Eaphe ký sự - Một kẻ lữ hành
lang thang và đơn độc
lang thang và đơn độc
Phần 1 - Trầm tư với những trầm tư
Hẳn nhiên tôi yêu thích du lịch,
tâm nguyện của tôi là đi khắp đất nước Việt Nam tươi đẹp này. Tôi mong ước đi
qua nhiều nơi, nhìn ngắm nhiều cảnh đẹp và quan trọng hơn là được gặp gỡ nhiều
người, tìm hiểu cuộc sống, văn hóa của họ. Tôi cho rằng, mỗi vùng miền mỗi con
người đều có những góc khuất cần được khám phá, cảm thông. “Cuộc sống là một
bãi cát lớn, ta không thể nào nhận ra từng hạt cát, chắc rằng mỗi hạt cát có những
góc cạnh những màu sắc khác nhau nhưng điều đẹp nhất là chúng lóng lánh như ngọc
dưới ánh nắng mặt trời". Lời thoại này tôi nghe trong phim "Đời
cát”. Đời cát hay đời người, cuộc đời con người nơi miền gió cát cũng đẹp không
kém những hạt ngọc, lóng lánh, đầy đủ sắc màu. Với nhiều người, miền trung thật
cằn cỗi khắc nghiệt. Song, tôi thấy mảnh đất trong phim “Đời cát” trải đầy nắng
và hoa bởi nó được nuôi dưỡng bằng tình thương yêu và lòng vị tha. Nhìn rộng
thêm một chút, cằn cỗi hay màu mỡ, quê mùa hay thành thị, đẹp hay xấu chỉ là
tương đối trong một cách nhìn nào đó, lật ngược lại, ta sẽ tìm ra những điều
khác... những điều không thể nào nói thành lời.
Luật
vô thường quy định vạn vật cần phải thay đổi, đổi thay để tiến lên, không nhàm
chán. Đối với những du khách như tôi, năm khi mười họa ghé thăm cao nguyên nắng
gió một lần, làm sao có thể cảm nhận sự đổi thay vi tế trong tâm tư gốc cây ngọn
cỏ, trong khí trời se lạnh cuối thu. Có chăng là những đổi thay trong chính mỗi
người du ngoạn... những vườn cà phê xanh mướt mỡ màng, những đồi núi trập trùng
trắng xóa mùa hoa cà phê hay dòng Sereppok đục ngầu tuôn chảy cuồn cuộn... Thời
gian xóa đi khung cảnh này thay vào khung cảnh khác đẹp đẽ, hùng vỹ, lạ lẫm...
nhưng luôn để lại dấu ấn của mình. Đó là nỗi buồn đơn lẻ, hạnh phúc lứa đôi những
trăn trở băn khoăn, nhớ thương hoài vọng trong tâm tưởng...
Chuyến đi Ea Phê[1] nơi
cao nguyên heo hút đối với tôi thật nhiều kỷ niệm. Mọi người trong đoàn đã vui,
rất vui; hòa vào niềm vui chung ấy tôi cũng vui, tôi vui khi nhìn thấy mọi người
cười đùa hạnh phúc. Tất nhiên, nhìn vào những khuôn mặt rạng rỡ nụ cười khó có
ai mà không mỉm cười đáp lại. Nụ cười là ngôn ngữ hạnh phúc, thứ ngôn ngữ không
biên giới, ai cũng có thể hiểu và cảm nhận nó một cách sâu sắc nhất. Trong
không khí hân hoan chung ấy, mỗi người có nỗi niềm riêng, trong khoảnh trời
riêng tư ấy hình như tồn tại cái riêng tư rất riêng – những tầng sâu thăm thẳm
tâm tình, xúc cảm. Giống như khi người ta tách vỏ con trai họ sẽ tìm thấy những
hạt ngọc lung linh thật đẹp, nếu chỉ dừng lại ở đó mãi mãi con người không biết
rằng ngọc trai được kết tinh từ những đớn đau của loài trai nơi đáy nước. Đập
tan nát từng hạt ngọc người ta tìm thấy nguồn gốc và nguyên nhân của nỗi đau được
giấu kín trong lớp vỏ bọc.
Tôi đã đắn đo khi viết ra những
dòng chữ trầm tư này. Trầm tư với những trầm tư. Ea Phê ký sự được viết ra
không hẳn mang tính trần thuật của một câu chuyện kể. Đâu đó trong ký sự bạn sẽ
gặp những cảnh vật, truyền thuyết, con người; đôi khi gặp một góc tâm tư chính
mình, xin đừng hời hợt đọc nó bằng cặp mắt kẻ bàng quang, hãy đọc bằng trái
tim. Vì chỉ khi đọc bằng trái tim người ta mới thấu cảm vẻ đẹp đằng sau những hạt
cát xấu xí thô kệch, và nỗi đau đớn nằm trong những viên ngọc trai tuyệt đẹp…
Phần 2 - Chuyến xe trong đêm
Du lịch đối với tôi còn hơn
cả một niềm đam mê, nó là một phần cuộc sống. Tôi thường tự nhận mình có đôi
chân giang hồ đại hải. Từ khi còn ẵm ngửa tôi đã quen thân với những chuyến xe
đò dọc ngang miền Tây chật ních người... Khi ba bốn tuổi gì đấy một năm tôi có
thể đã đi Vũng Tàu đến ba bốn lần (tất nhiên phải đi cùng cha mẹ tôi). Cũng
trong một năm tôi có sáu tháng sống tại Sài Gòn, sáu tháng trôi nổi ở miền sông
nước Mỹ Thuận Đồng Tháp. Lớn lên, tôi may mắn được đi khắp Cần Thơ, Hà Tiên,
Sóc Trăng... cho đến các tỉnh miền Đông Nam Bộ trải dài đến Ninh Thuận, Bình
Thuận, Nha Trang, Khánh Hòa... Không hẳn là nhiều nhưng cũng không phải ít. Lạ
một điều tôi chưa một lần đặt chân đến vùng đất Tây Nguyên. Một phần do tôi
không có duyên với mảnh đất huyền hoặc này, phần khác do tôi cứ chần chờ muốn
rong ruổi bằng xe máy trên những cung đường đất đỏ, chứ không phải đóng khung
mình trong một tour du lịch hết sức chỉnh chu: sáng nhà hàng, chiều khách sạn...
chịu sự sắp đặt của cô hướng dẫn viên lạ hoắc nào đó.
Tôi
đã lên kế hoạch cho chuyến đi Đắk Lắk lần này trước ba tháng. Ba tháng để sắp xếp
công việc, chuẩn bị tiền bạc chi tiêu và chờ đợi. Song chút xíu nữa tôi lỡ hẹn
với cao nguyên huyền thoại.
Ăn uống qua loa, cắp mấy bộ
quần áo, chuẩn bị thêm sổ, viết ít đồ lặt vặt. Cuối cùng tôi xếp chiếc áo Lam,
cài vào túi ao huy hiệu sen trắng... biết đâu đấy khi ra đến nơi tôi sẽ có dịp
gặp các anh chị em– những người tôi luôn mong muốn gặp. Tổ chức GĐPT 1 đã
trải qua 60 năm tồn tại và phát triển đã có nhiều thăng trầm biến đổi thời cuộc,
đã có sự phân hóa, rẽ chia trong nội bộ, song tôi tin tưởng rằng dù đi đâu về
đâu, chỉ cần chúng tôi khoát lên mình chiếc áo Lam cài trên ngực mình đóa sen
tám cánh trắng thì chúng tôi lại là anh em, là đồng chí, là công sự đắc lực của
nhau. Cái tình huynh đệ thắm thiết ấy người ngoài cuộc không sao hiểu được!
8g30 tối tôi có mặt ở điểm tập
kết. 9 giờ xe bắt đầu lăn bánh. Đó là một chiếc Ford Transit trắng 16 chỗ, xe
nhà chị Hường – nhân viên dự án Tương Lai trực thuộc hội Bảo trợ trẻ em Tp Hồ
Chí Minh. Tôi biết chị Hường không lâu, khoảng nửa năm trước đây. Khi quen chị
tôi không hề biết chị có một gia đình tuyệt vời đến thế. Một đại gia đình với
mười anh chị em mà chúng ta sẽ có dịp gặp lại ở những trang sau. Tôi lên xe ngồi
băng ghế sau cùng với Tiến và anh Vũ. Thoáng chốc xe nhanh chóng ra khỏi nội
thành Sài Gòn, đường xá tốt hẳn, gió mát hây hây, mọi người cười nói rôm rả và
bắt đầu hát say sưa như chưa từng được hát. Những lúc như thế này tôi thấy mình
thật trẻ dại. Tôi không phải là ca sĩ, tôi cũng không được trời phú cho một chất
giọng đặc biệt nào đấy, đơn giản chỉ vì tôi yêu âm nhạc, tôi yêu những giai điệu
lên bổng xuống trầm. Tôi biết mọi người ở đây cũng như tôi sôi nổi, tràn đầy
nhiệt huyết. Chúng tôi là những người trẻ theo một cách nào đấy. Tất nhiên định
nghĩa về chữ trẻ cũng có nhiều quan điểm khác nhau, trẻ về tuổi đời hay trẻ về
cách nghĩ cách làm, hay trẻ về tâm hồn... Vì thế có những người chưa từng già cỗi
ngược lại có những người trọn cả cuộc đời hình như chưa từng trẻ trung một ngày
nào. Ngồi trước tôi hai bằng ghế có một cô bé (theo cách nói của tôi, sau này
tôi vỡ lẽ “cô bé” ấy không hề bé tí tẹo nào) thật hồn nhiên hát bài “Giấc
mơ Chapie” một trong những bài tôi thích nhất. Qua khung cửa kính, tôi
nhìn thấy nhiều cặp mắt tròn xoe lạ lẫm dò xét, bọn họ chắc hẳn đã nghĩ rằng: “Lũ
nhóc nào đây, sao cứ hát ầm cả lên, điên thật!”. Ừ điên thật, nhưng tại sao người
ta không thể điên một chút nhỉ? Cuộc sống chẳng phải vốn đã rất điên loạn đấy
sao? Ngày xưa, Khuất Nguyên trước khi tự vẫn ở dòng sông Mịt La nhìn thấy cuộc
đời điên đảo cay đắng thốt lên rằng: “Đời say cả chỉ mình ta tỉnh, đời đục
cả chỉ mình ta trong”. Đáng thương thay khi ông không biết rằng bản chất cuộc đời
đã như thế! Ngàn năm sau vẫn vậy, chẳng có gì thay đổi! Sống giữa một đống phế
liệu đồng, thau, nhôm, sắt vân vân và vân vân.. thứ bán được giá hơn bảy mươi
ngàn một ký có thứ chỉ hai ba ngàn một ký, thứ khác có cho người ta cũng không
thèm để ý đôi khi cũng cần phải biết ngây ngô, buồn cười trong những lúc đáng
buồn cười và bỡn cợt những khi cần bỡn cợt.
Một hành khách còn trẻ cuộn
tròn trong chiếc áo khoát, thu mình vào trong góc xe trở giấc nhếch mắt và mở
miệng cười. Tôi không nhìn rõ khuôn mặt anh, nhưng cái cười bao dung của anh
làm tôi hả dạ. Không phải tôi hả dạ vì anh không phiền trách cái tội “làm ầm cả
lên” phá giấc ngủ quý báu của anh, tôi hả dạ vì ít ra cũng còn có người biết
cách cảm thông và chia sẻ. Nhìn dáng anh tôi không nghĩ anh đang đi du lịch, có
lẽ anh đang vội trở về quê thăm nhà trong kỳ nghỉ lễ. Bất giác tôi mỉm cười đáp
lại...
Sức người có hạn, cuối cùng
cuộc chiến “thanh quản” cũng đến hồi kết thúc khi mọi người đã “cạn vốn”. Xe
yên ắng chìm vào giấc ngủ. Chỉ còn tôi và Huấn rầm rì to nhỏ. Chính không khí
chật hẹp co ro trên chuyến xe giúp kéo gần chúng tôi lại với nhau hơn. Có lẽ chẳng
bao giờ chúng tôi có đủ thời gian đủ lòng kiên nhẫn để lắng nghe, nhau như thế
này nữa. Góc khuất ấy, không dễ gì người ta tâm tình với nhau. Huấn đã nói với
tôi về những ngày tháng còn trong quân ngũ, con đường nào đã đẩy đưa Huấn trở
thành một sinh viên ngành xã hội học và yêu quý công tác tình nguyện đến vậy,
những mối tình trong quá khứ, những chia ly, nhớ nhung, trăn trở, những băn khoăn
suy tính cho tương lai. Tôi không nói về mình, chỉ biết lắng nghe vì con đường
tôi đã đi qua không trắc trở, chông gai, phong phú và đẹp như con đường Huấn đã
đi. Bất chợt tôi thấy mình nhỏ bé, ấu trĩ và trẻ con thế nào ấy, trẻ con hiểu với
nghĩa trẻ con nhất...
Đêm đã khuya, bầu trời đen kịt!
Mưa đã rơi tự khi nào chẳng biết, mưa đầu mùa chỉ đủ áo một lớp váng mỏng manh
trơn trợt trên mặt đường nhựa. Con đường vắng xa hun hút dài thêm, thi thoảng một
chiếc xe ngược chiều pha đèn lóe lên đẩy những bóng người vật vờ trượt dài rồi
mất hút phía sau nhanh như khi nó xuất hiện... Xuyên qua tỉnh Bình Dương, chúng
tôi theo quốc lộ 14 đi sâu vào địa hạt Bình Phước, hai bên đường rừng cao su bạt
ngàn dần thay chỗ nhà cửa phố xá thị thành sầm uất. Trong đêm tối, từng hàng
sao su lặng lẽ im lìm trân mình chịu đựng cái lạnh cắt da cắt thịt. Nếu có dịp
dừng xe bên vệ đường giữa rừng khuya trong một đêm mưa gió lạnh lùng như tôi bạn
sẽ cảm nhận được nỗi sợ hãi bóng đêm thẳm sâu, tối tăm. Đứng trước đầu xe nhìn
xoáy vào giữa những tàng cây, tôi chẳng thấy gì rõ ràng, mọi thứ lờ mờ sánh đặc
đen quánh... Lúc ấy tôi thèm ánh sáng biết bao dù chỉ một chút ánh sáng le lói,
chập chờn... như cô bé bán diêm đốt từng que từng que diêm trong đêm cổ tích
mưa tuyết bão bùng. Đốm lửa nhỏ bé ấy không đủ sức chở che cơ thể giá rét nhưng
nó đủ sáng để làm ấm áp tâm hồn con người. Cô bé bán diêm không chết trong giá
rét mà chết trong sự thờ ơ đến tàn nhẫn. Xét cho cùng ai cũng có những ước mong
những tâm tình không thỏa, cô bé bán diêm luôn hiện hữu trong bản thân mỗi người.
Con người lúc nào cũng khao khát được lắng nghe, yêu thương, cảm thông...
Xe vượt đi qua thị xã Gia
Nghĩa rồi vào vùng đồi núi Đắk Mil, Đắk Song thuộc tỉnh Đắk Nông chuẩn bị vào địa
phận Đắk Lắk. Đắk Lắk một vùng cao nguyên có độ cao trung bình từ 500m so với mặt
nước biển, phía bắc giáp Gia Lai, nam giáp Lâm Đồng – Đắk Nông, Tây là
Campuchia, Đông giáp Phú Yên – Khánh Hòa. Đắk Lắk có diện tích tự nhiên gần 15
ngàn cây số vuông, thủ phủ là thành phố Buôn Ma Thuộc Một tỉnh cao nguyên điển
hình với hàng trăm đồn điền cà phê, cao su nằm gọn trong 700.000 mẫu đất đỏ
bazan mầu mỡ. Chính địa hình cao nguyên với hơn một triệu hecta rừng nguyên
sinh đã tạo nên một khí hậu hai mùa mưa nắng tương đối ôn hòa. Nhiều người nói
với tôi rằng hãy đi đi sẽ đến hãy nhìn đi sẽ thấy một Đăk Lắk nguyên sơ kỳ bí của
núi sông rừng thẳm, của vùng đất mang tên các tù trưởng dũng cảm hay những cô
gái Êđê miền sơn cước thuỷ chung xinh đẹp tựa như đóa lan giữa núi rừng Ea
Kao...
2 giờ sáng, tôi tỉnh giấc
khi mưa đã tạnh, tôi đoán mình đã đi xa lắm về phía đại ngàn... xe im lắm, chỉ
có tiếng máy xe rền rĩ đều đều chán ngắt. Mọi người bị đánh bại bởi cái mệt mỏi
ngửa ngiêng la liệt, dựa vào nhau mà ngủ. Sương mù tràn xuống phủ trùm lấy vạn
vật đồi núi rừng thông, nhà cửa... sương mù lẩn quẩn hư thực giữa bốn bề trời đất.
Sương mù không chỉ đem tới cái ẩm ướt khó chịu mà còn kéo theo sự nguy hiểm tầm
nhìn giới hạn. Nhìn ngang nhìn ngược nhìn xuôi tất cả đều thấy một màn sương mờ
đục, ánh đèn xe pha lên vàng vọt chỉ đủ xuyên thủng được chút ít cái thâm u mù
mịt ấy. Xe vẫn lao nhanh trên con đường dài và hẹp... đường đèo ngoặt chữ “chi”
liên chi hồ điệp. Những cái “khủy tay” khúc khuỷu được đặt những chiếc đèn pha
phóng ra thứ ánh sáng trắng nhờ nhờ. Hình như cũng chưa yên tâm người ta làm
thêm vô số gờ giảm tốc trên mặt đường khiến cho ai đến đấy cũng phải tâng lên rớt
xuống giằng xóc như muốn nôn ra hết những gì có trong bụng. Nhìn hai bên đường,
tôi không thấy chi cả ngoài bờ đất chạy dài, những hàng cây im lìm trầm mặc kéo
liền một dãy. Đôi khi xe chậm hẳn bò rì rì qua từng mét đường, đôi khi xe ngả
nghiêng vút đi, tôi nhìn đăm đăm ra phía trước bất giác sờ sợ, thấy mình đang
lao hun hút vào một vùng xoáy không đáy. Cũng có lúc tôi thấy một vầng sáng lóa
lên rọi từ phía bên kia đèo chẳng khác gì nan quạt hào quang gạt đi tất cả bóng
tối đặc trưng của rừng núi canh khuya đại ngàn. Phải lâu lắm, mới thấy vùng
sáng bóng đèn cao áp thủy ngân vàng vọt thậm thụt trong màn sương mù dày đặt.
Những bóng nhà trầm tư dưới tàn cây vật vờ. Tôi chỉ có thể nhận được hơi hướm
con người qua cái bóng đèn ne-on chiếu sáng một khoảnh sân con con bên đường.
Bóng tối đã thành công trong công việc gieo vào lòng người nỗi sợ hãi...
Bạn tôi ở Kar2,
đã từng rong ruổi suốt đêm trên chính con đường này bằng xe máy, nói rằng thỉnh
thoảng ở đây vẫn thấy có bọn cướp cạn mò ra chặn xe để xin tiền mãi lộ vì thế
cánh tài xế phải mang theo vũ khí lận lưng để tự bảo vệ mình và hành khách.
Nghe như thế ai mà chẳng lo lo.
Tôi thầm niệm danh hiệu Bồ
Tát Quán Thế Âm, vị Bồ Tát mang bóng dáng người mẹ hiền với hạnh từ bi vô cùng.
Vị Bồ Tát có khả năng cứu thoát con người khỏi những tai nạn, sợ hãi bất an.
Quán chứ không phải quan, Quán Thế Âm là lắng nghe âm thanh đau khổ của trần thế
bằng tất cả năng lực các giác quan với tình yêu thương không bờ bến. Mọi người
có thể sẽ cười tôi, thời buổi này ai lại tin vào những điều huyền hoặc ấy. Đấy
là niềm tin, không phải niềm tin hão huyền vào một vị thần linh xa vời nào đó
mà tin rằng tình yêu thương vẫn còn tồn tại và loài người cuối cùng vẫn còn giấu
trong trái tim minh một chút gì đấy cho nhau....
1 GĐPT
là viết tắt của Gia Đình Phật Tử một tổ chứ hoạt động thanh niên được thành lập
cách đây hơn 60 năm hoạt động với mục đích: “Đào luyện thanh thiếu đồng
niên thành Phật tử chân chánh góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật
giáo”
2 Kar:
Là cách nói tắt của người dân Đắk Lắk khi gọi huyện Êa Kar. Huyện Êa Kar cách
Buôn Ma Thuột gần 60 km theo quốc lộ 26 về phía Đông.
Phần 3 - Vùng đất huyền thoại
Tôi đã không định viết tiếp
thiên ký sự này nữa vì tôi thấy cảm xúc mình mất dần đi cái trầm tư ban đầu...
Thời gian là thứ thuốc thần hiệu chữa lành mọi vết thương.. khi vết thương đã
lành, người ta không còn thể nào cảm được cái đớn đau cũ nữa. Cố gắng đến mấy
cũng là khiên cưỡng, miễn cưỡng viết thêm về nó là dối lòng, dối trá chỉ gieo
vào lòng người sự thương hại. Một người bạn thân nói với tôi rằng... Vi ơi sao
mà đọc Ea phê ký sự thấy buồn quá! Cái buồn man mác thấm tận trong lòng... Tôi
thấy đúng thật, mình vô lý... đem cái trầm tư riêng mình đặt vào cuộc vui
chung. Tôi quyết định chỉ viết về những niềm vui, viết về núi rừng cao nguyên lẫn
khuất tiếng cười cô gái Êđê giòn tan trong gió....
Chỗ
tôi ở - nhà chị Hường - là xã Ea Phê thuộc huyện Krong Păk cách Buôn Ma Thuột
38km đi về hướng Đông. Từ đây nếu tiếp tục đi về hướng Đông theo quốc lộ 26
thêm khoảng 140 cây số nữa qua Ma Đ’rắk ta sẽ ra đến Nha Trang thuộc địa phận tỉnh
Khánh Hòa. Người dân nơi đây nói rằng từ đây nếu đi ngược về thành phố Buôn Mê
Thuộc, rồi rẽ về quốc lộ 27 theo hướng Đông Nam xuyên qua huyện Krông Ana và
huyện Lắk – nơi có thắng cảnh nổi tiếng hồ Lăk– vượt qua dãy núi Chư Yan Sin [1] hùng
vỹ đi vào tỉnh Lâm Đồng ta hoàn toàn có thể về Đà Lạt để hưởng cái không khí
lành lạnh đặc trưng của một thắng cảnh du lịch nổi tiếng bậc nhất cả nước.
Nhà chị Hường, một căn nhà
tường kiểu xưa xây theo lối ba gian một cháy lợp ngói bằng thứ đất sét nung đỏ
truyền thống, chẳng cần đến một lớp la – phông vẫn mát lạnh như thường. Trước
nhà là khoảnh sân rộng mênh mông tráng xi măng nghe đâu trước đây khi còn trồng
cà phê nhà chị dùng để phơi hạt mỗi khi đến mùa thu hoạch. Phía trước khoảnh
sân ấy, dọc theo cái hàng rào bằng lưới sắt B40 nhà chị trồng ít đậu bắp, dây
nhãn lồng dại một giàn mướp trổ hoa vàng óng ả. Cái hàng rào xanh tự nhiên ngăn
cách căn nhà với con đường bụi đỏ. Phố núi đã yên mà nhà chị còn yên ắng hơn nữa.
Sau nhà tôi thấy đủ thứ cây trái mà bất cứ một người dân thành thị nào cũng mê
tít mắt, sầu riêng, vú sữa, cam, ổi... Đó là chưa kể cái mơn mởn của những thứ
rau dân dã, mộc mạc như rau má, càng cua mọc lên xanh rì tràn lan trên những lối
đi mòn và hẹp. Ở góc vườn mấy cây ớt hiểm sẻ loại trái nhỏ vị thơm tho cay xé
lưỡi cũng vươn lên trổ hoa trắng li ti nõn nà...
Sáng sớm hôm đó (ngày thứ nhất)
tôi cùng những người bạn thả bộ nhàn tản trên con đường liên xã trong cái nắng
nhẹ nhàng của buổi bình minh để ra chợ. Rời xa thành phố bụi bặm tôi hít một
hơi căn phồng lồng ngực cái không khí tinh khôi và cảm thấy nhẹ nhõm thư thái
biết dường nào. Chợ xã không lớn lắm nhưng hình như cũng đầy đủ không thiếu thứ
gì, cũng đông vui ồn ào như bản chất vốn có của... chợ. Thi thoảng trên con đường
nhựa lấp lóa ánh nắng mai vài người phụ nữ dân tộc M’nông vai điệu gùi ngô,
khoai đi thoăn thoắt lẩn khuất vào những tàng cây xanh ngắt. Tôi len lỏi vào chợ
ăn sáng bằng món mì Quảng và nhận ra rằng nó là sự pha lẫn của đặc sản miền
Nam, xứ Quảng và hương vị đậm đà vùng sơn cước.
Mười giờ sáng, chúng tôi xuất
phát đi ngược về thành phố Buôn Ma Thuột... con đường ngập tràn nắng, nắng cao
nguyên buổi sáng không gắt lắm nhưng đó là thứ nắng "quái" rát mặt
làm đôi gò má cô gái vùng cao hây hây sắc đỏ tươi thuần. Bạn tôi, một đứa con
trai đai ngàn, nói rằng: "Đi Đắk Lắk là phải thăm bảo tàng các dân tộc,
ghé vào Buôn Đôn ngắm nghía voi rừng, du thuyền độc mộc trên hồ Lắk thơ mộng và
đi qua cầu treo sông Sereppok kỳ vĩ. Đêm ở Buôn Ma Thuột, thưởng thức ly cà phê
nóng đậm đặc đến ngây người thả hồn theo làn khói sương lãng đãng hay nhâm nhi
chút rượu cần cho thấm thía chất núi rừng Tây Nguyên. Tao sẽ chở mày vào buôn
Ea Nho, ghé nhà H’Lai Niê để mua một chóe Pa, chóe Tuk rượu cần nấu bằng gạo tẻ,
đằm thơm say nồng và ngồi nghe A ma công kể chuyện sắn bắt voi rừng" Tôi
nương vào đấy tưởng tượng rất nhiều về cao nguyên huyền hoặc... Chắc chắn tôi sẽ
không có dịp đi hết những địa danh thắng cảnh ấy trong chuyến đi này. Hai ngày
là không đủ để khám phá một vùng đất quá nhiều truyền thuyết bí mật. Tôi nói với
Giao rằng... nhất định anh sẽ quay lại đây, nhất định anh sẽ rong ruổi bằng xe
máy để thăm bằng hết không bỏ sót một ngóc ngách nào của vùng đất huyền thoại Đắk
Lắk
Phố núi không đón chúng tôi
bằng cái nắng oi ả và màu trắng xóa bạt ngàn hoa cà phê. Mùa này cà phê đã ra
trái, khắp nơi xanh rì một màu lá cà phê điểm tô bằng những dây trái xanh trái
đỏ xòe ra mọng chín đang chờ bàn tay con người đến hái. Cách Buôn Ma Thuột khoảng
18 cây số chúng tôi quẹo vào con đường nhỏ, quanh co lẩn khuất giữa những vườn
cà phê, dưới những tán cây cao vút thẳng đều tăm tắp mắt lạnh người và đi thêm
2 cây số nữa ra đến vùng hồ đẹp mê hồn... Không phải là hồ Lắk quê hương của
câu chuyện cổ, truyền thuyết về mối bất hòa giữa nước và lửa, về tấm lòng của
anh em Y Lắk với đại ngàn và cuộc chiến đấu giữa rồng, lươn ác liệt hơn bảy
ngày bảy đêm rung chuyển cả núi rừng, mịt mù cả dòng sông Krong Ana.
Hồ Ea Nhái khiêm nhường nằm
nép mình dưới những tán cây rừng... mặt hồ phẳng lặng trong veo phản chiếu những
đám mây trời đủ thứ hình thù kỳ quái trôi vô đinh... chúng tôi đi dọc theo bờ hồ,
thật ra đó là một con đê dài, ngăn cách một bên làn nước trong veo, một bên hõm
sâu xuống là rẫy lúa xanh xanh trải dài ngút mắt... Cuối con đường người ta thiết
lập một cửa xả bằng thép để điều tiết thủy lợi phía hạ nguồn. Từ trên đê nhìn dọc
theo bờ hồ xa thật xa thấy thấp thoáng bóng người nhỏ thẫm như dấu chấm than dưới
nắng. Nghe thật sâu trong mạch đất vọng về tiếng sóng nước vỗ man mác gợi nét đằm
sâu bền chặt tình yêu thảo nguyên. Từ trong tán rừng thưa, một đàn chim bay ra
lượn một vòng in bóng hình trên bầu trời xanh, chúng dang dôi cánh bé xíu kéo
giãn mây trời thêm rộng. Đôi cánh chim cứ mãi thênh thang chập chờn trong lòng
tôi không mỏi.
Chia tay với hồ Nhái, ngược
về Buôn Ma Thuột chúng tôi đi giữa tán cây muồng đen cao chót vót trổ từng chùm
hoa sắc vàng dịu dàng. Ở vùng này người ta trồng cà phê lúp xúp núp tránh cái nắng
oi nồng dưới những tán cây muồng đen cành lá sum xuê, thân cao lớn có khi đến
hai ba mươi mét. Càng đến gần Buôn Ma Thuột, cà phê càng ít đi thay vào đó là rẫy
mì, rẫy ngô chen lẫn những mẫu cao su thẳng đều tăm tắp. Chị Hạnh người đi
chung xe với tôi nói rằng cao su vùng này còn bé lắm phải vài năm nữa mới đến
ngày thu hoạch nhưng một khi đã trưởng thành thì có thể lấy mủ trong vòng vài
ba chục năm. Cao su là giống cây mọc ở Nam Mỹ dọc theo sông A-ma-zôn có tên gọi
gốc là Hévéa. Cách đây gần 10 thế kỷ, thổ dân Mainas sống ở đây đã biết lấy nhựa
của cây này dùng để tẩm vào quần áo chống ẩm ướt, và tạo ra những quả bóng vui
chơi trong dịp hội hè. Họ gọi chất nhựa này là Caouchouk, theo thổ ngữ Mainas
nghĩa là “Nước mắt của cây”.
Sau này tôi biết được người
có công đầu tiên đưa giống cây giàu tiềm năng kinh tế này vào Việt Nam là bác
sĩ Yersin. Những cây cao su đầu tiên xuất hiện ở nước ta được trồng ở vườn thực
vật Sài Gòn vào năm 1877, lấy giống từ Singapore nhưng không cây nào sống. Đến
năm 1897, dược sỹ Raoult đã gửi hạt giống và một số cây con từ Java (Indonesia)
để gieo trồng tại vườn thí nghiệm ông Yêm (Thủ Dầu Một); Đồng thời bác sỹ
Yersin cũng đã nhận được một số cây con đem trồng tại suối Dầu trong phần đất của
viện Pasteur Nha Trang. Sau đó bác sỹ Yersin nhập nhiều hạt giống từ Srilanka để
thành lập đồn điền cao su đầu tiên ở nước ta.
Tượng đài chiến thắng Buôn
Ma Thuột
Người ta đang trải nhựa con
đường Nguyễn Văn Cừ nên khói bụi mù mịt. Song khói bụi không thể làm lu mờ đi
cái màu tím liêu trai đậm đà của những bóng Hoa Ban Tím. Ban đầu, khi ở xa chị
Hạnh thét lên:“Triết ơi bằng lăng tím kìa!”. Khi đến gần tôi nói với chị Hạnh: “Hoa
Ban Tím chị ạh”. Màu tím Hoa Ban không đậm đặc như màu tím hoa sim, những cũng
không nhẹ nhàng tựa màu tím bằng lăng… nhưng màu tím của những nhánh Hoa Ban
Tím đủ gieo vào lòng người một chút lãng mạn một chút suy tư… Hoa Ban Tím là
cái tên văn vẻ kiêu sa, khi còn nhỏ tôi vẫn gọi nó cái tên rất dân dã bình dân
“cây móng bò”. Hoa Ban Tím là giống cây thân gỗ thấp, lá to, tán rộng hoa lại đẹp
thuần khiết, nhờ ưu điểm đó mà ngày nay ở Sài Gòn người ta bắt đầu trông Hoa
Ban Tím dọc theo con đường Lý Thái Tổ từ Ngã Bảy chạy dài tới bệnh viện Nhi Đồng,
cứ mỗi độ ra hoa con đường lại được điểm tô bằng cái màu tím dung dị lạ thường.
Hoa Ban Tím
Đi hết đường Nguyễn Văn Cừ,
rẽ trái theo đường Nguyễn Tất Thành, một trong những trục đường chính đẹp nhất
đi ngang qua bưu điện thành phố chúng tôi đến tượng đài chiến thắng – niềm tự
hào của Buôn Ma Thuột. Thành phố Buôn Ma Thuột, đến lượt nó, là niềm tự hào của
người dân cao nguyên. Buôn Ma Thuột là thủ phủ của Tây Nguyên có số dân đông
đúc sầm uất, là trung tâm hành chánh văn hóa kinh tế toàn vùng. Tên gọi Buôn Ma
Thuột xuất hiện từ khi nào không ai rõ, chỉ biết rằng, thuở xa xưa khi núi rừng
Chư Yan Sin còn liền một dãy vùng đất này không một bóng người, họa chăng có dấu
chân của đàn voi, bầy sói. Vị tù trưởng Êđê dũng cảm Y Thuột dựng cái nhà rông,
phát nương phát rẫy, lập buôn bên dòng suối Ea Tam. Bàn tay, ý chí con người
khiến thần núi thần rừng nhường bước, dân làng chặt cây làm nhà, tỉa bắp làm
nương, kết lá rừng làm áo, quần tụ nương tựa vào nhau. Buôn A ma Y Thuột – làng
của người cha vĩ đại tên Thuột – gọi tắt là Buôn Ma Thuột là cách người Êđê tự
hào về buôn làng mình giữa miền hoang dại.
Trong đoàn, trừ chị Hường –
người dân bản địa – tôi và chị Hạnh có lẽ là người biết nhiều nhất về Buôn Ma
Thuột. Tôi và chị đã loanh quanh không biết chán, lang thang trên những con đường
của thành phố, rong ruổi dọc theo những con đường nho nhỏ xinh xinh, nhìn ngắm
những căn nhà phố núi khép mình dưới những tán cây và mơ ước nếu không phải lo
toan mưu sinh kiếm sống thì không gì tuyệt bằng ở tại nơi này, giữa đại ngàn thẳm
xanh. Tôi thầm nghĩ nếu nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn xinh xắn người yêu ngồi uống
cà phê nghe tiếng chuông nhà thờ leng keng trong một chiều Buôn Ma mờ sương lạnh
chắc chắn mình sẽ làm nhạc sĩ hoặc chí ít cũng là ... nhà thơ lãng mạn. Buôn Ma
Thuột không phải là Sài Gòn nhưng khi nhìn con đường Nguyễn Tất Thành rộng
thênh thênh tôi nhớ đến con đường Lê Lợi và yêu biết bao Sài Gòn. Thỉnh thoảng
tôi bắt gặp một góc Sài Gòn náo nhiệt nằm gọn trong lòng Buôn Ma. Buôn Ma Thuột
cũng chẳng phải Hà Nội, song chị Hạnh một người yêu Hà Nội tha thiết, nhìn những
hàng hoa sữa lặng lẽ nép bên đường lại nhớ đến mùa đông Hà Nội... nhớ đến nhạc
sỹ Phú Quang và tấm chân tình của ông với Hà Nội:"tôi thường nghĩ về hạnh
phúc như một thoáng chợt hiện chợt tan. Sau khoảnh khắc hạnh phúc là nỗi trống
vắng đến tận cùng, nhất là khi cảm giác ấy đến với ta trong một đêm mùa đông Hà
Nội, khi ta trở về một mình trong cái rét đến tái tê và căn phòng vẫn thoảng
mùi hương hoa sữa như một điều có thực mà cũng như một điều không thực...". Không
thể nào cắt nghĩa được, đó là thứ tình cảm riêng tư, rất trong sáng mà người ta
gọi là quê hương. Buôn Ma Thuột vẫn là Buôn Ma Thuột, sự so sánh chỉ làm đẹp
thêm phố núi vốn đã mê hoặc kỳ bí.
Trưa lắm rồi. Trời vẫn lồng
lộng nắng gió! Thị trấn Ea T’Linh[2] đón chào chúng tôi bằng sự mệt mỏi và
cơn đói cồn cào. Nhưng không chỉ có vậy, tất cả sự mệt nhọc tan biến khi con đường
đến thác Dray Sap dần dần lộ diện. Cao nguyên huyền thoại đã không phụ lòng người
du ngoạn. Một cung đường vòng vèo không thể nào vòng vèo hơn được nữa, cứ cong
qua vẹo lại làm xiếc khiến người điều khiển xe máy cũng phải lượn lờ rã rời đôi
tay. Con đường hồng hào bụi đỏ nằm vắt vẻo trên một cái nền màu xanh lơ. Một
bên là đồi, đồi và đồi, hết ngọn đồi này đến ngọn đồi khác; một bên là dòng
Sereppok đỏ ngầu vờn lên một nỗi tức giận mơ hồ uốn lượn men theo con đường
quanh co như bóng với hình. Từ trên đỉnh đồi nhìn xuống, thấy thung lũng lưa
thưa những cây bụi thấp xanh thẫm không đủ che lấp màu đất đỏ. Khắp nơi phủ một
màu bụi đỏ, bụi đỏ vướng víu theo những vòng xe, bám lên áo quần, sền sệt trong
những vũng nước đọng lại bên đường. Người dân nơi đây đã tìm ra thứ đất sét đỏ
đèn bên bờ sông Sereppok để làm gạch, họ xây những lò nung đỏ quạch hai bên đường.
Còn tôi đến đây không tìm thứ đất sét gắn chặt với cuộc đời người thợ đóng gạch,
mà đi tìm thứ đất đỏ vấn vương làm hồng đôi má đôi môi cô gái vùng cao, làm mỡ
màng những vườn tiêu vườn cà phê sai trái trĩu hạt và nhất là thứ đất đỏ thắm bền
chặt trong trái tim người dân Buôn Ma Thuột. Thứ đất ấy càng nung càng thắm mãi
lên một màu đỏ âm âm huyền ảo.
Thác Dray Sap
Con đường lên dòng thác Dray
Sap cũng thay sắc đổi màu lẹ làng như thời tiết giao mùa từ sắc vàng mùa thu
sang sắc trắng của mùa đông, rực rỡ khi xuân về và hồng hào mỗi độ con ve sầu
kêu rả rích. Vượt qua những đám bụi đỏ mù con đường khoát thêm tấm áo choàng
xanh xanh màu lá điểm tô bằng những đóa hoa chôm chôm trắng toát mà ban đầu tôi
cứ tưởng đâu là hoa cà phê tung cánh phủ mờ...
Vòng xuống những bậc thang,
khập khiễng vượt qua trùng điệp đá mát lạnh dưới tán cây rừng. Dòng thác Dray
Sap hiện ra hùng vỹ và đẹp mơ màng hư ảo. Ấn tượng đầu tiên là đá, đá rải dọc bờ
thác, có đoạn tương đối ngay ngắn bằng phẳng, có đoạn vung vãi tung tóe như thể
một con quái vật nào đó ném chúng ra trong cơn giận dỗi cùng cực. Dòng nước khá
rộng, ven bờ nhiều lùm cây cao tỏa bóng mát rười rượi. Thác nước không tập
trung mà tỏa ra chia làm năm bảy ngã đổ xuống, ầm ì mải miết reo vang muôn thuở
giữa đại ngàn thẳm xanh. Đứng dưới nhìn lên ta thấy hơi nước mờ mịt bay như một
lớp sương mù bao phủ ngọn thác, bao phủ du khách bao phủ cả núi rừng Krong Ana.
Tôi hiểu vì sao người dân Êđê lại gọi đây là dòng Thác Khói bởi cái mịt mù hư ảo
của khói nước mênh manh bàng bạc nỗi bất hạnh tình yêu. Dòng thác này, không
gian này đã lưu giữ huyền thoại về chuyện tình đớn đau của cô gái H’Mi xinh đẹp
như đóa hoa lan bên dòng Sereppok. Nàng H’Mi đã từ chối lời cầu hôn nhiều chàng
trai quyền quý từ khắp các buôn làng Êđê, M’Nông để đến với người yêu cùng buôn
tuy nghèo nhưng hiền lành, chịu thương chịu khó. Một hôm, H'Mi cùng người yêu
đi thăm rẫy. Đường xa hai người dừng chân nghỉ lại bên một tảng đá lớn, bỗng có
một con quái vật xuất hiện, đầu nó to như một quả núi, mắt nó đỏ như lửa, toàn
thân quái vật sáng lóa lên, với những vẩy vàng, vẩy bạc... Từ trên cao quái vật
lao xuống nhúng mỏ vào dòng nước, sau đó một cột nước khổng lồ dâng cao quét về
phía cô gái, còn chàng trai bị nước ném xa lên bờ, ngất đi... Khi tỉnh dậy thì
người yêu đã bị bắt đi mất. Quá đau khổ chàng trai hóa thành một cây to, rễ cây
đâm sâu vào tảng đá, toàn thân cây phát ra những tiếng kêu than vãn, đau
thương, nhung nhớ... Chỗ chàng trai đứng bây giờ là rừng cây trên bờ đá, còn chỗ
quái vật lao xuống đá lở thành thác Draysap ngày nay…
Thác Dray Sap nằm chỗ giáp
ranh giữa hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông, cách thị xã Buôn Ma Thuột 30 cây số về
hướng Tây Nam theo quốc lộ 14 ngược về phía thành phố HCM, thác nằm giữa rừng
nguyên sinh xa vùng dân cư nên không khí trong lành, vẻ đẹp tự nhiên và quyến
rũ. Chúng tôi ngồi giữa những tán cây rừng, một bên là dòng thác, một bên là
vách đá dựng đứng phủ đầy dây leo bao nỗi vất vả, nhọc nhằn bon chen trên đường
tan biến tự bao giờ. Bữa cơm trưa nhanh chóng được dọn ra, chúng tôi chia nhau
những ổ bánh mì trong tiếng cười nắc nẻ. Sau một hồi "chiến đấu" tận
tình bánh mì thịt nguội được cất kỹ trong những bao tử lép xẹp, mọi người lim
dim tìm chỗ ngả lưng giải quyết nhu cầu chính đáng… ngủ. Tôi cũng mệt mỏi và
thèm một phiến đá phẳng phiu nhưng có cái gì đó ở nơi núi rừng này cuốn hút,
lôi kéo tôi theo những lối mòn đi ngược lên đỉnh dòng thác. Con đường mòn trơn
trượt, ẩm ướt bởi khói nước quanh năm suốt tháng. Mới đầu do không quen tôi trượt
lên trợt xuống mấy lần đến nỗi phải rón rén cởi giày. Tôi cứ nghĩ khổ thân hóa
ra lại là diễm phúc, đã lâu lắm rồi không có cảm giác nhồn nhột nghe thứ đá thô
ráp sắc nhọn xoa nhẹ lòng bàn chân. Con người thật lạ lùng, chính ngày xưa vì sợ
bàn chân bị trầy xướt người ta nghĩ ra đôi dép đôi giày, dáng này kiểu nọ rồi
cũng đến lúc phải đi mát – xa chân để chữa bệnh. Đôi lúc tôi nghĩ (hơi buồn cười)
sao không bỏ quách đôi dép trần chân đi lại có phải hay ho không nhỉ? Liệu pháp
kỹ thuật đâu có bằng liệu pháp thiên nhiên… con người đã quên mất bà mẹ thiên
nhiên vĩ đại đã sản sinh ra nhân loại. Khi đã quen dần với sự trơn trượt, tôi
leo thoăn thoắt và mở ra cho mình một cánh cửa một góc nhìn mới mẻ về dòng thác
Dray Sap. Ở phía hạ nguồn dòng hung hãn bao nhiêu thì trên thượng nguồn nó hiền
lành bấy nhiêu. Trái với sự tưởng tượng của nhiều người dòng sông Sereppok đoạn
không sâu lắm có chỗ chỉ cạn đến hơn mắt cá chân nước chảy hiền hòa trong vắt…
một nhánh khác nước chảy xiết hơn, tôi thấy toán học sinh vượt ngang dòng nước
dắt díu nhau đi ra đến tận bờ đá chỗ dòng nước bắt đầu đổ xuống. Đứng ở đấy mà
nhìn xuống cảm giác như mình trên đỉnh cao đạp dưới chân mình cả dòng thác hung
hãn tung bọt trắng xóa, cả núi rừng xa tít tắp không không điểm dừng sảng khoái
biết bao. Điều ngạc nhiên hơn ở vùng núi heo hắt này mà bà con dân tộc vẫn tỉa
ngô trên những khoảnh đất nho nhỏ xen lẫn giữa thác đá và những tán cây rừng…
Chúng tôi đi trở ra qua cầu
treo bắt ngang dòng thác, luồn lạch giữa những rẫy ngô đã thu hoạch chỉ còn trơ
lại thân xốp vàng hoe, thấp người qua những bụi tre gai chằng chịt để đến chân
thác… Ở đây, khói nước còn mù mịt hơn trước, bụi nước li ti bám đầy người, đọng
trên quần áo long lanh trên những mái đầu. Tôi, Huấn và anh Trị nổi hứng trẻ
con thi nhau thét thật to đọ sức với tiếng nước ầm ầm tuôn chảy… nghe đã điếu
trong lòng. Nắng lên. Bất chợt một dãy màu sắc hiện lên rạng rỡ, mờ ảo trong tầng
tầng lớp lớp khói bụi. Tuyệt đẹp! Cầu vồng! Cầu vồng sau mưa hẳn đã gieo vào
tâm trí tuổi thơ những ước mơ, kỳ vọng. Cầu vồng dưới chân thác Dray Say khi tỏ
khi mờ gần lắm, gần đến nỗi tôi cảm tưởng có thể tóm chặt chúng trong đôi bàn
tay mình. Tôi đưa tay ra song chỉ chạm vào hư không chẳng thể nào nắm bắt được
vẻ đẹp kỳ ảo của cầu vồng. Không phải sau mưa hay khi nào hửng nắng dưới chân
thác Dray Sap mới có cầu vồng. Cầu vồng là ánh sáng, ánh sáng tràn ngập khắp
nơi nơi. Nắng chỉ làm rực rỡ thêm vẻ đẹp tự nhiên của ánh sáng. Cũng giống như
tình yêu, không phải không nói ra là không tồn tại, có những thứ không thể cầm
nắm, không thể nhìn thấy, không thể nếm trải nhưng nó vẫn hiện hữu và người ta
chỉ có thể lắng nghe bằng nhịp đập trái tim mình...
Chiều dần buông, bóng chiều
dâng nhẹ lên dần từ sắc áo đại ngàn. Chân trời đằng tây níu kéo một góc mây rán
đỏ cực đậm. Nhưng rồi cả đất trời chuyển dần sang màu lam, một màu lam sâu sắc
và thủy chung, nó diễn tả đúng cái chất của rừng núi Đắk Lắk. Cái màu lam đẹp đẽ
ấy không tồn tại lâu, chuyển sang màu chàm rồi màu tím thẫm một niềm im lạnh.
Tôi bật đèn và nhận ra... xe không đèn pha, chỉ có hai chiếc đèn xi-nhan nhỏ
xíu như hai con mắt le lói trong đêm. Đường đèo lạ lẫm bắt đầu tối đen. Tôi
ngán nhất là những chiếc xe đò ngược chiều trong đêm, không biết bác tài có thấy
được hai cái đốm sáng le lói không mà cứ lấn trái, khi đó tôi vội đánh xe sang
phải đôi lúc tràn cả xuống lề. Thỉnh thoảng, một chiếc xe máy cùng chiều vượt
lên tôi ngó ngang nhìn những gương mặt chờn vờn nhờ thứ ánh sáng hắt ra từ ánh
đèn pha. Tôi và chị Hạnh dò dẫm chạy cô đơn trong màn sương lạnh buốt. Không
gian xung quanh đặc quánh lại nhất là khi chúng tôi đi ngang những mẫu cao su
thâm u trong đêm. Đường không xa lắm nhưng chính sự mỏi mòn khiến con đường dài
ra vô tận...
[1] Chư Yan Sin là đỉnh núi
cao nhất của Đắk Lắk cao 2.442m
[2] Ea T’Ling là thị trấn
thuộc tỉnh Đắk Nông giáp ranh với Đắk Lắk.
Phần 4 - Trăng miền sơn cước
Sáng ngày thứ hai, tôi thức
dậy sớm, làm vài động tác thể dục đơn giản, có một động tác Yoga tôi học lóm
trên tivi. Làm không giống lắm, người khác nhìn chắc buồn cười! Mọi người vẫn
chưa thức dậy, không gian tràn ngập một niềm im lặng. Thoang thoảng trong không
trung cái gì dìu dịu, nhẹ nhàng, thanh thoát. Hương gì thế nhỉ? Thơm tho, khi mờ
khi tỏ phảng phất lướt qua như hương tóc cô gái bước đi lòa xòa trong gió. Nguyệt
quế - nhà chị Hường hay trông mấy thứ hoa linh tinh trước hiên nhà trong đó một
bụi nguyệt quế. Cái loài hoa chi lạ rứa? Chỉ tỏa ngát khi đêm về, sáng ra khi
ông mặt trời chưa thức giấc nó đã vội giấu hương thơm đằm thắm lẩn vào những
cánh hoa trắng muốt xinh xinh. Tôi nhẹ mỉm cười bước chầm chậm ra sân nhớ đến một
bài thơ của Lam Hồng…
Biết
ngày bận chẳng về thăm
Nên em dâng chút hương thầm về đêm
Ngày còn khi nhớ khi quên
Đêm, hương thầm mới là riêng của mình.
Nên em dâng chút hương thầm về đêm
Ngày còn khi nhớ khi quên
Đêm, hương thầm mới là riêng của mình.
Thinh không bảng lảng, mơ
màng, chẳng phải sương mù cũng không mưa thành hạt, nhưng ẩm ướt, cảm giác như
không gian giăng đầy một màn nước li ti mát lạnh. Cả đêm không nghe mưa, sáng
ra giàn mướp trước sân sóng sánh hoa vàng, hơi sương đêm lăng quăng đọng thành
từng giọt trên những cánh hoa, viền quanh mép lá, long lanh như giọt nước mắt của
đêm chờ đợi tia sáng mặt trời để hóa thân trong một phút giây huy hoàng. Bất chợt
một đàn chim sẻ nhỏ vụt qua cất tiếng chút chít buồn bã bay xa không để dấu vết
gì trên nền trời trắng xám.
Chạy quanh sân vài vòng, tiếng
là tập thể dục mà thật ra là để ngắm nghía vạn vật. Không hiểu sao khung cảnh
trong sáng như tấm bình phong kia mở ra trong lòng tôi một nỗi buồn vô cớ bất
chợt mà như đã tồn tại lâu lắm rồi, mơ hồ lại rất rõ ràng y hệt giọt sương đọng
trên cánh hoa mướp vàng thoáng chốc mất hút vào hư không.
Tôi có thói quen uống cà phê
và trà buổi sáng. Sáng nào không làm một tách cà phê một chén nước trà thấy
thiêu thiếu chút gì đấy. Chút gì đấy không đến nỗi rung tay rung chân nhưng vẫn
tí ti khó chịu trong mình. Tôi nấu nước định sẽ pha cho mọi người một ấm trà thật
đậm đặc, song khi nước lăn tăn sôi Tiến rủ đi uống cà phê ở chợ Ea phê. Tôi
châm nước vào ấm rồi bỏ mặc đấy lao vút ra chợ bằng xe máy làm ầm ĩ phố núi lặng
im. Chúng tôi ngồi nhâm nhi tách cà phê cao nguyên nghe ba chị Hường nói chuyện.
Dáng người ông cao lớn, tóc đã pha sương nhưng vẫn còn tráng kiện. Nhìn vẻ
ngoài mạnh mẽ ấy người ta có thể mường tượng về một thời trai trẻ ngang dọc của
ông. Bằng chất giọng sang sảng ông kể về những tay săn voi, về những tảng thịt
voi nặng hàng chục kí được người Ê đê gùi ra chợ bán cách đây vài chục năm. Kỳ
lạ hơn là cách chữa bệnh không theo một nguyên tắc y khoa hiện đại nào của thầy
lang người dân tộc… những câu chuyện những truyền thuyết ấy làm cho vùng đất
này thêm bí hiểm. Cà phê Buôn Ma Thuộc không ngoa, đậm đặc đến ngầy ngật, tôi uống
được nửa tách đành bỏ dở phần còn lại. Ngồi trong quán dưới tàn bông giấy ngắm
trời mây, non nước và nghe say mê những câu chuyện huyền hoặc.
Sau bữa ăn sáng, chúng tôi
ngồi uống trà trên bộ salon vừa nghe tin tức buổi sáng. Khi uống trà, nhất là
khi tách trà còn nóng hôi hổi, tôi có thói quen ôm chặt lấy thành tách để hơi ấm
thấm vào lòng bàn tay, len vào từng kẽ tay. Đôi tay ấy áp lên má thì ấm áp biết
dường nào. Một thói quen khác, gần như cố hữu, không bỏ được, tôi hay dùng cả
lòng bàn tay để bịt kín tách trà, thưởng thức cái hương trà thơm nồng nàn trong
lòng bàn tay chính mình. Tính ra tôi không phải là người sành về trà, cách uống
trà của tôi cũng không điệu đàng như trà Nhật trà Tàu. Người Trung Hoa được biết
đến như là người đầu tiên biết uống trà, người Nhật Bản có văn hóa trà đạo. Đạo
là con đường, trong tiếng Hán chữ đạo gồm bộ xước (đi) và thủ (đầu) tức là đi
tìm đến cái căn nguyên đầu tiên, uống trà là cái cớ để đi tìm cái căn nguyên đầu
tiên, căn nguyên xuất phát từ tâm, bởi vậy trà đạo là thiền là trở về với con
người thực tại. Bởi thế người Nhật cố tình tạo ra khung cảnh trà thất vách bằng
thứ gỗ mộc, một bếp lửa nhỏ, một ấm nước, một bức tranh thủy mặc. Ngồi trong
không khí đó, nghe tiếng nước lăn tăn sôi, dõi theo hơi thở, giữ tâm mình trong
từng động tác nghi lễ. Ấy là trà đạo. Ấy là nương vào trà mà giữ đạo. Người Việt
mình dạo gần cũng học đòi cách pha trà thanh tao người Nhật, buồn một nỗi là bắt
chước mà không tới cốt tủy, được hình thức mà mất nội dung, đôi khi cầu kỳ dị hợm.
Học hỏi giao lưu văn hóa tất nhiên tốt nhưng mình là người Việt phải giữ cái hồn
dân Việt, uống trà theo kiểu người Việt.
Xưa nay trà là đạo.
Khát cứ việc uống thôi.
Nghĩ thêm trà với đạo.
Đầu thượng trước đầu rồi!
Khát cứ việc uống thôi.
Nghĩ thêm trà với đạo.
Đầu thượng trước đầu rồi!
Kiểu người Việt đấy à vô
môn, không lề lối quy cách gì cả, chỉ pha sao cốt tự mình uống tự mình thấy
ngon. Thế là đủ… uống trà để giải khát, nghe hơi tầm thường đơn giản thật ra đó
là cái nhìn phương tiện, tự do và sâu sắc.
Hết chuyện trà dư tửu lậu,
chúng tôi đánh xe bon bon trên cung đường quen thuộc về Buôn Ma Thuột rẽ ngang
đường Phan Bội Châu theo hướng Tây rồi đi thẳng về Buôn Đôn nằm bên bờ sông
Sereppok. Trái với dự đoán, đường đi Buôn Đôn vắng tanh. Thỉnh thoảng xa xa, lấp
ló trong rẫy ngô một ngôi nhà gỗ đóng bằng loại ván bạc thếch xẻ cẩu thả từ
thân cây rừng vẫn còn nổi lên những mắt cây sẫm màu. Đúng là chỉ ở rừng người
ta mới có kiểu làm nhà hoang phí bằng thứ ván xẻ loại này. Ở quê tôi, miền Tây,
người ta làm nhà bằng lá dừa. Lá dừa khi còn tươi được đầm cho bằng phẳng rồi
phơi khô, kết lại thành từng tép đùng để làm vách hoặc lợp mái.
Lâu lắc lại thấy đàn bò
thong thả gặm cỏ bình yên hưởng nắng gió và mây trời. Vùng này người dân không
trồng cà phê, khắp nơi màu lá cây khoai mì, lá ngô loang lổ miền đất đỏ, điểm
tô màu vàng hanh hao của rẫy ngô hoang tàn sau mùa thu hoạch. Đi giữa khung cảnh
nghèo khó cũ kỹ như vầy người ta không thể nào vui được, tôi hỏi chị Hường về nỗi
băn khoăn dã quỳ của mình, tôi nặng nợ với vùng đất cao nguyên phần cũng bởi muốn
thưởng thức màu hoa dã quỳ rực rỡ vàng. Chị bảo mùa này không có dã quỳ, không
có dã quỳ vì dã quỳ là hoa báo đông, chiếc hàn thử biểu tự nhiên của đất trời.
Cứ hễ hoa quỳ nở vàng khắp nơi trên đồi dưới lũng và nắng chuyển sang màu trong
suốt vàng như mật là con người được mách bảo rằng, mùa thu đi qua rồi đấy, cái
lạnh tê tái sắp sửa tràn về. Có kẻ quay quắt nhớ quê đã viết rằng, sống ở cao
nguyên thì dù ở tuổi nào cũng không thể tránh khỏi nỗi rạo rực dã quỳ. Sương, nắng
và cái mùi hăng hắc cúc quỳ dường như là chất keo tổng hợp níu kéo tâm hồn người
xa xứ. Không có những rặng dã quỳ ken dày trên con đường đồi núi quanh co đại
ngàn thiếu đi nét đẹp lung linh kỳ mỹ một sắc hoa rỡ ràng hoang dại. Biết rằng
đó là tạo hóa tự nhiên bình thản sao lòng người du ngoạn cảm thấy đánh mất một
thứ gì đấy quý giá vô cùng tiếc nối… tiếc nuối cho dã quỳ… tiếc nuối một bóng
hình..hay tiếc nuối cho chính mình?
…
Đi về bên đồi vắng
Nghe dã qùy thở than
Tìm đâu trong chiều nắng
Dáng đông xưa mơ màng
Nghe dã qùy thở than
Tìm đâu trong chiều nắng
Dáng đông xưa mơ màng
Vẫn một màu hoa ấy
Còn trên đời, em – tôi
Mà xa nhau đến vậy
Xa mãi tận chân trời?
Còn trên đời, em – tôi
Mà xa nhau đến vậy
Xa mãi tận chân trời?
Thiên nhiên không trải màu
dã quỳ vàng cháy triền đồi đền đáp bằng cách ban phát khắp nơi rung rinh thứ
hoa cúc dại trắng tinh bé xíu, cành lá khẳng khiu vươn đầy bụi đỏ. Cúc Xuyến
Chi, tôi vẫn thường gọi thế, tên một người con gái xinh đẹp bất hạnh tật nguyền
biết yêu bằng cả tấm lòng trong sáng. Tình yêu con người đôi khi thật lạ, nó âm
thầm tuyệt đối hơn cả dãy Chư Yan Sin hùng vỹ. Mỗi loài hoa có ý nghĩa riêng của
nó, đó là thứ tình cảm thiêng liêng như mạch nước ngầm chảy dưới đất sâu. Nếu
hoa cúc quỳ là biểu tượng của sự lạc quan, rạo rực sống thì hoa cúc dại là hình
ảnh ngây thơ trong trắng. Những bụi hoa cúc, những cánh hoa trắng muốt rập rờn
trong gió gieo vào lòng người nỗi sợ hãi mỏng manh dễ vỡ như khi người ta lỡ
tay đánh rơi một chuỗi hạt lấp lánh pha lê…
Gần đến Buôn Đôn chúng tôi rẽ
ngang đến địa điểm nằm sát bên bờ sông Sereppok. Khu vực này là sân sau tòa nhà
ban quản lý rừng quốc gia Yokdon. Đứng bên bờ sông bên này mát lạnh người ngó
sang bờ bên kia thấy điệp trùng một màu xanh ngắt. Tôi biết là chúng tôi rất gần
biên giới, cảm giác đứng ở nơi tận cùng tổ quốc lúc nào cũng đặc biệt. Chúng
tôi len lỏi dưới tán cây, leo trèo thoắt ẩn thoắt hiện trong đám rễ si lùng
nhùng rũ rượi. Người ta cho xây mấy chiếc cầu cáp treo lát gỗ là đà trên mặt nước,
vài căn chòi bằng ván xẻ trên những chạc ba chạc tư kín đáo. Nhưng dù sao cũng
không giấu được vẻ điêu tàn không bàn tay người chăm sóc nên mục nát lạnh lẽo.
Dòng sông nơi đây không giống
như con sông Tiền quê tôi. Con sông Tiền nước chảy hiền hòa rộng lớn ở đoạn hai
bờ sông gần nhau nhất cũng phải hơn tám trăm mét, còn chỗ xây cầu Mỹ Thuận thì
hai bờ cách nhau tròm trèm một cây số. Chính cái mạnh mẽ rực lửa của vùng đất
cao nguyên đã tạo nên tính cách rất riêng của địa hình địa vật nơi đây. Dòng
Sereppok không thể nào bì được con sông Tiền về cái khoáng đạt rộng rãi nhưng
bù lại nước chảy cuồn cuộn, réo rắt suốt đêm ngày về xuôi chẳng khi nào ngừng
nghỉ. Sereppok không phải là dòng sông lớn nhất Tây Nguyên nhưng tính nết trái
khoáy của nó thì không dòng sông nào có được. Khởi nguồn từ rừng quốc gia Chư
Yan Sin cách thành phố Buôn Ma Thuộc khoảng 60 cây số về phía Đông thuộc địa phận
hai huyện Lak và Krong Bong. Phía bắc rừng Chư Yan Sin là suối Ea K’Tour chảy
theo hướng bắc nam nhập vào Krong Nô (sông đực), Krong Nô - đến lược nó - hợp
lưu sông Krong Na (sông cái) rồi tất cả đổ ra Sereppok. Dòng sông đỏng đảnh uốn
mình ngoằn ngoèo trên cao nguyên Đắk Lắk tạo ra nhiều thác nước đẹp mê hồn như
thác Dray Sap, Dray Nur, Gia Long, Trinh Nữ… trước khi đi vào địa phận vườn quốc
gia Yokdon, mải miết chảy về tây qua bên kia biên giới Campuchia. Sereppok là một
trong hai con sông ở Việt Nam không đổ ra biển Đông. Con sông thứ hai là sông
Đà nổi tiếng của vùng Tây Bắc đất nước chẳng xuôi về biển lớn mà ngược lên hướng
Bắc qua biên giới Việt Trung từng được nhà văn Nguyễn Tuân nhắc đến trong tập
bút ký Sông Đà.
Đến Buôn Đôn chúng tôi gởi
xe rồi đi vào khu du lịch cầu treo bắt ngang dòng Sereppok. Dòng Sereppok ở đoạn
này nước chảy không thật dữ dội, dòng nước lại hẹp, giữa dòng lại có một đảo nhỏ
Eano. Bên này bờ sông có mấy cây si cổ thụ, cành lá lùm xùm vươn dài, đan chéo
vào nhau bền chặt thân tình tưởng như không thể nào ngã được. Lợi dụng những
nhánh si làm giá đỡ người ta dựng vài chiếc cầu treo bằng cáp sắt lát gỗ luồn lạch
dưới tán si, liên thông và lơ lửng giữa không trung. Mới lần đầu dò dẫm lên cầu
treo cảm giác là lạ. Đầu tiên là nỗi sợ hãi trước cái lắc lư chao đảo rất riêng,
khi đã quen thân và bước chân đã dạn dĩ hơn mọi người lại thích thú vừa rung lắc
vừa chạy thật nhanh trên cầu như những đứa trẻ con tinh nghịch. Giữa xanh um
cành lá còn có những sàn gỗ phục vụ du khách nghỉ chân, ăn uống. Trưa, chúng
tôi gọi một con gà, dĩa thịt heo rừng ít cơm Lam và trải chiếu ăn ngay tại chỗ.
Trái với sự tưởng tượng của tôi, hơi thất vọng một chú vì người ta đã thương mại
hóa món cơm Lam, làm mất đi cái chất dân dã núi rừng của món ăn đặc biệt này.
Song đối với tôi đó chỉ là một chấm nhỏ trên tờ giấy, chúng tôi đã ngồi bên
nhau nhấm nháp ché rượu cần, lắng nghe tiếng nước réo rắt dưới chân cảm nhận từng
cơn gió từng tiếng xao động quanh mình…
Người dân bản làng nơi đây
thật biết cách làm ăn. Anh chàng giữ xe cho chúng tôi, khoát bộ cánh bằng thổ cẩm
đen hơn cột nhà cháy nói tiếng Kinh như gió và sẵn sàng: “Hello, can I
help u?” với khách Tây balô. Mấy cô gái dân tộc đứng ở quầy hàng lưu niệm
cười tươi như hoa bán hàng trông ra dáng bà chủ lắm. Ở đây còn có dịch vụ cưỡi
voi với giá cả khá đắt đỏ, hai trăm nghìn cho một tiếng đi lòng vòng buôn Đôn
(nghe đồn là còn cưới voi vượt dòng Sereppok), nếu du khách nào muốn đứng chụp
hình chung với voi phải chi năm mươi nghìn để có mười lăm phút “riêng tư”. So với
nhiều địa phương khác, Đắk Lắk có nhiều cảnh quan thay đổi tuyệt đẹp, đặc biệt
là văn hóa dân tộc được hình thành từ hàng trăm năm qua mang bản sắc văn hóa độc
đáo đặc sắc. Tuy nhiên phát triển du lịch như thế nào để vừa bảo vệ môi trường
thiên nhiên hoang dã, vừa giữ được nét văn hóa truyền thống không phải là điều
dễ dàng. Và tôi luôn mong mỏi rằng vùng đất này sẽ mãi giữ được cái trầm hùng vững
chãi trước sự biến đổi của thời gian.
Chiều lắng lại, nhìn vượt
qua những khoảng ruộng lúa chín vàng suộm, phía đằng xa tít tắm, ngọn núi im lìm
trầm mặc chuyển dần từ màu lam sang màu tím sẫm rồi thẫm lại một cách huyền bí.
Xa xa, trải dài trên sóng lúa và đỉnh núi đọng lại những bóng nắng chênh vênh,
đỏ thẫm như những vệt son yêu kiều. Hoàng hôn lặng lẽ ùa về.
Gia đình chị Hường là một
gia đình lớn hiểu theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Cả nhà chị có mười anh chị
em, chưa tính thêm dâu rể. Anh em hòa thuận và thương yêu nhau, và hình như đều
có cơ ngơi ổn định, khá giả. Không ai nói ra nhưng ai cũng cảm nhận được cái
không khí gia đình đầm ấm và thân thương đó. Chiều tối hôm ấy, nhà chị Hường mở
tiệc khoản đãi mừng chị Hường vừa đậu cao học ngành xã hội. Trong buổi tiệc tôi
quen biết được thêm anh Thảo và chị Tâm, hai người bạn thân nhất của chị Hường
khi còn đi học. Anh Thảo là dân kinh tế, sau khi ra trường anh ở lại Sài Gòn
làm sale xuôi ngược mấy năm trời… cuối cùng rồi anh cũng trở lại Eea Phe để làm
cho một công ty hóa dược nào đấy. Tôi hỏi anh vì sao anh lại quay trở về nơi
này. Anh bảo: “Ừ ở đấy có cơ hội thật, nhưng anh chán Sài Gòn lắm rồi,
chán những buổi nhậu nhẹt cùng đối tác nửa đêm về sáng?”. “Còn gia đình?”. Anh
cười vừa khinh bạc vừa xa vắng:“Cũng phải tính chứ nhưng mà…”. Sài Gòn với anh
dầu gì cũng là đất khách, mà đất khách thì bạc lắm… hơn vôi nữa. Chỉ có nơi đây
lúc nào cũng mở rộng vòng tay đón anh quay về. Anh không thể xa mảnh đất mình
được sinh ra và lớn lên, hay có người con gái nào đấy mà anh không nỡ quên
chăng? Anh không nói song tôi biết ba chấm lơ lửng ấy chứa đựng rất rất nhiều
tâm trạng và trăn trở. Giống như giữa bầu trời và mặt đất lúc nào chẳng có khoảng
cách, làm gì có đường chân trời. Con người tưởng rằng có thể bước lên trời bằng
cách đi đến tận cùng mặt đất. Nhưng càng đi càng thấy bầu trời cao mãi lên, mặt
đất rộng mãi ra và con người ngày càng cô đơn khi nhìn thấy vết chân chính
mình.
Còn chị Tâm, tốt nghiệp Sư
Phạm Quy Nhơn ngữ văn Anh 7 năm trong nghề và nhận ra cái nghề “gõ đầu trẻ” quá
nhiều tiêu cực. Chuyện này tôi biết bởi đơn giản ba tôi cũng là nhà giáo… nhà
giáo phó thường dân kêu không ai nghe, gõ cửa không ai mở mà ức quá hét lên thì
cũng giống như mình tự chửi mình vậy thôi! Khi gặp tôi cũng là lúc chị đang rất
lưỡng lự nửa muốn về Sài Gòn thử sức mình ở một công việc khác. Tôi nói chuyện
với chị đôi ba câu… Chị bảo công việc ở đây ổn định đến nhàm chán, nhiều chuyện
chướng tai gai mắt chẳng thể nào nói ra được, tóm lại mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi
cảnh. Chị cũng biết ở Sài Gòn bấp bênh lắm… biết rồi mọi việc có suôn sẻ hay
không? Người Sài Gòn như tôi có lẽ sẽ chẳng bao giờ cảm nhận được hết nỗi băn
khoăn trong lòng chị.
Hồi đó người chị họ lớn hơn
tôi vài tuổi thời mới năm nhất học giỏi nhất trường nói như đinh đóng cột với
nhà báo rằng: “Ra trường em sẽ về quê em công tác để xây dựng tỉnh nhà”.
Năm chị họ tôi ra trường nhứt quyết bám trụ lại Sài Gòn dù cầm tấm bằng cử nhân
loại xuất sắc cũng phải chạy vạy làm gia sư đầu này đầu kia phán một câu xanh rờn
chẳng kém: “Về đấy àh! Đồng lương ba cọc ba đồng làm cái gì, cạp đất sống
phải không!”…. Chẳng ai trách được, cuộc sống mà! Người Sài Gòn có câu: “Sài
Gòn hoa lệ, hoa dành cho người giàu, lệ dành cho kẻ nghèo” để nói lên sự
khắc nghiệt trong mưu sinh kiếm sống ở thành phố năng động bậc nhất cả nước.
Nhưng người ta không biết rằng người Sài Gòn dễ mến, đất Sài Gòn bao dung. Sài
gòn là nơi nuôi dưỡng những ước mơ… Tôi vừa cười vừa bảo: “Ở Ea Phê này
không có người nào níu kéo hả chị?”. Chị cười lấp lánh: “Ờ thì cũng có
nhưng… “. Lại ba chấm lửng lơ giữa dòng. Chị không nói thêm nhưng tôi đoán chị
sẽ ra đi, mặc dù chị còn lưu luyến mảnh đất này lắm lắm. Miền đất này là nơi gắn
bó máu thịt; nó là niềm hạnh phúc vô biên và cũng là chiếc vòng dây kềm tỏa con
đường phía trước. Một người mệt mỏi trở về, một người hăm hở ra đi. Chẳng có ai
đúng ai sai, không có con đường chung cho tất cả mọi người, chỉ có con đường
riêng mà mỗi người phải tự mình chọn lấy và bước đi. Tôi nghe tiếng vọng mơ hồ
phả về từ Sài Gòn phố thị rực rỡ đèn màu. Tiếng vọng ấy có sức hút đầy ma lực,
không phải tiền bạc mà là khát vọng sống vươn lên.
Khuya, chúng tôi rủ nhau đi
uống cà phê, ở Ea Phê, giữa núi rừng Đắk Lắk này không nhiều quán xá lập lòe biển
hiệu, không phim hay, không cả những tiện nghi sang trọng. Chỉ có những quán cà
phê lẻ loi bên đường cho những tâm sự vắn dài, những cuộc hàn huyên hạnh ngộ.
Tôi không nhớ rõ tên quán là gì chỉ nhớ man mán nó mang âm hưởng và hơi hướm
sân vườn Sài Gòn trong phong cách trang trí… xanh, đỏ, mờ, ảo… một ít nước non
cây kiểng và những bản thư pháp thơ đường xướng họa. Thật là lạ ở thành phố đất
chật người đông, người Sài Gòn thèm những khoảng không riêng tư, thèm một khoảng
xanh giữa lòng bụi bặm mới cần đến cà phê sân vườn như một sự cứu rỗi và giải
thoát. Đối với người Sài Gòn mà nói cà phê không phải để uống cà phê, cà phê là
bù khú, tán ngẫu, là tâm tình nên cần lắm những khoảng lặng mộc mạc quê mùa.
Còn ở đây, giữa lòng đại ngàn thẳm xanh, người ta lại chịu khép mình vào bốn bức
tường vào cái không thật mang nhãn hiệu thật. Có điều chỗ ngồi chật hẹp nhưng ấm
cúng, chúng tôi đã nói với nhau rất nhiều chuyện: tình yêu, gia đình… tranh luận
sôi nổi chuyện rất thời sự nóng bỏng kiểu như chuyện dài giáo dục Việt Nam. Chỉ
có Huấn không tham gia tích cực tự bỏ ra ngoài hóng gió. Giao nói nhỏ với tôi: “Em
thích những người như vậy, biết sống vì bản thân mình”. Tôi mỉm cười đồng thuận.
Đối với tôi, Huấn, Giao những người ngồi đây đã đang sẽ là bạn. Mỗi người một
quê, một hoàn cảnh lẽ đương nhiên nhìn nhận sự việc hoàn toàn khác nhau. Họ và
tôi phải duyên hạnh ngộ, điều đó chẳng phải đã tuyệt diệu lắm rồi sao. Còn mong
gì hơn thế nữa!
Khuya, chúng tôi về nhà trên
con đường vắng lặng không một bóng người trải đầy ánh trăng. Trăng mùng mười
non lắm không thật tròn trịa nhưng đủ sức soi sáng những bóng dài lê thê. Một
người nào đó thốt lên: “Ôi trăng! Chúng mình ngắm trăng nhé!”. Ý tưởng ấy
được mọi người hưởng ứng nồng nhiệt… Chúng tôi ngoặc vào một con đường nhỏ lúp
xúp dưới những tán cây tối sâm sẫm giữa ngập tràn im lặng. Cuối con đường, cánh
cửa mở ra, dường như chúng tôi đang đi vào một thế giới khác. Cổ tích, thần
tiên, mơ hồ, hư ảo… Tôi lặng người đi trong phút chốc, cảm giác rung động giống
như cô gái mới lớn ngỡ ngàng nhìn thấy bạch hoàng tử phóng ngựa như bay từ giấc
mơ xa xăm hư thực. Tôi đang đứng giữa cánh đồng lúa mênh mông ánh trăng… Trăng
rải vàng sóng sánh trên ngọn lúa, thả rơi những sợi tơ nhỏ nhẹ dịu dàng khắp
không gian và đổ lênh láng con đường chúng tôi đi thứ ánh sáng mờ nhạt run rẩy.
Đêm lặng lẽ nhưng không cô tịch, bầu trời như tấm màn thêu xênh xang xám bạc. Gần
xa mờ mờ bóng trăng khuyên khuyết hiện vẻ ôn nhu đằm thắm. Chúng tôi ngồi dưới
trăng, trên những ngọn cỏ thẫm đen lầm lũi bên lề. Hư không chìm đắm trong cái
vô tận của màn đêm của trăng của thảm lúa vàng một màu trăng không bến bờ. Trời
lặng thinh không một chút gió, những ngọn cau tít tắp dang tay đứng im lìm in
bóng tối đen trên nền trời. Khung cảnh hư huyền diệu vợi. Đêm yên ắng, chỉ có
tiếng côn trùng rả rích vỗ về. Thoang thoảng đâu đây một mùi hương thơm thảo là
lạ, hương lúa non, hương cỏ cây, hương sương khuya, hương của đất trời mùa thu
cao nguyên… tất cả hợp lại thành bản hòa tấu âm âm từ ngút ngàn sơn mạch. Chúng
tôi đùa cợt, kể nhiều câu chuyện vui, đôi khi phá lên cười sằng sặc. Tiếng cười
vỡ ra như tiếng pháo mùa xuân đon đả xé toan màn đêm tịch mịch vẳng đi xa thật
xa hòa vào ánh trăng. Trăng miền sơn cước càng đẹp bao nhiêu hạnh phúc càng lắng
đọng bấy nhiêu, hạnh phúc nên khuya lắm rồi mà chúng tôi vẫn còn ngồi bên nhau
để sương lạnh dần thấm vào lòng…
Ngày cuối cùng, đêm cuối
cùng, những giờ phút cuối cùng, chỉ vài giờ nữa chúng tôi sẽ rời xa vùng đất
cao nguyên huyền thoại. Ngày mai, rồi thành phố sẽ làm lãng quên tiếng đại ngàn
vẫy gọi hoang dại; hoặc nếu nhớ, cũng chỉ là những ký ức buồn vui rời rạc. Nửa
đêm về sáng, mọi người đã yên giấc, chỉ có tiếng con tắc kè cô đơn đùng đục trầm
buồn thi thoảng cất lên quạnh quẽ. Đêm trước tôi đã nghe được thứ tiếng gọi bạn
tình tha thiết này rồi nhưng đêm nay tự dưng gây cho tôi nhiều cảm xúc. Nó giống
như tiếng kêu tuyệt vọng không hồi đáp đi vào cõi mênh mông nào đó, từa tựa như
tiếng giọt nước rơi tõm xuống mặt hồ tan thành những vòng tròn lan đi, lan đi,
lan đi rồi tan biến giữa điệp trùng sóng nước… tôi thiếp đi trong mơ màng…
Phần 5 - Ngày trở về
Sáng hôm nay bụng không được
ổn lắm, dư âm của buổi tiệc tối qua vẫn còn hành hạ tôi. Vừa ngồi ăn sáng tôi vừa
nghĩ về mớ bưu thiếp vừa mua chiều hôm qua để gởi cho bạn bè thành phố nhưng điều
kỳ lạ là đi khắp hết các hiệu sách nhà sách ở Buôn Ma Thuột mà không nơi nào
bán cả, họ chỉ có bưu thiếp thành phố Đà Lạt… Cuối cùng tôi phải mua một xấp “Cảnh
đẹp quê hương” trong đó có tấm hình chụp bà cụ người dân tộc hút tẩu thuốc
cười móm mém… dù sao vẫn mang hơi hướm cao nguyên. Huấn cũng nhờ tôi mua một xấp
nhưng cuối cùng lại thôi vì bộ“Cảnh đẹp quê hương” tôi mua là bộ cuối cùng
có tấm hình bà cụ hay hay ấy.
Chúng
tôi vội vã lên xe về thành phố, mọi người đã cảm thấy nhớ nhà lắm rồi. Tôi thì
không nhớ nhà, nhưng nhớ thành phố, muốn về thật mau. Cộng thêm có cái gì đó
khiến tôi không muốn ở đây thêm một giờ phút nào cả, không phải vì tôi không
yêu quý nơi này. Tình cảm ấy rất mơ hồ mà ngay cả bản thân tôi cũng không thể
nào hiểu nổi. Tôi chỉ biết rằng nó đang hiện hữu rất thực, nó thôi thúc tôi bước
đi gần như là một cuộc chạy trốn. Chạy trốn cao nguyên, chạy trốn dã quỳ, chạy
trốn một ánh mắt trong sáng dịu dàng không dành cho tôi, và dường như chạy trốn
chính bản thân mình nữa…
Trên xe tôi ngồi băng cuối,
trong cùng là Giao. Giao mệt nên ngủ vùi, không hiểu vì sao tôi lại tỉnh, cả bản
thân tôi cũng bất ngờ. Tôi đã ngồi nhìn ra cửa kính xe con con và gần như nhìn
vào đấy suốt cả quãng thời gian ít ỏi còn lại. Đồi núi, rừng cây nhà cửa ban đầu
là bảng lảng mở ảo trong sương dần dà trong sáng rõ ràng trong nắng sớm và gay
gắt chói lòa buổi ban trưa… Tất cả cảnh vật ấy đều được thu vào tầm mắt song nó
chẳng để lại ấn tượng nào đặc biệt trong tôi. Cũng giống như một bộ phim dở tệ
chiếu qua trôi tuột và lẫn lộn vào trong những ồn ào xô bồ của một rạp chiếu
phim tồi tàn. Nó không đọng lại sâu sắc như chuyến xe trong đêm hôm nọ. Tôi vẫn
đùa “bóng tối thường đi đôi với tội lỗi” có lẽ giờ phải nói thêm “tội lỗi lúc
nào cũng ngọt ngào khiến người ta không thể nào dứt ra được”. Chính nỗi u buồn
sợ hãi chuyến xe trong đêm khi không biết mình đi đâu về đâu đã ghi dấu trong
tôi. Khiến tôi không ngừng nghĩ về nó. Còn những điều trong sáng, những niềm
vui, những tia nắng rạng rỡ mặt trời lại thoáng qua lóe lên rồi tan mất trong
phút chốc.
Chuyến xe trở về im ắng lạ
thường, mọi người đều ngủ, hoặc có thể là thức nhưng không muốn nói gì làm gì,
họ đang chìm đắm trong thế giới riêng của mình. Tôi tự hỏi họ đang suy nghĩ điều
gì? Rồi cũng tự cười mình điều đó có gì quan trọng không? Cuộc sống vẫn cứ thế
tiếp diễn, xe vẫn lao đi cảnh vật vẫn nhòe nhoẹt lướt qua, không vẫn vô tư lướt
qua nó chỉ bị phản ánh một cách méo mó qua cái nhìn của mỗi người mà nhất là
qua cách nhìn của tôi - Một kẻ lữ hành lang thang và đơn độc.
Tháng 9/2006
Hồng Hòa Vi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét