Dân ca Nùng – Những nét độc đáo
ThS. Ngô Thị Việt Anh
Hiện nay đất nước ta đang từng ngày đổi mới với sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chúng ta không thể phủ nhận những gì mà nền kinh
tế thị trường đem lại, tuy nhiên bên cạnh sự thay đổi của đất nước thì có những
giá trị văn hóa truyền thống ngày càng bị mai một. Là một giảng viên giảng dạy
về âm nhạc tôi thấy mình phải có trách nhiệm hơn nữa trong việc đưa những làn
điệu dân ca vào từng bài giảng, giúp sinh viên ngày càng ý thức được tầm quan
trọng của những làn điệu dân ca, cũng như giúp các em hiểu biết và thêm yêu những
làn điệu dân ca của quê hương đất nước mình.
Kho tàng văn hóa nghệ thuật của đồng bào Nùng tương đối phong
phú và độc đáo, trong đó phải kể tới những làn điệu dân ca Nùng. Chưa có một
người nào và chưa có một công trình nghiên cứu nào điều tra, thống kê, nghiên cứu
và sưu tầm được đầy đủ về dân ca của đồng bào Nùng. Tuy vậy, nói đến dân ca
Nùng là nói đến một sự phong phú về thể loại, làn điệu, và nội dung phản ánh: làn
điệu ru, làn điệu đồng dao, làn điệu then, mo, sliên, tào…, đặc biệt là sli,
lượn và cỏ lảu.
Làn điệu sli – một lối hát ví, giao duyên của thanh niên
nam nữ. Theo nhà nghiên cứu Vi Hồng trong cuốn “ Sli, lượn dân ca trữ tình Tày
– Nùng” thì:
Sli có nghĩa là thơ. Người Nùng dùng từ sli để chỉ
toàn bộ dân ca mang tính trữ tình của họ cũng như người Tày dùng từ lượn để chỉ
hầu như toàn bộ dân ca của mình. [1, tr. 29].
Khác với nhóm Nùng Giang, Nùng Cháo…, hình thức hát sli (Nùng
Phàn Slình) là diễn xướng tập thể theo lối hát bè. Sli Phàn Slình khi hát phải
có đôi và đặc biệt đôi đó phải hợp giọng. Họ hát theo lối ứng khẩu và theo cảm
xúc. Tuy nhiên sli của dân tộc Nùng khác với lượn của người Tày ở chỗ có thể diễn
xướng trong mọi thời gian không gian, miễn sao có đủ điều kiện, trong những dịp
chợ xuân, hội lồng tồng, hội óc pò, dọc đường đi, mừng đám cưới, giao duyên, đố
nhau, thách nhau hay mừng nhà mới… Lời hát sli thường theo thể thất ngôn tứ tuyệt,
vần bằng, còn lời hát lượn thường là thất ngôn trường thiên, vần lưng. Dân tộc
Nùng có nhiều nhóm với những tên gọi khác nhau và được phân biệt qua những đặc
điểm văn hoá cũng như nguồn gốc địa phương. Chính vì vậy các làn điệu dân ca của
mỗi nhóm Nùng lại có những nét độc đáo riêng. Cùng gọi là sli nhưng nhóm Nùng
Giang có sli Giang, Nùng Cháo có sli Slình Làng, Nựng Phàn Slình có sli
Phàn Slình… Bên cạnh đó các bài đồng dao, văn tế, hát đám cưới, mừng nhà mới…
cũng không hoàn toàn giống nhau. Mỗi nơi một vẻ, nhưng đều hay, hấp dẫn và làm
say đắm lòng người.
Đặc điểm của hát sli trong tất cả các nhóm Nùng là hát không
cần có nhạc cụ đệm, không có vũ đạo kèm theo và có thể hát ở bất cứ lúc nào, chỗ
nào, miễn là nơi đó có “đối tượng hát”.
Các loại nhạc khí của dân tộc Nùng.
Vào những lúc rỗi rãi, nông nhàn hay bất cứ lúc nào thích hợp,
trai gái người Nùng thường tụ họp từng đôi, từng nhóm hát sli giao duyên đối
đáp với nhau, đặc biệt là sli Hà Lều khi hát phải áp hai tay vào tai.
Nhà nghiên cứu Vi Hồng trong cuốn “Sli, lượn dân ca trữ tình Tày – Nùng” nói về
hình thức diễn xướng của sli Hà Lều như sau:
Khi tiến hành sli hai bên đều bịt tai. Người đang sli tự bịt
tai mình để tự nghe cái âm hưởng đặc biệt tiếng sli của chính mình âm vang
trong tâm hồn mình… Khi hai người sli đã đến mức bịt tai là lúc tình yêu đôi
người đã đến mức say đắm” [1, tr. 26].
Ngoài sli, trong kho tàng dân ca của dân tộc Nùng còn cólượn,
và đặc biệt là cỏ lảu. Làn điệu cỏ lảu là một loại dân ca phổ biến,
chỉ chuyên dùng trong đám cưới của dân tộc Nùng nói chung và người Nùng Phàn
Slình nói riêng. Cỏ lảutức là nói chuyện về đám cưới, trong đám cưới. Nếu
như trong đám cưới của người Tày có hát quan làng thì người Nùng có cỏ lảu.
Đó là một cách nói chuyện, một hình thức giao tiếp thông qua những bài hát
trong đó chứa đựng những tình cảm trân trọng đối với cha mẹ, họ hàng, những người
có công vun đắp, tác thành cho đôi lứa.
Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật của dân tộc Nùng phải kể đến
nhạc khí. Nhạc khí của dân tộc Nùng rất phong phú, đa dạng, bao gồm: Nhị,
trống, thanh la, não bạt, chũm chọe, chuông, nhạc sóc, tiêu, sáo ngang… Sáo chủ
yếu dùng trong các ngày vui như tết, cưới xin, nhị, kèn chủ yếu sử dụng
trong tang lễ; trống, thanh la, não bạt chủ yếu sử dụng trong hội.
Bên cạnh đó, đồng bào Nùng còn rất thích múa. Trong các
dịp hội hè đầu xuân, trong các buổi tế lễ, theo phong tục đồng bào vừa múa vừa
hát rất nhộn nhịp. Về múa, người Nùng có các điệu múa “rồng”, múa “đèn”,
múa “siêu tâng” (còn gọi là “xiên tâng” hay “xiên mèng pủ”), múa
“kỳ lân”… vừa khỏe mạnh, vừa mềm mại, yểu điệu và khéo léo. Nghệ thuật múa
của người Nùng có từ lâu đời, là một trong những bộ môn nghệ thuật diễn tả tư
tưởng tình cảm con người, được đồng bào Nùng rất yêu thích và gìn giữ. Những điệu
múa này thường được thấy trong dịp tết, đám tang, ngày hội… và đã được các nhà
nghiên cứu cải biên dàn dựng làm giàu thêm cho nền văn hoá dân tộc.
Đàn 4 dây, đàn kéo của dân tộc Nùng.
đệm cho hát lướn và các
điệu múa truyền thóng dân tộc.
Các hình thức sinh hoạt âm nhạc dân gian dân tộc Nùng
Dân ca:
Hát Sli: là hình thức hát phổ biến của dân tộc Nùng. Chủ yếu
là những bài hát giao duyên (hát đối đáp nam – nữ) vào những ngày chợ phiên,
ngày Tết, ngày hội đầu xuân và những ngày nhàn rỗi. Ngoài ra, trong những dịp mừng
nhà mới, mừng sinh nhật người già, trong ngày lễ trẻ đầy tháng… họ có thể chúc
mừng nhau bằng những lời Sli.
Hát Lượn: với người Nùng hát Lượn cũng là hình thức hát giao
duyên (đối đáp nam nữ) nhưng chỉ hát trong trường hợp Sli cuộc (hát vào ban đêm
ở trong nhà) và chỉ hát khi gần sáng gà đã gáy gần kết thúc cuộc Sli đêm.
Hát Cỏ lảu: là hình thức hát trong sinh hoạt đám cưới, là những
bài hát xin vào cửa, xin trao lễ, mời nước, mời rượu… khi đến đón dâu. Những
bài hát của Nàng tẳng (cô đón) và những bài đáp lễ của nhà gái với nhà trai.
Hát Then: là hình thức sinh hoạt lễ nghi tín ngưỡng. Đây là
hình thức diễn xướng mang tính tổng hợp bao gồm: âm nhạc, múa, văn học, trang
trí mỹ thuật, trò diễn… Then được sử dụng trong những dịp quan trọng của làng bản
như: hội làng cầu mùa hay trong từng gia đình vào dịp năm mới, vào nhà mới,
sinh con đầu lòng, lễ sinh nhật hoặc với mục đích nhằm giải hạn, trừ tà, chữa bệnh…
Đàn Tính của dân tộc Nùng/Tày.
Mo, Tào: cũng như Then là hình thức sinh hoạt lễ nghi tín ngưỡng. Mo,
Tào thường được sử dụng trong những dịp quan trọng của làng bản như: hội
làng cầu mùa hay trong từng gia đình như: lễ sinh nhật, giải hạn, trừ tà chữa bệnh…
Riêng Tào chuyên dùng trong các đám tang lễ, lễ Cấp sắc của Then…
Hát ru: cũng như nhiều dân tộc khác, dân tộc Nùng cũng có là
điệu ru riêng. Thường ru con trên nôi, địu trên lưng kể cả khi làm những công
việc gia đình.
Hát Đồng dao: trẻ em dân tộc Nùng đặc biệt có nhiều làn điệu
Đồng dao độc đáo, thường vừa hát vừa kết hợp các trò chơi và gắn với những lời
ca nhận thức về ngôn ngữ, địa danh làng bản.
Dân nhạc:
Dân tộc Nùng ít có những nhạc cụ dùng để độc tấu, thường nhạc
cụ dùng để đệm cho hát như: Đàn tính, Xóc nhạc dùng trong hát Then,
hòa tấu bộ gõ phục vụ trong các đám tang,Múa sư tử trong lễ hội Lồng
tồng và Đánh vui trong những ngày Tết Nguyên Đán. Nhạc cụ trong
đám tang thường sử dụng: Trống, Thanh la, Chũm chọe, Khánh, Tù và, đôi
nơi có thổi Sáo.
Múa:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét