Các thi sỹ Việt Nam hiện đại ít ai có cảm
quan thơ về sự lặng im và yên tĩnh một cách trang trọng trong một tập thơ như
ông ấy. Người đã từng triết lý rằng chỉ có biển khơi mới thấu hiểu vì sao con
người lại không tìm được sự yên tĩnh trong đời. Và vì thế không biết từ bao giờ
và ở đâu, người ta đã đánh mất sự yên tĩnh của bản thân mình như là mất đi một
giá trị nhân văn. Chỉ mong được một ngày lặng lẽ trong cõi một mình. Bởi thế
cho nên khi đặt bút viết về người ấy, tôi nghĩ ngay đến việc ông đã mai danh ẩn
tích giữa chốn đô hội có nhẽ quá 15 năm rồi, liệu có đụng vào cái khoảng trống
bình lặng của người ta hay không? Ngày 23-1 chuyển bài cho ông. Ngày 25-1 tôi
được trả lời. Phải chờ … sau đại hội nhà văn mới được đăng báo. Chao ôi, Nhà
văn là nhà văn. Tôi đã rời xa chốn quan trường được mấy niên rồi mà giờ lại gặp
được hình thù gần giống như của nó. Của ông ấy. Của tôi. Và của nhiều người
khác nữa. Của bầu trời phương đông nghìn năm phủ bóng mây chiều. Có phải một
lúc nào đó tôi đã không hiểu lời Nguyễn Đình Thi: Người viết phải nhạy cảm với
nỗi đau vô hình của cuộc sống? Vả lại ông có khiến đâu mà tôi viết? Âu là cái
duyên kiếp của một kẻ lãng du trong cõi văn chương vô định không cần tính đếm
này? Hoặc bởi tại tôi yêu cái lý thuyết lặng lẽ của ông lúc nào mà cũng chẳng
hay?
Trong số các nhà văn đương thời tôi quen
biết, hiếm ai có cử chỉ thân thiết như ông. Dù là điện thoại hay giao tiếp
thông thường, ông hay gọi tên bút danh của tôi đầy đủ. Nghe trân trọng và gần
gụi. Ở đời này, thi nhân tìm đến nhau chỉ để ngập chìm trong cái thế giới ảo
đôi khi hão huyền của thi ca mà thôi. Tự soi mình vào trong đó và nhận ra cái
tạng của nhau. Của những kẻ trót đem thân dính vào nghề nghiên bút. Người ta
thích nhau phần nhiều chẳng vì cái gì cả. Chỉ vì cùng yêu một vần thơ lạ đã
treo tít tắp ở đâu đó nơi chân trời trong cái thế giới tinh thần mênh mông đầy
trắc ẩn mà các văn sỹ ngàn đời đã sáng tạo ra.
Vào những lúc thư nhàn, tôi thường mở
cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại, xuất bản năm 2010, ra xem. Giống như
mở Kinh Tân ước hay Hà Nội
36 phố phường của Thạch Lam. Xem đi xem lại để thưởng
mạn. Cuốn sách đó xếp các nhà văn theo thứ tự a, b, c. Mỗi người chỉ được một
trang. Tất cả đều có ảnh. Thi thoảng là một bức họa chân dung sơ sài nơi góc
giấy nhỏ bằng mặt bao diêm. Phần nhiều họ đăm chiêu. Ít có khuôn mặt hớn hở
lắm. Ở trang 548 hiện diện một người với mái tóc đen để dài. Ôm lấy khuôn mặt
trầm lặng. Vòng tóc dày chạy xung quanh che kín cả một bên vầng trán. Dưới đó
thường trực cặp kính trắng. Chắc là gọng nhựa. Bộ tóc và khuôn mặt nói rằng người
ấy còn trẻ. Và vì nó mà có thể người ta cũng gặp nhiều khúc đoạn trường lắm
đây? Và còn gì nữa chắc không phải một sớm một chiều để hiểu hết được cuộc đời
của một nhà văn? Sinh năm 1944 ở Đà Lạt. Quê cha Hà Tĩnh. Quê mẹ Bình Định.
Quãng đâu năm 2010, tôi gặp ông ấy mới ngỡ ngàng vầng tóc đen kia đã ngắn lại
và bạc trắng trường đời. Giọng nói pha Bắc trộn Nam. Không còn có cái pure của
một đôi vùng ven biển miền Nam Trung Bộ khi mà nguyên âm a ở giữa những từ có
dấu nặng và ở cuối từ có phụ âm P, kiểu như mập mạp, múa sạp, xe đạp … thi a
được chuyển thành u. Bộ điệu lúc nào cũng tỏ ra cẩn trọng. Có vẻ của một chính
ủy …hay một quan chức hàng tỉnh miền trung du Bắc Bộ luôn biết khép mình vào kỷ
cương ở chốn quan trường hơn là một nhà văn. Không giống những gì đã vẽ trong
sách nữa. Vâng – ông là nhà thơ Ngô Thế Oanh.
Có nhiều cái nhớ trong trang 548. Nhưng
nhớ hơn cả là suy nghĩ về nghề văn của ông. “Điều đòi hỏi trước hết và chủ yếu
ở một người viết là sự lương thiện”. Quan niệm này chưa hẳn đã được mọi người
đồng ý. Nhưng tôi quý ông cũng điều trước hết không phải bởi sự ru hời của văn
chương. Bởi tại chính cái quan niệm mà ông suốt đời hành xử theo phương châm
ấy. Mặc dù mở đầu tập Tâm hồn, sứ mệnh của nhà thơ được Ngô Thế Oanh
diễn tả cay đắng hơn nhiều.
Ngô Thế Oanh thuộc lớp các nhà thơ chống
Mỹ cứu nước. Sau khi tốt nghiệp Văn khoa tổng hợp Hà Nội, công tác ở báo Tiền
Phong một thời gian. Đầu năm 1971, ông tình nguyện đi chiến trường khu 5. Chiến
trường Quảng Đà ác liệt. Sống và viết ở đó cho đến ngày giải phóng. Một người
mình hạc xác ve như vậy làm sao có thể vượt qua được những thử thách khốc liệt
để trở về? Và điều lương thiện trong những điều lương thiện, ông đã góp phần
gìn giữ Nhật ký Chu Cẩm Phong đến ngày về lại Hội An trao một phần tài liệu ấy
tận tay cho mẹ liệt sỹ. Sau nhiều năm hòa bình, cái thị trấn ven biển nhỏ bé
ấy, có lần tôi đến làm việc tại một cơ quan. Thấy bàn thờ hương khói ở trong
đó. Hỏi ra mới biết người ta đào móng sửa lại nhà thấy nhiều bộ xương người. Rõ
ràng là người ở bên ta. Cách ngôi nhà ấy không xa, ở góc vườn có một cây xoài
lá xanh đến mức kỳ lạ. Sau rồi phát hiện được ngôi mộ tập thể khác ở gần đó.
Khai quật lên thấy còn lẫn nhiều xác bộ đội với bi đông và dép cao su. Nhiều
đến hàng trăm. Của năm 68. Tôi bỏ ý định mua chiếc đèn treo giấy đỏ ở phố cổ
mang về Bắc. Sợ là mỗi buổi tối mùa đông thắp lên lại như thấy mình có lỗi. Cái
thị trấn ven biển còn ở lại rất nhiều người vô danh dưới đất. Nhật ký của Chu
Cẩm Phong là nhật ký của một thời đại. Một thế hệ. Không đếm được có bao nhiêu
người đã ngã xuống và mình đầy thương tích ở mảnh đất này? Thật xúc động những
trang ghi về các văn nghệ sỹ. Bùi Minh Quốc. Dương Thị Xuân Quý. Phan Huỳnh
Điểu. Nguyễn Trọng Định. Cao Duy Thảo … Hiểu và trân trọng hơn một thế hệ cầm
bút đã sống và viết hết mình. Hiểu những trải nghiệm của con người khiêm nhường
ấy đã thử thách điều gì trong những năm bom đạn. Hiểu thêm cái triết lý, ở đời
này đôi khi người ta im lặng còn hơn là nói rất nhiều. Hiện tại còn nợ nần quá
khứ nhiều quá. Không biết có bao nhiêu người ở lại dưới gốc cây bờ cỏ. Xưa là
bãi chiến trường. Từ khói lửa chiến tranh triệu triệu người trở về. Có những ai
chỉ bình yên với cái chữ khiêm nhường ấy thôi? Không chút gì đòi hỏi bổng lộc
hay chức tước cao sang. Tuổi cao tóc trắng chỉ vì yêu thơ mà hàng ngày vẫn lăn
lộn đến cơ quan làm việc. Nóng bức cũng như mưa rét. Không biết có bao nhiêu vị
khách văn chương đến nhà số 9 Nguyễn Đình Chiểu lên tầng 4 Tạp chí Thơ đã có
những ai biết con người lặng lẽ đó thời trai trẻ sống và viết ở chiến trường
chẳng khác gì Chu Cẩm Phong hay nữ văn sỹ họ Dương, tác giả của tậpHoa
rừng …
Ông sống như một ẩn sỹ giữa biết bao nhiêu là vinh hoa của thời bình. Tạp chí
Thơ bao lâu rồi vẫn thanh bạch như tên gọi và xiêm áo của nó. Nó ít mùi vị thị
trường nhất trong số hàng nghìn tạp chí đủ loại hàng ngày, hàng giờ đang khiêu
khích người đọc và thách thức với chân thiện mỹ của văn chương và cuộc sống.
Ngô Thế Oanh xuất bản thơ không nhiều.
Tôi đọc thơ của ông ấy chủ yếu qua văn chương mạng. Tình yêu nhận từ đất. In chung năm 1977. Tâm hồn. Nhà xuất bản Đà Nẵng in 1995. Thanh Thảo bảo Ngô Thế
Oanh là người
tìm kiếm mình chứ không tìm kiếm thơ. Người
tìm cách làm sáng rõ những khoảng còn mù mờ trong bản thể mình. Chỉ ngần ấy thôi, đủ làm một Ngô Thế Oanh khiêm nhường và khác
biệt.Gửi
sông Thu Bồn. Vô danh. Trong cánh rừng giá lạnh. Ghi vội ở Bảo An Đông. Khoảng
lặng yên tháng 4 … cho thấy một chặng đường của nhiều đời
người từ chiến tranh về với hòa bình. Thơ Ngô Thế Oanh như những ngọn gió thổi
không nguôi từ miền ký ức và hoài niệm. Chất ký sự in đậm trong thơ. Bài thơ
dài Ghi vội ở Bảo An Đôngthấp thoáng nhật ký chiến trường kiểu
Chu Cẩm Phong. Vô Danh kể về sự mất mát hy sinh. Ngô Thế Oanh
có cách nói của riêng mình. Một sự giản lược nghiệt ngã. Những tên tuổi. Những cuộc đời khát vọng.
Giờ chỉ còn giản lược: Vô danh.
Đôi khi tôi lẩn trốn cuộc đời vào những
fugue của Johann Sebastian Bach, đã lắng đọng trong đời sống tinh thần của nhân
loại giai điệu trầm buồn. Nhớ lại câu chuyện kể bằng thơ của Ngô Thế Oanh về
người con gái yêu những fugue ấy vang lên dưới vòm các thánh đường tới cõi vô
cùng thanh khiết. Sau chiến tranh, ông tình cờ nghe được những fugue của Bách
từ ngôi nhà bị bom đánh sạt như một lời năn nỉ con người hãy yêu nhau và gìn
giữ tình yêu. Vì sự thôi thúc ấy, thi sỹ đã đi tìm lại người xưa. Nhưng chẳng
bao giờ gặp nữa. Chỉ còn lại trên những gì đổ vỡ của chiến tranh. Những fugue
tha thiết một thời giờ như là những vết thương xót xa lắng lại. Với Ngô Thế
Oanh, thơ đồng hành với ký sự cùng với triết lý và suy tưởng mà Kỉ niệm trên những fugue cùng một số bài thơ khác viết sau hòa
bình càng tỏ rõ sự trưởng thành theo khuynh hướng này. Người đàn bà hát. Nhà thơ. Trên một khúc
Prelude của Sopanh. Đêm thức nhớ một nhà thơ Đường. Độc thoại Oxíp Mandestan.
Trở lại với Ham lét. Tự họa 1987 … là những ví dụ.
Thơ Ngô Thế Oanh giàu hoài niệm. Tôi đi
theo mùa hạ ấy xa, mùa hạ ấy xa rồi khi một loài hoa trắng vẫn nở màu thanh
khiết mà chẳng thể thản nhiên trước số phận con người như người đàn bà vận robe
đen tóc màu huyền đen đêm đêm vẫn hát ở bar cà phê Hợp Phố. Như thi nhân thấy
mình giống như mẩu thuốc lá bị quét khỏi quán cà phê trước giờ đóng cửa, để
hiểu mỗi ngọn cỏ vô danh cũng bình đẳng với người. Nhưng hoa tường vi dại vẫn
nở trong khu vườn yên lặng nắng hiền thảo như chưa bao giờ hiền thảo của thành
phố tuổi thơ. Trở về già. Có một người đi về phương Nam. Chẳng thể đành lòng
mùa thu tháng 9 tuôn một trời vàng điệp nơi phố phường Hà Nội … Cái hoài niệm
cùng chất triết lý thâm trầm cứ lắng đọng dần theo năm tháng hòa bình sau chiến
tranh trong thơ Ngô Thế Oanh. Và tôi hiểu vì sao mùa thu thanh bình lại tuôn
những lớp lá không lời trên vai người thi sỹ. Những
ngọn gió của ký ức là bài thơ tiêu biểu được viết theo
hướng đó. Chất ký sự lan tỏa trong những dòng thơ coi trọng tính triết lý, suy
tưởng làm sâu sắc và lay động số phận của những con người trong thơ phải chăng
đã góp phần làm nên giọng điệu riêng của thi sỹ họ Ngô.
Tôi yêu Xuân Diệu từ buổi Tôi dạo tìm thơ gặp biệt ly của Thơ Thơ và Gửi
hương cho gió. Yêu cái
chàng Xuân Diệu ngày xưa hay buồn lắm. Rồi một kỷ niệm buồn vô cớ xảy ra. Năm
1970. 1971. Xuân Diệu vào Văn khoa tổng hợp nói chuyện thơ. Cái bộ điệu đầu lắc
lắc. Kính trắng đeo trễ. Quạt giấy mở ra đập phành phạch … khiến chàng giống
một bà đầm già nhiều hơn là một thi nhân. Càng nói con đỉa vắt qua mô đất chết
bao nhiêu … Càng làm cho tình yêu của tôi với chàng nguội lạnh. Sự thể ấy cứ âm
thầm mấy chục năm chưa dứt cho đến khi gặp Ngô Thế Oanh, tình yêu Xuân Diệu từ
buổi ban đầu mới nguôi ngoai trở lại.
Dường như giữa họ có sự đồng điệu. Xuân
Diệu thường tự hào cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong. Có phải vì thế không mà
người bạn vong niên của tôi luôn giành cho Xuân Diệu tình cảm đặc biệt. Sau năm
1975, thời còn công tác trong Nam đến mãi năm 1987, mỗi khi ra Hà Nội ông
thường được Xuân Diệu trách yêu Sao em
không đến chơi nhà…
Sau Tết dương lịch vừa rồi, Ngô Thế Oanh bảo tôi Xuân Diệu cô đơn không có gia
đình nên năm nào nhằm dịp tết cũng lên viếng mộ. Năm nay lên sớm vì cây hoa
giấy mà Hội Nhà văn và Tạp chí Thơ trồng từ những năm trước đã bị khô. Cần chăm
sóc. Hy vọng mùa hè này nhiều nắng. Cây sẽ nở hoa. Thực là cái tình riêng có
của các thi nhân. Khi họ sống chỉ mải mê đi tìm cái đẹp cho đời. Đám thi sỹ là
lớp người thanh bạch nhất. Họ quên mất cả bản thân. Ở nơi xa xôi trong chốn
diêu linh, Xuân Diệu biết chăng những kẻ hậu thế lại lo lắng cho một nhành hoa
dân dã nở trên bia mộ vào một ngày nắng đẹp như chứng tỏ sự bất tử của một thi
tài. Như ghi lại tấm lòng của kẻ đi sau với một người đã sống chết vì thơ. Ngô
Thế Oanh từng viết Chỉ hoa
trên mộ nhà thơ là không biết tùy thời.
Tôi đến viếng mộ Nguyễn Du, Nguyễn
Khuyến, Phan Bội Châu, Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Quang Dũng … ở nhiều
nơi trên đất nước ta. Ở đâu dường như tôi cũng thấy trong không gian yên tĩnh
và oai nghiêm đâu đó mơ hồ ngọn gió ấm áp từ miền ký ức kể về sự bất tử của thi
ca nhân loại và nhắc nhở tình đời và tình nghệ sỹ của những người đã tự nguyện
đem đời mình đứng chân vào hàng ngũ thi nhân – Vẫn tha thiết thổi. Và tôi nhớ
Độc thoại Oxíp Mandestan trong thơ Ngô Thế Oanh như nhắc nhở lòng mình
Hãy cố đứng lên màn cuối thiên bi kịch
Ta đâu phải người cuối cùng. Ta đâu phải
kẻ đầu tiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét