Thứ Năm, 3 tháng 12, 2015

Đế quốc Khmer bị diệt vong như thế nào

Đế quốc Khmer bị diệt vong như thế nào?
Minh Long
Đền thờ Angkor Wat là một trong 
những di sản của đế quốc Khmer.
Biến đổi khí hậu có thể là nguyên nhân gián tiếp dẫn tới sự sụp đổ của vương quốc Khmer tại Campuchia cách đây gần 600 năm.
Đế quốc Khmer từng trải dài trên phần lớn lãnh thổ Đông Nam Á từ năm 801 tới năm 1400 trước khi biến mất đột ngột. Livescience khẳng định đây là một trong những nền văn minh vĩ đại nhất trong lịch sử loài người trước khi nó suy vong. Trong nhiều thập kỷ qua giới sử học đưa ra vô số lời giải thích về sự diệt vong của đế quốc Khmer. Một số chuyên gia cho rằng nguyên nhân là cuộc xung đột với các quốc gia khác, trong khi nhiều người khẳng định đế chế này bị tiêu diệt do đất đai thoái hóa.
Nhưng, theo Livescience, Brendan Buckley – một chuyên gia về khí hậu của Đại học Columbia, Mỹ đã tìm ra bằng chứng đáng tin cậy về việc đế quốc Khmer suy vong do thiếu nguồn nước dành cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt. Tình trạng đó khiến hệ thống thủy lợi quy mô lớn của Angkor – kinh đô của đế chế – tê liệt, trong khi hệ thống này rất quan trọng với nền kinh tế nông nghiệp. Thủ phạm gây nên tình trạng khan hiếm nước là hai đợt hạn hán nghiêm trọng do biến đổi khí hậu gây nên.
Buckley và các đồng nghiệp đã dựng lại bức tranh khí hậu trong khu vực xung quanh kinh đô Angkor của đế chế Khmer cổ bằng cách nghiên cứu những vòng tròn bên trong thân các cây bách tại một vườn quốc gia gần đó. Những vòng tròn cho thấy vương quốc này từng trải qua một đợt siêu hạn hán kéo dài tới ba thập kỷ – từ khoảng năm 1330 tới năm 1360. Sau đó đó vương quốc còn hứng chịu một đợt hán hán khắc nghiệt hơn nhưng ngắn hơn trong khoảng thời gian từ năm 1400 tới năm 1420. Buckley cho rằng hai đợt siêu hạn hán có thể khiến mùa màng thất bát và bệnh truyền nhiễm lan rộng – hai thảm họa đối với một đất nước có mật độ dân số lớn. Thế rồi tới năm 1431, vương quốc sụp đổ sau một cuộc tấn công của nước Xiêm (Thái Lan ngày nay).
Đền thờ Angkor Wat là một trong 
những di sản của đế quốc Khmer.
“Vào thời đó kinh đô Angkor đối mặt với hàng loạt vấn đề xã hội, chính trị và văn hóa. Sự thay đổi lớn của môi trường đã đẩy người dân Khmer tới giới hạn cuối cùng trong khả năng chịu đựng và họ không thể thích nghi được với thay đổi ấy. Tôi không nói biến đổi khí hậu là nguyên nhân trực tiếp khiến nền văn minh Khmer cổ sụp đổ, nhưng chắc chắn một đợt hạn hán kéo dài tới 30 năm phải gây nên một tác động nào đó”, Buckley phát biểu.
Nhóm của Buckley cũng tìm thấy bằng chứng về những mùa mưa mạnh khiến hệ thống thủy lợi của kinh đô Angkor bị phá hủy. Trong mùa mưa bình thường, hệ thống thủy lợi khổng lồ – gồm kênh rạch, đê, hồ chứa nước – của Angkor có thể chịu được lượng mưa lớn. Nhưng sau một đợt siêu hạn hán kéo dài, hệ thống ấy có thể bị hủy hoại.
Các chuyên gia cho rằng El Niño, được tạo nên bởi sự ấm lên của dòng nước ấm ở phía đông Thái Bình Dương khiến một lượng hơi nước rất lớn bay vào không khí, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn những mùa mưa ở khu vực xung quanh Angkor khiến hạn hán kéo dài.
“Chúng ta cần nhớ rằng các nền văn minh vẫn có thể bị tổn thương trước biến động của khí hậu”, Kevin Anchukaitis, một thành viên trong nhóm nghiên cứu, phát biểu.
Nhiều nghiên cứu trước đây chứng tỏ rằng những thay đổi đột ngột về môi trường có thể đẩy các nền văn minh cổ tới tình trạng diệt vong. Nền văn minh của người Anasazi ở phía tây nam nước Mỹ, đế chế của người Maya ở Trung Mỹ và vương quốc Mesopotamia (phía tây nam châu Á ngày nay) của người Akkadian là những nền văn minh biến mất vì biến đổi khí hậu.
Sắc màu văn hóa truyền thống dân tộc Khmer
Thạch Nam Phương
Dân tộc Khmer là một dân tộc có mặt sớm ở vùng đất Nam bộ, nhiều ngôi chùa của đồng bào người Khmer trên vùng đất này đã chứng minh được điều đó. Có nhiều ngôi chùa đã ghi dấu trong lịch sử mở cõi của Đồng bằng sông Cửu Long sớm hơn rất nhiều so với tên gọi Gia Định, một tên gọi chính thức đặt dấu ấn cho việc mở cõi và cai trị của chúa Nguyễn ở vùng đất này. Song song với việc ghi dấu ấn cho việc định cư của mình, người dân Khmer cũng kế thừa nền văn hóa Ăngco, nền văn minh lúa nước cộng với tập tục sinh hoạt của những nhóm lưu dân của người Kinh, người Hoa, người Chăm tạo nên một bản sắc, một nền văn hóa riêng của mình. Nền văn hóa đó có giá trị tiêu biểu, không lẫn lộn, pha tạp, nhưng vẫn đảm bảo yếu tố hài hòa trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nền văn hóa đó cần được gìn giữ và phát huy nhằm chống sự “xâm thực” của các nền văn hóa khác, bảo toàn nguyên vẹn yếu tố gốc có như vậy mới thấy được sự phong phú đa dạng trong nền văn hóa Việt Nam.
GIÁ TRỊ CỦA VĂN HÓA TÔN GIÁO
Trong các trường văn hóa của đồng bào Khmer Nam bộ thì văn hóa tôn giáo nổi lên như một sự tự nhiên vốn có, mặc dù văn hóa tôn giáo đến với đồng bào Khmer Nam bộ không phải là sớm nhất. Không phải “người Khmer thích gọi tín ngưỡng Phật giáo Theravada”, mà thật sự tín ngưỡng Phật giáo của họ là tín ngưỡng Phật giáo Theravada. Đồng bào Khmer Nam bộ nói chung sử dụng đạo Phật như một tôn giáo của dân tộc mình, các giá trị của tôn giáo đó dần chuyển thành tín ngưỡng của dân tộc ( ở đây ta tạm gọi là tín ngưỡng Phật giáo). Theravada là một bộ học thuyết được các bậc Trưởng lão ( Trưởng lão bộ ) kiết tập lần thứ nhất sau khi đức Phật niết bàn. Trưởng lão bộ là tập hợp tất cả các bài thuyết giảng của đức Phật, những người thực hành theo bộ này ta thường gọi là Phật giáo nguyên thủy ( hay tiểu thừa). Bộ kinh này sau khi kiết tập đã nhanh chóng lan truyền đến cư dân trong tiểu vùng Đông Nam Á qua đường biển từ phía Nam. Do đó ta thường gọi tôn giáo của người Khmer là Phái Nam tông, Đạo Phật nguyên thủy, Phái Tiểu thừa hay Phật giáo Nam tông Khmer Nam bộ.
Do mang trong mình tính ngưỡng Phật giáo nên các tín ngưỡng của đồng bào dân tộc Khmer cũng gắn chặt với tôn giáo. Ngôi chùa của người Khmer là một giá trị văn hóa vật thể đặc biệt. Đó là nơi tập hợp cư dân trong vùng, là nơi diển ra hầu hết các lễ hội cộng đồng. Các lễ hội tôn giáo này vẩn còn được đồng bào Khmer gìn giữ và thực hành như lễ ban hành giáo lý (Bon meakh bâuchea), lễ Phật đản (bon pisakh bâuchea), lễ nhập hạ (bon chaul vâssa), lễ xuất hạ (bon chênh vâssa), lễ xuất trần (bon asoch bâuchea), lễ dân áo cà sa (hay lễ dân y – kathin năh tean), lễ an vị tượng Phật (bon putthea phisik), lễ kết giới (khánh thành chính điện – bon bânchoh seima), lễ kết giới tạm (bon bânchoh kôl), lễ hội linh (bon pchum bôn), lễ câu siêu (bon băng skâul), lễ đại cầu siêu (chhak môha băng châul), lễ ngàn núi (bon phoum pon), lễ đi tu (bon bâm bous)…Tất cả những lễ hội đó tuy rằng chỉ là lễ hộ của tôn giáo nhưng vào những ngày này hầu hết những bà con người Khmer điều tham gia như thực hiện trách nhiệm của mình với cộng đồng.
Họ cùng với nhau, người có công người có của “hùn nhau làm phước”, như cách nói của người dân Khmer. Những lễ hội đó đã được đồng bào Khmer gìn giữ và duy trì thực hành từ bao đời nay.
Tôn giáo chuyển dần sang tín ngưỡng những tưởng sẽ làm mất đi giá trị vốn có của văn hóa tôn giáo. Nhưng dân tộc Khmer đã gìn giữ nó một cách trọn vẹn thực hành một cách rốt ráo không xề xòa, qua loa. Tạo nên sắc màu riêng biệt trong các lễ hội tôn giáo so với một số dân tộc khác.
Giá trị văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng của dân tộc Khmer còn biểu hiện rõ ở vị trí nhà Sư. Sư cả của một ngôi chùa là trung tâm đoàn kết của cả phum, sóc. Ngày trước, khi hệ thống pháp luật vẫn còn hạn chế thì Sư cả có vị trí như một “quan tòa”. Ngôi chùa và nhà Sư của người Khmer là người nắm giữ, lưu giữ hầu hết những giá trị văn hóa. Những lễ hội lớn của cộng đồng, không nhất thiết phải là lễ hội tôn giáo thì nhà Sư vẫn có một vị trí nhất định. Trong một cuộc lễ hội nào đó (ví như Lễ hội đua ghe ngo) thì nhà Sư là người quyết định mọi việc, từ việc tuyển chọn, phân công người tham gia lễ hội, đến việc hạ thủy ghe ngo, ngày giờ tập luyện…
Luyện tập chèo Ghe Ngo.
Vị trí của nhà Sư luôn ở vị trí trang trọng nhất trong các lễ hội nên con trai trong các gia đình Khmer đến 12 tuổi thường được đưa vào chùa đi tu. Đi tu không phải là nhu cầu, mục đích cá nhân, mà là một tập tục, một sắc thái của người dân Khmer, việc đi tu này là hoàn toàn tự nguyện, có người tu 3 ngày, có người tu 3 năm hay lâu hơn. Đi tu với người Khmer là để thành người, để xã hội nhìn nhận như một người có đầy đủ tư cách về đạo đức (trả ơn cha mẹ) và văn hóa (học tập văn chương, ngôn ngữ, phong tục,…).
GIÁ TRỊ CỦA VĂN HÓA DÂN GIAN
Tín ngưỡng Tô tem của người Khmer Nam bộ cũng khắc rõ hình tượng, hoàn cảnh sống của một tộc người trên vùng đồng bằng trũng nước. Do đó không phải ngẫu nhiên hình tượng con rắn Naga được người Khmer chọn làm hình tượng chạm trổ trên các xà nhà, đầu cột, trên các vật dụng thờ cúng, trang trí trong nhà. Đặc biệt rắn thần Naga còn được xem là tổ tiên của dân tộc Khmer qua truyền thuyết về sự phối ngẫu giữa Preak Thôn, con trai thần Mặt trời và nàng Neak, con gái vua rắn Naga. Nhận thức được giá trị văn hóa của tín ngưỡng này nên hầu hết người dân Khmer không di cư, di canh, luôn “bám trụ” với vùng sông nước Nam bộ này, nơi đã sinh ra tổ tiên của mình. Dùng sức dẻo dai của loài rắn nước Naga mà sinh sống và phát triển trên vùng nê địa đầm lầy Nam bộ. nhân đó cũng sản sinh ra nhiều lễ hội mang màu sắc của nền văn minh lúa nước như cúng trăng, đua ghe ngo, đua bò,…
Từ khi được sinh ra đời đến khi trở lại với tổ tiên, người Khmer Nam bộ cũng như các tộc người khác luôn có nhiều lễ hội ghi dấu sự có mặt của mình trên thế gian này và sự hàm ơn đối với các thế lực siêu nhiên. Những lễ hội đó phần nào phản ánh được sắc màu văn hóa mang dấu ấn dân tộc tính của họ, đới với người Khmer đó là lễ cắt tóc trả ơn mụ ( pithi kat sâk bâng kâk chmâp), lễ giáp tuổi (pithi kat chup), lễ lên nhà mới (pithi lơng phteah thmây), lễ cúng ông tà (pithi đâun lơng neaka), lễ xúc hồn (pithi chênh chât prô lưng), lễ nhập thần (pithi đâun lơng arăk), lễ cúng sân lúa (pithi sên lean), lễ cúng tổ (pithi thvay kru), lễ chúc thọ (bon châmrơnpreah chôn), lễ cầu an (pithi kâm san srol), lễ dâng phước (bonđa), lễ giỗ (bon khnop 100 thngai – giỗ 100 ngày, bon khnop chnăm – giỗ năm/ hằng năm), lễ dâng bông (bon khkar), lễ khánh thành (bon sâm pith),… những lễ hội đó được thực hiện tại nhà một gia chủ nào đó nhưng không vì thế mà có thể bỏ qua những tiết lễ.
Nói đến lễ hội dân gian của đồng bào Khmer Nam bộ có thể nhắc ngay đến lễ hội đua bò của vùng Bảy núi – An Giang và lễ hội đua ghe ngo ở Sóc Trăng. Đây là hai lễ hội mang tính đặc thù chuyên biệt của người Khmer Nam bộ. Một lễ hội mang tính hàm ơn đối với thời tiết thiên nhiên, vật nuôi trong việc canh tác nông nghiệp góp phần cho mùa vụ bội thu tạo nên sức sống, sự phát triển trong đời sống của người nông dân Nam bộ; một lễ hội mang tính gợi nhớ tới quá trình khai phá vùng đất hoang vu, quá trình đấu tranh giữa các thế lực để bảo vệ cương thổ. Những giá trị đó nhất định không thể bị mai một được.
Bên cạnh những giá trị văn hóa của lễ hội dân gian như trên thì những giá trị văn hóa của các loại hình nghệ thuật đang được bà con người Khmer gìn giữ cũng là giá trị không thể bỏ qua. Nghệ thuật múa dân gian Lâm thôn từ lâu đã là nguồn cảm hứng của biết bao nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ sáng tác nên nhưng ca khúc ru ngọt lòng người. Nghệ thuật múa trống sadâm, nghệ thuật múa cổ rôbăm, nghệ thuật hát aday, nghệ thuật tuồng cổ dìkê, dùkê,…tất cả đều có giá trị văn hóa riêng biệt cần phải kiểm kê một cách kỷ lưỡng nhằm gìn giữ và lưu truyền cho hậu thế.
Không chỉ có vậy, giá trị văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc của dân tộc Khmer trên vùng đất này còn có những ngành nghề nông nghiệp truyền thống như làm lúa nước, làm khô, chế biến thức ăn,…đặc biệt món mắm pàhoóc và cốm dẹp nổi tiếng thơm ngon, là đặc sản mang dân tộc tính rõ rệt của người dân Khmer Nam bộ. Bên cạnh đó là những vật dụng sinh hoạt hằng ngày, vật dụng bắt cá,…do người Khmer chế tác ra cũng có phần khác biệt với nhiều dân tộc khác. Bên cạnh văn hóa lễ hội truyền thống, văn hóa nghệ thuật thì văn hóa ẩm thực và ngành nghề truyền thống có giá trị đặc biệt quan trọng cần phải ra sức kiểm kê và gìn giữ cẩn thận. Đó là cách ứng xử khoa học và văn minh đối với các giá trị văn hóa.
Nhận thức được những giá trị văn hóa vô song đó trong nền văn hóa đầy màu sắc của đồng bào dân tộc Khmer. Chúng ta cần phát huy để những giá trị đó ngày càng trở nên rõ nét hơn trong nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Có như thế những giá trị văn hóa đó mới thực sự đi vào đời sống xã hội và cả thế giới sẽ hiểu rõ hơn nền văn hóa đa sắc tộc của Việt Nam. Để phát huy các giá trị mà chúng ta đã khẳng định đó, trước hết phải khẩn trương, kiểm kê một cách đầy đủ để hiểu hơn nền văn hóa của đồng bào dân tộc Khmer nhằm đề ra kế hoạch gìn giữ, bảo tồn để các giá trị của nền văn hóa đó không bị mai một dần đi.
Một số đặc điểm nghệ thuật dân tộc của người Khmer Nam Bộ
Bài: NSƯT Sơn Lương – ảnh Hồng Bỉnh Hiếu
Người Khmer Nam Bộ có một kho tàng nghệ thuật dân tộc phong phú và độc đáo, được lưu truyền từ xưa đến nay với nhiều loại hình: âm nhạc, múa, sân khấu, mỹ thuật, kiến trúc… VanVN.Net xin giới thiệu với bạn đọc bài nghiên cứu dưới đây của Nghệ sĩ ưu tú – Nhạc sĩ Sơn Lương về một số đặc điểm của các loại hình nghệ thuật này.
Với người Khmer Nam Bộ, âm nhạc, múa, sân khấu… không chỉ tồn tại trong lễ hội dân tộc mà còn có mặt trong những sinh hoạt đa dạng khác của cuộc sống. Các hoạt động nghệ thuật thường diễn ra trong lễ hội, lấy sân chùa hoặc gia đình làm nơi biểu diễn chính. Có thể điểm qua một số loại hình nghệ thuật như sau:
Về âm nhạc
Âm nhạc ở đây bao gồm cả ca hát là bộ phận hữu cơ của nghệ thuật biểu diễn. Có thể nói mỗi người Khmer đều rất nhạy cảm với âm thanh và nhịp điệu, chỉ cần nghe tiết tấu trống là nhảy múa được. Họ luôn giữ âm nhạc như nhịp đập của ý tưởng, cái ý tưởng ấy không chỉ diễn tả bằng lời mà còn bằng âm thanh và điệu bộ.
Tâm hồn người Khmer Nam Bộ được thể hiện rõ nhất trong các bài hát dân gian, từng lời ca tiếng hát đã làm lay động đến tình cảm sâu kín của con người.
Hát trong lao động sản xuất thì có những bài:
“Chriêng boong som nanh” (hát quăng chài),
“Chrêng Káp Chhơ” (hát đốn cây),
“Chriêng Stung Srâu” (hát cấy lúa)…
Trong phong tục, lễ nghi thì có rất nhiều bài hát, chỉ riêng lễ cưới đã có hàng trăm bài, điểm sơ qua như hát mở rào, hát quét chiếu, hát buộc chỉ, hát cắt hoa cau…
Trong sinh hoạt, người Khmer Nam Bộ cũng phong phú về thể loại hát trữ tình:
-Aday (đối đáp),
-Chom riêng (độc xướng).
Các loại bài Sắc Crova (hò) với nội dung lời hát đơn giản, mộc mạc:
Cro bây si Srâu.
Boong minh hean đing.
Cro bây đơ ching.
Boong đing ôy mơl…
tạm dịch:
Con trâu ăn lúa,
anh không dám đuổi,
khi trâu đi rồi,
anh đuổi cho xem.
Đi cùng bài hát là các loại hình dàn nhạc. Chúng ta dễ dàng bắt gặp ở hầu hết các phum, sóc đều có các loại dàn nhạc phục vụ cho từng tính chất lễ hội, sinh hoạt vui chơi riêng biệt:
Voong Phliêng Khxe (dàn nhạc dây) là loại dàn nhạc dân gian phục vụ cho các buổi sinh hoạt theo phong tục tập quán. Dàn nhạc này gồm các loại nhạc cụ:
– Trô u (đàn gáo)
– Trô sô (đàn cò)
– Khưm (đàn tam thập lục)
– Chapây Vêng (đàn Chom Riêng)
– Skôr đay (trống nhỏ)
– Khôlôy (sáo trúc)
Voong Phliêng Pinh Peát (dàn nhạc ngũ âm) là loại nhạc cổ điển thường dùng trong những ngày lễ ở chùa, đám tang, đám làm phước. Nhạc cụ trong dàn nhạc chủ yếu là bộ gõ, gồm:
– Đàn Rô nett ek (đàn thuyền)
– Đàn Rô nett thung (đàn thuyền thung)
– Rô nett đek (đàn thuyền bằng sắt)
– Kôông tut (đàn cồng vòng nhỏ)
– Kôông thom (đàn cồng vòng lớn)
– Trống Săm phô (trống nhỏ để ngang)
– Skor thom (cặp trống lớn)
– Chhưng (chủm chọe) làm bằng đồng.
Voong Phlêng Dù kê có các nhạc cụ:
– Trô Alea (đàn gáo)
– Trô sô
– Khưm
– Trống nhỏ
– Trống lớn
– Cồng
– Phèn la
– Chủm chọe…
Voong Phlêng Rô băm gồm:
– Sralay – Rom (kèn)
– Trống nhỏ
– Trống lớn
– Cồng
Có thể nói, âm nhạc là bạn đường không thể thiếu đối với người Khmer. Chính âm nhạc đã gõ nhịp cho từng quãng đường đời của họ bằng những giai điệu trầm bổng, vui buồn, trữ tình, hùng tráng từ lúc con người mới sinh ra cho đến khi về nơi an nghỉ cuối cùng.
Múa gáo dừa, một thể loại thường xuyên 
được các đoàn nghệ thuật Khmer biểu diễn.
Về nghệ thuật múa
Trong các loại hình nghệ thuật biểu diễn, múa chiếm một vị trí quan trọng, luôn có mặt trong mọi sinh hoạt tập thể. Thể loại múa phổ biến của người Khmer Nam Bộ là múa dân gian dân tộc gắn liền với cuộc sống đời thường, được giữ gìn trong khung của phong tục tập quán và lế nghi tôn giáo.
Các điệu múa hiện nay còn lưu giữ được là: múa Rom vong (múa vòng), múa Saravan trong sinh hoạt tập thể; múa Rom leo (múa Lào), múa Rom Kbách (múa cung đình), múa Aday (múa xen kẽ đối đáp), múa trống Sa dăm, múa trong lễ cưới, múa trong lễ cúng Arặc (múa của thầy cúng lúc lên đồng)…
Sân khấu Dù Kê còn được tổ chức trong các lễ hội cổ truyền.
Về nghệ thuật sân khấu
Nghệ thuật sân khấu của người Khmer Nam Bộ được các nhà chuyên môn đánh giá có trình độ phát triển cao so với các dân tộc ít người khác ở Việt Nam. Nổi bật có sân khấu cổ Rô Băm và sân khấu Dù Kê. Cả 2 hình thức này đều mang nhiều yếu tố thuộc các lĩnh vực nhgệ thuật múa, hát, thơ, nhạc, mỹ thuật…
Sân khấu Rô Băm sử dụng ngôn ngữ múa làm vai trò chủ đạo nên tên gọi đầy đủ của nó là Rom Rồ Băm (Múa Rô Băm). Tuy nhiên, về mặt kết cấu vỡ diễn vẫn thể hiện qua tuyến kịch như các loại hình sân khấu khác.
Chị Lâm Thị Hương, nghệ nhân dân gian 
hiếm hoi biểu diễn Rô Băm ở Sóc Trăng.
Vỡ diễn của sân khấu Rô Băm hầu hết là vỡ cổ tích, đứng đầu là Rem Kê (ảnh hưởng trường ca Ấn Độ Ramayana) với các nhân vật như: Nàng Sê Đa, Hoàng tử Phrés Riem, Khỉ thần Hanuman… Đặc điểm của sân khấu Rô Băm là các nhân vật được hư cấu theo 2 tuyến thiện – ác. Nhân vật Chằn đại diện cái ác, Khỉ tài trí thông minh đại diện cái thiện nhưng đều phải mang mặt nạ, đây chính là điểm khác biệt cơ bản giữa Rô băm với Dù kê.
Dù kê là sân khấu ca kịch dân tộc, tương tự như cải lương của miền Nam. Sân khấu Dù kê ra đời khoảng thập niên 20 của thế kỷ XX. Đây là sản phẩm văn hóa tinh thần do bàn tay khối óc người Khmer Nam Bộ sáng tạo nên, được một bộ phận người Kinh, người Hoa và người dân Campuchia rất ưa chuộng.
Múa Rô Băm - Một thời vàng son trong 
đời sống tinh thần của người Khmer xưa
TQ – DTV
Có thể nói trong các loại hình nghệ thuật của người Khmer xưa, Rô Băm là loại kịch múa được cho là đã đạt đến một trình độ nghệ thuật rực rỡ. Người ta còn liên tưởng Rô Băm của người Khmer với nghệ thuật hát Tuồng của người Kinh: tinh tuý đấy nhưng số công chúng có mỹ cảm và trình độ thưởng thức không nhiều…”
Đôi nét về điệu múa Rô Băm
Rô Băm còn gọi “Rom Rô Băm” là loại kịch múa cổ điển sân khấu cung đình của người Khmer xưa. Nếu Dù Kê có thể truyền tải những vấn đề của cuộc sống đương đại thì Rô Băm chuyên về diễn tả những “chuyện xưa tích cũ”.
Điệu Rô Băm được các nghệ sĩ múa chuyên nghiệp biểu diễn những động tác và tư thế của đôi bàn tay, trong tư thế phối hợp nhịp nhàng, uyển chuyển, uốn cong của toàn thân. Người xem cảm thấy bâng khuâng, thương nhớ các nàngApsara (vũ nữ thiên đình) mà hình ảnh tuyệt vời còn lung linh trên mặt đá; với sức mạnh khái quát thể hiện tính chất trang nghiêm sùng kính của truyền thống tôn giáo và cung đình từ thời xa xưa… thể hiện ý tình sâu kín nhất của các nhân vật. Muốn đạt được trình độ đó, nhiều nghệ sỹ phải trải qua nhiều năm rèn luyện.
Trong vở diễn Rô Băm thường có hai tuyến nhân vật vua, hoàng tử, công chúa… không mang mặt nạ. Và ngược lại những nhân vật mang mặt nạ gồm nhiều loại, nhưng nổi bật nhất là vai chằn – Yeak- đại diện cho phái ác. Ngoài ra, trong vở diễn Rô Băm cũng thường có vai hề xuất hiện để gây cười làm vui nhộn sân khấu”.
Sân khấu Rô Băm ngoài động tác múa, còn dùng lời nói, lời hát để giải thích các tình tiết, sự kiện, hành động của diễn viên. Nội dung thường là tích cổ như vở Riêm kê trích từ anh hùng ca Ấn độ Ramayana… Nhân vật trở thành mẫu người lý tưởng của người Khmer như nàng Sêđa xinh đẹp thuỷ chung, hoàng tử Rama tài giỏi nhưng gặp nhiều chuyện gian truân, khổ ải. Khỉ thần Hanuman có nhiều pháp thuật cao cường… Các vở khác như Ra Ta Na Vông, Linh Thôn… cũng đều đượm tinh thần Phật giáo “Ở hiền gặp lành”, làm việc ác ắt phải đền tội.
Âm nhạc Rô Băm ngoài phần hát còn có nhạc đệm gồm trống “Cồn” và kèn Slayrom. Đây là dàn nhạc chủ yếu gây không khí cổ động cho đêm diễn và đệm múa, có âm lượng lớn, diễn tấu như: trống thúc mạnh mẽ trong những màn chiến đấu, khi khóc than thì cất lên tiếng kèn nghe thật ai oán….
Theo các nghệ nhân thì Rô Băm xưa kia thường biểu diễn ngay dưới đất, có rải rơm lên trên, ánh sáng đốt bằng dầu mù u. Ngày nay sân khấu được dựng trên bục cao cho khán giả dễ coi, ánh sáng được thay bằng điện. Đạo cụ cho diễn viên được trang bị khá hơn. Phông màn thường vẽ cung vua hay cảnh rừng già. Phía trước có kê một cái bàn con với ít ghế nhỏ. Màn chỉ được kéo lên một lần trong suốt vở diễn. Mỗi khi chuyển cảnh “ông Bầu” giới thiệu qua cảnh tiếp để người xem dễ theo dõi.
Rô Băm – Loại hình nghệ thuật độc đáo 
của người Khmer ở Kiên Giang.
Một thời hoàng kim
Những năm thập niên 60 của thế kỷ XX là khoảng thời gian hoàng kim nhất của Rô Băm. Hàng năm các đoàn nghệ thuật Rô Băm thường đi lưu diễn ở đám làm phước, các chùa… Đoàn đi diễn đến đâu đều được bà con Khmer địa phương “hậu đãi” lo nơi ăn chốn ở đàng hoàng. Các diễn viên hết lòng đem tài năng nghệ thuật ra phục vụ công chúng. Nhiều đêm diễn trăng sáng, mưa trái mùa lâm râm, tiếng ếch nhái oang oang khắp đồng và nhảy loạn xạ trên sân cỏ nhưng bà con vẫn nhiệt tình, chăm chú, say mê xem đoàn diễn hết đêm này đến đêm khác.
Múa Rô Băm không dễ như một số loại hình khác. Ðể có diễn viên, đoàn Rô Băm Bưng Chông phải đào tạo từ khi các diễn viên ở độ tuổi 10 – 12 chứ khi trẻ đã lớn khó tập lắm. Còn để múa được, phải tập liên tục ít nhất là ba tháng. Ðiều đặc biệt của loại hình nghệ thuật này là cho đến nay vẫn chưa có trường đào tạo nên phần lớn tự đào tạo tại lò nhà mà thôi. Vì thế, chỉ có ai thật sự yêu nghề, dám hy sinh cho nghề mới theo nổi. Và, có lẽ vì vậy mà ngày càng ít người đến với Rô Băm.
Xã hội hiện đại kéo theo các loại hình nghệ thuật phát triển rầm rộ. Những đêm diễn Rô Băm trong sân chùa, trên những cánh đồng sau thu hoạch, hay trong các lễ hội truyền thống của người Khmer Nam bộ đã dần thưa khán giả và đi vào quên lãng. Rô Băm là bộ môn nghệ thuật thuộc di sản văn hóa của đồng bào Khmer. Tuy nhiên, không phải ai cũng đủ trình độ để thưởng thức Rô Băm, do tính sử thi ẩn chứa trong loại hình nghệ thuật này. Tính triết lý khắt khe, nhân văn cổ điển trong từng vở diễn Rô Băm luôn được đề cao.
Do đó, nó đòi hỏi người xem phải có kiến thức và am tường bộ môn nghệ thuật này. Muốn Rô Băm không bị thất truyền, thì cần có sự quan tâm hỗ trợ từ nhiều phía. Ngành chủ quản phải trực tiếp chỉ đạo và thực hiện việc sưu tầm, đào tạo lớp diễn viên trẻ múa dẻo. Đặc biệt, ở các phum sóc nếu có điều kiện nên khuyến khích thành lập các đội Rô Băm quần chúng để giao lưu rộng rãi.
Trong xu hướng hiện nay, người ta quay về với cội nguồn, nhiều loại hình văn hóa dân gian đã được công nhận di sản văn hóa của thế giới như Cồng chiêng (Tây Nguyên), Hát Quan họ (Bắc Ninh), múa Hoa Đăng (cung đình Huế), Hát Xoan, Ca Trù… Rô băm, cũng rất xứng đáng là kiệt tác trong kho tàng văn hóa của dân tộc vì các loại hình này đã tồn tại khá lâu và vẫn được nhiều người ưa thích.
Theo http://dotchuoinon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh Thực lòng lúc ấy tôi bỗng ứa nước mắt. Nhưng bất giác tôi kịp tỉnh ra là mình đã bắt đầu làm cho...