Đường vô “xứ Huế” loanh quanh…
Ngày nay, với sự rộ nở của Huế học, việc tìm tòi các luận chứng
cho các nhận định về bản sắc của địa phương là điều rất cần thiết. Bên cạnh đó,
sự đào xới văn hóa nghệ thuật, tìm ra những khía cạnh nhỏ để lý giải thêm cho
những hiện tượng, cũng là việc rất cần... Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ tài hoa của
dân tộc, là một nghệ sĩ điển hình cho nhiều nhận định mà mấy chục năm trở lại
đây đang được phân tích và khảo cứu...
Sinh trưởng ở Huế, và hồn Huế đã hun đúc cho tâm hồn của anh.
Nhưng, ngoại trừ bài “Huế - Sài Gòn - Hà Nội” là có nhắc đến chữ “Huế”, trong
âm nhạc của anh chưa bao giờ nhắc đến các địa danh ở Huế, mặc dù hình ảnh Huế vẫn
man mác, bàng bạc trong các bài hát...
Cho nên, giáo sư Cao Huy Thuần nhận xét: “Cảnh, tình và
người trong Trịnh Công Sơn là cảnh Huế, tình Huế, người Huế... Sau này Sơn rời
Huế và Sài Gòn, chất thơ trong nhạc của Trịnh Công Sơn vẫn là chất Huế, nguồn
thơ vẫn chảy từ Huế. Vô số những bài hát của Sơn đều ướt và mưa. Vì Huế là xứ của
mưa dầm. Mưa mùa đông, mưa mùa hè, mưa sợi nhỏ, mưa sợi to, mưa tỉ tê, mưa ray
rứt, cảnh mưa trong Trịnh Công Sơn buồn nhưng rất đẹp...”.
Ở đây, tôi không nhắc lại các nhận định mà các nhà phê bình
âm nhạc Trịnh Công Sơn đã nói, mà qua sự phân tích ca từ, chỉ muốn giới thiệu một
số yếu tố cấu thành “chất Huế” trong nhạc Trịnh...
1. SINH THÁI NHÂN VĂN:
“Diễm xưa”, một tình khúc nổi tiếng của nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn, mà phần lớn người Huế đều yêu thích; cũng được người Nhật yêu thích, chuyển
ngữ với tựa đề “Utsukushii Mukashi”, rồi lại được Đại học Kansai Gakuin chọn
làm nhạc phẩm đưa vào chương trình giảng dạy trong bộ môn Văn hóa và âm nhạc; bắt
đầu bằng những ca từ:
“Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ,
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao, Nghe lá thu mưa, reo mòn gót nhỏ, Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu...” |
Trong ký ức “Diễm của những ngày xưa”, Trịnh Công Sơn kể
lại: “Thuở ấy có một người con gái rất mong manh, đi qua những hàng cây
long não lá li ti xanh mướt để đến trường Đại học Văn khoa ở Huế. Nhiều ngày,
nhiều tháng của thuở ấy, người con gái ấy vẫn đi, đi qua dưới những vòm cây
long não. Có rất nhiều mùa nắng và mùa mưa cũng theo qua... Mùa mưa Huế, người
con gái ấy đi qua nhoà nhạt trong mưa giữa hai hàng cây long não mờ mịt…”.
Để giải thích hiện tượng một tâm hồn “buổi chiều ngồi
ngóng, những chuyến mưa qua”, rồi thắc mắc “chiều nay còn mưa, sao em
không lại?”, có thể hiểu tương tự như cơ chế hình thành phản xạ có điều kiện của
Pavlov trong y học. Đó là sự lặp đi lặp lại của một sự việc (những “buổi chiều...
em... lại”) trong một điều kiện tự nhiên nhất định (“những chuyến mưa qua”), tạo
nên một phản xạ có điều kiện trong... tâm thức. Và khi điều kiện tự nhiên ấy xảy
ra (“chiều nay còn mưa”), lập tức có phản xạ liên đới là “ngồi ngóng” hiện tượng
kèm theo (“em... lại”), nhưng nếu hiện tượng kèm theo không có, sẽ gây trong
tâm tư một thắc mắc “sao em không lại”?!
Nói về sinh thái học nhân văn, giáo sư Trần Quốc Vượng bảo rằng
văn hóa - nhân văn Huế đã “dựa theo và thích nghi với hệ sinh thái tự nhiên”.
Phần lớn diện tích của Thừa Thiên - Huế có địa hình đồi núi tạo
thành một vòng cung từ phía Tây xuống phía Nam. Các dãy núi cao của Trường Sơn
Bắc ăn lan ra sát biển và đột ngột chấm dứt ở phía Nam của tỉnh bằng một mạch
núi cao lên đến trên 1000m đâm thẳng ra biển và kết thúc bằng hòn Sơn Trà ở
phía Đông núi Hải Vân như một bức tượng thành đồ sộ chắn gió mùa Đông Bắc, nên
các đợt gió mùa hầu như không còn đủ sức vượt qua dãy núi cao này.
Do vậy, bao nhiêu lượng hơi nước trong không khí của gió mùa
đều tích đọng ở Huế gây nên mưa và rét, và đây là vùng có lượng mưa vào loại
nhiều nhất nước ta. Đặc biệt mưa Huế là loại mưa lệch pha: ở hai miền Bắc Nam
thì có hai mùa mưa và khô gần như trùng nhau trong hai nửa thời gian của năm với
hai mốc khoảng tháng 4 và tháng 10 dương lịch, còn ở Huế mùa mưa lại trùng với
mùa đông lạnh.
Vào nhũng lúc thời tiết đông lạnh mưa như vậy, người Huế ít
ra khỏi nhà, thường nhìn mưa mà hồi ức với những kỷ niệm xưa... Từ đó hình
thành nên một trong những nét của phong cách người Huế là thường trầm tư mặc tưởng,
sống hướng nội hơn hướng ngoại, thích sâu lắng, không thích khoa trương ồn ào…
...Kiểu mưa Huế ấy, đã được mô tả rất đặc sắc: “Trời còn
làm mưa, mưa rơi mênh mang/ thênh thang...”, hoặc “mưa kéo dài lê thê những
đêm khuya lạnh ướt mi”, hoặc:
“Chiều chủ nhật buồn,
Nằm trong căn gác đìu hiu, Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều, Trời mưa trời mưa không dứt, Ô hay mình vẫn cô liêu...” |
Và so sánh với mưa các xứ khác, nhạc sĩ đã cho thấy rõ:
“Em còn nhớ hay em đã quên,
Nhớ Sài Gòn mưa rồi chợt nắng…” |
Trịnh Công Sơn tâm sự: “…Thường thường, con người có
thói quen sống bằng kỷ niêm, và khi một tác phẩm được gắn liền với kỷ niệm thì
tác phẩm ấy đã sẵn có bề dày cua sự ưu ái rồi!”.
Hãy theo dõi tiến trình xao xuyến của nhạc sĩ về kỷ niệm “yêu
nhau yêu cả đường đi" trong không gian mưa... Với sự tả thực, khi thì “nghe
lá thu mưa, reo mòn gót nhỏ...”, khi thì “mưa thì thầm, dưới chân ngà...”;
nhưng khi những hình ảnh ấy chỉ còn là ký ức thì nhạc sĩ lại ray rứt “…trên
bước chân em, âm thầm lá đổ…”. Cho nên, phản xạ Pavlov “…bước chân em xin
về mau…” vẫn tiếp diễn mãi như hiệu ứng domino:
“Người ngồi xuống, mây ngang đầu,
Mong em qua, bao nhiêu chiều...” |
Một lối tu từ được nhạc sĩ sử dụng để ẩn dụ “còn mưa xuống
như hôm nào, em đến thăm...”, mà “người ngồi đó, trong mưa nguồn, ôi yêu
thương, nghe đã buồn...”, thì tính chất cơn mưa lại là một đối trọng được đặt
ra để so sánh:
“Mưa có buồn bằng đôi mắt em?...
Mưa có còn buồn trong mắt trong?” |
Là người Huế, các điệu hò mái nhì, mái đẩy man mác nước sông
Hương chính là một biểu hiện rõ nét tính cách sâu lắng trong tâm hồn; cho nên
những tiếng rơi của cơn mưa lại được ẩn dụ qua điệu ru “thôi ngủ đi em,
mưa ru em ngủ…” là điều rất kỳ lạ:
“Trời còn làm mưa, mưa rơi mênh mang...
Lời ru miệt mài, ngàn năm ngàn năm, Ru em nồng nàn, ru em nồng nàn...” |
Đó là những cơn mưa thực thể, nhưng ở nhạc sĩ họ Trịnh lại
còn có những cơn mưa trong tâm thức:
“Nghe mưa nơi này, lại nhớ mưa xa,
Mưa bay trong ta, bay từng hạt nhỏ…” |
Hoặc:
“Đôi khi, trên mái tình ta, nghe những giọt mưa,
Tình réo tình âm thầm, sầu réo sầu, bên bờ vực sâu...” |
Giải thích ý nghĩa tác phẩm của mình, Trịnh Công Sơn nói: “Âm
nhạc của tôi, nói cho cùng chỉ là những kỷ niệm của tôi và rồi sẽ là kỷ niệm của
người nghe...”. Và cuối cùng, nhạc sĩ bộc bạch, cho dù suối nguồn tạo cảm
hứng trong tình ca của mình xuất phát như thế nào, vẫn không thể thiếu được một
điều kiện tự nhiên:
“Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ,
Ôi! những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề... là những cơn mưa…” |
Và đó chỉ là một tiền đề, một tiền đề để người nghệ sĩ ước
mong được tiếp tục cuộc hành trình của mình:
“Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng,
Để người phiêu lãng, quên mình lãng du...” |
2. MỘT LOẠI HÌNH ẢNH BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT:
Bớ cô tóc xõa kề bề,
Cô mặc áo trắng, tóc thề ngang vai.
(ca dao Huế)
|
Nghe nhạc Trịnh, ta vẫn thường gặp hình ảnh mái tóc của những
cô gái Huế: “Tuổi nào lang thang thành phố tóc mây cài...” hoặc “gió
heo may đã về, chiều tím loang vỉa hè, và gió hôn tóc thề...”. Đây chắc chắn là
hình ảnh Huế, bởi hai chữ “tóc thề” là tiếng Huế, song vì sao gọi là “tóc thề”
(?) thì đến nay vẫn chưa ai giải thích được rõ ràng!
Bác sĩ Bùi Minh Đức, một người Huế hiện ở California, chuyên
nghiên cứu Văn hóa Huế và đã xuất bản Từ điển tiếng Huế, chỉ giải thích như
sau: “Tóc thề: ngụ ý con gái Huế còn thơ ngây, tóc để xõa bờ vai...”.
Trịnh Công Sơn nói rằng: “Ca khúc đối với tôi là một mô
hình gần gũi, thiết thân và hoàn chỉnh. Nó là một cuộc hôn phối kỳ diệu giữa
thi ca và âm nhạc... Ca khúc là nỗi lòng của một con người trong cuộc sống. Cuộc
tình giữa âm nhạc và văn học này đã khiến ca khúc tự nó có thể chạm đến mọi bờ
cõi tri thức của đời sống con người…”.
Để giải thích vì sao “Thương một người”, nhạc sĩ hát “thương
nụ cười và mái tóc buông lơi”, có thể đã ẩn dụ hình ảnh:
Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên, Ba thương má lúm đồng tiền... |
Rồi hình ảnh đáng yêu “mây và tóc em bay trong chiều gió
lộng...” đã biểu hiện “Tuổi đời mênh mông” như thuyền chưa cập bến,
bởi vì…
Người ta nói rằng, con gái Huế ngày xưa thường để tóc dài tự
nhiên, khi có một biến cố gì về tinh thần, thường làm chứng lời thề của mình bằng
sự cắt tóc, do đó mới gọi là “tóc thề”. Nhưng khi dã đính hôn, người con gái phải
kẹp tóc lại, ra đường người ta nhìn vào tóc đã kẹp, biểu hiện đã đính hôn nên
không còn nhòm ngó; và khi đã lấy chồng hoặc lớn tuổi thì thường bối tóc, cuộn
thành lọn ở phía sau. Do đó ca dao Huế mới có câu:
Ghét thay con gái Phong Chương,
Đầu thì tóc kẹp, ra đường ghẹo trai. |
Ý nghĩa câu này ở chỗ con gái đã kẹp tóc, tức cũng như đã có
chồng, mà còn “ra đường ghẹo trai”, tức vi phạm tiết hạnh, cho nên người ta mới
ghét thay!
Có những khi “ru em đầu con gió, em hong tóc bên hồ…” hoặc “gió
heo may đã về… và gió hôn tóc thề” thì hình ảnh “tóc em gầy trong
gió” đã tạo siêu cảm cho họ Trịnh là ở chỗ “gió sẽ mừng vì tóc em
bay...”. Tóc đã bay, tức là chưa kẹp, chưa lấy chồng, nhờ đó những tâm hồn lãng
mạn đa tình như chúng ta mới có thể trao yêu bằng cách “gọi nắng cho tóc
em cài loài hoa nắng rơi...” hoặc “đóa hoa hồng cài lên tóc mây...”.
Và hình tượng “cho mây hờn ngủ quên trên vai”, cũng tựa
hình ảnh của Nguyễn Du “mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da...”; cho nên phải “gọi
em cho nắng chết trên sông dài”, bởi “sông dài” ở đây chính là hình ảnh
tóc thề “sợi tóc em bồng, trôi nhanh trôi nhanh như dòng nước hiền…”.
Và lại có khi nhạc sĩ phải thốt lên “Ôi, tóc em dài đêm
thần thoại...”, để rồi họa sĩ đã phác chân dung “tay măng trôi trên vùng
tóc dài...” như bức tranh “Thiếu nữ bên hoa huệ” nổi tiếng của Tô Ngọc
Vân.
Nhưng sau khi “bàn tay đưa anh đến quê hương vàng son,
vào trời lãng quên, tóc em như trời, xưa đã qua đi ngàn năm...”, cũng có lúc nhạc
sĩ phải “lùa nắng cho buồn vào tóc em...” và “ru mãi ngàn năm, dòng
tóc em buồn...”, bởi ca dao Huế lại có câu:
Tóc mai sợi ngắn sợi dài,
Lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm! |
Phụ nữ kẹp tóc hoặc bối tóc là biểu hiện đã có gia đình,
nhưng tóc mai thì sợi ngắn sợi dài nên không thể bị kẹp hoặc bối vào lọn tóc được,
nó thoát khỏi vòng cương tỏa của cái kẹp hoặc cục bối; hàm ý người phụ nữ vì vô
duyên không lấy được người yêu, phải lấy người không yêu, dù phải theo luân lý
“xuất giá tòng phu”, nhưng không gì có thể ngăn cấm được trong thâm tâm cứ
thương hoài ngàn năm...
Vì “từ lúc đưa em về, là biết xa nghìn trùng...” nên
nhạc sĩ họ Trịnh đã tự “Ru ta ngậm ngùi” bằng một câu hỏi “có sợi
tóc nào bay (?) trong trí nhớ nho nhoi...”, hoặc “tóc nào hãy còn xanh,
cho ta chút hồn nhiên...”. Người yêu đã ra đi nhưng trong lòng người nghệ sĩ
thì “đôi khi nhớ trong tóc em mùi cây trái thơm tho...” nên “ru
mãi ngàn năm… ru em bạc lòng…”, nhưng trực tiếp với người yêu thì lại ru cách
khác: “- Em hãy ngủ đi!”, “ngủ đi em tóc gió thôi bay...”, tóc đã kẹp thì
nên gió thôi bay, nên quên đi kẻo... khổ tâm thương hoài ngàn năm...
Tóc thề xứ Huế, đã được Trịnh Công Sơn ví von bằng nhiều hình
ảnh như “mây”, “sông dài”, “dòng nước hiền”, “mùa xanh lá, loài sâu ngủ
quên trong tóc chiều”... bởi chính họ Trịnh đã nói: “... Có những
cách nhìn và lòng đam mê không giống nhau. Và làm sao có thể giống nhau được
khi bản chất của nghệ thuật là một đòi hỏi miên man cái muôn hình vạn trạng...”.
Song hình ảnh đẹp nhất, lãng mạn nhất về tóc thề, được tác giả mô tả như quay lại
một đoạn phim chậm là“tóc em từng sợi nhỏ, rớt xuống đời làm sóng lênh đênh…”
3. NGÔN NGỮ CỦA SẮC MÀU
Không biết từ lúc nào? do đâu? và vì sao? mà người ta hay nói
màu tím là màu đặc trưng của Huế! Có phải tím thành cổ? hay là tím chiều mơ?...
bởi không ai có thể định nghĩa được, cũng như tính được chuẩn độ của màu “tím
Huế” trong phổ hệ màu là như thế nào!
Cố họa sĩ Phạm Đăng Trí cho biết: “Đối với màu tím, phụ nữ Huế
quan niệm đó là một sắc trang nhã. Trông không buồn mà chỉ như mỉm cười. Không
quá nồng nàn như bông lài mà thoang thoảng như hương lan thanh đạm và tế nhị.
Vì vậy, đàn bà con gái thường mặc màu tím... Và nữ sinh thường chọn màu này để
làm đồng phục… Tím là sắc lạnh, là sắc thuộc âm, nằm dưới cùng trong quang phổ,
phát ra bước sóng ngắn và sức sáng nhẹ nhàng... Điều vừa trình bày, chứng tỏ ý
thức thẩm mỹ của chị em phụ nữ xứ này qua việc chọn màu tím để ví với đức tính
của mình thì thật là tinh tế. Do đó, đã sinh ra từ ngữ “màu tím Huế”...
Trong thế giới màu sắc, chỉ có ba màu cơ bản là: đỏ, vàng và
xanh. Trắng và đen có thể xem không phải là màu, mà chỉ là nền, sắc độ giảm tối
đa hoặc tăng tối đa của các màu. Phối hợp các màu cơ bản trên, tùy theo từng mức
độ mà có muôn màu nghìn tía...
Xanh là màu có tính lạnh và mạnh mẽ, đỏ là màu nóng cuốn hút.
Hai màu xanh đỏ phối hợp tạo thành màu tím rất ấm áp và lôi cuốn mà người đời
đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực để nói về màu này...
Tím là một màu chính trong ngũ sắc pháp lam Huế (đỏ, vàng,
tím, lục, xanh) trang trí ở cung điện cũng như ở đình chùa miếu vũ..., nên sắc
màu truyền cảm mạnh này đã quyện vào tâm tư người bản xứ. Cũng màu tím, song tuỳ
theo sắc độ, cung bậc như tím hoa cà, tím than...; rồi đặc biệt là “tím Huế”,
là biểu hiện sự thuỷ chung nhưng lãng mạn, bâng quơ và nhớ nhung:
“Chiều một mình qua phố,
Âm thầm nhớ nhớ tên em, Có khi nắng khuya chưa lên, Mà một loài hoa chợt tím…” |
Huế một thuở là kinh đô, vàng là màu áo của vua thiết triều,
thuộc thổ (trung ương) trong ngũ sắc truyền thống phương Đông (đỏ, vàng, xanh,
trắng, đen), và cũng là một màu chính trong pháp lam Huế, được vua chúa chọn
làm màu của vương quyền, nên cũng biểu hiện về Huế và có tính tươi sáng, sắc
vui:
“Chiều một mình qua phố,
Âm thầm nhớ nhớ tên em, Áo xưa chưa quen phong trần, Đợi mùa thu vàng áo thêm...” |
Trịnh Công Sơn nói: “- Tôi không thấy có ranh giới nào
giữa thế giới âm thanh và thế giới im lặng cả. Những gì không nói được bằng
ngôn ngữ âm nhạc thì tôi nhờ đến ngôn ngữ màu sắc. Nếu cả hai phương tiện này
cũng chưa chuyên chở hết những suy nghĩ của tôi về đời và con người thì tôi lại
phải tìm đến với văn chương”.
Trong cùng một ca khúc, mà nhạc sĩ thiên tài họ Trịnh cũng là
một họa sĩ, đã phối màu vàng cổ điển của văn hóa cung đình với màu tím của văn
hoá dân gian tạo nên cặp màu đặc sắc của Văn hoá Huế. Đây là một cặp màu bổ
sung mà mỗi màu đều có nét đẹp riêng, nhưng khi phối hợp đã cộng hưởng mang nét
đẹp vương giả; cùng tôn lẫn nhau, không phải màu nào chính, màu nào phụ, mà phụ
thuộc vào hệ quy chiếu của từng người cảm nhận...
Đặt cánh hoa vàng trên nền tím, màu vàng sẽ rực rỡ hơn, mà nền
tím cũng không vì thế mà bị chìm. Nhung nếu đặt màu vàng ấy vào nền trắng,
xanh... thì cánh hoa không thể nổi bật được. Hiện tượng một cặp màu bổ sung thỉnh
thoảng vẫn lặp lại trong những bài ca trữ tình mang không gian Huế.
“Nhìn những mùa thu đi...
Nghe tháng ngày chết trong thu vàng. . . Gió heo may đã về, Chiều tím loang vỉa hè, Và gió hôn tóc thề... Trong nắng vàng chiều nay…” |
Cũng có thể “chiều tím” là do không gian Huế tím,
nhưng cũng có thể “tím loang vỉa hè” có nghĩa là nữ sinh tan trường
buổi chiều được “gió hôn tóc thề” và gió cũng hôn luôn cả áo dài làm
tà áo tím loang loáng trên vỉa hè! Song nhạc sĩ đã cho biết thêm “trong nắng
vàng chiều nay”, như vậy tím đây không phải là tím chiều mơ, mà chắc chắn là
màu của tà áo dài Huế đã nhuộm thắm được “nắng vàng” làm tươi thêm...
Sống trong thành phố vườn, hòa lẫn với cỏ cây, từ căn nhà nhỏ
mà tiếp xúc với vũ trụ, người Huế cảm nhận sự vật và hiện tượng bằng trực giác
hơn lý tính, từ đó sinh ra tâm hồn đồng nội. Vì thế mà nhạc sĩ đã tô điểm bức
tranh bằng những màu sắc thiên nhiên, cũng như muốn ánh sáng làm phương tiện diễn
đạt sự sinh động của hiện thực tự nhiên: “cỏ cây chợt lên màu nắng...” rồi
lãng mạn cực điểm là “màu nắng bây giờ trong mắt em...”.
Cứ thử hỏi “màu nắng” là màu gì (?) thì tác giả cho biết ngay “em
qua công viên mắt em ngây tròn, lung linh nắng thủy tinh vàng...”.
Có lúc nhạc sĩ không tô bằng màu trực tiếp, mà tả màu sắc một
cách tinh tế qua thủ pháp ẩn dụ trong một số quy luật phối màu nhất định, để vẽ
nên một không gian Huế rất đặc sắc. Người nghe được “đưa em về, nắng vương
nhè nhẹ”, mà“chiều cuối trời nhiều mây”; những đám mây được “trời ươm nắng,
cho mây hồng” hoặc ngay cả khi “trời còn làm mưa, mưa rơi mưa rơi, từng
phiến mây hồng, em mang trên vai…”. Chính những mây hồng này, long lanh với
dòng Hương xanh ngát, tạo nên không gian rực tím làm họa sĩ vật vã cảm hoài vì
sự trống vắng nửa hồn của gam màu “ngày xưa sao lá thu không vàng?... để nắng
đi vào trong mắt em”, bởi thu tím mà thiếu lá vàng cũng như hoa xuân thiếu bướm
lượn.
Đây là bức tranh của một họa sĩ thuộc trường phái Hội họa Ấn
Tượng có màu sắc tả thực, ghi lại những cảm xúc đọng lại trong hồn người, thích
không gian thiên nhiên, nhờ đó sử dụng ngôn ngữ hội họa nhạy cảm, giàu tính thẩm
mỹ. Và những không gian rất ấn tượng này thoáng hiện thoáng mất, khi thì “một
loài hoa chợt tím”, khi thì “cỏ cây chợt lên màu nắng”...
Có lúc nhạc sĩ lại dùng màu như một họa sĩ của trường phái Sắc
Điểm: “Đóa hoa hồng cài lên tóc mây...”. Nhưng tóc ở đây không phải màu
đen mà là “tóc nào hãy còn xanh...”, mặc dù xanh ở đây có nghĩa là thanh xuân,
song về sắc màu thì vẫn là màu xanh, và trong nét phối trí kiểu điểm sắc hồng cạnh
sắc xanh này vẫn tương ánh tạo nên sắc tím của Huế!
Cho nên, Trịnh Công Sơn bảo: “-Hội họa và âm nhạc là hai
người bạn đồng hành trong nghệ thuật... Trong âm thanh có màu sắc và ngược lại,
trong màu sắc có âm thanh... Khi bạn nghe một bản nhạc, bạn đắm chìm vào ban nhạc
ấy và trong khối lượng âm thanh kia bỗng mở ra cho bạn một không gian đầy màu sắc,
lung linh, óng ả mà có thể để bạn chưa bao giờ nhìn thấy...”. Và những ca từ hợp
thành gam màu được chuyển tải qua âm thanh của họ Trịnh tài hoa, phần lớn là những
màu trong ngũ sắc của pháp lam Huế, mà nổi bật và đặc trưng nhất là cặp màu bổ
sung vàng - tím.
Trên đây, chỉ là vài nét chấm phá để cho thấy hồn Huế trong
nhạc Trịnh vẫn có những yếu tố cấu thành mang tính lý luận... Và để có thể khai
thác như một ngành “Trịnh học”, đòi hỏi phải bỏ nhiều công sức tìm hiểu sâu mới
“giải mã” được ngôn ngữ của anh…
NGUYỄN ANH HUY
Theo http://honvietquochoc.com.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét