Thứ Tư, 2 tháng 12, 2015

Kế thừa, phát huy di sản văn hóa cồng chiêng ở Gia Lai

Kế thừa, phát huy di sản văn hóa cồng chiêng ở Gia Lai
Vũ Ngọc Bình
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên 
kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại.
Ở Gia Lai, cồng chiêng được người Gia Rai gọi là ching, người Ba Na gọi là ching chêng. Tuy nhiên ở mỗi nhóm địa phương cũng còn có những cách gọi khác nhau: Người Gia Rai Chor (vùng Ayun Pa, Ia Pa) gọi là Ching dù chỉ có một chiếc hay trọn bộ; nhưng người Gia Rai Aráp (ở Chư Pah) chỉ gọi những chiếc không có núm là ching, có núm là chêng và khi hợp đủ thành bộ mới được gọi là ching chiêng.
Cồng chiêng có mặt trong mọi nghi lễ cộng đồng cũng như của từng gia đình, từ lễ hội liên quan đến từng cá nhân, cộng đồng cho đến những lễ hội quan trọng trong một mùa trồng tỉa của cư dân nông nghiệp.
Người Gia Rai, Ba Na không đơn thuần chỉ coi cồng chiêng là một loại nhạc cụ mà còn là một linh khí, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thần linh đồng thời cũng là phương tiện để chuyển tải thông tin nhanh nhất giữa các buôn làng.
Trước đây, người Gia Rai, Ba Na chỉ đánh cồng chiêng khi gia đình hay cộng đồng có việc. Nghe tiếng chiêng, những người trong làng, trong vùng hiểu ngay rằng ở phía có tiếng chiêng đang có việc gì để đến chia buồn hoặc chung vui.
Trong nửa đầu thế kỷ 20, cồng chiêng vẫn được người Gia Rai, Ba Na coi là những tài sản quý. Những tù trưởng giàu có trong cộng đồng – theo quan niệm của đồng bào – không phải là những người nhiều vàng, nhiều bạc mà là những người có nhiều ché, nhiều chiêng.
Người Gia Rai, Ba Na sử dụng cồng chiêng nhưng bản thân họ không đúc được cồng chiêng. Những điều tra khảo cổ học cũng như điền dã dân tộc học trong vùng người Gia Rai và Ba Na cho đến nay vẫn không phát hiện thấy trong phạm vi cư trú của họ có nghề đúc đồng. Công cụ đúc đồng duy nhất được tìm thấy ở Gia Lai cho đến nay chỉ có một mang (một mặt) khuôn đúc rìu đồng nằm trong khu vực giao tiếp giữa người Việt và người Ba Na.
Phương pháp đánh cồng chiêng theo truyền thống của người Gia Rai là mỗi người đánh một chiếc. Tiếng cồng chiêng vang lên là âm thanh phối hợp ăn ý, nhịp nhàng của cả một tập thể sử dụng một bộ hay nhiều bộ cồng chiêng. Ở cả người Gia Rai và Ba Na, cồng chiêng chỉ do người đàn ông sử dụng, chưa thấy trong trường hợp nào có phụ nữ đánh cồng chiêng.
Không phải đến khi UNESCO công nhận Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu nhân loại thì tỉnh Gia Lai mới quan tâm đến giá trị văn hóa độc đáo này.
Năm 2003, Gia Lai đã tổ chức cuộc liên hoan cồng chiêng toàn tỉnh lần thứ VI, thu hút 22 đội cồng chiêng với gần 700 nghệ nhân tiêu biểu của các huyện, thị xã, thành phố tham gia.
Trong những liên hoan gần đây, Gia Lai đã mở rộng nội dung theo hướng liên hoan nghệ thuật dân gian để có thể thu hút và bảo tồn thêm nhiều loại hình văn hóa dân gian độc đáo khác mà địa phương chưa có điều kiện tổ chức những cuộc thi riêng như: sử dụng các nhạc cụ cổ truyền ngoài cồng chiêng, hát dân ca, dệt thổ cẩm, điêu khắc gỗ dân gian… Ðây là một trong số ít biện pháp hữu hiệu nhằm duy trì thường xuyên việc dạy và học cồng chiêng tại cộng đồng.
Nghệ thuật cồng chiêng là giá trị nội bật trong tài năng sáng tạo của người Gia Rai, Ba Na nói riêng, cư dân bản địa Tây Nguyên nói chung; nó bắt rễ sâu từ lịch sử – văn hóa của những tộc người này. Ðến nay, cồng chiêng vẫn “sống” trong các buôn làng… Nhưng, với tác động của cơ chế thị trường, nhất là sự xâm nhập của các văn hóa tôn giáo ngoại lai mà nhiều di sản văn hóa cổ truyền của cư dân Tây Nguyên, trong đó có cồng chiêng đang đứng trước nguy cơ bị thu hẹp dần phạm vi ảnh hưởng. Hơn bao giờ hết chúng ta cần tới sự hợp lực của cả cộng đồng để kế thừa, bảo vệ và tôn vinh di sản văn hóa vô cùng quý giá này.
Chuẩn bị Lễ Cầu Mưa.
Độc đáo Lễ cầu thần mưa của người Gia Rai
TH-Cinet-DTV
Trong các nghi lễ của người Gia Rai, cầu mưa là một trong những lễ hội quan trọng, là sự kiện mang ý nghĩa tâm linh, cầu mong thần linh đem mưa về cho buôn làng, để đồng bào Gia Rai ở khắp mọi nơi có cuộc sống ấm no, hạnh phúc…
Người Gia Rai ở huyện Krông Pa (Gia Lai) quan niệm, “thần mưa” là vị thần cho những hạt nước để mang lại sự sống cho vạn vật, và mang lại nhiều may mắn và hạnh phúc cho người dân nơi đây. Người Gia Rai gọi mưa là “Hơ Jan” và rất coi trọng “Hơ Jan” vì giúp họ giải được nhiệt của cái nắng oi bức, rát bỏng, làm cây cối, hoa màu ở nương, rẫy trở nên tươi tốt và cho họ no cái bụng. Nếu làm phật lòng các vị thần thánh thì các vị thần thánh sẽ không ban tặng nước mưa xuống, bệnh tật xuất hiện, đói rét đeo bám liên miên. Vì thế mỗi năm người Gia Rai luôn tất bật chuẩn bị cho lễ cầu thần mưa.
Để chuẩn bị cho lễ cầu mưa, trước tiên người Gia Rai dựng một cái giàn để cúng bến nước trước. Tiếp là cúng các vị thần cây lồ ô, tre, nứa. Sau đó người Gia Rai về làng dựng cổng và làm một cái giàn ngay con đường xuống bến nước, treo lên bộ da của con chó, đặt một thanh đao, cột một đoạn sợi chỉ màu đen. Điều đó là để ngăn chặn sự xâm nhập của các con quỷ ác đến hại người dân trong làng.
Lễ cầu thần mưa khác với tất cả các nghi lễ cúng khác vì người cúng không phải Già làng, mà người có ngôi nhà ở đầu nguồn bến nước sẽ chọn người cùng hướng dãy nhà của mình để thay mặt cho dân làng đứng ra cúng. Người cúng phải đứng nghiêm chỉnh và khoanh hai tay vào nhau trước ngực, cầu khấn: “Hỡi các vị thần thánh hãy cho chúng con có những hạt mưa, hãy xua đuổi những con quỷ quái ác đến hại dân làng, hãy cho những ngôi nhà có sự mát mẻ, các cô gái không chồng, góa phụ có sự sống”…
Chuẩn bị dâng heo làm lễ.
Với người Gia Rai, không chỉ có việc cầu mưa cho buôn làng mát mẻ mà ngay cả trên nương, trên rẫy cũng phải cầu mưa để cho cây bắp lên cao, cây lúa trĩu bông. Nếu không, cây bắp, cây lúa sẽ chết khô vì cháy nắng. Trước tiên họ phải cất công đi lên nương, lên rẫy thăm dò những các vị Yàng xung quanh để các vị Yàng bày cách làm lễ cầu mưa.
Lễ cầu mưa ở rẫy khác với lễ cầu mưa ở làng, vì ở đây chỉ cúng cho thần rẫy, linh hồn của các ông bà tổ tiên, các vị thần thánh. Giàn cúng được dựng ngay tại rẫy chứ không phải bến nước hay các bụi cây lồ ô, tre, nứa. Ở rẫy, việc cầu thần mưa năm nào cũng giống năm nào, lễ vật dâng lên duy nhất là 1 con gà nướng, một ghè rượu màu vàng, theo phong tục thì ở rẫy không được cúng ghè màu đen, mà phải là màu vàng, tượng trưng cho sự vàng ươm của hạt bắp, hạt lúa được mang về đầy chòi. Người cúng phải ngồi xuống, không được đứng như làm lễ ở làng, khoanh hai tay vào nhau trước ngực khẩn thiết cầu khấn: “Hỡi thần rẫy, hỡi ông bà tổ tiên, hỡi các vị thần thánh, xin các vị hãy cho đám rẫy của con có được hạt mưa để cây bắp lên cao, cây lúa trĩu bông, đừng để cho những con chim, con thú dữ đến phá phách cây bắp, cây lúa của nhà con!”.
Sau lễ cầu mưa, rượu ghè được mở nắp, mùi bắp non ngòn ngọt say say lan tỏa khắp khu nhà rông. Thanh niên là những người đầu tiên mở bình, nhấc cần khai tiệc rượu. Họ uống rượu trong niềm hân hoan say đắm. Bên ngoài, tiếng cồng chiêng, tiếng trống được cất lên, và những phụ nữ sẽ bước vào với điệu xoang nhịp nhàng cùng ché rượu cần sóng sánh. Sau lượt thanh niên trai trẻ là đến các cụ phụ lão. Tất cả mọi người đến với lễ, với tiệc rượu bằng tấm lòng thành kính.
Lễ đền ơn đáp nghĩa của người Gia Rai
Một nét đẹp đã trở thành truyền thống trong đời sống tinh thần của nhiều dân tộc trên dải đất Việt Nam là lòng tôn kính, yêu thương và biết ơn sâu sắc ông bà, cha mẹ. Ăn ở hiếu thảo đối với cha mẹ đã trở thành đạo lý quan trọng trong đạo làm người. Lễ đền ơn đáp nghĩa cha mẹ của người Raglai cũng nằm trong quan niệm “Cây có cội, nước có nguồn”, nhưng cách thể hiện có những nét độc đáo riêng và giữ một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của họ. Người Raglai coi lễ này không phải là chuyện nội bộ của một gia đình, mà là việc chung của cả cộng đồng và do đó được xếp vào trong hệ thống lễ hội chung, như lễ bỏ mả, lễ cưới, lễ ăn cơm mới, lễ cúng Yang…
Đền ơn đáp nghĩa cha mẹ, tiếng Raglai là “Ea tixâu pilâu dhadha”. Bất cứ người Raglai nào cũng đều cho rằng công lao của cha mẹ như núi cao, như nước mạch nguồn chảy ra. Và họ tâm niệm sẽ đền đáp xứng đáng ngay từ khi còn ở chung nhà, chung bếp cho đến khi có vợ, có chồng ra ở riêng. Nhưng như thế chưa đủ, theo tập tục của người Raglai, việc đền ơn đáp nghĩa cha mẹ đối với họ phải được nâng lên thành nghi lễ, được họ tộc và buôn làng chứng kiến, thừa nhận, như thế mới được coi là trọn vẹn. Theo quan niệm đã có từ lâu đời của người Raglai, điều bất hạnh lớn nhất của con người là cha mẹ qua đời mà người con chưa kịp làm lễ Ea tixâu pilâu dhadha. Sự ân hận này nhiều khi ray rứt người con suốt cả đời. Do đó, mỗi người Raglai khi trưởng thành, ngoài trách nhiệm chăm sóc, kính yêu cha mẹ thường ngày, nếu cảm thấy cha mẹ có dấu hiệu già yếu (sức khỏe kém, da mặt có nhiều nếp nhăn, tóc bạc, kém ăn, mất ngủ…) thì phải chuẩn bị lễ vật để tổ chức lễ đền ơn đáp nghĩa cha mẹ.
Thông thường, lễ vật gồm có thịt heo, thịt gà, gạo, nếp, rượu cần, một ít trầu cau, thuốc lá… Nhà nhiều của thì chuẩn bị làm lễ lớn, giết trâu, bò… người nghèo thì tùy theo khả năng kinh tế của mình mà tổ chức. Vật chất không phải là tiêu chuẩn để đánh giá tấm lòng hiếu thảo của con đối với mẹ cha, cái chính là thái độ, là tấm lòng của người con đối với cha mẹ trong quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng. Sự có mặt của bà con trong buôn làng vừa biểu thị tình cảm quý mến, vừa để chứng kiến việc thực hiện một tập tục xã hội. Họ mang đến những lời chúc tụng chân thành của cộng đồng đối với gia đình nói chung và cha mẹ của gia chủ nói riêng. Những gia đình khá giả, hoặc gặp những năm được mùa, thường tổ chức cuộc lễ này rất lớn và vui chơi kéo dài hai ba ngày đêm.
Về nghi thức, khi cỗ bàn được bày ở giữa nhà, thì mẹ cha – đối tượng chính của buổi lễ – được mời ngồi vào vị trí trung tâm, nơi trên mâm cỗ đặt một đĩa thịt và lòng heo đủ món. Những người khác gồm bà con, họ hàng, người trong buôn… đều tề tựu đông đủ chung quanh. Sau khi tiến hành lễ khấn vái các Yang, mời gọi tổ tiên, ông bà và những người khuất mặt cùng về chứng kiến tấm lòng của con đối với cha mẹ, người con rót một chum rượu trắng thật đầy kính cẩn mời mẹ cha. Tiếp đó, người con tự tay bưng đĩa thịt, gắp từng miếng đút cho cha mẹ ăn để tỏ lòng hiếu thảo, trước sự chứng kiến của cộng đồng. Nếu đĩa thịt được ăn hết, thì đó là một niềm hạnh phúc rất lớn đối với gia đình người con. Hoặc có thể cha mẹ chỉ ăn vài miếng tượng trưng, như thế cũng đã đủ là điều vui sướng. Trong không khí hân hoan ấy, chủ nhà mời bà con, họ hàng cùng chia sẻ niềm vui. Họ vừa ăn uống, vừa trao đổi những lời chúc tụng tốt đẹp đối với gia đình và những người cao tuổi trong buôn. Lễ vật còn được dành ra một phần để mẹ cha đưa về cúng ông bà tại nhà mình và biếu cho một số người thân.
Sau bữa tiệc, đến phần sinh hoạt văn nghệ, vui chơi. Khi tiếng mã la nổi lên cùng dàn nhạc hòa theo, nam nữ thanh niên và cả những người lớn tuổi cùng nhau nhảy múa, ca hát. Cuộc vui kéo dài đến suốt đêm.
Lễ đền ơn đáp nghĩa cha mẹ của người Raglai nhìn về hình thức có vẻ như rất đơn sơ, mộc mạc, nhưng bên trong hàm chứa một đạo lý sâu sắc được cả cộng đồng thừa nhận và hưởng ứng nhiệt thành, đầy tình nghĩa. Truyền thống đạo lý mang đậm tính nhân văn này đã được các thế hệ người Raglai kế thừa và bảo tồn cho đến ngày nay.
Lễ hội dâng trâu.
Lễ hội đâm trâu ở buôn làng Gia Rai
Mỗi khi cây H’lưng đầu buôn, cây Ê táp giữa làng ra nụ, nở hoa, đó chính là lúc con trai, con gái các buôn làng Gia Rai chuẩn bị đón hội hè. Gặt hái xong xuôi, đây là thời gian rảnh rỗi, nghỉ ngơi nên mọi nhà, mọi buôn làng đều lo chuẩn bị các lễ ăn cơm mới, lễ đâm trâu, lễ ăn nhà mả tưng bừng, rộn rịp với các trò vui chơi và ăn uống no say.
Đồng bào Gia Rai thường tổ chức ngày hội đâm trâu trong khoảng thời gian từ đầu tháng Chạp cho đến tháng ba âm lịch năm sau. Thời gian tổ chức khoảng hai hôm.
Người Gia Rai gọi ngày đầu của lễ đâm trâu là ngày vào mùa (mút), ngày cuối cùng là ngày ăn đầu trâu (bong kơ).
Để chuẩn bị cho ngày lễ, đồng bào vào rừng chặt lấy bốn cây to bằng bắp chân đem về làng và khắc lên đó những hình hoa văn rất đẹp. Những cây đó gọi là cây Ging Ga. Họ còn lấy 4 ngọn lồ ô và cũng khắc lên đó nhiều hình hoa văn để buộc làm tua. Ngoài ra họ còn chặt cây lồ ô gọi là gốc về làm cây thần cắm ở giữa. Sau đó họ dùng sợi dây thật mềm và chắc buộc trâu vào cột Ging Ga, đồng thời trói 1 con heo to đặt áp sát vào cột.
Những chàng trai có nhiệm vụ đánh trống, đánh cồng, chiêng trong ngày hội thì đầu phải chít khăn đỏ, mặc áoblan hay áo ló (áo chui đầu, không có tay), đóng khố kteh (khố hoa). Các cô gái thì mặc áo phia (loại áo lễ của nữ giới), mặc váy kteh (váy hoa), đầu quàng khăn trắng. Người già, trẻ em thì mặc những bộ đồ mới nhất, đẹp nhất.
Thầy cúng (Riu Yang) bước đền gần cột trâu khấn vái lâm râm. Vừa xong thì chiêng trống nổi lên cùng với tiếng hú của mọi người tham dự khiến cho buôn làng trở nên sinh động và rộn ràng lạ thường.
Khi chiêng trống vừa dứt, tức thì những chàng trai khoẻ mạnh tay cầm dao sáng loáng nhảy ra múa may, dao chạm vào nhau nghe loảng xoảng để diễn tả cuộc chiến đấu để bảo vệ buôn làng. Sau cuộc nhảy múa này họ bắt đầu đâm trâu. Chàng trai nào chỉ đâm một nhát dao mà trâu chết thì được mọi người tán thưởng, riêng các cô gái thì bàn tán xôn xao. Ai không đâm được trâu hoặc đâm trâu không chết thì bị mọi người chê bai.
Làm thịt trâu xong thì họ lấy thịt chia đều cho từng bếp trong buôn làng. Một phần thịt trâu được dành lại để uống chung tại nhà Rông. Riêng đầu trâu thì gác lên cây cột lễ. Phải đợi cho Riu Yang (thầy cúng) khấn lần thức hai thì cuộc vui chơi, ăn uống, múa hát mới thật sự bắt đầu và kéo dài cho đến hết ngày hôm sau đó.
Sáng ngày thứ ba, đầu trâu được rước về nhà Rông. Đầu trâu được lấy hết thịt để làm món ăn, còn chiếc sừng thì giữ lại và đem giắt lên vách nhà Rông.
Ngày này vui chơi, múa hát chủ yếu ở trong nhà Rông và phần lớn người tham dự là những người đứng tuổi và các cụ già.
Cứ thế, từ gia đình này đến gia đình khác, từ buôn làng nọ đến buôn làng kia, lễ đâm trâu được tổ chức luân phiên suốt mùa nắng ráo khắp các buôn làng người Gia Rai.
(Theo Nguyễn Nhân ‘Báo Thanh niên dân tộc thiểu số & miền núi- số 5/2006’)
Nhà mồ cổ Gia rai – Kiến trúc nghệ thuật độc đáo.
Lễ bỏ mả (Pơ Thi) của người Gia Rai
Người Giarai Mthur thuộc một nhóm người Giarai vừa khá lớn vừa khá đặc biệt của dân tộc Giarai. Địa bàn cư trú chính của người Giarai Mthur là huyện Krông Pa và phía nam huyện Ayun Pa (xã Ia Rbol) của tỉnh Gia Lai. Nếu nhìn trên bản đồ, chúng ta sẽ thấy, người Giarai Mthur sống ở phía đông nam của tỉnh Gia Lai và cũng thuộc phía đông nam địa bàn cư trú của người Giarai. Nơi cư trú của người Giarai Mthur nằm gọn trong khu vực giáp ranh với hai nhóm dân tộc lớn cùng thuộc ngữ hệ Malayô – pôlinêdiêng; người Chăm ở phía đông.
Điều khá đặc biệt là, cái tên Mthur (nghĩa là nghèo nàn) không chỉ là cái tên để chỉ một nhánh của người Giarai mà cũng là cái tên chỉ một nhánh người Êđê phía đông – người Êđê Mthur. Còn người Giarai Mthur ở giáp với người Chăm (như ở xã Đắc Bằng, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai) lại tự gọi mình là người Chăm Hroi. Ngoài người Êđê Mthur ra, người Êđê Ktul, Êđê Mã Laiô và Êđê Kđrắc đều có rất nhiều nét tương đồng về văn hóa với người Giarai Mthur. Do đó, có thể nói, trong văn hóa truyền thống của người Giarai Mthur có nhiều sắc thái chung cho cả người Êđê và người Chăm Hroi. Ngay trong tang ma nói chung và lễ bỏ mả nói riêng của người Giarai Mthur, theo những kết quả điều tra nghiên cứu của chúng tôi, có không ít những yếu tố gần với người Êđê.
Theo quan niệm của người Giarai Mthur ở Đắc Bằng và Ia Rto, khi người ta chết thì hồn người chết (m’ngắt dêi) biến thành ma (atầu). Sau khi làm lễ bỏ mả, hồn ma của người chết mới được đi tới thế giới của bà Jung, các hồn ma sinh sống và làm việc như những người sống, nghĩa là cùng ăn uống, lấy vợ, lấy chồng, ốm đau và chết. Sau khi chết, hồn ma biến thành con nhện (vak vai). Bà Jung thả con nhện lên mặt đất.
Khi chết, nhện biến thành giọt sương (ia ngom) rồi tan vào đất. Bà Jung lấy đất có thấm giọt sương đó làm ra người – rồi cho nhập vào những người phụ nữ có chửa. Khi người phụ nữ sinh con thì hồn ma lại trở về với kiếp người. Người Ê Đê cũng có những truyền thuyết và quan niệm tương tự về buôn làng tổ tiên (buôn Atao) do vợ chồng thần Băng Bơ Dung, Băng Bơ Đai cai quản. Vì thế, để cho hồn ma của người chết đến được với buôn làng của tổ tiên, người Giarai Mthur và các nhóm người Êđê phía đông đều có tục làm lễ bỏ mả cho người chết.
Tập tục này đã có từ lâu và còn tồn tại cho đến tận hôm nay. Ngay trong các trường ca (khan) của người Giarai Mthur và người Êđê, có những đoạn nói về lễ bỏ mả thật sinh động. Ví dụ, trường ca Xing Nhã của người Êđê và Giarai mô tả việc Xing Nhã làm lễ bỏ mả cho cha mình như sau: “Mãn mùa lúa. Vào một buổi sáng đẹp trời, sương trốn nắng. Xing Nhã sai nô lệ vào rừng chặt cây kơnia, chặt những cây gòn to nhất để dựng nhà mồ cho cha là Giarơ Kốt ở gần núi Bơlô. Tin ấy truyền đi buôn phía đông. Tin ấy lan sang làng phía tây. Từ người Bi Kơrông sống dọc bờ sông, tối người Mơnông cắm lông chim trên đầu ở bên bờ suối; tất cả đều nô nức mang rượu,thịt, chiêng trống đến mừng chàng Xing Nhã dựng nhà mồ cho cha”.
Lễ bỏ mả tại Gia Lai. Rượu cần chảy suốt ngày đêm. (ảnh KT)
Còn lễ bỏ mả cho Đăm Bi và Xinh Chơ Niếp được trường caXinh Chơ Niếp mô tả: “Về phần Chiêm Tơ Mun, thì sau mấy mùa trăng lặn, trăng lên, sức khỏe của mẹ chàng đã phục, làn da đã trở lại như xưa. Một buổi tối đầy sao, nhiều gió, chàng gọi Chiên Mơ Nga tới nhà bàn việc làm lễ bỏ mả choĐăm Bi và Xinh Chơ Niếp. Sau đấy, họ đem rượu ra uống suốt mấy ngày liên tiếp bên đồi Lơ Mui. Mả Xinh Chơ Niếp và Đăm Bi làm chung một chỗ, xây chung một hướng. Cây nêu cao tận trời, khắc chạm tận gốc. Bốn phía mồ đều đẽo tượng gỗ lớn. Tượng ngồi, tượng đứng, trông rất linh thiêng. Trai gái ở buôn gần dắt bò, ở buôn xa đem rượu tới ăn lễ. Chiêng trống không ngừng, nhảy múa không ngớt. Âm vang, chấn động cả vách núi, lưng trời”.
Mặc dầu không còn những lễ bỏ mả lớn của các tù trưởng lớn mà các trường ca mô tả, nhưng người Giarai hôm nay vẫn làm cho người chết những ngôi nhà mồ kút (bơxát kuthay nok kut). Đồ sộ uy nghi và tổ chức lễ bỏ mả trọng thể, đông vui.
Như các nhóm Giarai khác, người Giarai Mthur vẫn giữ tục chôn chung và bỏ mả chung. Do đó, để tổ chức được lễ bỏ mả, trước đó cả tháng trời, các gia đình có người chết cùng dân làng đã phải bắt tay vào chuẩn bị. Mọi người phải lên rừng chặt gỗ đem về đẽo các cột kút, kơlao, chạm khắc tượng người, tượng thú, phải chuẩn bị rượu, thịt, gạo nước cho lễ bỏ mả. Chỉ sau khi mọi thứ đã làm xong, lễ bỏ mả mới có thể tổ chức được.
Người Giarai Mthur thường chọn những ngày trăng sáng nhất (tuần thứ hai tức tuần trăng tròn của tháng) để bắt đầu làm lễ bỏ mả hay ăn bỏ mả (hoă lui bơxát) như người Giarai thường gọi. Khi vầng trăng của ngày 14 đã nhô lên treo lơ lửng trên đỉnh các cây cột kút và klao của nhà mả (tức khoảng 10-11 giờ đêm) các gia đình có người thân phải làm lễ bỏ mả cùng cả dân làng tấp nập đi ra khu nhà mồ đã được dọn dẹp sạch sẽ để bắt đầu lễ hội bỏ mả của làng. Vì thế mà người Giarai Mthur gọi hôm đầu tiên của lễ bỏ mả là ngày vào nhà mả (mưt bơxát).
Trước khi cuộc vui của lễ hội bùng lên, người chủ của lễ (người đại diện cho gia đình có người chết được chôn đầu tiên ở khu nhà mả) đến bên ngôi nhà mồ mới, xụp trước bàn thờ (P’nang) đã bầy sẵn rượu, thịt cúng và đọc bài cúng với những lời mở đầu như sau: lễ bỏ mả đến ngay sau lưng rồi. Từ nay, người sống ăn cơm trắng, còn ma thì ăn cơm đỏ, ăn hoa tím, hoa đỏ của các thần… Sau đấy, người chủ lễ mới bày tỏ tâm tư và nguyện vọng của những người sống: “xin ma đừng gọi, đừng lại gần, đừng thương yêu con cháu nữa. Từ nay, chúng tôi sẽ không còn mang cơm, sẽ không còn mang nước cho ma nữa. Nếu muốn ăn thịt gì, xin ma hãy hỏi thần Trăng; nếu muốn ăn cá, ăn thịt, xin may hãy hỏi thầnTrời. Thôi, từ nay, thế là hết, như lá m’nang đã lìa cành như lá m’tư đã tàn úa”.
Khi tế cúng vừa xong, thì lập tức, trong ánh lửa bập bùng của hàng chục đống lửa và dưới ánh trăng mát dịu, tiếng cồng chiêng rộn rã nổi lên. Theo nhịp âm thanh cồng chiêng mọi người hòa vào đoàn múa diễu quanh ngôi nhà mồ nhấp nhô huyền ảo trong đêm. tiếng nhạc cồng chiêng của đêm bỏ mả, như một sức hút diệu kỳ, kéo tất cả dân làng, kéo bà con họ hàng ở buôn gần, buôn xa tới. Càng về khuya, tiếng cồng chiêng càng rộn rã, thôi thúc, các đống lửa càng bùng to hơn, nhịp chân múa nhảy càng rộn rã hơn. Hầu như suốt cả đêm cho đến sáng, cả làng quây quần bên ngôi nhà mồ: ai múa nhảy cứ múa nhảy, ai đánh cồng chiêng cứ đánh; ai uống rượu cứ uống, ai mệt thì ngủ ngay bên những đống lửa ấm áp để sáng hôm sau bước vào ngày hội chính của lễ bỏ mả – ngày vỡ (p’chăh) hay ngày ăn lớn (hoă prong).
Sáng hôm hoă prong, vào khoảng 6, 7 giờ sáng, các gia đình cùng chung làm lễ bỏ mả dắt trâu hoặc bò đến buộc quanh ngôi nhà mả; đem những ché rượu tới cột thành từng hàng dài bên nhà mả. Sau đấy, những con vật bị giết đem thui và làm thịt. Thịt, xương trâu bò được chế biến ra thành nhiều loại thức ăn, nhiều món thức ăn: có loại dành riêng để chia cho những người chết được gọi là thịt tế lễ (m’nong dưm), có loại để chia cho những người tới dự (chơnút m’nong). Khi thức ăn đã được chế biến xong, các bà, các chị nổi lửa đun nấu thức ăn rồi chia ra những chiếc mâm lá chuối được bày la liệt quanh ngôi nhà mồ.
Nhà mồ của dân tộc Gia Rai.
Trong khi dân làng lo chuẩn bị cho bữa ăn lớn hay bữa cơm bỏ mả (hoă sơi bơxat), thì các gia đình có người chết đem mía (phun tbou) và chuối (phun a’tơi) đến trồng bên cạnh nấm mộ, đem gói cơm và gói thịt cùng ché rượu và con gà nhỏ (ană mnu) đặt lên mộ rồi ngồi khóc lần cuối vĩnh biệt người chết. Để không khí hôm bỏ mả đỡ buồn, dân làng và khách các nơi tới đánh cồng chiêng, múa nhảy thành đoàn đi quanh nhà mả. Đến quá trưa, cả khu nhà mả thật sự đã thành một bữa ăn cộng cảm lớn. Từng tốp, từng tốp ngồi quây quần bên các mâm cơm (mâm bằng lá chuối) cạnh những ché rượu cần vừa ăn uống vừa trò chuyện vui vẻ. Các bà, các cô cũng đem phần cơm, thịt và rượu vào nhà mả để những người trong các gia đình có người chết ăn uống và tâm sự lần cuối với người thân đã khuất của gia đình mình.
Lúc bữa cơm cộng cảm kết thúc cũng là lúc người chủ lễ đến bên bàn thờ đọc lời cúng bỏ mả với nội dung như sau:“Xin ma đừng gọi, đừng lại gần, đừng thương yêu con cháu của ma nữa. Chúng tôi đã làm nhà mồ rồi, đã tạc những cột kút, cột klao, đã vẽ những hình vẽ bằng máu trâu, máu bò rồi. Ché rượu cúng đã đặt xuống mà rồi, con gà con đã được thả rồi. Chúng tôi đã bỏ ma rồi”. Đợi cho người chủ lễ đọc lời khấn xong, mọi người vào nhà mả đưa những người góa ra sông tắm, chải đầu, mặc áo váy, khố mới cho họ rồi đưa họ về khu nhà mồ đang rộn ràng tiếng cồng chiêng và nhịp chân múa nhảy.
Ai nấy đều vui vẻ, hồ hởi mời, kéo những người góa vào vòng múa của dân làng. Lúc này, những người góa không còn xõa tóc, không còn mặc khố, váy bẩn rách của thời kỳ để tang nữa. Lúc này họ đã mặc lên người những bộ quần áo lễ hội mới, đã nở nụ cười trên môi. Khi những người góa nhập vào đoạn nhảy múa của dân làng là lúc họ đã được giải phóng, đã không còn phải ràng buộc gì với người đã chết nữa. Từ nay, họ được sống cuộc sống bình thường như mọi người, nghĩa là được đi ăn uống vui chơi ở các lễ hội, được quyền tái giá nếu họ muốn. Nước sông đã rửa sạch những năm tháng chịu tang trên người họ, lễ cúng cuối cùng đã cắt đứt mọi quan hệ giữa họ và những người chết. Còn những hồn ma của người chết thì, sau lễ cũng cuối cùng, đã được con gà con đưa về buôn làng tổ tiên bắt đầu một cuộc sống mới – cuộc sống của những hồn ma để chu kỳ tiếp theo sẽ lại trở về làm người.
Sau những vòng múa tưng bừng sôi nổi giữa dân làng và những người góa, lễ bỏ mả coi như đã kết thúc và mọi người ai nấy về nhà nấy, bỏ lại phía sau ngôi nhà mả xinh đẹp mà mình vừa làm xong cho thời gian và thiên nhiên hủy hoại. Trước khi ra về, mọi người bốc thóc ném lên mái nhà mồ rồi tranh nhau cướp lấy một số hạt thóc từ mái nhà mồ rơi xuống đem về để được phúc và để mùa tới làm ăn thịnh vượng. Khi mọi người ném thóc lên mái nhà mồ, ông chủ lễ nói lời cuối cùng tuyên bố (p’thao) bỏ mả: Thế là xong hết tất cả rồi. Gia đình và dân làng đã bỏ mả rồi. Từ nay chúng tôi không còn dính líu gì với nhà mả nữa. Từ nay, nếu xảy ra chuyện gì không hay, không tốt với nhà mả thì cũng đành vậy thôi vì chúng tôi không còn gì dính líu nữa.
Mặc dầu các nghi lễ đã chấm dứt, ngôi nhà mồ đã bị bỏ và các hồn ma đã ra đi, những hội lễ bỏ mả còn tiếp tục thêm một ngày nữa tại các gia đình của những người chết vào ngày hôm sau. Hôm đó, bà con họ hàng tới thăm hỏi, ăn uống, vui chơi cùng các gia đình tại nhà họ chứ không ra nhà mả nữa. Thức ăn còn gì, gia chủ đem hết ra đãi khách. Vì thế ngày cuối cùng này của lễ bỏ mả được gọi là ngày rửa nồi (săch go).
Những chàng trai, cô gái Gia Rai vui mừng nhảy múa trong tiếng cồng chiêng, trống tưng bừng. Họ thể hiện các điệu múa truyền thống với một niềm tin thành kính.
Trang phục dân tộc Gia Rai
TQ-DTV
Tương tự nhiều dân tộc khác vùng Tây Nguyên, trang phục của dân tộc Gia Rai có nhiều điểm tương đồng nhưng vẫn có những nét riêng trong phong cách tạo hình và trang trí hoa văn.
Trong sinh hoạt hàng ngày, đàn ông Gia Rai đều đóng khố bằng vải trắng có kẻ sọc nhiều màu, người địa phương gọi là Toai. Ngoài ra, họ còn đội khăn, khăn được quấn theo lối nhiều vòng trên đầu rồi buông sang một bên tai, hoặc quấn gọn ghẽ như khăn xếp của người Kinh.
Khố có hai loại, khố thường thì không có hoa văn trang trí, may bằng vải mộc để trắng, có một vài kẻ sọc màu đen. Loại khố thứ hai là khố mặc trong nghi lễ hay còn gọi là Toai Kteh. Ngày lễ, đàn ông Gia Rai đóng khố bằng vải chàm dài khoảng 4m, rộng chừng 0,30m, có đường viền hoa văn và buông tua chỉ nhiều màu ở hai đầu và đặc biệt không thể thiếu màu chàm.
Ngày nay, tộc người Gia Rai vẫn tồn tại hai xu hướng, một nhóm ở trần và nhóm khác mặc áo. Áo màu đen cộc tay (aolo) hoặc có loại dài tay, hở nách, khoét cổ chui đầu và có đường viền hoa văn chỉ màu chạy dọc hai sườn mang đậm dấu vết kiểu pông-sô. Khi trời lạnh, họ thường choàng thêm tấm mền hoặc vắt chéo trước ngực. Có hai loại mền, mền màu chàm đen và mền màu chàm trắng. Đường trang trí là những đường mép vải trên khung dệt , hai đường trang trí giữa mền cũng là đường trang trí mép vải.
Sơn nữ Gia Rai.
Ở Gia Rai những người giàu có hoặc có thế quyền đều mặc áo chàm che kín mông, tay dài, chui đầu, có một mảng sợi màu đỏ làm khuy và khuyết cài từ cổ đến ngực. Dưới dải cúc là miếng vải đỏ hình vuông khâu đáp vào để làm dấu hiệu là áo.
Về trang phụ nữ. Phụ nữ có chồng ở Gia Rai thường để tóc dài, rồi búi sau gáy hoặc quấn gọn trên đỉnh đầu. Và cũng giống như nam giới, phụ nữ Gia Rai cũng mặc áo may kiểu chui đầu, cổ khoét cao, mở cúc ở đường bờ vai, có trang trí các dải hoa văn ở chân gấu áo, ngang ngực, hai bên vai, nách và trên hai cánh tay áo, riêng nhóm Gia Rai Mthur lại có kiểu cổ thấp hình chữ V và các loại cổ phổ biến. Nét nổi bật trên tà áo của phụ nữ Gia Rai là những dải hoa văn màu đỏ rực lên làm lu mờ nền màu chàm đen.
Phụ nữ Gia Rai mặc váy màu chàm dài ngang bắp chân, quanh thân và gấu váy dệt nhiều đường hoa văn chỉ khác chạy song song. Váy có hai loại, váy mặc thường ngày thì không có nhiều hoa văn trang trí, kích thước chừng 140 cm x 100 cm. Họ mặc váy bằng cách quấn quanh thân từ eo xuống bụng, mép vải giắt vào hông rồi dùng thắt lưng buộc lại. Trong ngày lễ hội, phụ nữ Gia Rai mặc váy đẹp hơn bởi các đường nét trang trí hoa văn. Nét đặc trưng nhất trên váy là có nhiều hoa văn trang trí gần mông của váy.
Trang sức của người dân Gia Rai thường mang theo là khuyên tai, vòng cổ, vòng tay bằng bạc hay sợi dây chuyền bằng đồng hoặc bằng hạt cườm.
Ngày nay, cả nam và nữ Gia Rai đều mặc váy ống, cạp váy đính nhiều tua vải khác nhau. Họ mặc áo váy đẹp hơn, nhiều màu sắc hơn và nhiều kiểu dáng hơn, thậm chí, một tộc người Gia Rai sinh sống gần quốc lộ, thị xã, thị trấn thì trang phục hàng ngày gần như tương tự người Kinh.
Nhà Rông của dân tộc Gia Rai.
Nhà Rông Gia Rai
Nhà rông Gia Rai cũng bề thế và hoành tráng nhờ kiểu dáng kiến trúc đặc sắc của nó nhưng thường nhỏ hơn nhà rông của dân tộc Bana.
Nóc nhà cao trên dưới 15m và hơi gồ lên. Nhà lợp cỏ tranh , hai mái chính có những nét cong nhịp nhàng, như mái nhà rông cao của người bana, và hợp lại với nhau thành một góc hẹp, vì thế nhấn thêm cảm giác về chiều cao của ngôi nhà. Nhà rông Gia rai thường có ba gian.
Nhà rông Gia-rai có sàn cao, mở cửa ra vào ở cửa mặt trước nhà và cũng có sàn sân ở ngoài cửa, thấp hơn mặt sàn nhà một chút. Ngoài dải hoa văn trên nóc nhà, người Gia-rai còn thường trang trí bằng cách tạc hình quả bầu, hay hình đôi sừng dài dựng thẳng lên và đỡ một thớt gỗ tròn, hình nồi đồng, ché v.v
Do có sự khác nhau về ngôn ngữ, ở các tộc người khác nhau có những cách gọi khác nhau về nhà rông,. ở mỗi tộc người có một dạng nhà rông khác nhau, cả về hình dáng, cách trang trí… tuy nhiên giá trị của nó vẫn như nhau ở các tộc người. Nhà rông là một biểu tượng văn hóa của cộng đồng các tộc người ở Tây Nguyên. Trong những thành tố làm nên bản sắc văn hóa Tây Nguyên thì nhà Rông chứa một vai trò quan trọng, bên cạnh giá trị vật chất, nó là nơi ẩn chứa những tầng văn hóa tâm linh rất bền vững của cư dân Tây Nguyên.
Nhà mồ cổ Gia rai – Kiến trúc nghệ thuật độc đáo.
Nhà mồ cổ Gia rai – Kiến trúc nghệ thuật độc đáo
TQ-DTV
Lời cúng hồn hòa trong ánh lửa bập bùng soi tỏ những bức tượng nhà mồ độc đáo tạo nên không gian huyền bí cho ngôi nhà mồ của người Gia rai trong ngày lễ bỏ mã. Để rồi, những ngôi nhà ấy trở thành niềm tự hào của người sống và là nơi trú ẩn vĩnh viễn của người chết.
Theo phong tục từ ngàn đời nay, trước lễ bỏ mả vài chục ngày, người Gia-rai vào rừng chọn cây gỗ tốt để dựng nhà mồ. Nhà mồ là sản phẩm kiến trúc độc đáo được xây dưng từ những bàn tay tài hoa, khéo léo của cả cộng đồng. Những người già có nhiều kinh nghiệm thì chịu trách nhiệm trang trí mỹ thuật, còn thanh niên trai tráng thì dựng cột và làm những việc nặng nhọc hơn.
Khi đo đạc làm nhà mồ, người ta không dùng thước mà dùng những đơn vị cơ thể người. Ví dụ: 1 hapa (một sải tay); 1 hlok (1 cánh tay); 1 hagan (1 bàn tay)… Lấy con người làm trung tâm, làm hệ thống đơn vị đo lường đã cho thấy việc coi tầm vóc con người là chuẩn mực, đề cao vẻ đẹp con người đó cũng là một nét độc đáo trong nghệ thuật và kiến trúc dân gian Tây Nguyên. Trong kiến trúc, một trong những nét nghệ thuật là ở chỗ những công trình lớn thường được thiết kế sao cho kiểu dáng nhẹ nhàng thanh thoát, thì các công trình nhỏ lại có dáng dấp hoành tráng đồ sộ. Những ngôi nhà mồ Tây Nguyên chính là những công trình nhỏ mà dáng vẻ lại hoành tráng đồ sộ, mang tầm khái quát cao. (quehuongonline.vn)
Điều đặc biệt là kỹ thuật dựng nhà mồ hoàn toàn thô sơ. Chính điều đó tạo cho nhà mồ một dáng vẻ nguyên sơ mộc mạc với nét đẹp tự nhiên nguyên thủy.
Nhà mồ được dựng theo kết cấu, hai mái lớn (2 mái chính) hình thang cân, 2 mái nhỏ (2 chái) ở hai đầu hồi đều hình tam giác cân, vách được ghép kín bằng những thân cây gỗ dựng sát vào nhau, có 2 cửa nhỏ mở về hướng đông. Thường thì nhà mồ có 8 cột gỗ đỡ bộ mái, tạo thành 2 hàng cột theo chiều dọc nền nhà.
Đeo mặt nạ nhảy múa trong lễ bỏ mả (pơ thi). (ảnh KT)
Kết cấu mái nhà mồ khá đơn giản, gồm một hệ thống các xà đơn và xà ngang, trên đó lợp bằng những tấm gỗ ván dày khoảng 3 cm, cạnh bên có đẽo gờ để lấp chồng khít với nhau. Trên hai mái chính đều lợp một tấm đan bằng nan tre lồ ô với đầy hoa văn trang trí. Hoa văn trên mái nhà mồ được trang trí công phu thường vẽ theo lối dân gian, thường là hình cây rau dớn, cây đót, hoa bát canh, hoa hạt đa, hoa sao, hoa chàm… đặc sắc nhất và nổi bật nhất là”hoa cây đoái”.
Chiếm vị trí trung tâm ở mỗi mái, gồm hình 5 thân cây có cành lá hoa quả và có những con chim bay lượn phía trên; dưới gốc cây có người dùng nỏ bắn chim, phụ nữ đeo gùi, những người uống rượu cần….Trên mái nhà mồ, ngoài các đồ án hoa văn vẽ, cũng có mô típ hoa văn hình quả trám được tạo bởi kỹ thuật đan nam, tất cả như tạo thành một bức tranh lớn, đẹp và hấp dẫn.
Hình ảnh các tượng gỗ là một điều không thể thiếu và tạo nên nét đặc sắc nhất cho các ngôi nhà mồ. Thông thường, quanh mỗi nhà mồ người Gia rai có 27 tượng gỗ nhô lên nối tiếp liền với những cột chính để liên kết với hàng trăm khúc gỗ tròn nhỏ dựng thành hàng rào. Tượng gỗ được gọt đẽo thô sơ, giản lược trong đường nét, hình khối, có tính gợi tả chứ không cặn kẽ chi tiết, song hết sức sinh động, mộc mạc mà chân thực, mang đậm triết lý nhân sinh, cái siêu thực và cái hiện thực đan xen hài hòa. Theo quan niệm của người Gia rai, người chết cũng có cuộc sống như người dương gian. Vì vậy, tập hợp những tượng gỗ xung quanh nhà mồ là hình ảnh diễn tả những người đi theo hầu hạ người chết. Không những thế, nó còn có tác dụng tô điểm, làm cho buổi lễ bỏ mả sinh động hơn.
Những tượng gỗ này có nội dung hết sức phong phú đa dạng, phản ánh đầy đủ và chân thực cuộc sống của người dân tộc Gia-rai. Tượng gỗ thể hiện sự sinh sôi nảy nở của một cuộc sống ở bên kia thế giới. Đó là hình ảnh một cặp nam nữ đang trong tư thế tín giao, hình người đàn bà chửa, hình người ngồi trong tư thế hài nhi, hình người mẹ bồng con… tất cả diến tả một sự kết hợp âm dương để sinh thành nên sự sống. Con người thuở nguyên sơ, phô bày trong dáng khoả thân, minh chứng sức mạnh truyền đời của loài người với những nét đẽo khô ráp nhưng được cường điệu những bộ phận người cần được phô trương, bởi thế đường nét mạnh mẽ, gây ấn tượng rất mạnh, rất khác thường. Với những đường nét thô sơ nhưng được những nghệ nhân chạm khắc tinh tế và có hồn.
Nhà mồ không chỉ là một công trình kiến trúc mang tính tín ngưỡng lâu đời mà còn là một công trình nghệ thuật tổng hợp, gồm nghệ thuật điêu khắc, hội hoạ, kiến trúc và trang trí mỹ thuật độc đáo.
Theo http://dotchuoinon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...