mình thể nào cũng bị ăn đòn, cũng bị nghe những câu tục tằn
chửi rủa và đe nẹt. Ông lui lại rất nhanh, lưng áp sát bức tường. Trong thâm
tâm của ông lúc này còn có nỗi sợ hãi nào hơn nỗi sợ bị đánh.
– Bố mày bảo mày đứng cạnh tường chứ có bảo mày đứng dựa lưng
vào tường đâu. Con ơi chịu khó nghe lời bố đi. Không ngoan bố cho ăn mấy quả phật
thủ vào cái chỗ đút cơm đấy con ạ.
– Dạ.
Chưa hết ê ẩm bởi những cú bạt tai lúc ở phòng hỏi cung, đầu
óc quay cuồng trong mớ câu hỏi cùng những lời đe nẹt lẫn lộn. Ông Thanh nhẫn nhục
làm theo. Quả thực trò chơi đứng kiểu lò cò này không đơn giản chút nào. Ông
Thanh chỉ đứng được chừng nửa giây đã chực ngã khuỵu. Người ông ngắc ngư chực đổ
nhào về phía trước.
– Thằng chó. Đứng thẳng người lên.
Ông Thanh nhăn mặt không cãi, vội vàng làm theo. Đầu óc còn
đang mung lung. Mặt mày lại sa sầm. Buồng biệt giam bỗng tối như hũ nút. Ông thực
tình vẫn chưa rõ mặt người vừa thọi quả đấm vào mặt ông, chưa rõ mặt người đang
hỏi ông những câu hỏi như lục vấn, chưa rõ mặt mày người đang ra lệnh cho mình.
Đã mấy hôm nay ông liên tục bị những câu hỏi kiểu như thế. Những câu hỏi khi dồn
dập, lúc bẳn gắt khiến ông nghiêng ngả đầu óc. Điều ông quan tâm nhất lúc này
là làm sao đặt được cả hai chân xuống. Đứng kiểu lò cò quả tình không chịu nổi.
– Cho. Cho tôi đứng hai chân đã. Tôi ngã mất.
– Vào đây mà cũng yêu sách hả con? Thôi được rồi. Bố thương
con bố cho con đứng hai chân nhưng mày phải hát cho bố mày ngủ nghe chửa.
– Hát á?
– Mày không biết tiếng người à?
– Dạ biết.
– Thế thì hát cho bố mày ngủ. Chịu khó ngoan rồi bố mày sẽ
nghĩ lại.
– Nhưng….
– Nhưng cái con củ cặc. Không nhanh mà hát lên cho bố mày ngủ,
bố mày nghĩ khác đi lại khốn đấy con ạ.
Ông Thanh rồi cũng gỡ được hai bàn tay đang đan chặt với
nhau. Lòng đầy bảng hoảng. Ngỡ như câu chuyện vừa mới xẩy ra. Hơi dịch người ngồi
xa tường một đoạn, ông Thanh cẩn thẩn kéo từng đốt ngón tay hy vọng nó giãn ra
và dịu đi co cứng. Ánh mắt ông đang bộc lộ vẻ hốt hoảng mỗi khi nhỡ tay kéo mạnh
một đốt ngón tay nào đó phát ra tiếng kêu. Không gian vẫn chìm trong màn đêm
tuy đã đôi chút nhờ nhờ sáng. Chắc là đã ba giờ sáng? ông Thanh bấm miệng thầm
đoán, ở nhà cứ tầm ba giờ sáng là bà vợ của ông tỉnh giấc. Hễ bà vợ tỉnh giấc dậy
mò ra sau nhà đi tiểu là ông cũng phải thức dậy theo ra. Ông sợ bà vợ sẩy chân
ngã dụi ngoài đó thì khổ thân. Không hiểu vào giờ này bà vợ của ông có tỉnh giấc
mò đi tiểu không? Bà dậy mò ra sau nhà đi tiểu không biết đứa con gái lớn đã
hai mươi tuổi của ông có tỉnh dậy mà biết theo ra trông chừng không? Tự dưng nỗi
nhớ vợ, thương vợ lại ùa đến làm ông muốn khóc. Khổ thân bà vợ ông, mấy năm rồi
căn bệnh cao huyết áp làm chân tay bà ấy không vững lắm. Mỗi khi cơn cao huyết
áp tới là chân tay bà ấy khó điều khiển, nó run rẩy khiến toàn thân bà lẩy bẩy,
đi đứng liêu xiêu. Ông Thanh lại cúi đầu, tròng mắt rơm rớm nước, nếu không có
chuyện xẩy ra thì chắc những ngày này ông và gia đình đang tất bật cho việc người
ta tới ăn hỏi rồi bàn chuyện xin cưới của đứa con gái lớn. Cuối tháng trước khi
tới thăm nuôi ông, đứa con gái lớn đã buồn rầu thông báo bên nhà trai người ta
đã hủy hôn. Ông biết chẳng ai dại gì mà đi kết thông gia với một gia đình không
ra gì. Chẳng dại gì kết chuyện chung con với một con người đáng phỉ báng như
ông. Buồn nẫu ruột. Ông thương đứa con gái bỗng dưng sinh ra lỡ dở chuyện nhân
duyên, nó đâu có lỗi. Làm là ở ông? Ông đã vô tình làm hại đời nó như ông đã bị
lên án là làm hại đời người đàn bà làm mẹ đơn thân ấy, người đàn bà cùng làng
và kém ông tám tuổi? Làm cái thân đàn bà con gái nó là vậy đấy. Khổ đau chợt đến.
Rồi sực nhớ ra mình lúc này đang ở đâu ông Thanh ngẩng phắt lên bảng hoảng.
Trước mắt ông hình như đang nhờ nhờ bóng dáng người đàn ông
sêm sêm tuổi mình đang nằm nghiêng, một chân co một chân duỗi trong buồng biệt
giam ở trại giam Kế hôm nào. Đêm đầu tiên bị tống vào đấy ông Thanh đã trọn một
đêm không dám ngủ. Ông đứng run rẩy chân cẳng mà không dám tựa lưng vào tường cất
tiếng hát, tiếng hát trong nỗi đau thân xác và nỗi đau tinh thần khiến nó như
có hồn nghe ai oán thê lương. Những câu hát thê lương buồn tủi lại là câu hát
ru tuyệt vời nhất cho kẻ đang nằm kia say giấc. Ông ta ngủ ngáy vang rền, tiếng
ngáy nghe như thác đổ. Ông Thanh đã hát và hát mãi, hát mãi cho tới khi giọng
khản đặc chỉ còn tiếng khè khè như tiếng con mèo hen rên ỉ ả. Mãi cho tới sáng
bảnh ông mới được nghỉ hát. Cũng may là người đàn ông vũ phu đã rủ lòng thương.
Người ấy phả ập thứ mùi như mùi phân chuồng lợn vào mặt ông cười hênh hênh. Nụ
cười của người mãn nguyện sau giấc ngủ đã mắt. Ông Thanh bấy giờ mới kịp nhìn kỹ
người đàn ông lạ lùng và độc ác ấy trước khi đôi con mắt ông kéo sụp lại trong
cơn buồn ngủ đang sầm sập kéo tới. Đó là một người sêm sêm tuổi ông nhưng độ từng
trải tới mức dạn dĩ. Da mặt nổi đầy mụn trông sần sùi làm cho gương mặt người ấy
thêm vô cảm, thứ da được gọi là da thiết bì nhưng nó lại nhờn nhợt, chắc là vì
lâu ngày ngồi trong buồng giam thiếu ánh sáng. Chỉ giọng nói là còn đầy dằn dữ
và khiến người khác phải khiếp hãi.
Ông Thanh nhắm nghiền hai mắt. Hình ảnh người đàn ông da mặt nổi
sần, thứ da thiết bì lại hiện về dữ tợn cho dù đôi con mắt ông ta lúc ngủ chỉ
là hai vệt đen sì chạy ngang khuôn mặt bè bè. Cái đầu trọc lốc đặt tròn tròn
trên bệ xi măng xám lạnh khi nhìn lại liên tưởng đến cái sọ người mới được bốc
cất dưới mộ lên, mùi phân chuồng lợn đang bốc lên từ cái miệng mở rộng thở khè
khè. Chốc chốc ông ta lại đưa cả hai bàn tay luồn vào trong cạp quần gãi sồn sột.
Tiếng gãi sồn sột của ông ta cứ như ở đấy đang lúc nhúc những con rệp chạy loằng
nhoằng. Ông Thanh tái mặt. Hình như những con rệp kia đang tìm cách bò sang bẹn
ông. Mới có một đêm được biết thế nào là trại giam khiến ông tái mặt. Người đàn
ông kia xét về bộ dạng chắc phải là loại giang hồ cộm cán mà người ta gọi đó là
đầu gấu. Ở chung trong cùng trại giam với những loại người như thế này làm những
người tù khác cùng vô cùng kinh hãi. Nỗi kinh hãi còn lớn hơn nỗi sợ bị thẩm vấn.
Bàn tay của người ấy sau hồi gãi gãi trong đũng quần lại đưa lên mặt, ông ta
thò ngón tay ngoáy ngoáy lỗ mũi. Tiếng ngoáy ngoáy lỗ mũi không nghe sồn sột những
lại thấy nóng ran như chính cái ngứa mũi của người kia đã truyền sang ông. Sự
ngứa ngáy như có phép lây lan kỳ lạ. Trong một nơi chốn có từ hai người trở lên
hễ một người này gãi ngứa là tức khắc có người tiếp theo cảm thấy trong người
mình cũng bị ngứa ngáy. Người ta gọi đó là phản ứng dây chuyền, hay còn gọi là
hội chứng đám đông. Ông Thanh bỗng thấy ngứa ngáy khắp người, ngứa ngáy đến tưởng
không chịu nổi. Thực ra đã mấy hôm nay ông đâu có được tắm rửa hay thay áo quần,
thực ra đã mấy hôm nay người ngợm ông như con trâu đằm trong vũng bùn. Mồ hôi đổ
ra và mùi mồ hôi chua loét đến ông cũng thấy ngượng với chính mình huống hồ là
người khác. Và cũng thực ra là vì ông đã đứng cả đêm qua để hát. Đứng lâu chân
tay tê dại, sự tê dại như có trăm ngàn con kiến bò đốt râm ran khắp thân thể. Đứng
lâu mình mẩy căng cứng như bị bó giò, trăm ngàn mũi kim đang châm đang chọc vào
mình vào mẩy khiến người thấy ngứa ngáy. Nhưng hễ ông vừa định xuống giọng hát
nhỏ đi là tức khắc người đàn ông nằm ngiêng lại cọ cựa chân tay như định chồm dậy.
Ông ta quả là người thính ngủ, những lúc ông Thanh hạ giọng xuống là ông ta lại
lè nhè rồi cất tiếng rít lên, tiếng rít qua kẽ răng làm bốc lên mùi phân chuồng
lợn rất khó ngửi nhưng đầy quyền uy.
Ông Thanh bây giờ mới định thần lại được. Lòng chưa nguôi bảng
hoảng. Ông đang thụ án trong trại giam Hoàng Tiến bên Hải Dương chứ không phải
đang chịu cảnh tạm giam trong buồng biệt giam chật chội và bức bối. Đêm đó
trong buồng biệt giam của trại giam Kế ông Thanh đã đứng và hát tù tì bài này nối
bài kia. Ông hát chưa xong bài này trong óc đã hình dung ra bài hát tiếp theo.
Bài hát nào không thuộc ông cũng phải à á a như đang thuộc lòng vậy. Cũng may từ
ngày trẻ ông đã thích hát nên còn biết khá nhiều bài. Cũng may, nếu không ông
chỉ còn nước phải ăn những quả thọi choáng váng mà thôi. Hát mãi hát mãi cho tới
tận lúc sáng bảnh ông mới hạ giọng nhỏ dần và dừng hát được. Ông lên gân lên cốt
lấy hết sức lực cùng thần kinh của mình để nhẹ nhàng từ từ hạ thấp dần tấm thân
mỏi rã rời và đau rã rời xuống. Cặp mắt ông không dám rời khỏi người đàn ông da
mặt thiết bì đang nằm ngủ. Nhất cử nhất động đều khẽ khàng cho dù lúc đó toàn
thân ông chỉ muốn được lăn ra nằm thỏa thê. Nhất cử nhất động đều nhẹ nhàng cho
dù chân tay lưng gối đều mỏi rã rời như đi mượn, cả người ông chỉ chực đổ ập xuống.
Bóng tối lại lần nữa ùa tới bưng kín lấy đôi mắt khi ông vừa hạ được cả người
xuống cái nền đất lạnh lẽo. Ông Thanh ngã xoài xuống nền buồng biệt giam, ngất
lịm đi. Ông mê man trong nỗi đau đớn thể xác và đau đớn về mặt tinh thần tới
cùng quẫn.
Sao người với người lại có chuyện ức hiếp lẫn nhau? sao người
với người lại có chuyện đem ý chí của người này áp đặt lên người khác? sao người
với người lại có chuyện đày đọa nhau? sao người với người lại có chuyện kẻ mạnh
lấn lướt kẻ yếu? sao người với người lại có chuyện bắt phải phục tùng nhau? sao
người với người lại có chuyện không dưng đổ lỗi cho nhau? sao người với người lại
có chuyện lấy tội của người này làm công cho người khác? Ông Thanh mê đi trong
mớ câu hỏi dồn dập đến trong đầu. Quả tình sự việc của mấy hôm nay đối với ông
là những câu hỏi không có câu trả lời.
Người đàn bà nằm dưới đất. Thân thể như không còn mảnh vải
che ngang. Máu phun ra chảy thành vũng quanh chỗ chị ta nằm. Mùi máu tanh tanh
lờm lợm như lôi kéo con chim lợn ở đâu bay đến. Nó cất tiếng kêu rợn tóc gáy rồi
vụt đi mất dạng trong bóng đêm. Người đàn bà nằm bất động giữa vũng máu mặc cho
thằng con mười tháng tuổi gào khóc thèm sữa mẹ. Mùi tử khí lẩn khuất rồi bao
trùm khắp căn nhà nhỏ.
HAI
Đoạn dốc ngắn và thấp nằm trên con đường liên thôn nối
làng Me với thôn Chằm thôn Chạ cùng xã chính là dấu tích còn lại của gò sấu.
Theo những người cao tuổi trong làng kể lại thì, thuở xa xưa gò sấu được hình
thành như một chứng tích của lịch sử, bởi nơi đây chính là một chiến địa nơi diễn
ra những trận chiến dữ dội. Trận giao tranh giữa nghĩa quân Lê Lợi với quân cứu
viện của nhà Minh do Đô đốc Thôi Tụ cầm đầu đã diễn ra rất quyết liệt ở đây. Về
lai lịch của gò sấu thì sử sách tuy không chép lại nhưng người dân làng Me, tên
gọi sau này của ngôi làng, đời nọ truyền đời kia đều như chép đã nói rất rõ. Từ
cuối năm 1426, nghĩa quân Lê Lợi trong thế thắng chẻ tre đã giam chân đại quân
nhà Minh trong thành Đông Quan. Cảm thấy thế đã cùng, lực đã kiệt và đã bị dồn
tới thế bị tiêu diệt hoàn toàn nhưng giặc Minh vẫn ngoan cố, một mặt chúng viết
thư cho Lê Lợi xin giảng hòa để rút về nước nhưng một mặt còn vì nghi ngờ thiện
chí của nghĩa quân nên chúng cầu quân cứu viện từ chính quốc tới.
Quân cứu viện nhà Minh sau khi vượt Ải Nam Quan đã bị nghĩa
quân ta chặn đánh quyết liệt, bị chia cắt khiến chúng không liên kết được với
nhau. Một bộ phận lớn quân cứu viện nhà Minh sang đã phải dừng chân và đóng trại
trên một cánh đồng có tên gọi là Xương Giang, cánh đồng này nằm bên bờ bắc sông
Thương. Nhưng cũng chính tại đây quân cứu viện của Minh trong thế cô lập đã bị
nghĩa quân Lê Lợi vây đánh, chúng nhanh chóng tỏ ra yếu ớt, chống đỡ một cách
vô vọng và cuối cùng bị nghĩa quân Lê Lợi tiêu diệt. Chủ tướng Thôi Tụ của bộ
phận quân cứu viện nhà Minh này phải lê gối dâng tờ tạ tội mới thoát khỏi tội
chết.
Đó lại cũng là những ngày cuối thu đầu đông của năm 1427. Xác
quân cứu viện nhà Minh nằm ngổn ngang khắp cánh đồng Xương Giang. Xác chết nằm
dồn chất đống bên nhau, khiến mùi tanh hôi lan xa hàng dặm. Chỉ sau một đêm cả
cánh đồng hoang vu cỏ lác thành một cái mả khổng lồ. Cái mả khổng lồ ấy qua thời
gian bị mối xông mối đùn đã hóa thành đất tạo nên một cái gò cao. Không hiểu
sau này ai đó đã đem trồng lên cái gò vốn là cái mả khổng lồ chôn xác giặc Minh
đó những cây sấu, một loại cây dáng cao, lá rậm. Những cây sấu đó lớn rất nhanh
và tỏa bóng lá xanh rì che rợp khắp cả gò sấu, những cây sấu cao to đã biến cái
gò vốn là mả giặc đầy ma muội lại càng trở nên ma muội. Từ đó cái mả khổng lồ
chôn xác giặc Minh được người dân quanh vùng gọi là gò sấu. Một cái gò đất um
tùm lá sấu giữa vùng đất bằng phẳng bên sông Thương.
Giặc dã đã tan những người dân bảo nhau trở về cánh đồng
Xương Giang lập lại làng. Ngôi làng nhỏ ban đầu hình thành cách gò sấu không xa
nên mọi người gọi là làng Sấu. Làng Sấu có lẽ được ra đời từ đó. Nhưng cái tên
“Sấu” nghe không đẹp không chữ nghĩa chút nào nên người dân làng Sấu gọi chệch
tên làng mình thành “làng Me”. Đại loại me hay sấu cũng đều ám chỉ loại cây
sinh ra thứ quả chua chua mà thôi. Làng Me chính là quê hương của ông Thành.
Gò sấu ngày trước là một cái đống màu xanh lớn, nhìn nổi trội
giữa cánh đồng Xương Giang và um tùm cây sấu cũng nhỏ dần và thấp dần theo thời
gian thành một gò nhỏ tương đối bằng phẳng như ngày nay. Nhưng theo những người
già trong làng Me kể lại thì chính cái gò này từ hồi chưa mọc lên những cây sấu
ấy, nghĩa là ngay cái hồi xác quân cứu viện nhà Minh còn phơi chất đống, còn
phơi nắng phơi sương ấy. Xác quân cứu viện nhà Minh nằm chết trương phềnh, thối
rinh đã lôi kéo cơ man nào là lũ quạ đen, lũ chim lợn về ăn xác thối. Người già
còn kể, ban ngày lũ quạ đen bay rợp đất, chúng sà xuống bu thành đám để ăn xác
chết, chúng kêu đập cánh quàng quạc kêu inh ỏi cả một vùng. Còn vào đêm đêm lũ
chim lợn bay về kêu “éc” như nơi đây có trăm ngàn con lợn thi nhau giành mồi
ăn. Tiếng kêu của bầy chim lợn nghe ghê rợn, nghe còn khủng khiếp hơn tiếng
binh khí, tiếng người rên la than khóc ngày diễn ra trận giao tranh quyết liệt.
Từng bầy chim lợn ùn ùn bay về náo loạn khắp vùng, làm quấy đảo mọi sinh hoạt của
người dân quanh vùng. Những ngày náo loạn đó vùng này bỗng trở nên hoang vu và
nẻo khuất đến khủng khiếp, không một ai dám bén mảng đến. Rồi cho đến một ngày
không biết là ai đã đem trồng chính nơi dồn đống xác quân cứu viện nhà Minh đó
những cây sấu. Loài cây sấu thật hiếm, nó như gặp đất bỗng trở nên tươi tốt.
Cũng tại bởi lâu ngày nên xác chết quân cứu viện nhà Minh dần hóa thành bùn
thành đất. Một thứ đất cho cây sấu lớn nhanh, mọc um tùm thành gò trên cái mả
khổng lồ. Những cây sấu qua năm tháng đã tự nhiên mà góp phần phục hóa đất đai
làm phai nhạt đi nỗi khiếp sợ cho mọi người. Gò sấu bỗng trở thành nơi trú ngụ
cho những con quạ đen, cho những con chim lợn. Người già trong làng kể lại,
chim lợn cứ đêm là bay vụt ra từ những tán lá cấy sấu um tùm. Chim lợn bay đi
săn chuột đồng thay cho việc ăn xác thối. Mỗi khi đâu đó có người chết là lũ
chim lợn cất tiếng kêu báo hiệu làm hãi hùng khắp làng trên xóm dưới.
Làng Me là nơi ông Thanh đã sinh ra và lớn lên ở đó. Ngày biết
thế nào là sợ thì gò sấu cùng bầy chim lợn và lũ quạ đen chỉ còn trong những
câu chuyện kể mỗi khi người lớn muốn mắng mỏ bọn trẻ con nghịch ngợm. Người dân
đến lập làng cũng góp phần làm cảnh hoang vu ghê rợn dần sao nhạt. Lũ quạ đen
không còn nơi trú ngụ đã bay đi đâu đó, chỉ còn lại dăm ba con chim lợn ban
ngày rúc đầu vào tán lá sấu ngủ im lìm, thi thoảng lắm chúng mới có cơ hội cất
tiếng kêu quen thuộc của loài chim đặc biệt này. Nhưng trong tâm trí của chú bé
Thanh, rồi sau này là ông Thanh, thì tiếng kêu “éc” khô khốc lại đanh rợn trong
đêm cứ ám ảnh mãi. Người ta thường nói, điều gì hễ còn ám ảnh là nó sẽ vận vào
người sau này.
Gò sấu bây giờ bị san lấp dần để lấy chỗ cho người dân làm
nhà. Làng Me thuở ban đầu đã quá nhỏ, nó không còn đủ chỗ cho những cư dân mới
ngày một thêm nhiều lên. Người làng Me lân la đến sát chân gò sấu hơn. Lân la gạt
đất san nền dựng nhà. Xác quân cứu viện nhà Minh không còn là những thây
ma nữa, xác đã biến thành bùn thành đất. Thời gian đã xóa đi mọi ký ức hãi
hùng. Tiếng kêu của lũ chim lợn cũng thưa nhưng với ông Thanh nỗi ám ảnh có từ
ngày bé còn chưa nguôi. Thằng bé Thanh rất sợ ngồi nhà một mình, nó ngồi nhà một
mình mà trong đầu trong óc lại tưởng tượng ra tiếng con chim lợn kêu đánh “éc”
báo hiệu ai đó trong làng vừa chết. Có người chết là có hồn ma, hồn ma chuyên
đi bắt nạt trẻ con, bắt nạt người yếu bóng vía, người lớn thường dọa trẻ con
như vậy. Thằng Thanh cũng tin như vậy. Thành thử nếu không may mà lại có một
đêm nào đó nó chợt nghe được tiếng con chim lợn kêu thì thế nào thằng Thanh
cũng len lén túm vạt áo mẹ đòi ngủ cùng. Nó sợ cảnh người chết, sợ những hồn ma
lảng vảng trong bóng tối, hồn ma lượn lờ trên những con đường hay lối ngõ vắng
vẻ tìm cách bắt nạt trẻ con.
Tiếng kêu “éc” của chim lợn bám diết tâm tưởng thằng Thanh
cho tới tận cái ngày mà nó trở thành một người đàn ông chững chạc, trở thành một
người chủ gánh vác vai trò trụ cột của một gia đình đủ có con trai lẫn con gái.
Tiếng kêu “éc” theo đến một ngày ông Thanh cảm thấy có chuyện gì đấy đã xẩy ra.
Người làng Me có những cách lý giải của riêng mình. Những
cách lý giải bắt đầu bằng việc kể những câu chuyện tưởng chừng xưa cũ, tưởng chừng
đã quên, tưởng chừng mông lung với trẻ con. Và dĩ nhiên nó trở thành bài giáo
huấn mà mỗi ông bố hay bà mẹ nào khi kể chuyện làng ngày xưa cho con cái mình.
Ngày vừa tròn bảy tuổi, chú bé Nguyễn Hữu Thanh lần đầu tiên được cha mình là
bác Nguyễn Hữu Tiến lý giải chuyện ngày xửa ngày xưa. Trong trí nhớ của thằng
Thanh thì mỗi câu chuyện kể của cha mình như là mỗi trận đánh ác liệt đang diễn
ra ngay trước mắt. Đôi mắt nó mở tròn, tận trong đáy mắt của nó hình như đang
có một cuốn phim được quay chậm lại. Cuốn phim quay chậm với những âm thanh
nghe ầm vang, đó là tiếng hô, tiếng thét vang trời đất. Đó là tiếng binh khí va
chạm vào nhau kêu loạng xoạng. Đó là tiếng người bị thương đang rên gào đau đớn.
Cuốn phim kết thúc bằng chiến thắng bao giờ cũng dành cho người chiến thắng.
Tự hào lắm con ạ. Cha thằng Thanh nhắc đi nhắc lại độc câu
nói như vậy khi hai cha con nó đã sóng hàng ngang nhau và cùng đi xuôi trên con
đường mòn màu đỏ son như dải lụa ai đó trải phơi trên mặt con đê chạy ôm lấy
bìa làng. Từ trong làng Me muốn đi lên con đê, hai cha con phải đi qua gò sấu.
Nắng chiều hắt ngiêng, soi ngả bóng những cây sấu cổ thụ cao lớn. Bóng cây sấu
ngả xuống che rợp con đường liên thôn. Con đường liên thôn bây giờ thoáng rộng
chứ ngày đó mới chỉ là con đường mòn nhỏ chạy vòng vòng quanh những thửa ruộng
rồi men dưới chân gò sấu và nó rất nhỏ, nhỏ chỉ đủ cho một chiếc xe cút kít có
độc mỗi một bánh xe bằng gỗ chở lúa về sân kho hợp tác. Bóng cây sấu rủ xuống
làm mát cả con đường. Một màu nâu xám nhìn mát lịm in đậm giữa ran ran màu nắng.
Hôm đó là một buổi chiều mùa hè năm 1968. Về chiều nhưng nắng còn nồng nã. Về
chiều mà ánh nắng còn soi vàng cả cánh đồng. Lúc đi qua ngang qua gò sấu, hai
cha con thằng Thanh đứng dừng lại. Thực ra là bác Tiến muốn cho thằng Thanh được
dừng nghỉ nơi có bóng mát để nó thở. Cho nó lấy lại hơi sức sau khi nó đã cố dảo
những bước chân ngắn cũn cho theo kịp những bước chân sải dài đều đặn, những bước
chân đi đều giống các chú bộ đội tập đội ngũ của cha nó. Thằng Thanh chưa bao
giờ được cùng cha nó đi chơi khi mà ngoài trời còn nắng rát như thế này. Từ đây
nhìn sâu lên gò sấu chỉ thấy rậm rạp và tối u u bí ẩn.
– Trên gò sấu có ma hả bố?
Thằng Thanh mắt nửa nhắm nửa mở. Nó có vẻ sờ sợ, đứng nép sát
vào người cha mình, hướng câu hỏi lên gò sấu nó hỏi thì thầm nhưng câu hỏi nghe
rất quan trọng.
– Làm gì có ma. Trên đó chỉ có những con chim lợn đang ngủ
thôi.
– Sao chim lợn lại ngủ ban ngày?
Bác Tiến không trả lời ngay và cũng không cúi người nhìn xuống
đôi mắt vừa lén mở to của thằng con trai đang ngước lên. Bác Tiến biết, nếu cúi
xuống và nhìn vào đôi mắt nửa nhắm nửa mở của thằng Thanh lúc này sẽ làm nó ngờ
vực. Không nhìn tức là dửng dưng. Dửng dưng tức là không có gì đang ngại, coi
như chẳng có chuyện gì phải hãi cả.
– Chim lợn ngày ngủ, tối bay đi săn chuột.
– Ban đêm tối thế làm sao chim lợn nhìn được chuột mà săn chuột
hả bố?
– Chim lợn nhìn được trong bóng đêm.
– Như mắt con ma ấy á?
– Ai bảo con thế?
– Con không nhớ. Nhưng chỉ có ma mới nhìn được mới đi lang
thang trong bóng đêm. Chim lợn bay trong bóng đêm được tức là chúng nhìn được.
Ăn nói lập luận hơi lý sự nhưng câu nói của thằng Thanh cũng
làm ông Tiến phải ngập ngừng. Quả là câu hỏi kiêm luôn cách giải thích này cũng
làm người lớn phải bí. Bác Tiến ngập ngừng chưa tìm được câu trả lời nào đủ để
cho thằng Thanh vừa không sợ vừa hài lòng cái tò mò trẻ con của nó. Tít trong
sâu tít trên gò sấu thoảng vọng xuống tiếng gì nghe vu vu, nghe rờn rợn. Một
thoáng băn khoăn làm bác Tiến nửa muốn thôi câu chuyện ma quỷ này, nửa lại muốn
giải thích cho thằng con trai. Trẻ con đầu óc non nớt. Nói thật chúng ít tin.
Nói đùa chúng tin nhiều.
– Không có ma. Người ta đùa thôi.
Bác Tiến nói khẳng định. Đôi mắt chú bé Thanh chưa thôi ngờ vực
bởi tiếng vu vu vọng xuống nghe như có tiếng thổi gió của ai đó đang thổi vào
mang tai. Ban đêm mà tự dưng có ai dón dén lại sau lưng và thổi một luồng gió
vào mang tai kể cũng rùng mình. Thằng Thanh đã đôi lần bị dọa trêu cái trò trêu
đùa dọa ma ấy. Nó thêm sợ hãi đứng nép chặt hơn nữa vào sườn cha mình. Luồng
gió lành lạnh cũng từ trong tít gò sấu bung tỏa xuống chỗ hai cha con đứng khiến
người dũng cảm nhất cũng sởn gai ốc. Thằng Thanh nói lí nhí.
– Có ma thật đấy bố ạ.
– Những người dũng cảm không sợ ma. Con có dũng cảm không?
– Dũng cảm là gì hả bố?
– Dũng cảm là không sợ… sợ ma ấy.
– Như các chú bộ đội á?
– Đúng. Các chú bộ đội không sợ ma.
– Bố là “chú bộ đội”, bố cũng dũng cảm.
– Sao con biết?
– Vì đã là “chú bộ đội” thì đều dũng cảm.
Đó là buổi đi chơi đầu tiên chỉ có hai cha con. Một buổi đi
chơi mà mãi sau này thằng Thanh vẫn còn nhớ. Tâm trí trẻ con tuy nông cạn nhưng
những gì đã in đậm thì lại nhớ rất sâu. Chuyện được đi bên cạnh cha đàng hoàng
như hai người lớn với nhau là một ký ức sâu đậm. Hôm đó cha nó đã cùng nó đi
lên con đê làng. Con đê sững sừng chắn dòng nước sông Thương, mùa này nước sông
Thương đỏ ngầu vỗ oàm oạp vào mạn đê. Chiều hè ran ran nắng. Nắng soi vàng mặt
đê nhưng nắng lại làm dòng nước sông Thương đã đỏ lại thêm thêm óng ánh.
– Con biết không?
– Dạ.
– Mai bố đi chiến đấu.
– Như chuyện ngày xưa nghĩa quân giết giặc Minh chứ gì?
– Con biết giết giặc là để làm gì không?
– Nhưng con sợ lại có nhiều…
– Con sợ có nhiều gì?
– Sợ sẽ có nhiều người chết. Lại có nhiều ma nữa. Bố ơi, thế
bố đi chiến đấu bố có bị chết không?
– Sao con lại nói thế?
– Chiến đấu giết giặc chắc sẽ có nhiều tên giặc bị chết. Có
người chết là sẽ có ma bố ạ. Bố chết bố sẽ hóa thành ma nhưng ma bố đừng về dọa
con nhé. Con muốn ma bố là con ma tốt. Con ma tốt đi giúp người ấy.
Câu chuyện được chú bé Thanh chuyển hướng. Thực ra trong tâm
trí của chú là cứ ở đâu hễ có đánh trận, có giết giặc là ở đó sẽ có người chết
và hễ có người chết là có lũ quạ đen cùng bày chim lợn bay về ăn xác thối. Tức
là sẽ có ma vậy.
– Bố sẽ không chết. Bố sẽ sống để trở về với con.
– Bố hứa nhé?
– Bố hứa….
Bác Tiến nói hơi ngập ngừng. Bác kéo thằng Thanh lại sát người
mình hơn. Câu nói thật thà và còn ngô nghê của thằng con trai lên bảy làm bác
chùng xuống, bác khẽ nhăn mặt để xua đi câu nói ấy trong đầu mình. Những tia nắng
lọt qua tán lá sấu bất chợt làm gò sấu bừng sáng. Vẻ thâm u lạnh gáy thoáng chốc
biến mất.
Ông Thanh ngước nhanh lên ô thoáng. Nắng chiều đang chiếu
xiên khoai, nắng xiên khoai đã vô tình làm lọt một tia sáng vào trong buồng giam.
Tia sáng in dài xuống nền buồng giam đang vẽ một dải ánh sáng trên cái nền xi
măng thâm nâu và bóng trơn. Nhìn hình ảnh đó ông Thanh lại buông tiếng thở dài.
Vậy là mình đã ngồi trong này được đúng bốn năm. Bốn năm ngồi tù sao dài đến vậy.
Bốn năm ngày nào ông cũng đều đặn vào các tầm sáng, chiều và tối ngước mắt nhìn
lên ô thoáng. Nhưng hôm nay như có gì đó lạ lắm. Từ sáng tới giờ ông Thanh luôn
có tâm trạng bồn chồn. Từ sáng đến giờ ông Thanh luôn ngẩn ngơ. Ông tự phá cái
lệ hàng ngày của mình. Ông đã không nhớ từ sáng đến giờ mình đã nhìn lên ô
thoáng kia bao nhiêu lần. Lần nhìn này lên ô thoáng ông Thanh đã thấy có một vệt
nắng lọt tới như một câu chuyện mới chợt lóe lên.
Giật mình với ánh sáng của câu chuyện mới đang lóe lên tình cờ,
ông Thanh thẫn thờ trở lại trong cảm xúc thường ngày. Cảm xúc buồn trống buồn
chếnh và buồn tắt lịm mọi hy vọng. Ông tự hỏi trong mung lung, tự hỏi trong
lẫn lộn giữa thực và mơ. Sao lại có những sự trùng hợp đến kỳ lạ như vậy?
Sao tự dưng hôm nay ông lại nhớ về kỷ niệm của đúng bốn mươi năm về trước? Sao
trong đời mình lại có những con số bốn đầy tính liên tưởng? Bốn tức là tứ. Mà tứ
đọc chệch có nghĩa là tử. Tử nghĩa là con nhưng tử cũng có nghĩa là chết. Con số
bốn. Chữ “tứ” và chữ “tử” sao lại đi kèm bên nhau như sự hiệu báo của số phận?
Bốn mươi năm trước, cũng vào ngày này, lần đầu tiên ông Thanh
được cha mình dẫn đi chơi trên con đê chạy ôm lấy bìa làng Me. Sông Thương từ
nguồn đổ về đến đoạn sắp chảy qua Phủ Lạng Thương thì con sông chợt uốn vòng
như chính dòng sông ấy muốn ôm trọn cái làng nhỏ đơn sơ có cái tên giản dị được
đọc chệch đi từ một cái tên không đẹp đẽ. Lần đi chơi đầu tiên chỉ có hai cha
con không ngờ lại là lần đi chơi cuối cùng. Lần ấy cha ông được cấp trên cho về
nghỉ tranh thủ đột xuất. Đợt nghỉ phép ngắn ngủi và không hẹn trước chỉ diễn ra
đúng bốn ngày. Bốn ngày ông được cha mình dẫn đi chơi khắp làng. Như có gì đấy
rất kỳ lạ mà lúc này ông Thanh mới tạm cắt nghĩa được. Bốn ngày nghỉ phép ngắn
ngủi là bốn ngày cha ông dẫn ông đi chơi khắp chốn. Hình như cha ông muốn nói
câu gì đó trong đợt nghỉ phép ngắn ngủi này. Hình như cha ông có linh cảm về sự
ra đi mãi mãi của mình mà bốn ngày nghỉ phép ngày nào cha ông cũng đi quanh
làng, gặp ai cha ông cũng chào hỏi thân thiết, đến chỗ nào cha ông cũng đứng dừng
lại ngắm nghía hồi lâu. Đôi lúc cha ông đứng lại, người thẫn thờ như vừa đánh mất
thứ gì. Ngày đó thằng Thanh còn quá nhỏ để hiểu chuyện linh cảm, mà thực ra sự
linh cảm là một cái gì đó vô hình nên ai nào đoán định. Thằng Thanh chỉ tung
tăng đôi chân để cố theo kịp bước chân của cha, nó đang sướng rơn lên vì được
đi chơi cùng cha. Từ ngày cha nó đi bộ đội, nhà nó luôn vắng hình bóng của cha
nó, bởi vậy dịp này nó sướng rơn cũng phải, nó sướng như người bắt được của.
Hơn nữa nó lại được cha nó dẫn đi chơi như hai người lớn với nhau vậy. Hình như
cha nó muốn dặn dò nó điều gì mà ông không thể nói ra. Thi thoảng nó lại thấy
cha nó quay đầu nhìn ngiêng sang phía nó chằm chằm. Đôi mắt cha nó lạ lắm, rất
lạ. Từ trong ánh nhìn của đôi mắt cha nó có những tia sáng ấm áp. Từ trong ánh
nhìn của đôi mắt của cha nó có những lời thủ thỉ. Cha nó lại lắc đầu quay sang
nhìn lảng ánh đi hướng khác. Lần này cha nó nhìn ra xa, cha nó nhìn xa tít sang
bờ bên kia của sông Thương. Thằng Thanh cũng nhìn nhưng nó không nhìn sang bên
kia sông. Nó nhìn xuống bến sông với một lối mòn chạy từ trên đên xuống. Giờ
này bến đò sang sông thưa khách. Dưới bến chỉ có mỗi con đò được níu buộc vào
chiếc cọc cắm trên bờ. Không có người chèo đò, không có ai đứng dưới bến chờ
đò. Thằng Thanh ngước mắt lên giật giật tay cha nó. Cha nó không đáp lại, cha
nó vẫn nhìn sang bên kia sông. Cha nó nhìn như người đang ngóng đò vậy. Rồi cha
nó quay hẳn người nhìn về phía cánh đồng làng. Thằng Thanh cũng hóng đôi mắt
nhìn theo. Nó chỉ thấy nắng chang chang, chỉ thấy toàn những thứ nó đã nhìn thấy,
ngày nào nó cũng nhìn thấy nên chẳng có gì là lạ cả. Sao ánh mắt của cha nó cứ
nhìn đăm đắm? Chiều đang nguội ngày. Trên đê gió đã chuyển mát. Hai cha con đi
sóng ngang hàng nhau như hai người bạn. Họ đã đi như một cuộc dạo chơi cuối
cùng?
Đúng là cuộc đi chơi cuối cùng. Buổi sáng hôm, sau tức là sau
buổi chiều hai cha con đi xuôi trên con đường mòn như dải lụa phơi trên mặt đê,
sáng hôm sau khi ngủ dậy thằng Thanh đã không thấy cha mình đâu nữa. Nó chạy ra
sau nhà gọi toáng lên, không thấy cha đâu. Nó chạy tút ra ngoài bìa làng gọi
toáng lên, cũng không có cha nó đứng ở ngoài đó nhìn xa xăm khắp cánh đồng. Nó
chạy cắm cúi đến gần gò sấu, bước chạy của nó chậm lại, mắt nó nhìn len lén lên
gò sấu vì chỉ sợ bất chợt trong tán lá sấu rậm xanh rì bay vọt ra một con chim
lợn. Cũng không có cha nó đứng đó chờ dắt tay nó. Thằng Thanh nhắm mắt cắm cổ
chạy qua gò sấu, nó lao một mạch lên mặt đê, không có cha nó đứng đó mỉm cười
xoa xoa đầu nó. Chiều hôm trước, khi đứng trên mặt đê lộng gió cha thằng Thanh
đã gỡ chiếc mũ tai bèo đang đội xuống, cha nó đã đội lên đầu nó. Chiếc mũ này
thằng Thanh đã mấy lần mân mê ngắm nhìn cha nó đội, mấy lần nó chỉ nhăm nhăm chực
đòi đội thử mà không dám lên tiếng, trong suy nghĩ của thằng Thanh thì hễ những
ai đã được đội chiếc mũ đó phải là những người như cha nó, nghĩa là người ấy phải
cao lớn, người ấy phải biết nhiều chuyện và nhất là người ấy phải không sợ
ma. Chiều ấy nó sướng còn hơn được quà. Nó đã được cha nó cho đội thử chiếc mũ tai
bèo. Thằng Thanh sướng quá, nó chạy ra mép nước, nó nghiêng bên trái, nó xoay
bên phải, dưới mặt nước dập dờn cái đầu bé tẹo của nó đang ngất ngư chiếc mũ.
Nó khoái đến phởn chí quên phắt cha nó đang đứng trên đê nhìn từng cử chỉ của
nó. Mái tóc của cha nó đang bay tung tóa trước một cơn gió thổi từ dưới mặt
sông lên. Nhưng nó chợt buồn vì bây giờ mặt đê vắng ngắt không một bóng dáng
người, không có ai trông thấy nó đội chiếc mũ bộ đội của cha nó cả. Giá kể lúc
này mà có thằng bạn nào của nó trông thấy thì nó vênh mặt lắm. Làng này đã có
thằng trẻ con nào được như nó đâu?
Thằng Thanh cố đưa mắt nhìn quanh quất như thể nó không bỏ
sót một chỗ nào trên đê. Dòng sông Thương lấp lóa nở ngàn vạn ánh vàng ánh bạc
đẹp lung linh dưới nắng và cũng không thấy một bóng đò. Nhưng lúc này nó đâu có
tâm chí ngắm ngàn vạn ánh vàng ánh bạc đó. Nó tìm cha nó nhưng không thấy. Thằng
Thanh sợ hãi gọi toáng lên. Chỉ có dòng sông Thương chảy đỏ ngầu ngoài kia cất
tiếng oàm oạp vào mạn bờ là đáp lời nó.
Thằng Thanh nháo nhào cắm mặt chạy bổ về nhà. Mẹ nó đang ngồi
bên giường, mắt của mẹ nó rân rấn nước. Nó đã hiểu, cha nó sáng sớm nay đã trở
lại đơn vị. Trước khi rời khỏi nhà cha nó đã đứng rất lâu bên giường nhìn nó ngủ.
Mẹ nó giọng còn chưa nguôi thổn thức nói vậy. Cha nó đã không đánh thức nó dậy.
Cha cúi xuống vỗ vỗ vào đôi má nó. Cái vỗ vỗ êm êm đã vô tình ru thêm cho nó
vùi đầu vào gối và ngủ tiếp.
– Bố đi rồi hả mẹ?
– Bố đi chiến đấu rồi.
– Sao bố không cho con đi cùng?
– Con còn nhỏ. Muốn đi chiến đấu thì phải lớn lên đã.
– Không có con ở bên bố. Con sợ…
– Sợ gì?
– Sợ bố sẽ chết.
Mẹ thằng Thanh im lặng. Mẹ nó nghe nó nói những câu khó nghe
nhưng cũng không mắng nó ăn nói gở miệng. Mẹ nó kéo nó lại gần, ôm chặt lấy nó
như chính trong thâm tâm của mẹ nó cũng đang sợ hãi cái điều như thằng Thanh vừa
nói. Mẹ nó khẽ tát yêu vào má nó. Mẹ nó cúi đầu, những giọt nước mắt chảy xuống
đầu thằng Thanh nóng hổi.
Ông Thanh run lên như người đang sốt. Không ngờ câu nói trẻ
con thơ ngây ngày nào của mình lại ứng báo. Lần về phép ngắn ngủi ấy là lần về
nhà cuối cùng của cha ông. “Chú bộ đội” có cái tên là Nguyễn Hữu Tiến được cấp
trên cho về nghỉ tranh thủ đột xuất đã không bao giờ trở về lại nhà được nữa.
Người cha ấy đã không bao giờ thực hiện được lời hứa sẽ trở về với thằng con
trai lên bảy của mình được nữa. Người chiến sĩ ấy đã hy sinh sau lần về phép
thăm nhà cũng đúng bốn năm sau. Hè năm 1972, ông Tiến hy sinh, giấy báo tử gửi
về cho gia đình ghi vẻn vẹn dòng chữ “Được an táng tại nghĩa trang mặt trận
phía Nam”.
Ngước mắt nhìn trân trân lên ô thoáng. Ông Thanh luôn tự dằn
vặt mình, luôn tự cho mình là kẻ đã gây nên cái chết của cha mình vì đã nói câu
xui gở. Lòng băn khoăn của một người mắc lỗi làm ông Thanh thêm run rẩy trong mặc
cảm. Hôm nay đúng vào ngày giỗ của cha ông. Ngày giỗ quan trọng vậy mà ông
không có ở nhà, ông không làm được nghĩa vụ báo hiếu cho cha mình. Con số bốn
linh ứng đã trở về cũng đúng vào cái ngày của bốn mươi năm về trước, ngày hai
cha con ông gặp nhau lần cuối cùng. Câu hỏi ngây ngô nhưng đầy lo sợ của trẻ
thơ đã ứng. Cha ông đã chết. Một thoáng thất thần hiện trên nét mặt. Nhưng cái
chết của cha ông năm nào đã giúp ông thoát khỏi tội chết. Cha ông đã dùng cái
chết của mình để cứu sống ông sau bản án nghiêm khắc được tuyên cho tội “Giết
người”. Cái tội của ông. Đấy chính là tình tiết giảm nhẹ, một đặc ân mà tòa đã
xem xét khi công bố các tội danh.
Vì mình là con liệt sĩ nên mình mới thoát chết ư? Vì mình là
con liệt sĩ nên mình mới thoát chết ư? Đã bao lần ông Thanh hỏi vậy và mỗi lần
cất tiếng thầm hỏi ông lại ai oán chính mình. Cha ơi. Cha đã cứu con thoát chết
liệu cha có cứu con ra khỏi nơi này không? Ông Thanh cúi gằm mặt nức nở. Ông
khóc thực sự như một đứa trẻ.
Nắng chiều làm nóng bỏng những bức tường buồng giam. Không
khí oi nồng đến tức thở. Đưa tay lên ghìm đỡ ngực để cố nuốt miếng nước bọt
đang ứ đầy trong miệng, ông Thanh cảm thấy ngột ngạt tưởng đứt hơi. Buồng giam
chiều nay khá tĩnh lặng. Chỉ có tiếng nắng soi lách tách những chiếc lá bạch
đàn ngoài kia đưa vào. Nắng đang hong cháy những chiếc lá bạch đàn. Không gian
như trầm lại. Một không gian trầm đủ khiến những người vô tâm nhất cũng phải bắt
đầu suy nghĩ.
Bốn có nghĩa là tứ. Tứ chệch nghĩa là tử. Tử có nghĩa là con
và tử cũng có nghĩa là chết. Những lập luận liên tiếp đưa tâm trí ông Thanh vào
trận u mê. Kỷ niệm về một thắng bé ngây thơ bên người cha từ bốn mươi năm trước
không ngờ lại trở về trọn vẹn như nó vừa mới xẩy ra. Không hiểu sao cái chết cứ
đeo đẳng vào người mình thế này? Không lẽ chuyện đời mình luôn gắn với cái chết.
Không hiểu sao con số bốn lại gắn với đời mình như một định mệnh vậy?
Ông Thanh rầu rầu nhớ lại. Vào đúng cái ngày bố ông hy sinh ở
mặt trận Tây Nguyên như tờ giấy báo tử đã ghi. Tờ giấy báo tử chỉ nhỏ bằng hai
bàn tay người lớn, mặt trái tờ giấy sờ tay hơi ram ráp, mặt phải có vẻ nhẵn hơn
được viết những dòng chữ nhập nhòa. Tờ giấy có màu giống màu của gốc rạ khô đã
được mẹ ông thong thả gấp làm tư, bà cất kỹ tận đáy hòm quần áo. Hồi còn sống,
vào ngày 24 tháng 5 hàng năm là mẹ ông lại mang tờ giấy ố vàng đó ra. Bà cẩn thận
vuôn vuốt tờ giấy cho phẳng lại rồi trịnh trọng đặt lên bàn thờ. Hôm đó là ngày
giỗ của liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến. Thằng Thanh tò mò đứng nép bên cột nhà theo
dõi từng cử chỉ của mẹ.
Hôm đó, tức là ngày 24 tháng 5 năm 1972, cái ngày ghi trên giấy
báo tử nói về sự hy sinh của liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến ấy, thằng Thanh như thấy
có điềm báo (chuyện này đến giờ ông Thanh mới nhận ra). Nó đang nằm thiu thiu
ngủ trên giường chợt nghe như có tiếng ai lay gọi. Tiếng gọi nghe thoảng xa như
tiếng gió thổi. Tiếng gió thổi giữa trưa hè nghe oa oa như tiếng trẻ con khóc.
Thằng Thanh vội bật dậy, nó ngóng mắt trông ra cửa. Đôi mắt của nó nhìn trân
trân như thể đang có ai đó đứng trước cửa. Thằng Thanh dụi mắt nhìn kỹ hơn,
ngoài sân nhà nắng chang chang. Cái bóng người mà thằng Thanh hình như vừa nhìn
thấy đứng trước cửa có nét hao hao giống cha nó. Dáng gày gày, mặt xương xương,
nước da xanh tái, mái tóc lòa xòa vài sợi vương trên trán. Cha nó nhoẻn miệng
cười để lộ hàm răng bám vàng khói thuốc lào. Đó là một chú bộ đội. Rõ ràng là một
chú bộ đội. Bộ quân phục rung rúc nhưng xem ra còn tươm tất. Chiếc mũ tai bèo đội
trên đầu bị gió thổi hất ngược làm lộ vầng trán với những nếp nhăn. Chú bộ đội
trông giống người cha của thằng Thanh của buổi chiều bốn năm trước, người ấy đang
đứng thẫn thờ bên bậu cửa, người ấy nhìn xoáy vào người thằng Thanh rồi vụt lảng
bay đi. Hoảng hốt và bị kích động, thằng Thanh nhao vội theo.
Nó lao một mạch lên triền đê. Nó đã chạy tới đúng chỗ có lối
mòn dẫn xuống bến đò. Chỗ ấy nó và cha nó đã dừng lại. Nắng như rang như đảo. Mồ
hôi tứa ra ướt đầm lưng áo nhưng thằng Thanh không ngại. Nó hăm hở đuổi theo
cái bóng người cứ lảng vảng, cứ chập chờn ngay đằng trước mặt. Trên triền đê lộng
gió. Những cơn gió thổi từ mặt sông Thương lên mang theo hơi nước làm man mát
da mặt. Hơi nước làm man mát cái lưng đang ướt đẫm mồ hôi. Một cảm giác se se từ
đâu ùa tới làm thằng Thanh rùng mình liên tục.
Không có chú bộ đội nào ở trên đê cả. Bến sông trưa nay cũng
vắng. Con đò đang nằm mãi ở bên kia sông. Chỉ có dòng nước sông Thương đỏ ngầu
chảy mải miết vỗ vào mạn bờ oàm oạp. Thoáng sợ hãi thằng Thanh toan co chân chạy
về nhà nói chuyện với mẹ. Đôi mắt nó chợt bắt gặp ngay sườn đê cạnh bên lối mòn
dẫn xuống bến đò một dáng người nhỏ tí tẹo đang ngồi ôm mặt khóc nức nở. Thằng
Thanh đã trấn tĩnh lại, nó quên luôn chuyện bóng hình chú bộ đội bảng lảng vừa
xa vừa gần đang như gọi nó. Tiếng khóc nức nở hiện hữu chứ không hề mờ ảo.
Nhưng rất dón dén, thằng Thanh xuống gần tiếng khóc nức nở. Tưởng ai hóa ra lại
là con bé Chiên, con bé cùng làng Me với nó nhưng kém nó hai tuổi đang ngồi bệt
mà ôm mặt khóc.
– Mày làm sao mà khóc thế hả Chiên?
– Em sợ lắm.
– Mày trốn nhà đi đâu để ra đây ngồi khóc?
– Em đi đón mẹ.
– Mẹ mày đi đâu?
– Mẹ sang bên sông đi chợ mãi không về.
– Mày về nhà đi. Thảo nào mẹ mày cũng về. Chưa biết chừng mày
ngồi đây khóc thì mẹ mày đã ở nhà rồi.
– Nhưng em không về được.
– Sao. Mày bị đau chân à?
– Không.
– Thế thì sao?
– Em sợ.
– Mày nói nhanh lên không tao về đây.
– Em sợ cái anh kia lắm.
Theo tay chỉ của con bé Chiên bấy giờ chú bé Thanh mới nhìn
thấy thằng Thủ người thôn Chằm đang đứng trên mặt đê cánh đó không xa. Thằng Thủ
đang cười nhăn nhăn. Thằng Thủ này ai còn lạ gì nó. Nó cùng học trường cấp 2 với
thằng Thanh nhưng lại cùng khối bởi nó bị đúp ngay năm đầu vào cấp học. Cái thằng
mà chẳng buổi sáng thứ hai chào cờ nào mà không bị bêu tên toàn trường. Một thằng
con trai hơn tuổi thằng Thanh và nó to con và nhỉnh hơn thằng Thanh dễ tới một
cái đầu. Thằng Thủ đứng cách đó đoạn ngắn cười nhăn nhăn, trông rất đáng ghét.
– E thằng Thanh còi kia. Mày động vào tao đánh cả mày đấy.
– Tao động vào cái gì?
– Mày động bênh con bé kia xem sao. Tao đánh ngay.
– Sao mày lại đi bắt nạt con gái?
– Việc gì tới mày. Tại nó đứng chắn đường tao đi.
– Nó mà chắn được đường mày?
– Chính nó.
– Có mày bắt nạt con gái thì có.
– E, thằng còi. Mày xéo đi.
– Mày phải nói với tao tại sao mày đánh nó.
– Thì tao đánh nó đấy. Tao còn đánh cả mày nữa.
– Mày dám không?
Chưa bao giờ chú bé Thanh lại dũng cảm đến vậy. Nhớ lại chuyện
này ông Thanh bất giác cười một mình. Một nụ cười phải mất tới bốn năm mới có dịp
trở lại trên môi ông nhưng đấy lại là nụ cười khi nhớ lại chuyện ngày xưa. Trưa
hôm ấy lần đầu tiên thằng Thanh dám dũng cảm một mình đứng đôi co với thằng Thủ
người thôn Chằm ở ngay trên đoạn đê trống vắng. Hú hồn hôm ấy không hiểu sao thằng
Thủ chỉ gân mặt lại. Nó đứng như trời trồng khi bất ngờ thằng Thanh dám lên tiếng
bảo nó bắt nạt con gái là thằng hèn. Nó bất ngờ vì xưa nay có thằng con trai
nào cỡ tuổi như vậy lại dám cãi lại nó và đứng ra bênh vực cho một đứa con gái.
Nó bất ngờ vì tình huống diễn ra xưa nay chưa hề có. Thằng Thủ Chằm đứng gân mặt,
mắt gờm gờm, bàn tay nó nắm lại thành quả đấm nhưng nó không động thủ. Thằng Thủ
Chằm chỉ gờm gờm rồi quay phắt bỏ đi, nó vừa bỏ đi vừa hát ê ê “Lêu lêu. Thằng
Thanh con Chiên là hai vợ chồng. Lêu lêu. Hai vợ chồng, chống vợ hai. Lấy lá
gai cài lá mít. Lấy lá mít dít vào mông. Lấy lá hồng chồng lá gai. Lấy lá gai
gài lá mít….”
Những ai ở thôn Chằm và cả ở làng Me đều không lạ gì thằng Thủ
này. Một thằng con trai mới mười hai tuổi nhưng đã nổi danh. Nổi danh với biệt
danh “Thủ Chằm” nghĩa là thằng Thủ người thôn Chằm. Cái biệt danh ấy người làng
Me, người thôn Chằm ngỡ đã chấm hết nghe thấy khi hai năm sau nó cùng gia đình
chuyển đi nơi khác sinh sống.
Nghe tên nó những thằng con trai hơn nó vài tuổi cũng ngại bởi
vì thằng Thủ Chằm vô cùng liều lĩnh. Thằng nào lơ mơ dám đấu chọi với nó coi
như ăn chắc thua. Da đen như con dế trũi, đầu húi cua, cặp mắt ti hí và đôi tay
chắc như cua gạch, thằng Thủ Chằm hễ đã muốn làm gì là nó làm bằng được. Ví dụ
như nó đi ngang qua thấy nhà nào sơ sẩy quen gài cửa thảo nào nó cũng mò vào.
Không có ai thì nó thấy gì nẫng nấy. Có người thì nó gờm gờm quay ra coi như chẳng
có chuyện gì xẩy ra. Hễ ai mắng mỏ hay quát đuổi thì nó gân mặt chửi rả. Hễ có
thằng nào định đấu với nó thì nó nắm tay lại lao vào đấm đá tới tấp. Thằng này
liều lĩnh có mả. Thằng này đã nói là làm. Vậy mà trưa hôm đó nó lại quay đi mới
lạ. Thằng Thủ Chằm sau khi ê a hát thì quay mặt lại nói rõ to “Rồi có ngày tao
cho mày biết tay thằng Thanh còi kia”. Câu nói răn đe ấy không ngờ ba mươi mốt
năm sau thằng Thủ Chằm đem ra làm thật.
Hay là cha đã về cứu con, cha che chở cho con, cha đã ngáng
không cho thằng Thủ Chằm hành động. Ông Thanh bồi hồi thầm nghĩ. Trưa hôm đó
linh cảm về một điều hệ trọng xẩy ra với gia đình mình mà thằng Thanh vùng dậy
nhao lên đê. Thôi đúng rồi. Ông Thanh rớt nước mắt. Vào đúng thời khắc cha ông
trúng đạn ngã xuống nơi chiến trường cũng là lúc thằng Thủ Chằm nắm chặt hai
bàn tay thành hai quả đấm. Thằng Thủ Chằm ban đầu định gân mặt nắm tay kiểu dọa
nạt hay dằn mặt đối thủ trước xem thái độ của đối thủ chấp nhận đến đâu rồi mới
ra tay hành động. Hình như chính thời khắc ấy linh hồn liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến
đã kịp thời có mặt và ngăn nó lại. Bằng chứng là thằng Thủ đột ngột chững người
lại, nó đột nhiên hiền lành, nó từ từ thả lỏng hai rồi mở hai bàn tay ra,
mặt nó bỗng trông tím bặm đầy hung tợn nhưng nó lại không hành động, nó quay
đi. Một điều lạ chưa từng có trong ý thức liều lĩnh và tợn mình của cái thằng nổi
danh bất hảo người thôn Chằm ấy.
Thôi đúng rồi. Linh hồn cha mình đã kịp thời xuất hiện. Linh
hồn tức là ma ấy. Ma thì ai nhìn được, ai mà trông thấy được. Người không nhìn
thấy ma những ma lại nhìn thấy hết mọi hành động của người. Hình như ma còn
nhìn được thấu cả những suy nghĩ của người nữa. Ông Thanh thở giãn ra. Lại một
nụ cười nữa hiện trên đôi môi khô quắt. Đã bốn năm trôi qua không hiểu sao những
hôm như hôm nay ông lại chợt nhớ về những kỷ niệm xa xưa. Trưa hôm ấy sau khi
thằng Thủ Chằm quay đầu bỏ đi, thằng Thanh đã lại bên con bé Chiên. Khổ thân
con bé, nó sợ quá chỉ còn biết ngồi ôm mặt khó nức nở. Hình như trong thâm tâm
con bé lúc nó cúi đầu ngồi ôm mặt như vậy cốt là để hứng đòn của thằng Thủ Chằm
cho đỡ đau hơn. Những thằng con trai, những đứa con gái làng Me hay thôn Chằm mỗi
khi thấy thằng Thủ Chằm nóng mắt lên và nắm hai bàn tay lại chỉ còn nước cúi đầu
chịu trận. Con bé Chiên chắc nghĩ vậy. Nó cúi đầu nhẫn chờ đợi mà chịu trận đòn
của thằng Thủ Chằm.
Con bé Chiên không ngờ trưa hôm đó lại có thằng Thanh xuất hiện.
Nó càng không dám nghĩ tới sao hôm nay lại có một thằng con trai dũng cảm đến vậy.
Cái thằng con trai dáng còi cọc, nét mặt luôn tư lự lại có thể giang tay che chở
cho nó. Cái thằng bé con như vậy bỗng trở nên mạnh mẽ trong suy nghĩ của con bé
Chiên. Con bé Chiên ngước mắt nhìn lên. Nó nhìn thẳng vào hai con mắt lúc này
đang lãng đãng trông xa ngoài dòng nước. Hình như bên tai thằng Thanh lại vừa
nghe thấy tiếng gì như tiếng nói vỗ về. Nó chạy vội ra sát mép nước. Dòng nước
đỏ ngầu chảy mải miết va vào mạn bờ oàm oạp. Tiếng nước vỗ đều đều giống như tiếng
người đang thầm thì đang thủ thỉ. Đôi mắt thằng Thanh bỗng ngời sáng. Nó hướng
ra xa và cũng cất tiếng thầm thì.
– Anh nói chuyện với ai à?
– Ừ. À không.
– Sao em thấy mồm anh đang mấp máy.
– Mình về làng đi.
– Anh đừng mách mẹ em nhé.
– Mách gì?
– Mách em bị thằng Thủ Chằm bắt nạt ấy.
Thằng Thanh lúc này lại ớ ra. Thì ra vừa nãy nó đã lãng luôn
chuyện con bé Chiên ngồi khóc ngay dốc đê. Thì ra vừa nãy nó lãng luôn chuyện tự
dưng nó bỗng tỏ ra dũng cảm không ngờ, nó dám cự nự với thằng Thủ Chằm.
Làng Me chỉ cách con đê sông Thương chừng một quãng đồng đất
bối. Quãng đồng còn che khuất làng bởi cái gò sấu um um cây lá. Chỉ vì cái gò
um um cây lá đó nên quãng đường từ trong làng đi lên đê vốn chỉ là một quãng
không xa lắm bỗng nhiên lại dài ra. Thường ngày chẳng có đứa trẻ con nào dám một
mình chạy lên đê chơi. Trong thâm tâm của chúng thì, chuyện phải đi qua gò sấu
một mình cho dù là giữa ban ngày ban mặt đi chăng nữa cũng là một sự mạo hiểm
chưa đứa nào dám. Không hiểu sao con bé Chiên lại một mình chạy lên đê chờ mẹ.
Không hiểu sao thằng Thanh lại một mình nhao lên đê tìm cha. Hai đứa trẻ. Một đứa
ra bờ sông chờ mẹ và một đứa chạy đi tìm cha cùng tình cờ lên mặt đê trông
ngóng. Với chúng dòng sông Thương chảy ôm lấy bìa làng chính là sự chia cắt.
Thực ra làng Me là ngôi làng vốn nhỏ và lại là ngôi làng nằm
gần đê nên làng không đông đúc lắm. Không đông đúc nên làng không có chợ. Người
làng Me muốn đi chợ đều phải xuống đò qua bên kia sông. Bên kia sông, con bé
Chiên chưa từng được qua. Bên kia sông thằng Thanh cũng chưa được một lần bước
chân xuống đò. Người làng Me ít ỏi và sống khá thầm kín như chính sự dựa vào
thân đê của ngôi làng. Người làng Me hiền lành chứ không đáo để như người thôn
Chằm. Thôn Chằm tuy cùng xã với làng Me nhưng lại nằm cách xa sông Thương một
cánh đồng khá rộng và nhất là thôn ấy lại nằm gần đường quốc lộ số 1. Người
thôn Chằm quen sự ồn ã bởi xe cộ chạy suốt ngày còn người làng Me sống quen với
thiệt thòi bởi đò giang cách trở. Người làng Me sống khuôn hẹp nên họ ít giao
tiếp. Ít giao tiếp nên người làng Me hiếm bạn bè. Hơn nữa chuyện ngày xửa ngày
xưa vùng đất bên bờ bắc sông Thương từng là chiến địa nên làng Me cũng đồng
nghĩa với một làng quê được gây dựng trên những xác chết. Đất ấy khó ở và hễ ai
đã ở đấy đều là những người nghèo hèn và yếu đuối. Chẳng biết từ khi nào nhưng
chuyện nghèo hèn và yếu đuối đã vận vào người làng Me. Thực hư chưa biết đâu
nhưng quả tình người làng Me đúng là còn nghèo còn hèn và yếu đuối thật. Chính
vì thế cho nên mặc dù con bé Chiên nằng nặc đòi thằng Thanh phải kín miệng
nhưng chính nó lại là đứa nói ra câu chuyện xẩy ra ở trên đê trưa đó. Thằng
Thanh nhanh chóng được bọn trẻ trong làng Me kính nể. Thằng Thanh dám cự lại với
thằng Thủ khác nào như là một sự kiện. Chuyện bọn trẻ con kính nể nhau đơn giản
lắm. Chúng thập thò nhìn sau lưng mỗi khi thằng Thanh đi qua. Nhìn sau lưng và
chúng lẽ lưỡi thán phục. Có đứa cao hứng nhưng chỉ mạnh mồm nói, sợ gì thằng Thủ,
có gì gọi thằng Thanh là xong béng.
Con đê sông Thương đoạn chạy ôm lấy làng Me có bờ đất rất
cao. Về chiều bóng đê ngả che rợp nhìn mát lịm. Cỏ bám thân đê xanh mướt là chỗ
cho bọn trẻ con thả trâu. Nhưng chúng chỉ dám thả trâu khi ít nhất có hai đứa
chăn trâu và có hai con trâu trở lên. Đố đứa nào dám một mình thả trâu ăn cỏ
cho dù cha mẹ chúng có mắng mỏ hay quát tháo thế nào đi chăng nữa. Đứng hay ngồi
bên sườn đê kiểu gì con mắt của lũ trẻ đều phải nhìn thẳng vào gò sấu. Gò sấu
um tùm cành lá ken nhau, tối rì rì, thi thoảng lại bay vút lên một hai ba con
quạ đen. Quạ đen đập cánh bay vút lên không trung để lại trong suy nghĩ của lũ
trẻ hình ảnh ở đâu đó có ai mới chết. Nhất là từ dạo máy bay Mỹ bay vào ném bom
khói bốc kín trời. Có đêm thì máy bay Mỹ thả bom đằng sân bay hay ngoài ga Kép.
Có đêm thì chúng bổ nhao như sắp sửa đâm gẫy mấy cái cột ống khói bên nhà máy
phân đạm. Chớp bom lóe nhập nhằng khía vào màn trời đêm như những vết cứa trên
da thịt. Sau những trận đánh phá của máy bay Mỹ là có những người chết vì bom.
Người mới chết bốc lên thứ mùi không tả được nhưng cái mùi ấy lại có sức thu
hút những con chim lợn. Con chim lợn từ trong lùm sấu bay vút đi, kêu đánh “éc”
làm lũ trẻ dù ngồi trong hầm cũng xanh mắt, run lẩy bẩy, dáo dác dựa vào nhau sợ
hãi thành thử chuyện đem trâu lên sườn đê chăn thả chẳng mấy đứa trẻ đoái hoài.
Con đê sông Thương, đoạn chạy ôm lấy làng Me, dĩ nhiên trở
thành nơi cho trẻ con làng Me thử thách sức mình, thử thách lòng dũng cảm của
mình. Thằng Thanh và con Chiên là hai đứa trẻ dám một mình chạy lên đê nên cái
tên của hai đứa vô tình cặp đôi với nhau. Hễ nói đứa nào dũng cảm nhất làng Me
là bọn trẻ đồng thanh hô to “Thanh Chiên”. Hễ nói đứa nào có sức khỏe chạy một
mạch lên đê là bọn trẻ đồng thanh chỉ tay “Chiên Thanh”. Đại loại cặp tên
“Thanh Chiên” hay “Chiên Thanh” trở thành câu nói cửa miệng của bọn trẻ con
làng Me. Ban đầu nghe réo tên cặp đôi như vậy thằng Thanh với con Chiên cũng cảm
thấy khoai khoái, mặt mũi hai đứa nở căng như hai quả thị chín. Mùi thị chín
thơm ngòn ngọt làm nước bọt mấy đứa trẻ con ứa ra chảy cả xuống cằm. Hai đứa
như hai quả thị chín làm bọn trẻ chỉ nghe réo tên đã thèm giỏ rãi. Chúng là niềm
tự hào của bọn trẻ cơ mà. Nhưng cứ réo mãi hai cái tên “Thanh Chiên” cùng lúc
cũng thấy phiền. Nghe mãi hai cái tên “Chiên Thanh” như dính vào nhau mãi cũng
ngại. Con Chiên là người đầu tiên phát hiện ra điều ngại ngùng và phiền hà ấy.
Nó là con gái mà, hễ đã là con gái thì thường nhậy cảm sớm hơn con trai. Con
Chiên đâm ra tìm cách trách mặt thằng Thanh hoặc chí ít nếu nó thấy thằng Thanh
đang đi lại phía mình là thảo nào nó cũng vòng qua ngõ khác. Hai đứa trở nên ít
giáp mặt từ đó.
Trẻ con làng Me ít có trò chơi nên chúng túm ngay lấy chuyện
hai đứa tìm cách tránh mặt nhau. Chúng đã nghĩ ngay ra một trò chơi mới. Chúng
chơi trò chế cặp đôi con Chiên với thằng Thanh. Những đứa con gái khéo tay ngắt
những bông hoa dâm bụt nở đỏ chót kết thành bó to. Những thằng con trai tinh
nghịch chạy vòng vòng quanh làng vừa chạy vừa hát câu hát hôm trước thằng Thủ
đã hát. Chúng ỉ a rất đồng thanh “Thằng Thanh con Chiên là hai vợ chồng. Con
Chiên thằng Thanh là hai chồng vợ. Hai vợ chồng chống vợ hai. Hai vợ chồng chống
vợ hai chúng mày ơi”. Đám trẻ con chạy vòng vòng, bọn con gái kéo tay con Chiên
lôi nó xềnh xệch về phía thằng Thanh. Bọn con trai đẩy lưng áo thằng Thanh, dí
người nó vào sát người con Chiên. Bó hoa dâm bụt được bọn con gái đặt vào tay
thằng Thanh, rồi chúng lại đồng thanh hét rinh ngõ “Chồng trao hoa vợ đi. Vợ nhận
hoa của chồng đi”. Tiếng vỗ tay rào rào bên tiếng hét inh ỏi. Đang giữa mùa hè,
lại được nghỉ học nên trò chơi này ngày nào bọn trẻ cũng rủ nhau cùng chơi trò
chơi làm đám cưới. Chúng làm “đám cưới” cho thằng Thanh với con Chiên. Xem ra
đúng là chúng chẳng có trò chơi nào khác thật. Thằng Thanh xấu hổ đỏ chín mặt.
Nó ngoắc ngư người, cựa quậy giữa vòng vây của mấy thằng con trai hòng thoát ra
ngoài. Nó càng cựa quậy vòng vây của bọn con trai càng xiết chặt hơn. Cái vòng
vây xê dịch xê dịch đã ẩn thằng Thanh xô dúi vào người con Chiên. Hai đứa ngã
đè lên nhau, lúng túng mãi không dậy nổi. Bọn trẻ con đồng thanh hát râm ran,
chúng lượn thành vòng quanh chỗ hai đứa ngã đè lên nhau.
“Cây tre xanh không bao giờ gãy ngọn
Giờ phút này kén chọn làm chi
Thanh ơi cứ lấy Chiên đi
Bao giờ Chiên đẻ Thanh về bế con”.
Bọn trẻ lại hát to hơn, lần này chúng đua nhau gào lên trong
tiếng cười nắc nẻ.
“Cây tre xanh hi hi không bao giờ gãy ngọn
Giờ phút này kén chọn làm chi. Hi hi
Thanh ơi cứ lấy Chiên đi
Bao giờ Chiên đẻ hi hi bao giờ Chiên đẻ Thanh về hi hi
bế con
Hi hi hi hi….”
Bọn trẻ con làng Me mải chơi trò làm “đám cưới”, chúng
đùa dai như trâu đái. Thằng Thanh ban đầu là xấu hổ. Nó đỏ dừ cả mặt
nhưng nó càng xấu hổ bọn trẻ càng không buông tha. Giả sử có trưa nào đó mà thằng
Thanh nằm chốn trong nhà bọn chúng cũng mò vào tận nhà tìm lôi ra bằng được.
Chúng lôi thằng Thanh ra đầu ngõ, mấy thằng sợ thằng Thanh bỏ chạy còn buộc dây
thừng ngang lưng nó. Bọn trẻ dong “chú rể” sang nhà con Chiên để “rước dâu”.
Dong như dong thằng giặc lái Mỹ bị dân quân bắt vậy. Thằng Thanh vừa bị dong đi
vừa khóc rấm rức, nó nghĩ rằng nó không đáng bị dong như thế. Bọn trẻ lại đồng
thanh “Chú rể khóc nhè. Chú rể khóc nhè. Ề ề ề”.
“Đám cưới” đi dong dong khắp làng. Bọn trẻ lại dong “đám cưới”
ra tới chân gò sấu. Chúng bỏ con Chiên với thằng Thanh lại đấy rồi co chân chạy
tán loạn. Con Chiên ngồi phệt xuống đất, nó không muốn bỏ chạy theo bọn trẻ. Nó
ngước đôi mắt nhìn thằng Thanh vẫn còn chưa thôi mếu máo, cái nhìn của con
Chiên thể như nó sắp hỏi “Anh Thanh có chạy đi, anh có bỏ em ở đây một mình
không?”.
BA
Lần mần, buồn buồn, rồi tiếp đến là gai gai trên da mặt.
Cảm giác rõ dần cho thấy đó không phải là luồng gió bên ngoài luồn từ ô thoáng
phả nhẹ xuống như mọi bữa. Ông Thanh đã tỉnh nhưng cảnh giác nằm im không mở mắt.
Ông giả bộ thở đều đều như đang ngủ say để theo dõi. Đêm tịch mịch. Buồng giam
cũng tịch mịch. Nhưng đấy lại chính là thời điểm cho những hành động kỳ quái của
những người bạn tù.
Nhớ lại đêm đầu tiên nằm trên bệ xi măng, cái bệ xám lạnh được
xây áp dọc theo bức tường trong buồng giam, cái bệ dành làm chỗ ngủ cho những
người thụ án, ông Thanh không sao ngủ được. Nỗi ám ảnh về cái đêm bất ngờ bị tống
vào buồng tạm giam ở trại giam Kế chưa thể dứt. Vả lại ông đã từng nghe đồn đại,
một đồn đại về một thứ “luật” bất thành văn nhưng lại được áp dụng trong hầu khắp
các buồng giam giữ phạm nhân, hễ đã có kẻ mới tới thì kiểu gì kẻ mới tới ấy
cũng phải “có màn ra mắt” tay “buồng trưởng”. Mỗi buồng giam hình như đều có một
người tù, khi thì là một người tù “có thâm niên” nằm trại, khi thì là một người
tù có máu mặt yêng hùng được mọi người tù cùng chung một buồng giam “suy tôn”
làm “buồng trưởng”. Đó là những tay tù cộm cán mà thành tích bất hảo ở ngoài đời
mới chỉ nghe danh kể thôi cũng làm những ai yếu bóng vía sợ vãi đái. Trại giam
nào chả vậy! Những người tới trước nhắn lại những người tới sau. Người qua rồi
kể lại cho người chưa qua. Nhưng ở mỗi trại giam “luật” lại có những cách “ứng
xử” khác nhau. Cách ứng xử kiểu như ở trại giam Kế được gọi là cách “vùi hoa dập
liễu”, cách này làm cho kẻ mới tới vãi linh hồn ngay phút đầu tiên, nó khiến kẻ
mới tới không kịp phản ứng, cứ tự nhiên mà hứng chịu. Không hiểu ở trại giam
Hoàng Tiến này họ đón chào mình bằng cách nào đây?
Ông Thanh “xộ khám” ở buồng giam số 6, buồng dành cho những
người chấp hành án chung thân, lúc nắng chiều đã nguội hẳn. Có một cái “lệ”
cũng bất thành văn là, hễ có người mới tới thì không bao giờ người đó được đưa
vào buồng giam khi trời còn sáng. Đưa vào buồng giam vào lúc chiều tà hay chập
tối cũng coi như là một “thử thách” đầu tiên; nói cách khác là được đưa vào thời
điểm đó, kẻ mới tới không có cơ hội để tìm hiểu cặn kẽ nơi mình sẽ ở đó thời
gian rất dài thì đã phải “chấp hành luật”. Đòn phủ đầu có tính răn đe này làm nhụt
ngay tinh thần của kẻ mới tới khiến kẻ đó chỉ biết răm rắp thực hiện.
Bóng tối nhanh chóng chùm khắp buồng giam khiến ông Thanh
không xác định được mọi góc của căn phòng, cho dù buồng giam này không lấy gì
làm dài rộng cho lắm. (Mãi sáng hôm sau ông Thanh mới biết đó là một căn phòng
dài chừng bảy tám mét và rộng chừng năm sáu mét gì đó. Hai bên chiều dọc là hai
dẫy bệ xi măng cao chừng sáu bảy mươi phân, mỗi bệ xi măng được xây cách nhau một
lối đi đủ cho hai người đứng đối diện với tay tới nhau). Còn lúc này, ánh sáng
lờ mờ dọi từ trên ô thoáng xuống chỉ đủ nói cho người vừa bước vào biết được là
trong căn phòng này đã có nhiều người. Hình như mọi ánh mắt đều nhìn về phía
mình? Ông Thanh ngờ ngợ như vậy khi bên tai khẽ cất lên câu nói. “Thằng này
trông tướng đuổi gà không chạy, vậy mà chịu án lớn cũng lạ”. Câu nói làm ông ngập
ngừng cụp ngay đuôi mắt, ông càng không dám ngước mắt lên như chỉ sợ lại sắp sửa
phải ngồi nghe những câu thẩm vấn triền miên, những câu thẩm vấn nhai đi nhai lại
một chủ ý đến rã rời người.
Không dám ngước mắt lên để nhìn một ai đó coi như thay câu
chào “nhập buồng”, thực tình thì lúc này cũng không thể nhìn rõ một ai. Ông
Thanh miệng lí nhí, mắt len lén, chân cun cút lại bên cái chỗ mà ngay khi ông vừa
bước vào đã có một ánh mắt cùng một cái hất hàm chỉ về phía đó. Đó là chỗ dành
cho mình, ông Thanh xác định rất nhanh và hấp tấp leo lên chỗ đó. Ông co người
nằm xoay nghiêng về một bên. Dù sao thì từ nay cũng không còn phải ngồi rủ người
trong những phiên thẩm vấn nữa. Ông Thanh tự an ủi như vậy và cố tình tránh để
không nằm quay mặt về phía người cũ đang nằm bên cạnh. May cho ông là chỉ nằm
bên cạnh một người nhưng không may cho ông là cái phía ông quay mặt vào lại
chính là “buồng đi vệ sinh”. Một cái ô nhỏ được che chắn tạm bợ dùng làm nơi
cho những người tù trong buồng giam thực hiện công việc ỉa đái hàng ngày ở chỗ
đó. Có lẽ tại cái vị trí không mấy thơm tho này chính là màn dạo đầu của cách “ứng
xử” theo “luật” để dành cho những kẻ mới tới. Ông Thanh vừa mừng lại vừa không
vui nhưng cũng tậc lưỡi, gì thì gì cũng có chỗ nằm đêm nay. Bao đêm qua đã có
đêm nào ông được nằm yên đâu. Nỗi phấp phỏng chờ ngày phán quyết làm ông có muốn
ngủ cũng không mơ tới. Mình sẽ đi tới đâu và đi bao lâu? Gì thì gì mình cũng đã
chính thức thụ án. Có nghĩa là từ đêm nay mình sẽ gắn bó với nơi chốn này mãi
mãi.
Đêm xuống sâu, những người tù cùng buồng giam đã thi nhau
“kéo gỗ”. Tiếng “kéo gỗ” như có hiệu ứng lan rộng hay sao mà ban đầu chỉ có một
người cất tiếng ngáy mới nghe “khò khò” rồi bỗng chốc tiếng “kéo gỗ” rền như
pháo rang. Cả buồng giam đồng thanh tiếng ngáy như sấm rền, tiếng thở ồng ộc,
tiếng nghiến răng buốt hàm, tiếng nói mơ luyên thuyên. Tạm yên vì thấy chưa có
dấu hiệu gì về chuyện phải chịu thi hành “luật” ông Thanh vẫn không dám ngủ mặc
dù nếu không có gì nghi ngại ông đã say như chết. Hy vọng về một đêm, hy vọng về
những đêm được ngủ ngon chưa tới đã tắt vụt. Gì thì gì cũng coi như số phận đã
an bài? Nhưng câu chuyện người trước kẻ lại cho người sau làm ông lo lắng. Có
những trại giam kẻ mới tới đang say “giấc nồng” chợt bị dựng dậy, đầu tiên là bị
dồn vào sát tường và tiếp đó là bị chùm một chiếc gối lên mặt. Đó là cách “ứng
xử” mang tên “nửa đêm vỗ gối”. Cách này làm kẻ mới tới ngơ ngác không biết có
những ai đã tham gia vào trận đòn hội đồng. Thực ra khi vừa bị dựng dậy và bị đẩy
sát chân tường, mắt còn chưa tỉnh đã liên tiếp bị những cú đấm quặn ruột thì
làm sao mà biết được ai với ai. Kẻ mới tới sau khi bị đánh hội đồng trong đêm
chỉ còn biết nằm im, không được kêu rên cho dù toàn thân đau rã rời. Ông Thanh
rùng mình khi chợt nghĩ đến cái cảnh mình sẽ bị như thế và co quắp nằm theo dạng
thế thủ chờ đòn. Vẫn nằm xoay mặt vào “buồng vệ sinh”, ông vòng hai tay lên ôm
đầu như đang che đỡ những quả đấm không biết là của ai đang giáng xuống.
Mùi khai gắt và thối khẳm như mùi xác chết càng về đêm càng bốc
lên nồng nặc. Ông Thanh lúc nhịn thở, lúc rướn cổ lên hít một hơi dài để rồi lại
nhịn thở tiếp nhưng càng làm như thế cái mùi khó chịu càng xộc thẳng vào hai lỗ
mũi. Xoay người lại ư? Ông không dám. Dám quay mặt vào người cũ ăn vài cái đạp
là cái chắc nhưng cứ úp mặt vào “buồng vệ sinh” như thế này mãi cũng khốn. Mùi
khai khẳm cứ nồng nặc bốc lên làm nhức cứng hai cánh mũi. Một bên sườn phải đau
ê ẩm vì tư thế nằm nghiêng quá lâu. Sao ở đây bọn họ không ra tay nhỉ? Ông
Thanh dù còn đầy nghi hoặc nhưng hết chịu nổi chuyện nằm nghiêng một bên mãi
đành mạnh dạn xoay người nằm ngửa. Dễ chịu hẳn. Mùi nồng nặc dường như cũng bớt.
Sườn phải cũng đỡ ê ẩm nhưng chọn cách nằm ngửa là một mạo hiểm cho kẻ mới tới.
Vô phúc bọn người cũ ra tay thi hành “luật” sự chống đỡ có hạn, gánh đòn nặng
chẳng oan.
Ông Thanh đặt hai bàn tay lên bụng cốt là để phòng vệ và cố
xua đi nỗi trống trải cùng phiền muội. Cố xua đi nhưng càng cố càng khó ngủ.
Ông bỗng thấy có bàn tay ai đó đang lần lần ngay cạnh sườn trái. Cách thức lần
lần ấy không hiểu là người bạn tù nằm bên cạnh đang thử xem xem ông ngủ say thật
chưa hay đấy là khúc dạo đầu của “màn chào hỏi” dành cho kẻ mới? Ông Thanh run
rẩy trong bụng và lo hãi cố nằm ngay đơ như đã ngủ rất say. Bàn tay người bên cạnh
sau hồi lần lần thăm dò nhẹ nhàng bắt đầu lần lần mạnh dạn hơn. Rồi người bên cạnh
xoay người nghiêng hẳn về phía ông, bàn tay của người bên cạnh nhẹ nhành ve vuốt
ngực ông. Ông Thanh vẫn nằm im chưa tưởng tượng nổi bàn tay ve vuốt lạ lùng của
người bên cạnh có ý định gì. Thực ra là quá sợ hãi và mệt mỏi đã khiến ông phục
tùng và nằm im. Ông không hề có phản ứng gọi là chống đỡ hay đáp trả. Bàn tay lạ
lùng thấy vậy lấn tới, nó ôm riết lấy người ông và tiếp theo là những cử chỉ gần
gũi như có người đàn ông đang thân mật với người đàn bà. Người bên cạnh đang nắn
bóp ngực ông, vừa nắn bóp vừa vân vê đầu vú của ông. Cách thức vân vê rất gợi
tình, nó làm ông tê tê và hơi nhồn nhột. Quả tình đêm sâu lại nằm trên nền xi
măng lạnh buốt bỗng dưng được ai đó ôm ghì và xoa xít ngực cũng thấy ấm áp hẳn.
Ông Thanh rướn cong người lên trong cảm giác lẫn lộn. Rồi người bên cạnh luồn
tay thọc nhanh xuống, bàn tay ấy luồn rất gọn gàng qua cạp quần và cũng rất nhẹ
nhành từ từ lần tới đũng quần của ông.
Đến nước này ông Thanh lại càng thấy khó hiểu. Ông không hiểu
điều gì đang diễn ra nhưng đúng là bàn tay của người bên cạnh đang lần mò như
tìm thứ gì đó ở trong đũng quần của ông. Hay người ta tìm xem mình có giấu tiền
bạc gì? Trước khi nhập trại có nhiều người tù được gia đình giấu cho ít tiền gọi
là tiền “phòng thân”, chuyện này ông Thanh đã nghe tới. Tiền “phòng thân” chính
là cái khoản mà kẻ mới tới phải cúng nạp cho “buồng trưởng” để người này nương
tay chút ít. Có tiền “phòng thân” coi như là yên tâm phần nào. Không cúng nạp
khoản tiền “phòng thân” ngày nào cũng ăn đòn chẳng oan trái. Đã từng nghe nói,
có người tù mới được người nhà giấu cho ít tiền không may ngủ say bị bạn tù nẫng
sạch. Nẫng sạch cũng có nghĩa là tiền thì mất mà tật thì mang. Đòn xử nặng của
“buồng trưởng” chỉ còn nước “chết đòn”. Ông Thanh không giấu tiền ở đó nên
không sợ mất cắp. Không sợ bị mất cắp nhưng nhớ tới chuyện phải có khoản “phòng
thân” thì ông bỗng thấy lo ngại. Liệu sáng mai hay vài hôm nữa tay “buồng trưởng”
nhắc ông về khoản “phòng thân” thì làm thế nào? Lúc được phép gặp gia đình lần
cuối ở tòa, bà vợ ông cứ nhất khoát đòi dúi cho ông ít tiền nhưng ông gạt tay từ
chối. Bà ấy hay đau yếu mới cần tiền, chứ ông đã vào nhập trại rồi tiền nong cầm
giữ làm gì cho vướng víu. Bà Chiên nước mắt vắn dài ngần ngừ cầm lại món tiền
ông vừa gạt trả. Nhưng bây giờ đúng là không có trong tay cái khoản “phòng
thân” kể cũng rách việc. Có gì đành nhắm mắt chịu đòn vậy.
Rồi cuối cùng cái cần tìm thì bàn tay kia cũng đã tìm được,
đó là hạ bộ của ông. Bàn tay ấy bắt đầu từ từ nắn, từ từ bóp. Rất nhẹ nhàng chứ
không làm ông đau hay nhồn nhột như bàn tay ấy lúc vừa nắn bóp vừa vân vê ở ngực
ông. Lần đầu tiên trong đời ông Thanh mới thấy có một người đàn ông nắn bóp hạ
bộ mình. Thoáng chút xấu hổ lẫn tủi nhục làm ông mấy bận toan đưa tay hất bàn
tay của người đang có hành động kỳ quái kia ra khỏi đũng quần mình. Nhưng ông vẫn
không dám, kinh nghiệm từ cái đêm ở trại giam Kế cho thấy, bất cứ một cử chỉ
hay một phản ứng một cách tiêu cực hay quyết liệt nào đều có thể dẫn tới những
điều tệ hại. Hơn nữa hành động kỳ quái kia lại diễn ra nhanh và thân mật làm
ông cứng đờ toàn thân. Ông vẫn nằm ngửa bất động nhưng là cái bất động của người
không dám có một phản ứng nào khác thích hợp hơn. Cảm thấy như có sự đồng điệu
hay sao mà lần này cả hai bàn tay của người bên cạnh bắt đầu vuốt những cái vuốt
vào cần hạ bộ làm cần hạ bộ của ông cứng dựng lên. Người ông bắt đầu rạo rực, một
cảm giác rạo rực khiến ông mụ đi. Đã lâu rồi, nghĩa là từ ngày bị bắt cho tới
giờ ông Thanh chưa được gần gũi vợ. Chưa được gần gũi vợ nên hành động lạ lùng
kia cũng làm ông đi từ ngỡ ngàng tới chấp nhận.
Ông Thanh mụ đi đờ đẫn. Đêm tịch mịch đang đồng lõa với hành
động kỳ quái chưa từng có tên gọi ấy. Trong bóng đêm đen kịt, bàn tay lạ lùng của
người bên cạnh tạm dừng nắn bóp hạ bộ của ông Thanh. Một cái lật tay rất nhanh
đã vật nghiêng người ông Thanh sang một phía. Hai người nằm kiểu úp thìa vào
nhau. Cái lưng nhỏ, gày gò của ông Thanh nằm trọn trong lòng người nằm bên cạnh.
Hai người quấn chặt như đôi con sam mà ông từng thấy bán ở chợ. Như một cái máy
đang vào độ vận hành trơn tru, vòng tay của người nằm bên cạnh rút nhanh lên,
nó buông khỏi hạ bộ của ông. Một vòng ôm ghì cứng lấy người cùng những luồng
hơi thở nóng hổi sau gáy. Luồng hơi thở gấp gáp liên tục tăng dần nhịp cùng
vòng tay ôm chặt lấy người ông hơn. Đôi chân người ấy quặp chặt khiến ông không
thể xoay xở được. Ông Thanh co dúm người như con tôm vừa cho vào nồi nước sôi.
Bây giờ thì là chính cái cần hạ bộ cứng đanh, nóng hổi của người kia đang thúc
thúc liên hồi vào khe giữa hai mông ông, những cú thúc thúc hăm hở. Hành động
quen quen bứt ông ra khỏi thực tại, nó đưa ông về một nơi xa xôi mà thấy thân gần.
Mặc yên cho những điều kỳ quái chưa có tên gọi đang diễn ra,
ông Thanh như đắm chìm trong cơn mê hoặc.
Đã tới gần bên ngôi nhà mới dựng ngay trên đỉnh dốc. Không
gian đặc quánh một màu đen của bóng tối. Ánh sáng hắt ra lúc tỏ lúc mờ và như
lay động. Ông Thanh đứng thậm thò một bên chân, kiểu đứng của người nửa muốn gần
lại nửa muốn dứt đi, ông ghé mắt nhìn qua khe cửa. Cô Thoan đang đứng trước tấm
gương nhỏ treo trên vách nhà, lưng cô xoay ra ngoài. Tấm lưng đầy đặn lúc rõ
lúc khuất dưới ánh đèn điện nhập nhòa níu ông cố ghé mắt sát hơn qua khe cửa.
Nín một hơi nhịn thở thật dài. Ánh mắt của ông Thanh không rời khỏi tấm lưng của
cô Thoan lấy một giây. Hình như cô Thoan vừa tắm xong? Cũng có thể là cô Thoan
đang chuẩn bị đi ngủ. Tấm lưng để trần đầy đặn làm ông Thanh thấy lúng túng.
Ông thấy toàn thân mình rùng rùng như có lửa đốt. Không quay mặt ra ngoài, cô
Thoan vẫn bình thản đứng chải tóc trước gương. Đàn bà hay làm như vậy. Họ thường
chải tóc trước khi đi ngủ. Cũng có thể cô Thoan đang chải lại mái tóc sau khi vừa
tắm gội xong? Ông Thanh khẽ quay mắt thoát khỏi khe cửa để từ từ thả lỏng người
ra, ông hít một hơi thở rất sâu rồi lại nhẹ nhàng áp mặt qua khe cửa. Cô Thoan
này kể cũng lạ. Cô đứng trước gương thong thả và chậm dãi chải từng đường lược.
Cô chải từ trên đỉnh đầu xuống đuôi tóc. Chải tới đuôi tóc cô lại dừng tay lược.
Cô Thoan nắm chặt đuôi tóc và đưa nó về đằng trước mặt. Cô nắm đuôi tóc đưa lên
miệng căn cắn. Hình như cô Thoan này đang có suy nghĩ gì đấy. Đàn bà một khi đã
đứng một mình tư lự mà cắn cắn đuôi tóc tức là họ đang có khao khát nhục dục.
Ông Thanh đã nghe ai nói vậy lâu lắm rồi. Cô Thoan vẫn tư lự căn cắn đuôi tóc.
Đàn bà đã có khao khát nhục dục là họ sẵn sàng đón nhận dục cảm. Ông Thanh phân
vân tự hỏi nên ghé mắt nhìn tiếp hay quay đi nhưng sự thôi thúc nhục dục lại
đang làm đầu ông rừng rừng như sắp lên cơn sốt. Mình có nên đánh tiếng không nhỉ?
Ông Thanh khẽ lùi người xa khỏi khe cửa hòng định lấy can đảm cất lên tiếng gọi.
Mình có nên đẩy cửa vào trong nhà không nhỉ? Ông Thanh dập dình chân như định
bước vào. Nhưng liệu cô Thoan này có đúng là đang khao khát nhục dục như mình
nghĩ không? Ngộ ngỡ mình bước vào cô ấy lại sợ hãi thét toáng lên thì sao? Ông
Thanh lại hơi chững người lại. Ông ghé mắt nhìn thêm qua khe cửa. Cô Thoan
buông đuôi tóc xuống và thở một tiếng thở dài. Tiếng thở dài nghe vang to đến nỗi
ông Thanh dù đứng thập thò ngoài cửa cũng nghe thấy được. Hay là cô Thoan đã biết
có mình đang đứng ở đây và đang nhìn trộm qua khe cửa? Cũng có thể lắm. Bằng chứng
là tiếng thở dài đầy thất vọng vừa vọng ra. Chắc cô ấy đang thất vọng vì mình
không dám đẩy cửa bước vào?
Bất chợt ông Thanh như muốn kêu lên. Cô Thoan đột nhiên xoay
cả người trông ra hướng cửa. Gương mặt cô đỏ rực dưới ánh đèn. Một gương mặt
như mời gọi. Ông Thanh không cất nổi đôi chân. Có gì đấy đang giữ chặt đôi chân
của ông lại. Cô Thoan nhếch một bên môi lên. Một nụ cười giễu cợt kẻ nhát gan
đang đứng ngoài cửa ư? Sau cái nhếch môi cười chế nhạo ấy cô Thoan thõng hai
tay xuống để lộ bộ ngực trần lấm tấm những giọt nước. Bộ ngực căng dầy với đôi
núm vú mây mẩy đang nâng lên hạ xuống theo nhịp thở mạnh. Ông Thanh cảm như
không thể chịu được thêm nữa.
Ông Thanh vừa thiếp đi không rõ được bao lâu. Một giấc ngủ đến
nhanh và đầy huyền hoặc. Hình như ông vừa từ đâu đó tới chứ không phải là đang
nằm trong buồng giam? Còn lẫn lộn chưa phân biệt ranh giới giữa giấc mơ và hiện
tại bởi trong tâm trí ông vẫn còn nặng nề ảo giác của giấc mộng mị. Cảm giác
gai gai lại rộn lên lần mần trên da mặt. Lần này cảm giác đó có vẻ quyết liệt
hơn, có vẻ đánh thức trí não của ông hơn. Đã tỉnh hồi đôi chút nhưng ông Thanh
chưa hết cảnh giác, những tháng ngày ở trong trại giam đã dạy ông biết cẩn thận
từ tốn bao giờ cũng hơn manh động hoặc gấp vội. Khẽ ti hí mắt và nhẹ nhàng kẹp
hai ngón tay vào đúng cái chỗ đang gai gai trên mặt, ông Thanh xuýt á lên khi
bàn tay ông chạm vào một vật thể lạ, một vật thể có chỗ mềm mềm có chỗ xương
xương đang cựa quậy. Khẽ khàng giữ vật thể lạ giữa hai ngón tay ông Thanh he hé
mở mắt. Dù không thể nhìn rõ nhưng ông Thanh cũng nhận ra vật thể lạ đó không
gì khác là một chú bọ ngựa non.
Một con bọ ngựa, ông Thanh yên tâm từ từ ngồi dậy. Trời đã bắt
đầu hơi sang sáng, thứ ánh sáng bên ngoài hắt qua ô thoáng làm buồng giam đùng
đục như phủ màn sương mỏng. Mày làm thế nào mà lại rơi đúng chỗ tao nằm? Chắc
là mày bị gió thổi rơi xuống đây? Nhưng sao mày mãi chỉ đứng cọ cựa một chỗ?
Hay là, hay là….? Ông Thanh thầm suy đoán. Chú bọ ngựa non nằm yên trong lòng
tay ông như thể nó đã tìm được chỗ trú sau những kiếm tìm vô vọng. Tao thì bị
giam ở đây đã đi một nhẽ nhưng vì lẽ gì mà mày lại tới chốn này kia chứ? Lại
phân vân ước đoán. Ông Thanh nhìn lên ô thoáng. Đây là lần nhìn lên ô thoáng sớm
nhất kể từ bốn năm nay. Mọi bữa phải khi trời sáng hẳn ông Thanh mới dám liếc mắt
nhìn lên ô thoáng. Hôm nay là ngoại lệ. Tự nói với mình như vậy, ông dón dén đứng
dậy toan với lên chỗ ô thoáng để tìm cách thả con bọ ngựa trở về với thiên
nhiên của nó. Những có gì đấy làm bàn tay ông chợt rụt lại, ông không thể với tới
chỗ ô thoáng được. Giả sử lúc này ông cố gắng kiễng chân để ném con bọ ngựa ra
ngoài thì cũng khó tới ô thoáng, có khi còn làm nó va mạnh vào tường mà giập
nát. Hoặc giả nếu như ông ném được nó ra bên ngoài thì liệu nó cũng có thể chịu
được cú rơi xuống đất như trời giáng hay không? Chút hoài nghi chính khả năng của
mình đã làm ông Thanh thôi ngay ý nghĩ. Nhưng giữ nó lại liệu nó có thể sống nổi
như ông không? Không tìm được cách nào khả dĩ, ông Thanh vẫn giữ khư khư con bọ
ngựa.
Một con bọ ngựa còn khá non. Thứ sinh vật tình cờ rơi xuống
đúng vào mặt ông Thanh này toàn thân đều mang màu nâu nhạt, chứng tỏ đây là giống
bọ ngựa sống dựa trên thân cây bạch đàn. Bọ ngựa bạch đàn tuy còn non nhưng đã
có cách biến đổi màu sắc phù hợp với điều kiện sống. Ông Thanh ghé mắt nhìn con
bọ ngựa kỹ hơn, đôi cánh mỏng của nó còn ngắn cũn cỡn không đủ che cái thân
hình dài khều khào vẫn còn mềm mềm, còn lõng nhõng. Một con bọ ngựa non không
may bị gió cuốn lỡ lạc mẹ xa xuống chỗ ông? Đôi kiếm càng vẫn còn bé bỏng với
những chiếc chân gai cào cào chỉ đủ tạo cảm giác lần mần và hơi buồn buồn lòng
tay. Những phân vân ùa tới đủ để ông Thanh phải vắt óc. Lâu lắm rồi ông Thanh mới
phải vắt óc để suy tính. Thì ra mày cũng làm tao phải bận tâm đây.
Từ ngày vào đây tới giờ ông Thanh hầu như không dám suy nghĩ.
Biết suy nghĩ gì bây giờ khi mà đường trở nhà về hầu như tắt lịm. Hồi còn ở
nhà, việc suy tính sáng mai làm việc gì ở đâu chính là thói quen của một người
đàn ông trụ cột. Nếu như không có gì thay đổi thì năm nay gia đình ông đã có những
việc bận rộn. Đầu tiên là việc đứa con gái lớn lấy chống. Nó có khi đã đẻ hai đứa
con rồi ấy? Ông Thanh đoán vậy và thầm mường tượng ra cái cảnh ông đang được bà
vợ giao cho nhiệm vụ trông hai đứa cháu ngoại. Hai đứa cháu ngoại, đứa cháu gái
lên ba và thằng con trai sắp tròn một tuổi. Thằng cháu trai ngồi trong lòng
ông, đứa cháu gái đứng bấu bên cạnh người ông. Ông Thanh vừa rung rung đùi nựng
dỗ cho thằng cháu ngoại khỏi khóc lại vừa phải méo mồm nhăn mặt đút cho đứa
cháu gái là con chị ăn. Chúng nó thật phiền phức. Trẻ con là vậy, hay khóc quấy
rầy và khó cho ăn. Đôi lúc mệt quá ông đã nghĩ đem trả quách hai đứa cháu cho bố
mẹ chúng. Nghĩ thế thôi nhưng ông không làm thế. Ông lại rung rung đùi nựng dỗ
thắng cháu ngoại hy vọng nó nín khóc và lại méo mồm nhăn mặt cố đút thìa cơm
cho đứa cháu gái. Nói vậy nhưng vui. Hôm nào bố mẹ chúng không nhờ ông trông
giúp là ông lại thấy chân tay thừa thãi. Ông đứng trước cửa nhà nhìn về phía
nhà anh con rể nói vu vơ, chúng nó hôm nay không đi làm à?
Những nhát cào gai gai còn yếu ớt của con bọ ngựa non đã lôi
ông Thanh trở về với thực tại. Khẽ buông một tiếng thở buồn, ông Thanh lắc đầu
chán ngán. Làm gì có anh con rể nhà ở phía xóm bên, phía xóm mà chỉ cần đứng
trước cửa nhà bà vợ ông chỉ ới to một câu là lát sau đã thấy cô con gái chạy ù
về. Làm gì có những đứa cháu ngoại, thằng cháu trai hay khóc và con chị khó cho
ăn. Cái tin ông Thanh, tức là bố của đứa con gái ông, giết người làm kinh động
cả cái làng Me nghèo nằm xa khuất bên chân con đê sông Thương. Làng Me từ thuở
lập làng tới giờ chưa bao giờ có hung tin nào ghê gớm như cái tin này. Một hung
tin bỗng chốc làm thay đổi hết mọi nếp sống của làng. Người làng Me bỗng sinh
ra nghi ngờ lẫn nhau. Người làng Me bỗng sinh ra cẩn thận với bất cứ một ai.
Người làng Me bỗng tối vừa xuống là cài cửa thật chặt. Một hung tin làm đứa con
gái sắp sửa lấy chồng của ông như sụp quỵ xuống. Đứa con gái không dám tin vào
tai mình nhưng sự thực lại vô cùng độc địa, nó lan nhanh hơn cả dòng nước lũ
trên sông Thương đang ồn ào đổ về. Ông Thanh bị bắt và bị kết án cũng có nghĩa
là từ khi đó cô con gái nhỏ vốn được ông yêu chiều nhất nhà biến mất. Nó biến mất
tuổi trẻ nhiều ước vọng của mình để trở thành một đứa con gái ngày ngày chỉ biết
cắm mặt đi trong làng.
Ông Thanh dụi mắt bùi ngùi. Nỗi nhớ, nỗi lo lắng cho đứa con
gái đang ùa tới cồn cào. Trong nhà, mỗi khi rảnh rỗi ông thường hay hứng lấy việc
được chải tóc cho con bé. Đấy là hồi con Lanh nhà ông còn nhỏ. Con bé Lanh đứng
bấu bên người ông, nó nghiêng đầu để cho ông chải tóc. Mớ tóc còn chưa dài và
còn mỏng, lún cún những lọn tóc nhuộm màu nắng chỉ cần vơ nhẹ đã nắm trọn. Con
bé Lanh đứng bấu bên người, đầu chỉ chực gục vào lòng làm ông không thể chải
cho nó gọn gàng được. Ông Thanh kéo con bé lại sát bên lòng. Ông xoa xoa đầu
nó, mắng yêu nó mải chạy chơi ngoài nắng đến nỗi mớ tóc đỏ vàng như những sợi
râu ngô. Con bé nũng nịu vùi đầu vào lòng cha. Đôi mắt của nó nghếch lên mở to
nhìn cha đầy tinh nghịch. Được cái con bé khá biết cách lấy lòng cha. Đơn giản
như chuyện nó luôn đứng về “phe” ông mỗi khi ông bị bà vợ cằn nhằn vì “cái tội”
chiều con bé quá, để con bé đã mười hai tuổi mà chưa biết nấu cơm. Nó mở to đôi
mắt màu nâu nhìn ông thỏ thẻ. Đã có bố nấu cơm cho ăn rồi.
Một nỗi buồn còn buồn hơn nỗi buồn đang xâm chiếm lòng ông.
Ông Thanh thấy mình thật có lỗi khi để xẩy ra chuyện “tày đình”. Chuyện tày
đình làm con bé hôm nghe hung tin cứ đứng góc nhà khóc suốt đêm. Nó khóc mà
không thành tiếng. Chỉ vọng ra những âm thanh thút thít nghe như tiếng chuột cắn
bao tải thóc. Bà vợ của ông nói lại như vậy. Bà Chiên chỉ dám nói điều đó mới
đây thôi. Mới nói tức là khi đứa con gái lớn đã quyết định xin phép mẹ để đi
lao động mãi tận Đài Loan. Nó quyết định đi lao động bên xứ người xa lắc một phần
cũng vì muốn xa hẳn những câu chuyện xì xèo sau lưng và một phần ở lại làng Me
nó không thể làm gì khác được. Bà Chiên nói vắn tắt chuyện đó vào hôm bà được
phép tới trại giam để thăm thân. Không bùi ngùi, không níu giữ, bà Chiên chấp
nhận cho cô con gái sang xứ người như một cách cũng là để đứa con gái quên đi câu
chuyện tình duyên bỗng chốc thành lỡ dở của con bé.
Không hiểu giờ này ở bên ấy con bé Lanh luôn luôn bé bỏng của
ông đã tỉnh dậy chưa? Bên xứ người lại là đi lao động giúp việc hẳn nó sẽ vất vả
và luôn bị thua thiệt. Ông Thanh lại tự trách mình, ông đã từng nghe nói về những
người sang Đài Loan lao động. Nói là đi lao động nhưng có mấy ai có được công
việc an nhàn. Hơn nữa những câu chuyện bị xâm hại, bị lừa gạt nhất là lao động
nữ làm ông cứ bồn chồn. Sáng nay con bé đã dậy chưa? Hay là cả đêm hôm qua nó
phải làm việc mà không được ngủ. Ở trong nhà ông thì con bé Lanh là đứa có vẻ
như biết đón ý của ông nhất. Nó chưa khi nào cần ông nhắc lại câu thứ hai. Nó
nghe ông nói và đứng dậy đi làm ngay chứ không kề cà rồi nhường việc cho người
khác làm thay như thằng Lợi. Trách thì cũng đáng tội cho thằng Lợi, nó là thằng
con trai, lại là con út nên hở ra là có mẹ đỡ, nên nó hay dựa. Từ hôm ông bị bắt
mọi việc nhà dồn hết lên vai con Lanh. Con bé thương mẹ đau yếu nên dành hết việc.
Không hiểu vắng con chị ở nhà thằng Lợi có chăm chỉ nên không? Vậy là thằng Lợi
đã mười tám tuổi. Ngày ông bị bắt nó mới mười bốn nên không hiểu sâu hiểu sắc
như con chị. Thằng Lợi sợ hãi không dám đến gần bên bố. Nó đứng mãi cuối phòng
xử án và chỉ nhìn ông từ xa lúc người nhà được phép đến bên ông lần cuối.
Bà Chiên nói chuyện, thằng Lợi muốn đi bộ đội như ông nội nó nhưng người ta
không nhận. Người ta trả nó về khi ai đó cho hay chuyện của cha nó. Thằng Lợi
giận ông lắm, giận vì chuyện nó bị trả về đó. “Nó nói, nó chẳng muốn gặp lại
ông nữa”. Bà Chiên ngập ngừng nói vậy. Ông Thanh không trách gì nó mà chỉ hận
mình. Ông hận mình mu muội thành u mê mà hỏng hết chuyện nhà, chuyện con cái.
Thằng Lợi đã lớn, nó có quyền phán xét cha nó. Ông Thanh chìm vào những cảm
xúc. Không hiểu bà vợ ông mấy hôm nay dở trời dở đất có đau chỗ nào không?
Không hiểu ở bên Đài Loan con Lanh có an toàn không? Đầu óc ông miên man trong
tưởng tượng. Ông đang mường tượng ra cái cảnh con bé Lanh nhà ông đang vật vã
kêu khóc. Không có ai tới giúp. Không có ai đứng ra bảo vệ nó. Con bé Lanh đang
vật vã trong ê chề sau khi nó bị chính ông chủ nhà cưỡng hiếp và lại còn bị
đánh đập.
Rùng mình như chính mắt mình vừa nhìn thấy cảnh tượng đó.
Rùng mình như chính tai mình vừa nghe thấy tiếng kêu cứu vật vã đó. Ông Thanh
choáng váng, mồ hôi vã ra ướt đầm trên trán. Không lẽ mình hại người thì đời sẽ
hại chính người thân của mình? Không lẽ ở đời còn có chuyện gây thù thì chuốc
oán? Một loạt những hồ nghi liên tiếp dội tới làm ông bải hoải như vừa
qua trận ốm thập tử nhất sinh.
“Nó nói nó sang bên đó cố gắng kiếm tiền về lo chuyện cho
ông”. Bà Chiên nói vớt sau khi đã đứng dậy để chào ra về. Câu nói của bà thêm một
lần nữa cứa vào gan ruột. Con bé đi lao động mãi tận bên Đài Loan chỉ là để kiếm
tiền về lo chuyện cho ông? Biết lo như thế nào mà lo được? Ông Thanh hoàn toàn
mất hết mọi hy vọng. Đã vào nơi chốn này còn gì mà hy vọng nữa? Tại sao ở đứa
con gái luôn luôn là bé bỏng của ông lại còn le lói chút hy vọng hão huyền. Nó
có biết kiếm tiền đã là một khó khăn không? Kiếm tiền về lo chuyện cho ông khác
nào công việc nhặt đá vá trời.
Cái cào nhẹ gai gai của con bọ ngựa như giúp ông tỉnh lại.
Ông Thanh nâng bàn tay lên để nhìn con bọ ngựa kỹ hơn. Con vật không ý thức này
dường như lại muốn nói với ông điều gì thì phải? bằng chứng là đôi kiếm càng khều
khào với những chân gai nhỏ xíu đang gại gại lòng bàn tay ông. Không hiểu sao từ
lúc giữ trong lòng tay đến giờ con bọ ngựa non này không hề có dấu hiệu muốn bò
đi hay cố bò đi. Nó đứng yên trong lòng tay ông, thi thoảng gại gại như muốn nhắc
ông điều gì đó. Ông Thanh lại nhìn con bọ ngựa kỹ hơn. Một sinh vật từ đâu xa lạ
rơi xuống mặt ông như một sự gửi gắm làm ông băn khoăn. Màu nâu nhạt khiến con
bọ ngựa này trông giống như một nhánh lá bạch đàn hơn là một sinh vật sống.
Nhánh lá bạch đàn nhỏ đứng yên trong lòng tay ông và ông biết nó không hề có ý
định chuyển dời.
Ông Thanh khum khum lòng bàn tay mình lại làm thành một chiếc
tổ con con. Con bọ ngựa non bé xíu đứng vẻ mãn nguyện trong cái tổ con con ấy,
nó ngoay ngoáy chiếc đầu với đôi mắt to lồi cũng như đang nghếch lên nhìn ông.
Một cảm giác thân gần hơn là một trách nhiệm len tới tâm hồn ông. Mình sẽ giữ
con bọ ngựa này và mình sẽ nuôi nó.
Tiếng kẻng báo giờ điểm danh sáng vang lên đanh lạnh. Những
người bạn tù cùng chung buồng giam ồn ào choàng dậy như những chiếc máy. Họ đứng
sắp thành hai hàng ngang ngay ngắn, đối mặt vào nhau ở phía cuối bệ xi măng, chỗ
khoảng ngăn cách giữa hai bệ xi măng và cũng là chỗ lối đi. Những người tù xộc
xệch sau một đêm, vội vã chỉnh lại bộ quần áo phạm nhân, bộ quần áo với những sọc
to màu đen trên nền vải trắng. Nhìn họ đứng sắp hàng y hệt như những chiếc cọc
tre cắm làm hàng rào bên ruộng ngô làm ông Thanh suýt bật cười. Ông nhét vội
con bọ ngựa non vào trong túi áo.
Một ngày mới nữa lại tới. Thông thường chỉ những ai yếu mệt
hay tỏ ra yếu mệt mới được phép ra ngoài sân sau khi đã hoàn thành công việc điểm
danh hàng ngày theo thông lệ. Mọi sáng ông Thanh không có ý muốn được ra ngoài
sân. Không hiểu sao ông Thanh lại rất sợ phải ra ngoài sân. Một ý nghĩ trái ngược
hẳn với những người tù khác. Ông sợ phải ra ngoài sân đơn giản chỉ vì ra ngoài
đó ông sẽ bật khóc. Ngoài sân là một khoảng trời không dành cho ông. Khoảng trời
với màu nắng mới còn nhàn nhạt và với những làn gió sớm mơn man rất đỗi bình
yên và đỗi thân thương ấy sẽ làm ông thêm đau đớn. Bốn năm qua là bốn năm với nỗi
đau đớn về tinh thần đã vò nát thân thể ông. Vò nát như người ta vò chiếc áo cũ
đã rách bươm. Vò nát như người ta sẵn sàng vứt bỏ nó đi không thương hại. Ra
ngoài sân là được hưởng chút ít thứ gọi là không khí của thiên nhiên sẽ làm ông
sụp ngã. Ánh sáng ban ngày khác nào một lưỡi dao đang cứa từng nhát cứa sắc lẹm
vào người ông. Những vết cứa sắc lẹm sẽ gặm nát thân thể ông.
Sáng nay tự dưng ông Thanh lại muốn được ra ngoài sân. Ông cất
giọng đáp “có” một cách yếu ớt, sự yếu ớt hoàn toàn tự nhiên bởi đêm qua
ông luôn bị những giấc mộng mị dằn vặt nên mất ngủ mà giọng nói sinh ra yếu ớt,
ông đáp xưng danh sau tiếng đọc to của người cán bộ quản giáo. Hình như cái giọng
yếu ớt đó có tác dụng ngay lập tức. Người cán bộ quản giáo dừng mắt đọc bản
danh sách. Anh ta hướng cái nhìn chằm chằm về phía ông Thanh. Ông Thanh bỗng
phát hoảng. Ông chưa hiểu được cái nhìn chằm chằm đó là dấu hiệu dành chút thiện
cảm cho ông hay đó là cái nhìn mang tính cảnh cáo. Không hiếm chuyện như vậy, bởi
những người tù thường hay đóng kịch. Đóng kịch giả ốm để được nằm bệnh xá. Nói
gì chứ được nằm bệnh xá cũng là một ân huệ lớn. Đóng kịch để được ra ngoài sân
vung vẩy chân tay cho đỡ cuồng. Nói gì chứ nằm dài mãi trên cái bệ xi măng ngày
hè thì ướt nhoét mồ hôi, ngày đông thì căm căm như băng giá này mà được ra sân
chút ít cũng thấy dễ chịu như được đổi đời.
Ông Thanh giật mình vội thọc tay vào túi áo một cách đầy lo lắng.
Con bọ ngựa khẽ cào cào, khẽ cựa quậy như muốn nói rằng nó vẫn yên vị ông hãy
yên tâm. Động tác của con bọ ngựa càng làm dấy lên ý muốn sáng nay được ra
ngoài sân. Ông muốn ra ngoài sân bứt dăm lá cỏ làm thức ăn cho con bọ ngựa. Nó
hình như không muốn rời xa ông. Ông lúc này hình như cũng không muốn thả nó về
nơi chốn của nó. Có cái gì đấy khó giải thích đang ràng buộc một con vật vô thức
với ông. Người cán bộ quản giáo sau khi làm xong thủ tục điểm danh thường lệ bước
lại gần ông Thanh nói ngắn gọn. Sáng nay ông được ra ngoài ba mươi phút.
Hồi hộp còn hơn cả bữa ông run run cầm tay cô Chiên của hơn
hai mươi năm trước, ông Thanh lặng lẽ theo chân người cán bộ quản giáo để bước
ra ngoài. Lần đầu tiên sau bốn năm ông mới biết thế nào là thiên nhiên. Nỗi
khát vọng thiên nhiên của ông cho dù nguội tắt nhưng nó lại âm thầm trong những
giấc ngủ. Vậy mà không hiểu sao con bọ ngựa non trong túi áo của ông lại không
hề muốn trở lại thiên nhiên. Cái màu nâu nhạt của nó run rẩy trước gió khi ông
đặt nhẹ nó trên mặt đất. Sự run rẩy của con bọ ngựa làm ông giật mình như bên
tai ông vừa thoảng nghe có tiếng ai nói. Tiếng nói rất thoảng, không rõ âm
nhưng cho ông một cảm giác vô cùng khác lạ. Cảm giác ban đầu như có một luồng
điện xâm nhập vào cơ thể. Luồng điện làm ông thấy lành lạnh giữa ánh nắng ban
mai. Luồng điện làm ông thấy chân tay đột nhiên bủn rủn. Một cảm giác thấy như
bầu trời sầm lại trong giây lát rồi rực nắng. Rồi tiếp theo là những thanh âm
nghe xa nhưng rào rạt. Thanh âm như lời vỗ về đã nhanh chóng xua tan cái bủn rủn
ban đầu. Có gì đấy rất khó diễn đạt đang rộn rã trong lòng. Ông Thanh lại khum
tay nâng con bọ ngựa lên. Nó đứng im giữa lòng tay ông, khẽ cào cào gại gại gan
bàn tay.
Bứt vội mấy lá cỏ còn tươi mát ông Thanh giấu vội vào túi áo
cùng con bọ ngựa non. Chiếc túi áo phạm nhân hàng ngày vô duyên bởi sự trống rỗng
hôm nay bỗng như chật chội. Thực ra là ông Thanh chỉ sợ chiếc túi áo gập ép lại
sẽ làm con bọ ngựa của ông chết ngạt.
Lại như vang bên tai những thanh âm không xác định. Ông Thanh
mơ mơ cảm thấy như có bóng ai đó vừa láng qua trước mắt. Một hình bóng vời xa
nhưng có gì đấy quen quen làm ông kinh ngạc. Khoảng sân trước cửa buồng giam vắng
hoe. Cái hình bóng vừa láng qua trước mắt mỏng như ngọn gió. Có lẽ lâu ngày
mình không ra ngoài nên bị ảo ảnh? Ông Thanh tự nhủ như vậy những cảm giác có một
hình bóng láng qua làm ông không nguôi bổi hổi. Tim ông đập những nhịp đập khác
thường. Cũng có thể lâu ngày không ra ngoài nên sáng nay ở ngoài sân nhiều nên
hơi lạnh? Ông Thanh lại tự nhủ nhưng rõ ràng cái hình bóng vừa láng qua cứ như
chờn vờn, cứ lượn lờ rồi trong khoảng chốc trước mắt ông là rất nhiều bóng hình
người đang láng qua láng qua. Ông đã nhận ra đó là một đoàn người đang đi.
Đoàn người lầm lũi đang gắng gượng vượt một con dốc cao. Con
đường như dốc ngược lên đỉnh, lại gập ghềnh với lối mòn chỉ vừa vết bàn chân và
lầy lội. Bùn ngập lưng mắt cá chân. Họ đi thật vội vã. Đoàn người nhìn rõ dần
và cho thấy đó là những người chiến sĩ. Đoàn chiến sĩ đang hành quân. Trời đang
có mưa rào xối xả. Những dòng nước mưa bị gió thổi tạt khiến đoàn chiến sĩ cũng
nghiêng đi rất vất vả. Thi thoảng lại có người trượt chân ngã dúi mặt vào gót
chân người đằng trước. Một người đi phía sau vội xoài tay kéo lưng người vừa vấp
ngã đó giúp người đó đứng dậy. Họ lặng phắc ngã, lặng phắc đứng dậy và lặng phắc
đi tiếp. Chỉ nghe rõ tiếng bùn lép nhép. Nghe rõ từng tiếng thở nặng nhọc. Ông
Thanh đột nhiên nhận ra và bỗng muốn kêu lên thật to, người vừa vấp ngã thoáng
chững lại, người đó đứng xoay mặt lại phía ông để sửa lại tấm tăng che mưa sắp
tuột. Cha mình! Ông Thanh đã nhận ra ngay người cha của mình trong đoàn chiến
sĩ đang hành quân vội vã dưới cơn mưa. Cha ông không để ý thấy tiếng ông vừa
kêu. Cũng có thể là cha ông đang mải cài lại tấm vải tăng nhằm tránh những giọt
nước mưa tuôn xối xả. Bố ơi! Ông Thanh lại kêu thật to. Không có tiếng đáp trả
chỉ có tiếng nước mưa rơi bồm bộp lên những tấm tăng màu xanh xám. Chỉ có tiếng
thở nặng nhọc. Chỉ có tiếng bước chân lép nhép trong bùn và những cú trượt chân
vấp ngã nghe uỳnh uỵch. Ông Thanh đứng đờ người ra nhìn theo mải miết. Cha ông
đang đi gần như ở cuối đoàn chiến sĩ nên cha ông đang phải cố gắng những bước
chân để không bị tụt lại đội hình.
Đoàn chiến sĩ cuối cùng cũng đã lên tới đỉnh dốc. Họ nhanh
chóng tản ra dừng nghỉ lấy sức. Trời đột nhiên tạnh mưa. Ông Thanh nhìn theo thầm
tiếc rẻ. Giá kể lúc đoàn chiến sĩ leo dốc mà không có mưa thì có phải hay
không? Trên đỉnh dốc, gió thổi lồng lộng. Những tấm tăng che mưa nhanh chóng được
tháo khỏi vai. Bây giờ ông Thanh càng nhìn rõ hơn. Cha ông gày gò, lưng như sắp
còng xuống dưới sức nặng của chiếc ba lô căng phồng. Khẩu súng quàng trước ngực.
Không có tiếng ai nói chuyện. Sao họ im lặng thế nhỉ? Ông Thanh rướn cao cổ lên
như để cố xem có nghe được tiếng nói nào không. Nếu ông nghe được tiếng nói từ
đoàn người thì cũng có nghĩa là cha ông có thể nghe được tiếng ông vừa gọi. Những
hy vọng làm ông càng cố rướn cổ thật cao. Không sao tới được chỗ đoàn chiến sĩ
đang dừng nghỉ trên đỉnh dốc.
Trên đỉnh dốc, người cha của ông Thanh bây giờ mới quay hẳn lại
nhìn đăm đắm về phía sau. Không, hình như cha ông đang nhìn về phía ông. Ông
Thanh nghĩ vậy và giơ tay vẫy vẫy. Ông vẫy mải miết và có bao sức lực ông dồn hết
lên cánh tay đang vẫy vẫy. Cha ông mỉm cười. Một nụ cười đôi chút an ủi khiến
ông Thanh buông tay xuống. Ông biết không thể nào với tới chỗ cha ông đang đứng
nghỉ được. Khoảng cách xa quá. Hình ảnh đoàn chiến sĩ bỗng nhòe đi. Trời lại đổ
mưa ầm ĩ. Mưa rừng thoáng qua thoáng lại. Cha ông lại vội vàng quàng tấm tăng
qua vai. Tấm tăng căng phồng lên như một cánh buồm nở gió. Những cánh buồm nở
gió đẩy đoàn chiến sĩ trôi vun vút về phía chân dốc. Ông Thanh hốt hoảng kêu
lên. Ông muốn cơn gió dịu lại.
Đoàn chiến sĩ trôi vun vút xuống chân dốc. Trôi cồn cào như
dòng lũ trên sông Thương vậy. Một nỗi lo lắng từ đâu bỗng dội ập đến làm ông
Thanh ngần ngừ định nhấc chân chạy đuổi theo. Ông không tài nào nhấc nổi đôi
chân của mình được. Lạ thật. Đoàn chiến sĩ trôi xuống dốc nhanh như vậy mà họ
không hề vấp ngã hay bay tung đi. Cả một khối những con người quấn lấy nhau
trôi ào ào. Những tấm tăng che mưa lại phồng lên nối bện nhau thành một cánh buồm
khổng lồ trôi dào dạt. Họ sắp tới chân dốc. Hình bóng đoàn chiến sĩ đang nhòe
đi, đang xa hẳn.
Trời lại bất chợt tạnh gió và hửng nắng. Ông Thanh dụi mắt.
Không hiểu sao ở chỗ cha ông đang cùng đoàn chiến sĩ mải miết đi nắng mưa cứ
như một trò chơi tinh nghịch. Thoắt nắng, chợt mưa. Chợt gió, thoắt tạnh. Dường
như đó là những trò chơi thử thách ý chí con người thì phải. Ông Thanh thầm
nghĩ nhưng trong lòng chưa nguôi bứt dứt. Cú vấp ngã của cha ông như chạm vào
tim ông, nó nhói buốt khiến ông cảm thấy đó là chính mình bị vấp ngã chứ không
phải là cha ông.
Tiếng gọi của ai đó báo thời gian được ra ngoài sân hóng gió
đã hết. Tiếng gọi trở lại buồng giam của người bạn tù cùng được ra ngoài sân
sáng nay làm ông Thanh ngơ ngác. Ông đưa tay dụi mắt liên tục. Khoảng sân chỗ
ông đứng hoàn toàn bình thường. Nghĩa là thời tiết sáng nay không có gì đặc biệt.
Những tia nắng đã rộng ra không còn mỏng mảnh như lúc ban đầu nữa. Khắp khoảng
sân ngập một màu nắng trong veo như nó chưa từng trong veo đến thế. Một cảm
giác khao khát muốn được tận hưởng đầy đủ, tận hưởng mãi mãi khí trời ùa tới
làm ông cay cay sống mũi. Thì ra đó chỉ là ảo giác. Thì ra đó chỉ là huyễn hoặc.
Ông Thanh buồn rầu cúi đầu khi nhớ lại thực cảnh hiện tại của mình. Câu chuyện
hình như vừa được gặp người cha khiến ông vô cùng xấu hổ. Nó như là một vết nhục
không thể tẩy rửa được trước hình ảnh người cha thân thương. Nó là vết nhơ cho
gia đình ông. Là sự hổ danh không tài gì lấp nổi.
Người bạn tù cùng được ra ngoài sân đã đứng bên cạnh. Một cái
níu tay nhắc ông là đã hết giờ được ra ngoài. Ông Thanh ngơ ngác đứng bàng
hoàng, ông vẫn còn chưa tan hẳn ảo giác ban nãy. Cuộc gặp mơ hồ và không
hẹn trước với người cha cứ gặm nhấm tâm hồn ông. Không hiểu cha mình có biết
chuyện hiện nay của mình không? Ngần bấy năm xa cách sao trông cha vẫn như
không hề thay đổi. Vẫn cái dáng gày gày xương xương như ông. Ở làng Me ai cũng
nói “Ông Thanh giống cha như đúc”. Người ta nói vậy lại làm ông đau xót. Cha
ông đâu có giống ông. Cha ông là một người chiến sĩ dũng cảm. Còn ông là một
con người bị xã hội khinh bỉ. Ngần bấy năm sao cha mình vẫn không thay đổi? Vẫn
chiếc mũ bằng vải mà ngày bé ông thầm ước được đội nó. Chiếc mũ cha ông vừa gỡ
trên đầu xuống và chụp nó lên đầu ông hôm hai cha con đứng trên đê sông Thương ấy.
Chụp lên đầu thằng Thanh hồi nó lên bảy tuổi ấy. Hôm ấy thằng Thanh sướng mê
đi. Nó chỉ tiếc sao lúc đó không có một thằng nào hay đứa nào nhìn thấy nó đội
chiếc mũ. Nếu có đứa nhìn thấy nó còn hãnh diện hơn.
Tự dưng ông Thanh thấy mình muốn khóc. Mới hôm qua thôi là
ngày giỗ của cha mình. Đã bốn năm, bốn cái giỗ cha, ông không thể thắp cho cha
mình dù chỉ một nén nhang. Bốn cái giỗ cha, ông chỉ biết nín lòng mong cha thứ
lỗi. Hay là cha linh ứng, cha hiện về trách móc? Hay là cha thương con cha hiện
về an ủi? Ông Thanh thấy tiếc sao thời gian được ra ngoài quá ngắn. Quá ngắn nếu
không ông còn được thấy cha mình nhiều hơn. Được thấy cha mình nhiều hơn cũng
có nghĩa là ông sẽ có cơ hội nới với cha. Có cơ hội để cha ông không trách mắng
ông là thằng con hư hỏng. Sao lúc này ông thèm được nghe câu quở trách của cha
mình tới thế. Bao nhiêu năm rồi không được nghe tiếng nói của cha. Cha ông đã hứa
sẽ trở về với ông kia mà. Không lẽ ở một nơi xa xôi và cách biệt cha đang có ý
gì muốn nói với con trong lần giỗ này?
Những nhát cào gai gai lại lần mần trong lòng tay. Con bọ ngựa
đang nhắc ông hãy nhìn về thực tại. Cũng mới hôm qua thôi là vừa tròn bốn mươi
năm hai cha con ông chia tay nhau mãi mãi. Không lẽ đây chính là “món quà” cha
gửi cho con? Con bọ ngựa khẽ nghiêng nghiêng cái đầu với đôi mắt lồi to hơn cái
đầu. Cũng có thể là con bọ ngựa muốn nói rằng đúng như thế, cũng có lẽ là nó
đang bày tỏ nỗi thông cảm với ông? Mày là bạn của tao chứ? Tao sẽ kể cho mày
nghe những gì tao chưa nói được. Nhưng liệu mày có hiểu được lời nói của con
người không? Đến con người với nhau mà lời nói còn không hiểu nữa là mày, một
con vật vô thức. Đến con người còn dùng lời nói để hại nhau nữa là mày, một con
vật quá non nớt.
Cái cào nhẹ gài gại lại rộn lên. Hình như có ai vừa nói câu
gì? Rõ ràng bên tai ông vừa nghe thấy những âm thanh gần gũi. Những âm thanh tựa
như câu nói an ủi. Ông Thanh lén nhìn quanh quất. Trước mắt ông là cánh cửa buồng
giam số 6 đang mở ra.
BỐN
“Mình ơi!”
Bà Chiên thảng thốt. Hễ cứ chợp mắt là bà Chiên lại ngồi bật
dậy gọi thảng thốt. Hơn bốn năm này kể từ ngày ông Thanh bị bắt cho tới giờ bà
Chiên rất ít ngủ. Nói thẳng ra là bà không dám ngủ thì đúng hơn. Trong thâm tâm
bà, bà rất sợ ngủ. “Ngủ cũng có nghĩa là xa ông ấy thêm”. Bà Chiên tự nhủ. Bà tự
nhủ và lại thảng thốt ngồi bật dậy.
Như thường lệ bà quờ tay sang bên trái. Bên ấy là chỗ ông
Thanh, ông chồng của bà hay nằm bên chỗ đó. Hồi còn ở nhà bao giờ ông Thanh
cũng nằm bên trái. Bên trái nghĩa là nằm bên trong, nằm sát tường. Thói quen dậy
sớm lo cơm nước cho cả nhà. Vả lại bà hay phải dậy đi tiểu vào tầm giữa đêm,
nên bà Chiên ý tứ “tranh” nằm ngoài. Bà không muốn khi mình trở dậy lại phải
trườn qua người chồng để ra ngoài. “Đàn bà con gái ai lại trèo qua người chồng
cơ chứ. Mỗi lần thức dậy rồi lại trèo qua người sẽ làm ông mất ngủ”. Bà Chiên
biện luận với chồng từ hồi hai ông bà mới cưới nhau về chuyện tại sao bà lại
tranh nằm ngoài, xem chừng cách lý giải của bà có vẻ có lý nên ông Thanh ậm ừ
mà đành chấp nhận. Từ đó hằng sáng dậy sớm hay những đêm tỉnh dậy để đi ra sau
nhà, bao giờ bà Chiên cũng nhẹ nhàng, đầu tiên là bà giở mình quay mặt ra ngoài
trước, tiếp đó mới từ từ ngồi dậy để khỏi đụng vào người ông Thanh. Nhưng mỗi
khi bà dậy lúc đêm khuya mới chỉ vừa kịp thò chân khua mò gậm giường để tìm đôi
dép là ông Thanh đã biết. Nói ông cứ ngủ tiếp nhưng nào ông có nghe. Bà hiểu,
ông lo bà ra ngoài ngộ nhỡ không may gặp gió máy nên không bao giờ để bà đi ra
sau nhà một mình. Thành thử khi bà Chiên tỉnh dậy là ông Thanh cũng tỉnh dậy đi
theo. Không nói nửa câu, ông lặng lẽ đứng cách bà một đoạn ngắn, tầm ba bước
chân. Ông đứng đó, quay lưng lại phía bà, ể oải vươn vai, miệng ngáp, mắt nhìn
mông lung vào khoảng đêm đen kịt nhưng đôi tai ông luôn hóng về sau lưng xem thể
tình của vợ mình.
Chuyện “tranh” nằm phía ngoài giường của bà được chính mẹ của
bà nói hôm gia đình ông Thanh sang đón dâu. Mẹ bà còn dặn “đi làm vợ cũng có
nghĩa là phải thức khuya dậy sớm. Đàn bà dậy sớm cứ khua khoắng ầm ĩ còn ra thể
thống gì. Mình phận làm vợ người ta phải có ý có tứ cho trọn đạo con ạ”. Lời
răn dạy của mẹ cho con gái ngày đi lấy chồng đến giờ bà Chiên vẫn đinh ninh nhớ.
Nhớ, nên chẳng khi nào bà dám phiền chồng. Thôi thì cái nghĩa cái tình chồng vợ
cũng từ những chuyện đơn giản nhất. Ở với nhau cả đời chứ một hai ngày đâu mà
làm khổ nhau.
Bà Chiên miệng gọi thảng thốt, như thường lệ bà lại đưa bàn
tay lần quờ sang bên trái giường. Chỗ bên trái giường bây giờ trống trơn và lạnh
lẽo. Khoảnh giường vắng lạnh cho bà nhớ ra. Một thoáng buồn tủi len tới khiến
bà nghẹn ngào. Không hiểu ông ấy giờ này ở trong đó có ngủ được không? trời ấm
ráo đã đành nhưng hôm thời tiết rét muốt chắc gì ông ấy đã ngủ được. Không hiểu
giờ này ông ấy không ngủ được ông ấy có nghĩ tới mình như mình đang nghĩ tới
ông ấy không? từ ngày ông Thanh bị bắt đến giờ bà Chiên luôn hỏi như vậy. Bà lo
lắng cho chồng, sức vóc chẳng hơn gì đàn bà con gái cứ thức đêm trằn trọc chả mấy
rồi cũng kiệt?
Bà Chiên hai tay bó gối ngồi thu lu trên giường. Bà sợ lúc
này mà ngả lưng nằm xuống rồi mắt lại chợp đi. Chợp đi lại thương ông ấy đêm
nay không ngủ được. Chỗ đó toàn những người xa lạ, mà lại toàn là những người
chẳng nương tựa chẳng cậy nhờ được. Nghĩ thấy xót lòng buồn chành chạnh. Chỉ có
mỗi một mình ông ấy với ông ấy. Ông ấy không ngủ được, nằm thức ngóng đêm qua rồi
lại nghĩ quanh nghĩ quẩn thì khốn.
Đêm vắng, tiếng con mọt cắn gỗ kẽo kẹt như hòa đồng với giai
điệu của nỗi trống vắng. Dạo này mọt cắn gỗ khiếp quá. Lũ mọt dường như cũng biết
bên giường trống trải nên cứ nhè đêm xuống mà cắn gỗ nghe phát khiếp. Chiếc giường
như sắp rời từng mảnh. Dón dén khẽ dịch người từng tí một để chiếc giường cũ
không thêm cọt kẹt. Giường cũ hễ cựa mình là giát với thang thi nhau kêu than
“răng rắc”. Đêm vắng tiếng răng rắc lại càng to, càng to bà lại càng sợ. Bà sợ
như đấy là tiếng kêu đau đớn của người đang vật vã với cái chết.
Ngồi mãi đây cũng đau lưng. Bà Chiên tự nói vậy và quyết định
thôi không ngủ tiếp nữa. Bà rời khỏi giường, vừa dò dẫm từng bước chân nhẹ
nhàng trong bóng đêm đi từ gian buồng trái ra ngoài nhà, vừa để tâm sang gian
bên phía đầu hồi, bà chỉ sợ thằng Lợi biết mà dậy theo. Từ ngày con Lanh đi
sang Đài Loan làm nghề giúp việc, thằng Lợi có thêm “nhiệm vụ” hằng đêm tỉnh dậy
đi theo mẹ. Cái thằng đang tuổi ăn tuổi ngủ vậy mà đêm nào cũng tỉnh dậy đi
theo trông chừng mẹ làm bà thấy áy náy. Nói thế nào nó cũng không nghe. Nói nhiều
nói cãi, nó bảo “trông mẹ để mẹ còn có sức mà lo chuyện cho bố”. Nghe thằng Lợi
nói vậy bà Chiên lại ứa nước mắt. Cứ tưởng nó hận cha nó, cứ tưởng nó không biết
thương cha nó, cứ tưởng cái thằng mải chơi không biết suy nghĩ.
Bà Chiên lặng lẽ đi tới gian giữa. Căn nhà ba gian một trái
ban ngày nhìn bé teo vậy mà sao đêm nay nó như mênh mông, như vô cùng trống chếnh?
bà Chiên khẽ khàng tới ngồi bên bộ bàn ghế kê ngay dưới ban thờ. Trăng suông
bàng bạc. Ánh trăng bàng bạc dọi qua khe cửa soi những vệt sáng bàng bạc xuống
nền nhà như muốn kéo rộng gian nhà thêm ra. Không bật công tắc đèn hay làm bất
cứ thứ gì khác để có thể phát ra tiếng động, bà Chiên ngồi lặng người trên chiếc
ghế cũ. Ánh mắt nhìn ra phía ngoài cửa cho dù lúc này bà chẳng nhìn thấy bất cứ
một thứ gì khác. Cũng như chiếc giường mọt cắn suốt đêm, bộ bàn ghế gỗ đã cũ và
thiếu hơi người cũng đang vang lên những tiếng kẽo kẹt đến não nề. Từ ngày ông
Thanh vào nhập trại tới giờ bà có lòng dạ nào nữa mà ngồi ghế nhân nha chén nước.
Lòng dạ nào nữa mà ngồi ghế bàn tính việc nhà. Muốn tính việc gì bà đều nằm
trên giường mà nghĩ, cái chính là bà không muốn kéo hai đứa con vào chuyện người
lớn. Chúng nó thiệt thòi không để chúng phải thêm sự lo. Đêm như chùng xuống.
Chắc là khuya lắm, cảnh khuya bao giờ cũng đi cùng sự cô đơn.
Những ngày đầu vắng ông Thanh trong ngôi nhà bà Chiên rất lo
sợ. Đồ đạc trong nhà vốn chẳng sung túc gì giờ lại buồn tẻ hơn. Ban đầu là bà sợ
hãi. Một nỗi sợ hãi mang cái tên “giết người” bao trùm lên khắp mọi suy nghĩ, mọi
hành động. Bà không thể tưởng tượng nổi, vì sao chồng bà, một người chồng nhường
vợ thương con đến thế lại mang một tội ác lớn đến như vậy. Một tội ác ngay
chính bà bà cũng luôn lên án nó. Bà muốn thổn thức nhưng cố ép từng nhịp khóc để
khóc không thành tiếng. Bà tự dằn vặt mình như chính bà là kẻ phạm tội, như
chính bà là “tên đồ tể” dã man ấy.
– Mình ơi. Sao mình lại làm thế?
– ….
– Sao mình lại làm thế?
– …
– Sao mình lại làm thế?
– ….
– Mình có biết chuyện mình làm đã khiến vợ con mình lao đao
như thế nào không?
– …
– Vợ con mình còn có mặt mũi nào để nhìn bà con lối xóm
nữa.
– ….
– Con Lanh nó nói…
– …
– Nó nói, nó không tin mình đã làm chuyện ấy.
– …
– Hôm qua người nhà cô Thoan lại tới đứng trước ngõ nhà mình
chửi cả buổi đấy.
– …
– Họ chửi nhà mình mất nết. Nhà mình không có người dậy dỗ
nên sinh hư đốn.
– …
– Họ chửi cả ông bà ông vải không tha một ai.
– …
– Con Lanh nó tức lắm. Nó bảo mẹ không việc gì phải sợ. Con
không tin là bố đã làm chuyện ấy.
– ….
– Nhưng không tin không được. Chuyện mình làm cả làng cả nước
đều biết. Mình. Sao mình lỡ dại dột làm chuyện tày đình ấy?
– …
– Mỗi lần người nhà cô Thoan sang ngõ nhà mình đứng chửi tôi
như nát từng khúc ruột.
– ….
– Họ còn chửi…
– …
– Họ còn chửi động đến vong linh của ông nội thằng Lợi. Nhục
lắm mình ơi…
Bà Chiên bóp chặt miệng. Cơn muốn khóc réo ấm ức từ trong bụng
bây giờ đang dồn lên ngang cổ làm bà nấc nghẹn. Đêm vắng. Chỉ kẽo kẹt tiếng những
con mọt đang thi nhau cắn gỗ. Bên gian đầu hồi thằng Lợi vẫn ngủ say. Ít nhất
thì nó cũng được đêm nay ngủ ngon giấc. Bà Chiên thấy thương thằng Lợi vô cùng.
Bạn bè cùng xóm cùng làng thằng nào cũng như lảng xa nó. Vả lại thằng Lợi cũng
chẳng dám chơi bời với một ai. Tội nhất là nó đã bỏ học. Nó định xin đi làm những
hiềm nỗi gia cảnh “không hay ho” lại học hành dang dở đến chân phụ hồ cũng
không ai mướn nói gì đến làm việc gì cho ra việc. Nó định đi xa khỏi làng nhưng
thương mẹ chẳng nỡ đi thành thử nhà đã neo lại thêm khó. Cảnh nhà bây giờ khác
nào cảnh nhà mẹ góa con côi. Thằng Lợi đứng núp trong nhà mỗi khi người nhà cô
Thoan sang đầu ngõ đứng chửi vọng vào trong nhà. Miệng nó mím chặt. Răng nó
nghiến kèn kẹt. Mắt nó nhắm lại ghìm nỗi phẫn uất. Lúc ấy bà Chiên phải đứng
canh chừng nó. Chỉ sợ nó trẻ người non dạ, thiếu suy nghĩ không khéo manh động
lại gây nên chuyện.
– Con Lanh nó nói…
– …
– Nó nói tôi phải tin mình.
– ….
– Nhưng…
– ….
– Nhưng một mình mình tin làm sao thay được tất cả. Làng này
có ai còn tin nhà mình nữa đâu.
– …
– Tôi cũng không tin nhưng làm cách nào bây giờ. Nói thế nào
bây giờ?
– …
– Con Lanh nó nói. Nó đi kiếm tiền về cho tôi để tôi tìm cách
lo cho mình.
– …
– Nó nói vậy nhưng giả sử có tiền cũng chẳng biết nhờ cậy ai.
Giả sử có tiền cũng chẳng biết cửa nào mà gõ.
– …
– Tôi nhớ mình lắm. Tôi thương mình lắm.
– …
– Mình còn nhớ tôi với mình đến với nhau như thế nào không?
– ….
– Mình còn nhớ cái bữa trưa năm nào trên đê không?
– …
– Sao ở đời lại có những chuyện tưởng chuyện trẻ con mà hóa
thành chuyện người lớn nhỉ?
– …
– Sao trưa hôm đó run rủi thế nào để mình giúp tôi. Sao trưa
hôm đó run rủi thế nào để mình vì tôi mà mắc chuyện dây dưa với thằng Thủ? Cũng
tại tôi. Tôi xin mình tha thứ, mình có trách thì trách tôi đây này.
– …
Câu hát chế ghép lứa đôi của thằng Thủ thôn Chằm cái trưa một
ngày tháng năm năm một ngàn chín trăm bảy mươi hai ấy không ngờ lại hóa thật.
Thằng Thủ Chằm thường ngày hung tợn chẳng coi ai ra gì, trưa ấy bỗng tự dưng ngừng
tay động thủ, nó chợt buông nắm đấm. Mắt len lén vừa quay đi vừa hát ỉ a “Con
Chiên thằng Thanh là hai vợ chồng. Hai vợ chồng chống vợ hai. Lấy lá gai gài lá
mít. Lấy lá mít dít vào mông. Lêu lêu. Hai vợ chồng chúng mày ơi. Lêu lêu”. Ai
ngờ câu hát chế ghép đôi kiểu trẻ con của thằng Thủ lại hóa thật. Năm vừa tròn
mười chín tuổi cô Chiên về làm vợ anh Thanh.
Kể cũng lạ. Làng Me ngày bấy giờ, trong lứa con gái vào tuổi
cặp kê thì có lẽ Chiên là một trong những cô gái ưa nhìn nhất và được nhiều nhà
để mắt lăm le nhắm tiếng. Dáng người chắc gọn. Nước da tươi giòn. Bộ ngực tràn
căng sức sống. Đôi mắt lúc nào cũng sáng long lanh. Nụ cười đằm làm nhiều chàng
trai đi đứng xiêu vẹo. Chiên khéo tay lại chăm chỉ nhất trong đám chị em làng
Me thời đó. Nhiều đám trai trong làng có, ngoài làng cũng có, đánh tiếng nhưng
Chiên lại bỏ ngoài tai. Cô Chiên lớn dậy hừng hực cứ dửng dưng như đang còn chờ
ai. Người làng Me nói dõi, con Chiên cứ ỏng eo rồi có ngày rước phải anh chồng
chẳng may mắn.
Những năm đó, nghĩa là đầu những năm tám mươi, mỗi khi vào dịp
làm lúa vụ xuân, hợp tác xã Vinh Quang lại tổ chức hội thi cấy lúa để chọn ra
ai là người cấy nhanh cấy giỏi nhất trong số các đội sản xuất của hợp tác xã. Gọi
là “thi làng” nhưng cũng làm nhiều người phải chăm chú theo dõi. Những nhà có
con trai độ tuổi hai mươi rủ nhau ra đồng xem thi cấy lúa cốt là có cơ hội chọn
vợ cho con trai nhà mình. Những nhà có con gái tuổi mới lớn rủ nhau ra đồng xem
thi cấy lúa cốt là để nhắc con gái mình phấn đấu bằng chị bằng em.
Hợp tác xã Vinh Quang có ba đội sản xuất phân đều trong ba
thôn. Đội sản xuất thôn Chằm luôn dẫn đầu về số người tham gia bởi thôn ấy người
đông, ruộng nhiều, lại toàn là những chân ruộng tốt. Đội sản xuất thôn Chạ tuy
ít người hơn đội sản xuất thôn Chằm nhưng họ cũng ganh đua không kém. Những cô
gái thôn Chạ dự thi cấy lúa đều là những cô hát hay tay khéo. Thôn Chạ luôn đứng
đầu hợp tác về khoản văn nghệ. Người thôn Chạ không ranh như người thôn Chằm
nhưng họ cũng là nơi có nhiều phong trào thi đua sản xuất. Đội thôn Chằm năm
nay đi thi rất phấn khởi, hội thi cấy chưa thi mà họ đã tuyên bố người thắng cuộc
năm nay không phải người ở thôn Chằm thì còn ở thôn nào nữa. Thực ra họ nói
cũng chẳng sai mấy bởi năm qua năm nào người thôn Chằm cũng đều đoạt giải. Họ tự
tin lắm, người đi ủng hộ cũng nhiều chẳng khác nào làng mở hội đầu năm. Đám con
trai đến tuổi chọn vợ người thôn Chằm kéo sang đông nghịt, ánh mắt lơ láo nhìn
như dán hết vào những tấm lưng các cô thợ cấy. Những cô thợ thi cấy mặc áo cánh
mới tinh, thắt đai bện bằng dây chuối ngang lưng càng nhìn lại càng tôn những tấm
lưng ong. Quần lụa vắn cao quá gối để lộ những bắp chân nhìn nõn cả mắt. Đám
con trai thôn Chằm xem thi cấy nhưng mắt lại chỉ nhìn những bắp chân các cô thợ
cấy. Họ nhìn rát bỏng như xát muối, miệng bình phẩm này nọ. Họ khen cô này mông
dầy ngực nở chưa động đã phồng. Họ chê cô kia mông tẹt vú lép có vỗ cả ngày chẳng
nổi chẳng mẩy lên được. Ngữ mông dầy đẻ đái dễ dàng lại khéo chiều chồng. Ngữ
mông tẹt đến ỉa còn chưa xong nói gì tới đẻ, hơn nữa ngữ mông tẹt sờ gai cả tay
vô phúc lấy về làm vợ chỉ rước mệt. Chắc với đám con trai thôn Chằm việc hợp
tác xã tổ chức hội thi cấy chẳng bằng việc họ việc được dịp ra đây đứng ngắm
mông, được dịp ra đây nhìn bắp chân trần con gái. Tha hồ ngắm, tha hồ bàn tán.
Nói vậy nhưng cũng làm hội thi cấy đỡ đơn điệu, đỡ tẻ nhạt. Gì thì những lời
bình phẩm cũng làm không khí thêm phấn chấn, đỡ căng thẳng hẳn.
Đội sản xuất làng Me năm ấy cử Chiên cùng ba chị nữa ra thi
tài với chị em các làng trong xã. Làng Me nằm ven đê, ruộng ít lại xấu nên việc
cấy hái có phần thua kém. Tham gia hội thi lại chỉ có bốn cô thành thử người đi
ủng hộ cũng thưa cũng ít. Những năm đó trai tráng khỏe mạnh ở làng Me lên biên
giới hết nên làng đã neo lại thêm vắng. Người làng Me hiếm giao du lại ít nói
nhưng khoản tích cực đi bộ đội chẳng thôn nào bằng. Đó là niềm tự hào của người
làng Me, chứ không như bên thôn Chằm thôn Chạ chỉ được cái trốn tránh là nhanh.
Trai tráng làng Me vắng nhiều nên việc rủ nhau ra đồng ngắm gái cũng chẳng có mấy
ai.
Chiên hôm dự thi cấy mặc áo cánh còn tươi màu củ nâu vừa nhuộm,
quần lụa đen mới cắt còn óng mượt ôm sát đùi. Cô cũng vắn quần quá gối để lộ
đôi bắp chân nhìn giòn mắt đám con trai. Chiếc đai lưng bện bằng dây chuối buộc
ngang lưng làm bụng cô như thon gọn thêm. Nhìn cô lúc đứng trong hàng chờ cuộc
thi bắt đầu giống như một bó mạ non bó chặt. Đã có vài tiếng xì xào bàn tán.
“Con Chiên làng Me trông được đấy chứ. Bộ dạng ấy khát trai phải biết. Thằng
nào đụng phải không sớm thì chầy cũng thành tật”. Tiếng xì xào lọt tới tai
Chiên, cô nguẩy mặt không chấp. Kể thì cái nguẩy mặt cũng làm mấy tiếng bình phẩm
nhỏ đi. “Tưởng người ta hám chắc. Đàn ông con trai gì mà chỉ ra đây nhìn mông với
nhìn bắp chân con gái. Đằng này không tiếp ngữ người ấy đâu nhá. Làng Me ít
trai thật nhưng trai ra trai chứ không trai ra hến đâu nhá” Chiên nghĩ thầm, bụng
cô đang dồn hết cho cuộc thi. Chẳng lẽ để người thôn Chằm năm nào cũng tới ẵm hết
giải sao?
Sau tiếng trống báo hiệu cuộc thi chính thức bắt đầu, cánh
thí sinh là các cô thôn nữ cười rinh rích cùng kéo tay nhau ùa nhanh xuống những
ô ruộng thi. Chiên thi cấy ở mảnh ruộng số 20. Mảnh ấy vừa xa lại vừa làm đất
xong. Mới làm đất nên ruộng còn chưa ngấu, còn chưa ngấu nên rất khó cấy. Biết
làm sao được. Chuyện cấy thi ở mảnh ruộng nào là do gắp lá thăm. Lá thăm của
Chiên là lá thăm số 20, số 20 nghĩa là cô phải thi trên mảnh ruộng số 20. Chẳng
hiểu là vì tại cái số hay thua thiệt mà ngay thi cấy người làng Me cũng kém cạnh
mọi bề. Chưa thi đã biết chắc gần như bét hội. Sau tiếng trống dồn dã thúc tưng
bừng Chiên còn đứng trên bờ, cô chưa vội xuống cấy ngay mà đứng mà đi trên bờ,
cô lẳng mạnh tay quẵng từng bó mạ rải đều khắp mảnh ruộng. Cách ấy giúp cô
không phải di chuyển nhiều khi cấy để nhặt mạ. Rải xong từng bó mạ Chiên mới bắt
đầu xuống cấy. Ruộng mới làm đất nên còn khá cứng. Mỗi giẻ mạ cắm xuống ruộng đều
phải ấn mạnh tay. Ruộng lại xa trung tâm hội thi nên cũng chẳng có mấy ai đứng
bờ cổ vũ. Hơn nữa cái nguẩy mặt của Chiên lúc trước hình như cũng làm đám con
trai hóng gái phải chờn. Phải chờn nên giờ đám ấy lảng hết. “Cũng chẳng sao”.
Chiên tự an ủi mình và cắm cúi cấy nhưng lòng cô cũng thấy hơi buồn buồn.
– Cấy giỏi lắm Chiên ơi!
Tiếng ai đó chợt vang lên làm Chiên tự dưng thấy như được cởi
lòng. Không quay mặt lên bờ để nhìn xem ai vừa nói bởi quay mặt là ngừng tay,
mà ngừng tay là chậm chân. Chiên vẫn cắm cúi ấn nhanh từng giẻ mạ nhưng bụng đã
thấy khấp khởi. Cô không đơn độc như cô đã nghĩ. Trên bờ lại vang lên tiếng động
viên. Lần này tiếng động viên liên tục hơn và to hơn. “Tưởng ai, thì ra là anh
chàng “Thanh còi” đang hò hét”. Chiên cười tủm tỉm. “Anh chàng này cũng được đấy
chứ”.
– Chiên cấy giỏi nhất! Chiên cấy giỏi nhất!
Tiếng hò hét cổ vũ của anh Thanh mỗi lúc một ráo riết hơn. “Cứ
như là chính anh ta đi thi cấy vậy”. Chiên không ngẩng lên nhưng cô đoán mặt
mày anh chàng Thanh lúc này chắc đang đỏ tía lên. “Hò hét to thế cơ mà”. Cô
đoán anh chàng Thanh này chắc sẽ khản giọng mất thôi. Tiếng hò hét cỗ vũ mỗi
lúc thêm náo nhiệt. Đã có mấy người cùng làng Me kéo đến cổ vũ cùng anh Thanh.
Hội thi cấy càng về cuối càng tỏ ra náo nhiệt. Cánh thôn Chằm
cấy phăng phăng. Cánh thôn Chạ cấy ào ào. Những tiếng cổ vũ cũng không kém. Người
thôn Chằm dậm chân vỗ tay tưởng nát bờ. Người thôn Chạ bắc tay làm loa hét rầm
rĩ. Chỉ có những cô thợ cấy làng Me là âm thầm cấy nhanh từng giẻ mạ. Tiếng trống
thúc hối hả. Hội thi mỗi lúc mỗi rộn rã.
– Chiên cấy giỏi thật đấy. Thế mà tôi cứ sợ.
– Sợ gì?
– Sợ..
– Sợ em thua á?
– Ừ.
– Thế ngộ nhỡ em mà thua thật thì anh Thanh có buồn không?
– Có.
– Buồn như thế nào?
– Như…
– Nhìn cái mặt kìa.
– Sao. Mặt tôi á?
– Chứ mặt ai nữa.
– Mặt tôi làm sao?
– Trông buồn cười chết í.
– Buồn cười thật á?
– Buồn cười thật. Nhưng mà…
– Chiên giành giải nhất có vui không?
– Biết mà còn hỏi.
– Phải hỏi mới biết chứ.
– Thế anh Thanh định hỏi gì?
– Hỏi… hỏi…
– Hỏi gì?
– Tôi nhờ người sang bên nhà có được không?
– Anh nhờ người sang nhà em làm gì?
– Để…
– Để gì?
– Để… tôi với Chiên ấy.
– Không sợ em giận, em không thèm chơi với anh nữa à?
– Vậy là Chiên với tôi nhá?
– Tôi với Chiên nha… nhá. Cứ làm như người ta đồng ý rồi ấy.
– Chiên đồng ý rồi à?
– Anh bảo đồng ý cái gì?
– Thì chuyện…chuyện tôi với Chiên ấy.
– Chả dại
-…
Bà Chiên tủm tỉm cười thầm một mình trong bóng tối. Câu nói
“chả dại” của bà bữa ấy làm mặt anh Thanh lúc đó đang vui chợt thững người, mặt
đần thuỗn, chân tay lúng túng như người bị lỡm mà đâm tẽn tò. Chiên cúi đầu che
nụ cười. Cô cũng đang đỏ mặt. Không ngờ anh chàng “Thanh còi” này cũng liều ra
phết. Dám tự mình đi hỏi vợ mới ghê chứ. Mà đã biết ý người ta thế nào đâu đã
dám nói nhờ người “sang bên nhà”. Ghê thật! Bà Chiên lại tủm tỉm cười. Nụ cười
vui hiếm hoi chợt trở lại khiến căn nhà như dồn nén lại. Vậy mà đã hơn hai mươi
nhăm hai mươi sáu năm rồi. Hai mươi nhăm hai mươi sáu năm bà về làm vợ ông
Thanh, mới thế mà ngỡ như vừa đây thôi. Hình như trong đầu bà đang vang lên tiếng
trống thúc hội thi cấy hối hả. Hình như bên tai bà vừa nhẹ nhàng câu nói “Chiên
cấy giỏi nhất”.
Thanh và Chiên đã đi tới rặng chuối của nhà bà cụ Hậu ở cuối
làng. Từ đây có thể nhìn thấy cánh đồng lúa mới cấy phơi ánh vàng dưới ánh
trăng. Ruộng mới cấy những cây lúa còn thưa thớt còn mảnh mai bên màu nước óng
ánh. Khung cảnh cánh đồng trong đêm trăng thanh giống hệt như một bức tranh được
dệt lên từ ánh sáng. Thanh lặng lẽ đi đằng trước, anh không dám đi sóng hàng
bên cạnh Chiên, thi thoảng anh mới thủng thẳng buông từng câu nói một, mà toàn
những câu nói chẳng ăn nhập gì với chuyện hai người lúc này cả. Nào là “thi cấy
Chiên có sợ thua không?” hay “Chiên đi chơi đã hỏi mẹ chưa?”. Chiên cũng lẳng lặng
đi đằng sau, hai người đi cách nhau tới cả sải tay với. Nói thực cô hơi trách
anh Thanh này “người đâu mà dát thế không biết”. “Không đồng ý dễ thường người
ta lại đi chơi với mình chắc”. Cô trách nhưng lòng đang dâng niềm vui. “người
thế mới tin được”. Hẳn lúc này Chiên đang cảm thấy một sự tin cậy thực sự. Cô từng
nghe nói đến có những anh con trai lần đầu tiên đi chơi với bạn gái chưa nói
câu gì đã sấn sổ ôm ghì lấy người ta. Lại còn quờ quạng đến khiếp nữa. Quờ quạng
làm người ta xấu hổ chẳng dám ngước mắt lên, cứ im thin thít mặc cho quờ quạng.
Thấy thế lại tưởng người ta là thứ con gái dẽ dãi. Tưởng thế rồi đi nói chuyện
linh tinh. Nói chuyện con này vú to, con kia ngực nhỏ. Khiếp. Nhưng nếu như anh
chàng “Thanh còi” này thì chán chết. “Đi chơi với người ta cũng phải… phải động
viên người ta chứ”.
Rặng chuối của nhà bà cụ Hậu ở cuối làng Me mùa này được nắng
nên tốt, lá um um. Những cây chuối mập mạp mọc ken nhau cứ như một cánh rừng
toàn chuối vậy. Ánh trăng soi óng từng tàu lá chuối non vừa tở. Gió thổi từ
cánh đồng tới làm bay phần phật những tàu lá chuối như trăm ngàn bàn tay đang
vây vẫy. Chiên đi chậm lại. “Người đâu chẳng có ý gì cả. Đi nhanh chết đi được”.
Càng về đêm gió đồng càng thổi mạnh. Những tàu lá chuối bay phần phật như cả
trăm cả ngàn người đang nói chuyện râm ran. Hai người đi hết những mười năm
vòng từ đầu rặng chuối tới cuối rặng chuối. Chiên đã thấy lạnh. Họ bắt đầu đi tới
vòng đi thứ mười sáu.
– Anh Thanh có…
– Chiên bảo có gì?
– Anh có lạnh không?
– Chiên thấy lạnh à? Hay là… mình về nhé.
Chao ơi. Người đâu “kém thông minh” thế. Chiên lẳng lặng chẳng
nói tiếp, cô bỗng đi nhanh vượt lên trước anh Thanh mấy bước.
– Chiên đi nhanh thế. Đợi tôi với.
– Đi nhanh cho khỏi lạnh.
Chiên đáp vẻ vùng vằng. Cô dừng lại đột ngột. Chỉ thế thôi
nhưng anh Thanh đã đi tới sát bên. Rất bất ngờ nên anh Thanh như chiếc xe không
kịp “hãm phanh” sắp đâm cả người vào người cô. Cũng như một phản xạ tự nhiên
anh Thanh giơ vội tay ra đỡ cho Chiên khỏi bị xô ngã. Hai người bỗng sầm vào
nhau. Một vòng ôm bất ngờ của anh Thanh làm Chiên run lên. Cô đã chờ nó lâu lắm
rồi.
Đêm khuya thanh vắng như một chứng nhân nhưng lại là một chứng
nhân kín đáo nhất. Đêm khuya không tiếng ồn ào. Những tàu lá chuối bất chợt ngừng
bay phần phật. Chỉ có tiếng thở gấp gáp của Chiên. Chỉ âm thầm hơi thở nóng hổi
của anh Thanh. Hai người vừa thở vừa e thẹn ôm chặt lấy nhau.
– Chúng mình… lấy… nhau nhé?
– Em chả dại.
– Chả dại sao lại thế này?
– Tại vì anh..
– Tại anh á?
– Anh nhát lắm.
– Nhát thế nào?
– Nhát.
Chiên ngẩng mặt lên. Dưới ánh trăng đêm đôi mắt của cô sáng
long lanh. Chỉ tiếc là lúc này anh Thanh lại nhắm nghiền hai mắt nên anh không
nhìn thấy ánh mắt của cô nhưng hơi thở gấp gáp của cô đã giúp anh Thanh nhận ra
mình phải làm gì. Ôm chặt Chiên hơn, Thanh run run ghé đôi môi cũng đang lẩy bẩy
của mình lên đôi môi đang hé đợi của Chiên. Trời đất như sụp xuống. Chiên hơi
khuỵu chân xuống sau nụ hôi nóng hổi của anh Thanh. Trời đất như đổ sập. Người
Chiên lỏng ra, cô thấy mình chới với sắp ngã. Cảm giác chới với của Chiên khiến
anh Thanh ghì chặt cô hơn. Lấy hết sức lực và can đảm anh Thanh nâng người
Chiên đứng thẳng lên. Đôi môi của họ vẫn như không chịu buông rời.
Sau thoáng chới với của lần đầu được hôn Chiên đã bình tĩnh
hơn. Cô giật người lùi lại tựa lưng vào một cây chuối cạnh đó. Hai người chừng
đã bện tình, họ háo hức hôn nhau trong vòng tay siết chặt cùng động tác áp mạnh
sát ngực của anh Thanh vào ngực Chiên. Họ đã quên hết trời đất. Mà lúc này làm
gì có trời với có đất. Chỉ có hai người hôn nhau như dính chặt với nhau.
Người Chiên bỗng từ từ ngả người ra. Cô đang ngả người về
phía sau sau những vòng ôm mạnh đầy riết róng của anh Thanh. Chiên từ từ ngả xuống.
Rồi cả người cô ngã ngửa. Cây chuối nơi cô đứng dựa lựng không chịu nổi cái áp
ngực mạnh mẽ của anh Thanh đổ đánh “rầm” kéo theo cả hai người vừa ôm nhau vừa
ngã đè lên nhau.
– Khiếp. Trông thế mà khiếp.
– Chiên có đau không?
– Đau. Thế em đau anh Thanh có đền không?
– Đền gì?
– Đền..
– Đền gì?
– Đền. Anh sang nhà em gặp mẹ em ấy.
– Ngay bây giờ á?
– Làm gì mà vội thế.
– Sao Chiên bảo đền cơ mà.
– Dốt. Anh dốt lắm.
– Thật á?
– Chứ lại. Không ôm em nữa à?
– Tưởng..
– Tư… ưởn… tưởng…
Chiên kéo dài chữ “tưởng” đến ngỡ câu ấy dài lên tới tận trời.
Thanh lúng túng chưa biết làm gì tiếp theo sau cú ngã của cả hai người, anh
lúng túng không biết nên đứng dậy hay cứ nằm đè lên người Chiên như thế này. Một
khoảnh khắc im lặng làm không gian như im phắc. Bất chợt Chiên vòng hai tay
lên. Cô kéo ghì cả người anh Thanh lên người cô.
– Mai nhà người ta ra đây, người ta mà biết thì ngượng lắm.
– Biết ngượng sao cứ còn nằm mãi lên người người ta thế
– Nhưng..
– Nhưng gì?
– Nhưng mai cũng phải gặp người ta để xin lỗi.
– Thế anh xin lỗi với người ta như thế nào? Chả nhẽ lại
nói là…
Thanh bịt vội mồm Chiên. Anh sợ Chiên nói to cả làng nghe thấy
thì ngượng chết.
– Em cứ nói đấy.
– Nói thế nào?
– Nói tại anh Thanh ôm em mạnh quá làm đổ cây chuối đấy.
– Mình anh chẳng làm cây chuối gãy được.
Ái chà. Giờ cũng bạo dạn rồi đấy. Chiên cười to thành tiếng.
Tiếng cười con gái vang trong đêm trăng ngỡ lên tới tận chỗ chị Hằng. Chiên cười
nhưng không đẩy anh Thanh ra mà lại kéo ghì cả mặt cả người anh Thanh lên người
cô. Đến lúc này Thanh đã mạnh dạn hơn. Cảm giác bồng bềnh đã khiến anh ngây ngất.
Bộ ngực căng tràn sức sống của Chiên đang cương lên bồng bềnh. Có cái gì đấy thể
như không cưỡng nỗi. Thanh đặt bàn tay của mình lên bộ ngực đang bồng bềnh của
Chiên. Một luồng điện cực mạnh như phóng tới khiến người Thanh càng thêm rạo rực.
Bàn tay Thanh đã đặt lên đúng nơi chốn mà bao lần anh bần thần khi vô tình nhìn
thấy mỗi lần Chiên cắm cúi cấy.
Hôm thi cấy, Thanh chạy quanh bờ để cổ vũ cho Chiên. Chiên cấy
đến góc bờ nào Thanh chạy đến góc bờ đó. Thanh vừa hò hét vừa nhiệt tình cúi
ghé sát mặt mình vào từng đường cấy của Chiên. Hội thi càng thêm quyết liệt. Mải
hăng hái cấy mà chiếc cúc bấm nơi cổ áo của cô bung ra, nó kéo tuột cả mấy chiếc
cúc phía dưới. Cũng tại chiếc áo mới may nên vải chưa giãn, chưa kịp giãn nên tấm
áo không chịu nổi những cử động thoăn thoắt cùng bộ ngực căng tràn sức sống của
Chiên, nó làm lộ ra bầu vú tròn mẩy như trái cam chín với đôi núm vú hồng hồng.
Thanh thần mặt ra trước đôi bầu vú đầy khơi gợi đang rung rẩy theo mỗi nhịp cấy
hăng hái của Chiên, anh thoáng sững sờ pha chút xấu hổ vì cứ ngỡ là Chiên đã
nhìn thấy ánh mắt nhìn trộm của mình. Anh đứng thẳng người lên để mắt khỏi chạm
vào chỗ ấy. Nhưng đứng thẳng người Thanh lại thấy tiếc rẻ. “Chắc Chiên mải mê
nên không biết đâu” Thanh tự nhủ vậy và âm thầm vừa nhìn ngực Chiên vừa hò hét.
Bàn tay Thanh lần xuống phía dưới định đỡ người Chiên cho người
cô khỏi dính đất lạnh. Anh đã chạm vào cặp mông của Chiên. Cặp mông này cũng
làm anh bối rối khi anh hò hét cổ vũ Chiên thi cấy. Mỗi khi di chuyển để cắm từng
giẻ mạ theo hàng theo lối Chiên phải di chuyển kiểu đi ngang. Nếu cấy từ phải
qua trái cô di chuyển bằng cách vắt chéo chân phải qua chân trái rồi mới nhấc
chân trái dịch sang ngang. Nếu cấy từ trái qua phải thì chân trái của cô lại vắt
chéo qua chân phải. Lối di chuyền này không làm người đang cấy tốn thời gian nhấc
từng bàn chân. Lối di chuyển ấy giúp người thợ cấy cấy nhanh hơn và giữ được
hàng lúa cấy cho thẳng cho đều. Thanh ý tứ tránh nhìn trước ngực Chiên, anh chạy
về phía sau lưng Chiên để hò hét. Được nhìn ngực của Chiên kể cũng thấy thích
thật đấy nhưng chẳng lẽ cứ nhìn mãi. Chiên mà biết chắc cô sẽ giận lắm đây.
Chiên giận và mình cũng chẳng có mặt mũi nào. Nhưng khi đứng đằng sau Chiên rồi
ánh mắt của anh lại bắt gặp một tình thế khác. Chiên mải miết cúi người sát mặt
ruộng để cắm từng giẻ mạ tự nhiên làm căng thêm cặp mông dầy khơi gợi. Thanh ớ
mặt ra một thoáng rồi ánh mắt anh háo hức nhìn cặp mông của cô. Nhất là mỗi khi
Chiên vắt chéo chân để di chuyển theo kiểu đi ngang để nối dài hàng lúa cấy,
đôi chân cô được thu gọn lại và đôi chân ấy chợt như chìm khuất dưới làn nước.
Mảnh ruộng lênh lang nước bây giờ trông như một tấm gương soi. Hình hài cô thợ
cấy cũng đã biến đâu mất, chỉ ngời ngợi một hình ảnh đó là cặp mông con gái
căng dầy trông giống như một chiếc lồng bàn ai đó đang úp trên mảnh ruộng.
Thanh thấy tâm hồn mình bay bay. Một cảm giác như muốn lội
phăng ngay xuống ruộng cấy để ôm chầm lấy Chiên. Nhưng anh đã dụt lại. Dụt lại
nhưng trong lòng lại càng thôi thúc và nó đã cho anh “bản lĩnh”, cho anh sự can
đảm để nói với Chiên những câu nói chân thật và ngốc nghếch của mình lúc chỉ có
hai người bên nhau.
Bây giờ Thanh đã chạm vào được cái điều thôi thúc lúc anh đứng
trên bờ. Chiên lịm người đi để mặc cho bàn tay của anh Thanh “khám phá” mọi nơi
mọi chốn trên người cô. Đôi mắt lim dim, ngực Chiên phập phồng những hơi thở riết
róng. Toàn thân cô nóng ran.
– Anh Thanh sau này có đi kể chuyện linh tinh không?
– Chiên hỏi gì lạ thế?
– Con trai là chúa hay nói linh tinh. Rồi anh Thanh lại nói rằng
em thế này thế nọ ngay mà.
– Chiên là của anh mà. Anh không nói đâu.
– Của anh mà. Bao giờ thế?
Bà Chiên thấy má nóng bừng. Cảm giác xấu hổ làm bà nóng bừng
cả mặt. Đưa vội mắt nhìn về chỗ thằng Lợi đang ngủ. May quá nó vẫn ngủ say. Mấy
năm rồi lòng với dạ chỉ toàn lo, chỉ toàn sợ bà đã ngỡ cảm giác được gần gũi chồng
đã chôn vùi đâu đó. Cảm giác ấy đêm nay trở về khiến bà dấy lên nỗi thèm chồng
cứ như ngày đầu hai người bên nhau chỗ rặng chuối nhà bà cụ Hậu. Đêm đó cô thôn
nữ tên Chiên đã nhận lời yêu của anh Thanh. Chiên nhận lời như thể chính cô đã
chờ đợi câu nói của anh Thanh lâu lắm rồi. Chờ đợi từ cái buổi trưa năm nào
trên đê sông Thương ấy. Trên dốc đê sông Thương con bé Chiên đã linh cảm sẽ có
một ngày như đêm hôm nay. Trên đê sông Thương con bé Chiên bị thằng Thủ thôn Chằm
bắt nạt đã nhận ra bên mình còn có một người con trai tên là Thanh đứng ra bênh
vực. Cô bé Chiên đã nhận ra sự che chở của người con trai cùng làng Me với mình
như chính nó phải là vậy. Trên con đê sông Thương, đoạn đê chạy ôm vòng lấy bìa
làng ngỡ tưởng nó sẽ bảo vệ, nó sẽ giữ trọn câu chuyện có hai người yêu nhau ấy.
Vậy mà. Bà Chiên bùi ngùi. Trong đám con trai làng Me. Trong
đám con trai mấy làng hôm hợp tác xã tổ chức hội thi cấy đã tuôn không biết bao
nhiêu lời trách móc lẫn nhạo báng. Đám con trai trách móc lẫn nhạo báng khi được
biết cô Chiên giải nhất hội thi cấy, cô Chiên người giòn mắt long lanh đã nhận
lời yêu anh chàng “Thanh còi” mới lạ chứ. Đám con trai làng Me biết Chiên với
Thanh chơi với nhau từ bé nên cũng nhanh quên. Nhưng đám con trai thôn Chằm thì
thấy như mình bị xúc phạm ghê gớm. Xưa nay hễ làng Me, hễ thôn Chằm hay
thôn Chạ có cô con gái nào lớn xinh xắn thì y như là cánh con trai thôn Chằm
“giật” lấy hết. Lần đầu tiên trong xã có một cô con gái xinh giòn và giỏi nhất
hội thi cấy tự nhiên lại “rơi” vào tay một kẻ “tầm thường” dưới mắt của bọn họ,
đã làm đám con trai thôn Chằm tức điên lên. Họ bĩu môi dè bỉu. “Thằng Thanh á.
Nó đứng bên con Chiên chẳng khác nào con nhái bén nhảy ôm bó mạ”. “Con Chiên
sao mà dại thế. Nó mà lấy thằng Thanh rồi cũng có ngày khốn khó thôi”. Và…
Bà Chiên giật mình. Hình như câu nói của đám con trai thôn Chằm
giờ mới vận. Hai mươi nhăm hai mươi sáu năm làm vợ ông Thanh ngỡ đã yên bề đâu
ngờ tai họa có ngày giáng xuống. Những người mê tín nói Chiên “cung sát phu” lấy
anh Thanh “cung đoản mệnh” không sớm thì muộn cũng có lúc hai người phải xa
cách đôi nơi. Những người không mê tín nhưng họ cứ căn cứ vào hình thể thì
phán, anh Thanh người bé còi lấy cô Chiên người mặn lại giòn sẽ “Tốt mái hại sống”.
Hại gì không biết nhưng chuyện bây giờ cũng khác nào sự hại.
Ngoài cửa chợt có tiếng động nhẹ. Tiếng động của lũ chân chuột
chạy trong đêm vắng nghe chờn chợn làm bà Chiên lại thêm thảng thốt. Mình ơi!
Giờ này mình ra sao?
Ngồi co cả hai chân lên ghế. Nỗi sợ hãi thường nhật lại trở lại
bao trùm khắp ngôi nhà. Đêm nay thằng Lợi có lẽ được một đêm ngon giấc. Thương
nó quá. Bà Chiên bùi ngùi. Thằng Lợi càng lớn càng giống ông Thanh như đúc.
Cũng dáng người khều khào. Cũng cách ăn cách nói chân chỉ. Nhiều lúc đứng nhìn
thằng con đã lớn mà cứ ngỡ anh chàng “Thanh còi” ngày nào. Cứ ngỡ như đang thấy
anh Thanh hăm hái đi đằng trước. Anh bước những bước đi thẹn thùng khi lần đầu
hai người đi chơi với nhau.
– Chiên lấy tôi thật nhé?
– Không…
Con gái hay nói không là có mà nói có mà không mà. Chiên nói
“không” nhưng cô lại vùng tay lên kéo ghì cả mặt cả người anh Thanh ấp lên người
mình. Lúc đó Chiên thấy thương anh Thanh vô cùng. Nhà neo. Bố hy sinh đã lâu. Mẹ
thường đau yếu. Thanh không xin đi làm xa hay học lên mà ở lại làng. Riêng chuyện
đó cũng làm Chiên thích thú. Cô rất ghét những anh con trai mới lớn tí tửng một
tí rồi tấp tểnh bỏ làng. Bỏ làng đi đâu xa lúc trở về làng cứ khệnh khạng nhìn
phát ghét. Con trai đâu cứ đi xa mới đáng mặt. Ở lại làng cũng tốt chứ sao.
Cũng tại bởi Chiên có suy nghĩ đơn giản. “Vợ chồng phải luôn ở cạnh nhau”.
Vậy mà bây giờ ông ấy không có ở bên mình. Bà Chiên cảm như
muốn khóc. Một nỗi nghẹn sầu dâng lên ngang họng khiến bà không thể cất lên tiếng
khóc. Rồi con Lanh nữa. Ở bên xứ người lạ nước lạ cái nó biết trông cậy vào ai,
Nó cũng là phận đàn bà con gái. Làm phận đàn bà con gái mà thiếu vắng bàn tay
người chồng thiếu vắng sự chăm sóc của đàn ông kể cũng khổ. Nó nhẽ ra đã an phận
vợ chồng nếu như không có chuyện của ông Thanh. Không lẽ ông Thanh, cha nó lại
là người vô tình làm hại nó? Bà Chiên gạt nhanh ý nghĩ đó. Hồi còn ở nhà ông
Thanh luôn cưng chiều con Lanh. Ông có khi nào mắng mỏ hay bắt nó phải làm việc
gì quá sức đâu. Người nhỏ bé nhưng được cái sức vóc cũng dẻo dai nên trong nhà
này mọi việc nặng nhọc bao giờ ông Thanh cũng giành hết. Ngay đến thằng Lợi, thằng
con trai có thể giúp việc gì đó cùng cha nhưng ông Thanh cũng không cho nó động
tay. Ông nói, mình khó mình chịu thiệt thòi đã đi một nhẽ. Giờ ít nhiều cũng có
điều kiện nên để chúng nó học. Để chúng nó được vui.
“Ông ấy là người như thế cơ mà” Bà Chiên nói thầm như đang khẳng
định với ai đó. Bà không tin rằng ông Thanh lại có thể làm những việc tày đình
được. Nhưng biết thế mà đành chịu thế.
Chẳng lẽ mọi chuyện lại bắt đầu từ chính mình. Bà Chiên bắt đầu
thấy nghi ngờ chính mình. Câu nói của cánh con trai thôn Chằm không phải không
có lý. Ít nhất cũng là vào thời điểm này. “Nó mà lấy thằng Thanh rồi cũng có
ngày khốn khó”. Một thứ gì đó mơ hồ chen vào tâm trí bà. Câu nói của những người
mê tín rằng “Hai người rồi cũng có ngày phải xa cách” khiến bà phân vân. Không
lẽ vận hạn đến bây giờ mới vận vào?
Đàn ông là những kẻ chúa lăng nhăng. Tự dưng câu nói đó lóe
lên trong đầu. Đàn ông là những kẻ tham lam bậc nhất. Không lẽ chuyện ông Thanh
đã làm cũng là bởi những “cái chúa” đó. Thoáng chút nghi ngờ, bà Chiên cúi xuống
nhìn người mình. Có khi thật chứ chẳng chơi. Mình già mất rồi. Thân hình nhẽo
ra mất rồi. Ông Thanh ông ấy đi tìm của lạ cũng có khi? Mà cái nhà cô Thoan kia
nữa chứ. Người cứ phây phẩy ra, nhìn mơn mởn như thế thằng đàn ông nào mà chả
thèm. Lại còn cảnh đơn thân nữa. Người đàn bà đơn thân bỗng dưng có chửa là những
người chẳng tin được. Biết đâu cũng tại cô ta ham hố điều gì. Đàn bà cũng thật
phiền phức. Sống đơn thân lại nuôi con nhỏ thì chuyện “nhử” giai lấy chỗ dựa
cũng chẳng sai. Cô Thoan cũng như mình. Cũng mong thèm có chồng có người đàn
ông để mà nương tựa. Phận đàn bà một thân một mình nuôi con khổ lắm. Ông Thanh xưa
nay được cái nét hay giúp người mà.
Cứ co cả hai chân trên chiếc ghế cũ, bà Chiên dấm dứt khóc
trong bụng. Bà không dám khóc to vì ngại thằng Lợi nghe được nó lại hốt hoảng
tưởng mẹ bị làm sao. Nó tưởng mẹ bị làm sao nó lại cuống lên. Khổ thân thằng bé.
Nó từ nhỏ đến giờ đã phải lo lắng gì đâu. Từ ngày bố nó đi tù đến giờ trông nó
lạ hẳn đi. Không giao du bạn bè. Không chịu tới lớp. Nó thui thủi giúp mẹ việc
nhà nhìn mà thấy tội nghiệp. Nhẽ ra tuổi nó bây giờ cũng đã ra dáng một anh con
trai rồi đấy. Hồi ông Thanh bằng tuổi nó không ngờ xẩy ra chiến tranh trên biên
giới, anh Thanh làm đơn xung phong đi bộ đội. Anh muốn lên biên giới đánh giặc
nhưng xã không cho đi. Họ nói anh là con liệt sĩ nên không phải đi. Chuyện đó
sau này khi hai người đã thành chồng vợ ông Thanh cứ ngậm ngùi. Ông tiếc nếu
không mình cũng đã làm được việc gì đó cho ra dáng đàn ông hơn. Cũng làm được
điều gì đó xứng đáng với cha mình.
Bà Chiên giật mình khi nhớ tới chuyện “giống cha mình”. Bà giật
mình quay phắt mặt nhìn lên ban thờ. Đã lâu bà không ngó ngàng gì tới ban thờ.
Tâm trí rối bời. Lòng đầy lo lắng nên bà xao nhãng chuyện hương khói. Vả lại từ
hôm ông Thanh bị bắt, bà thấy ngượng với làng với xóm nên đã tự tay cất tấm bằng
“Tổ quốc ghi công” của cha ông Thanh đi. Để đấy người ta tới nhà, người ta nói
quở thì nhục lắm. Bốn năm qua, ngày giỗ cha chồng, bà Chiên chỉ len lén mang thầm
chiếc bằng “Tổ quốc ghi công” đặt lên chỗ đấy. Bà đặt như đặt trộm, thắp xong
nén hương là cất vội cất vàng. Nghĩ mà cơ tủi nhưng để đấy sao đành, ê mặt với
làng với xóm.
Ban thờ trống vắng như chính căn nhà vậy. Chỗ vẫn để tấm bằng
“Tổ quốc ghi công” nhìn lạnh lẽo. Lòng đầy băn khoăn bà Chiên vội đứng lên. Bà
muốn thắp nén hương cho cha chồng nhưng vội rụt ngay lại. Khấn gì, thưa gì với
vong linh ông cụ? Vong linh ông cụ chắc không yên một khi biết chuyện bây giờ?
Phận làm vợ, phận làm dâu con còn chưa trọn nói gì tới làm đạo nghĩa?
Chắp tay trước ngực. Bà Chiên lâm râm khấn thầm. “Cha thương
chúng con. Cha tha lỗi cho nhà con. Cha có mắng thì mắng con đây này. Cha có giận
thì cha giận con đây này. Mong ở nơi xa xôi anh linh cha hiện về mách bảo. Cha
giúp con, cha nói cho con điều gì đi cha”.
NĂM
– Con cố nghĩ lại xem, con có làm điều gì để gây nên nỗi
không?
Bà Chiên đã ngấm mệt. Đã gần trọn một đêm sắp trôi qua mà bà
vẫn không dám chợp mắt. Cơn buồn ngủ bất ngờ kéo đến rất nhanh và bà không sao
cưỡng nổi. Bà Chiên gục mặt vào giữa hai đầu gối mình mà ngủ thiu thiu. Tiếng hỏi
nghe mập mờ, tiếng hỏi mơ hồ từ một nơi chốn rất vời xa thoảng tới. Giọng nói
quen quen cứ như giọng nói ấy phát ra từ miệng của một ai đó trong nhà này vậy,
nhất là chữ “xem” nghe hơi kéo dài, âm phát ra bèn bẹt. Bà Chiên cố nhớ mà
không nhớ nổi giọng nói nghe quen quen ấy là của ai. Của ông Thanh ư? ông sẽ
không nói với bà bằng kiểu xưng hô như vậy. Hơn nữa ông ấy còn đang ở trong tù
mà ở trong tù thì làm sao có thể về nhà lúc này và nói chuyện với bà được. Của
ai nhỉ? tất cả dường như đều im ắng. Vẫn cố nhớ mà bà vẫn chưa thể xác định được
giọng nói mơ hồ thoảng từ nơi chốn vời xa ấy là của ai. Câu hỏi mập mờ khẽ thoảng
qua tai rồi chìm vào im lặng. Ngôi nhà cũng chợt im phắc, tĩnh lặng như chưa hề
có ai đã đến. Những con mọt cũng thôi không cắn gỗ nữa. Dấu hiệu cho thấy thời
gian đã chuyển từ đêm sang ngày.
– Con cố nghĩ lại xem…
Tiếng hỏi nghe mơ hồ lại mập mờ vẳng từ nơi chốn rất vời xa
thoảng tới. Lần này tiếng hỏi không hết câu, tiếng hỏi bỏ lửng như người vừa hỏi
không kịp nói hết hoặc như người hỏi còn chần chừ mà sinh ngắc ngứ. Bà Chiên
bàng hoàng giật mình choàng mở mắt. Nỗi lo sợ “phải tội” với ông Thanh mỗi khi
chợp mắt đã cho bà một phản ứng tỉnh dậy rất nhanh. Bà ngơ ngác, mắt cũng mơ hồ
nhìn xung quanh. Khắp ba gian nhà dường như cũng không có gì đổi thay. Cánh cửa
ra vào, cánh cửa đóng bằng gỗ thông, thứ gỗ tận thu từ chiếc thùng đựng hàng mà
ông Thanh mua rẻ được của người hàng xóm, người ấy có con đi xuất khẩu lao động
gửi từ bên Đức về, lâu ngày cũng đã xập xệ. Cánh cửa đóng tạm bằng đinh đã han
rỉ làm hở những mảnh ghép để cho ánh sáng lọt từ ngoài sân vào trong nhà, cánh
cửa vẫn đóng khép nhưng ràng rạng báo hiệu một ngày mới đang tới, một thứ ánh
ngà đã mờ mờ dần thay thế ánh trăng khuya bàng bạc.
Không có gì khác lạ ngoài duy nhất một điều bất thường là dưới
nền nhà, cạnh ngay bên chân chiếc ghế mà bà đang ngồi, đôi dép tổ ong rách lờm
xờm, đôi dép vốn trước để xộc xệch lúc bà co cả hai chân lên ghế bây giờ hình
như được xếp lại ngay ngắn. Đó chính là biểu hiện cho thấy đây là sự khác biệt
xẩy ra trong lúc bà vừa ngủ thiu thiu. Lo hãi, bà Chiên dáo mắt nhìn xung quanh
thêm một lần nữa. Mọi vật dụng trong nhà đều không hề suy chuyển. Trên chiếc
giường một kê phía gian đầu hồi, thằng Lợi không biết đã cựa mình chuyển tư thế
nằm từ khi nào. Nó quay mặt vào vách. “Vậy là nó không nghe thấy tiếng ai vừa hỏi.
Hay là mình mơ ngủ?”. Bà Chiên sợ sệt đặt đôi bàn chân mình xuống đôi dép. Cảm
giác như có ai vừa mới sỏ chân thể hiện qua đôi dép còn âm ấm.
Trong đầu chợt thoáng hồ nghi chuyện tâm linh, bà Chiên nhìn
vội lên ban thờ. Chỗ trống vắng trên ban thờ do việc bà đã cất đi tấm bằng “Tổ
quốc ghi công” bây giờ có vẻ như vừa có bàn tay nào lau dọn. Bằng chứng là lớp
bụi bám ở chỗ đó hình như đã được phủi sạch, để lộ màu gỗ thâm đen. Bàng hoàng
trước những điều thay đổi bất thường vừa nhận thấy đó, bà Chiên chợt hoảng cả hồn,
khuôn mặt đầy đầy, khuôn mặt phúc hậu của bà dại trắng đi. “Không lẽ vong hồn của
cha ông Thanh vừa hiện về?”. Những băn khoăn lẫn hồ nghi dồn dập len vào tâm dạ
bà. “Nếu đúng thực là vong hồn cha vừa hiện về? Con nam mô a di đà phật. Con lạy
cha. Con xin cha mách cho con biết con phải làm gì để giúp được nhà con”. Miệng
lầm rầm khấn bái. Bà cuống quýt nhặt mảnh ghẻ lau bàn, bà vội vã lau những chỗ
bụi còn lại trên ban thờ. Vừa lau miệng vừa lẩm bẩm.
– Con cố nhớ xem là mình có làm điều gì để gây nên nỗi không?
– Thực tình con không nhớ nữa.
– Thử cố nhớ xem.
– Con không nhớ nổi.
– Ví dụ như chuyện đã vi phạm lời nguyền chẳng hạn.
– Lời nguyền nào thưa cha?
– Các con bây giờ đã quên hết rồi sao?
– Thực tình con không nhớ. Xin cha, cha dạy bảo cho con.
– Muộn rồi.
– Con xin cha dạy bảo một lần nữa.
– Con không nhớ thì ta biết dậy bảo thế nào.
Như một người vừa bước ra từ cõi huyễn hoặc. Bà Chiên mặt vẫn
còn dại trắng, khắp người run rẩy, toàn thân nóng lạnh lung tung. Mắt bà lại
dáo dác nhìn khắp lượt quanh ngôi nhà như để kiểm xem mình có sơ sẩy gì không.
Vẫn như ngày hôm qua và nhiều ngày trước nữa. Ngôi nhà gạch cấp bốn được xã xây
dựng cho từ hồi thằng Lợi mới lên một tuổi giờ đã xuống cấp. Những mười bảy mười
tám năm rồi còn gì. Ngôi nhà bắt đầu bong tróc lớp vữa trát tường, làm lộ những
hàng gạch non bục tở, chỉ nhẹ tay cào là bụi đỏ bay rơi lả tả. Mấy chỗ góc nhà
từng đám mạng nhện nhuốm màu bụi chăng nhằng nhịt, chứng tỏ cũng lâu rồi bà và
các con chẳng buồn dọn dẹp, chẳng buồn ngó ngàng. Nỗi trống vắng bao giờ cũng
đi kèm với sự trễ nải. “Hay là tại chuyện này?” bà Chiên thoáng nghĩ
nhưng cũng cố tự lý giải chuyện chẳng buồn quét dọn nhà cửa không có lẽ lại
là lý do cho chuyện có thể gây nên nỗi. Bà Chiên thấy phân vân.
Thực ra bà Chiên phân vân cũng có lý đúng. Năm thằng Lợi lên
một tuổi, ngôi nhà này được xã xây dựng tặng cho gia đình bà, thay thế ngôi nhà
lợp rạ vách trát bùn rơm làm từ hồi cha mẹ ông Thanh còn trẻ, gia đình diện
chính sách mà. Vả lại hai ông bà lấy nhau ngoài ngôi nhà tranh dựng trên mảnh đất
rộng hơn một sào ở giữa làng là của hồi môn do cha mẹ ông Thanh để cho, còn lại
thì của cải của hai ông bà chẳng có gì đáng giá. Nhà nghèo, con còn nhỏ dại lại
hay dặt dẹo, nên dù hai vợ chồng có chịu khó đến mấy thì nghèo vẫn hoàn nghèo.
Đầu những năm chín mươi của thế kỷ trước, phong trào xây dựng “nhà tình nghĩa”
tặng những gia đình chính sách diện hộ nghèo được nhiều địa phương, nhiều tập
thể và cá nhân hảo tâm khắp nơi tích cực ủng hộ. Xã chọn gia đình bà cũng phải,
bởi những năm ấy bà như người dở chứng sau hai lần sinh nở, chẳng được bồi dưỡng
mấy, sinh đau yếu liên miên, ông Thanh sức lực bản thân cũng chỉ lấy việc chăm
chỉ làm để gọi là bù trì mà thôi. Hai đứa con, một đứa mới một tuổi và một đứa
lên sáu, việc dỗ chúng nó ăn, lo cho chúng nói ngủ đã khó, nói gì đến chuyện
chúng nó lo giúp việc nhà làm thay bố mẹ. Một ngôi “nhà tình nghĩa” với sự đóng
góp ngày công của bà con trong làng Me đã hình thành. Âu nó cũng là điều quý
giá mà sự hy sinh của cha ông Thanh để phúc lại cho con cho cháu.
Ngôi nhà mới xây gạch, ba gian, lợp ngói tây, hai ông bà coi
như tiện thể cũng cố vay mượn góp ít tiền làm thêm cái buồng trái, nằm lọt thỏm
giữa làng Me. Người làng Me bao đời sống an phận. Người làng Me vốn không ham hố
hay kèn cựa với ai. Chuyện vợ chồng bà may mắn có được “ngôi nhà tình nghĩa”
ngày ấy như một sự kiện. Dân làng người mừng cũng có và người ganh tỵ cũng có.
Kẻ ganh tỵ nói bóng nói gió, của cho là của nợ. Người mừng cho nói tưng tưng,
nhà ấy bố liệt sĩ , con độc đinh, xã giúp cho cái nhà là chí phải. Hai vợ chồng
ông Thanh bà Chiên thì khỏi bàn, mừng vui ra mặt, chỉ thương bà cụ mẹ ông Thanh
đã mất trước đó vài năm. Bà cụ nhắm mắt mãi không xuôi, còn áy náy thương con mồ
côi nhà cửa mục cũ mà khi đi cụ cứ dùng dằng. Hôm khánh thành nhà, ông Thanh trịnh
trọng đặt lên ban thờ, thực tình ban thờ ấy cũng chỉ là chiếc bàn mộc đơn sơ
đóng bằng gỗ mít, tấm bằng “Tổ quốc ghi công”. Ông lý sự vì sao không treo tấm
bằng gọi là của quý giá nhất trong nhà lên bức tường nào đấy hay treo lên chiếc
cột gỗ xoan cạnh ban thờ. Ông lý sự rằng, để tấm bằng trên đấy mắt khi nào cũng
nhìn thấy, hương khói lại thuận tiện, nhắc nhở chuyện đến giờ gia đình mình còn
chưa tìm được để cất bốc hài cốt liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến về nghĩa trang liệt sĩ
của xã. Xem ra cũng nhiều tâm ý. Việc ấy bà con khen mãi.
Bà Chiên ái ngại nhìn thêm lần nữa. Trên ban thờ chỗ trống vắng
cứ như con mắt nào đó đang mỏ to soi mói nhìn bà trách móc. Nhưng chuyện này
đâu có dễ, ông Thanh ở nhà coi như thuận, nay ông ấy như vậy, mặt mũi nào dám cậy
nhờ người kêu vong gọi hồn mách cho nơi chốn liệt sĩ đang nằm để gia đình tìm
mà cất bốc.
– Con trăm lạy cha. Con ngàn lạy cha. Cha thương chúng con,
cha thấy đó là lỗi của chúng con, cha hiển linh mách bảo.
– …..
Không có tiếng nào đáp trả. Chỗ trống vắng trên ban thờ vẫn
hiu hiu như mọi bữa. Bà Chiên thẫn thờ buông người gieo phịch xuống ghế bưng mặt
nghẹn ngào. “Hay là tại chuyện khác?”. Ông cụ nhà mình là liệt sĩ cơ mà, chẳng
đời nào ông cụ lại đi trách móc con cái cả.
Trong làng Me này, cái làng lâu đời nhưng cũng không lớn lắm,
nhìn trước nhìn sau người khi ít kẻ khi gần, chỗ thân nơi sơ hầu như cả làng đều
có mối liên hệ kiểu “dây mơ rễ má”. “Không có lẽ đấy mới là nguyên nhân?”. Xét
về cái gọi là “dây mơ rễ má” thì ở trong làng Me này, ông Thanh tính theo đời
“cụ tỷ” phải gọi bà Chiên là cô. Họ hàng theo kiểu “bắc cầu” từ mối thông gia
xa lắc. Gọi là cô cũng có thể hiểu là chuyện ông Thanh bà Chiên lấy nhau là
cháu lấy cô. Phức tạp. Nhưng người ở làng quê, mà ở làng quê những thứ họ hàng
loằng nhoằng thường làng nào mà chả vậy. Hồi hai người làm đám cưới cả họ cả
làng có ai đoái hoài hay ngăn cản về mối quan hệ “cô - cháu” đó đâu. Nói thực
ra nếu hồi đó có ai đứng ra ngăn cản cũng bằng hòa. “Sùy. Họ với hàng gì, xa
hàng trăm ki lô mét có bắn ca nông cả ngày cũng không tới”.
Bà Chiên thấy hốt. Chuyện họ hàng lấy nhau cũng có khi là “vi
phạm” chứ có phải chơi đâu. Nhưng những hai mươi nhăm hai mươi sáu năm rồi, bây
giờ tính chuyện “sửa sai” hòng làm lại nhân duyên không khéo mình lại còn mang
thêm tiếng ác. “Ông ấy đang ở tù. Nói chuyện họ hàng cô cháu lấy nhau rồi đem
ra “xử”, khác nào là mình thấy ông ấy mắc vận hạn mình tìm cách thoái thác. Tội
chết”.
Nắng mới đã le lói ngoài sân. Nắng tuy đã cuối hè nhưng vừa mới
tinh mơ đã trắng rã cả mắt. Thằng Lợi đã ngủ dậy, nó hốt hoảng thấy mẹ đang ngồi
bó gối ngủ gục mặt trên ghế ở giữa nhà. Nó ngỡ tưởng đêm qua nó ngủ quá say mà
không biết mẹ mình đã bị làm sao. Thằng Lợi băn khoăn dón dén đến bên cạnh bà
Chiên. Nó vừa chạm tay vào vai, bà Chiên đã giật nẩy mình. Nỗi lo sợ chưa kịp
tan biến. Bà ngơ ngác như kẻ mất hồn nhìn thằng Lợi như nghĩ thấy trước mặt
mình là ai đó. Bà trân trân nhìn. Đôi tròng con ngươi mắt bà trắng ra rất mê dại.
“Ông Thanh đó ư? có phải đúng là ông Thanh đó ư?”.
Trước mắt bà màu nắng mới đã chuyển thành ánh trăng vàng soi
vằng vặc. Ánh trăng lên cao, tỏa màu vàng lênh láng khắp cánh đồng lúa mới cấy.
Chiên lấy hết sức đẩy người anh Thanh khỏi người mình. Cảm giác vừa thích thú vừa
xấu hổ khiến cô tuy đã nhỏm được dậy nhưng cứ ngồi bệt ra đấy mà lúng túng cài
cài mãi hàng cúc áo. Thanh đứng cách đó tầm tay với, anh cũng xấu hổ không dám
nhìn Chiên mà quay nhìn mông lung vào cây chuối vừa đổ. Dưới ánh trăng, cây chuối
đổ nằm sóng soài dưới đất phơi thân trắng lồ giống bắp chân của Chiên hôm cô vắn
ống quần cao quá gối mải miết thi cấy. Hai người chẳng ai nói với ai một câu,
chỉ thỉnh thoảng liếc trộm thái độ của nhau. Mỗi lần đưa mắt liếc trộm họ lại
chạm mắt nhau. Lại xấu hổ quay đi hướng khác. Rất lâu như thế anh Thanh chưa biết
phải nói câu gì lúc này.
Cảm giác của những người yêu nhau lần đầu tiên chạm vào da thịt
nhau bao giờ cũng thế. Ngượng nhưng mà thinh thích. Chiên vẫn là người chủ động.
Cô chìa bàn tay ý bảo anh Thanh kéo cô đứng dậy. Không lẽ cứ một người ngồi bệt
ra đấy và một người đứng trơ trơ như vậy sao? Lúc hai người hôn nhau trời đất
như trốn đi đâu cả, giờ đứng bên cạnh nhau, nhìn mặt nhau rành rẽ dưới ánh
trăng thấy thật buồn cười. Mặt anh Thanh thì dài thuỗn ra ngượng nghịu. Khuôn mặt
thật thà của kẻ đang yêu bao giờ cũng vậy. Mặt của Chiên thì có vẻ tỉnh táo
hơn, ánh mắt cô phơi phới. Thì ra trong chuyện tình yêu đôi lứa, con gái có thế
mạnh hơn là họ tự chủ bản thân được ngay. Nói thật, nếu Chiên không tự chủ được
ngay thì có lẽ cô vẫn còn nằm đấy với hàng cúc áo bị tuột lúc hai người dằn đè
lên nhau. Cúc áo tuột làm lộ ra bộ ngực căng vồng của Chiên, bộ ngực cứ bồng bềnh
nâng lên hạ xuống qua từng nhịp thở. Nhớ lúc anh Thanh quờ tay xuống mông cô,
Chiên đã gần như lịm đi tê mê, bàn tay anh Thanh ấm nóng như thoa bỏng. Chiên bừng
tỉnh, cô nhanh chóng thoát khỏi cảm giác nhục dục đang dồn dập trong người.
– Mình đi… đi chỗ khác đi.
– Nhưng …
– Nhưng gì nữa?
– Phải dựng cây chuối lên.
– Khỉ ạ. Nó đổ rồi còn dựng lên làm gì?
– Nhỡ mai người ta ra, người ta thấy thì làm sao?
– Bảo…
– Bảo thế nào?
– Bảo nó… à thôi. Mình đi chỗ khác xa xa hơn đi.
– Đi đâu?
– Lại còn hỏi nữa. Có thích không?
– Thích gì?
– Khỉ ạ. Người gì lạ thế không biết.
Thanh được lời như cởi tấm lòng, anh kéo tay Chiên đi nhanh như
trốn chạy. Rặng chuối nhà bà cụ Hậu bỗng giống như có hàng chục bóng người cùng
đứng mà nhất loạt nhìn theo đôi trai gái vừa vùng chạy. Những bóng người cất tiếng
cười khúc khích. Tiếng cười nghe lật phật những tàu lá chuối nhờ làn gió thổi
qua cánh đồng thổi tới. Thanh chạy đằng trước. Chiên chạy đằng sau. Hai người nối
với nhau nhờ cái nắm bàn tay vừa chạy vừa thở.
– Nhanh lên Chiên ơi. Người ta mà ra bây giờ, người ta bắt đền
thì ngượng lắm.
– Nhưng em không thở được nữa. Em khô cổ họng lắm
– Chạy tới giếng Bà Cô đi. Anh lấy nước cho Chiên uống là đỡ
khát ngay.
– Tới đó mới được uống chắc em chết mất.
– Vớ vẩn. Chết thế nào được.
– Thật đấy. Em không chạy nữa đâu. Em sắp chết khát rồi.
– Chết á? Hay là Chiên ngồi đây để anh chạy tới giếng Bà Cô lấy
nước.
– Chả dại.
– Sao?
– Ngồi đây, ngộ nhỡ ma nó mò ra nó bắt à?
– Làm gì có ma.
– Làm gì có ma nhưng sao anh Thanh hay nói ma, nói sợ người
chết thế?
– Thì đấy là anh nói chuyện ngày xưa ấy mà.
– Ngày xưa ấy mà. Người đâu chỉ hay sợ ma.
– Tại….
– Tại gì?
– Tại làng mình từ ngày xưa đã kể thế. Thôi không chạy nữa.
Chúng mình đi từ từ vậy.
– Nhưng em lại sợ.
– Vừa chê anh nhát cơ mà?
– Ôm chặt em cho em khỏi sợ đi.
Đôi trai gái chạy như có ma đuổi phía sau, chạy vòng bờ ruộng
qua gò sấu, chạy một mạch tới những thửa ruộng lúa mới cấy thì dừng lại.
Bên kia gò Sấu, tức là cách đầu làng Me một đoạn vừa đủ bằng
câu gọi to, nằm ngay cạnh con đường liên thôn nối làng Me với các làng khác
trong xã, có một cái giếng cổ. Giếng đất, thành giếng không biết tự bao giờ ai
đó đã quây gạch cao ngang đầu gối người lớn. Giếng có hình thù là lạ, giống
hình chiếc lá rau má. Giếng nhỏ và hẹp, chỉ rộng áng chừng bằng nhỏ hơn chiếc
nia phơi thóc. Miệng giếng quanh năm được che kín bởi vô vàn những cây dương sỉ
tua tủa những chiếc lá hình lưỡi mác. Lá dương sỉ xanh rờn, sờ tay ram ráp. Mùa
hè cây dương sỉ đua nhau trổ lá non. Những chiếc lá dương sỉ non ban đầu khi mới
nhú khỏi thân cây có màu nâu, dài nhìn như những chiếc đũa tre. Đấy mới là cọng
lá, còn cánh lá dương sỉ thì mới he hé, màu trắng đục, bám dọc hai bên cọng từ
cuống cho tới đầu cọng, nhìn từa tựa như cả trăm cái chân của con cuống chiếu.
Những con cuống chiếu to dài khác thường với cái đầu uốn cong hình móc
câu. Những cành lá dương sỉ non như con cuống chiếu đang ngoe nguẩy cố ngoi lên
khỏi mặt nước. Chẳng hiểu vì bị lá dương sỉ luôn che kín miệng giếng hay vì những
con cuống chiếu đang cố ngoi lên mà nước giếng cổ này rất trong. Mùa đông, thả
gầu chui qua tán lá dương sỉ đang chuyển từ màu xanh sang màu vàng kéo lên gầu
nước còn bốc hơi như nước mới đun. Về mùa hè, thả gầu qua đám cọng lá non mới
nhú hình con cuống chiếu kéo lên từng gầu nước mát lịm như nước đá. Người làng
Me chẳng ai bảo ai nhưng tất thẩy bao đời đều dùng nước giếng cổ để ăn để uống.
Vào cái năm nảo năm nào nghĩa là từ rất lâu rồi cái giếng đất
cổ này mới chỉ là một mỏ nước tự nhiên nằm giữa đồng đầy lút dầy cỏ sậy. Mỏ nước
dị biệt bởi nó chẳng khi nào vơi cạn hay chảy tràn miệng. Mưa rào tầm tã cũng
như nắng gắt cả tháng, mỏ nước vẫn cứ sâm sấp cho thứ nước trong vắt và ngọt lịm.
Những người đến cạnh gò Sấu lập làng đã phát hiện ra cái mỏ nước khác thường
đó, họ bảo nhau quây bờ thành một cái giếng lấy nước ăn cho cả làng. Thực ra đồng
đất làng Me vốn là đồng đất lấp bồi ven sông nên trong làng ngoài ruộng thi thoảng
đùn lên mạch nước ngầm nhưng lại chỉ cho thứ nước sình vàng lại váng quạch. Chỉ
có nước ở mỏ nước dị biệt này là cho thứ nước trong khác thường.
Người làng Me kể với cháu con rằng: Hồi làng Me chưa hình
thành. Nơi này còn hiu quạnh và thưa thớt dân cư. Thời bấy giờ nước ta mới bị
giặc Minh sang xâm lược. Những tên lính xâm lược vô cùng tham lam và thâm độc.
Chúng đi tới đâu cướp bóc tới đó. Chúng đi tới đâu người chết chỗ đó. Một ngày
nọ, trên con đường dẫn lên biên ải đi qua đây có một đoàn lính tráng áp tải
đoàn ngựa xe từ tận mãi thành Đông Đô. Chúng đang trên đường áp tải của cải
châu bóc do quan quân nhà Minh cướp được trong thành Đông Quan vận chuyển về
phương bắc. Đường về phương bắc ngày xưa rất khó đi. Đó chỉ là những con đường
đất lại độc đạo còn ở dạng giống lối chân trâu và phải xuyên qua những cánh đồng
cỏ sậy cao lút đầu người. Đoàn lính tráng ngựa xe vận chuyển của cải châu bóc
cướp được đi tới đúng cánh đồng đầu làng Me bây giờ thì phải dừng lại. Con đường
đất lại độc đạo đến đúng chỗ này bỗng dưng biến thành đoạn đường lầy lội khó
đi. Đoàn ngựa xe không cất nổi một bước. Cứ thụt lún, thụt lún dần. Cuối cùng gần
như tất cả lính tráng cùng đoàn ngựa xe chở của cải châu báu chìm trong bùn lầy
lẫn cỏ sậy.
Sau này câu chuyện còn được kể thêm về lý do vì sao lại có
chuyện tình cờ nhưng khá hữu ý như vậy. Người có kinh nghiệm đi đường xa cho rằng,
đoạn đường đất này ở ngay cạnh sông Thương nên nền đất không vững chải. Nó có
thể bị sụt lún bất cứ khi nào, đặc biệt là vào thời kỳ có nhiều trận mưa dài
ngày. Cách giải thích này cũng có lý vì vào đúng dịp lũ lính nhà Minh áp tải
đoàn ngựa xe trùng vào những ngày tháng đó mưa gió liên miên. Người theo phái
duy tâm cho rằng, toàn bộ số hàng của cải châu báu đó đều là đồ ăn cướp, mà cướp
bóc đi liền với chém giết nên những oan hồn đã mượn thế đất nơi này để giữ lại
của cải theo kiểu “không lấy lại được thì cũng không cho kẻ nào được hưởng”. Họ
còn giải thích thêm, phàm là của cải có được từ việc giết chóc đều dẫn tới hậu
quả khôn lường. Nghe cũng hay hay vì bởi lũ lính nhà Minh thời đó nếu không chết
vì bị thụt lún là do trời đất vật, thì cũng bị quan trên chém đầu vì cái tội
không mang được châu báu cướp được về phương bắc.
Chuyện xưa lại kể tiếp: Những tên lính trong đoàn hộ tống may
mắn sống sót hoảng sợ nhìn đoàn ngựa xe bị đất nuốt chửng mà đầy lo sợ. Chúng
ngậm ngùi tiếc rẻ nhưng cũng đành bó tay mà thất vọng bởi chúng không thể nào lấy
được thứ của cải vừa bị chôn vùi đó. Nhưng lòng tham đâu đã mất. Chúng hy vọng
một ngày nào đó sẽ quay lại tìm cách lấy lại số của cải châu báu. Và để “kho
báu” này không lọt vào tay những người dân quanh vùng những tên lính nhà Minh
đã bàn với nhau là cần tìm bằng được một cô gái trinh làm vật tế mạng để “yểm
bùa hộ vệ”. Chúng tin rằng một khi đã được “yểm bùa hộ vệ” kho báu phải để lại
trên đường lên phương bắc này sẽ trở về tay chúng một ngày nào đó.
Lùng sục gắt gao suốt nửa tháng ròng mà vẫn không đạt ý muốn,
cuối cùng những tên lính nhà Minh sống sót trong đoàn áp tải kia đành phải vào
thành Xương Giang chịu tội. Vừa hay cũng đúng vào dịp đó, quan quân nhà Minh
đang chiếm giữ thành Xương Giang đã bắt được một thiếu nữ. Cô gái tuổi mười
lăm, đẹp như trăng rằm, trinh trắng như tiên nữ mà chúng bắt được vốn là con
gái của một vị hào trưởng người Nùng, vị này họ Từ. Vị hào trưởng họ Từ ngày đó
trấn giữ mạn Hữu Lũng kế trên thành Lạng Giang. Đó là một vị hào trưởng vô cùng
khảng khái, ông nhất khoát từ chối không đem hào binh của mình hợp tác với quân
xâm lược. Quan quân nhà Minh hết dụ dỗ mua chuôc bằng tiền tài địa vị chúng lại
chuyển sang đe nẹt. Vị hào trưởng vẫn không suy chuyển ý chí. Chúng phải dùng tới
thủ đoạn đê hèn là bắt cô con gái yêu của vị hào trưởng làm con tin để hòng
lung lạc tinh thần vị hào trưởng. Mưu ma ấy vẫn không khuất phục được vị hào
trưởng yêu nước và khảng khái. Sẵn lòng thù hận vị hào trưởng đó lại mang mưu đồ
nham hiểm, những tên lính nhà Minh dẫn cô gái trinh người Nùng, con gái yêu của
vị hào trưởng họ Từ, tới đúng chỗ của cải châu báu bị vùi lấp. Cô gái trinh họ
Từ người Nùng cũng xứng đáng với chí khí của cha mình. Cô không hề run sợ. Cô
bình tĩnh đi theo chúng mà không than gào khóc lóc như quan quân nhà Minh từng
nghĩ. Trước đông đặc quan lính nhà Minh, cô gái không chịu viết thư kêu gọi cha
mình nghe theo lời giặc để tính mạng của cô được bảo toàn. Cô cũng dứt khoát
không hợp tác dù, chỉ là hợp tác nhỏ nhất với giặc Minh.
Quan quân nhà Minh trong thành Xương Giang khi ấy dụ dỗ không
được bèn quyết thực hiện âm mưu ban đầu. Chúng sau khi làm các thủ tục cúng tế
đã phũ phàng dúi đẩy cô gái trinh xuống chỗ bùn lầy cỏ sậy rậm rạp một cách
không thương tiếc, đẩy cô gái vào đúng chỗ đã nuốt gọn cả đoàn ngựa xe châu
báu. Thật lạ lùng, khi cả người cô gái vừa bị đẩy tọt xuống vũng lầy thì tự
dưng vũng lầy thụt lún kia rùng rùng dữ dội rồi thoắt biến mất, đất đai đang nhầy
nước bỗng se lại và khô cứng, tuyệt nhiên không để lại một dấu vết dù thật nhỏ
để chứng tỏ nơi này vừa “nuốt” cả đoàn ngựa xe chở châu báu vàng bạc. Không thấy
đoạn đường lầy lội khó đi đâu nữa, chỗ ấy sau đợt rùng rùng dữ dội thì im ắng
trở lại và đột nhiên xuất hiện một mỏ nước con con mang hình chiếc lá rau má.
Nước trong mỏ nước không nhiều lắm nhưng cũng không cạn bao giờ, quanh năm mỏ
nước chỉ sâm sấp, thò tay khua thấy mát lịm về mùa hè và lại ấm nóng về mùa đông.
Thực hư của câu chuyện kho báu bị chôn vùi, thực hư chuyện cô
gái trinh con vị hào trưởng họ Từ người dân tộc Nùng bị chôn sống làm bùa yểm
như thế nào cũng chẳng ai bảo là có hay là không. Nhưng cái giếng nước dị biệt
nằm như giữa cánh đồng có thứ nước vừa trong vừa mát kia là có thật. Có lẽ
chính vì sự ngon ngọt và lạ lùng hiếm thấy của giếng nước mà người dân vùng đất
nơi này đã tự huyền hoặc mình mà thêu dệt nên câu chuyện kho báu cùng cô gái
trinh xinh đẹp là con của vị hào trưởng người Nùng họ Từ. Giếng từ đó được dân
làng Me gọi là giếng Bà Cô. Và cách răn bảo cháu con tốt nhất và có sức truyền
đời dai dẳng nhất mà người làng Me đã làm để giữ gìn mỏ nước hiếm lạ chính là lời
nguyền độc. Một lời nguyền độc được cả làng tuân thủ đời này qua đời khác, nó
càng làm câu chuyện chẳng rõ thực hư thêm huyền bí, càng làm cho giếng Bà Cô
thêm thiêng thêm linh.
Chỗ câu chuyện ngày xửa ngày xưa chính là cánh đồng lúa mới cấy
đang trải thứ ánh sáng vằng vặc giống như một bức tranh được vẽ lên từ ánh
sáng. Khi Thanh kéo Chiên chạy tới nơi bức tranh được vẽ lên từ ánh sáng ấy bỗng
mênh mang lạ. Những hàng lúa mới cấy rung rinh dưới ánh trăng như lời mời gọi.
Chiên đứng thở dồn dập, cô nép sát bên người anh Thanh. Hai bóng người giờ đây
như chập làm một, cũng đang rung rinh trên mặt ruộng.
– Chiên đã thấy hết khát chưa?
– Người ta đã uống gì đâu mà hết khát.
– Ừ nhỉ. Anh ra giếng Cô lấy nước nhé.
– Anh nhớ gì chứ?
– Nhớ gì?
– Nhớ chỉ lấy nước giếng Cô để uống thôi đấy.
– Nhưng…
– Nhưng gì?
– Nước múc bằng cách nào? Mình làm gì có gầu.
Thanh bò toài lên thành giếng để với hai tay xuống mặt giếng.
Anh chụm hai lòng bàn tay lại cẩn thận và từ từ vốc lên vốc nước. Chiên đứng
ngay đấy, cô hơi cúi người ghé miệng vào lòng bàn tay anh Thanh. Nước giếng ngọt
lừ, mới chạm môi đã mát tận ruột. Thứ nước mát lịm lại trong vàng màu ánh trăng
như đang rủ rê nên Chiên cứ ghé môi mình hít mãi lòng bàn tay anh Thanh. Cảm
giác âm ấm và mơn man từ đôi môi của Chiên khiến Thanh ngây ngất. Cảm giác ấm
nóng từ bàn tay anh Thanh lại truyền ngược sang nóng hổi vành môi của Chiên,
truyền lan khắp khuôn mặt Chiên. Cứ úp mặt như dính chặt đôi môi của mình vào
hai lòng bàn tay anh Thanh, Chiên ngây ngất trong hạnh phúc đơn sơ ấy. Cô khẽ
rùng mình, co người rướn chân lên. Cả người cô thêm ghé sát vào người anh
Thanh. Thanh cũng thế, anh cong người như để dồn tâm cố giữ cho hai lòng bàn
tay mình thật khít lại. Không một giọt nước nào rớt khỏi lòng bàn tay của anh.
Uống nước giếng Cô, mà lại uống dưới ánh trăng khuya, thì từ thuở lập làng đến
giờ chưa từng có ai được uống. Uống nước giếng Cô, mà lại uống bằng lòng tay của
người yêu, thì cũng từ thuở người dân phát hiện ra hốc nước đến giờ chưa từng
có ai được vậy. Chiên càng thêm ngây ngất như đã lạc tới một chốn thần tiên.
Bỗng nhiên Chiên thấy có cảm nhận rất khác lạ. Nước giếng Cô
bây giờ không còn ngọt còn mát lịm như ban đầu cô mới uống nữa. Một thứ vị mằn
mặn, một thứ vị nong nóng đang ngấm qua đầu lưỡi cô, đang thấm vào trong họng
cô, nó làm cô thấy vô cùng sửng sốt. Chiên gục mặt hơn nữa vào lòng bàn tay anh
Thanh. Cả lòng bàn tay anh Thanh cũng đang nóng ran lên khác lạ. Rất khác lạ
như chưa hề biết đến bao giờ. Rồi anh Thanh cũng tan biến đâu mất. Cô rùng
mình, ánh trăng lạnh lùng vây chặt lấy cô. Cánh đồng lúa mới cấy cũng biến mất.
Chỉ còn lại một màu trắng bàng bạc mênh mang.
Bà Chiên bảng hoảng. Cả khuôn mặt bà đang úp vào chính hai
lòng bàn tay của bà. Hình như bà đã úp mặt như thế lâu rồi và bà đã khóc. Nước
mắt của chính bà đang thi nhau tuôn chảy và đọng lại giữa hai lòng bàn tay, ướt
nóng hôi hổi cả khuôn mặt bà. Thì ra trước mắt bà không phải là ông Thanh, càng
không phải là anh Thanh của hơn hai mươi năm trước. Thằng Lợi mặt mày đang đần
ra lo âu. Cái thằng càng lớn càng giống bố.
Đến lúc này bà Chiên mới ngờ ngợ câu chuyện nước giếng Cô.
Không lẽ đây mới là nguyên nhân gây nên nông nỗi. Ngoài sân nắng mới đã dải trắng
mắt. Một nỗi lo sợ còn hơn cả sự sợ hãi đang vây diết lấy người bà. Những linh
cảm về lời nhắc nhở của cha ông Thanh càng khiến bà thêm hoảng hốt. Căn nhà trống
vắng quá. Ban thờ lạnh lẽo quá. Thằng Lợi đứng cạnh đó, nó muốn hỏi chuyện gì
đã xẩy ra với mẹ nó trong đêm qua nhưng nó cũng không há nổi miệng. Chân tay
lóng ngóng, thằng con trai mới lớn lóng ngóng đỡ bà Chiên lại chiếc giường nó vừa
nằm. Bà Chiên mệt rũ, chẳng nói chẳng rằng nằm thượt trên giường. Mắt nhìn như
nhìn vào cõi hư vô như người bị ma ám.
Ba buổi chiều nay, cứ tầm năm giờ rưỡi hoặc hơn tí chút, khi
bà Chiên đã bán xong nồi nước chè xanh của mình. Bà Chiên lúi cúi thu dọn cốc
chén xoong nồi là ông Thanh ngoắc hai chiếc can, loại can nhựa hai mươi lít,
vào giá đèo hàng xe đạp. Đoạn đường từ sân vận động mới của xã về tới giếng Cô
không xa nhưng đạp xe cũng chừng ba mươi phút. Đoạn đường đi từ thôn Chằm nơi
có sân vận động, vòng qua thôn Chạ, lượn qua cánh đồng đầu làng Me này mới được
sửa sang nâng cấp bằng con đường đổ bê tông rộng hai mét thay thế con đường đất
liên thôn nhỏ xíu lại gồ ghề khó đi trước đó.
Ông Thanh cắm cúi đạp xe. Gió chiều thổi mát lạnh sau lưng.
Ông Thanh phấn khởi lắm. Ba buổi chiều nay món nước chè xanh nấu bằng nước giếng
Cô khá đắt hàng, bán độ hơn tiếng là hết veo. Thứ nước giếng Cô bình thường đã
mát lịm nay nấu chè xanh uống vào càng thích. Nhất là cánh cầu thủ của các đội
bóng mấy làng mấy xã. Đã ba buổi chiều nay, huyện tổ chức giải bóng đá gọi là
“Giải sông Thương”, một giải đấu được kỳ vọng phát triển phong trào thể dục thể
thao của huyện. Hơn nữa, giải năm này lại được tổ chức ngay tại sân vận động của
xã, nên bà Chiên tranh thủ hàng chiều nấu nồi chè xanh bán kiếm thêm ít tiền.
Cái sân vận động này cũng là sân mới khánh thành. Một sân vận động do huyện đầu
tư kinh phí nên bà con xã này hoan hỉ lắm. Người chơi người xem như kéo hết cả
làng cả xã. Lâu lắm rồi ngay tại xa nhà mới có được một cuộc chơi thi đua hào hứng
như vậy. Ít ra thì cũng cho thấy việc đổi mới có kết quả, huyện xã cũng khấm
khá lên. Có chút dư dã mới nghĩ tới chuyện bầy cuộc chơi vui chuyện bóng bánh
chứ. Ông Thanh được vợ giao cho nhiệm vụ chiều chiều tới giếng Cô đem nước về
cho bà nấu nồi nước chè xanh.
Chiều thu mát se se, hai chiếc can nhựa còn rỗng nhảy tưng
tưng va lập cập vào giá đèo hàng nghe vui vui. Đoạn đường mới nâng cấp có khác,
đạp xe chạy bong bong. Ông Thanh khấp khởi như người vớ được của. Ba buổi chiều
bán hàng, vị chi mỗi buổi bà vợ của ông cũng kiếm dăm chục ngàn. Dăm chục ngàn
mà chỉ tốn ít công đi lấy nước đem về kể cũng nhàn.
Ông Thanh đang phấn khởi, qua đoạn đường vòng này là tới dốc
gò sấu. Giếng Cô nằm bên kia dốc. Đường chiều vắng vẻ. Gió thổi lành lạnh lại
càng thấy thêm vắng vẻ. Dốc gò sấu đã lấp ló đằng trước, tự dưng ông Thanh thấy
lâng lâng. Ông xuống xe, khom người đẩy xe ngược lên đỉnh dốc. Ông đẩy nhẹ
nhàng vì không việc gì phải vội. Chiều đang nguội nắng. Nắng chiều ngày cuối
thu nguội nhanh nhường chỗ cho bóng tối xình xịch tới. Trời càng nhanh tối càng
hay. Ông Thanh nghĩ thầm. Ông đã đẩy xe sắp tới đỉnh dốc. Một háo hức chợt tới
khiến ông vừa tự mỉm cười một mình vừa quay nhanh đầu nhìn về chân dốc. Dưới
chân dốc chẳng nấy một bóng người. Ông rướn mắt lên nhìn lên đỉnh dốc. Ngôi nhà
mới dựng trên đỉnh dốc đã le lói ánh đèn. Cô ấy chắc đã tắm xong. Ông Thanh vui
như trẻ được quà.
Rất nhẹ nhàng, ông Thanh dựng xe bên gốc cây cách ngôi nhà mới
dựng trên đỉnh dốc một đoạn vừa đủ người trong ngôi nhà đó không phát hiện được
có người đẩy xe lên dốc. Ông dựng xe bên gốc cây rồi lại nhìn trước nhìn sau
xem xem có ai tình cờ xuất hiện hay không. Không một ai cả, yên tâm vì sự vắng
vẻ đó ông Thanh lặng lẽ những bước chân như bước chân mèo đi sát tới ngôi nhà mới
dựng.
Khẽ khàng tới bên cánh cửa đóng kín nhưng ánh sáng trong nhà
vẫn lọt ra báo hiệu ngôi nhà đó có chủ nhân ở đó. Ông Thanh len lén con mắt
nhìn qua khe cửa. Dưới ánh sáng của ngọn đèn điện mới bật cô Thoan, chủ nhân của
ngôi nhà, đang thư thả đứng trước tấm gương treo trên vách. Cô Thoan quay lưng
ra cửa. Tấm lưng để trần nhìn mát nuột cả mắt bởi vì cô vừa mới tắm xong. Ông
Thanh nín tiếng thở mạnh bởi vừa đẩy xe ngược dốc của mình. Ba buổi chiều nay
ông vô tình mà được ngắm cô Thoan khi cô ấy vừa mới tắm xong.
Buổi chiều đầu tiên là do ông tò mò. Ông tò mò bước lại gần
ngôi nhà mới dựng với dụng ý muốn biết người đang sống trong ngôi nhà ấy sống
như thế nào. Chuyện cô Thoan, một cô gái quá lứa xa làng đã lâu nay đột nhiên về
làng đem theo một đứa con nhỏ đã khiến ông tò mò. Cô ấy sống với đứa con còn đỏ
hỏn trong ngôi nhà dựng ngay trên đỉnh dốc gò sấu kể cũng can đảm. Ông Thanh từ
hồi còn nhỏ, chỉ nghĩ chuyện phải đi qua gò sấu một mình đã hãi vãi tè, đã rùng
mình dựng tóc gáy nói gì đi vào lúc chiều hôm hay tối mịt, vậy mà cô
Thoan, cô ấy sống ngày ngày ở đó cũng lạ. Đành rằng chuyện cũ quá xa xưa. Đành
rằng bây giờ gò sấu đã bớt thâm u nhưng đêm đêm những con chim lợn còn lại vẫn
đậu như ngủ gật trên cành cây sấu cổ thụ, chúng ngóng đôi mắt sáng như đèn pha
ô tô ai mà chả hãi.
Đôi lần ông Thanh toan đánh tiếng như là muốn hỏi cho tường tận
chí tò mò. Nhưng ông đã kịp im lặng. Cô Thoan cuối chiều tắm táp xong lại đứng
trước gương để chải tóc. Gái một con có khác. Tấm lưng trần cùng cặp mông mẩy
đang quay lại phía ông càng gợi sự tò mò. Gợi sự tò mò rồi chuyển sang thích
thú. Đã lâu rồi ông Thanh không được nhìn tấm lưng con gái. Lâu rồi ông không
được chạy lòng vòng trên những bờ ruộng, vừa chạy vừa gào khản giọng, vừa chăm
chú nhìn như dán mắt vào cặp mông của Chiên. Cặp mông căng tròn, mây mẩy như
chiếc lồng bàn úp trên mảnh ruộng cấy.
Cô Thoan này cũng lạ nhiều thứ. Không hiểu cái nhà cô Thoan
này có đoán biết có người đang rình nhìn từ ngoài cửa không nhỉ? Không biết
càng hay. Nếu cô ấy mà biết thì mình cũng ngượng mặt. Nhưng tấm lưng trần cùng
cặp mông mẩy căng đang quay lại phía ông càng làm cho ông Thanh thêm thích thú.
Cô này hơn đứt bà vợ già của mình ở nhà. Lại là một bà vợ hay đau yếu nữa. Ông
Thanh chợt so sánh và thầm cám ơn cơ hội cho ông đi lấy nước giếng Cô. Cơ hội
cho ông được nhìn thoải mái tấm lưng trần và cặp mông đầy khơi gợi của cô
Thoan.
Có kiễng chân lên để đôi mắt dán chặt hơn vào khe cửa. Ông
Thanh thấy bụng dạ mình đang réo sôi ùng ục. Nhưng đấy là cái réo sôi của nhục
dục mời gọi. Lâu rồi ông đã thấy chán bà vợ già của mình. Giá mà có được một
chút thôi gần gụi cô Thoan này nhỉ? Ông Thanh cứ thập thò ngoài khe cửa mà ao ước.
Chiều tối nay cũng vậy. Cô Thoan sau khi tắm táp xong lại
thong thả đứng trước gương. Cô đứng thong thả nhưng trong bụng ông Thanh lại
thúc giục. Người đâu mà thơm đến thế. Thứ mùi thơm nưng nức đang toát ra từ
thân thể cô Thoan. Thứ mùi thơm từ thứ sữa tắm mà cô Thoan đã dùng ba ngày nay
làm ông Thanh bắt đầu thấy nhơ nhớ. Ông nhớ thứ mùi thơm lạ lùng chứ không phải
thứ mùi mồ hôi khen khét của bà vợ mình. Hít một hơi dài để cố thu vào trong họng
thứ mùi thơm lạ lùng đó. Ông Thanh tiếc rẻ quay đi tiếp tục làm nột công việc
đem nước giếng Cô về cho bà vợ già của mình. Chắc bà ấy đang ngóng. Mình đi lâu
quá bà ấy sinh nghi.
– Có đúng là có lời nguyền như vậy không hả mẹ?
– Mẹ cũng không nhớ nhưng chắc là có lời nguyền.
Bà Chiên thôi không nằm nghỉ nữa, bà ngồi lại chiếc ghế bà đã
ngồi gần suốt đêm qua. Thằng Lợi đã hơi yên tâm. Nó vẫn còn áy náy không hiểu cả
đêm qua như thế nào mà nó lại ngủ tít đi được. Cũng có thể đêm qua trời dịu mát
mà nó ngủ mê đi. Cũng có thể mẹ nó không muốn đánh thức nó dậy. Thằng Lợi băn
khoăn hết nhìn mẹ lại nhìn lên ban thờ. Trên đó mẹ nó vừa lén đặt tấm bằng “Tổ
quốc ghi công” ở đúng chỗ mọi khi. Nó trân trân nhìn tấm ảnh liệt sĩ Nguyễn Hữu
Tiến cũng đặt cạnh đó. Đôi mắt của ông nội nó đang nhìn nó rất nghiêm khắc. Một
cái nhìn ngờ vực khiến nó thấy sờ sợ.
– Lời nguyền nói gì hả mẹ?
Câu hỏi đột ngột cất lên làm bà Chiên giật bắn mình. Bà vẫn
như người mộng du trong cõi mơ chưa tắt. Thằng Lợi ngừng hỏi, nó im lặng theo
dõi từng biểu hiện trên nét mặt của mẹ.
– À…
Bà Chiên sau hồi im lặng mơi sực nhớ ra thằng con mình vừa hỏi.
Bà vẫn để nguyên những ngón tay di di những vết bụi trên khung kính tấm bằng.
– Lời nguyền nói rằng…
Vẫn chưa nói cả câu. Dường như trong tâm thức bà Chiên mọi
chuyện như đang đâu đây. Bà thong thả ngồi xuống ghế.
– Lời nguyền nói rằng: nước giếng Bà Cô là báu vật trời đất
ban cho người dân làng Me. Thứ báu vật chỉ dành cho người làng Me ăn người làng
Me uống. Tuyệt nhiên không được dùng nước giếng Bà Cô để giặt giũ hay rửa ráy.
Tuyệt nhiên không được phung phí nước giếng Bà Cô. Ai đem nước giếng Bà Cô mang
bán thì gia đình người đó sẽ chịu vận hạn.
– Vận hạn gì hả mẹ?
– Thì vận hạn như….như chuyện bố con đã mắc ấy.
– Chuyện của bố con liên quan gì đến giếng Bà Cô?
– Có đấy. Con có tha thứ cho mẹ không?
– Mẹ nói gì lạ thế?
– Con có tha thứ thì mẹ mới yên lòng được. Mà cũng không thể
tha thứ được nữa rồi. Lỗi là tại mẹ. Tại mẹ..
Bà Chiên chợt bưng mặt khóc rưng rức. Thằng Lợi vô cùng hốt
hoảng, nó không hiểu chuyện gì đang xảy ra, nó không hiểu vì lý do gì mà mẹ nó
than có lỗi, nó lại càng không hiểu thế nào là sự liên quan dẫn tới bố nó mắc vận
hạn.
– Mẹ có ngờ đâu mình lại là người làm hại bố con.
– Mẹ không có lỗi. Chuyện do bố con gây nên là do… do chính bố
con...
– Không. Lỗi tất cả ở mẹ.
Nắng đã chang trắng ngoài sân. Mấy con gà mái tơ hứng chí vừa
chạy đuổi mổ vào lưng nhau vừa kêu những tiếng “tan tác”, chúng chạy te tái
làm rơi những đám phân gà ướt nhõng nhoét. Thằng Lợi hoang mang thực sự, nó nắm
chặt hai bàn tay bà Chiên cố giữ cho bà lấy lại bình tĩnh. Nhà chỉ có hai mẹ
con lúc này. Có chuyện gì thì biết kêu ai tới giúp.
– Con có nhớ lời nguyền rằng những ai dùng nước giếng Bà Cô
đem bán lấy lời sẽ bị mắc hạn không?
– Có nhưng mà liên quan gì đến nhà mình.
– Con có nhớ mấy hôm đó mẹ đun nước chè xanh không?
– Có.
– Đấy.
Thằng Lợi giờ mới ớ ra. Nó đã hiểu câu chuyện. Chính bố nó mấy
hôm huyện tổ chức giải bóng đá “Sông Thương” đã chiều chiều lấy nước giếng Cô
cho mẹ nó nấu nồi nước chè xanh đem bán cho những người đến xem đá bóng. Lời
nguyền đã vận vào bố nó. Vận vào ông Thanh để không biết trời xui đất khiến thế
nào mà ông mắc phải tội giết người. Phạm lỗi với lời nguyền hàng trăm năm. Phạm
lỗi với sự thiêng mà dân làng bao đời gìn giữ. Một nỗi sợ hãi len tới khắp ba
gian nhà khiến không gian như đen quánh lại.
Để mặc cho bà Chiên ngồi thừ trên ghế, mặt đang thừ ra bần thần
tội lỗi, thằng Lợi lùi nhanh như cố tránh xa mẹ nó càng xa càng tốt. Trong lòng
nó bỗng đâm oán mẹ nó vô cùng. Chỉ vì một chút hám lợi nhỏ, chỉ vì kiếm mấy đồng
tiền lẻ mà mẹ nó dẫn bố nó vào vòng lao lý. Giá không có những trận bóng đá
ngoài sân vận động mới của xã? Giá như không có giếng Bà Cô linh thiêng? thằng
Lợi bỗng đâm oán cả cái làng Me. Giá làng Me cũng như các làng khác. Nghĩa là
chẳng có chuyện huyền bí về cái giếng cổ với lời nguyền độc. Trời đất như đóng
sầm trước mắt thằng Lợi. Thứ ánh sáng trắng chang chang ngoài sân không làm nó
khuây khỏa.
Ông Thanh ngoắc nhanh hai can nước vào giá đèo hàng. “Chắc giờ
này cô Thoan cũng đã tắm xong”. Tự dưng một nỗi thèm thuồng dâng đến làm ông thấy
chộn rộn. “Cái nhà cô Thoan này người đâu đến là lạ. Nhìn cứ phơi phơi ra mới
chết chứ”. Rất vội vã nhưng không vội vàng. “Gì thì cũng phải đợi trời tối hẳn
mới không có ai trông thấy”. Ông Thanh thủng thẳng đẩy xe đạp ngược lên đỉnh dốc
gò sấu. Vừa đẩy xe ông Thanh vừa quay trước quay sau dò nhìn. “Cẩn thận không
khéo lộ ra thì chết”. Tự nhủ như vậy nhưng ông Thanh thấy trong bụng như có lửa
sôi ùng ục. Đã ba hôm rồi hôm nay là buổi cuối cùng. Ngày mai là hết cơ hội. Tự
dưng trong lòng ông Thanh dấy lên nỗi thèm khát da thịt cô Thoan đến cồn cào.
Chiếc xe chợt nặng oằn dưới sức nặng của hai can nước. “Không biết mình còn
thích hay còn lo ngại nhỉ?”. Ông Thanh vừa đẩy xe đạp vừa tự hỏi. Một là thèm
khát đến cồn cào và một là thấy phiền hà. Trời chiều đã kéo bóng tối đến rất
nhanh. Trên đỉnh dốc đã le lói ánh đèn phát ra từ căn nhà mới dựng. “Cô Thoan
này đã tắm xong chưa nhỉ?”. Ông Thanh thoáng dừng đẩy xe lấy bình tĩnh. “Mình
có lại đó không? không lại đó thì tiếc lắm. Nhưng cứ lại đó mà nhìn trộm qua
khe cửa thì cũng phí”.
Đã lên tới đỉnh dốc. Ông Thanh lại dừng đẩy xe hít một hơi thở
dài. Những suy nghĩ phân vân khiến ông chần chừ mãi chưa quyết định dứt khoát
được. Một cơn gió thổi từ trong gò sấu thổi ra nghe như tiếng trẻ u oa. Ông
Thanh nắm chặt hai tay cương quyết. “Cứ đẩy cửa vào nhà đã rồi tính sau”.
Đám mây xám trôi qua làm khoảng sân trước nhà vụt sáng trở lại.
Thằng Lợi cũng bớt oán giận. Nó nhìn bà Chiên đang ngồi rũ trên ghế mà thấy
thương mẹ vô cùng. Thì chẳng qua mẹ nó cũng muốn kiếm chút tiền phụ cùng bố nó.
Nói giận nói oán mẹ bây giờ phỏng có ích gì. Cái chính là tìm cách nào giúp mẹ.
– Đêm qua… hình như ông nội con về.
Bà Chiên như sực tỉnh. Thôi đúng rồi. Trong giấc thiếp đi bà
Chiên đã thấy liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến đứng tít ngoài sân trông vào nhà. Đầu
tiên là câu hỏi trách móc và tiếp theo nhưng ánh mắt buồn buồn. Trong ánh mắt
buồn buồn ấy hình như liệt sĩ đang muốn lại gần hơn nhưng không thể nào vượt
qua khoảng sân để vào nhà được. Khoảng sân như một thách thức, như một ngăn cản
vô hình. Đã bốn mươi năm liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến xa nhà. Kể từ buổi chiều cái
ngày ông dắt tay thằng Thanh đi dạo trên bờ đê sông Thương lồng lộng gió ấy. Buổi
chiều hè đầu tiên và cũng là duy nhất hai cha con ông Thanh đi bên nhau. Năm đó
chú bé Thanh còn quá bé, quá bé để hiểu được rằng đó là cuộc đi chơi giữa hai
cha con mãi mãi không bao giờ lặp lại.
Hồi hai người chính thức yêu nhau, anh Thanh chiều chiều nắng
nguội, gió thổi miên man tung bay mái tóc, anh kéo tay Chiên đi lên đoạn đê
sông Thương đó. Đoạn đê kỷ niệm như anh Thanh đã nói với cô.
– Nếu không có đoạn đê này thì có khi Chiên chẳng để ý tới
anh đâu nhỉ?
– Ai thèm để ý anh.
– Ai thèm mà lại đi với người ta thế này.
– Tại vì
– Vì gì?
– Vì …vì anh Thanh chứ vì gì?
– Chiên nói gì mà anh chẳng hiểu.
– Không hiểu thì thiệt.
– Thiệt là thiệt thế nào?
– Là. Là làm người ta để ý tới mình.
Bà Chiên khẽ mỉm cười. Nụ cười nhớ lại giúp bà đỡ cảm thấy mắc
lỗi với ông Thanh. Ngày đó cô bé Chiên cũng như bọn trẻ con trong làng Me nhìn
chú bé Thanh đầy ngưỡng mộ như nhìn một người anh hùng. Một người anh hùng đã
dũng cảm đối chọi với thằng Thủ Chằm hung tợn. Cô đã thầm để ý anh Thanh từ
ngày đó?
– Đêm qua hình như ông nội con về nhà.
Bà Chiên chậm rãi từng câu. Thằng Lợi cũng đã bình tĩnh phần
nào. Nó chăm chú nghe câu nói của mẹ.
– Ông nội con hình như đêm qua về nhà thì phải.
– Ông có nói gì với mẹ không?
– Có.
– Ông con nói gì?
– Ông con hỏi mẹ có làm gì để gây nên nỗi không.
– Rồi ông nói gì nữa?
– Ông bảo ông muốn vào nhà mà không vào được.
– Hay là tại mẹ cất tấm bằng “Tổ quốc ghi công” của ông đi?
– Mẹ cũng nghĩ thế nhưng không phải.
– Hay là tại mẹ cất ảnh của ông đi?
– Cũng không phải. Ông nội con nói ông muốn vào nhà nhưng
không vào được vì ông chưa trở về làng.
– Ông chưa trở về làng? Ông con hy sinh lâu rồi cơ mà?
– Ông xa làng đã bốn mươi năm. Ông muốn trở về làng như những
ai ra đi đều có ngày trở về ấy.
– Ông đã hy sinh rồi về làng làm sao được nữa.
– Ông nói khi nào ông trở về được làng ông sẽ giúp mẹ con
mình.
– Bây giờ ông về bằng cách nào?
– Có khi mẹ con mình phải đi đón ông về thôi con ạ. Khổ thân
ông cụ. Xa làng ngần bấy năm. Không biết giờ này ông nội con nằm ở đâu để đi
đón ông về? Mẹ tự dưng nóng ruột lắm.
– Nhưng mẹ con mình có biết ông nội nằm ở đâu để mà đón ông về?
– Ừ nhỉ.
Bà Chiên chưng hửng. Thực tình ngày liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến
đi B bà còn là một cô bé con con nhà hàng xóm. Trong thâm tâm bà, thì phận làm
dâu con khi về nhà chồng lúc bố chồng đã hy sinh, là hàng năm lo chuyện cúng giỗ
chu tất cũng đã là trọn bề rồi. Trí nhớ của cô bé Chiên chỉ mang máng “bố anh
Thanh” là một chú bộ đội. Một chú bộ đội với bộ quân phục màu xanh, với chiếc
mũ vải mềm đội ngay ngắn trên đầu, chiếc mũ mà anh Thanh hay nhắc đến. Hồi sớm,
khi bà đưa trở lại trên ban thờ tấm bằng “Tổ quốc ghi công” và tấm chân dung liệt
sĩ Nguyễn Hữu Tiến, bà chợt thấy nao nao. Tấm chân dung liệt sĩ trong bộ quân
phục màu xanh đang nhìn hai mẹ con bà với cái nhìn động lòng khiến bà rưng
rưng. Có lẽ bộ quân phục màu xanh là dấu hiệu khác biệt duy nhất để phân biệt
những người đàn ông trong ngôi nhà này. “Sao ông cháu cha con họ giống nhau đến
thế?”. Bà Chiên lén nhìn thằng Lợi đang ngồi tự lự như nó đang nghĩ cách nào để
đi đón ông nội nó về làng, thằng Lợi ngồi trên chiếc ghế đối diện với bà, để thầm
so sánh. Thằng Lợi đã chững chạc nên rất nhiều kể từ sau ngày ông Thanh vào tù.
Cái thằng càng lớn càng có những nét giống ông Thanh về tính cách và gương mặt.
Tính cách ông Thanh thì bà đã rõ. Một con người giản dị lại thật thà đến cả nể.
Nhưng được cái thương vợ thương con, làng Me này ai cũng đều nói thế.
Ngồi mãi cũng chẳng nghĩ ra được sẽ làm gì. Nằng hè trải khắp
sân nhà một màu trắng. Khoảnh sân vắng hiu hiu đang lờ mờ những nhân ảnh đang
di động. Những nhân ảnh chập chờn, khi thì là bộ mặt đang đần ra nghĩ ngợi của
thằng Lợi, khi thì là nét mặt trông đến dại khờ của ông Thanh và lúc thì là cái
nhìn khích lệ của liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến. Liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến bây giờ như
một nguồn động viên cho hai mẹ con bà Chiên. Ngôi nhà tự nhiên thấy ấm cúng lạ.
“Cũng tại mình thấy nhục với làng mà cất tấm chân dung ông cụ đi”. Bà Chiên bắt
đầu thấy hối hận. “Cứ để tấm hình ông cụ trên đó”. Để đó để hy vọng ông cụ
linh, ông cụ độ về mách bảo rồi chỉ lối cho hai mẹ con bà tính ngày đi đón ông
cụ về lại làng. Bà Chiên lầm rầm chắp hai tay cầu khấn. Chút mong manh vời vợi
đang cho bà linh cảm mơ hồ.
– Nếu con còn tin chồng con thì con gắng vượt.
Cuống cuồng như sắp bị rơi mất thứ gì, bà Chiên lật đật đứng
phắt dậy chìa hai bàn tay ra hứng đỡ, bà lại nghe thoảng bên tai mình câu nói vời
xa vời xa.
Khởi ý định viết, 18 tháng 11 năm 2013
Hoàn thành, 18 tháng 3 năm 2014
Nguyễn Trọng Văn
Theo https://vanhocsaigon.com/
Hoàn thành, 18 tháng 3 năm 2014
Nguyễn Trọng Văn
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét