Thứ Năm, 31 tháng 3, 2016

Từ “Dấu chân trên cát” đến “Tro bụi trần gian”

Từ “Dấu chân trên cát” đến “Tro bụi trần gian”* 
(Đọc tiểu thuyết Bàn tay nhỏ dưới mưa 
của Trương Văn Dân, Nxb. Hội Nhà văn, 2011)
Hành trình đi từ “dấu chân trên cát” đến “tro bụi trần gian” của đời người dù phải trải qua bi kịch của sự sống và cái chết, của sự cô đơn thân phận và tình yêu, thì cái nhìn của Trương Văn Dân trong Bàn tay nhỏ dưới mưa, cũng không đắm chìm trong bi kịch của một thứ hiện sinh yếm thế mà trái lại nó thể hiện một tâm thức hiện sinh tích cực của một cây bút luôn dấn thân và trăn trở trước những hệ lụy của cuộc sống mà con người đang phải gánh chịu như sự đặt để của số phận...
1. Không phải ngẫu nhiên, trong âm nhạc Trịnh Công Sơn nỗi khắc khoải phận người với những ám ảnh về Cái chết - Tình yêu và Nỗi Cô đơn lại luôn bàng bạc trong ca từ của ông với những nỗi niềm mà mỗi khi cất lên tiếng hát ta không khỏi thấy se lòng...
                   Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
                   Để một mai tôi về làm cát bụi
                   Ôi cát bụi phận này....          
                         (Cát bụi – Trịnh Công Sơn)
Sự ám ảnh về Cái chết - Tình yêu - Nỗi Cô đơn của phận người trong nhạc Trịnh Công Sơn cũng là điều ám ảnh trong tiểu thuyết Bàn tay nhỏ dưới mưa của Trương Văn Dân mà hành trình sống của Gấm - nhân vật chính trong tác phẩm là hành trình đi từ “dấu chân trên cát” đến “tro bụi trần gian”. Cuộc đời của Gấm là cuộc đời của một số phận mà sự ám ảnh về Cái chết, Nỗi Cô đơn cùng với những đớn đau, hạnh phúc trong Tình yêu luôn là một tâm thức hiện sinh dằn xé, cào cấu số phận của nàng. Không những thế, đây còn là triết lý sống, quan niệm sống chi phối sâu sắc ưu tư của nàng trong cuộc đời từ khi đặt dấu chân nhỏ nhoi của mình trên cát bụi phận người cho đến lúc trở về cùng “tro bụi trần gian”. Và chính điều này luôn đặt Gấm trước những lựa chọn khốc liệt, nghiệt ngã của số phận với những hạnh phúc / khổ đau, vinh quang / cay đắng, cao cả / thấp hèn... mà sự lựa chọn nào cũng có cái giá của nó. Ta hãy lắng lòng chia sẻ cùng Gấm khi nàng kể về cuộc sống của mình: “Cắn răng nuốt những hạt cơm tủi nhục ăn đậu ở nhờ trong nhà cô út, chị em chúng tôi dần dà khôn lớn rồi cắt đi cuống rốn với họ hàng thân tộc. Mỗi đứa tự bươn chải vào đời theo cách của mình. Và kể từ lúc đó, những bước chân của chị em tôi chông chênh, dò dẫm đi vào đời và cứ vật vờ trôi.” (tr.39)
2. Để bớt đi phần nào sự nghèo khổ và có một chỗ dựa trước những mất mát của gia đình, Gấm chấp nhận lấy người đàn ông đầu tiên mà không hề có một chút đồng cảm kể cả khi ái ân, để rồi trước khi vĩnh viễn rời xa người đàn ông ấy, nàng phải chịu cảnh bạo dâm của cuộc hôn nhân không tình yêu mà cảm giác như mình bị cưởng bức với những đau đớn đến ê chề khi một đêm người đàn ông ấy trở về trong cơn say: “Tôi chưa kịp phản ứng thì anh ta đè ngửa tôi xuống sàn nhà, tụt quần áo thô bạo và phủ lên man rợ...” (tr.29). 
Song bi kịch tình yêu và hôn nhân của Gấm không dừng lại ở đấy mà càng khốc liệt và tàn nhẫn hơn khi gặp người đàn ông thứ hai, một con người nhu nhược, hèn đớn và ti tiện để rồi nàng cũng lại rơi vào bi kịch của một cuộc hôn nhân với những ái ân không hề có cảm xúc ái tình mà đó chỉ là những hành động bản năng của một con đực háo đói và khao khát nhục cảm đang khẳng định quyền “làm chồng”, để rồi một lần nữa biến nàng trở thành nạn nhân của nạn bạo hành tình dục: “Lần cuối cùng, để tránh có thai tôi đã mua sẵn và yêu cầu hắn dùng bao cao su. Khi thấy chiếc hộp giấy, hắn ta tức giận, la lớn “Tao làm tình với vợ chứ có phải chơi gái đâu mà xài bao!” Hắn ném chiếc hộp vào mặt tôi. Những chiếc bao cao su rớt xuống, vương vãi trên giường ngủ.               
Trong khi tôi tấm tức khóc vì nhục nhã, hắn lột nhanh quần áo và đè ngửa tôi xuống nệm. Trận làm tình, không, phải nói là cuộc hiếp dâm, diễn biến nhanh chóng và kết thúc cũng nhanh chóng trong tiếng thở hổn hển, có pha nước mắt của uất nghẹn.” (tr.64)    
Và chỉ đến khi gặp “Người hàng xóm” tốt bụng đã vô tình hay cố tình theo dõi và chứng kiến cảnh Gấm bị bạo hành trong gia đình chồng mà sau nầy nàng mới biết đó là một nhà báo, Người mà Gấm xem như thiên sứ mang đến cho mình những phút giây huyền diệu và nhiệm mầu của Tình yêu thì nàng mới biết thế nào là sự diệu kỳ của ái ân nồng nàn, điều mà Gấm tưởng đâu đã khô cạn ở người đàn bà bốn mươi tuổi sau hai lần dang dở đường tơ như chính nàng đã thú nhận một cách thành thực:“... Thể xác tưởng đã ngủ yên, thế mà khi anh khẽ chạm bỗng cồn cào đói khát. Anh đã giải thoát cho tôi khỏi những mặc cảm, xoá bỏ mọi ức chế tâm lý và đẩy cảm xúc thăng hoa.” (tr.66)
Đây cũng là kết quả của sự chọn lựa nhưng là chọn lựa của một Tình Yêu đích thực, tận hiến, dấn thân sau những trải nghiệm đắng cay của cuộc đời nàng trong những tháng năm dài “sống trong một cõi ao tù nhỏ hẹp... Anh đến, chẳng những chỉ lối mà còn nắm tay tôi dắt lên cõi thiên đường, đóng lại cánh cửa thông ra địa ngục.” (tr.66)    
Song những ngày tháng hạnh phúc này suýt biến tan thành mây khói, khi một lần nữa những khuôn phép phi lý của những thứ đạo đức và dư luận xã hội lạnh lùng, công thức buộc Gấm phải chọn lựa một cuộc hôn nhân hợp pháp về mặt pháp lý nhưng lại không hề có tình yêu và một tình yêu vĩnh hằng với tất cả sự kỳ diệu nhưng không có sự hợp pháp về pháp lý, khi Gấm đấu tranh đòi Người đàn ông thứ ba trong đời mình một tờ giấy đăng ký kết hôn để hợp thức hóa cuộc sống chung của họ... Và điều này khiến hạnh phúc của họ có nguy cơ vỡ tan như bong bóng xà phòng sau những tháng ngày mà họ tìm kiếm bằng tất cả sự cảm thông và chia sẻ. Nhưng may quá, Gấm đã nhận ra chân giá trị của hôn nhân và tình yêu khi nàng hiểu rằng: “Quan hệ lớn nhất là tình thương dành cho nhau chứ không phải miễn cưỡng có nhau. Tình yêu của mình phải được nuôi dưỡng bằng sự trân trọng quý mến chứ đâu phải ràng buộc bằng tờ hôn thú” (tr.167) Bởi “Không có luật nào bắt người ta phải thương yêu nhau. Phải sống hạnh phúc... Hạnh phúc có hay không còn tùy thuộc vào sự vun xới hằng ngày, tùy vào cách sống và tâm hồn của mỗi cá nhân chứ đâu phải cứ ngồi vào mâm cỗ hôn nhân là có được mái ấm” (tr.153)        
Đúng vậy! sự kỳ diệu của tình yêu và hôn nhân là một phép màu mà chỉ có sự tận hiến và sẻ chia của những người yêu nhau tự kiếm tìm và bồi đắp chứ không bao giờ là kết quả của một thứ ràng buộc nào, dù đó là những phép tắc của lễ giáo, phong tục tập quán, của những định chế xã hội, giai cấp, lý tưởng nào cả, kể cả quyền uy của thượng đế. Bởi quyền uy lớn nhất trong tình yêu phải chăng chính là tiếng gọi thao thiết của trái tim... Và ở những trang viết về tình yêu và hôn nhân, Trương Văn Dân tỏ ra là một nhà văn có bản lĩnh, có khả năng phân tích tâm lý nhân vật tinh tế và sâu sắc. Những lý lẽ của anh đưa ra trong cuộc tranh luận giữa Gấm và Người tình về hôn nhân và tình yêu khá thuyết phục. Anh đã rất có lý khi đẩy tình huống đến cao trào rồi cũng để cho logic của tình yêu và cuộc sống tự hóa giải mâu thuẩn ấy khi Gấm nhận ra đâu là giá trị của tình yêu và hôn nhân và đâu là những thứ nhãn hiệu dán lên những cuộc hôn nhân đầy tính thực dụng của một xã hội được xem là văn minh, hiện đại nhưng cũng rất lạnh lùng, vô cảm qua lời tự thú của Gấm: “Tôi hiểu ra rằng…cái mà tôi thật muốn chính là cùng anh sống trọn đời trọn kiếp, dù bất cứ hoàn cảnh mù loà bất hạnh nào. Và tôi không cần gì nữa. Ngay cả chuyện hôn nhân. Hôn thú. Vợ chồng. Con cái. Gấm ơi! Thời gian qua sự bình an luôn ở bên ngươi. Sao mi ngốc thế. Tia sáng tâm tưởng đó làm tình cảm và lý trí của tôi thôi không giằng kéo nữa. Mọi cái trở nên tĩnh lặng. Tôi như người mê muội bỗng tỉnh ra.” (tr.166 -167) Và lần này, sự chọn lựa của Gấm đã đúng. Đây là sự chọn lựa của một quá trình nghiệm sinh với những đắng cay phận người mà không có nó chưa hẳn Gấm có thể vượt qua những rào cản thường tình của cuộc đời, để chọn cho mình một bến đỗ tình yêu đã giúp mình vượt qua tất cả, kể cả cái chết khi nàng biết mình đã mang căn bệnh ung thư.... Nhưng có hề gì, ý nghĩa cuộc đời của mỗi người đâu phải đo bằng độ dài của thời gian vật lý. Bởi có biết bao con người kéo dài cuộc đời qua hàng thế kỷ nhưng họ chẳng làm gì có ích cho cuộc sống, thậm chi còn gieo rắc cho nhân loại bao nỗi khổ đau!? Thế mới biết để sống đúng nghĩa ở đời không phải là chuyện giản đơn... Và Trương Văn Dân rất có lý khi anh chia sẻ quan niệm sống của mình qua lời trần tình của Gấm: “Dù nếm trải thất bại, tôi vẫn không từ bỏ giấc mơ về một tình yêu đích thực. Tôi thường nghĩ, nếu sống mà không còn mơ tưởng, không còn chút ngây thơ, lãng mạn thì mới là thua thiệt trong đời. Tôi tin người ta chỉ thật sự hạnh phúc khi được tự do lựa chọn, tự do vươn tới con người mà mình muốn trở thành và sống thật sự với bản ngã của mình, không che đậy.” (tr.202)
Khi con người càng hiện đại, văn minh thì những ứng xử văn hóa mang tính nhân văn cũng hư hao dần. Vì vậy, có khi người ta không phải sống mà đang “diễn” trên sân khấu cuộc đời với hàng trăm thứ mặt nạ đến nỗi không còn nhận ra đâu là mặt nạ của chính mình. Thế nên, cái khát vọng thành thực của Gấm về một tình yêu đích thực ở đời là một điều đáng quí và có thể nói đó cũng là một hệ giá trị có tính nhân văn sâu sắc. Phải chăng, đây cũng là một trong những thông điệp mà Trương Văn Dân muốn gởi đến người đọc trong Bàn tay nhỏ dưới mưa.
Nói về sự sống cũng chính là nói về cái chết. Bởi tiền đề của cái chết bao giờ cũng là sự sống. Cái qui luật sinh sinh diệt diệt này là cái lẽ vô thường mà nhà Phật đã quán chiếu cho nhân loại bằng cái vòng đời sinh – lão - bệnh - tử. Và chính nó là khởi nguồn cho sự chọn lựa và dấn thân của Đức Phật trong hành trình đi tìm chân như, đi tìm con đường giải thoát cho chúng sinh khỏi bể khổ cuộc đời. Ở điểm này triết lý Phật giáo lại có sự gặp gỡ với chủ nghĩa hiện sinh. Đây cũng là điều mà ta bắt gặp trong tiểu thuyết Bàn tay nhỏ dưới mưa của Trương Văn Dân khi anh luận bàn về cái chết qua những ưu lo của Gấm khi biết mình mắc bệnh ung thư và phải đối diện với cái chết bất cứ lúc nào. Để rồi, có lúc mềm lòng cô đã toan tự vẫn để chạy trốn cuộc đời. Nhưng rồi chính tình yêu cùng với những giá trị cao đẹp của nó đã giúp nàng sức mạnh chống lại cái chết và song hành cùng cái chết như sự đặt để của số phận. Ta hãy nghe Gấm chia sẻ:“Anh ơi, cái buồn đang làm cho em mỉm cười. Em sẽ đón nhận nó một cách điềm nhiên rồi sẽ vùi lấp nó dưới đáy đại dương... Suy cho cùng, đời người tựa gió thoảng mây bay. Chẳng ai biết được mình sống bao nhiêu. Em chỉ cần tình yêu của anh. Dầu là em đang bệnh nhưng chưa chắc người khác đã có được hạnh phúc như em” (tr.235) Và khi đã nhận thức được qui luật của sự sinh diệt này, Gấm thật thanh thản: “Trong cuộc sống, con người không có cách nào tránh được những bất hạnh. Còn cách đón nhận nó là tùy thuộc ở mình.
... Bởi vì, chỉ khi nào bị dồn đến tận cùng con người mới nhận ra là "biến cố quan trọng nhất..." của đời người chính là cái chết. Nó luôn luôn hiện hữu, và khi cuộc sống không còn, tất cả sẽ biến mất và cái còn lại chính là những rung cảm và thái độ của con người trước sự thách thức tận cùng của sự tồn sinh.” (tr.236). Và lúc này, cái chết cũng là một phần của sự sống  nên chúng ta không thể chạy trốn mà phải đối diện với nó, từ đó hiểu được giới hạn tất yếu của phận người để làm thế nào sống ý nghĩa hơn, nhân văn hơn, biết yêu thương con người hơn, biết sẻ chia với tha nhân nhiều hơn, biết từ bỏ cái ác, cái xấu để vươn tới cái chân, thiện, mỹ. Đó cũng là những suy tư về phận người mà Trương Văn Dân muốn nói đến trong tiểu thuyết này trên hành trình từ “dấu chân trên cát” đến “tro bụi trần gian” mà anh đã nâng lên như một biểu tượng của cuộc sống: “Tôi đi như thế khá lâu. Đến cuối bãi thì quay lại. Nhưng mãi đến vòng thứ ba tôi mới phát hiện ra những vết lõm. Sức nặng toàn thân làm cát lún xuống thành những dấu chân. Khi sóng trào lên, bọt biển rút xuống thì những dấu chân không còn hiện hữu. Nhìn sự xuất hiện và biến mất tôi mường tượng đến phận người: sống, để lại  những vết lõm nhỏ to trong một quãng thời gian dài ngắn, rồi biến mất như chưa từng bước qua cuộc đời. Như thể trong những dấu chân đều có mang theo sự sống và cái chết. Tất cả đã đến, đã hiện hữu, rồi ra đi. Tự xoá nhoà theo tiếng thở rì rào của biển cả.” (tr.9) Và trong cảm thức của Trương Văn Dân, cái chết bao giờ cũng song hành cùng tình yêu nên nó là một phần không thể thiếu của sự sống: “... Âm thanh vang lên như chỉ có cái chết mới làm nổi bật lên giá trị vĩnh hằng của tình yêu. Chỉ trong tình yêu con người mới tìm ra lẽ sống của mình. Bởi chết vì tình yêu thì đâu có nghĩa là chết. Mà chỉ là hiến dâng. Là cái chết trong muôn lần chết. Và tình yêu sẽ đi vào cõi vô sinh vô diệt.” (tr.12)
Có thể nói, trong tác phẩm này Tình yêu là trục tâm thức chính và xoay quanh trục tâm thức này, tác giả giãi bày những ưu tư của mình về sự sống, cái chết, về nỗi cô đơn phận người trong xã hội hiện đại khi còn người phải đối mặt với vô số những vấn đề mà vấn đề nào cũng có mặt tốt và xấu đòi hỏi con người phải có sự chọn lựa thật văn hóa thì mới mong cứu vãn sự tồn sinh quá mỏng manh của trái đất này. Nếu không thì “Ngày tận thế” sẽ không chỉ là một huyền sử !?. Vì vậy, những trang viết về Tình yêu trong Bàn tay nhỏ dưới mưa cũng là những trang viết giàu cảm xúc, giàu chất triết luận và cũng giàu chất thơ có khả năng neo đậu trong tâm thức, tâm cảm của người đọc sâu sắc nhất và để lại nhiều dư ba nhất...
Ta hãy lắng nghe tác giả luận giải về sự mầu nhiệm của tình yêu qua lời của nhân vật Người đàn ông – Nhà báo khi hồi tưởng về những ngày sống trong sự ấm áp của tình yêu: “Tôi xin cám ơn đời đã cho tôi và nàng có một sự hoà hợp vẹn toàn, về thể xác và tâm linh, đã nâng tâm hồn chúng tôi đến cõi huyền bí. Đã cho chúng tôi thăng hoa trong lúc cận kề giữa hai bờ sinh tử mà vẫn còn nắm bắt được chiều kích vĩnh hằng: Phút giao cảm đó chính là sự tái hợp của hai - phần - người bị tách đôi, mải miết kiếm tìm nửa phần còn lại... Đó là đỉnh điểm của những gì mà con người có thể hy vọng nhận được trong cuộc tồn sinh.” (tr.12).
Song trong quan niệm của Trương Văn Dân, Tình yêu không chỉ có sự hòa hợp của tâm hồn mà còn có sự hòa hợp diệu kỳ của thể xác như một thứ ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa chỉ có thể lý giải bằng chính sự hòa hợp của một thứ ngữ pháp thân thể linh động và diệu kỳ: “Sự vẹn toàn của hai thân thể chúng tôi tuyệt vời đến nỗi khi đi vào trong nhau, tôi cảm giác như mình là chiếc rễ bám sâu vào lòng đất, nóng và ẩm của nàng, để tình yêu lớn mạnh, vững chắc như cây cổ thụ trong vườn địa đàng...
Và tôi nghĩ không có niềm đam mê nào mạnh hơn sức mạnh của tình yêu và niềm tuyệt vọng. Nó có thể thiêu huỷ con người trong khoái lạc hân hoan của nỗi khát khao dâng hiến. Vì yêu có nghĩa là muốn chia sẻ và dâng hiến trọn vẹn với một người điều không thể và không muốn chia sẻ cùng một ai khác.” (tr.13)       
Có thể nói, những trang văn luận về tình yêu của Trương văn Dân là những trang văn đẹp nhất, thánh thiện nhất, vì thế, nó cũng hấp dẫn và quyến rũ nhất. Đọc những suy niệm của tác giả về tình yêu cũng như những miêu tả sự ái ân trong tình yêu, ta thấy tác giả là người có ý thức nâng niu những giá trị cao quí của tình yêu con người và không sa vào lối miêu tả tình yêu một cách rẻ tiền với những trang viết đầy nhục cảm bản năng của những cuốn tiểu thuyết diễm tình hạ đẳng. Trái lại, những trang viết về tình yêu trong tiểu thuyết của anh là sự kết hợp hài hòa của những giá trị văn hóa vừa truyền thống lại vừa hiện đại, vừa phương Đông lại vừa phương Tây, luôn ám ảnh người đọc, đem đến cho họ những cảm xúc nhân bản của một tình yêu cao đẹp, rất CON và cũng rất NGƯỜI. Đó là một thứ mật ngọt rót vào lòng ta ấm áp và nồng say như chính sự cảm nhận của Gấm lúc ái ân:“Khi anh đặt nhẹ tôi trên giường thì tôi vội ôm chầm lấy anh... Môi anh mơn man trên khuôn mặt tôi đầm đìa nước mắt. Tôi hớp lấy từng giọt, từng giọt, tham lam nuốt chửng như sợ phí phạm những giọt tình yêu đang chảy trên má mình... Cảm xúc của tôi tăng dần khi toàn thân cảm nhận những nụ hôn cháy bỏng từ đôi môi thèm muốn của anh... Đất trời vần vũ, chuyển mình trong lôi cuốn huyền hoặc của tình yêu. Ngọn lửa đam mê trong lòng như đốt tôi thành hơi nước, thăng hoa trong tiếng rên rỉ và giãy đạp của cảm xúc... Trong khoảnh khắc, mọi phù phiếm của đời sống đều bị chìm đi, mất hút, cái còn lại là cảm giác đê mê của sự hiến dâng, cho và nhận, vút bay lên chín tầng trời.”. (tr. 94, 95, 96)    
Và sự lên ngôi trong cảm xúc Tình yêu thật sự là một hạnh phúc viên mãn của đời người mà không gì thay thế được, ta có thể chia sẻ điều này qua tâm sự của Gấm: “Tôi sung sướng lắm... Tôi khóc. Tình yêu của anh làm tôi khao khát cuộc sống biết bao. Tôi muốn hét to lên cho mọi người biết là tôi đang hạnh phúc.” (tr.99) Và “Gần bốn mươi tuổi nhưng chỉ có lúc này tôi mới thấy mình thực sự sống. Mới hiểu rằng yêu thương không phải là có một người để cùng ăn, cùng ngủ, mà là phải tìm được một người, rồi không thể sống khi thiếu vắng người ta. Anh chính là người mà tôi không thể thiếu.... Vì với tôi, điều kinh khủng nhất là khi cái thế giới mênh mông này không còn anh nữa. (tr.121)     
Song tâm thức hiện sinh của hành trình từ “dấu chân trên cát” đến “tro bụi trần gian” trong tác phẩm không chỉ thể hiện ở suy niệm về cái chết, về sự sống, về tình yêu mà còn là sự ám ảnh về nỗi cô đơn phận người. Dường như trong suốt tác phẩm, cuộc đời của các nhân vật luôn chìm trong biển cô đơn này: “Thuở đó trong cuộc tồn sinh.... chúng tôi phải mang trong lòng một trái tim côi cút....” (tr.39) Và nỗi cô đơn ấy như sự tất yếu của định mệnh từ thuở hồng hoang của kiếp người mà nhân loại không thể nào chối bỏ được. “Có lúc tiếng hát vọng về như một lời cầu nguyện, như nỗi sợ hãi cô đơn giữa mênh mông sâu thẳm (...) Tiếng hát vang lên như một nỗi ám ảnh khôn nguôi, như tiếng sóng vỗ bờ, miên man, miên man, không dứt...và cuối cùng hòa quyện vào hư vô. Âm thanh lụn dần như đã vượt qua những đớn đau thân xác để đến với sự khổ não của cô đơn vô cùng vô tận trong kiếp người... Tôi đứng trên bãi biển như một con thuyền cô độc.” (tr.13)
Và nỗi cô đơn định mệnh ấy bao giờ cũng là điều khủng khiếp nhất, đáng sợ nhất. Bởi lẽ “nỗi bất hạnh lớn nhất trong đời người chưa hẳn là sự mất mát, mà là không có được sự sẻ chia từ ai đó thật sự hiểu mình trong cuộc đời này”. (tr.135) Đây cũng chính là bi kịch của sự cô đơn phận người trong hành trình từ sự sống đến cái chết, từ “dấu chân trên cát” đến “tro bụi thời gian” trong cuộc tồn sinh này. 
3. Hành trình đi từ “dấu chân trên cát” đến “tro bụi trần gian” của đời người dù phải trải qua bi kịch của sự sống và cái chết, của sự cô đơn thân phận và tình yêu, thì cái nhìn của Trương Văn Dân trong Bàn tay nhỏ dưới mưa, cũng không đắm chìm trong bi kịch của một thứ hiện sinh yếm thế mà trái lại nó thể hiện một tâm thức hiện sinh tích cực của một cây bút luôn dấn thân và trăn trở trước những hệ lụy của cuộc sống mà con người đang phải gánh chịu như sự đặt để của số phận. Với một tinh thần nhân văn sâu sắc từ trong tâm thức và tâm cảm của mình, ngòi bút Trương Văn Dân luôn hướng đến ánh sáng của lòng yêu thương con người với một cái nhìn và một niềm tin ở tương lai tốt đẹp của cuộc sống mà muốn thế, theo anh “Cách duy nhất để loại một kẻ thù là biến kẻ đó thành bạn; Mỗi người chúng ta đều có thể mang nhân quả, liên kết với nhau từ bao kiếp trước, hãy lấy tình thương mà bước qua những khổ đau và oán hận...”(tr.112). Và đây cũng là cái đích đi và đến của mỗi con người từ khi sinh ra cho đến khi trở về cùng cát bụi, từ sự sống cho đến cái chết. Nói như Trương Văn Dân trong Bàn tay nhỏ dưới mưa là từ “dấu chân trên cát” đến “tro bụi trần gian” mà hành trình của nó luôn phụ thuộc vào sự lựa chọn và dấn thân của mỗi con người. Song dù sự chọn lựa nào thì điều con người cần hướng đến là tinh thần vượt qua những bất hạnh để vui sống một cách an nhiên, tự tại. Bởi: "Trong cuộc đời, ít hay nhiều ai cũng gặp phải một bất hạnh, nhưng điều quan trọng là đừng tự xiềng xích mình vào nỗi bất hạnh đó. Em hãy vui và sống."(tr.37) Vì : “không có nơi đâu đẹp não nùng và đáng yêu bằng cuộc sống trên Trái đất” (tr.412). Thế nên nhà văn rất tâm đắc với ý tưởng của Hermann Hesse: “Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này” (tr.412)  
Phải chăng, đây cũng là một thông điệp văn hóa đầy tính nhân văn chúng ta có thể chia sẻ với tác giả Bàn tay nhỏ dưới mưa trong hành trình từ “dấu chân trên cát” đến “tro bụi trần gian” của phận người trong cõi vô thủy vô chung huyễn hoặc này...
Chú thích:  
* Những trích dẫn trong bài viết được trích trong tiểu thuyết Bàn tay nhỏ dưới mưa của Trương Văn Dân, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2011.
Xóm Đình Gò Vấp, Trung thu 2014
  Sài Gòn, 7.9.2014
Trần Hoài Anh
Nguồn: http://nhavantphcm.com.vn/
Theo http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...