Vài ý nghĩ về thơ Việt Nam hôm nay
Thời gian
dài vừa qua, đời sống văn hóa & tinh thần nói chung, đời sống văn chương
nói riêng đã diễn ra tình trạng loạn chuẩn tới mức báo động, và nổi lên những
hiện tượng kỳ dị- nổi bật nhất là tình trạng “lạm phát thơ” (như tên một bài
viết), mà đỉnh cao (hay thực chất là biến tướng quái đản của nó) là hiện tượng
người làm thơ dám tự nhận “mượn bút tiền nhân”…
Là một người yêu thơ, và đang làm một công việc có thể nói là lấy
thơ ca làm gốc, tôi xin mạnh dạn góp mấy lời lạm bàn về hiện trạng trên.
Đúng là
có sự thật: “Nhan nhản những tập thơ vô thưởng vô phạt xuất hiện trong các giải
thưởng, trên quầy sách, trên bàn thờ tổ tiên hay trên những trang mạng cá nhân.
Đó là thứ thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích, tưởng như vừa khai quật trong bãi
thải của quên lãng…Nhưng cũng không ít người say mê với nó và tưởng mình không
thua gì Nguyễn Bính, Xuân Hương khi được một số độc giả khen vuốt ve trên mạng
ảo…” (“Hiện tượng vè hóa, văn xuôi hóa và cũ hóa Thơ…cần báo động” –
Nguyễn Trọng Tạo – trieuxuan.info ). Quả thực có chuyện: “Thơ thập- diện- mai- phục… thơ làm tắc nghẽn mọi
ngóc ngách, ngõ hẻm, đường sá, giao lộ tinh thần khiến cho thơ sạch không có
lối đi.” (
“Vấn nạn thơ đầy đường”- trannhuong.com). Bản thân tôi cũng đã bày
tỏ thái độ trước sự lạm phát thơ này trong vài bộ phim truyện truyền hình phát
trên Văn nghệ chủ nhật, như phim “Trời cho- trò chơi”: một ông được đền bù đất
đai đã vung tiền cho mình và vợ con làm sang- vợ mở phủ, con gái mua sắm, còn
bản thân thì cho in thơ “con cóc” của mình để khoe và để biếu (do một cò mồi
kích thích dẫn dắt mà diễn viên Xuân Bắc thủ vai rất đạt)
Nhưng,
đó chỉ là một nửa của sự thật, đúng hơn, là cái mặt nổi của sự thật.
Lòng
yêu thơ, có thể nói là cái phần tốt đẹp nhất trong những tình cảm tốt đẹp còn
sót lại sau những cuộc tàn phá kinh hoàng của nền kinh tế thị trường méo mó đối
với nhân tính và các mối quan hệ xã hội. Tôi rất tâm đắc với một ý kiến của tác
giả Thi Thi: “Nếu có một ngày toàn nhà thơ tham gia giao thông thì chắc chắn nạn
tắc đường giảm đi rất nhiều, bởi dù đấy là nhà thơ ở cấp độ nào thì đều là
những người có tâm hồn phong phú, có nhân tính, biết nhường nhịn nhau. Đặc biệt
nếu có chút va chạm không tránh khỏi vì quá đông thì cũng không xảy ra xô sát
lớn, vì ngoài các yếu tố trên, trong túi các nhà thơ nhiều nhất cũng chỉ có cây
bút và cuốn sổ, không bao giờ có dao, kiếm, dùi cui điện hay súng… Còn nếu các
nhà công quyền lại đồng thời là các nhà thơ thì lại tốt quá, người dân chắc
không phải điêu đứng vì thói hống hách, quan liêu, cửa quyền, tham lam vô
độ…(“Đất nước càng nhiều nhà thơ càng tốt”– nguyennguyenbay.com)
Trong một lần trả lời phỏng vấn, nhà thơ Hoàng Cầm có nói đại ý
rằng: tính cách của người Việt rất gần gũi với thơ – đó là lối sống tình cảm
đối với bạn bè, bà con làng xóm, nhường cơm sẻ áo trong hoạn nạn… Trải qua mấy
nghề nghiệp, đi tới nhiều vùng đất, tôi đã tự mình kiểm nghiệm được cái đúc kết
giản dị và lý thú trên của thi sĩ Hoàng Cầm… Xin kể một chuyện nhỏ. Dạo ấy, sau
khi chuyển vùng từ Tây Bắc, tôi nhận công tác ở một trường cấp ba huyện ngoại
thành Hà Nội. Cô tài vụ của trường có vẻ ác cảm với một kẻ tự ti lầm lỳ như
tôi, hoặc coi thường anh giáo nghèo miền núi trở về, nên cứ vào kỳ lĩnh lương,
cô thường để tôi phải đi tới đi lui dăm bẩy bận, đến phát khùng lên mới được
lĩnh hết lương. Một buổi, tôi vào phòng tài vụ chờ rất lâu. Có cuốn sổ tay để
mở, tôi tò mò cầm đọc. Hóa ra là sổ chép thơ tình, có cả mấy bài thơ dịch
Puskin. Có nhiều câu chép sai, sai cả chính tả. Tôi liều mạng lấy bút ra sửa
giúp. Khi cô tài vụ về, chưa kịp thoái thác với tôi là hôm nay chưa có tiền
lương, cô chợt nhìn thấy tôi cầm cuốn sổ, bèn giật lấy nhìn, thấy mấy chỗ sửa.
Tôi tái mặt lo lắng. Nhưng số tôi thực may mắn. Cô đọc một lúc, vẻ lạnh lùng
khinh khỉnh dần biến mất, rồi nhẹ nhàng hỏi: “Anh sửa đấy à?” Tôi ấp úng gật
đầu: “Tôi…Tôi là giáo viên văn mà…”. Cô dường như quên phắt cái sứ mạng là phải
hành hạ một “ma mới” như tôi, hào hứng: “Anh thuộc nhiều thơ không? Chép hộ em
với nhé?” Thế là hôm đó, lần đầu tiên sau hơn nửa năm chuyển vùng về, tôi được
lĩnh lương đúng hạn…Mà công đầu là do Thơ; đúng hơn là do tâm hồn yêu thơ của
một cô gái tuy có nhiều nét tính cách không dễ chịu gì cho lắm nhưng chỉ một
cái đức yêu thơ đó cũng đủ thể tất nhân tình cho tất cả… Gần đây nhất, khi về
làm phim tại thôn Duệ Đông- một trong 49 làng quan họ gốc Bắc Ninh, tôi được
tặng một tập thơ kỷ niệm 15 năm ngày thành lập CLB thơ Duệ Đông (15/8/ 1997-
15/8/2012) mà tác giả là những liền anh liền chị cao tuổi. Trong số những tác
giả mà tôi được tiếp xúc, tôi đặc biệt chú ý tới bà Nguyễn Thị Ngọc Viên. Say
mê tiếng hát quan họ cổ của bà, tôi còn rung động sâu sắc trước cuộc đời bà:
chồng và cả ba người con đều lần lượt ra đi do tai nạn & bệnh tật bất ngờ,
trong nhiều năm bà đã cắn răng để sống, để hát quan họ, truyền dạy hát quan họ
cho lớp trẻ, và làm thơ. Thơ của bà dung dị, chân thật, đượm xót xa ngọt ngào
và thấm như câu ca quan họ:
Cánh
sen gọi nắng trưa hè
Mưa
rào bất chợt, ướt nhòe thơ tôi…
Những câu thơ & những bài thơ như thế của bà, của cả CLB thơ
Duệ Đông, và của rất nhiều CLB thơ trên toàn quốc đang lấp lánh trong biết bao
tập thơ đã được in ra. Có thể nói, chúng là nguồn thơ ca dân gian vô tận để từ
đó hình thành nên những đỉnh cao văn chương bác học- thời xưa là thế mà thời
nay cũng chẳng khác mấy. Nếu có những tập thơ nào đó được sản xuất ra với mục
đích ngoài thơ ca và có nguy cơ làm “tắc nghẽn mạch giao thông tinh thần”- thậm
chí làm mọi người bị ngộ độc, thì đó chỉ là số ít!
Nhà thơ Trần Dần sinh thời đã có lần bênh vực loại thơ ca dân gian
đó như sau:
“Con
đường số 7 của tao/ Nó đi theo giặc tao đào nó đi. Hai câu thơ đó là đúng hay
sai chính trị?… Cụ Hoài Thanh, anh Xuân Diệu bảo là sai chính trị…Tôi rất khen
hai câu thơ đó. Tôi cho rằng nó đúng chính trị, đúng lập trường. Tình cảm nó
gợi lên: mạnh mẽ, phong phú, chua xót mà chủ động. Người đào đường lớn hơn con
đường, con người mạnh bạo, chủ động, chua xót, làm một việc bất đắc dĩ mà cần
thiết. Đó là chính trị, là lập trường của hai câu thơ…Người thi sĩ có quyền nói
tha hồ, nói sống nói chết, nói bừa nói bãi, nói sao thì nói rốt cục tình cảm
đọng lại mạnh mẽ, phong phú, xốc người ta lên yêu ghét hành động. Cho nên
thường khi người ta thấy người thi sĩ nói những điều rất phi lý: trèo trời đục
đất. Có lúc người thi sĩ biến thành ánh trăng, một vì sao. Lúc biến thành con
mãnh thú. Lúc biến thành chiến sĩ, thành Tiên, thành quả núi, con sông, v.v.
Tất cả mọi chuyện thực là vô lý, có khi như sai chính
trị, sai sự thực, như là duy tâm nữa. Nhưng nếu tình cảm đọng lại mạnh mẽ, thôi
thúc, xô đẩy người ta lên thì không sai chút nào cả- như hai câu thơ trên kia…”
(“Thơ chính trị- thơ chính sách”- Tư liệu riêng của gia đình nhà thơ Trần Dần
)
Không ít những lời tâm huyết nói về Thơ trong thời buổi lạm phát
Thơ và chắc chắn tìm được đồng cảm của nhiều người thậm chí không hề làm một
câu thơ, xin mạn phép được trích dẫn đôi dòng:
” Thường nhân làm thơ không phải để trở thành vĩ nhân hay để trở
thành thánh nhân, mà mong mỏi trở thành hiền nhân…Niềm sáng tạo thi ca mệt mỏi
trước nỗi ma lực chữ nghĩa đớn đau, chỉ khát khao góp cho khách tri âm chút
đồng cảm nhỏ nhoi về số phận và phẩm giá từng con người trong xã hội. Tôi nghĩ,
đó là những tiếng thở dài mơ hồ rất cần được lắng nghe và trân trọng…. Khoảng
cách từ sự thăng hoa trên bàn viết nhà thơ đến tác phẩm trên tay độc giả, dường
như càng ngày càng vời vợi hơn, mà nhiều toan tính và nhiều xao xác đã bắt đầu
nhen nhóm. Thực trạng có vẻ bẽ bàng kia đã làm tôi ái ngại, nhưng không hề
khiến tôi tuyệt vọng về sức mạnh cứu rỗi của thi ca. Tất nhiên, tôi không dự
định kỳ diệu hóa năng lực nhà thơ, nhưng tôi dám chắc sự gặp gỡ ngỡ tình cờ
giữa những tâm hồn, đôi khi có thể chở che không ít u uẩn, đôi khi có thể xoa
dịu không ít đắng cay!” (“Phê bình thơ, nên khen hay nên chê?”- Lê thiếu Nhơn)
“Đúng là thơ hay - bao giờ cũng xuất phát từ những nỗi niềm sâu
thẳm của tâm hồn, từ những trải nghiệm máu thịt và suy ngẫm giàu lòng nhân hậu
về cuộc đời và phận người trong thế gian này – chứ đâu phải cứ băm bổ chạy theo
nào là “hiện đại”, “hậu hiện đại”, nào là “hội nhập” với văn chương nhân
loại, rồi thì “đổi mới” bằng mọi giá… là có thơ hay đâu. Một bằng
chứng hùng hồn và thực tế đáng buồn là bạn đọc yêu thơ đang quay lưng lại với
thơ mới hôm nay…”(Triệu Lam Châu- thieunhon.com)
“Sao
trước những sự kiện bức xúc của đời sống, thơ không lên tiếng, thơ lặng câm?
Những bài thơ cất lên ở các dạ hội, đêm thơ, ngay cả của các nhà thơ Việt, hình
như vẫn ở bên ngoài thời sự của cuộc sống hôm nay của người dân? (“Nghĩ
từ liên hoan thơ quốc tế Việt Nam lần thứ nhất” –Phạm Xuân Nguyên-
lethieunhon.com)
“Theo ý
tôi, cái truyền thống vinh quang của người thi sĩ là ở chỗ lúc nào họ cũng thấy
có trách nhiệm gắn bó với cuộc sống. Họ là những người biết yêu ghét vui mừng
hay căm giận ở một mức độ cao hơn mọi người. Họ là những người lúc nào cũng tha
thiết với chính nghĩa và tự thấy như mình phải có một sứ mệnh: làm cái tiếng
nói trong sáng nhất, can đảm nhất và tha thiết nhất của con người. Cũng
chính vì có mang được cái truyền thống đó trong mình nên người làm thơ mới được
xã hội cần đến.” (“Mấy Ý Nghĩ Về Thơ”- Quang Dũng -Vanchuongviet.org)
“Bên cạnh đó thơ ca mang đến đời sống cho mọi người. Họ làm thơ
không phải để thúc đẩy sự phát triển, mà để sống, chia sẻ, kêu gọi chống lại sự
vô cảm, xấu xa trong xã hội. Mỗi giai đoạn có những nhà thơ xuất sắc, mở ra
nhiều giọng điệu, làm cho ngôn ngữ tiếng Việt chứa đựng nhiều vẻ đẹp hơn.”
(Toan Toan- tienphong.vn)
Viện sĩ Viện Hàn lâm Petrov đã cho chúng ta thấy sự trăn trở về
Thơ ở nước ta thực ra cũng là mối quan tâm của nhiều dân tộc trên thế giới, và
chúng càng có giá trị thời sự với hôm nay: “Tôi không phải là nhà tiên tri, nên
không thể đoán được thơ ca sẽ đi đến đâu, và tác động của nó như thế nào. Nhưng
theo tôi nghĩ, thơ ca vẫn có thể là một cái gì đấy cứu vãn được con người.
Thơ ca xuất phát từ những suy nghĩ của những nhà tiên tri ngày
xưa, suy nghĩ về cuộc đời, suy nghĩ về ý nghĩa của con người trên Trái Đất. …Từ
đó thơ ca dần phát triển và được người ta chú ý đến. Ngoài ý nghĩa trên,
nó còn có tính hình tượng và đẹp nữa, mang những nghĩa ấn dụ, bóng gió để nói
lên suy nghĩ về những vấn đề cốt lõi của cuộc đời…Đọc một bài thơ mà không hiểu
cái gì cả, lại chưa chắc đã hay nữa, vậy thì người ta lại tìm đến cái đơn giản,
cái cụ thể cho cuộc sống của họ. Một ngày nào đó, mọi người lại có nhu cầu, tìm
kiếm một điều gì đó cần thiết để vươn lên, vượt lên, thì có một câu trả lời
đang chờ người ta ở trong bài thơ. Đấy là chức năng thơ. Cái đó vẫn tồn tại.”
(“Thơ ca, hay là câu chuyện “số đông – số ít”- NNB.com)
Đạo diễn điện ảnh Tự Huy- cháu bốn đời của nhà giáo, nhà văn hóa,
nhà thơ lớn Nguyễn Văn Siêu có kể cho tôi nghe một câu chuyện thú vị về nhà thơ
Trần Dần. Nhà thơ vốn nổi tiếng là người chịu khó tìm tòi cách tân Thơ này bảo
ông Tự Huy: “Có một bài ca dao cổ tuy hay nhưng tôi không đồng tình với nội
dung và hình thức của nó:
Tình
cờ bắt gặp nàng đây
Đòi
cắt cái áo đòi may cái quần
May
rồi anh sẽ trả công
Ít
nữa lấy chồng, anh sẽ giúp cho
Giúp
em một thúng xôi vò
Ba
con lợn béo một vò rượu tăm
Giúp
em đôi chiếu em nằm
Đôi
chăn em đắp đôi chằm em đeo
Giúp
em quan tám tiền cheo
Quan
tư tiền cưới lại đèo buồng cau…”
Nhà thơ Trần Dần đã làm lại bài ca dao. Và nhà thơ đã đọc cho đạo
diễn Tự Huy nghe bài thơ đó, nguyên văn như sau:
Bao
giờ em đi lấy chồng
Để
anh sắm sanh quà cưới
Anh
mừng em đôi chiếu mới
Em
về trải kín giường đôi
Anh
đi sang tận làng Ngòi
Tìm
mua gạo cẩm
Xu
xuê bánh cốm tự anh buộc lạt điều..
Em có cần anh
đầu cỗ
Bảo người nhắn gọi anh sang
Giò lụa chạo nem, thịt quay xôi gấc
Vật bò mổ lợn
Con dao anh cắt, nuột lạt anh thắt
Giò thủ anh nén, nước xuýt anh nếm, nạc mỡ anh pha
Cỗ lòng anh thuốn, gỏi cuốn anh cuộn
Mâm son anh dọn, đĩa trúc anh so…
Bảo người nhắn gọi anh sang
Giò lụa chạo nem, thịt quay xôi gấc
Vật bò mổ lợn
Con dao anh cắt, nuột lạt anh thắt
Giò thủ anh nén, nước xuýt anh nếm, nạc mỡ anh pha
Cỗ lòng anh thuốn, gỏi cuốn anh cuộn
Mâm son anh dọn, đĩa trúc anh so…
Hay em nhờ anh
giúp về văn nghệ
Để anh sửa soạn chương trình
Máy hát anh mượn, trò vui anh chọn
Bạn bè anh đón
Tuyên bố lý do anh nói
Kèn tàu anh thổi.
Để anh sửa soạn chương trình
Máy hát anh mượn, trò vui anh chọn
Bạn bè anh đón
Tuyên bố lý do anh nói
Kèn tàu anh thổi.
Anh
lưu tới cuối tiệc tan
Khách
muộn anh tiếp, đèn rạp anh tắt
Thuốc
lá thừa anh nhặt
Xong
xuôi anh về!”
Tôi chợt nảy ý nghĩ: bài thơ làm lại này của thi sĩ “thủ lĩnh
trong bóng tối” (Phạm Thị Hoài) có thể coi như một nhát búa tạ phang vào cái
thói “làm duyên làm dáng” (Lưu Trọng Lư) của nhiều nhà “hoạn quan trữ tình”
(Maiakovski), giáng mạnh vào cái thực chất trống rỗng về tư tưởng, nghèo nàn về
vốn sống và kém cỏi về tiếng Việt nên đành phải mượn cái vỏ hiện đại, hậu hiện
đại rất khụng khiệng để che lấp của không ít nhà thơ chúng ta hôm nay.
Đáng mừng là, giữa cái loạn chuẩn về giá trị Thơ, có một nhóm nhà
thơ phía Nam đã tình nguyện đứng ra làm một loạt “tập thơ hay”, với tinh thần
vô tư, không vụ lợi, nhằm góp phần chuẩn hóa, định giá chính xác về Thơ Việt
hiện đại. Tập đầu tiên của “Thơ Bạn Thơ”- gồm 5 tập ( Nguyễn Nguyên Bảy &
Lý Phương Liên chủ biên) đã ra đời vào dịp Lễ Xá Tội Vong Nhân năm nay. Giá trị
nội dung nghệ thuật chứa đựng trong những tập thơ đó ra sao, người đọc đông đảo
sẽ có thời gian thẩm định; có điều, đó thực sự là những “tuyên ngôn” bằng thơ
chân chính có tác dụng thanh tẩy những gì không phải là Thơ, hạ thấp Thơ, thậm
chí giả Thơ… Công việc này có thể là một hồi chuông thức tỉnh, một sự mở đầu
cần thết để phục hưng lại những giá trị thơ ca đích thực đã từng bị lem luốc
một cách oan uổng trong những năm tháng vừa qua.
Nguyễn Anh Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét