Thứ Năm, 3 tháng 12, 2015

Đặc sắc Lễ hội Thắk Kôông của người Khmer, Sóc Trăng

Đặc sắc Lễ hội Thắk Kôông của 
người Khmer, Sóc Trăng
TH-Cinet-DTV
Lễ hội Thắk Kôông của người Khmer.
Hàng năm, đồng bào Khmer tổ chức lễ hội Thắk Kôông nhằm cầu mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, con người có được cuộc sống an lành, hạnh phúc… Đây là một trong những nét văn hóa đặc sắc, riêng biệt của người Khmer ở Sóc Trăng.
Đồng bào Khmer Sóc Trăng có rất nhiều lễ hội truyền thống trong năm. Hầu hết các lễ hội của mang đậm tinh thần Phật giáo Tiểu thừa. Trong đó, không thể không nhắc đến Lễ hội Thắk Kôông.
Lễ hội Thăk Kôông, hay còn gọi là lễ hội cúng dừa, được tổ chức ở chùa Mahasal Thatmon, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng, từ ngày 14 – 16 tháng 3 âm lịch hàng năm. Lễ hội bắt nguồn từ truyền thuyết: Ngày xưa, ở An Trạch, tự nhiên nổi lên một gò đất hình dạng như chiếc cồng. Mỗi lần có chân người dẫm lên, gò đất phát ra âm vang như tiếng cồng. Ai lên giẫm được là gia đình may mắn, khỏe mạnh và mùa màng thuận lợi. Được ít lâu, tiếng cồng trong gò đất nhỏ dần rồi mất hẳn. Người dân trong vùng tin là gò đất có thần linh, nên lập một ngôi miếu thờ. Hàng năm, dân làng An Trạch cùng nhau tổ chức lễ hội cầu an ở miếu này và gọi đó là lễ hội Thăk Kôông. Trong tiếng Khmer, Thăk Kôông có nghĩa đạp cồng, nhằm gợi lại sự tích về tiếng cồng vang lên từ đất.
Trong ngày lễ hội đông đảo bà con đến chùa cầu nguyện.
Lễ hội Thăk Kôông cũng như lễ hội cầu an, mong được trúng mùa, bà con bình an lao động sản xuất. Những lễ vật dâng cúng trong lễ này lại là những thứ hoa trái mang đậm dấu ấn tín ngưỡng. Chiếc bình bông làm bằng trái dừa vạt miệng, đây là loại trái cây có nước tinh khiết, ngọt lành.
Theo một số người, cúng dừa là nhằm cầu xin trời phật ban cho sự ngọt ngào để công ăn việc làm thuận phát, con cháu hiếu thảo. Ngoài ra, bên cạnh dừa, người ta còn dâng cúng trầu cau, bông sen, nhang đèn… Đó là những vật phẩm đồng bào Khmer Nam bộ gọi là Slathođôl – biểu tượng cho sự thanh khiết và thiêng liêng. Mỗi gia đình tùy theo lời nguyện của mình mà đem theo dâng cúng, thường thường mỗi gia đình đem 1 hay 2 cặp dừa dâng cúng nhưng cũng có gia đình đem đến 7 – 8 cặp dừa, có màu sắc khác nhau. Đa số lễ vật cúng có năm thứ tượng trưng cho năm vị Bồ Tát.
Kết thúc lễ, người Khmer tổ chức nghi lễ tống tiễn. Tất cả lễ vật: muối, gạo, củi… được đặt trong một chiếc thuyền bằng bẹ chuối. Các vị Acha tiến hành thắp nhang cầu khấn, tạ ơn thần linh. Sau 3 tuần rượu, nghi lễ kết thúc, tiếng trống, tiếng cồng vang lên, cờ lễ kéo xuống, kết thúc lễ hội. Lễ vật, thuyền lễ bằng chuối được mang đến một con kênh, thả trôi theo dòng nước.
Sau khi du khách ra về, bà con thực hiện nghi lễ rắc tro để cầu cho mùa màng tươi tốt. Nghi lễ này trước đây được thực hiện bởi những bà lão và thiếu nữ người Khmer, ngày nay, có sự tham gia của tất cả mọi người, người Khmer cũng như người Việt, người Hoa trong vùng. Họ lấy những hạt giống ngũ cốc đã được đặt trên bệ thờ suốt những ngày lễ hội, một ít tro, nhang từ các lư hương… mang ra rải trên cánh đồng, để dâng cúng đất đai, hồn lúa, những vị thần bảo hộ cho ruộng vườn, để tỏ lòng biết ơn và cầu mong những hạt giống ấy, những tro, nhang ấy sẽ mang về một vụ mùa bội thu, người dân no ấm, hạnh phúc.
Lễ hội Thăk Kôông của đồng bào Khmer ở Sóc Trăng thể hiện ước vọng về sự an lành, hạnh phúc, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, người người có được cuộc sống an lành, giúp người ta nhớ về cội nguồn, tổ tiên, ông bà để sống chan hòa và yêu thương nhau hơn.
Lễ ngàn núi của người Khmer Nam Bộ
TH-Cinet – DTV
Người Khmer Nam Bộ xưa và nay đều có những hình thức sinh hoạt văn hóa độc đáo thể hiện qua phong tục tập quán, lễ hội, ca múa,… trong số các nghi lễ trước đây của họ phải kể đến Lễ ngàn núi.
Từ khi được sinh ra đời đến khi trở lại với tổ tiên, người Khmer Nam Bộ cũng như các tộc người khác luôn có nhiều lễ hội ghi dấu sự có mặt của mình trên thế gian này và sự hàm ơn đối với các thế lực siêu nhiên. Những lễ hội đó phần nào phản ánh được sắc màu văn hóa mang dấu ấn dân tộc của họ. Đối với người Khmer, Lễ ngàn núi (Beân Phnom Ponn) – là nghi lễ làm phước với mục đích xin lỗi thú vật tha thứ cho con người.
Theo quan niệm, người Khmer cho rằng, đối với mọi sinh vật họ đều có lỗi vì đã đuổi giết chúng để ăn thịt, bảo vệ mùa màng, bảo vệ sức khỏe,… Họ lo sợ khi con người qua đời sẽ bị các loài thú kéo nhau trả thù và linh hồn người chết phải xuống địa ngục. Do đó, đồng bào trong phum sóc hàng năm hùn tiền bạc lại để tổ chức Beân Phnom Ponn.
Lễ có thể tổ chức tại phum, sóc, hay ở chùa. Thời gian không cố định, nhưng thường diễn ra trong những ngày khô ráo trước khi vào năm mới (Tết Chôl Chnam Thmây) một hai tháng. Lễ Beân Phnom Ponn kéo dài hai, ba ngày dưới sự hướng dẫn của Achar và các vị sư sãi.
Chuẩn bị mâm cỗ cúng lễ ngàn núi.
Đầu tiên mọi người chọn khoảng đất trống cất tạm nhà hội để làm lễ. Trước nhà hội là một khoảng sân lớn. Nơi đó, họ dựng bàn thờ, trong có tượng Phật, chung quanh đắp các ngọn núi cát hình vuông, núi cách núi cỡ thước tây, trên núi có cắm cây hoặc tre làm hàng rào. Người ta tin rằng mỗi hạt cát đắp núi sẽ giúp giải thoát được một kẻ có tội ở trần thế. Vì thế, họ hăng say đắp núi, mong đức Phật ban phước lành cho mọi người.
Buổi lễ bắt đầu, mọi người tập trung trong nhà hội để đọc kinh dưới sự hướng dẫn của Achar. Rồi mỗi người cầm một nắm nhang đang cháy đi chung quanh “ngàn núi” và cắm lên các núi đó. Xong, họ tiếp tục vào bàn thờ Phật. Họ đốt nhang, đèn cầy làm lễ cúng tam bảo, cầu mong tam bảo tha thứ cho họ, đừng để các thú vật bị giết bắt tội họ trong kiếp sau. Họ nguyện dâng hết những điều thiện họ làm hiện nay cho tất cả những thú vật đã bị con người sát hại. Lễ xong, họ trở ra theo đường cũ. Những người khác dự lễ cứ tuần tự làm như thế.
Trong những ngày tổ chức lễ, bà con dâng cơm cho sư sãi trong chùa vào sáng và trưa, tối dâng trà, đường, sữa. Ngày cuối, khi các nhà sư thọ trai, mọi người dự lễ ăn chung mâm cơm thì lễ ngàn núi cũng chấm dứt.
Lễ hội Xuống đồng của người Khmer Bình Phước
TH- Cinet-DTV
Lễ hội xuống đồng hay còn gọi là Sen Đây S’Re, lễ cúng ruộng, cúng xuống giống là lễ hội tiêu biểu, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa đặc trưng về truyền thống sản xuất lúa nước của người Khmer ở Bình Phước.
Theo tập quán của người Khmer (Bình Phước), mỗi người sinh ra đều được cha mẹ định cho một ngày tốt và họ sẽ sử dụng để thực hiện các công việc quan trọng trong cuộc đời, trong đó có việc chọn ngày làm đất, gieo mạ, cấy lúa. Sau khi làm đất, gieo mạ, đến ngày các gia đình cúng thần linh để cầu xin mưa thuận gió hòa và một mùa bội thu. Lễ xuống đồng thường bắt đầu vào mùa mưa (khoảng tháng 4, 5 âm lịch).
Mở đầu lễ hội Xuống đồng là nghi thức cột mạ. Nghi thức này mang ý nghĩa hồn của cây mạ sẽ được vẹn toàn hơn, cấy xuống sẽ tốt hơn. Sau đó là nghi lễ cúng thần linh. Nghi lễ này được thực hiện với 2 quy mô khác nhau: Lễ cúng hằng năm sẽ nhỏ hơn so với lễ cúng ba năm. Thời gian tiến hành lễ hội được lựa chọn theo ngày tốt của chủ ruộng (theo quan niệm của người Khmer, khi sinh ra mỗi người có một ngày tốt)
Trước khi tổ chức lễ hội, chủ ruộng không biết các nghi thức nghi lễ cúng xin thần linh sẽ mời một người trong sóc (ấp) biết thực hiện các nghi lễ trong lễ xuống đồng (thường là già làng hoặc là người lớn tuổi trong sóc, ấp) và mời các chủ ruộng bên cạnh ruộng của mình cùng tham dự lễ xuống đồng của gia đình mình.
Khấn tạ ơn thần linh.
Lễ vật cúng gồm có xôi, gà, cau, trầu, chuối, rượu, hai bó mạ và có thêm một bộ đầu heo để tạ ơn thần linh. Với các năm bình thường, mỗi nhà chỉ cúng một con gà và chuối, xôi, cau, trầu, rượu và hai bó mạ. Sau khi cúng xong các gia đình xuống đồng cấy lúa.
Trong số các thần trong đời sống tâm linh của người Khmer thì bà Bống là vị thần gần gũi nhất, giúp đỡ con người nhiều nhất. Bởi vậy, trên mâm lễ có 2 nắm lá trầu, hoa và chuối là những món bà Bống thích. Gia chủ thường xin bà Bống chứng giám nghi lễ, tấm lòng của mình trước, sau đó xin thổ thần và các vị thần khác cùng cô hồn chứng giám. Trong lúc cúng lễ, con cháu, những người thân thích đến chúc mừng và góp tiền cúng các thần.
Sau lễ khai mạc, đông đảo người dân ở các ấp tập trung đến chòi của mình để thực hiện nghi lễ cúng thần. Ở 3 chòi của 3 ấp, các gia đình và già làng hát 3 bài tiếng Khmer, kết thúc mỗi bài mọi người đều đồng thanh hô to để thể hiện quyết tâm gặt hái mùa màng bội thu. Sau khi đã cúng lễ, mọi người xuống đồng thực hiện các công đoạn nhổ mạ, bừa đất và cấy lúa. Trên 3 chòi các già làng, bà con thân thích trò chuyện, ăn xôi, thịt và uống rượu. Không khí vui tươi, rộn ràng và phấn khởi lan tỏa khắp cánh đồng.
Thông qua lễ hội các vị già làng đã truyền dạy cách thức tổ chức và ý nghĩa của lễ hội cho cộng đồng. Đây là dịp mọi người trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, tăng cường tính cố kết cộng đồng.
Nét đẹp văn hóa trong lễ hội thả diều sáo 
của người Khmer, Bình Phước
TH-Cinet-DTV
Lễ hội thả diều từ lâu đã in đậm trong tâm thức của người Khmer nói chung và của người Khmer ở Bình Phước nói riêng.
Với dân số khoảng 9000 người, cư trú rải rác trên khắp các huyện, thị xã trong tỉnh Bình Phước, người Khmer đã tạo nên một diện mạo văn hóa vô cùng phong phú và đặc sắc. Vốn là cư dân nông nghiệp làm ruộng lúa nước và rất sùng tín đạo Phật. Mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp của người Khmer đều gắn với ý niệm nước – nắng, ẩm – khô nên nghề thủ công cổ truyền phần nào thể hiện đời sống tâm linh của họ, đều tập trung vào việc làm diều.
Trong ý niệm của người Khmer, Diều (Khlèn) – nghĩa gốc là Chim Diều hâu là biểu tượng của mặt trời – nắng. Diều thả cũng nằm trong ý niệm đó. Người Khmer thả diều khi gió mùa Đông Bắc tràn về xua tan mây mù để nắng trở về, thường là vào tháng Kádek (tương ứng với tháng 10 âm lịch). Thả diều là một biểu tượng cầu nắng để hạt lúa chóng chín, chóng được gặt hái…
Diều thả của người Khmer có khá nhiều loại, nhưng phổ biến nhất là Khlèn phnon, còn gọi là Por kón (mang con) hoặc Mékón (mẹ con). Diều được làm bằng tre và vải trúc bâu, tơ chuối hoặc tơ dâu. Tơ chuối được sử dụng từ thời cổ xưa nhất. Người ta tước tơ từ bẹ chuối, đem phơi nắng và phơi sương cho mềm và dai, buộc quả dọi vào sợi tơ rồi treo lên, khâu lại bằng chỉ gai hoặc chỉ vải rồi đem bọc ra ngoài sườn diều. Xong quét lên toàn bộ diều một lớp nước sắc dây “cây chân bò” giã nát, sau đó đem phơi ngoài trời cho khô. Dùng vải trúc bâu cũng quét nước sắc này. Nếu dùng tơ dân thì cũng phải giã nát vỏ cây dâu rồi đun sôi lên. Sau đó vớt các váng nổi trên mặt, cũng có thể đổ nước vỏ dâu đun sôi lên một tấm vải rồi đem phơi nắng.
Khlèn phnon (diều mẹ con) thường có kích thước lớn, dài 1,50m đến 2,40m. Ở đuôi diều gắn hai dải dài từ 10m đến 20m kết bằng lá thốt nốt gọi là kraman hoặc kantuy. Dây thả diều dài từ 50m đến 300m làm bằng sợi tơ, sợi gai hoặc các loại sợi cây khác. Khi thả diều phải có ít nhất từ 3 người trở lên để tung diều lên không trung. Khlèn phnon bao giờ cũng gắn sáo (êk). Sáo lớn bằng cả sải cánh diều, được gắn trước mũi diều. Sáo bé gắn ở hông diều. Âm của 2 sáo được hòa vào nhau.
Khi làm sáo phải đòi hỏi sự chuyên môn cao, tinh tế trong thao tác, thính về âm điệu. Lấy một thân tre già dài uốn cong thành một cánh cung, chuốt mỏng 2 đầu, khoét một cái mấu một chỗ ở trên thân tre làm sao để móc được các sợi dây tơ tằm hoặc tơ chuối để buộc lưỡi gà cân đối, chặt chẽ vào thân cây tre nhằm tạo ra được âm thanh mong muốn.
Lưỡi gà được làm bằng thân cây mây chẻ ra, chuốt mỏng, mài trơn bằng thóc hoặc giấy ráp thủy tinh rồi hơ bóng trên lửa. Có khi chỉ cần khoét 3 lỗ nhỏ ở 2 đầu để xỏ dây buộc. Hai đầu mút lưỡi gà và các dây buộc đều được nhúng sáp ong. Để thử âm thanh của sáo, người ta buộc dây vào cây sáo rồi quay nhanh quanh người. Nếu âm lượng chưa đủ thì cho thêm sáp ong vào. Lưỡi gà cũng có thể làm bằng cây thốt nốt hoặc lá chuối, song âm thanh không vang bằng.
Ngoài Diều sáo còn có Diều đèn (Khlèn kôm) cũng gọi là đèn bay (kôm hòk) hình hộp hoặc hình ống trụ. Có chiếc cao đến 5m đồ sộ như một kinh khí cầu và phải cần đến 4 – 5 người để thả. Ban ngày Diều sáo vi vu trên trời cao, ban đêm diều đèn lung linh trong ánh trăng thanh.
Hàng năm đến ngày lễ hội thả diều, người dân trong cộng đồng đều đến tụ hội quanh ngôi của mình với tâm thức hướng về cái thiêng, cái thiện. Cái thiêng, cái thiện đó đã giúp cho họ thêm tin tưởng vào cuộc sống của mình trong cộng đồng. Thả Diều sáo là nét đẹp văn hóa mang đậm phong cách truyền thống của người Khmer cần được bảo tồn, gìn giữ và phát huy.
Bà con Khmer dâng lễ
Độc đáo Lễ cầu an của người Khmer
Cinet – DTV
Tuy không phải là ngày lễ lớn nhưng Lễ cầu an của người Khmer đã thể hiện được nét văn hóa đặc sắc của một dân tộc sinh sống lâu đời tại vùng sông nước Đồng bằng Sông Cửu Long.
Người Khmer là dân tộc có nét văn hóa độc đáo riêng góp phần tạo nên nét đặc thù của văn hóa vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Biểu hiện đậm nét sắc thái văn hóa đó có phần quan trọng của hệ thống lễ hội.
Sau mỗi vụ màu, đồng bào Khmer lại tổ chức múa hát để vui chơi giải trí sau thời gian làm lụng cực nhọc nên đồng bào gọi đây là hội làng (tiếng Khmer gọi là Panh-Kom-San-Srok). Bên cạnh việc vui chơi giải trí, hội làng còn có thêm một nghi thức tôn giáo là cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng năm mới được bội thu và cầu cho muôn vật được sống an vui…. Vì thế ngày lễ này còn được gọi là lễ cầu an.
Lễ cầu an của đồng bào dân tộc Khmer được diễn ra vào những ngày sau Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây, tức vào khoảng cuối tháng 3, đầu tháng 4 âm lịch. Để chuẩn bị cho ngày lễ cầu an, vào ngày cuối cùng của Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây, các hương phụ lão trong phum sóc ngồi lại chọn ngày tốt và thông báo cho mọi người biết thời gian và địa điểm tổ chức lễ cầu an.
Trước ngày lễ, ban tổ chức họp bàn cách tổ chức như chi phí bao nhiêu rồi phân công người đi vận động đồng bào đóng góp. Trai tráng trong phum sóc thì tập trung lại chặt cây dựng lều ngoài đồng ruộng để làm nơi tổ chức lễ, còn các bà, các hương thân phụ lão thì lo việc tâm linh: Chuẩn bị bàn thờ phật, nơi dành riêng cho các sư, nơi biểu diễn văn nghệ và các trò chơi dân gian giải trí, đồng thời chuẩn bị hoa đăng, nhang đèn để phục vụ ngày hội.
Biểu diễn văn nghệ.
Xưa kia, lễ cầu an thường được tổ chức trong hai ngày đêm, bao gồm các nghi thức như: Thỉnh các vị sư đi sớt bát theo từng hộ gia đình để cầu siêu, cầu an cho cho gia đình được mạnh khỏe, hạnh phúc; thỉnh chư thiên, mời các vị sư đọc kinh cầu an, để tế các vị thần bảo vệ đất đai và làm lễ gọi hồn lúa để cầu cho mùa màng được bội thu; cuối cùng là nghi thức thả đèn gió để mong ước nhiều điều may mắn, suôn sẻ, an vui đến mọi nhà…
Lễ được cử hành tại một rạp lễ dựng trên một khoảng đất trống, rộng rãi trong phum và nghi thức quan trọng nhất, khởi đầu lễ là cúng thần bảo hộ của phum tại miếu. Thờ Neak ta là một loại tín ngưỡng của người Khmer và chúng ta có thể gặp miếu thờ Neak ta ở hầu hết các phum sóc của người Khmer.
Trong những ngày diễn ra lễ cầu an, ngoài cúng theo phong tục, bà con còn tổ chức biểu diễn văn nghệ và các trò chơi dân gian giải trí mang đậm nét văn hóa của dân tộc Khmer trong phum sóc. Đặc biệt, tại một số tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer: Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang…, còn có đoàn nghệ thuật Khmer Cà Mau đến biểu diễn giúp vui làm cho ngày lễ thêm phần náo nhiệt.
Ngày nay, lễ cầu an của đồng bào dân tộc Khmer Nam bộ đã được lược bớt những nghi thức rườm rà, tốn kém nhưng nhìn chung vẫn giữ được nét truyền thống của đồng bào Khmer. Có thể nói, văn hóa Khmer có vai trò quan trọng trong việc hình thành vùng văn hóa Nam Bộ tạo cho du khách những ấn tượng về sự phong phú của nền văn hóa Việt Nam. Văn hóa của người Khmer cũng như lễ hội của họ sẽ góp phần không nhỏ vào việc phát triển du lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trang phục dân tộc Khmer.
Trang phục của dân tộc Khmer
TQ – DTV
Đối với người Khmer, trang phục không chỉ để mặc mà còn phải thỏa mãn cả về mỹ thuật, tín ngưỡng và tâm linh.
Tùy theo từng hoàn cảnh khác nhau mà người phụ nữ Khmer lựa chọn cho mình những bộ trang phục truyền thống khác nhau. Cũng giống như nhiều dân tộc thiểu số khác, trang phục truyền thống của phụ nữ Khmer khá cầu kỳ và màu sắc rực rỡ.
Đó là sự kết hợp hài hòa giữa áo tầm vông (còn gọi là áo cổ vòng), vận xà rông và “sbay” cùng với những hạt cườm, hạt kim sa lấp lánh được đính trên nền hoa văn tinh xảo. Áo tầm vông thường được dệt bằng tơ tằm hay chỉ kim tuyến với nhiều họa tiết hoa văn khác nhau, xà rông là một mảnh thổ cẩm rộng khoảng 1m, dài 3,5m khi mặc thì cuốn lại che nửa người phía dưới. Để tôn thêm nét dịu dàng uyển chuyển đầy nữ tính trong bộ lễ phục này không thể thiếu “Sbay” – một loại khăn lụa mềm mại được cuốn chéo từ vai trái xuống bên sườn phải.
Điểm nổi bật trên trang phục truyền thống của người phụ nữ Khmer là bao giờ cũng đính hạt cườm hay kim sa sáng lấp lánh kết hợp với hoa văn tinh xảo, thêm vào đó là gam màu khá sặc sỡ… càng làm tăng thêm vẻ đẹp của trang phục.
Trang phục dân tộc Khmer trong ngày hội.
Trong những ngày lễ, tết, người dân Khmer thường diện trang phục chủ yếu là màu vàng. Đây là màu gợi không khí hội hè, cũng là màu sắc chủ đạo trong trang trí kiến trúc tôn giáo truyền thống thường gặp trong các ngôi chùa Phật giáo.
Để làm nên bộ trang phục dân tộc đặc sắc, người Khmer có kỹ thuật nhuộm khá tinh tế gọi là “tkat”và “batik” khiến vải vóc, tơ lụa bóng mà màu sắc không phai. Váy của phụ nữ Khmer được dệt bằng chất liệu tơ tằm, sợi bông hoặc chỉ kim tuyến, kết hợp rất nhiều hoa văn và họa tiết.
Người Khmer quan niệm để được khoẻ mạnh cần đeo vào cổ tay hoặc thắt lưng một sợi dây bùa có gắn một mảnh xương hay nanh vuốt thú dữ như hổ,cá sấu,heo rừng… để ngăn trừ gió độc, tà ma… do vậy, trang sức là bộ phận rất quan trọng trên trang phục từ xưa đến nay. Nghề chế tác đồ trang sức hình thành từ rất sớm và có những sản phẩm độc đáo. Những chiếc vòng cổ, lắc tay có môtip đa dạng nhưhình trăng lưỡi liềm, hình thoi, hình trái cây, hình chim, hình thú… được đông đảo phụ nữ ưa chuộng và họ coi đây là vật dụng không thể thiếu mỗi khi đi ra đường.
Biểu hiện rõ nhất trang phục phục truyền thống của người Khmer là trong lễ cưới. Theo phong tục, chú rể sẽ mặc chiếc “sampôt hôl” có màu đỏ và trang trí hoa văn. Ngoài ra, chú rể có thể mặc loại áo Khmer ngắn màu đỏ hoặc trắng, cổ đứng, tay dài, cài 9 cúc ở phía trước. Nơi vai trái vắt dải khăn (khăn kânxail) đeo thêm con dao cưới (kầm pach) nhằm mục đích múa mở đường trong lễ cưới, để cắt trầu cau cho cô dâu dùng, hoặc còn được giải thích là biểu tượng cho lòng trung thuỷ, sẵn sàng hy sinh cho tình yêu (qua sự tích nàng Tiêu, chàng Tum)…
Vy Marya trong trang phục truyền thống Khmer. 
Cô sinh ra và lớn lên ở Sóc Trăng, và là 
người con có hai dòng máu dân tộc Khmer và dân tộc Hoa.

Á Hậu1 dân tộc VN, Trương Thị May, dân tộc 
Khmer trong trang phục truyền thống.

Trang phục cưới truyền thống dân tộc Khmer.
Trong khi đó, trang phục truyền thống của cô dâu là chiếc “sampôt” bằng sợi kim tuyến hay tơ tằm màu đỏ sậm hoặc màu hồng cánh sen sậm, dài đến cổ chân, có dệt hoa văn cùng chiếc áo ngắn tay bó chẽn hoặc để hở một bên vai (xabây). Một tấm “sronko” có dạng như chiếc yếm hình bán nguyệt quàng phi trước quanh chân cổ, che phủ hầu hết phần trên của ngực áo.
Ngoài ra, cô dâu còn quàng xéo ngang ngực tấm khăn hình chữ nhật dệt bằng sợi kim tuyến rực rỡ. Trên đầu đội mũ cưới quý phái hình tháp nhọn 3 tầng và một chiếc khăn lộng lẫy “kà păng”. Chiếc mũ của cô dâu thường có màu đỏ, trang trí họa tiết sặc sỡ bởi các hạt ngọc trai, hạt xoàn nhân tạo hay thêu hoa cườm xà xung quanh. Trên mũ cắm tua tủa các cây trâm (sniêk sok) gắn bông hoa tròn đủ màu như một rừng hoa khoe sắc (tượng trưng cho tuổi trẻ của cô dâu tươi đẹp như mùa xuân). Nơi chân mũ gắn hai chuỗi hạt ngọc rũ dài xuống hai bên tai của cô dâu.
Trang phục của cô dâu Khmer còn có thêm hoa tai được làm bằng hình cầu, chế tác bằng đồng thau giống hình dáng của các loại trái cây. Đây có thể là một nét riêng biệt của dân tộc Khmer mà không phải nơi nào cũng có được.
Chùa của người Khmer
Nét tương phản trong kiến trúc của người Khmer
TQ-DTV
Kiến trúc nhà của người Khmer có sự tương phản rõ rệt giữa nhà của người dân trong phum, sóc với chùa. Ngôi nhà ở của người dân tre lá đơn sơ bao nhiêu (của tầng lớp bần cố nông) thì ngôi chùa lộng lẫy bấy nhiêu.
Trước đây các phum, sóc của người Khmer thường tọa lạc trên suờn đồi (vùng Kiên Giang, An Giang) hoặc trên những giồng cao (ở vùng đất trũng). Gần đây do áp lực kinh tế thị trường và dân số, các phum, sóc của người Khmer đã ở dọc hai bên trục quốc lộ, dọc các dòng sông hay kênh rạch.
Nhà của người Khmer làm đơn giản, mái lợp lá dừa nước, ít nhà lợp ngói. Nhà thường làm theo kiểu mái dài về phía sau. Đồng bào làm nhà thường dùng con số lẻ như chiều cao 5m, 7m và cửa thường quay về hướng Đông.
Người Khmer vốn ở nhà sàn, nhưng nay nhà sàn chỉ còn lại rất ít ở dọc biên giới Việt – Campuchia và một số nhỏ trong các chùa phật giáo Khmer là nơi hội họp sư sãi và tín đồ.
Nay số đông người Khmer ở nhà nền đất như người Kinh. Nhà nền đất có thể chia làm hai dạng: Dạng nhà nghèo, nhà cỡ nhỏ chỉ có hai mái, mái trước ngắn, mái sau dài, cột kèo đều bằng gỗ nhỏ, bằng tre, mây buộc, mái lợp lá dừa hoặc lá thốt nốt, xung quanh che phên lá đơn giản. Còn nhà cỡ lớn thường gắn với tầng lớp trung phú nông. Nhà bốn mái gồm: hai mái chính, hai mái phụ đầu hồi. Kết cấu bộ khung nhà đều bằng gỗ, các cột xà ngang, xà dọc, kèo dâm, kèo trích gắn kết với nhau bằng những lỗ đục mộng ngoàm. Xung quanh nhà thường có ván gỗ hoặc xây tường che khuất.
Trong nhà được bài trí như sau: Nhà chia làm hai phần theo chiều ngang, một phần làm nơi ở, một phần dành cho bếp núc. Phần dành để ở lại chia thành hai phần theo chiều dọc bởi những vách ngăn: phần phía trước, ở giữa kê bàn ghế tiếp khách, bên cạnh thường có tủ kính đựng những chiếc gối thêu vừa để trang trí vừa tiện dùng có khách. Sau bộ bàn ghế tiếp khách là bàn thờ Phật. Nửa sau, bên phải là buồng của vợ chồng chủ nhà. Về bên trái là phòng con gái.
Kiến trúc nhà của người Khmer có sự tương phản 
rõ rệt giữa nhà của người dân trong phum, sóc với chùa.
Cách bố trí nhà như vậy là do người Khmer quan niệm: mọi tín ngưỡng thờ cúng đều được thực hiện ở trên chùa. Khi cần cúng tổ tiên, khi có lễ cưới, lễ tang thì bài ra cúng ở giữa nhà.
Kiến trúc nhà của người Khmer có sự tương phản rõ rệt giữa nhà của người dân trong phum, sóc với chùa. Ngôi nhà ở của người dân tre lá đơn sơ bao nhiêu (của tầng lớp bần cố nông) thì ngôi chùa lộng lẫy bấy nhiêu.
Đến vùng người Khmer cư trú, trông từ xa thấy một không gian cây cổ thụ xanh tốt, trong đó kiến trúc gạch ngói, đó là một ngôi chùa. Dựng chùa, nuôi chùa là hạnh phúc lớn của toàn dân Khmer. Người Khmer dành hết mọi nguồn lực, tài nghệ và vật liệu xây dựng tốt nhất cho ngôi chùa. Cao và nổi bật lên trung tâm ngôi chùa Khmer là chính điện được tổ hợp giữa kiến trúc gỗ, gạch đá, ngói thành ngôi nhà cao to 5 – 7 gian, chạy dọc theo hướng Đông – Tây với hàng hiên rộng bao quanh, nóc nhọn vút như lưỡi búa chổng ngược lên nhau, trên nóc cột đỉnh chỏm tháp vá các đầu mái vút lên như những nóc dừa.
Trong chùa bàn thờ Phật bao giờ cũng đặt ở đầu nhà phía Tây, Phật nhìn về phía Đông phù hộ chúng sinh. Có những ngôi chùa hai bên còn mở một hoặc hai gian thành ra ngôi chùa bốn mặt, mở ra bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc.
Mỗi ngôi chùa Khmer là một bảo tàng về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc tượng pháp bích họa trang trí trên trần, trên cửa, cột, hàng hiên, bệ tượng, thân tượng…với những mô-típ hoa văn rồng rắn, hoa lá, chim muông, thú vật xung quanh những sự tích về Phật.
Bún nước lèo Khmer.
Bún nước lèo – Đậm đà hương vị ẩm thực Khmer
Cinet-DTV
Thưởng thức một tô bún nước lèo nóng hổi, lẫn mùi thơm của sả với ngải bún, có vị mặn ngọt của mắm, mùi hăng của các loại rau mùi cùng với vị cay của ớt, chúng ta mới cảm nhận được hết hương vị đặc biệt của món ăn mang đậm hương vị ẩm thực Khmer.
Từ bao đời nay, Nam Bộ được xem là vùng đất của sự hội tụ bản sắc văn hóa của các tộc người Việt – Hoa – Chăm – Khmer. Trong đó, văn hóa ẩm thực làm nên nét riêng của mỗi tộc người. Nếu như người Hoa có hủ tíu, người Chăm có món Tung lò mò thì người Khmer có món bún nước lèo nổi tiếng khắp nơi, được nhiều du khách biết đến.
Tài liệu ẩm thực Việt Nam ghi nhận, bún nước lèo có lịch sử từ lâu đời và từ lâu đã trở thành món ăn truyền thống của người Khmer. Đến thăm đồng bào Khmer mà không thưởng thức một tô bún nước lèo thì đó thật sự là một thiếu sót to lớn trong hành trình của bạn.
Bằng cảm nhận tinh tế về hương vị và sự tài tình trong việc kết hợp sự đang dạng về thực phẩm và gia vị, người Khmer đã mang đến những tô bún nước lèo đầy hấp dẫn.
Tài liệu ẩm thực Việt Nam ghi nhận, bún nước lèo có lịch sử từ lâu đời và từ lâu đã trở thành món ăn truyền thống của người Khmer.
Để có được một tô bún thơm ngon, cần đến sự khéo léo của người chế biến khi nấu nước lèo. Bởi nước lèo chính là “linh hồn” của tô món ăn. Gia vị không thể thiếu khi chế biến nước lèo là cây ngải bún. Vì đây là gia vị khử mùi tanh của mắm và làm thơm nước lèo. Điều đặc biệt là nước lèo ở đây trong veo, không lợn cợn. Bởi người khơ me có công thức chế biến rất lạ. Nước lèo được nấu bằng xương ống, xương sườn lợn, tôm thẻ ninh nhỏ lửa trong nước, hớt bọt để lấy nước dùng trong, ngọt; hoặc có thể nấu từ củ cải trắng và thêm nước dừa tươi cho có độ ngọt thanh. Sau đó gia thêm mắm bằng cách: mắm cá sặc nấu với nước, sôi hớt bọt kỹ, lọc bỏ xương lấy nước. Cho nước mắm vào nấu chung với nước hầm xương, cá, nước dừa xiêm và thêm nước lã. Kế đến mới cho ngải bún, sả cây vào nấu sôi. Đây là giai đoạn quan trọng phải hớt bọt thật kỹ thì nồi nước lèo mới trong, ngọt thanh, rất ngon.
Để món ăn thơm ngon hơn, điều quan trọng là biết chọn loại bún. Những cọng bún làm từ gạo dẻo sẽ là lựa chọn tốt nhất. Món bún nước lèo Sóc Trăng không thể thiếu cá lóc, tép và thịt heo quay. Cá lóc sau khi luộc chín phải được tách xương và da bỏ đi, chỉ còn giữ lại những miếng thịt trắng phau. Còn tép thì phải là loại tép đất bóc hết vỏ, chỉ còn lại phần thân đỏ tươi cuộn tròn. Thịt heo quay vừa có nạc vừa có mỡ, được xắt sợi chỉ to hơn đầu đũa ăn một chút. Ăn kèm với bún có rau muống, giá, bắp chuối, hẹ và rau thơm.
Đặc biệt, chính nước chấm được nấu từ me, nước mắm ngon, hòa cùng đường tạo nên hỗn hợp nước chấm ngon và hấp dẫn. Một tô bún nóng hổi. Trong đó, có sự hòa quyện của vị mằn mặn thơm phức của mắm, thơm giòn của thịt quay, ngọt dai của tôm tươi, thêm vài miếng cá lóc phi lê mềm tan, mùi thơm đặc trưng của ngải bún hòa quyện trong bát nước lèo trong veo đã làm nên một món ăn đậm chất Khơ me.
Cốm dẹp được rang bằng nồi đất sẽ rất thơm, ngon.
Cốm dẹp – món ăn dân dã của người Khmer 
ở Đồng bằng sông Cửu Long
TH-CinetDTV
Cốm dẹp không chỉ là một món ăn ngon, nó còn mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc, mang đậm nét văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Trong văn hóa ẩm thực của đồng bào dân tộc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long có nhiều món ăn dân dã rất nổi tiếng, ngon miệng như: Bập bè nấu canh mắm, bún nước lèo, mắm bò hóc, bánh rừng, bánh ống… Trong đó, cốm dẹp là món ăn dân dã được nhiều người ưa thích.
Đồng bào Khmer cho rằng, nhờ ơn đức của Phật, Trời nên họ mới có được hạt cơm, hạt nếp để nuôi sống gia đình. Và cũng chính từ những hạt nếp dẻo ngon ấy, đồng bào đã làm ra món cốm dẹp để đáp tạ trời đất và để dâng tặng cho đời, cho thế hệ tương lai những món ăn ngon dẻo thơm ấy.
Khi hạt nếp vừa giòn thì cho vào cối, 
dùng cối bồng, chày bằng gỗ để quết

Sau đó, dùng nia sảy cho hết trấu rồi đem sàng 
để có được loại cốm ngon nhất
Cách làm cốm dẹp rất đơn giản, nguyên liệu gồm có nếp mới, dừa rám vỏ, đường thốt nốt hoặc đường cát. Nếu làm theo truyền thống thì cốm dẹp thường được quết vào buổi chiều hoặc vào những đêm trăng sáng. Dụng cụ được bày biện trước sân nhà, bên cạnh bếp lửa được đốt bằng rơm có con cháu vây quanh rất nhộn nhịp. Nếp được ngâm nước khoảng chừng vài phút trước khi bỏ vào nồi rang. Nếu rang bằng nồi đất thì cốm dẹp sẽ rất ngon, số lượng nếp rang tùy thuộc cối quết lớn hay nhỏ, phải rang nếp chín thật đều. Khi hạt nếp vừa giòn thì cho vào cối, dùng cối bồng, chày bằng gỗ để quết.
Chày dùng để quết cốm dẹp có hình trụ, dài khoảng 1,5 m, nơi tay cầm được vuốt tròn vừa nắm, hai đầu bự ra. Hai người quết cốm thường là một nam một nữ trong phum, sóc đứng đối diện nhau bên cối, mỗi người một tay cầm chày, một tay cầm cây gạt vừa quết vừa gạt cho hạt nếp dính chày rớt xuống cối. Họ luân phiên quết cho đến khi những hạt nếp dẹp lép thì nghiêng cối cào hết cốm ra nia. Cầm nia trên tay, người ta sảy cho hết trấu rồi đem sàng để có được loại cốm ngon nhất. Cốm mới quết rất giòn và dẻo. Muốn cốm ngon hơn, người ta phải phối hợp cốm dẹp với dừa nạo và đường cát trắng.
Cốm dẹp sẽ trở thành rất ngon sau khi hoàn chỉnh.
Theo kinh nghiệm của người Khmer thì cứ hễ 1 lít cốm dẹp thì dùng 1 trái dừa vàng bẹ đã nạo cùng nửa ký đường cát trắng. Ba thứ này trộn vào nhau để chừng 4 – 6 giờ cho những hạt cốm thấm đường, dừa, trở nên mềm dẻo mới ngon. Muốn để ăn lâu ngày hoặc đem làm quà cho bà con, bè bạn, người ta gói cốm đã trộn sẵn trong lá chuối, lá dừa như đòn bánh tét, bánh dừa đem nấu hoặc hấp. Khi đó, ta có bánh tét cốm dẹp, ngon và lạ miệng.
Không chỉ là một món ăn ngon, cốm dẹp còn là một món ăn mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc, mang đậm nét văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer. Trong ngày lễ Oc Om Boc hay còn gọi là Lễ cúng trăng, cốm dẹp được đồng bào tôn kính dùng để lễ vật dâng lên Trời, Phật nhằm tạ ơn các đấng thiên liêng đã ban bố cho chúng sanh một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.
Theo http://dotchuoinon.com/

1 nhận xét:

  1. Vé máy bay đi Nha Trang có phải là điều bạn đang tìm kiếm cho chuyến du lịch cuối năm sắp tới của mình? Với tầng nhiệt độ có phần hơi nóng bức thời gian gần đây, không gì tuyệt vời hơn là được thả hồn vào những bãi tắm xinh đẹp sóng vỗ rì rào đang vẫy gọi tại Nha Trang Khánh Hòa.

    Xem thêm: Dat ve may bay | Ve may bay gia re | Ve may bay di Phu Quoc

    Trả lờiXóa

  Một chiều họa mi  Chiều đông một mình tôi trên con đường không còn rụng lá. Tiếng gió cũng chỉ còn nhẹ êm vẳng xa như tiếng kinh cầu năm...