Bóng tà dừng ngựa đứng,
Man mác nổi hưng vong.
Ngô Thế Lân
Nếu chúng ta đi xe hơi từ Nam ra Bắc
chắc thế nào trên đường cũng đã dừng chân xem những tháp Chăm đẹp Po Klaung
Garai-Đồi Trầu ở Phan Rang, Pô Nagar-Tháp Bà ở Nha Trang, Bánh Ít-Tháp Bạc,
Hưng Thạnh-Tháp Đôi ở Qui Nhơn không xa bao lăm quốc lộ 1. Nếu chịu khó đi xa
thì có thể viếng những tháp ít được biết hơn: Pô Dam-Pô Tầm, Pô Sanư-Phú
Hài ở Bình Thuận; Hòa Lai-Tháp Khơ me, Pô Rômê ở Ninh Thuận; Tháp Nhạn-Con
Gái ở Phú Yên; Cánh Tiên-Đồ Bàn, Bình Lâm-Thị Nại, Dương Long-Tháp Ngà, Phước
Lộc-Tháp Vàng, Thốc Lốc-Tháp Cao Mên, Thủ Thiện-Tháp Đồng ở Bình Định,... Ra đến
Quảng Nam thì không thể bỏ qua thánh địa Mỹ Sơn, điêu tàn nhưng còn giữ nét
hùng vĩ của một thời xưa rực rỡ, cùng những tháp Bằng An độc nhất tám cạnh,
Chiên Đàn, Khương Mỹ theo kiểu ba ngôi tháp song hành lập nên một phức thể. Rồi
xe vượt đèo Hải Vân tiến vào địa phận Thừa Thiên-Huế.
Vùng đất Thuận và Hóa nầy được
nhập vào Đại Việt sau lễ cưới công chúa Huyền Trân với vua Chế Mân năm 1306.
Trước đó người Chăm đã sống ở đây và để lại nhiều di tích. Từ đầu thế kỷ 20, những
người Pháp đầu tiên đã chịu khó đi tìm và kê khai một số hình tượng ngay ở Huế
và ở các huyện Phong Điền, Quảng Điền. Bên cạnh những mảnh tượng, mảnh bia bằng
đá, những khám thờ bằng gạch,... đáng để ý nhất là những di tích tìm ra ở làng
Mỹ Xuyên: một trán cửa mang danh Đản sinh Brahma từ rốn Visnu nằm
trên con rắn Ananta bảy đầu (2) tương tự như phù điêu của viện Bào
tàng Chăm ở Đà Nẵng hiện được trưng bày ở viện Bảo tàng Á đông Guimet trong
khuôn khổ cuộc Triển lãm Điêu khắc Champa; một tượng gọi là Bà Lồihình
dung một phụ nữ có tám tay mà hai tay dưới nắm một cái vỏ ốc biển shanka và
một cái vòng mặt trời cakra (1), có thể là Visnu dưới hình thể
Mohini. Những di tích nầy đã được lấy đem vào các viện bảo tàng.
Năm nay, nhân chuyến về thăm quê, tôi may mắn được dẫn đi xem một di tích còn được thờ cúng tại chỗ ở chùa Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, nói trạnh từ danh từ Ưu Đàm, có lẽ từ tên hoa Ưu đàm bát la Udumbara mà ra. Tục truyền hoa nấy rất quý, mấy ngàn năm mới xuất hiện một lần, mà Dương Văn An trong Ô Châu Cận Lục đã có nhắc tới: Am Ưu Đàm nở nhiều hoa Bát la. Chùa còn mang tên Chùa Bà Lồi vì bên hông chùa có thờ một tượng bằng sa thạch thếp vàng gọi là Bà Lồi hay Bà Phật Lồi, có liên quan gì với bức tượng đã được phát hiện trước đây một thế kỷ (1)?
Năm nay, nhân chuyến về thăm quê, tôi may mắn được dẫn đi xem một di tích còn được thờ cúng tại chỗ ở chùa Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, nói trạnh từ danh từ Ưu Đàm, có lẽ từ tên hoa Ưu đàm bát la Udumbara mà ra. Tục truyền hoa nấy rất quý, mấy ngàn năm mới xuất hiện một lần, mà Dương Văn An trong Ô Châu Cận Lục đã có nhắc tới: Am Ưu Đàm nở nhiều hoa Bát la. Chùa còn mang tên Chùa Bà Lồi vì bên hông chùa có thờ một tượng bằng sa thạch thếp vàng gọi là Bà Lồi hay Bà Phật Lồi, có liên quan gì với bức tượng đã được phát hiện trước đây một thế kỷ (1)?
Từ Huế, muốn đi Ưu Điềm, phải
lấy quốc lộ số 1 ra hướng bắc. Khoảng bốn mươi cây số, ngang làng Mỹ Chánh, giữa
Phò Thạch và Quảng Trị, trước khi gặp chiếc cầu bắc qua sông Ô Lâu làm biên giới
cho hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị, lấy một con đuờng nhỏ nhưng tráng nhựa tốt
bên tay mặt. Quá làng Mỹ Chánh, xe vượt qua làng Phước Tích trước đây có tiếng
về đồ gốm, nay còn được lưu truyền nhờ những nhà rường cổ truyền, rồi cái làng
nhỏ Phú Xuân. Xe chạy tiếp dọc theo sông Ô Lâu được đề cao qua những trận đánh
trong cuộc chiến vừa qua, băng qua làng Mỹ Xuyên chuyên chạm đồ gỗ và cũng là
nơi những năm gần đây đã có khai quật nhiều di tích Chăm. Đối với tôi, Mỹ
Xuyên, làng cạnh Mỹ Cang là nơi tôi được sinh ra và sống cả một thời tuổi trẻ
nên khi nhìn lại cảnh cũ đường xưa không sao tránh được chút bùi ngùi, thương
nhớ... Rồi xe đáp vào địa phận làng Ưu Điềm nhắc tôi lại những năm cách mạng,
tuy còn ít tuổi, đầu óc trẻ dại, quần đùi áo cụt, đầu trần chân không, tay mang
dao ngắn, cũng hung hăng cùng dân làng đi cướp chính quyền ở huyện lỵ, hân hoan
sống những ngày lịch sử hào hùng mà sau nầy kể lại, biết bao bạn bè, nhất là
ngoại quốc, thèm thuồng vì mấy ai được trực tiếp dự kiến mà chỉ biết sự kiện
qua sách vở, báo chí.





Những ai không có phương tiện
đi xa, ngay tại Huế cũng xem được một di tích rất đẹp ở viện Bảo tàng Lịch sử tỉnh
Thừa Thiên trong Thành nội. Người ta chưa biết rõ niên đại đế chóp (có người gọi
là bệ thờ) Văn Trạch Hòa hiện được trưng bày ở đấy (3). Câu hỏi đã được đặt
ra là đế chóp ấy có dính dáng gì đến văn khắc Nham Biều được xác đựng vào thế kỷ
10 (4) vì đế chóp đã được tình cờ khám phá năm 1991 ở làng Phong Thu
chỉ cách Phong Điền có 28 km, sau đó được chở về Phòng Văn hóa huyện trước khi
đưa vào Huế năm 1998. Có một cấu trúc đặc thù đế chóp nầy lại mang một số hình
tượng thờ cúng biểu đạt truyền thống balipitha Ấn Độ, nơi dâng cúng
thức ăn cho các vị thần dikpala (5). Bên Ấn Độ, thường những bệ
thờ loại nầy gồm có nhiều tầng và các thần dikpala được sắp vào ở tầng
dưới. Đế chóp Văn Trạch Hòa cũng gồm có hai tầng vuông vắn, các dikpala cũng
được sắp ở tầng dưới và ở các góc bệ, ngồi trên hoa sen theo tư thế padmasana,
dễ nhận diện qua những biểu hiệu trên mình và vật mình cưỡi vahana. Giữa
các bậc, trong những hóc nhỏ được đặt nhiều hình tượng nữ giới không cá biệt loại yaksi hay dvarapalika xen
lẫn với những con ngỗng hamsa chống đở thế giới các thần. Ở các góc bệ
còn có những tượng người hộ vệ, người cầu kinh. Quan trọng hơn là hình tượng những
con sư tử, dựa vào các vahana, không đối xứng, những con vật thường gặp ở
các bệ tháp Chăm như ở Mỹ Sơn hay Tháp Mắm. Dù sao, những nhân vật trên đế chóp
đã được đem so sánh với những hình tượng các tháp Chăm khác, nhờ đó đã được xác
nhận và trái lại những hiện vật ở các tháp Chăm khác như ở Mỹ Sơn cũng đã nhờ
những nhân vật ở đây để được biết rõ.
Những nhân vật chính phần dưới
đế chóp là tám vị Hộ thế Bát phương thiên astadikpala. Ở mặt đông là
thần Sấm sét-Lôi thiên Indra ngồi theo tư thế rajalilasana trên con
voi Airavata đang đi, tay mặt cầm kim cương trượng vajra. Đằng sau ngồi đối
xứng trên hoa sen hai nhân vật tay chấp trước ngực, một đầu gối gập lên. Ở mặt
tây, Thủy thiên Varuna, thần sông biển, tay nắm một cái giây pasha, cũng một
đầu gối gập lên, ngồi trên lưng con ngỗng hamsa dan hai cánh như cùng
chở cả hai người cầu kinh. Ở mặt nam bệ thờ, cạnh một người cầu kinh là thần
Diêm vương Yama, ngồi trên lưng một con trâu, phía trên bị hư nhiều, tay cầm gậy danda các
quan tòa. Ở mặt bắc, cách xếp đặt thành hai tầng có phần khác ba mặt kia. Phần
trên, ngồi trên hoa sen, giữa hai người cầu kinh, là Thần tài lộc Kuvera, thủ
lĩnh bọn quỷ sứ raksasa, cũng có một đầu gối gập lên, tay cầm một cái gì
tương tự như một búp sen, đặc biệt không có vahana. Phần dưới, nơi dành
cho vahana ở các mặt khác, lại có thêm một Kuvera ngồi trên mặt một
con kala dữ tợn giống như ở Đồng Dương, giữa hai nhà tu khổ hạnh risi đang
cầu khấn tương tự những người cầu kinh các mặt kia. Ở góc đông-nam, thần Hỏa
thiên Agni ngồi trên lưng một con tê ngưu đặc thù của Champa và Campuchia. Ở gốc
đông bắc, thần Đại tự tại thiên Isana, một dạng tối cao của Siva, ngồi theo thế rajalilasana trên
một con bò, tay cầm một cái đinh ba trisula, cạnh một người cầu kinh.
Ở góc tây-nam, chỉ còn một nhân vật quì gối, hai tay giơ lên, có thể là thần La
sát thiên Nirriti, chiếm chỗ vahana là một á thần yaksa. Ở
góc tây-bắc, thần Phong gió Vayu cũng ngồi trên lưng một con ngựa, thay vì một
con linh dương, tay cầm một một cây cờ dhvaja, trước hai người cầu kinh
chen nhau trong một không gian tương đối chật hẹp.


Ở mặt tây là một vị thần có vẻ giận dữ, một tay cầm một cái gì giống như một đầu lâu, tay kia một cái trống con, có thể là thần Đại thiên Mahadeva, cũng có thể là một dạng kinh khủng của thần Siva là Rudra hay Bhaivara. Ở mặt nam, thần Brahma dễ nhận diện với bốn đầu nhưng chỉ thấy có ba. Ở mặt bắc, thần Visnu có bốn tay cầm một cái chùy gada, một cái vỏ sò shanka, một trái đất bhami và một cái dĩa cakra. Nhờ những biểu hiệu trên mình hay mang trong tay, nhờ các vật cưỡi vahana, các nhà khảo cứu đã xác định được cá tính ít nhất của ba trong tám các dikpala trên bệ thờ.
Tuy nhiên, họ chưa biết được tường tận bản chất và vị trí ít nhất của hai vị thần phía đông và phía tây trong công trình. Khảo sát những hình tượng tương tự ở Java, họ thấy khó gắn liền chúng với một truyền thống nầy hay một truyền thống khác. Một điều chắc chắn là phong cách và vị trí của chúng đã chứng minh rõ ràng ảnh hưởng hàm súc nghệ thuật Java lên nghệ thuật Champa thế kỷ 10 (7). Mặt khác, dựa lên phong cách thể hiện như thân hình mập mạp, mặt người thô nặng, khuôn mặt bầu bĩnh, đôi môi dày, râu mép ngắn, mái tóc xoắn, đôi mắt mở lớn có con ngươi, hàng lông mày rậm nối liền nhau, đằng kia kiểu thức văn hoa xoắn xít, thủ pháp điêu khắc hình khối mạnh mẽ, tả thực,...là những đặc điểm một tác phẩm có niên đại đầu thế kỷ 10, thuộc giai đoạn muộn phong cách Đồng Dương (7).
Như vậy, đế chóp Văn Trạch
Hòa đã góp công vào việc học hỏi những dikpala, trở nên một yếu tố chủ yếu
khảo cứu về những thiết bị thờ cúng. Trong cuộc Triển lãm "Điêu khắc
Champa" ở Paris (7), một góc lớn đã dành cho những dikpala mà
ban tổ chức đã chịu khó đi lượm lặt khắp nơi ở Việt Nam để trưng bày vào một chỗ.
Thành thử, dù gián tiếp và chỉ trong tinh thần, đế chóp Văn Trạch Hòa, xuất
phát từ Phong Điền, đã hiện diện ở kinh đô ánh sáng, góp phần làm lan tỏa nghệ
thuật Chăm và trở thành đề tài khảo cứu cho những thế hệ mới. Cách đây năm năm,
tôi và nhà tôi đi khắp miền Nam, từ Quảng Nam đến Bình Thuận, viếng thăm hầu hết
những di tích Champa đã được kê khai. Gần đây, theo học ở Paris những lớp dạy về
nghệ thuật Chăm do Hội Những người Bạn Viễn Đông AFAO tổ chức, theo dõi cuôc hội
thảo "10 năm thành lập hội SACHA" khảo cứu về Champa cổ
(14-15.10.2005) ở Viện Bảo tàng Cernuschi, tham dự ngày Văn minh Chăm nhân 100
năm phát hiện và nghiên cứu (07.12.2005) cùng cuôc triển lãm "Điêu khắc
Champa" (10.10.2005 - 09.01.2006) tại Viện Bảo tàng Nghệ thuật Á Đông
Guimet, vốn nhạy cảm với văn hóa Việt Nam, tôi thấy cần phải tìm hiểu sâu rộng
hơn về nghệ thuật Champa. Sinh và sống cả thời tuổi trẻ ở làng Mỹ Cang, huyện
Phong Điền, tôi không khi nào để ý đến các di tích Chăm hiếm quý đầy dẫy trong
vùng đã và đang được khai quật. May mắn thường hay đến với những ai khích động
nó: về thăm quê năm 2005, tôi được gặp anh Nguyễn Thế, nhân viên văn hóa huyện
Phong Điền. Anh đưa tôi đi xem và giải thích tường tận đế chóp Văn Trạch Hòa hiện
được trưng bày ở Viện Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên ở Huế. Hơn nữa, anh chịu khó
đưa tôi về Phong Điền xem bức trán cửa dựng trong sân chùa Ưu Đàm. Tôi tưởng
hai di tích nầy cần được giới thiệu mặc dầu tôi không chuyên khảo cứu về điêu
khắc Chăm.
Tin sau cùng hè 2008: Chùa
Ưu Đàm được trùng tu, trán cửa Chăm bị giải toả, không biết được phục chế ra
sao và di chuyển đi đâu.
Nghiên cứu Huế, Tập 6 (2008)
trang 342-349.
1- Léopold Cadière, Monuments
et souvenirs chams du Quảng Trị et du Thừa Thiên, BEFEO V (1905) 192
2- Henri Parmentier, Inventaire
archéologique de l'Indochine. Monuments cams de l'Annam, PEFEO XII
(1909) 429; (1918) 517-9
3- Trần Kỳ Phương, Phù
điêu Hộ Thế Bát Phương Thiên của đế chóp tháp Vân Trạch Hòa và hình tượng Hộ Thế
Phương Thiên trong điêu khắc Champa, Khoahọc và Công nghệ ThừaThiênHuế
(3) 33 (2001) 84-98
4- Tran Thuy Diem, Le
piédestal de Van Trach Hoa. La découverte, Lettre de SACHA 10 (2003)
3
5- Jean Baptiste, Le
piédestal de Van Trach Hoa. Présentation générale, Lettre de SACHA 10
(2003) 4-6; Le piedestal de Van Trach Hoa: un bali-pitha d'un type
inédit. Notes sur l'iconographie des dikpala au Champa, Arts Asiatiques 58
(2003) 168-76
6- Trần Kỳ Phương, Di
tích mỹ thuật Champa ở Thừa Thiên Huế, Nghiên cứu và Phát triển (3)
41 (2003) 51-60
7- Jean Baptiste, Gardiens
de l'espace (dikpala) trong La sculpture du Champa, Musée
national des Arts asiatiques Guimet, Paris Exposition 10.10.2005-09.01.2006,
276-81
8- Vo Quang Yen, Une
re-découverte: le tympan de Uu Diem, Lettre de SACHA 12 (2006) 19-22.
Võ Quang Yến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét