Đặc sắc Lễ hội Thắk Kôông của
người Khmer, Sóc Trăng
Hàng năm, đồng bào Khmer tổ chức lễ hội Thắk Kôông nhằm cầu
mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, con người có được cuộc sống an
lành, hạnh phúc… Đây là một trong những nét văn hóa đặc sắc, riêng biệt của người
Khmer ở Sóc Trăng.
Đồng bào Khmer Sóc Trăng có rất nhiều lễ hội truyền thống
trong năm. Hầu hết các lễ hội của mang đậm tinh thần Phật giáo Tiểu thừa. Trong
đó, không thể không nhắc đến Lễ hội Thắk Kôông.
Lễ hội Thăk Kôông, hay còn gọi là lễ hội cúng dừa, được tổ chức
ở chùa Mahasal Thatmon, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng, từ ngày
14 – 16 tháng 3 âm lịch hàng năm. Lễ hội bắt nguồn từ truyền thuyết: Ngày xưa, ở
An Trạch, tự nhiên nổi lên một gò đất hình dạng như chiếc cồng. Mỗi lần có chân
người dẫm lên, gò đất phát ra âm vang như tiếng cồng. Ai lên giẫm được là gia
đình may mắn, khỏe mạnh và mùa màng thuận lợi. Được ít lâu, tiếng cồng trong gò
đất nhỏ dần rồi mất hẳn. Người dân trong vùng tin là gò đất có thần linh, nên lập
một ngôi miếu thờ. Hàng năm, dân làng An Trạch cùng nhau tổ chức lễ hội cầu an ở
miếu này và gọi đó là lễ hội Thăk Kôông. Trong tiếng Khmer, Thăk Kôông có nghĩa
đạp cồng, nhằm gợi lại sự tích về tiếng cồng vang lên từ đất.
Trong ngày lễ hội đông đảo bà con đến chùa cầu nguyện.
Lễ hội Thăk Kôông cũng như lễ hội cầu an, mong được trúng
mùa, bà con bình an lao động sản xuất. Những lễ vật dâng cúng trong lễ này lại
là những thứ hoa trái mang đậm dấu ấn tín ngưỡng. Chiếc bình bông làm bằng trái
dừa vạt miệng, đây là loại trái cây có nước tinh khiết, ngọt lành.
Theo một số người, cúng dừa là nhằm cầu xin trời phật ban cho
sự ngọt ngào để công ăn việc làm thuận phát, con cháu hiếu thảo. Ngoài ra, bên
cạnh dừa, người ta còn dâng cúng trầu cau, bông sen, nhang đèn… Đó là những vật
phẩm đồng bào Khmer Nam bộ gọi là Slathođôl – biểu tượng cho sự thanh khiết và
thiêng liêng. Mỗi gia đình tùy theo lời nguyện của mình mà đem theo dâng cúng,
thường thường mỗi gia đình đem 1 hay 2 cặp dừa dâng cúng nhưng cũng có gia đình
đem đến 7 – 8 cặp dừa, có màu sắc khác nhau. Đa số lễ vật cúng có năm thứ tượng
trưng cho năm vị Bồ Tát.
Kết thúc lễ, người Khmer tổ chức nghi lễ tống tiễn. Tất cả lễ
vật: muối, gạo, củi… được đặt trong một chiếc thuyền bằng bẹ chuối. Các vị Acha
tiến hành thắp nhang cầu khấn, tạ ơn thần linh. Sau 3 tuần rượu, nghi lễ kết
thúc, tiếng trống, tiếng cồng vang lên, cờ lễ kéo xuống, kết thúc lễ hội. Lễ vật,
thuyền lễ bằng chuối được mang đến một con kênh, thả trôi theo dòng nước.
Sau khi du khách ra về, bà con thực hiện nghi lễ rắc tro để cầu
cho mùa màng tươi tốt. Nghi lễ này trước đây được thực hiện bởi những bà lão và
thiếu nữ người Khmer, ngày nay, có sự tham gia của tất cả mọi người, người
Khmer cũng như người Việt, người Hoa trong vùng. Họ lấy những hạt giống ngũ cốc
đã được đặt trên bệ thờ suốt những ngày lễ hội, một ít tro, nhang từ các lư
hương… mang ra rải trên cánh đồng, để dâng cúng đất đai, hồn lúa, những vị thần
bảo hộ cho ruộng vườn, để tỏ lòng biết ơn và cầu mong những hạt giống ấy, những
tro, nhang ấy sẽ mang về một vụ mùa bội thu, người dân no ấm, hạnh phúc.
Lễ hội Thăk Kôông của đồng bào Khmer ở Sóc Trăng thể hiện ước
vọng về sự an lành, hạnh phúc, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu,
người người có được cuộc sống an lành, giúp người ta nhớ về cội nguồn, tổ tiên,
ông bà để sống chan hòa và yêu thương nhau hơn.
Lễ ngàn núi của người Khmer Nam Bộ
TH-Cinet – DTV
Người Khmer Nam Bộ xưa và nay đều có những hình thức sinh hoạt
văn hóa độc đáo thể hiện qua phong tục tập quán, lễ hội, ca múa,… trong số các
nghi lễ trước đây của họ phải kể đến Lễ ngàn núi.
Từ khi được sinh ra đời đến khi trở lại với tổ tiên, người
Khmer Nam Bộ cũng như các tộc người khác luôn có nhiều lễ hội ghi dấu sự có mặt
của mình trên thế gian này và sự hàm ơn đối với các thế lực siêu nhiên. Những lễ
hội đó phần nào phản ánh được sắc màu văn hóa mang dấu ấn dân tộc của họ. Đối với
người Khmer, Lễ ngàn núi (Beân Phnom Ponn) – là nghi lễ làm phước với mục đích
xin lỗi thú vật tha thứ cho con người.
Theo quan niệm, người Khmer cho rằng, đối với mọi sinh vật họ
đều có lỗi vì đã đuổi giết chúng để ăn thịt, bảo vệ mùa màng, bảo vệ sức khỏe,…
Họ lo sợ khi con người qua đời sẽ bị các loài thú kéo nhau trả thù và linh hồn
người chết phải xuống địa ngục. Do đó, đồng bào trong phum sóc hàng năm hùn tiền
bạc lại để tổ chức Beân Phnom Ponn.
Lễ có thể tổ chức tại phum, sóc, hay ở chùa. Thời gian không
cố định, nhưng thường diễn ra trong những ngày khô ráo trước khi vào năm mới (Tết
Chôl Chnam Thmây) một hai tháng. Lễ Beân Phnom Ponn kéo dài hai, ba ngày dưới sự
hướng dẫn của Achar và các vị sư sãi.
Chuẩn bị mâm cỗ cúng lễ ngàn núi.
Đầu tiên mọi người chọn khoảng đất trống cất tạm nhà hội để
làm lễ. Trước nhà hội là một khoảng sân lớn. Nơi đó, họ dựng bàn thờ, trong có
tượng Phật, chung quanh đắp các ngọn núi cát hình vuông, núi cách núi cỡ thước
tây, trên núi có cắm cây hoặc tre làm hàng rào. Người ta tin rằng mỗi hạt cát đắp
núi sẽ giúp giải thoát được một kẻ có tội ở trần thế. Vì thế, họ hăng say đắp
núi, mong đức Phật ban phước lành cho mọi người.
Buổi lễ bắt đầu, mọi người tập trung trong nhà hội để đọc
kinh dưới sự hướng dẫn của Achar. Rồi mỗi người cầm một nắm nhang đang cháy đi
chung quanh “ngàn núi” và cắm lên các núi đó. Xong, họ tiếp tục vào bàn thờ Phật.
Họ đốt nhang, đèn cầy làm lễ cúng tam bảo, cầu mong tam bảo tha thứ cho họ, đừng
để các thú vật bị giết bắt tội họ trong kiếp sau. Họ nguyện dâng hết những điều
thiện họ làm hiện nay cho tất cả những thú vật đã bị con người sát hại. Lễ
xong, họ trở ra theo đường cũ. Những người khác dự lễ cứ tuần tự làm như thế.
Trong những ngày tổ chức lễ, bà con dâng cơm cho sư sãi trong
chùa vào sáng và trưa, tối dâng trà, đường, sữa. Ngày cuối, khi các nhà sư thọ
trai, mọi người dự lễ ăn chung mâm cơm thì lễ ngàn núi cũng chấm dứt.
Lễ hội Xuống đồng của người Khmer Bình Phước
TH- Cinet-DTV
Lễ hội xuống đồng hay còn gọi là Sen Đây S’Re, lễ cúng ruộng,
cúng xuống giống là lễ hội tiêu biểu, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa đặc trưng
về truyền thống sản xuất lúa nước của người Khmer ở Bình Phước.
Theo tập quán của người Khmer (Bình Phước), mỗi người sinh ra
đều được cha mẹ định cho một ngày tốt và họ sẽ sử dụng để thực hiện các công việc
quan trọng trong cuộc đời, trong đó có việc chọn ngày làm đất, gieo mạ, cấy
lúa. Sau khi làm đất, gieo mạ, đến ngày các gia đình cúng thần linh để cầu xin
mưa thuận gió hòa và một mùa bội thu. Lễ xuống đồng thường bắt đầu vào mùa mưa
(khoảng tháng 4, 5 âm lịch).
Mở đầu lễ hội Xuống đồng là nghi thức cột mạ. Nghi thức này
mang ý nghĩa hồn của cây mạ sẽ được vẹn toàn hơn, cấy xuống sẽ tốt hơn. Sau đó
là nghi lễ cúng thần linh. Nghi lễ này được thực hiện với 2 quy mô khác nhau: Lễ
cúng hằng năm sẽ nhỏ hơn so với lễ cúng ba năm. Thời gian tiến hành lễ hội được
lựa chọn theo ngày tốt của chủ ruộng (theo quan niệm của người Khmer, khi sinh
ra mỗi người có một ngày tốt)
Trước khi tổ chức lễ hội, chủ ruộng không biết các nghi thức
nghi lễ cúng xin thần linh sẽ mời một người trong sóc (ấp) biết thực hiện các
nghi lễ trong lễ xuống đồng (thường là già làng hoặc là người lớn tuổi trong
sóc, ấp) và mời các chủ ruộng bên cạnh ruộng của mình cùng tham dự lễ xuống đồng
của gia đình mình.
Khấn tạ ơn thần linh.
Lễ vật cúng gồm có xôi, gà, cau, trầu, chuối, rượu, hai bó mạ
và có thêm một bộ đầu heo để tạ ơn thần linh. Với các năm bình thường, mỗi nhà
chỉ cúng một con gà và chuối, xôi, cau, trầu, rượu và hai bó mạ. Sau khi cúng
xong các gia đình xuống đồng cấy lúa.
Trong số các thần trong đời sống tâm linh của người Khmer thì
bà Bống là vị thần gần gũi nhất, giúp đỡ con người nhiều nhất. Bởi vậy, trên
mâm lễ có 2 nắm lá trầu, hoa và chuối là những món bà Bống thích. Gia chủ thường
xin bà Bống chứng giám nghi lễ, tấm lòng của mình trước, sau đó xin thổ thần và
các vị thần khác cùng cô hồn chứng giám. Trong lúc cúng lễ, con cháu, những người
thân thích đến chúc mừng và góp tiền cúng các thần.
Sau lễ khai mạc, đông đảo người dân ở các ấp tập trung đến
chòi của mình để thực hiện nghi lễ cúng thần. Ở 3 chòi của 3 ấp, các gia đình
và già làng hát 3 bài tiếng Khmer, kết thúc mỗi bài mọi người đều đồng thanh hô
to để thể hiện quyết tâm gặt hái mùa màng bội thu. Sau khi đã cúng lễ, mọi người
xuống đồng thực hiện các công đoạn nhổ mạ, bừa đất và cấy lúa. Trên 3 chòi các
già làng, bà con thân thích trò chuyện, ăn xôi, thịt và uống rượu. Không khí
vui tươi, rộn ràng và phấn khởi lan tỏa khắp cánh đồng.
Thông qua lễ hội các vị già làng đã truyền dạy cách thức tổ
chức và ý nghĩa của lễ hội cho cộng đồng. Đây là dịp mọi người trao đổi kinh
nghiệm, giúp đỡ nhau trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, tăng cường tính cố kết
cộng đồng.
Nét đẹp văn hóa trong lễ hội thả diều sáo
của người Khmer, Bình
Phước
TH-Cinet-DTV
Lễ hội thả diều từ lâu đã in đậm trong tâm thức của người
Khmer nói chung và của người Khmer ở Bình Phước nói riêng.
Với dân số khoảng 9000 người, cư trú rải rác trên khắp các
huyện, thị xã trong tỉnh Bình Phước, người Khmer đã tạo nên một diện mạo văn
hóa vô cùng phong phú và đặc sắc. Vốn là cư dân nông nghiệp làm ruộng lúa nước
và rất sùng tín đạo Phật. Mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp của người Khmer đều
gắn với ý niệm nước – nắng, ẩm – khô nên nghề thủ công cổ truyền phần nào thể
hiện đời sống tâm linh của họ, đều tập trung vào việc làm diều.
Trong ý niệm của người Khmer, Diều (Khlèn) – nghĩa gốc là
Chim Diều hâu là biểu tượng của mặt trời – nắng. Diều thả cũng nằm trong ý niệm
đó. Người Khmer thả diều khi gió mùa Đông Bắc tràn về xua tan mây mù để nắng trở
về, thường là vào tháng Kádek (tương ứng với tháng 10 âm lịch). Thả diều là một
biểu tượng cầu nắng để hạt lúa chóng chín, chóng được gặt hái…
Diều thả của người Khmer có khá nhiều loại, nhưng phổ biến nhất
là Khlèn phnon, còn gọi là Por kón (mang con) hoặc Mékón (mẹ con). Diều được
làm bằng tre và vải trúc bâu, tơ chuối hoặc tơ dâu. Tơ chuối được sử dụng từ thời
cổ xưa nhất. Người ta tước tơ từ bẹ chuối, đem phơi nắng và phơi sương cho mềm
và dai, buộc quả dọi vào sợi tơ rồi treo lên, khâu lại bằng chỉ gai hoặc chỉ vải
rồi đem bọc ra ngoài sườn diều. Xong quét lên toàn bộ diều một lớp nước sắc dây
“cây chân bò” giã nát, sau đó đem phơi ngoài trời cho khô. Dùng vải trúc bâu
cũng quét nước sắc này. Nếu dùng tơ dân thì cũng phải giã nát vỏ cây dâu rồi
đun sôi lên. Sau đó vớt các váng nổi trên mặt, cũng có thể đổ nước vỏ dâu đun
sôi lên một tấm vải rồi đem phơi nắng.
Khlèn phnon (diều mẹ con) thường có kích thước lớn, dài 1,50m
đến 2,40m. Ở đuôi diều gắn hai dải dài từ 10m đến 20m kết bằng lá thốt nốt gọi
là kraman hoặc kantuy. Dây thả diều dài từ 50m đến 300m làm bằng sợi tơ, sợi
gai hoặc các loại sợi cây khác. Khi thả diều phải có ít nhất từ 3 người trở lên
để tung diều lên không trung. Khlèn phnon bao giờ cũng gắn sáo (êk). Sáo lớn bằng
cả sải cánh diều, được gắn trước mũi diều. Sáo bé gắn ở hông diều. Âm của 2 sáo
được hòa vào nhau.
Khi làm sáo phải đòi hỏi sự chuyên môn cao, tinh tế trong
thao tác, thính về âm điệu. Lấy một thân tre già dài uốn cong thành một cánh
cung, chuốt mỏng 2 đầu, khoét một cái mấu một chỗ ở trên thân tre làm sao để
móc được các sợi dây tơ tằm hoặc tơ chuối để buộc lưỡi gà cân đối, chặt chẽ vào
thân cây tre nhằm tạo ra được âm thanh mong muốn.
Lưỡi gà được làm bằng thân cây mây chẻ ra, chuốt mỏng, mài
trơn bằng thóc hoặc giấy ráp thủy tinh rồi hơ bóng trên lửa. Có khi chỉ cần
khoét 3 lỗ nhỏ ở 2 đầu để xỏ dây buộc. Hai đầu mút lưỡi gà và các dây buộc đều
được nhúng sáp ong. Để thử âm thanh của sáo, người ta buộc dây vào cây sáo rồi
quay nhanh quanh người. Nếu âm lượng chưa đủ thì cho thêm sáp ong vào. Lưỡi gà
cũng có thể làm bằng cây thốt nốt hoặc lá chuối, song âm thanh không vang bằng.
Ngoài Diều sáo còn có Diều đèn (Khlèn kôm) cũng gọi là đèn
bay (kôm hòk) hình hộp hoặc hình ống trụ. Có chiếc cao đến 5m đồ sộ như một
kinh khí cầu và phải cần đến 4 – 5 người để thả. Ban ngày Diều sáo vi vu trên
trời cao, ban đêm diều đèn lung linh trong ánh trăng thanh.
Hàng năm đến ngày lễ hội thả diều, người dân trong cộng đồng
đều đến tụ hội quanh ngôi của mình với tâm thức hướng về cái thiêng, cái thiện.
Cái thiêng, cái thiện đó đã giúp cho họ thêm tin tưởng vào cuộc sống của mình
trong cộng đồng. Thả Diều sáo là nét đẹp văn hóa mang đậm phong cách truyền thống
của người Khmer cần được bảo tồn, gìn giữ và phát huy.
Bà con Khmer dâng lễ
Độc đáo Lễ cầu an của người Khmer
Cinet – DTV
Tuy không phải là ngày lễ lớn nhưng Lễ cầu an của người Khmer
đã thể hiện được nét văn hóa đặc sắc của một dân tộc sinh sống lâu đời tại vùng
sông nước Đồng bằng Sông Cửu Long.
Người Khmer là dân tộc có nét văn hóa độc đáo riêng góp phần
tạo nên nét đặc thù của văn hóa vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Biểu hiện đậm nét
sắc thái văn hóa đó có phần quan trọng của hệ thống lễ hội.
Sau mỗi vụ màu, đồng bào Khmer lại tổ chức múa hát để vui
chơi giải trí sau thời gian làm lụng cực nhọc nên đồng bào gọi đây là hội làng
(tiếng Khmer gọi là Panh-Kom-San-Srok). Bên cạnh việc vui chơi giải trí, hội
làng còn có thêm một nghi thức tôn giáo là cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng
năm mới được bội thu và cầu cho muôn vật được sống an vui…. Vì thế ngày lễ này
còn được gọi là lễ cầu an.
Lễ cầu an của đồng bào dân tộc Khmer được diễn ra vào những
ngày sau Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây, tức vào khoảng cuối tháng 3, đầu tháng
4 âm lịch. Để chuẩn bị cho ngày lễ cầu an, vào ngày cuối cùng của Tết cổ truyền
Chôl Chnăm Thmây, các hương phụ lão trong phum sóc ngồi lại chọn ngày tốt và
thông báo cho mọi người biết thời gian và địa điểm tổ chức lễ cầu an.
Trước ngày lễ, ban tổ chức họp bàn cách tổ chức như chi phí
bao nhiêu rồi phân công người đi vận động đồng bào đóng góp. Trai tráng trong
phum sóc thì tập trung lại chặt cây dựng lều ngoài đồng ruộng để làm nơi tổ chức
lễ, còn các bà, các hương thân phụ lão thì lo việc tâm linh: Chuẩn bị bàn thờ
phật, nơi dành riêng cho các sư, nơi biểu diễn văn nghệ và các trò chơi dân
gian giải trí, đồng thời chuẩn bị hoa đăng, nhang đèn để phục vụ ngày hội.
Biểu diễn văn nghệ.
Xưa kia, lễ cầu an thường được tổ chức trong hai ngày đêm,
bao gồm các nghi thức như: Thỉnh các vị sư đi sớt bát theo từng hộ gia đình để
cầu siêu, cầu an cho cho gia đình được mạnh khỏe, hạnh phúc; thỉnh chư thiên, mời
các vị sư đọc kinh cầu an, để tế các vị thần bảo vệ đất đai và làm lễ gọi hồn
lúa để cầu cho mùa màng được bội thu; cuối cùng là nghi thức thả đèn gió để
mong ước nhiều điều may mắn, suôn sẻ, an vui đến mọi nhà…
Lễ được cử hành tại một rạp lễ dựng trên một khoảng đất trống,
rộng rãi trong phum và nghi thức quan trọng nhất, khởi đầu lễ là cúng thần bảo
hộ của phum tại miếu. Thờ Neak ta là một loại tín ngưỡng của người Khmer và
chúng ta có thể gặp miếu thờ Neak ta ở hầu hết các phum sóc của người Khmer.
Trong những ngày diễn ra lễ cầu an, ngoài cúng theo phong tục,
bà con còn tổ chức biểu diễn văn nghệ và các trò chơi dân gian giải trí mang đậm
nét văn hóa của dân tộc Khmer trong phum sóc. Đặc biệt, tại một số tỉnh có đông
đồng bào dân tộc Khmer: Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang…, còn có đoàn nghệ thuật
Khmer Cà Mau đến biểu diễn giúp vui làm cho ngày lễ thêm phần náo nhiệt.
Ngày nay, lễ cầu an của đồng bào dân tộc Khmer Nam bộ đã được
lược bớt những nghi thức rườm rà, tốn kém nhưng nhìn chung vẫn giữ được nét
truyền thống của đồng bào Khmer. Có thể nói, văn hóa Khmer có vai trò quan trọng
trong việc hình thành vùng văn hóa Nam Bộ tạo cho du khách những ấn tượng về sự
phong phú của nền văn hóa Việt Nam. Văn hóa của người Khmer cũng như lễ hội của
họ sẽ góp phần không nhỏ vào việc phát triển du lịch vùng đồng bằng sông Cửu
Long.
Trang phục dân tộc Khmer.
Trang phục của dân tộc Khmer
TQ – DTV
Đối với người Khmer, trang phục không chỉ để mặc mà còn phải
thỏa mãn cả về mỹ thuật, tín ngưỡng và tâm linh.
Tùy theo từng hoàn cảnh khác nhau mà người phụ nữ Khmer lựa
chọn cho mình những bộ trang phục truyền thống khác nhau. Cũng giống như nhiều
dân tộc thiểu số khác, trang phục truyền thống của phụ nữ Khmer khá cầu kỳ và
màu sắc rực rỡ.
Đó là sự kết hợp hài hòa giữa áo tầm vông (còn gọi là áo cổ
vòng), vận xà rông và “sbay” cùng với những hạt cườm, hạt kim sa lấp lánh được
đính trên nền hoa văn tinh xảo. Áo tầm vông thường được dệt bằng tơ tằm hay chỉ
kim tuyến với nhiều họa tiết hoa văn khác nhau, xà rông là một mảnh thổ cẩm rộng
khoảng 1m, dài 3,5m khi mặc thì cuốn lại che nửa người phía dưới. Để tôn thêm
nét dịu dàng uyển chuyển đầy nữ tính trong bộ lễ phục này không thể thiếu
“Sbay” – một loại khăn lụa mềm mại được cuốn chéo từ vai trái xuống bên sườn phải.
Điểm nổi bật trên trang phục truyền thống của người phụ nữ
Khmer là bao giờ cũng đính hạt cườm hay kim sa sáng lấp lánh kết hợp với hoa
văn tinh xảo, thêm vào đó là gam màu khá sặc sỡ… càng làm tăng thêm vẻ đẹp của
trang phục.
Trang phục dân tộc Khmer trong ngày hội.
Trong những ngày lễ, tết, người dân Khmer thường diện trang
phục chủ yếu là màu vàng. Đây là màu gợi không khí hội hè, cũng là màu sắc chủ
đạo trong trang trí kiến trúc tôn giáo truyền thống thường gặp trong các ngôi
chùa Phật giáo.
Để làm nên bộ trang phục dân tộc đặc sắc, người Khmer có kỹ
thuật nhuộm khá tinh tế gọi là “tkat”và “batik” khiến vải vóc, tơ lụa bóng mà
màu sắc không phai. Váy của phụ nữ Khmer được dệt bằng chất liệu tơ tằm, sợi
bông hoặc chỉ kim tuyến, kết hợp rất nhiều hoa văn và họa tiết.
Người Khmer quan niệm để được khoẻ mạnh cần đeo vào cổ tay hoặc
thắt lưng một sợi dây bùa có gắn một mảnh xương hay nanh vuốt thú dữ như hổ,cá
sấu,heo rừng… để ngăn trừ gió độc, tà ma… do vậy, trang sức là bộ phận rất quan
trọng trên trang phục từ xưa đến nay. Nghề chế tác đồ trang sức hình thành từ rất
sớm và có những sản phẩm độc đáo. Những chiếc vòng cổ, lắc tay có môtip đa dạng
nhưhình trăng lưỡi liềm, hình thoi, hình trái cây, hình chim, hình thú… được
đông đảo phụ nữ ưa chuộng và họ coi đây là vật dụng không thể thiếu mỗi khi đi
ra đường.
Biểu hiện rõ nhất trang phục phục truyền thống của người
Khmer là trong lễ cưới. Theo phong tục, chú rể sẽ mặc chiếc “sampôt hôl” có màu
đỏ và trang trí hoa văn. Ngoài ra, chú rể có thể mặc loại áo Khmer ngắn màu đỏ
hoặc trắng, cổ đứng, tay dài, cài 9 cúc ở phía trước. Nơi vai trái vắt dải khăn
(khăn kânxail) đeo thêm con dao cưới (kầm pach) nhằm mục đích múa mở đường
trong lễ cưới, để cắt trầu cau cho cô dâu dùng, hoặc còn được giải thích là biểu
tượng cho lòng trung thuỷ, sẵn sàng hy sinh cho tình yêu (qua sự tích nàng
Tiêu, chàng Tum)…
Vy Marya trong trang phục truyền thống Khmer.
Cô sinh ra và lớn
lên ở Sóc Trăng, và là
người con có hai dòng máu dân tộc Khmer và dân tộc Hoa.
Á
Hậu1 dân tộc VN, Trương Thị May, dân tộc
Khmer trong trang phục truyền thống.
Trang
phục cưới truyền thống dân tộc Khmer.
Trong khi đó, trang phục truyền thống của cô dâu là chiếc
“sampôt” bằng sợi kim tuyến hay tơ tằm màu đỏ sậm hoặc màu hồng cánh sen sậm,
dài đến cổ chân, có dệt hoa văn cùng chiếc áo ngắn tay bó chẽn hoặc để hở một
bên vai (xabây). Một tấm “sronko” có dạng như chiếc yếm hình bán nguyệt quàng
phi trước quanh chân cổ, che phủ hầu hết phần trên của ngực áo.
Ngoài ra, cô dâu còn quàng xéo ngang ngực tấm khăn hình chữ
nhật dệt bằng sợi kim tuyến rực rỡ. Trên đầu đội mũ cưới quý phái hình tháp nhọn
3 tầng và một chiếc khăn lộng lẫy “kà păng”. Chiếc mũ của cô dâu thường có màu
đỏ, trang trí họa tiết sặc sỡ bởi các hạt ngọc trai, hạt xoàn nhân tạo hay thêu
hoa cườm xà xung quanh. Trên mũ cắm tua tủa các cây trâm (sniêk sok) gắn bông
hoa tròn đủ màu như một rừng hoa khoe sắc (tượng trưng cho tuổi trẻ của cô dâu
tươi đẹp như mùa xuân). Nơi chân mũ gắn hai chuỗi hạt ngọc rũ dài xuống hai bên
tai của cô dâu.
Trang phục của cô dâu Khmer còn có thêm hoa tai được làm bằng
hình cầu, chế tác bằng đồng thau giống hình dáng của các loại trái cây. Đây có
thể là một nét riêng biệt của dân tộc Khmer mà không phải nơi nào cũng có được.
Chùa của người Khmer
Nét tương phản trong kiến trúc của người Khmer
TQ-DTV
Kiến trúc nhà của người Khmer có sự tương phản rõ rệt giữa
nhà của người dân trong phum, sóc với chùa. Ngôi nhà ở của người dân tre lá đơn
sơ bao nhiêu (của tầng lớp bần cố nông) thì ngôi chùa lộng lẫy bấy nhiêu.
Trước đây các phum, sóc của người Khmer thường tọa lạc trên
suờn đồi (vùng Kiên Giang, An Giang) hoặc trên những giồng cao (ở vùng đất
trũng). Gần đây do áp lực kinh tế thị trường và dân số, các phum, sóc của người
Khmer đã ở dọc hai bên trục quốc lộ, dọc các dòng sông hay kênh rạch.
Nhà của người Khmer làm đơn giản, mái lợp lá dừa nước, ít nhà
lợp ngói. Nhà thường làm theo kiểu mái dài về phía sau. Đồng bào làm nhà thường
dùng con số lẻ như chiều cao 5m, 7m và cửa thường quay về hướng Đông.
Người Khmer vốn ở nhà sàn, nhưng nay nhà sàn chỉ còn lại rất
ít ở dọc biên giới Việt – Campuchia và một số nhỏ trong các chùa phật giáo
Khmer là nơi hội họp sư sãi và tín đồ.
Nay số đông người Khmer ở nhà nền đất như người Kinh. Nhà nền
đất có thể chia làm hai dạng: Dạng nhà nghèo, nhà cỡ nhỏ chỉ có hai mái, mái
trước ngắn, mái sau dài, cột kèo đều bằng gỗ nhỏ, bằng tre, mây buộc, mái lợp
lá dừa hoặc lá thốt nốt, xung quanh che phên lá đơn giản. Còn nhà cỡ lớn thường
gắn với tầng lớp trung phú nông. Nhà bốn mái gồm: hai mái chính, hai mái phụ đầu
hồi. Kết cấu bộ khung nhà đều bằng gỗ, các cột xà ngang, xà dọc, kèo dâm, kèo
trích gắn kết với nhau bằng những lỗ đục mộng ngoàm. Xung quanh nhà thường có
ván gỗ hoặc xây tường che khuất.
Trong nhà được bài trí như sau: Nhà chia làm hai phần theo
chiều ngang, một phần làm nơi ở, một phần dành cho bếp núc. Phần dành để ở lại
chia thành hai phần theo chiều dọc bởi những vách ngăn: phần phía trước, ở giữa
kê bàn ghế tiếp khách, bên cạnh thường có tủ kính đựng những chiếc gối thêu vừa
để trang trí vừa tiện dùng có khách. Sau bộ bàn ghế tiếp khách là bàn thờ Phật.
Nửa sau, bên phải là buồng của vợ chồng chủ nhà. Về bên trái là phòng con gái.
Kiến trúc nhà của người Khmer có sự tương phản
rõ rệt giữa
nhà của người dân trong phum, sóc với chùa.
Cách bố trí nhà như vậy là do người Khmer quan niệm: mọi tín
ngưỡng thờ cúng đều được thực hiện ở trên chùa. Khi cần cúng tổ tiên, khi có lễ
cưới, lễ tang thì bài ra cúng ở giữa nhà.
Kiến trúc nhà của người Khmer có sự tương phản rõ rệt giữa
nhà của người dân trong phum, sóc với chùa. Ngôi nhà ở của người dân tre lá đơn
sơ bao nhiêu (của tầng lớp bần cố nông) thì ngôi chùa lộng lẫy bấy nhiêu.
Đến vùng người Khmer cư trú, trông từ xa thấy một không gian
cây cổ thụ xanh tốt, trong đó kiến trúc gạch ngói, đó là một ngôi chùa. Dựng
chùa, nuôi chùa là hạnh phúc lớn của toàn dân Khmer. Người Khmer dành hết mọi
nguồn lực, tài nghệ và vật liệu xây dựng tốt nhất cho ngôi chùa. Cao và nổi bật
lên trung tâm ngôi chùa Khmer là chính điện được tổ hợp giữa kiến trúc gỗ, gạch
đá, ngói thành ngôi nhà cao to 5 – 7 gian, chạy dọc theo hướng Đông – Tây với
hàng hiên rộng bao quanh, nóc nhọn vút như lưỡi búa chổng ngược lên nhau, trên
nóc cột đỉnh chỏm tháp vá các đầu mái vút lên như những nóc dừa.
Trong chùa bàn thờ Phật bao giờ cũng đặt ở đầu nhà phía Tây,
Phật nhìn về phía Đông phù hộ chúng sinh. Có những ngôi chùa hai bên còn mở một
hoặc hai gian thành ra ngôi chùa bốn mặt, mở ra bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc.
Mỗi ngôi chùa Khmer là một bảo tàng về nghệ thuật kiến trúc,
điêu khắc tượng pháp bích họa trang trí trên trần, trên cửa, cột, hàng hiên, bệ
tượng, thân tượng…với những mô-típ hoa văn rồng rắn, hoa lá, chim muông, thú vật
xung quanh những sự tích về Phật.
Bún nước lèo Khmer.
Bún nước lèo – Đậm đà hương vị ẩm thực Khmer
Cinet-DTV
Thưởng thức một tô bún nước lèo nóng hổi, lẫn mùi thơm của sả
với ngải bún, có vị mặn ngọt của mắm, mùi hăng của các loại rau mùi cùng với vị
cay của ớt, chúng ta mới cảm nhận được hết hương vị đặc biệt của món ăn mang đậm
hương vị ẩm thực Khmer.
Từ bao đời nay, Nam Bộ được xem là vùng đất của sự hội tụ bản
sắc văn hóa của các tộc người Việt – Hoa – Chăm – Khmer. Trong đó, văn hóa ẩm
thực làm nên nét riêng của mỗi tộc người. Nếu như người Hoa có hủ tíu, người
Chăm có món Tung lò mò thì người Khmer có món bún nước lèo nổi tiếng khắp nơi,
được nhiều du khách biết đến.
Tài liệu ẩm thực Việt Nam ghi nhận, bún nước lèo có lịch sử từ
lâu đời và từ lâu đã trở thành món ăn truyền thống của người Khmer. Đến thăm đồng
bào Khmer mà không thưởng thức một tô bún nước lèo thì đó thật sự là một thiếu
sót to lớn trong hành trình của bạn.
Bằng cảm nhận tinh tế về hương vị và sự tài tình trong việc kết
hợp sự đang dạng về thực phẩm và gia vị, người Khmer đã mang đến những tô bún
nước lèo đầy hấp dẫn.
Tài liệu ẩm thực Việt Nam ghi nhận, bún nước lèo có lịch sử từ
lâu đời và từ lâu đã trở thành món ăn truyền thống của người Khmer.
Để có được một tô bún thơm ngon, cần đến sự khéo léo của người
chế biến khi nấu nước lèo. Bởi nước lèo chính là “linh hồn” của tô món ăn. Gia
vị không thể thiếu khi chế biến nước lèo là cây ngải bún. Vì đây là gia vị khử
mùi tanh của mắm và làm thơm nước lèo. Điều đặc biệt là nước lèo ở đây trong
veo, không lợn cợn. Bởi người khơ me có công thức chế biến rất lạ. Nước lèo được
nấu bằng xương ống, xương sườn lợn, tôm thẻ ninh nhỏ lửa trong nước, hớt bọt để
lấy nước dùng trong, ngọt; hoặc có thể nấu từ củ cải trắng và thêm nước dừa
tươi cho có độ ngọt thanh. Sau đó gia thêm mắm bằng cách: mắm cá sặc nấu với nước,
sôi hớt bọt kỹ, lọc bỏ xương lấy nước. Cho nước mắm vào nấu chung với nước hầm
xương, cá, nước dừa xiêm và thêm nước lã. Kế đến mới cho ngải bún, sả cây vào nấu
sôi. Đây là giai đoạn quan trọng phải hớt bọt thật kỹ thì nồi nước lèo mới
trong, ngọt thanh, rất ngon.
Để món ăn thơm ngon hơn, điều quan trọng là biết chọn loại
bún. Những cọng bún làm từ gạo dẻo sẽ là lựa chọn tốt nhất. Món bún nước lèo
Sóc Trăng không thể thiếu cá lóc, tép và thịt heo quay. Cá lóc sau khi luộc
chín phải được tách xương và da bỏ đi, chỉ còn giữ lại những miếng thịt trắng
phau. Còn tép thì phải là loại tép đất bóc hết vỏ, chỉ còn lại phần thân đỏ
tươi cuộn tròn. Thịt heo quay vừa có nạc vừa có mỡ, được xắt sợi chỉ to hơn đầu
đũa ăn một chút. Ăn kèm với bún có rau muống, giá, bắp chuối, hẹ và rau thơm.
Đặc biệt, chính nước chấm được nấu từ me, nước mắm ngon, hòa
cùng đường tạo nên hỗn hợp nước chấm ngon và hấp dẫn. Một tô bún nóng hổi.
Trong đó, có sự hòa quyện của vị mằn mặn thơm phức của mắm, thơm giòn của thịt
quay, ngọt dai của tôm tươi, thêm vài miếng cá lóc phi lê mềm tan, mùi thơm đặc
trưng của ngải bún hòa quyện trong bát nước lèo trong veo đã làm nên một món ăn
đậm chất Khơ me.
Cốm dẹp được rang bằng nồi đất sẽ rất thơm, ngon.
Cốm dẹp – món ăn dân dã của người Khmer
ở Đồng bằng sông Cửu
Long
TH-CinetDTV
Cốm dẹp không chỉ là một món ăn ngon, nó còn mang ý nghĩa tâm
linh sâu sắc, mang đậm nét văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer ở Đồng
bằng sông Cửu Long.
Trong văn hóa ẩm thực của đồng bào dân tộc Khmer ở đồng bằng
sông Cửu Long có nhiều món ăn dân dã rất nổi tiếng, ngon miệng như: Bập bè nấu
canh mắm, bún nước lèo, mắm bò hóc, bánh rừng, bánh ống… Trong đó, cốm dẹp là
món ăn dân dã được nhiều người ưa thích.
Đồng bào Khmer cho rằng, nhờ ơn đức của Phật, Trời nên họ mới
có được hạt cơm, hạt nếp để nuôi sống gia đình. Và cũng chính từ những hạt nếp
dẻo ngon ấy, đồng bào đã làm ra món cốm dẹp để đáp tạ trời đất và để dâng tặng
cho đời, cho thế hệ tương lai những món ăn ngon dẻo thơm ấy.
Khi hạt nếp vừa giòn thì cho vào cối,
dùng cối bồng, chày bằng
gỗ để quết
Sau đó, dùng nia sảy cho hết trấu rồi đem sàng
để có được loại cốm
ngon nhất
Cách làm cốm dẹp rất đơn giản, nguyên liệu gồm có nếp mới, dừa
rám vỏ, đường thốt nốt hoặc đường cát. Nếu làm theo truyền thống thì cốm dẹp
thường được quết vào buổi chiều hoặc vào những đêm trăng sáng. Dụng cụ được bày
biện trước sân nhà, bên cạnh bếp lửa được đốt bằng rơm có con cháu vây quanh rất
nhộn nhịp. Nếp được ngâm nước khoảng chừng vài phút trước khi bỏ vào nồi rang.
Nếu rang bằng nồi đất thì cốm dẹp sẽ rất ngon, số lượng nếp rang tùy thuộc cối
quết lớn hay nhỏ, phải rang nếp chín thật đều. Khi hạt nếp vừa giòn thì cho vào
cối, dùng cối bồng, chày bằng gỗ để quết.
Chày dùng để quết cốm dẹp có hình trụ, dài khoảng 1,5 m, nơi
tay cầm được vuốt tròn vừa nắm, hai đầu bự ra. Hai người quết cốm thường là một
nam một nữ trong phum, sóc đứng đối diện nhau bên cối, mỗi người một tay cầm
chày, một tay cầm cây gạt vừa quết vừa gạt cho hạt nếp dính chày rớt xuống cối.
Họ luân phiên quết cho đến khi những hạt nếp dẹp lép thì nghiêng cối cào hết cốm
ra nia. Cầm nia trên tay, người ta sảy cho hết trấu rồi đem sàng để có được loại
cốm ngon nhất. Cốm mới quết rất giòn và dẻo. Muốn cốm ngon hơn, người ta phải
phối hợp cốm dẹp với dừa nạo và đường cát trắng.
Cốm dẹp sẽ trở thành rất ngon sau khi hoàn chỉnh.
Theo kinh nghiệm của người Khmer thì cứ hễ 1 lít cốm dẹp thì
dùng 1 trái dừa vàng bẹ đã nạo cùng nửa ký đường cát trắng. Ba thứ này trộn vào
nhau để chừng 4 – 6 giờ cho những hạt cốm thấm đường, dừa, trở nên mềm dẻo mới
ngon. Muốn để ăn lâu ngày hoặc đem làm quà cho bà con, bè bạn, người ta gói cốm
đã trộn sẵn trong lá chuối, lá dừa như đòn bánh tét, bánh dừa đem nấu hoặc hấp.
Khi đó, ta có bánh tét cốm dẹp, ngon và lạ miệng.
Không chỉ là một món ăn ngon, cốm dẹp còn là một món ăn mang
ý nghĩa tâm linh sâu sắc, mang đậm nét văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc
Khmer. Trong ngày lễ Oc Om Boc hay còn gọi là Lễ cúng trăng, cốm
dẹp được đồng bào tôn kính dùng để lễ vật dâng lên Trời, Phật nhằm tạ ơn các đấng
thiên liêng đã ban bố cho chúng sanh một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội
thu.
Vé máy bay đi Nha Trang có phải là điều bạn đang tìm kiếm cho chuyến du lịch cuối năm sắp tới của mình? Với tầng nhiệt độ có phần hơi nóng bức thời gian gần đây, không gì tuyệt vời hơn là được thả hồn vào những bãi tắm xinh đẹp sóng vỗ rì rào đang vẫy gọi tại Nha Trang Khánh Hòa.
Trả lờiXóaXem thêm: Dat ve may bay | Ve may bay gia re | Ve may bay di Phu Quoc