Mùi hương trầm 3
Trường Giang tam hiệp
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Cữu Hoa Sơn (Jiuhuashan)
Ngành sứ Trung Quốc và Cảnh Đức Trấn
Hàng Châu và Tế Điên Hòa Thượng
Ngày xưa trước công nguyên
Hàng Châu có tên là Tiền Đường, đó là tên của con sông chảy qua Hàng Châu.
Mãi đến năm 589 trong thời nhà Tùy, thành phố xinh đẹp này mới mang tên Hàng
Châu, đó là thời kỳ xây dựng kênh đào Đại vận hà dài 1800km từ Bắc Kinh về
đây. Hàng Châu là cố đô của nhiều triều đại mà phồn vinh nhất là đời Tống,
lúc triều đại này lánh nạn về phía nam trong thế kỷ thứ 12. Marco Polo, người
đến đây trong thế kỷ 13 cho rằng đây là thành phố "đẹp nhất thế giới"
với 12.000 chiếc cầu. Đã từ xưa, Hàng Châu là một chốn đầy sông nước hồ núi.
Đến Hàng Châu là đến Tây Hồ
với núi Cô sơn, rộng gần 6 cây số vuông, ba phía là núi bao bọc. Cô sơn là một
trong bốn hòn đảo của hồ, cao 38m, nơi Lâm Bô đời Tống ở ẩn, nuôi hạc và trồng
mai. Ngày nay trên Cô sơn còn giống mai và nấm mồ của ông. Không chỉ Lâm Bô,
Tây Hồ ghi dấu chân của biết bao nhiêu thế hệ thi nhân văn sĩ, trong đó Bạch
Cư Dị đã từng làm thái thú tại đây và công trình xây đê điều của ông còn lại
tới ngày nay. Hàng Châu cũng là nơi yên nghỉ cuối cùng của Nhạc Phi
(1103-1142), vị tướng quân bị triều đình lên án tử hình một cách oan uổng.
Sau khi được phục hồi, thi hài của ông và con trai được đưa về đây. Người ta
tin rằng những người trung liệt như ông sẽ thành thần tiên mà trên nóc điện
thờ còn khắc họa hình chim hạc, loài chim chỉ dành cho những người bất tử.
Tôi đến đây để biết cảnh
thiên đường ra sao nhưng cũng để theo vết chân của một vị tăng sĩ kỳ dị, đó
là Tế Điên hòa thượng.
Tế Điên tên thật là Lý Đạo
Tế, sống trong đời Tống, tức là khoảng thế kỷ thứ 12. Ông là tăng sĩ nhưng
ham uống rượu ăn thịt chó nên người đời gọi ông là Tế Điên. Mới đầu Tế Điên ở
núi Thiên Thai nhưng ông sớm lên phía bắc khoảng 300km để đến Hàng Châu. Tại
Hàng Châu có một ngôi chùa rất cổ, một danh tự đã ghi dấu chân nhiều vị cao
tăng, đó là chùa Linh Ẩn. Tế Điên vào đó xin xuất gia.
Linh Ẩn tự được khởi xây
năm 326, nằm trong một khuôn viên cực lớn, là một trong những ngôi chùa danh
tiếng nhất Trung Quốc. Trong thế kỷ thứ 10 thì nơi đây có 300 tự viện và 3000
tăng sĩ. Ngôi chùa này là đối tượng của nhiều sự tàn phá, nó đã bị phá hủy và
xây dựng lại đến nay tổng cộng 16 lần. Trong cuộc nổi loạn Thái Bình thiên quốc
(1851-1864) chùa bị phá hủy hoàn toàn và sau đó mới được xây cất lại. Năm
1953 thủ tướng Trung Quốc là Chu Aân Lai ký giấy cho xây tượng Thích-ca cao
19,6m. Trong thời cách mạng văn hóa, nếu không có sự can thiệp vào phút chót
của ông thì chùa Linh Ẩn cũng đã bị tiêu hủy. Ngày nay vào tiền điện ta gặp một
bức tượng của Di-lặc và Vi đà tướng quân của đời nhà Tống. Trong Đại hùng bảo
điện cao 33,6m ta thấy lại tượng Thích-ca đó, khuôn mặt dát vàng ngời sáng
trong ánh đèn mờ ảo.
Linh Ẩn là nơi các vị đạo
cao đức trọng tu hành, trong đó có Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975). Hồi còn trẻ
ông làm quan, lấy trộm tiền của vua phân phát cho dân nghèo. Vua thử lòng lên
án tử hình, xem thái độ ông ra sao. Xem ra ông vui vẻ chẳng sợ chết, vua tha
tội, cho xuất gia. Vĩnh Minh Diên Thọ lên núi Thiên Thai gặp thiền sư Đức Thiều
ngộ đạo tại đó. Năm 950, Trung Hiến Vương mời ông về trụ trì chùa Linh Ẩn.
Vĩnh Minh Diên Thọ là thiền sư, đạt đạo bằng tự lực nhưng ông cũng là người
biết rằng căn cơ con người không mấy ai đi được con đường Thiền tông nên cũng
giáo hóa Tịnh Độ tông, phép niệm Phật vãng sinh. Trong lịch sử Phật giáo
Trung Quốc, Vĩnh Minh Diên Thọ là một trong những vị ít ỏi giáo hóa cả Thiền
tông lẫn Tịnh Độ tông.
Còn Tế Điên xem ra không mấy
thắc mắc về chuyện đó. Huyền sử kể rằng lúc Tế Điên đến Linh Ẩn Tự thì nằm mộng
thấy có một tai họa sắp xảy ra cho dân làng. Đó là ngọn Linh Thứu, chỗ Phật
thuyết Diệu pháp liên hoa, sẽ bay từ Ấn Độ về cực lạc và sẽ "nghỉ
chân" ngay trước Linh Ẩn tự. Tế Điên vội báo ngay cho dân làng tránh xa
nhưng dân chúng làm gì mà tin được một nhà sư ăn thịt chó nên chẳng ai nghe.
Sắp đến giờ Linh Thứu hạ cánh mà dân chúng vẫn nhởn nhơ, thậm chí họ còn lo tổ
chức đám cưới cho một cặp vợ chồng nọ. Thấy ngọn núi đá vun vút bay lại mà
dân làng vẫn vui cười, không biết làm sao, Tế Điên nhảy vào lễ cưới, ôm cô dâu
chạy như bay. Dân làng đâu dễ để cho một ông sư ăn thịt chó cướp cô dâu của
mình được liền đuổi theo thì đánh "rầm" một cái, một ngọn núi đá
trên trời rớt xuống, nằm ngay trước Linh Ẩn Tự. Khi đó dân làng mới biết Tế
Điên đã cứu mình. Ngọn núi đó là Phi Lai phong (đỉnh "bay lại
đây"). Tế Điên giải thích cho dân làng đây là ngọn núi thiêng từ Ấn Độ
bay qua, nghỉ một thời gian sẽ bay tiếp. Muốn đỉnh núi ở lại vĩnh viễn với
xóm làng, hãy tạc lên núi đá 500 bức tượng Phật.
Ngày nay Phi Lai phong còn
ở đó, chưa bay đi. Phi Lai phong chỉ cách Linh Ẩn tự một con suối nhỏ, cao
168m, có vô số hang hốc và khoảng 380 tượng Phật, có niên đại khoảng thế kỷ
thứ 10. Tại vách phía đông của Phi Lai phong có ba bức tượng khá cổ của năm
951, tạc đức Thích-ca, Quan Âm và Dược Sư. Tượng lớn nhất của Phi Lai phong nằm
trên vách phía bắc, đó là tượng Di-lặc thuộc đời nhà Tống (960-1270), tay cầm
xâu chuỗi. Tôi leo lên Phi Lai phong, lòng nhớ về Linh Thứu, chỗ mà tôi yêu mến
nhất trong các chuyến du hành Ấn Độ. Đáng yêu thay những chuyện truyền kỳ, hiềm
gì chúng có thật hay không có thật.
Gần Linh Ẩn có một ngôi
chùa khác, đó là chùa Tịnh Từ, cũng là nơi có di tháp của Vĩnh Minh Diên Thọ.
Tịnh Từ là chỗ Tế Điên một thời hoạt động tích cực. Chùa này không may bị
cháy, Tế Điên liền lớn tiếng cho hay mình sẽ kiếm gỗ xây chùa mới. Nói thế
nhưng Tế Điên không đi đốn cây làm gỗ gì cả. Trong chùa có một vị tri sự tên
là Quảng Lương không ưa Tế Điên từ lâu, thấy thế muốn chế nhạo ông một phen
nên làm ngơ không nhắc nhở gì cả. Đến gần ngày khởi công xây chùa, Tế Điên
lên núi Nghiêm Lăng xin củi. Ông lại áp dụng cái kế của Kim Kiều Giác tại núi
Cửu Hoa, chỉ nói xin chút rừng bằng miếng áo cà-sa mót củi. Nào ngờ áo cà-sa
của ông choàng hết núi, choàng tới đâu cây rạp tới đó. Tế Điên cho đem thả
cây xuống sông, tưởng cây trôi ra biển, nhưng cuối cùng cây trồi lên trong giếng
Hương Tích nằm ngay trong chùa Tịnh Từ và được 6 người lạ mặt vớt lên, đó là
thần Lục giáp. Quảng Lương hoảng hồn chịu thua, lấy cây xây chùa nhưng lòng
còn ấm ức về ông tăng ăn thịt chó. Lấy củi một hồi xong, Quảng Lương hô
"đủ số", thần Lục giáp biến mất, nhưng thật ra ông đếm lộn, còn một
cây nằm dưới đáy giếng. Vì lỗi đếm lộn mà Quảng Lương phải chịu đền cây thiếu,
ông phải khổ sở lắm mới kiếm ra một cây thế chỗ.
Tôi tới chùa Tịnh Từ, chiếc
giếng Hương Tích vẫn còn. Du khách tới đây ai cũng nhoài người xuống giếng để
xem cây gỗ sót lại từ thời xa xưa. Chiếc giếng nhỏ và sâu, đường kính chừng
1m, không hiểu làm sao thần Lục giáp vớt được cây. Du khách không không thắc
mắc về chuyện đó, họ phải thấy cây củi trong chiếc giếng tối om nên người ta
phải treo một cây đèn dưới giếng để thấy được cây. Về sau Tế Điên có để lại
bài kệ lúc từ trần:
Lục thập niên lai lang tịch,
Đông bích đả đảo tây bích, Ư kim thu thập qui lai, Y cựu thủy liên thiên bích.
Sáu mươi năm bừa bãi,
Vách đông đánh đổ vách tây Đến nay thu nhặt quay về Như xưa nước liền trời biếc
Nhưng Tế Điên sẽ không là
Tế Điên nếu ông chết thật. Về sau có vị tăng gặp ông ở chân tháp Lục Hòa, nằm
bên sông Tiền Đường cách đó không xa. Ông có gửi thư về, báo sẽ về lại núi
Thiên Thai. Lục Hòa bây giờ cũng là danh lam thắng cảnh của Hàng Châu. Đó là
tháp xây năm 970 nhưng đến năm 1121 bị phá hủy và được xây lại năm 1899, ngày
nay có chiều cao khoảng 60m.
Tế Điên về lại Thiên Thai
thì ngàn năm sau Tịnh Từ lại bị hủy hoại, cách mạng văn hóa trong những năm
sáu mươi của thế kỷ này đã phá hủy ngôi chùa. Lúc tôi tới thì Tịnh Từ mới được
xây lại một phần, lầu trống đã có nhưng lầu chuông chưa ai xây. Tế Điên đã vắng
bóng. Đời này đâu còn chỗ cho một con người đắc đạo và hóm hỉnh như thế xuất hiện.
Trong chùa Tịnh Từ ngày nay tôi tìm thấy tượng của Tế Điên, tưởng Tế Điên
cũng mập mạp như Bố Đại hòa thượng, nhưng không phải. Ông gầy dơ xương, mặt
mày vui tươi, tay cầm quạt mo. Trong chùa người ta không tiện trình bày một Tế
Điên ham rượu thịt nên chỉ có quạt mo, nhưng ra khỏi chính điện trong các sạp
bán đồ lưu niệm là vô số tượng ông tay cầm đùi chó, tay kia quạt mo. Tôi khám
phá cả một tượng Tế Điên bị chó cắn gấu quần, lòng bỗng nhớ Tịch Thiên ở
Na-lan-đà, Ấn Độ với bài kệ:
Con nai trên bàn ăn,
chưa hề sống hề chết, chẳng bao giờ vắng bóng. Đã không gì là Ngã, sao lại có thợ săn, hay thịt của thú rừng?
Ngày nay nếu Tế Điên có
tái sinh thì có lẽ ông phải ăn thịt nai như Tịch Thiên vì loài chó đã biến mất
trên nước Trung Quốc. Cách đây khoảng vài mươi năm nhà nước Trung Quốc đã cho
diệt loài chó, vì lý do nào thì tôi không rõ. Đi khắp từ nam xuống bắc, từ
tây sang đông tôi không thấy bóng một tên cẩu tử nào cả. Họa hoằn lắm trên
các vùng sơn cước có lúc tôi mới thấy một chú chó ngơ ngác, cứ mỗi lần như thế
tôi lại nhớ Tế Điên hòa thượng.
Nhìn hình ảnh của Tế Điên,
tôi nhớ đến Bùi Giáng, nhà thơ mới xa chúng ta vài năm nay. Bùi Giáng cũng gầy
gò như Tế Điên, cũng bụi đời, cũng đi về cõi nhân sinh như Tế Điên. Tôi được
gặp ông trong nhà một người bạn thân tại thành phố Hồ Chí Minh. Tôi vào khu
vườn nhỏ bé đó đúng lúc Bùi Giáng đã ngồi sẵn trong đó. Bên ngoài ông không
khác mấy với một người ăn xin đã già nhưng khuôn mặt tinh anh và cặp mắt sắc
sảo làm tôi kính sợ. "Đó, bồ-tát đó", người bạn nói để giới thiệu
người tôi hâm mộ nhưng trước đó chưa từng gặp. Tôi biết Bùi Giáng với tính
cách là một người làm vua trong cõi chữ nghĩa. Ông có thể hiểu ngộ những văn
hào khó hiểu nhất của Đức, Pháp, Anh và dịch những tác phẩm của họ với một thứ
văn chương trác tuyệt, trung thành với nguyên bản nhưng không gượng ép miễn
cưỡng. Và với tiếng Việt thì ông vào ra như thiền sư vào chợ, ông phung phí,
ông sử dụng, ông chơi đùa như trẻ con nghịch cát. Ông sống triền miên trong
cõi thơ ca của ông để mỗi tiếng mỗi lời của ông có một chiều sâu, một ý nghĩa
và chữ nghĩa của ông tự chúng xếp lại thành thơ. Chúng ta cho rằng ông
"làm thơ" nhưng có lẽ ông không tự biết mình làm thơ.
Bùi Giáng cũng như một người
điên, cỡ Tế Điên. Ông cũng như Tế Điên hình như đến cõi đời này để dạo chơi,
để đùa giỡn và cũng để giáo hóa cho con người thấy tất cả đều chỉ là trò ảo
giác của sắc thân, của chữ nghĩa, của tư tưởng, chúng đều là chuyện đáng để
đùa giỡn.
Từ chân tháp Lục Hòa, Tế
Công viết thư:
Ức tích diện tiền dương nhất
tiễn,
Chí Kim do giác cốt mao hàn Chỉ nhân diện mục vô nhân thức, Hự vãng Thiên Thai tẩu nhất phiên
Mặt dạn xưa từng đón mũi
tên,
Lông xương nay vẫn dỡn chưa yên. Chỉ vì mặt thật không ai hiểu, Về núi Thiên Thai lại một phen.
Tế Điên đùa trong cõi
"lông xương" như Tịch Thiên với thịt nai thịt chóù. Đó là các vị giết
hại sinh vật nhưng "mặt thật" của họ là cái vô sinh vô tử. Cũng thế
Bùi Giáng đùa giỡn với chữ nghĩa, ông sử dụng những từ thô kệch nhất đến những
ý tưởng ẩn mật nhất chỉ để nhân sinh thấy cái biến hóa lường ảo của một cái
duy nhất. Cũng thế màVĩnh Minh Diên Thọ, ngay trong chùa Linh Ẩn cổ xưa này
đã chỉ bày cho thấy cái "tư tưởng" - cái quan trọng nhất của
Descartes - cũng như thịt nai thịt chó, cũng như chữ nghĩa dở hay, đều là
"vọng thức cả, chẳng can gì đến tâm". Chúng ta thường lầm thức là
tâm, thậm chí hay gọi chung là "tâm thức". Vĩnh Minh Diên Thọ trả lời
câu hỏi về "tâm thức" của một vị tăng như sau:
"Như Lai Thế Tôn trên
hội Lăng Nghiêm vì ngài A-nan giản biệt rất rõ mà ngươi vẫn cố chẳng tin.
Ngài A-nan lấy cái suy xét theo đuổi làm tâm, bị Phật quở đó. Cái suy xét
theo đuổi đó là "thức"...Ý là nhớ, đối cảnh khởi vọng đều là vọng
thức, chẳng can gì đến tâm. Tâm chẳng phải có- không, có-không chẳng nhiễm.
Tâm chẳng phải cấu-tịnh, cấu-tịnh chẳng nhơ. Cho đến mê ngộ phàm thánh, đi đứng
ngồi nằm đều là vọng thức, chẳng phải tâm vậy. Tâm xưa chẳng sinh, nay chẳng
diệt".
|
Cô Tô Thành Ngoại Hàn Sơn Tự
Ninh Ba, đầu nguồn của Thiển Tông Nhật Bản
Phổ Đà Sơn (Putuoshan)
Giã từ Trung Quốc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét