Ở phố núi Đà Lạt, cái thực thể tự nhiên đối lập
với lớp lớp núi đồi kia chính là hồ Xuân Hương. Tôi gọi hồ nước này là phần âm
của đô thị so với phần dương đồi núi. Ở đó, có những ngày nắng đẹp đến hoang vu
cho dù ngay giữa thành phố, tôi thường ném suy nghĩ vào nó để tinh lọc mình
trong không gian tự nhiên. Cómột ngày, nhận ra hồ nước này không phải thứ bất động,
nó là một phần của cõi nhân gian…
Người Đà Lạt nào mà mỗi ngày chẳng phải qua lại
hồ Xuân Hương. Đã “ra phố” thì phải ngang nó, phải đụng, phải chạm, phải giáp mặt
với cái hồ danh thắng đặc sắc xếp hạng Di sản quốc gia này…
ĐỜI
Thành phố cao nguyên nhiều khi hình dung cứ
như nằm gọn trong một bàn tay, mà hồ Xuân Hương là cái rốn. Với đô thị này sự
trùng hợp ngẫu nhiên cứ như con người vậy, cái rốn là chỗ khởi sự sinh sôi. Hẳn
hữu ý mới có động tác khi tạo lập đô thị Đà Lạt, điều đầu tiên người ta làm là
cố tạo lập ra một cái hồ.
Ngăn dòng suối Lạch lại, vào năm 1919, từ ý
tưởng ngẫu hứng tuyệt vời của kỹ sư công chánh Labbé và viên công sứ Cunhac mà
mãi đến năm 2000 vẫn không thêm bất cứ đô thị Việt Nam nào nghĩ ra. Suối Lat
thành Grand Lac, rồi thành hồ Xuân Hương, như cách gọi đến ngày nay. Việc tạo một
cái hồ quan trọng đến mức nó được chú tâm và triển khai bằng quy hoạch, tổ chức,
thiết kế tử tế, làm trước xây dựng nhà cửa, đường sá, đưa người lên ở…
Ở nước ta có hai con hồ là trái tim đô thị,
là con mắt để cân bằng sinh thái và nhìn lại thế gian. Hồ Gươm trời tạo, còn hồ
Xuân Hương người tạo, sáng tạo của con người… * Một trăm hai mươi năm trôi qua,
cái gì ở Đà Lạt cũng thay đổi, từ hình thể đô thị lẫn lòng cư dân, cảm xúc du
khách, ngoại trừ cái hồ Xuân Hương này.
Đi từ thiết chế Thực dân đến “Hoàng triều
cương thổ”, Cộng hòa, bao nền chính trị lướt qua thân thể Đà Lạt, nhưng chẳng
hiểu sao chả thế lực nào dám đụng đến nó mặc dầu hăm he thì nhiều, nhưng không
bao giờ thực hiện thành công, chẳng hạn việc thiên hạ định cho đỗ cọc lấn chiếm
mặt nước tạo mặt bằng kinh doanh, cho Nhà hàng Thanh Thủy xây cao tầng, cho cơi
nới quán cà phê ra bên ngoài kiến trúc Nhà hàng Thủy Tạ… Kẻ nào đụng đến hồ
Xuân Hương dân tình coi khinh kẻ đó.
Chỉ là hồ nước thôi, thế mà được kiêng nể.
Trong lòng cư dân ở đây có một góc dành cho hồ Xuân Hương (góc ấy lớn nhỏ tùy
người, và có mặt ở đây với mục tiêu gì). Có vẻ người Đà Lạt yêu quý hồ Xuân
Hương như yêu quý Đồi Cù, dù bây giờ dải đồi này đã “gả” cho người nước ngoài
làm sân chơi golf, nên người dân không còn cơ hội dạo chơi trên đó.
Hồ Xuân Hương thì vẫn thản nhiên theo năm
tháng, trượt theo buồn vui phận người. Vì là cái rốn phố núi, nên cứ đập theo
nhịp nhân gian, hứng đựng mọi thứ phơi ra, như nước thải của khách sạn, tiệm rửa
xe, quán bia ôm, tiệm massage, karaoke, vũ trường và hệ thống nhà cửa chất chồng
trên những đồi núi xưa đưa tiễn những cánh rừng thông ly biệt. Tảo lam có ngày
càng lênh láng, chồng chất vào những khoảnh khắc nắng lên thì hồ Xuân Hương vẫn
định vị sự lung linh.
Suối khe trên thượng lưu thiên hạ để cho phân
lô, lấp hết… thì hồ Xuân Hương với tư cách cái rốn của thành phố này vẫn trải
lòng ra hứng lấy mọi thứ lầm lạc. Hồ Xuân Hương bao dung cho cả những tội lỗi.
Bao cao su ai vừa làm tình xong có vứt đầy xuống đấy vẫn cứ thấy hồ Xuân Hương
thiêng liêng, đong đầy ký ức người đời.
Hồ này mùa trong mùa đục, theo hai mùa mưa nắng.
Nhưng với ông già khòm lưng người Huế lưu lạc 95 tuổi luôn mang chiếc máy ảnh
cũ nát trước ngực kia thì chính nó đã dung dưỡng gia đình ông đến thế hệ thứ
ba. Mà chẳng riêng ông già chụp ảnh dạo kia, chiếc bàn bán thuốc lá, gánh nước
đậu nành, lò bắp nướng, hay khoai lang lùi dưới bóng cây Samu tàn phai giữa đêm
giá lạnh của những người thiếu phụ thị dân, cùng bước chân âm thầm của những
nàng con gái giang hồ không rõ tên tuổi vẫn lặng lẽ một màu tảo tần, lao lực,
thanh bạch. Tần tảo mà ngời ngời tự trọng, không làm điều ác, điều gian, điều
hèn. Làm người, bán trôn nuôi miệng phẩm giá trên một bậc rất xa so với bán miệng
nuôi trôn.
Hai cái nhà hàng sang trọng Thủy Tạ và Thanh
Thủy ngự gần 100 năm kia nhiều dân làm vườn Đà Lạt sống cạn gần cả cuộc đời vẫn
chưa một lần đặt chân vào, bởi một bữa ăn nơi đó thường cân bằng nửa tấn bắp cải.
Người Đà Lạt phần lớn là lương dân, sống chậm, khá hay giàu cũng tự nhiên, từ từ,
đủng đỉnh. Thiên nhiên mơ mộng làm con người hiền, ít nham hiểm, và cũng ít
tham lam.
Thành phố không lớn, nhưng người Đà Lạt lâu đời
sống “phố” hơn nơi khác, không theo “bầy đàn”, ít để ý tính đồng hương, đồng
khói. Người giàu nhanh, của cải nhiều là dân nhập cư mới, vài chục năm nay, có
thế lực hoặc có cơ lực, hoặc thức thời, đến để trục lợi ngay chứ không phải để
trải dạ yêu thương Đà Lạt. Người Đà Lạt “gốc thông” thì không thích ganh đua
hơn thua. Kỳ lạ là suốt lịch sử đã qua của phố núi này, không có người gốc Đà Lạt
nào đứng đầu chính quyền ở đây.
Không phải không đủ thông minh hơn để khả dĩ
làm điều đó, mà vì đó không phải là sở thích, mục tiêu, và cơ hội cũng chưa chắc
có. Sống trên núi, vậy mà dân Đà Lạt thì không ai dám xếp là người “tỉnh lẻ”.
MỘNG
Cho dù bên trong những nhà hàng sang trọng
trên hồ Xuân Hương có “vĩ mô” đến thế nào đi nữa thì bên ngoài, nơi vệ cỏ ven
đường những anh chàng thị dân hiền lành (hoặc lười lao động) vẫn cứ tao nhã trò
buông câu cho du khách Tây - Tàu trố mắt xem chơi. Những đôi nam nữ vẫn ôm chặt
nhau để khỏa lấp cái lạnh và thưởng thức hương vị của tháng năm đẹp nhất đời
người.
Nơi đây, vẫn là khu vực “bất kiến tạo” như buổi
ban đầu Ernest Hébrard - kiến trúc sư người Pháp - người xác lập đường hướng
phát triển cho Đà Lạt từ năm 1924. Hồ Xuân Hương trong mắt của Hébrard hay
Lagisquet đều là “con ngươi” của Đà Lạt, là viên ngọc giữa thành phố thanh cảnh,
rằng sự thật nếu không thì hồ Xuân Hương đã không có và không trở thành một tác
phẩm đô thị, còn Đà Lạt đã không trở thành một thành phố nổi tiếng nhanh và bền
đến thế.
Nhìn những bóng thông ngàn soi xuống mặt hồ,
hay những chiếc cầu lồi lơ thơ vươn ra mặt nước thì đích thị sản vật ấy của
riêng Đà Lạt rồi. Không phải thế thì thi nhân số một Hàn Mặc Tử, vào mùa đông
năm 1941 không thể đủ chất liệu để có thể khái quát tâm hồn Đà Lạt đến độ có thể
thách thức lâu dài tài hoa trong thế gian khi ông viết ra:
“Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu”…
“Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu”…
Hồ Xuân Hương vẫn cứ tự nhiên gây luyến ái
cho phố phường, xã hội nằm trên những đồi núi xưa ấy. Sẽ rất khó lý giải thế giới
cảm xúc, như hình ảnh vì sao có người xa Đà Lạt đã nửa thế kỷ vậy mà khi trở lại
vẫn cứ thích đứng bên chiếc cầu lồi ở hồ Xuân Hương cùng con ngựa làm “người mẫu”
để chụp một tấm hình kỷ niệm.
Mỗi ai sau một chuyến đi xa, khi xe leo đèo
Prenn đến lúc chạm vào cái hồ Xuân Hương chứa đầy mù sương này mới hả dạ: Vậy
là đã về tới Đà Lạt rồi, về với cái nơi chốn “đi không nhanh, nói không hét, ăn
không vội, sống không soi, và làm không cần để thật giàu”. Thế nên những kẻ thực
ân tình với Đà Lạt, thường hay lo cho hồ Xuân Hương, như kiểu la toáng lên khi
thấy tảo lam xuất hiện, hay chuyện mấy cụ “Thái thượng hoàng công thần” nhiệt
tình đến mù quáng khi cả gan “non bộ hóa” hồ Xuân Hương: chở đá, đưa cây cổ thụ
dưới sông Đại Ninh nắng nóng ở miền nhiệt đới Đức Trọng về trồng khắp ven bờ.
Người dân phản ứng: Ở núi mà còn “giả” sơn
làm gì! Các nhà lãnh đạo tỉnh Lâm Đồng nhiệm kỳ trước chẳng hiểu sao “OK” cho một
nhà đầu tư địa ốc ở Sài Gòn lên giải phóng 15ha ở bờ nam hồ Xuân Hương, dọc đường
Bà Huyện Thanh Quan để cất một chuỗi khách sạn, villa, hộp đêm… Ý tưởng ít khoa
học này lập tức khiến người Đà Lạt phản ứng, mà bộ máy nhiệm kỳ sau phải ra tay
“sửa sai” khi bỏ quyết định của những người tiền nhiệm để trả không gian ấy về
đúng với công năng thơ mộng cho hoa, cây xanh và tình yêu đôi lứa.
Liệu dải cảnh quan dưới bóng tháp bút Trường
Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt có thật trở thành một “Khu vườn kỳ hoa dị thảo” không,
nhưng ba năm nay nó nằm phơi ra bất động thấy mà thương. Có một số người, rất
võ đoán, chưa rõ thực hư, mới chỉ nghe tin cánh rừng thông trước Khách sạn
Palace có thể “bị” cho cất khách sạn, đã vội mang máy ảnh đi chụp lại góc không
gian đó… để lưu lại làm kỷ niệm.
Nhưng tôi vẫn cứ thích ngồi ở vệ cỏ ven bờ hồ
Xuân Hương hơn dùng mọi phương tiện khác chạy vòng quanh. Như mọi người, tôi
cũng dễ cảm nhận về sinh cuộc loạn nhịp của đô thị con gái này. Mà trước hết là
hai hình bóng hiện hữu làm nên giá trị thú vị cho đô thị cao nguyên: tháp bút của
Trường Lyceé Yersin viết khát vọng bay bổng của con người lên trời xanh ở hướng
Đông và tháp chuông nhà thờ con Gà ở hướng Nam. Chỏm tháp con Gà thanh lịch đặc
sắc, cùng tháp bút Trường Lycée Yersin xưa cũng đang lép vế trước bao công
trình bình thường khác đang có hoành tráng mọc lên.
Tôi đã từng ngồi nhìn và lắng nghe tiếng vó
ngựa chở lúa ở Tuy Hòa, Phú Yên, qua cầu Đà Rằng, rồi ngựa chở nho, hành tỏi
qua tháp Chàm cổ Hòa Lai ở xứ Phan Rang, Ninh Thuận, nhưng sao vẫn cứ thấy tiếng
vó ngựa lộp cộp ven hồ Xuân Hương ở cao nguyên Langbian này mới nhiều… “nhạc”.
Tiếng vó ngựa miền Tuy Hòa, Phan Rang nặng
trĩu sự lam lũ, chịu đựng, còn ở Đà Lạt cứ như mang chất giang hồ lữ thứ, thanh
tao, sang trọng. Vì thế có dạo người ta cấm xe ngựa chạy ven bờ, hồ Xuân Hương
bỗng như… “chết”, cho dù đèn đường cao áp vẫn phủ đầy ánh sáng, là thế.
ĐỘNG
Cũng từ vị trí hồ Xuân Hương này, nay người
ta thấy khách sạn, nhà cửa mới đó, chừng 10 năm thôi, bỗng chốc đã nuốt sạch đồi
núi, cả những đường cong cong thấp thoáng, mềm mại của phố núi. Mọi cánh rừng mỏng
manh còn lại ở khu trung tâm bỗng một ngày cũng dọn dần, dọn dần, bê tông thay
thông. Các khu bất kiến tạo giờ cũng hóa phố hóa phường.
Tầm nhìn về hướng Langbian khép dần. Các cung
đường cao thấp lượn trên sườn núi đặc trưng phố núi nay bị nhà cửa như rèm che
kéo lại, không thể trông thấy nữa. Và chỉ cần ngồi ở đây sẽ nhận ra cái “nền
văn minh xe máy” đang đổ bộ lên cao nguyên, đông đặc lên từng ngày, ức chế sự
thanh cảnh, thắng thế các phương tiện giao thông thân thiện với môi trường.
Làn sóng “khẩu trang” một ngày bỗng mang đi mất
nụ cười vốn như tạc trên môi má người con gái phố núi thanh lịch có đôi má hồng
đào nổi tiếng. Tất nhiên, đến bây giờ Đà Lạt vẫn hãy còn được xem là đô thị mát
lành, thanh sạch hiếm có duy nhất còn sót lại ở Việt Nam. Cái chu vi sáu cây số
của một con hồ thơ mộng danh tiếng kia sẽ còn khúc xạ nhiều sắc màu của đời sống
cùng thế cuộc, chứng kiến thêm nhiều đổi thay nữa của phố núi. Những đổi khác
có khoa học, nghiêm túc, và hòa hợp thiên nhiên sẽ đưa đến sự bình tâm của đô
thị, nhưng nếu mang tính phiêu phỏng, chụp giật hẳn làm đô thị đong đưa, muôn
dân hồi hộp, mà nói như ngôn ngữ người trẻ bây giờ là hên - xui (!).
NGUYỄN HÀNG TÌNH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét