Dân ca dân nhạc Việt Nam - Dân ca Thái
Người Thái còn được gọi là Tày Khao (Thái Trắng),
Tày Đăm (Thái Đen), Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), Hàng Tổng (Tày Mường), Pu
Thay, Thổ Đà Bắc. Họ đã có mặt ở miền Tây Bắc Việt Nam trên 1200 năm, là con
cháu người Thái di cư từ vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Hoa bây
giờ.
Theo David Wyatt, trong cuốn “Thailand: A short history (Thái
quốc: Lịch sử tóm lại)“, người Thái xuất xứ từ phía nam Trung Hoa, có cùng nguồn
gốc với các nhóm dân ít người bây giờ như Choang, Tày, Nùng. Dưới sức ép của
người Hán và người Việt ở phía Đông và Bắc, người Thái dần di cư về phía nam và
tây nam. Người Thái di cư đến Việt Nam trong thời gian từ thế kỷ 7 đến thế kỷ
13. Trung tâm của họ khi đó là Điện Biên Phủ (Mường Thanh). Từ đây, họ tỏa đi
khắp nơi ở Đông Nam Á bây giờ như Lào, Thái Lan, bang Shan ở Miến Điện và một số
vùng ở đông bắc Ấn Độ cũng như Nam-Vân Nam.
Theo sách sử Việt Nam, vào thời nhà Lý, đạo Đà Giang, man
Ngưu Hống (tức người Thái) đến từ Vân Nam, đã triều cống lần đầu tiên vào năm
1067. Trong thế kỷ 13, người Ngưu Hống kết hợp với người Ai Lao chống lại nhà
Trần và bị đánh bại năm 1280, lãnh tụ Trịnh Giác Mật đầu hàng, xứ Ngưu Hống bị
đặt dưới quyền quản lý trực tiếp của quan quân nhà Trần. Năm 1337 lãnh tụ Xa Phần
bị giết chết sau một cuộc xung đột, xứ Ngưu Hống bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại
Việt và đổi tên thành Mương Lễ, hay Ninh Viễn (Lai Châu ngày nay) và giao cho họ
Đèo cai quản. Năm 1431 lãnh tụ Đèo Cát Hãn, người Thái Trắng tại Mương Lễ, nổi
lên chống triều đình, chiếm hai lộ Qui Hóa (Lào Cai) và Gia Hưng (giữa sông Mã
và sông Đà), tấn công Mương Mỗi (Sơn La), Đèo Mạnh Vương (con của Đèo Cát Hãn)
làm tri châu. Năm 1466, lãnh thổ của người Thái được tổ chức lại thành vùng (thừa
tuyên) Hưng Hóa, gồm 3 phủ: An Tây (tức Phục Lễ), Gia Hưng và Qui Hóa, 4 huyện
và 17 châu.
Người Thái Đen xưa
Những lãnh tụ Thái được gọi là phụ tạo, được phép cai quản một
số lãnh địa và trở thành giai cấp quý tộc của vùng đó, như dòng họ Đèo cai quản
các châu Lai, Chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nham; dòng họ Cầm các châu Phù Hoa, Mai
Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Luân, Ninh Biên; dòng họ Xa cai quản châu Mộc; dòng họ
Hà cai quản châu Mai, dòng họ Bạc ở châu Thuận; họ Hoàng ở châu Việt…
Năm 1841, trước sự đe dọa của người Xiêm La, triều đình nhà
Nguyễn kết hợp ba châu Ninh Biên, Tuần Giáo và Lai Châu bên bờ tả ngạn sông
Mekong thành phủ Điện Biên. Năm 1880, phó lãnh sự Pháp là Auguste Pavie nhân
danh triều đình Việt Nam phong cho Đèo Văn Trị chức tri phủ cha truyền con nối
tại Điện Biên; sau khi giúp người Pháp xác định khu vực biên giới giữa Việt Nam
với Trung Quốc và Lào, Đèo Văn Trị được cử làm quan của đạo Lai Châu, cai quản
một lãnh thổ rộng lớn từ Điện Biên Phủ đến Phong Thổ, còn gọi là xứ Thái. Tháng
3, 1948 lãnh thổ này được Pháp tổ chức lại thành Liên bang Thái tự trị, qui tụ
tất cả các sắc tộc nói tiếng Thái.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, để lấy lòng các sắc tộc thiểu
số miền Bắc, Chính phủ Việt Minh thành lập Khu tự trị Thái Mèo ngày 29 tháng 4
năm 1955, Khu tự trị Tày Nùng và vùng tự trị Lào Hạ Yên, nhưng tất cả các khu
này đều bị giải tán năm 1975.
Người Thái Trắng xưa
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Thái ở Việt
Nam có dân số 1.550.423 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 3 tại Việt Nam, có
mặt trên tất cả 63 tỉnh, thành phố. Người Thái cư trú tập trung tại các tỉnh:
Sơn La [Mương La] (572.441 người, chiếm 53,2% dân số
toàn tỉnh và 36,9% tổng số người Thái tại Việt Nam)
Nghệ An (295.132 người, chiếm 10,1% dân số toàn tỉnh và 19,0% tổng số người Thái tại Việt Nam)
Thanh Hóa (225.336 người, chiếm 6,6% dân số toàn tỉnh và 14,5% tổng số người Thái tại Việt Nam)
Điện Biên [Mương Thèng] (186.270 người, chiếm 38,0% dân số toàn tỉnh và 12,0% tổng số người Thái tại Việt Nam)
Lai Châu [Mương Lay] (119.805 người, chiếm 32,3% dân số toàn tỉnh và 7,7% tổng số người Thái tại Việt Nam)
Yên Bái [Mương Lo] (53.104 người)
Hòa Bình(31.386 người)
Đắk Lắk – Đắk Nông (17.135 người)
Nghệ An (295.132 người, chiếm 10,1% dân số toàn tỉnh và 19,0% tổng số người Thái tại Việt Nam)
Thanh Hóa (225.336 người, chiếm 6,6% dân số toàn tỉnh và 14,5% tổng số người Thái tại Việt Nam)
Điện Biên [Mương Thèng] (186.270 người, chiếm 38,0% dân số toàn tỉnh và 12,0% tổng số người Thái tại Việt Nam)
Lai Châu [Mương Lay] (119.805 người, chiếm 32,3% dân số toàn tỉnh và 7,7% tổng số người Thái tại Việt Nam)
Yên Bái [Mương Lo] (53.104 người)
Hòa Bình(31.386 người)
Đắk Lắk – Đắk Nông (17.135 người)
Người Thái Đen nay
Nhóm Thái Đen (Táy Đăm/Taidam/ไทดำ) cư trú ở khu vực tỉnh Sơn La và Điện
Biên (Mương La & Mương Thèng). Các nhóm Tày Thanh (Man Thanh), Tày Mười,
Tày Khăng ở miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An cũng mới từ mạn Tây Bắc chuyển xuống
cách đây vài ba trăm năm và bị ảnh hưởng bởi văn hóa và nhân chủng của cư dân địa
phương và Lào. Nhóm Tày Thanh từ Mường Thanh (Điện Biên) đi qua Lào vào Thanh
Hóa và tới Nghệ An định cư cách đây hai, ba trăm năm, nhóm này gần gũi với nhóm
Thái Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh hưởng văn hóa Lào.
Người Thái Trắng nay
Nhóm Thái Trắng (Táy Đón/Táy Khao/ไทขาว) cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu, Điện
Biên và một số huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên). Ở Đà Bắc thuộc
tỉnh Hòa Bình, có nhóm tự nhận là Táy Đón, được gọi là Thổ. Ở xã Dương Quỳ, huyện
Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, có một số Thái Trắng chịu ảnh hưởng đậm của văn hóa Tày.
Ở Sapa, Bắc Hà, nhiều nhóm Thái Trắng đã Tày hóa. Người Thái Trắng đã có mặt dọc
hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu, Điện Biên từ thế kỷ 13 và làm chủ Mường
Lay (địa bàn chính là huyện Mường Chà ngày nay) thế kỷ 14, một bộ phận di cư xuống
Đà Bắc và Thanh Hóa thế kỷ 15. Có thuyết cho rằng họ là con cháu người Bạch Y ở
Trung Hoa.
Người Thái nói các thứ tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ gốc Thái của
hệ ngôn ngữ Thái-Kadai. Trong nhóm này có tiếng Thái của người Thái (Thái Lan),
tiếng Lào của người Lào, tiếng Shan ở Myanmar và tiếng ChoangTráng ở miền nam
Trung Hoa. Tại Việt Nam, 8 sắc tộc ít người gồm Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán
Chay, Tày, Thái được xếp vào nhóm ngôn ngữ Thái.
Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng
con, bắc máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt
là lúa nếp. Người Thái cũng làm nương để trồng lúa, hoa màu và nhiều thứ cây
khác. Từng gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, một số nơi
làm đồ gốm… Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với những hoa văn
độc đáo, màu sắc rực rỡ, bền đẹp.
Điểm khác biệt nhất của nhà cửa người Thái so với người Việt
và Hán là họ xây nhà sàn. Nhà người Thái trắng có khá nhiều điểm gần với nhà
Tày-Nùng. Còn nhà người Thái Đen lại gần với kiểu nhà của các cư dân Môn-Khmer.
Tuy vậy, nhà người Thái Đen lại có những đặc trưng không có ở nhà của cư dân
Môn-Khmer: nhà người Thái Đen nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốc có khau cút với
nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan can bao quanh. Khung cửa
ra vào và cửa sổ có nhiều hình thức trang trí khác nhau.
Bộ khung nhà Thái có hai kiểu cơ bản là khứ tháng và khay
điêng. Vì khay điêng là vì khứ kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa.
Kiểu vì này dần gần lại với kiểu vì nhà người Tày-Nùng.
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Thái Đen khá độc
đáo: các gian đều có tên riêng. Trên mặt sàn được chia thành hai phần: một phần
dành làm nơi ngủ của các thành viên trong gia đình, một nửa dành cho bếp và còn
là nơi để tiếp khách nam.
Người Thái có tục ở rể, vài năm sau, khi đôi vợ chồng đã có
con mới về ở bên nhà chồng, nhưng bây giờ hầu như không có trừ vài trường hợp
gia đình bên gái khó khăn quá. – Cô gái thái khi lấy chồng phải búi tóc (tẳng cẩu).
Người Thái quan niệm chết là tiếp tục “sống” ở thế giới bên
kia. Vì vậy, đám ma là lễ tiễn người chết về “mường trời”.
Nam nữ tộc Thái
Trang phục người Thái có nhiều nhóm địa phương với những
phong cách trang phục khác nhau. Thường nhật, trong sinh hoạt và lao động, nam
giới người Thái mặc áo cánh ngắn, xẻ ngực, quần xẻ dũng. Áo là loại cổ tròn,
không cầu vai, hai túi dưới và trước cài cúc vải hoặc xương. Đặc điểm của áo
cánh nam giới người Thái khu Tây Bắc không phải là lối cắt may (vì cơ bản giống
ngắn nam Tày, Nùng, Kinh…) mà là ở màu sắc đa dạng của loại vải cổ truyền của cộng
đồng sáng tạo nên: không chỉ có màu chàm, trắng mà còn có màu cà phê sữa, hay dật
các vuông bằng các sợi màu đỏ, xanh, cà phê… Trong các ngày lễ, tết, họ mặc nhiều
loại áo sặc sỡ, tương phản màu sắc với ngày thường với lối cắt may dài, thụng,
không lượn nách với các loại: xẻ ngực, xẻ nách, chui đầu., Trong tang lễ họ mặc
áo xẻ nách màu cham đầu quấn khăn, chân đi guốc. Mấy chục năm gần đây, nam giới
người Thái mặc âu phục khá phổ biến.
Trang phục nữ Thái chia làm 2 loại phân biệt khá rõ theo hai
ngành Thái Tây Bắc là Thái Trắng (Táy Khao) và Thái Đen (Táy Đăm).
Thái Trắng: Thường nhật, phụ nữ Thái Trắng mặc áo cánh ngắn
(xửa cóm), váy màu đen không trang trí hoa văn. Áo thường là màu sáng, trắng,
cài cúc bạc tạo hình bướm, ve, ong… Cái khác xửa cóm Thái Đen là cổ áo hình chữ
V. Thân áo ngắn hơn áo cánh người Kinh, tạo dáng ôm chặt lấy thân, khi mặc cho
vào trong cạp váy. Váy là loại váy kín (ống), màu đen, phía trong gấu đáp vải đỏ.
Khi mặc xửa cóm và váy phụ nữ Thái còn tấm choàng ra ngoài được trang trí nhiều
màu. Khăn đội đầu không có hoa văn mà chỉ là băng vải chàm dài trên dưới 2 mét…
Trong các dịp lễ tết họ mặc áo dài màu đen. Đây là loại áo đầu thụng thân thẳng,
không lượn nách, được trang trí bằng vải ‘khít’ ở giữa thân có tua vải phủ từ
vai xuống ngực, nách áo trang trí theo lối đáp hai mảng hoa văn trong bố cục
hình tam giác. Phụ nữ chưa chồng hay có chồng không có dấu hiệu quy định nhận
biết… Họ có loại nón rộng vành.
Thái Đen: Thường nhật phụ nữ Thái Đen mặc áo ngắn (xửa cóm)
màu tối (chàm hoặc đen), cổ áo khác Thái Trắng là loại cổ tròn, đứng. Đầu đội
khăn gọi là “piêu” thêu hoa văn nhiều mô-típ trang trí mang phong cách từng mường.
Váy là loại giống phụ nữ Thái Trắng đã nói ở trên. Lối để tóc kkhi có chồng búi
lên đỉnh đầu gọi là “Tằng cẩu”;khi chồng chết có thể búi tóc thấp xuống sau
gáy; chưa chồng không búi tóc. Trong lễ, tết áo dài Thái Đen đa dạng với các loại
xẻ nách, chui đầu, trang trí phong phú đa dạng về màu và màu mà mô-típ hơn Thái
Trắng.
Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện thơ, ca dao… là những
vốn quý báu của văn học cổ truyền người Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của
dân tộc Thái là: “Xống chụ xon xao”, “Khun Lú Nàng Ủa”. Người Thái sớm có chữ
viết nên nhiều vốn cổ (văn học, luật lệ, dân ca) được ghi chép lại trên giấy bản
và lá cây. Người Thái rất thích ca hát, đặc biệt là Khăp tay. Khăp là lối
ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa như múa
xòe, múa sạp đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài nước, hấp dẫn đông
đảo khán giả. Hạn khuống, ném còn là hai đặc trưng văn hóa nổi tiếng
của người Thái.
Những bài hát dân ca Thái:
1. NGỦ ĐI EM
Bé yêu ơi
Ngủ đi em
Đắp mền ấm chăn êm
Ngủ đi em
Ngủ đi em
Lớn mau theo mẹ đi nương
Bé ơi ngủ cho ngoan
Nào bé yêu
Ngủ đi em
Ru hời ru hời.
Ngủ đi em
Đắp mền ấm chăn êm
Ngủ đi em
Ngủ đi em
Lớn mau theo mẹ đi nương
Bé ơi ngủ cho ngoan
Nào bé yêu
Ngủ đi em
Ru hời ru hời.
NS Nguyễn Đình Nghĩa ký âm
2. XOÈ HOA
Bùng bong bính bong
Ngân nga tiếng cồng vang vang
Nghe tiếng chiêng reo vui rộn ràng
Theo tiếng Khèn, tiếng Sáo vang lừng
Tay nắm tay, ta cùng xoè hoa
Ngân nga tiếng cồng vang vang
Nghe tiếng chiêng reo vui rộn ràng
Theo tiếng Khèn, tiếng Sáo vang lừng
Tay nắm tay, ta cùng xoè hoa
NS Nguyễn Đình Nghĩa ký âm
3. INH LẢ ƠI
Inh lả ơi
Sao noọng ời
Khắp núi rừng Tây Bắc sáng ngời
Mùa xuân đến ngàn hoa hé cười
Inh Lả Ơi
Sao noọng ơi!.
Sao noọng ời
Khắp núi rừng Tây Bắc sáng ngời
Mùa xuân đến ngàn hoa hé cười
Inh Lả Ơi
Sao noọng ơi!.
NS Nguyễn Đình Nghĩa ký âm
Dưới đây mình có các bài:
– Đằm thắm dân ca Thái Mường Lò
– Say đắm “Hội xoè” dân tộc Thái
– Khua luống – thứ âm thanh gần gũi của người Thái, Đắk Nông
– Lễ hội Then Kin Pang của người Thái trắng ở Lai Châu
– Những tác phẩm văn học đặc sắc của người Thái cổ
– Độc đáo lễ hội cầu an dân tộc Thái, Sơn La
– Tết Độc lập của người Thái, Yên Bái
– Hết Chá – Lễ hội văn hóa tâm linh của người Thái ở Sơn La
– Lễ gội đầu độc đáo của người Thái Trắng
– Độc đáo nghi thức cầu mưa người Thái, Sơn La
– Nhà sàn – công trình đoàn kết của cộng đồng dân tộc Thái
– Trang phục dân tộc Thái
– Tục lệ uống rượu cần độc đáo của người Thái
– Say đắm “Hội xoè” dân tộc Thái
– Khua luống – thứ âm thanh gần gũi của người Thái, Đắk Nông
– Lễ hội Then Kin Pang của người Thái trắng ở Lai Châu
– Những tác phẩm văn học đặc sắc của người Thái cổ
– Độc đáo lễ hội cầu an dân tộc Thái, Sơn La
– Tết Độc lập của người Thái, Yên Bái
– Hết Chá – Lễ hội văn hóa tâm linh của người Thái ở Sơn La
– Lễ gội đầu độc đáo của người Thái Trắng
– Độc đáo nghi thức cầu mưa người Thái, Sơn La
– Nhà sàn – công trình đoàn kết của cộng đồng dân tộc Thái
– Trang phục dân tộc Thái
– Tục lệ uống rượu cần độc đáo của người Thái
Cùng với 10 clips tổng thể văn hóa tộc Thái để các bạn tiện
việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
(Theo Wikipedia)
Hát ru con
Dân tộc Thái – Thanh Hóa
Dân tộc Thái – Thanh Hóa
Bản sắc văn hóa Thái Sơn La
Người Thái ở Mường So
Vui hội rượu cần dân ca dân tộc Thái
Múa xòe Tây Bắc
Điệu xòe thương nhau
Sắc màu thổ cẩm Dân tộc Thái
Lễ hội gội đầu của người Thái trắng
Lễ hội “Kin Pang Then” của dân tộc Thái trắng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét