Thứ Tư, 2 tháng 12, 2015

Dân ca dân nhạc Việt Nam - Dân ca Tày

Dân ca dân nhạc Việt Nam - Dân ca Tày
Người Tày là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam, nhóm địa phương: Pa dí, Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao, thuộc hệ ngôn ngữ Thái-Kadai sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi thấp phía Bắc Việt Nam. Người Tày trước đây hay được gọi là ngườiThổ (tuy nhiên tên gọi này hiện nay được dùng để chỉ một dân tộc khác, xem bài người Thổ). Người Tày có dân số đông thứ 2 ở Việt Nam sau dân tộc Kinh, và có quan hệ gần gũi với người Nùng và với người Choang/ Tráng ở Trung Hoa.
Tại Trung Hoa, người Nùng cùng với người Tày được xếp chung vào dân tộc Choang/Tráng.
Người Tráng hay người Choang (Chữ Tráng Chuẩn:Bouxcuengh, /pou˦˨ ɕueŋ˧/; Chữ Nôm Tráng: 佈壯 bính âm:Bùzhuàng; Chữ Hán giản thể: 壮族, phồn thể: 壯族, bính âm:Zhuàngzú; Chữ Thái: ผู้จ้วง, (Phu Chuang) là một nhóm dân tộc sống chủ yếu ở khu tự trị Quảng Tây phía nam Trung Hoa. Ngoài ra một số sống ở các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quý Châu và Hồ Nam. Họ được xếp vào một trong số 55 dân tộc thiểu số được Trung Hoa chính thức công nhận. NgườiChoang/Tráng hiện nay là dân tộc thiểu số lớn nhất Trung Hoa.
Các ghi nhận lịch sử sớm nhất về người Tráng được khám phá cho đến nay là Bích họa Hoa Sơn (花山壁画), có từ thời chiến quốc (475–221 TCN).
Có rất ít các ghi chép tiếng Hán trước khi người Hán xâm nhập vào khu vực người Tráng, sự ám chỉ đơn giản đến vùng đất phía nam sông Trường Giang là “Bách Việt” (百越). Những cuộc xâm lấn phương nam của Tần Thủy Hoàng được trình bày trong sử ký của Tư Mã Thiên. Cuộc tấn công lúc đầu vào vùng Lĩnh Nam đã tỏ ra thảm bại, với sự thất bại của tướng Đồ Thư trong trận đánh năm 218 TCN, nhưng công binh của ông, Sử Lộc đã hoàn thành việc xây dựng kênh Linh nối liền hai con sông Tương Giang và Ly Giang. Năm 214, Triệu Đà và Nhâm Ngao quay trở lại và bình định tộc người Tây Âu, khai phá Quảng Tây và phía nam với sự nhập cư của hàng trăm nghìn người Hán.
Một thập kỷ sau sự sụp đổ của Nhà Tần, Triệu Đà sử dụng vị trí của mình với tư cách là Quận úy Quận Nam Hải, lập nước Nam Việt và đặt thủ đô ở Phiên Ngung. Với giải pháp quy thuận và độc lập khỏi sự kiểm soát của Nhà Hán, vương quốc này đã mở rộng sự thực dân và Hán hóa bằng chính sách “Hòa hợp Bách Việt” (和集百越) cho đến năm 211 TCN nhưng không được sự ủng hộ của người Tráng.
Bản đồ phân bố tỷ lệ phần trăm người Tráng tại Quảng Tây, 
châu tự trị Tráng-Miêu Văn Sơn (Vân Nam) và huyện tự trị Tráng
Dao Liên Sơn (Quảng Đông).
Nhà Hán đã giảm bớt quyền lực địa phương và lập các căn cứ quân sự ở Quế Lâm, Ngô Châu, và Ngọc Lâm. Cuộc nổi dậy ở Giao Chỉ do Hai Bà Trưng lãnh đạo bị tướng Mã Viện đàn áp năm 42, Mã Viện được ghi nhận với tư cách giúp bình định những vùng này bằng việc cải thiện hệ thống tưới tiêu và nhiều điều luật Hán. Cuộc di cư của Người Dao từ vùng gần Trường Sa, Hồ Nam tới Quảng Tây ngày nay đã làm đảo lộn khu vực này.
Dưới thời Đường, người Tráng chuyển sang ủng hộ vương quốc Thái là Nam Chiếu ở Vân Nam, nước này đã đẩy lui hai cuộc tấn công của quân Đường năm 751 và 754. Quảng Tây khi ấy được chia thành hai vùng: một là vùng thuộc thế lực của người Tráng phía tây Nam Ninh và một là vùng thế lực của người Hán phía đông Nam Ninh.
Sau khi Nam Chiếu sụp đổ, Lưu Nghiễm thành lập nước Nam Hán. Nước này hầu như không thể kiểm soát được người Tráng, sau đó Nam Hán bị Tống đánh chiếm và sát nhập năm 971.
Bị quấy rối bởi cả Tống lẫn Đại Cồ Việt, lãnh đạo Tráng tộc là Nông (Nùng) Trí Cao (智高) đã chỉ huy cuộc nổi dậy năm 1052, vì điều đó mà ông vẫn được người Tráng tưởng nhớ. Họ Nông được ghi chép lại trong Tống Sử là giàu có về vàng, đông đúc về dân số “để tóc dài, cài áo sang phía trái. Chúng thích chiến đấu và xem nhẹ cái chết”. Quân Nông càn quét sang phía tây, chiếm Nam Ninh, bao vây Quảng Châu 57 ngày, và giết các chỉ huy của năm đội quân Trung Hoa được cử đi đánh họ. Cuối cùng họ bị đánh bại và nhiều thủ lĩnh bị giết. Các dòng họ không tham gia vào cuộc nổi dậy tham vọng này trở thành mục tiêu đồng hóa của Trung Hoa. Một số tàn quân nổi dậy tẩu tán về quê cũ nơi họ bắt đầu cuộc khởi nghĩa. Một số khác lẩn sâu vào vùng đồi núi. Các bộ tộc mang họ Nông và tự nhận là con cháu của quân nổi dậy định cư quanh vùng biên giới giữa Việt Nam-Quảng Tây-Vân Nam. Một bộ phận khác vẫn mang họ Nông và ghi nhớ cuộc nổi dậy qua các câu chuyện truyền miệng sinh sống ở Sipsongpanna, Lanna (miền bắc Thái Lan), và Dehong.
Người Tráng ở Trung Hoa cũng chính là người Tày và ngườiNùng ở Việt Nam.
Bản đồ phân bố ngữ hệ Tai-Kadai: ‘Vàng’ Tai Bắc
Tráng Bắc cộng Bố Y – ‘Đỏ’ Tai Trung Tâm
Tráng Nam – ‘Cam’ Tai Tây Nam + Các ngôn ngữ Thái
Nùng Trí Cao tức Nông Trí Cao, thủ lĩnh người Nùng ở châu Quảng Uyên xưa thời Lý nay là Cao Bằng, là người lập ra nước Nam Thiên Quốc sau đổi là Nam Việt rồi bị nhà Tống diệt. Lo sợ bị nhà Tống trả thù, nhiều người Nùng chạy sang Ðại Việt lánh nạn và định cư luôn tại miền thượng du các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Người Kinh gọi các nhóm này là người Thổ (người địa phương), trong khi họ tự nhận là người Thái. Với thời gian, các nhóm này đổi tên thành người Thày (đọc trại từ chữ Thái) rồi Tày để phân biệt với các nhóm người Thái đã có mặt từ trước và cũng để phân biệt với người Nùng, cùng hệ ngôn ngữ, còn sinh trú ở Quảng Tây và Quảng Ðông. Từ thế kỷ 13, các nhóm Nùng không chịu nổi chính sách phân biệt đối xử của nhà Nguyên (Mông Cổ), sau đó là nhà Minh (Hán) và nhà Thanh (Mãn Châu), đã từng đợt di cư vào Việt Nam, hội nhập với các nhóm Tày và Thái cùng hệ ngôn ngữ đã có mặt từ trước, họ vẫn giữ tên gọi riêng là Nùng.
Trong thực tế, các nhóm Tày, Nùng và Thái tại Việt Nam chỉ khác nhau chút ít về cách ăn mặc và cách xây dựng nhà cửa, về văn hóa thì hoàn toàn giống nhau. Cộng đồng người Tày, Nùng hay Thái được các triều đình Việt Nam dành cho qui chế tự trị để tranh thủ sự ủng hộ, chính sách này có tên “kềm cương phụ đạo”, nghĩa là tranh thủ cảm tình các vị thủ lãnh vì những người này có uy tín lớn trong cộng đồng của họ.
Ảnh vẽ Nùng Trí Cao.
Nùng Trí Cao (chữ Hán: 儂智高; chữ Tráng: Nungz Cigaoh, 1025-1055) là thủ lĩnh địa phương ở Cao Bằng, lãnh đạo một phong trào tự trị của người Tày-Nùng ở vùng biên cương giữa Đại Việt và nhà Tống giữa thế kỷ 11, thời vua Lý Thái Tông và Tống Nhân Tông.
Nùng Trí Cao là người Tráng ở châu Quảng Nguyên (ngày nay là tỉnh Cao Bằng), và là con của thủ lĩnh địa phương Nùng Tồn Phúc và bà A Nùng.
Năm 1038, Nùng Tồn Phúc nổi dậy ở phía bắc nước Đại Việt, tự xưng là Chiêu Thành hoàng đế, đặt quốc hiệu là Trường Sinh quốc rồi đem quân đi đánh phá các nơi.
Tháng 2 năm 1039, vua Lý Thái Tông thân chinh đi đánh Phúc. Phúc đốt sào huyệt rồi cùng vợ con chạy vào núi trốn. Vua cho quân đuổi theo, bắt được Phúc và con là Thông đem về Thăng Long, rồi sai quân san phẳng thành hào, chiêu dụ tộc loại còn sống sót, vỗ về yên ủi rồi rút quân.
Tháng 3 năm 1039, vua chém Phúc và Thông ngoài chợ. Vợ Phúc là A Nùng cùng Nùng Trí Cao tập hợp lực lượng để trả thủ.
Năm 1041, Nùng Trí Cao cùng mẹ là A Nùng tập hợp lực lượng trở về lấy châu Thảng Do (gần châu Quảng Nguyên) lập ra một nước gọi là nước Đại Lịch (大曆). Lý Thái Tông sai tướng lên đánh, bắt được đem về Thăng Long. Nhưng vua nghĩ trước đã giết cha và anh, nay thương tình không giết, tha cho về và lại phong cho làm Quảng Nguyên mục. Sau đó Nùng Trí Cao vào triều yết kiến, được vua Thái Tông gia phong cho tước Thái bảo.
Năm 1048, Trí Cao lại nổi dậy, chiếm giữ động Vật Ác (phía tây Cao Bằng). Lý Thái Tông sai Quách Thịnh Dật đi đánh, Trí Cao lại đầu hàng. Tuy nhiên, theo giai thoại của người Tày – Thái địa phương, khi quân Lý tới nơi, ông nói với Quách Thịnh Dật đừng tiến quân, ông sẽ không gây hấn với nhà Lý nữa mà sẽ tiến sang phương Bắc.
Năm 1052, Nùng Trí Cao lại nổi dậy lần nữa, tự xưng là Nhân Huệ hoàng đế (仁惠皇帝), đặt quốc hiệu là Đại Nam. Để tăng thêm thanh thế, ông xin phụ thuộc vàoTrung Quốc, hoàng đế Nhân Tông nhà Tống không cho. Trí Cao bèn đem quân sang đánh Trung Quốc. Được sự hậu thuẫn của các thủ lĩnh người Thái – Tày ở Quảng Tây là Nùng Trí Trung, Nùng Kiến Hậu, thanh thế Trí Cao càng thêm lớn mạnh. Ông đánh lấy Ung châu, rồi sau đó chiếm cả thảy được 8 châu ở đất Quảng Đông và Quảng Tây, bao gồm: Hoành châu, Quý châu, Cung châu, Tầm châu, Đằng châu, Ngô châu, Khang châu, Đoan châu.
Ảnh vẽ Vua Tống Nhân Tông (Renzong).
Nhà Tống lo sợ. Lý Thái Tông dâng biểu sang Trung Quốc xin mang quân phối hợp đánh Nùng Trí Cao. Khi quân Đại Cồ Việt sắp vào biên giới, tướng nhà Tống là Địch Thanh (狄青) can Tống Nhân Tông rằng: “Có một Nùng Trí Cao mà đất Lưỡng Quảng không khống chế được, lại phải nhờ quân ngoại quốc vào đánh giúp. Nếu có ai nhân đó mà nổi loạn, thì làm thế nào?” Vua Tống nghe lời bèn sai các tướng Dư Tĩnh và Tôn Miện đi đánh Nùng Trí Cao và sai sứ nói với Lý Thái Tông rằng không cần quân Lý giúp. Dư Tĩnh đánh mãi không được, nhà Tống lấy làm lo.
Nhân khi Trí Cao dâng biểu xin lĩnh chức Tiết độ sứ Ung châu và Quý châu, vua nhà Tống đã toan thuận cho, Địch Thanh lại can không nên chấp thuận và xin đem quân đi đánh.
Đầu năm 1053, Địch Thanh ra hợp quân với Dư Tĩnh và Tôn Miện đóng ở Tân châu (Liễu châu tỉnh Quảng Tây) rồi hội các tướng lại cấm không cho ra đánh nhau với Trí Cao. Bấy giờ có quan Kiềm hạt tỉnh Quảng Tây là Trần Thự trái tướng lệnh đem quân đi đánh bị thua, Địch Thanh đem chém đi, rồi lệnh cho quân nghỉ 10 ngày. Quân đi thám biết chuyện về báo Trí Cao biết. Trí Cao tưởng là quân nhà Tống không dám đánh, bèn không phòng giữ. Địch Thanh đem quân đến cửa Côn Lôn (gần phủ Nam Ninh) đánh Nùng Trí Cao. Lúc đang đánh nhau, Địch Thanh đem quân kỵ đánh hai bên tả hữu áp lại, quân của Trí Cao tan vỡ, tướng dưới quyền là Hoàng Sư Mật 57 người tử trận[1]. Quân Tống đuổi theo giết hơn 2.200 quân của Trí Cao. Ông đốt thành bỏ chạy.
Tháng 10 năm 1053, Trí Cao sai thủ hạ là Lương Châu đến cầu cứu Đại Cồ Việt. Lý Thái Tông sai chỉ huy sứ Vũ Nhị đi tiếp ứng cho Trí Cao. Nhưng quân Lý chưa tới nơi thì Trí Cao lại bị Địch Thanh đánh bại, phải chạy trốn sang nước Đại Lý. Quân Lý rút về.
Năm 1055, thời vua Lý Thánh Tông ở Đại Việt, đô giám nhà Tống là Tiêu Chú lại theo đường Đặc Ma (Vân Nam) đánh úp, bắt được mẹ Trí Cao là A Nùng, em Trí Cao là Trí Quang, con là Kế Phong. Quân Tống lại mộ những người cảm tử vào đất Đại Lý để lùng tìm Trí Cao.
Quân cảm tử chưa tới thì người nước Đại Lý ngại gây hấn với nhà Tống đã bắt Nùng Trí Cao chém chết, mang đầu đem nộp nhà Tống. Nhà Tống giết luôn gia quyến của Trí Cao.
Hiện nay còn di tích thành Nà Lữ, nơi ông đóng quân, ở gần thị xã Cao Bằng. Đền Khâu Sầm (Kỳ Sầm) đại vương thờ Nùng Trí Cao vẫn còn ở Cao Bằng, lễ hội đền Khâu Sầm vẫn được tổ chức hằng năm vào ngày 10 tháng giêng.
Tượng vua Lý Thái Tông.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Tày ở Việt Nam có dân số 1.626.392 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 2 tại Việt Nam, có mặt trên tất cả 63 tỉnh, thành phố. Người Tày cư trú tập trung tại các tỉnh:
Lạng Sơn (259.532 người, chiếm 35,4% dân số toàn tỉnh và 31,5% tổng số người Tày tại Việt Nam)
Cao Bằng (207.805 người, chiếm 41,0% dân số toàn tỉnh và 25,2% tổng số người Tày tại Việt Nam)
Tuyên Quang (185.464 người, chiếm 25,6% dân số toàn tỉnh và 22,5% tổng số người Tày tại Việt Nam)
Hà Giang (168.719 người, chiếm 23,3% dân số toàn tỉnh và 20,5% tổng số người Tày tại Việt Nam)
Bắc Kạn (155.510 người, chiếm 52,9% dân số toàn tỉnh và 18,9% tổng số người Tày tại Việt Nam)
Yên Bái (135.314 người, chiếm 18,3% dân số toàn tỉnh và 16,4% tổng số người Tày tại Việt Nam)
Thái Nguyên (123.197 người, chiếm 11,0% dân số toàn tỉnh và 15,0% tổng số người Tày tại Việt Nam)
Lào Cai (94.243 người)
Đắk Lắk (51.285 người)
Tộc Tày có một nền nông nghiệp cổ truyền khá phát triển với đủ loại cây trồng như lúa, ngô, khoai… và rau quả mùa nào thức đó. Người Tày có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Ngoài lúa nước, người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả… Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý.
Tộc Tày còn có nghề thủ công khá phong phú, họ đan các đồ dùng bằng cót, bồ, sọt, rổ… nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Nhiều vùng tự nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa nên họ tự túc được các loại vải để may váy áo, khăn… Một số nghề phụ như làm gạch, nghề rèn hay nghề chưng cất dầu hồi để ăn và thắp đã có truyền thống từ lâu đời.
Thí sinh Nông Thu Hà, tộc Tày, trong một kỳ thi Hoa Hậu Dân Tộc.
Tộc Tày thờ tổ tiên và bái vật giáo. Bàn thờ tổ tiên của người Tày đặt chính giữa nhà và làm thành một không gian riêng và được cung kính hết mực. Khách và phụ nữ trong nhà chửa đẻ không được phép ngồi hay nằm trên ghế, giường trước bàn thờ. Trong tôn giáo của người Tày, ngày tảo mộ ngày lễ quan trọng nhất của người Tày thường là những ngày cuối tháng chạp âm lịch. Người Tày theo âm lịch.
Hàng năm họ có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.
Chữ nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng… Chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80 được dùng trong các trường phổ thông cấp I vùng có người Tày, Nùng cư trú.
Nhạc cụ Lúc lắc của tộc Tày.
Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc và thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.
Nam nữ tộc Tày được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và “số mệnh” của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.
Tộc Tày khi có tang ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.
Phụ nữ Tày và Đàn Tính.
Tộc Tày có nhiều làn điệu dân ca như Lượn, Phong slư, Phuối pác, Phuối rọi, Vén eng… Lượn gồm: Lượn cọi, Lượn slương, Lượn then, Lượn nàng ới… là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Họ ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo.
Hát Then, Hát Lượn, Hát sli là các thể loại nổi tiếng được dùng vào các mục đính sinh hoạt khác nhau. Bộ nhạc cụ đặc thù có Đàn Tính, Lúc Lắc. Đàn Tính là loại nhạc cụ có mặt trong tất cả những sinh hoạt văn hoá tinh thần của người Tày, như linh hồn trong nghệ thuật dân ca dân vũ Tày. Bao đời nay đàn tính có vai trò như một phương tiện giao tiếp mang đậm bản sắc.
Bài dân ca Ru Con của tộc Tày do NS Nguyễn Đình Nghĩa ký âm:
RU CON
Hỡi ru à hời!
Ngủ yên giấc con nhé!
Chờ khi tối mẹ về,
mẹ vào ruộng hái dưa
Bố vào ruộng lấy cá
Vun nương rẫy trồng cà
bắt cào cào ăn lúa
Con mẹ vui đùa
Quạ kêu đỉnh núi,
Mẹ hát ru à hời.

NS Nguyễn Đình Nghĩa ký âm.
Dưới đây mình có các bài:
– Hát Then – món ăn tinh thần của người Tày, Tuyên Quang
– Dậm Thuông – điệu nhảy kì ảo của dân tộc Tày
– Nhạc Cụ Trong Múa Then Của Dân Tộc Tày
– Đàn Tính – nhạc cụ độc đáo của người Tày
– Lễ hội Cầu Trăng của tộc người Tày, Hà Giang
– Độc đáo Tết của dân tộc Tày, Hà Giang
– Lễ khao tổ của người Tày, Lạng Sơn
– Tết lúa mới ở bản Tày, Cao Bằng
– Lễ trấn trạch của người Tày ở Bắc Kạn
– Lễ mừng thọ – nét đẹp trong văn hóa của người Tày ở Cao Bằng
– Đôi nét về Chữ Nôm của dân tộc Tày, Bắc Kạn
– Bảo tồn chữ Nôm của dân tộc Tày tỉnh Bắc Kạn
– Độc đáo kiến trúc cổ nhà sàn đá của người Tày, Cao Bằng
– Trang phục dân tộc Tày
– Chàng Cụt (Truyện cổ tích dân tộc Tày)
Cùng với 19 clips tổng thể văn hóa tộc Tày/ Tráng/Choang (Zhuang) để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
(Theo Wikipedia & DTV & VOV)
Bài ca “Cùng Trái Tim”
Chặp Căn Vằn Hội (Hội xuân gặp em)
Nét đẹp văn hóa của người Tày
Trên Những Đường Tơ – Đàn tính 8 dây
Lễ hội Quảng Uyên – Tày, Nùng
Thăm bản người Tày – nghe điệu hát then
Các làn điệu dân ca Tày vùng hồ Ba Bể
Hát-Múa Dậm Thuông (dân tộc Tày):
Múa Dậm Thuông – dân tộc Tày
Múa Đàn Tính – Dân Tộc Tày
Múa chầu – Dân tộc Tày
Dân ca Choang (Zhuang)
Hát Then, Tày- Choang (Zhuang), 
Quảng Tây, Trung Hoa
Hát Then, Tày- Choang (Zhuang), 
Quảng Tây, Trung Hoa
Múa truyền thống dân tộc Choang (Zhuang)
Múa dân tộc Choang (Zhuang)
Zhuang Children Song Zhuang’s Five Colors Rice
Lễ cấp sắc của người Tày-Nùng
Tết Thanh Minh Của Người Tày-Nùng
Theo http://dotchuoinon.com/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...