Mùi hương trầm 4
PHẦN THỨ TƯ: TÂY TẠNG HUYỀN BÍ
Đức hạnh cao quí
Dù Văn Thành là người thường
hay hiện thân của bồ tát, nàng đã mang lại cho Tây Tạng một báu vật còn được
gìn giữ đến ngày nay, đó là bức tượng Tất-đạt-đa. Bức tượng này chính là Jowo
Rinpoche (Đức hạnh cao quí), được thờ trong một ngôi đền tại Lhasa. Đền này mới
đầu được gọi là Trülnang, về sau mang tên Jokhang. Đó là ngôi đền và bức tượng
được kể trong đầu chương này.
Đền Jokhang ngày nay vẫn
còn và ai cũng được chiêm bái vị "Đức hạnh cao quí", người không
phân biệt ai là vị đại trí Xá-lợi-phất, ai là chàng Ben thật thà miền quê
Kongpo, là người nhận lời mời thọ thực của một ông đồ tể. Đức hạnh cao quí đã
thể hiện thành tâm vô phân biệt. Đó là lý do chính thôi thúc tôi tìm đường đến
Lhasa Tây Tạng để đảnh lễ Tất-đạt-đa.
|
Tổ tiên Tây Tạng
Nếu ngày trước Govinda hay
David-Néel đi Tây Tạng rất khổ nhọc thì ngày nay người ta đến xứ này tương đối
dễ dàng, nhất là thủ đô Lhasa. Khách có thể từ Kathmandu, thủ đô Nepal, bay
đi Lhasa, mỗi tuần hai chuyến. Nhưng cách đi hay nhất là đến Thành Đôâ, thủ
phủ tỉnh Tứ Xuyên, từ đây khách có thể dễ dàng đi thăm viếng Tây Tạng. Muốn đến
Thành Đô ta có thể lấy máy bay từ Bắc Kinh, Thượng Hải nhưng tiện nhất cho
khách nước ngoài là từ Bangkok. Ngày nay mỗi ngày có một chuyến bay
Bangkok-Thành Đô bằng đường bay South West Airlines của Trung Quốc, thời gian
bay khoảng gần ba tiếng đồng hồ. Thành Đô lại là kinh đô nước Thục ngày xưa,
là nơi khách có thể tham quan Nga Mi sơn, Lạc sơn, nên đến Thành Đô, khách có
thể phối hợp nhiều lộ trình tham quan hết sức thú vị [8].
Từ Trung Quốc khách có thể
đi Tây Tạng nhưng phải có giấy phép đặc biệt. Vì thế hầu như tất cả mọi người
đều phải đi trong các tour do các văn phòng du lịch tổ chức. Thành
Đô là nơi tập trung khách đi Lhasa vì từ đó mỗi ngày có một chuyến bay với
South West Airlines. Từ Bắc Kinh, Trùng Khánh cũng có chuyến bay đi Lhasa
nhưng mỗi tuần chỉ hai ba chuyến không đáng kể.
Từ Thành Đô đi Lhasa, tôi
bay từ đông sang tây. Ra khỏi Thành Đô không bao lâu một vùng núi non bát
ngát đã xuất hiện, đó là lưng dựa hiểm yếu của nước Thục ngày xưa. Vùng núi
non thỉnh thoảng được cắt bởi những hẻm sâu vực thẳm mà một trong những hẻm
núi hiểm trở đó là thượng nguồn sông Cửu Long. Ôi, đã có một ngày tôi được
bay trên đầu nguồn Cửu Long. Từ Thành Đô ta còn có một con đường bộ đi Lhasa.
Tuyệt diệu thay nếu đời tôi được đi con đường đó, con đường băng núi bạt ngàn
vượt qua vùng Đông Tây Tạng với những trang huyền sử. Con đường đó cũng dẫn đến
suối nguồn của Cửu Long Giang mà tôi mơ ước được một ngày nếm vị ngọt của nó.
Hôm nay tôi sẽ đến Lhasa,
"thành phố của chư thiên", nằm trên độ cao 3685m. Trên độ cao này
không khí đã khá loãng, tôi chịu nổi không? Tôi đã lên Zugspitze, đỉnh cao
nhất nước Đức chưa đầy 3000m, đã đến Nga Mi sơn cao khoảng 3100m. Thế thì
Lhasa phải là chỗ cao nhất xưa nay tôi chưa đến, độ cao của nó vượt hơn đỉnh
Hoàng Liên sơn của ta khoảng nửa cây số. Tây Tạng là một một xứ sở kỳ dị, lớn
rộng như Tây Âu, độ cao trung bình của nó khoảng 4500m. Dân của họ hết sức
thưa thớt, quen sống vùng rẻo cao, ít người xuống được bình nguyên. Nguồn gốc
của họ là từ đâu?
Thời kỳ xa xưa của Tây Tạng
chìm sâu trong bóng tối của lịch sử, như nhà Phật học người Ý Giuseppe
Tucci [9]
nói, "không có bao nhiêu dữ liệu mà phải đoán mò từ những truyền thuyết
tôn giáo". Thế nhưng nhiều nhà địa chất và khảo cổ quả quyết rằng, đất
Tây Tạng ngày xưa vốn nằm dưới đáy biển! Cách đây khoảng 40 triệu năm, bán đảo
Ấn Độ di chuyển, va chạm vào lục địa châu Á mà đội lên thành Hy-mã lạp sơn và
cao nguyên Tây Tạng ngày nay. Vì thế mà ngày nay người ta vẫn còn tìm thấy
nhiều dấu vết của động vật sống dưới biển đã hóa thạch và nhiều hồ Tây Tạng
là hồ nước mặn.
Tổ tiên người Tây Tạng,
theo lời của chính họ, là một con khỉ ! Con khỉ đó không phải tầm thường, nó
là một hiện thân của Quán Thế Âm, tìm đến một hang động lạnh lẽo trên núi cao
để thiền định. Thế nhưng gần đó có một nàng ma nữ, gặp khỉ nàng khóc lóc than
thở về mối cô đơn hiu quạnh của mình. Động lòng từ bi, khỉ chịu chung sống với
ma nữ và sinh sáu người con và đó là tổ tiên của dân tộc Tây Tạng. Ngày nay
người Tây Tạng vẫn tự thấy mình là sự tổng hợp của lòng từ bi dịu hiền của khỉ
và sự lì lợm tham lam của ma [10].
Tây Tạng có một số lượng
dân cư hết sức thưa thớt. Thủ đô Lhasa ngày xưa, trước khi Trung Quốc xâm nhập
năm 1959, chỉ có khoảng 30.000 dân. Thành phố lớn thứ hai là Shigatse với khoảng
12.000 dân, thứ ba là Gyantse với khoảng 8000 dân. Toàn bộ dân tộc Tây Tạng
chỉ gồm khoảng 5-6 triệu dân. Có lẽ không ai quan tâm đến dân tộc này và chỉ
xem họ chỉ là một chủng tộc hoang sơ sống trên rẻo cao nếu Tây Tạng không có
một nền văn hóa độc đáo. Trong nền văn hóa vô song đó đạo Phật đóng một vai
trò chủ đạo, nhưng đạo Phật tại đó cũng không còn là Phật giáo Ấn Độ, cũng chẳng
phải là Phật giáo Trung Quốc, mặc dù mối liên hệ với hai vùng văn hóa đó hết
sức mật thiết. Từ một xứ sở tưởng chừng như hoang sơ đó đã sinh ra và phát
triển thành một trường phái Phật giáo thâm sâu, vừa đầy tính lý luận khúc chiết
vừa đầy tính mật tông ảo diệu. Đến thời đại hiện nay Phật Giáo Tây Tạng tương
đối còn sức sống trong lúc Phật Giáo tại Ấn Độ và Trung Quốc đã suy tàn.
Máy bay hạ dần độ cao, bay
ngược dòng một dòng sông có chiều dài tổng cộng khoảng 2900km. Bên trái dưới
máy bay là dòng sông Yarlung Tsangpo, một dòng sông anh em của Trường Giang,
Hoàng Hà, Cửu Long. Nguồn của nó là dưới chân Ngân Sơn, ở miền tây Tây Tạng.
Đối với Tây Tạng, Tsangpo cũng quan trọng như Trường Giang với Trung Quốc. Nó
phát nguồn từ một mạn-đà-la vĩ đại quanh Ngân Sơn [11],
tên của nó có nghĩa "chảy từ hàm ngựa", chảy từ đông qua tây, bọc
quanh một ngọn núi tuyết cao trên 7700m rồi thẳng đường phía nam, lúc này nó
mang tên Brahmaputra, xuyên qua Bangladesh chảy ra Ấn Độ dương.
Tsangpo chính là nơi các
nhà vua Tây Tạng xây dựng cơ đồ. Theo truyền thuyết, một ngày nọ trong năm
313 trước công nguyên, có một vương tử Ấn Độ thất thế phải chạy ngược lên
Hy-mã lạp sơn. Đó là thời kỳ hùng mạnh của triều đại Maurya tại Ấn Độ, có lẽ
vị vương tử này vì thế mà lánh nạn chăng. Vượt tuyết sơn đến Tây Tạng thì ông
gặp dân chúng sống trong hang động, họ hỏi ông từ đâu tới. Vì bất đồng ngôn
ngữ ông đành chỉ tay lên trời. Dân chúng tưởng ông từ trên trời giáng thế nên
công kênh lên vai, tôn ông làm vua. Đó là vị vua đầu tiên, Nyatri Tsenpo. Vị
vương tử may mắn này đưa văn minh Ấn Độ vào Tây Tạng, cho xây cất nhà cửa và
đặt kinh đô bên dòng Tsanpo, thung lũng Yarlung.
Khi Nyatri Tsenpo chết thì
huyền sử chép "theo một sợi dây mà lên trời"và sáu đời vua sau ông
cũng theo cách đó mà giã từ nhân thế. Thế nhưng đến đời vua thứ tám, Drigum
Tsenpo thì "dây dứt", nhà vua này được chôn tại Yarlung và từ đó về
sau lăng mộ các nhà vua Tây Tạng đều ở Yarlung cả, ngày nay vẫn còn. Đến đời
thứ 23, lúc đó là khoảng năm 371 sau công nguyên, thời nhà vua Totori
Nyentsen, "trên trời bỗng rơi xuống nóc điện nhà vua"kinh sách bằng
tiếng Phạn không ai đọc được. Trong một giấc mộng nhà vua được biết rằng, năm
đời sau mới có vị vua đọc và hiểu được kinh sách. Đó chính là vị Tùng-tán
Cương-bố nói trong chương trước.
Tùng-tán Cương-bố lên
ngôi, nước Tây Tạng hưng thịnh chưa từng có và cùng với hai nàng công chúa nước
ngoài, ông không những "đọc và hiểu" kinh sách tiếng Phạn mà còn
xây đền tháp, gửi người đi tu học ở Ấn Độ, dịch kinh sách. Căn cứ trên tư tưởng
Phật Giáo, nhà vua ban bố "Thập thiện" và "Thập lục yếu luật"
để dân chúng thi hành. Nhiều học giả cho rằng, kể từ đây nước Tây Tạng mới
thoát khỏi tình trạng hoang sơ man dã.
|
Từ Liên Hoa Sinh đến Tông Khách Ba
Sau khi Tùng-tán Cương-bố
mất, nước Tây Tạng vẫn hết sức cường thịnh, thế nhưng Phật giáo rơi vào tình
trạng suy thoái. Hai đời sau Tùng-tán Cương-bố là một nhà vua tên là Khí-lệ
Tú-tán (sống khoảng đầu thế kỷ thứ 7), vị này cầu hôn được một nàng công chúa
Trung Quốc tên là Kim Thành. Kim Thành là một đệ tử Phật giáo thuần thành,
mang về Tây Tạng nhiều vị sa-môn và kinh sách. Nhưng quan trọng nhất là bà đã
tặng cho dân tộc Tây Tạng một người con trai xuất sắc, đó là Trisong
Detsen [12],
là vị vua đã chính thức cho Phật giáo du nhập Tây Tạng. Thời đại của ông được
xem là thời đại Phật giáo du nhập lần thứ nhất và cũng kể từ đây, lịch sử Tây
Tạng không thể tách rời với các giai đoạn truyền bá của đạo Phật.
Trisong Detsen lên ngôi
năm 12 tuổi, thời đại của ông còn huy hoàng hơn cả thời Tùng-tán Cương-bố.
Đây là thời gian mà Tây Tạng xâm chiếm cả Thanh Hải và Tứ Xuyên của Trung Quốc.
Nhà Đường Trung Quốc cũng phải run sợ "thổ phiên" ở Tây vực, hàng
năm phải nộp triều cống cho Tây Tạng. Thậm chí năm 735, vì Trung Quốc thiếu
phẩm vật, Tây Tạng đem quân vây cả Trường An. Thế nhưng Trisong Detsen để lại
cho đời sau không phải là những chiến tích mà là công lao du nhập Phật giáo
vào Tây Tạng mà việc đầu tiên là mời Tịch Ho [13].
Tịch Hộ là một cao tăng thuộc phái Trung quán tông, là viện trưởng viện Phật
học Siêu Giới [14].
Lúc Tịch Hộ đến Tây Tạng là lúc nơi đây vừa bị thiên tai dịch bệnh hoành
hành. Các cận thần của nhà vua lấy cớ đó cho rằng Tịch Hộ chỉ mang tai họa
cho Tây Tạng. Nhà vua khẩn cầu Tịch Hộ hàng phục ma quái nhưng ông từ chối và
cho vua hay chỉ có một người có đủ thần thông khắc phục, đó là Liên Hoa
Sinh [15].
Tương truyền rằng Liên Hoa
Sinh sinh ra trong một hoa sen tại miền linh địa Ô-trượng-na [16],
một vùng tây bắc Kashmir. Ông là người hay sử dụng thần thông, chú thuật để
nhiếp phục ma quái. Vừa đến biên giới Tây Tạng, Liên Hoa Sinh được đón tiếp bằng
bão tuyết, mưa đá, bằng các tai họa thiên nhiên do các lực lượng ma quái thù
địch gây nên. Trong thời kỳ đó người Tây Tạng phần lớn đều theo đạo Bon (Bổng
giáo), đó là tôn giáo thờ các vị địa thần, thần núi, thần sông, ma quái, kết
bạn với họ và cũng sử dụng họ như âm binh. Dựa trên tâm lý này, Liên Hoa Sinh
thi triển thần thông nhiếp phục các lực lượng này và thậm chí đưa các vị thần
này về với chính pháp, cho họ có một chỗ đứng trong hệ thống Phật giáo. Liên
Hoa Sinh để lại dấu ấm sâu đậm nhất trong lịch sử Tây Tạng, ông là người sáng
lập dòng Ninh-mã [17],
để lại vô số bí lục [18] về
các phép tu học hành trì. Người Tây Tạng xem Liên Hoa Sinh chính là hóa thân
của Thích-ca mâu-ni.
Nhà vua Trisong Detsen, được
xem là hóa thân của Văn-thù sư-lợi, tận mắt chứng kiến khả năng phi thường của
Liên Hoa Sinh và trở thành đệ tử của ông. Theo lời Liên Hoa Sinh, nhà vua cho
mời Tịch Hộ trở lại Tây Tạng và ba vị này là những người chính thức đặt nền
móng cho Phật Giáo Tây Tạng bằng cách bắt đầu cho học tập và phiên dịch kinh
điển và xây dựng đền Tang Duyên [19] năm
775. Đền này nằm ở phía đông Lhasa, cách khoảng 50km, đang từ từ hiện ra dưới
cánh máy bay..
[20] Lịch sử cuối đời của Liên Hoa Sinh ra sao thì không ai rõ, có người nói ông về lại Ấn Độ sau khi xây dựng chùa Tang Duyên, có kẻ cho ông ở lại Tây Tạng lâu hơn. Dù sao thì đời của Liên Hoa Sinh được phủ bằng một tấm màn huyền thoại và điều đáng chú ý là người Tây Tạng vẫn xem ông hầu như còn hiện diện đâu đó, còn thiền định trong hang động lạnh lẽo hay đang sống dưới dạng của một con người ẩn danh.
Trong những năm cuối của
thế kỷ thứ tám có một cuộc hội nghị quan trọng, được gọi là "cuộc tranh
luận tại Lhsasa", nó để lại dấu vết quan trọng trong nền Phật Giáo Tây Tạng.
Đó là cuộc tranh luận giữa Thiền Tông Trung Quốc và Trung Quán Tông Ấn Độ mà
cuối cùng phái Trung Quán thắng thế. Đó là thời kỳ hoàng kim của thiền Trung
Quốc mà vị đại diện tại Lhasa là Đại Thừa hòa thượng. Đại Thừa hòa thượng chủ
trương "đốn ngộ trực chỉ, phóng khoáng giáo hóa, bài xích giáo nghĩa, chống
diễn dịch phân biệt" [21] .
Phía Trung Quán có một vị luận giải rất xuất sắc, đó là Liên Hoa Giới [22] ,
học trò của Tịch Hộ. Cuộc tranh luận này xảy ra năm 792 với sự có mặt của nhà
vua, phe nào thắng sẽ trở thành quan điểm chính thống của Phật Giáo Tây Tạng.
Như ta có thể tự đoán ra, Thiền Tông với chủ trương "bất lập văn tự"
không thể nào tranh cãi nổi với phái Trung Quán chuyên biện luận khúc chiết từ
thời Long Thụ. Thế là quan điểm Trung Quán thắng thế và điều đó để lại ảnh hưởng
không nhỏ đến ngày nay.
Sau Trisong Detsen hai đời
là nhà vua Relbachen, trị nước từ năm 815 đến 836. Ông được xem là hiện thân
của Bồ-tát Kim Cương Thủ [23] và
trong thời kỳ này, Phật giáo thịnh hành chưa từng thấy. Vô số đền đài được
xây dựng, kinh sách được biên dịch, tăng sĩ Ấn Độ được mời đến Tây Tạng giáo
hóa, tăng sĩ Tây Tạng được gửi đi nước ngoài học tập. Đây cũng chính là hiểm
họa vì triều đình quá sức ưu đãi Phật giáo làm nhân dân oán hận. Đó chính là
điều đã từng xảy ra tại Trung Quốc trong thế kỷ thứ 5, thời Đạo Vũ Đế. Cuối
cùng Relbachen chết năm 836, lý do không rõ, có thuyết cho rằng ông bị ám hại.
Và cũng tương tự như thời kỳ sau Đạo Vũ Đế tại Trung Quốc, người nối ngôi
Relbachen là một nhà vua tên gọi là Lang Darma, vị này lên ngôi liền đốt phá
chùa chiền, tiêu diệt tăng sĩ. Đây là pháp nạn lần thứ nhất tại Tây Tạng.
Bất bình trước cảnh giáo
pháp bị tru diệt, một tăng sĩ Tây Tạng có tên là Belgyi Dorje [24] giả
trò biểu diễn múa võ, hạ sát nhà vua năm 842. Sau đó Tây Tạng rơi vào nội loạn,
Trung Quốc chiếm lại được đất đai đã mất nhưng rồi bản thân nhà Đường cũng bị
tiêu diệt năm 905.
Khoảng cuối thế kỷ thứ 10,
tại tây Tây Tạng có một vương quốc gọi là Guge bắt đầu quan tâm lại đến Phật
Giáo và cho tăng sĩ qua Ấn Độ tu học, trong số đó có một vị đáng chú ý là
Rinchen Sangpo [25] .
Vị này có thể được xem là Huyền Trang của Tây Tạng, đi Ấn Độ ba lần, tu học tại
đó tổng cộng 17 năm và đem về Tây Tạng vô số kinh sách. Nhưng nếu Huyền Trang
chỉ là nhà dịch kinh thì Rinchen Sangpo còn là người xây dựng khoảng 108 tu
viện tại miền tây Tây Tạng, trong số đó có tu viện Tholing nổi tiếng, còn giữ
được đến ngày nay. Rinchen Sangpo xuất chúng như thế nhưng ông còn tôn một vị
tăng sĩ trẻ hơn mình khoảng 25 tuổi làm thầy, đó là A-đề-sa [26].
A-đề-sa là một tăng sĩ tiếng
tăm lừng lẫy, là giảng sư tại viện Na-lan-đà và Siêu giới. Ông đến Tây Tạng
lúc đã 60 tuổi, tổng hợp giáo pháp của Trung Quán và Duy Thức, hòa hợp quan
niệm của Đại Thừa và Mật Tông, viết bộ Bồ-đề đạo đăng luận [27] nổi
tiếng. Đó là thời kỳ được xem là lần thứ hai truyền bá đạo Phật vào Tây Tạng,
lần đầu là với Liên Hoa Sinh và Tịch Hộ. Khoảng vài trăm năm sau A-đề-sa, Phật
Giáo Tây Tạng phát triển vượt bực, đồng thời tự chia ra nhiều hệ phái.
Khoảng đầu thế kỷ 12, nước
Mông Cổ sản sinh một nhân tài kiệt xuất, đó là Thành Cát Tư Hãn. Bây giờ đến
lượt Tây Tạng run sợ trước sức mạnh của Mông Cổ và chịu lệ thuộc. May thay,
người Mông Cổ cũng như Tây Tạng, rất quí trọng nền lạt-ma giáo nên vua Mông Cổ
là Hốt Tất Liệt bảo hộ Tây Tạng, cử một vị lạt-ma làm đại diện cho mình tại
đây. Chế độ tăng sĩ nắm quyền bính bắt đầu từ đây và do đó mà sinh ra vô số
phiền toái mà về sau ta sẽ biết. Trong thế kỷ thứ 14, đại sư
Tông-khách-ba [28] ra
đời, nhà cải cách tôn giáo quan trọng nhất, là người xây dựng nền Phật Giáo
Tây Tạng của ngày nay. Ông là người chỉnh đốn lại giáo luật, soát xét lại
toàn bộ kinh điển và cũng là người xây dựng nhiều đền tháp quan trọng. Ông
chính là người sáng lập tông phái Cách-lỗ [29],
là tông phái của Đạt-lai lạt-ma và Ban-thiền lạt-ma còn truyền đến ngày hôm
nay. Trong các đền đài của Phật Giáo Tây Tạng, sau Thích-ca mâu-ni ta thường
gặp tượng của Liên Hoa Sinh và Tông-khách ba.
Sau Tông-khách-ba thì dòng
tái sinh của Đạt-lai lạt-ma được xem là người lãnh đạo Phật Giáo Tây Tạng.
Các vị lạt-ma này đều được xem là hiện thân của Quán Thế Âm, mỗi một vị là
thân tái sinh của vị trước. Vị Đạt-lai lạt-ma thứ 14 hiện nay sống tại Ấn Độ
và cũng là người đại diện quan trọng nhất của Phật Giáo thế giới. Tác phẩm của
ông ngày nay tràn ngập thế giới, luận giải của ông về Trung Quán là xuất sắc
và thâm sâu nhất không ai bằng. Tôi được gặp ông tại Bonn, đã nghe ông giảng
những điều hết sức giản dị về Phật Giáo. Tiếng nói ông có một âm vang sâu thẳm
và quen thuộc. Tiếng cười của ông sảng khoái và có chút hóm hỉnh, hầu như hé
cho tôi thấy những gì ông đang đấu tranh cho quê hương Tây Tạng của ông chỉ
là một chuyện thế tục mà ông phải làm, thật ra không hề quan trọng.
Hôm nay tôi đến quê hương
của ông, sẽ đi thăm bái điện Potala. Theo huyền sử, tên Potala chính là trú xứ
của Quán Thế Âm tại Nam Ấn Độ, thế nên Phổ Đà sơn ngoài khơi Ninh Ba chính là
tên chữ Hán của Potala để chỉ trú xứ của Ngài tại Nam Hải Trung Quốc. Tôi đã
đến Phổ Đà sơn, vài hôm nữa sẽ đến Potala tại Tây Tạng, sẽ làm trọn một vòng
đảnh lễ Quán Thế Âm.
|
Nóc nhà thế giới
Máy bay hạ cánh ở sân bay
nằm tại thị trấn Gongkhar, cách Lhasa khoảng 120km về phía nam. Đây hẳn là
sân bay xa trung tâm thành phố nhất mà tôi đã từng đi. Thế nhưng đó là điều
may cho tôi vì Gongkhar nằm trên bờ nam của sông Yarlung Tsangpo mà con sông
này thì tôi muốn tận mắt mình nhìn thấy.
Tôi ra khỏi cửa máy bay với
tâm trạng ít nhiều hồi hộp, dưỡng khí đâu cho tôi thở? Thế nhưng tôi quên
ngay băn khoăn khi thấy cảnh vật hiện ra. Tôi nhìn quanh và nhận ra rằng đây
là một vùng lũng thấp của Tây Tạng, xung quanh là sườn núi thoai thoải. Trên
sườn núi những vệt nắng rõ nét làm tôi chú ý, chúng có cái gì khác lạ. Màu nắng
ban mai vào một ngày mùa hè rất tươi làm tôi vui thích, nhưng màu nắng này
cũng có cái gì không giống màu nắng mà tôi hay thấy. Trên cao những đám mây
trắng trôi lơ lững, tôi sớm nhận ra rằng chúng gần tôi hơn và sực nhớ mình
đang ở độ cao gần 3700m. Ở độ cao này áp suất không khí chỉ còn khoảng 68% so
với áp suất tại mặt biển. Không khí trong và loãng. Vài phút sau khi ra khỏi
máy bay tôi chưa nhận ra thân thể mình có gì khác lạ, nhưng chiều hôm đó tôi
sớm biết. Và trong những ngày sau, tôi biết thêm tại sao những vệt nắng in
trên sườn núi tại gần sân bay lại rõ nét. Dễ thôi, những đám mây trắng nằm
sát với mặt đất hơn, bóng của chúng đậm hơn và sắc nét hơn.
Ôi tôi đã lên tới một nơi
mà lũng thấp của nó cao hơn các ngọn núi của miền đồng bằng. Nhưng không phải
chỉ có thế, đây là một vùng đất kỳ lạ của một nền văn hóa độc đáo, của những
thánh nhân sống đời viễn ly. Trên sườn núi xa xa kia, có vị nào đang hành trì
thiền định?
Phi trường Lhasa này chỉ
là một là một sân bay nhỏ, khách đi bộ vào nhà lãnh hành lý, may cho tôi khỏi
phải leo cầu thang. Hơi thở tôi đã bắt đầu mệt nhọc, tôi cố thở hơi thật dài,
nhớ có ai đó nói rằng hãy nghĩ đến huyệt đan điền ở bụng dưới, hãy dẫn khí
vào đó. Tôi đâu có bao giờ tập khí công, chỉ sau vài hơi thở tôi lại quên.
Tôi sớm thấy rằng trái tim bơm máu và lá phổi lọc khí vốn ăn nhịp với nhau
nay đã hoạt động loạn xạ. Điều dễ nhận ra là tôi thấy có khi mình không mệt,
nhưng vài phút sau lại thấy tim ngực mình mỏi rã rời. May cho tôi đã lựa đúng
một ngày hè để đi Tây Tạng, nếu hôm nay mà nhiệt độ dưới không chắc tôi không
chịu nổi. Tôi cho những chiếc va-li vào xe bus và tự nhủ sẽ không
có việc gì phải làm đến lúc mình về đến khách sạn. Theo kế hoạch của ban tổ
chức tour, chiều nay chúng tôi được nghỉ.
Lên xe bus mỗi
khách được nhận một tấm khăn lụa trắng choàng quanh cổ, đúng truyền thống
chào khách và chúc lành của người Tây Tạng. Một nỗi hân hoan kỳ lạ chiếm lấy
tôi khi xe chạy ngược dòng Tsangpo đi về phía tây, bên mặt tôi là dòng sông
chảy từ Ngân Sơn thiêng liêng. Từ đây nó sẽ chảy vài ngàn cây số nữa, làm một
vòng lớn ở phía tây của Tứ Xuyên, hầu như đến chào Nga Mi sơn, trước khi trút
nước xuống Bangha Desh và phân ra vố số nhánh để chảy ra Ấn Độ dương. Dòng chảy
của nó còn rất xa mà lạ thay, nơi đây nó êm đềm như mặt hồ. Hướng dẫn viên do
hay mùa này nước cạn, quả nhiên ở giữa lòng sông là không biết cơ man nào là
đụn đất cát, giữa dòng mà cây cối mọc xanh tươi. Màu nắng trong và tươi đến mức
kỳ lạ, cảnh quan bao la bát ngát, một bên là sông rộng mênh mông ít nước, một
bên là núi đá nằm xa xa. Tôi nghe Tây Tạng là xứ ít cỏ cây nhưng sao đây chỉ
toàn một màu xanh thuần tịnh ?
Phải rồi, tôi đang ở thung
lũng của Yarlung Tsangpo, đây phải là một nơi xanh tươi nên các nhà vua xưa của
Tây Tạng đã chọn nơi đây thành lập kinh đô. Vả lại mùa này là những ngày hè với
nắng ấm hiếm hoi, cây cối đang nứt chồi xanh, con người đang chăm lo vụ mùa
lúa mì của họ. Theo đường xe chạy, tôi bắt đầu thấy những người Tây Tạng với
nhiều lớp quần áo màu đậm truyền thống của họ, tôi nhận ra họ vẫn quen mặc áo
ấm ngay trong mùa hè. Hình như trong bóng mát, vào mùa hè gió vẫn lạnh, tôi
ngồi trong xe ngẫm nghĩ. Nhà cửa của người Tây Tạng có hình khối lập phương,
vách xây bằng đá tảng, mái bằng. Bốn góc trên nóc nhà là nơi có bốn cột cao
khoảng một mét, treo phướn cầu nguyện nhiều màu. Có nhà chỉ treo hai cột, phải
chăng có mức độ "cao thấp" giữa các nhà.
Phướn cầu nguyện là cái độc
đáo của người Tây Tạng, không có nước nào khác theo Phật giáo mà có tục lệ
này. Đó là những mảnh vải lụa nhiều màu in kinh chi chít, họ treo như những
lá cờ, chúng bay phần phật trong gió và tung rải trong không gian mọi phước
lành. Tôi nhớ những lá phướn này tại Lâm-tì-ni và Bồ-đề đạo tràng tại Ấn Độ,
chúng ghi dấu những người Tây Tạng đi hành hương rất xa. Mới nhìn qua những
lá phướn bay trong nắng ta dễ tưởng có ai phơi áo quần mới giặt. Tôi đã thầm
trách như thế khi đến Bồ-đề đạo tràng ở Ấn Độ, ai đi phơi quần áo quanh gốc bồ-đề,
chỗ Phật thành đạo. Nhưng không, nhìn kỹ thì thấy chúng là vải lụa mang chi
chít chữ Tây Tạng, hỏi ra mới biết phần lớn là nội dung của kinh Diệu Pháp
Liên Hoa mà ta hay gọi là kinh "Pháp Hoa", kinh Phật thuyết trong
những ngày cuối đời. Ngày sau khi đến Lâm-tì-ni, thấy những lá phướn này kết
thành băng treo ngang dọc, tôi hân hoan đi dưới tiếng phất gió phần phật của
chúng, lòng nghĩ không biết bao giờ mới ngộ được nội dung Pháp Hoa.
Đi ngược dòng Yarlung
Tsangpo không bao lâu, xe đổi hướng băng sông đi lên hướng Bắc. Đây là nơi
hai sông Kyi Chu và Yarlung Tsangpo gặp nhau, xe qua cầu sắt tiến về kinh đô
Tây Tạng. Ngày xưa các nhà vua Tây Tạng bỏ lũng Yarlung Tsangpo về Lhasa vì
lý do huyền bí nào không ai rõ nhưng cảnh quan càng đến gần Lhasa càng bát
ngát xanh tươi. Tôi nhớ lại mô tả của Govinda trong "Con đường mây trắng" [30],
rõ là trên cao nguyên này màu sắc khác hẳn dưới đồng bằng. Đúng là tất cả các
màu có một độ trong sáng và rực rỡ. Núi non có nhiều màu khác nhau, ngọn gần
thì có màu xanh lục của cây cối pha lẫn màu vàng của cát nằm đầy trên sườn
núi. Các ngọn xa hơn có màu đồng đỏ và các ngọn xa hơn nữa có màu xanh dương.
Chúng nằm xếp bên nhau trên một khung cảnh hoành tráng của đất trời, phía dưới
là nước sông trong vắt, phía trên là bầu trời xanh màu nhung thẫm. Những màu
sắc này cống hiến cho những ai tận mắt thấy chúng, không thể mô tả bằng lời.
Không gian hầu như cũng khác so với bình nguyên, khoảng cách trong không gian
không thể phỏng đoán bằng mắt. Núi non như nổi bật trong khung trời, nó tiến
sát gần với chúng ta. Có những ngọn núi mà tôi đoán rất gần nhưng khi thấy những
đàn cừu nhỏ chi chít như đầu kim ăn cỏ trên sườn núi thì mới hay nó nằm rất
xa. Phải chăng không khí loãng tạo cho ta cảm giác như thế, tôi không thể giải
thích.
Govinda kể lại cho
Sangharakshita [31] nghe
về sự kinh ngạc của ông về màu sắc trên cao nguyên Tây tạng và Sangharakshita
cũng thừa nhận là đúng như thế. Sangharakshita còn viết cả một chương sách
nói về mối liên hệ giữa màu sắc trong thiên nhiên và trong các bức họa
Thangka.
Tôi nhảy xuống xe để chụp
hình Thích-ca mâu ni tạc bên vách núi, chỗ này còn cách Lhasa khoảng 18km.
Bên cạnh Ngài là hình của nữ thần Tara, sắc trắng và sắc lục. Tôi sớm biết tại
Tây Tạng người ta hay khắc họa hình tượng, thần chú, lời kinh lên vách núi để
nhắc nhở và chúc lành cho lữ khách đi đường. Tây Tạng là một xứ sở của 16.000
tu viện, là nơi mà người dân sống liên tục trong một tâm thức tôn giáo, là một
vùng cao nguyên mênh mông mà trong nhà ngoài ngõ, trên núi dưới lũng, ở đâu
cũng hiện diện một niềm xác quyết tâm linh, rằng vũ trụ là một thể thống nhất,
con người là một phần của thiên nhiên, sống chết là một sự tương tục miên viễn.
Xe vào địa phận Lhasa.
Lòng tôi đang hân hoan bỗng chùng lại vì những kiến trúc to lớn của người Hán
hiện lên trước mắt. Tôi trở lại với thực tế, Tây Tạng bây giờ đã khác xưa. Ngồi
trên xe tôi thấy người bản xứ đang lầm lũi đi bộ, tay họ quay bánh xe mani liên
tục, hẳn họ trên đường đi đến tham bái điện Potala. Nhưng thôi, tôi hết nhìn
ngắm họ và thở một hơi dài nhẹ nhõm khi xe đến khách sạn Tibet, nơi tôi sẽ ở
nhiều ngày.
Người làm thủ tục check-in
cho tôi là người Hán, họ nói tiếng Anh hết sức hạn chế. May thay phòng tôi ở
tầng trệt, khỏi phải leo cầu thang. Người xách va-li vào phòng cho tôi là một
cô gái người Tây Tạng. Tôi mở va-li ra và thấy chai dầu gội đầu đem từ Tứ
Xuyên lên không hiểu sao phồng lên như một cái bong bóng. Ngay sau đó tôi hiểu
là áp suất không khí ngoài chai dầu - áp suất Tây Tạng - thấp hơn áp suất Tứ
Xuyên còn nằm phía trong nên chai phồng lên. May thay nó không bể. Tôi nhìn
vào gương, bất ngờ thấy môi mình tím ngắt. Thì ra không khí loãng không đủ dưỡng
khí nuôi máu. Người ta nói chỉ cần nửa ngày là quen độ cao, tôi hy vọng thế.
Tôi ráng ngủ nhưng đầu thì nhức, tim thì đập. Hỡi "Đức hạnh cao
quí", xin hẹn ngày mai.
|
Đền Jokhang
Lhasa nằm trên bờ bắc của
sông Kyi Chu, đó là một của vô số dòng sông con chảy về Yarlung Tsangpo. Ngày
xưa vua Tùng-tán Cương-bố dời đô từ lũng Yarlung về đây hẳn có nhiều nguyên
nhân huyền bí ta không hiểu hết. Ngày nay người ta chỉ còn nhắc lại lời công
chúa Văn Thành, nàng cho rằng địa thế của Lhasa giống như bánh xe chính pháp
của Phật, nàng là người Hán tộc mà biết quí trọng kinh thành thiêng liêng này
biết bao. Nhưng lịch sử mỉa mai thay, ngày hôm nay, cũng những người Hán đang
ngự trị và biến Lhasa, vốn được mệnh danh là "thành phố của chư
thiên", thành một đô thị thế tục bình thường. Nhưng thôi, tôi không muốn
lòng mình bực dọc. Tôi phải chuẩn bị cho mình một tâm thức tương ứng để đến
tham bái vị "Đức hạnh cao quí" trong đền Jokhang.
Khách sạn tôi ở cách trung
tâm Lhasa chừng 4km về phía tây. Xe chạy theo đường "Bắc Kinh đông lộ"
để đến khu vực Barkhor. Barkhor không gì khác hơn là chợ của người Tây Tạng,
đó là một khu bazar với vô số hàng quán bán đồ lưu niệm, trái cây,
thức ăn, hàng tạp hóa, tranh tượng...Đến Barkhor là đến khu vực của người Tây
Tạng, đây là nơi người dân bản xứ tụ họp chuyện trò, nghỉ chân, phơi nắng.
Bakhor cũng là nơi mà khách địa phương hay nước ngoài ai cũng đến, do công
trường này nằm ngay trước đền Jokhang. Trong ngôi đền này là bức tượng thiêng
liêng nhất Tây Tạng, bức Jowo Rinpoche mà tôi tự đặt tên là "Đức hạnh
cao quí" hay "Bức tượng biết nói", dựa trên câu chuyện tôi đã
kể trong một chương trước.
Người ta dễ ngạc nhiên về
vị trí của đền Jokhang. Thông thường tại Tây Tạng, các tu viện đền đài nằm
trên đồi núi cao, làng xóm ở dưới thung lũng và thực tế là các tu viện sau
này tôi đi thăm cũng như thế thật. Thế nhưng Jokhang nằm ngay giữa chợ! Tiếng
ồn của chợ búa sẽ làm phiền các vị giác ngộ?
Đến chợ Barkhor khách sẽ bị
kêu réo mời chào, những tiếng gọi "cheaper, cheaper" bằng tiếng Anh
đơn giản cứ đập vào tai những du khách như tôi. Dù mặt tôi xem ra là mặt người
Hán nhưng vì vai mang ba-lô, tay xách máy hình nên ai cũng tìm cách bán tranh
tượng. Nhưng không, tôi nhất định đi thẳng vào đền, đảnh lễ Tất-đạt-đa trước
khi có một hoạt động mua bán nào. Vừa gần đến đền tôi gặp một đoàn người Tây
Tạng. Tới đây thì may thay, không ai thèm ngó ngàng gì đến tôi, những kẻ hành
hương sùng tín đó chân đi chậm rãi, tay quay mani, miệng rì rầm cầu nguyện.
Đó là đoàn người đi đảnh lễ như tôi, họ là "tăng", bạn hữu của tôi,
là một trong tam bảo. Ôi, đáng quí trọng thay, đoàn người cùng đi đảnh lễ Đức
Thế Tôn, họ đi quanh đền theo chiều kim đồng hồ. Vách tường bên ngoài đền đỏ
thẩm, đúng màu truyền thống của tu viện. Đến bên vách ngoài phía đông của đền
mà bên trong là bức tượng Jowo, khách quì lạy vị Đức hạnh cao quí mà chưa cần
nhìn thấy bức tượng. Họ nằm dài trên mặt đất để biểu lộ sự khiêm cung nhẫn nhục.
Nhẫn nhục là một trong sáu hạnh ba-la-mật, tôi thầm nghĩ.
Đền này do công chúa
Bhrkuti xây dựng, nàng là vợ của vua Tùng-tán Cương-bố. Tương truyền rằng chỗ
xây đền ngày xưa là hồ nước mà lại là trái tim của một ma nữ, nó là người
ngăn cản không cho ai được xây dựng bất cứ chốn thờ phụng nào. Rồi cũng lại
công chúa Hán tộc Văn Thành là người hiểu phong thủy và trấn được cuộc đất
này. Nàng ném vào đó chiếc nhẫn mình hay đeo và ra lệnh cho dê chở đất đổ vào
hồ và chỉ loài dê mới được làm công việc đó. Theo tiếng Tây Tạng, dê là
"Ra", là linh vật của thần hộ pháp Damcen, đất là "Sa". Từ
đó mà chốn này mang tên Rasa, dần dần biến thành Lhasa, tên gọi ngày nay của
kinh thành. Cho nên ta có thể xem công trình Jokhang là gốc của Lhasa. Từ năm
642 đến năm 653 ngôi đền này được xây dựng bằng những bàn tay của nghệ nhân
Nepal. Trong ngôi đền đó, bức tượng Bất Động Như lai của Bhrkuti mang theo được
thờ. Còn nàng Văn Thành cũng xây một ngôi đền khác gần đó và thờ tượng Jowo,
đền đó ngày nay cũng còn, tên gọi là Ramoche. Chẳng bao lâu sau, để tỏ tình
đoàn kết, hai nàng đem đổi chỗ của hai bức tượng và từ đó Jowo được thờ tại
Jokhang.
Nhưng do đâu nàng Văn
Thành lại có bức Jowo, đó là điều đã nằm trong bóng tối của lịch sử. Theo một
truyền thuyết thì bức tượng Jowo được vị thiên thần Ấn Độ chủ về nghệ thuật
tên gọi là Vishvakarma tự tay tạo dựng lúc đức Phật còn sống. Bức tượng này đến
Trung Quốc là do A-dục vương biếu tặng trong quá trình ông truyền bá đạo Phật
trong thế kỷ thứ 3 trước công nguyên.
Tôi vào cửa đền thì đến một
cái sân vuông với vô số đèn. Những chiếc đèn cháy bằng mỡ trâu này toát ra một
cái mùi kỳ lạ. Bên cạnh dàn đèn là một chiếc bàn thấp với khoảng mười vị lạt-ma
đang tụng kinh. Gần đó là cổng chính của đền, vào trong đó tôi sẽ thấy bức tượng
Jowo mà tôi không bao giờ ngờ mình sẽ được chiêm bái. Nhưng tôi chưa vội vào
và đi theo một đoàn người đi vòng ngôi chính điện theo chiều kim đồng hồ và
quay tất cả các mani bằng đồng.
Đền Jokhang là một tòa kiến
trúc gồm có 4 tầng, mái mạ vàng, phần lớn các tranh tượng đều ở tầng một. Tổng
thể diện tích của đền khoảng trên 25000 mét vuông, được chống đỡ bằng những cột
gỗ, những cột này đều từ thế kỷ thứ bảy còn lại cho đến ngày nay. Sau khi đi
ba vòng, tôi bước vào chính điện hình vuông qua một khung cửa gỗ. Cửa này
cũng là bản gốc, có xuất xứ từ 13 thế kỷ trước. Vào đền tôi chầm chậm đi
quanh theo chiều kim đồng hồ.
Đền nóng vì các ngọn đèn,
dưới chân tôi rin rít mỡ trâu. Những bức tượng đầu tiên đầu tiên là vị hộ
pháp Palden Lhamo với cặp mắt to tròn. Ngày trước có thể đó là những vị ác thần,
ma quái đã được hàng phục và sẵn sàng hỗ trợ chính pháp. Đó chính là chủ
trương của Liên Hoa Sinh và đặc trưng của Phật Giáo Tây Tạng. Sau đó là bức
tranh diễn tả cảnh dê chở đất đổ xuống hồ, minh họa lịch sử hình thành ngôi đền.
Trong một khám thờ khác là một bức tượng tuyệt đẹp của Quán Thế Âm ngày tay
ngàn mắt mà người Tây Tạng gọi là Chenrezi. Bức tượng này thì ngay cả Trung
Quốc cũng ít nơi sánh kịp. Qua nhiều khám thờ với tranh tượng của Milarepa, của
Tùng-tán Cương-bố, tôi đến vách phía đông của đền, đứng trước tượng Jowo, nín
thở.
Tôi không biết mình đã
dùng cặp mắt gì để nhìn tượng, cặp mắt tôn giáo hay nghệ thuật hay khách quan
nhìn ngắm và phân tích. Tôi không biết và không cần biết. Đó là một bức tượng
tuyệt hảo. Đức Thích-ca với khuôn mặt vàng sáng rực, nhìn xuống, đầu đội
vương miện năm trí. Có lẽ đúng, bức tượng này do thần Vishvakarma, chủ nghệ
thuật, tự tay tôn tạo. Khám thờ Jowo "Đức hạnh cao quí" ngày nay đã
được ngăn bởi một lớp song sắt, ta đứng ngoài có thể nhìn vào nhưng không thể
đụng tới. Chàng Ben của tôi ngày xưa có thể nhờ tượng giữ mũ giữ áo nhưng
ngày nay tôi chỉ có thể nhìn ngắm.
Đứng trước bức tượng này là đã bao thế hệ tu sĩ và khách hành hương. Tôi nhìn bộ khăn quàng trên đầu tượng, nghe nói đó là của Tông-khách-ba tự tay làm lấy. Áo choàng cho tượng là của một nhà vua đời Minh cúng dường.
Tôi nhìn tượng bối rối.
Tôi mang nhang từ ngoài vào nhưng ở đây tôi không có chỗ cắm, lớp song sắt đã
ngăn tôi với tượng. Jowo từ bi nhìn tôi hầu như nói "không sao",
tôi đành kẹp cả bó nhang vào một hốc bên cạnh và quì lạy bức tượng trên nền
nhơm nhớp mỡ trâu. Trong các đền Tây Tạng không có thùng đựng tiền bạc bố thí
mà khách chỉ việc để vương vãi khắp nơi, đó là điều tôi thấy kỳ lạ. Tôi không
biết làm sao hơn là thò tay thật xa vào song sắt và thả xuống đất một tấm giấy
bạc cúng dường. Trong đó người ta cũng đã bố thí nhiều, có thể lấy chổi mà
quét.
Rời Jowo tôi đi chiêm bái
tiếp các tranh tượng khác trong đền như của Liên Hoa Sinh nhưng lòng cứ nghĩ
đến tượng. Sắp ra khỏi đền, tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ trở lại Lhasa, mỗi
lần đến đây là mỗi lần khó và có ai nói được gì về tương lai. Người Tây Tạng
chẳng hay nói, kiếp sau của bạn có thể tới trước ngày mai. Tôi quày quả đi
lui đến trước tượng Thích-ca, đảnh lễ Ngài một lần cuối. Lúc tôi vừa từ nền đất
rin rít mỡ trâu đứng dậy thì đèn trong đền vừa tắt, tôi nhanh chân đi ra cửa
gỗ, là người cuối cùng ra khỏi đền. Lúc đó là 6 giờ chiều, giờ đóng cửa
Jokhang.
|
1] -
Có nơi ghi là "Jobo". Từ Tây Tạng phiên âm a tiếng la-tinh thường
thường mỗi nơi mỗi khác
[2] - Trích "The snow lions turquoise mane" của Surya Das, bản dịch "Sư tử tuyết bờm xanh" của tác giả, Nhà xuất bản Tp Hồ Chí Minh, 1999 [3] - Tùng-tán-cương-bố. Có tài liệu cho rằng ông sinh cuối thế kỷ thứ 6 và mất năm 650, thọ 82 tuổi [4] - Xem Lịch sử Phật giáo thế giới của Thánh Nghiêm, Nhà xuất bản Hà Nội 1995 [5] - Aksobhya [6] - Tu-yu-hun, bộ lạc ở bắc Trung Quốc [7] - Theo H.W.Schumann, Buddhistische Bilderwelt, Diederichs Munich 1986 [8] - Xem chương "Nhân kiệt không đời nào thiếu" trong phần thứ ba [ 9] - 1894-1984 [10] - Theo "The door of liberation" của Geshe Wangyal. Chuyện này được Đạt-lai lạt-ma thứ 14 nhắc lại trong "The Dalai Lama at Harvard" của Hopkins [11] - Xem chương "Con sông thiêng" trong phần thứ nhất [12] - Hán Việt: Ngật-lật-sang Đề-tán (khoảng 740-798) [13] - Santaraksita (750-802) [14] - Vikramasila [15] - Padmasambhava (sống khoảng cuối thế kỷ thứ 8) [16] - Uddiyana, ngày nay thuộc về Pakistan [17] - Nyingmapa [18] - Terma [19] - Samye [20] - Theo H.W.Schumann, Buddhistische Bilderwelt, Diederichs Munich 1986 [21] - Theo Lịch sử Phật giáo thế giới của Thánh Nghiêm, Nhà xuất bản Hà Nội 1995 [22] - Kamalasila [23] - Vajrapani [24] - Hán Việt: Cát Tường Kim Cương [25] - 958-1055 [26] - Atisa, 982-1054 [27] - Bodhipathapradipa [28] - Tsong-kha-pa (1357-1419) [29] - Gelugpa, có khi được gọi là phái Hoàng mạo (mũ vàng) [30] - Govinda, sách đã dẫn [31] - Sangharakshita, Tibetan Buddism" của Sangharakshita, Windhorse Publication. |
Điện Potala và dòng Đạt-lai Lạt-ma
Tông-khách-ba cũng
là người xây dựng nhiều tu viện nổi tiếng, còn lưu lại đến ngày hôm nay như
Ganden, Drepung, Sera. Ba tu viện này nằm không xa Lhasa, về sau trở thành
"ba trụ cột" của nền tăng lữ Tây Tạng vì nơi đây đào tạo hàng ngàn
tu sĩ và cũng là nơi tập hợp nhiều quyền lực chính trị.
Như ta biết, phái Cách-lỗ
mũ vàng, đệ tử của Tông-khách-ba phát triển hoạt động mạnh mẽ sau khi ông chỉnh
đốn lại nền Phật giáo Tây Tạng trong thế kỷ thứ 14. Nhưng mãi đến năm 1578,
Cách-lỗ mới phát huy cao điểm. Đó là năm mà một vị sư trưởng tên là Sonam
Gyatso [1] đi
gặp nhà vua Mông Cổ Altan Khan (Yêm-đáp-hãn). Vị sư trưởng thuyết pháp cho quần
thần và thông báo rằng nhà vua chính là hậu thân của đại đế Hốt Tất Liệt còn
chính sư trưởng là hậu thân của Phát-tư-ba mà Phát-tư-ba lại là quốc sư của cả
triều Nguyên dưới thời Hốt Tất Liệt ba trăm năm trước đó [2].
Nhà vua Mông Cổ Altan Khan tin nghe, động tâm theo đạo lý, là kẻ "suốt đời
chinh chiến, từ đây đã xếp cung đao để tin sùng đạo Phật, dồn sức cho văn trị,
lại theo Phật chỉ, cấm bộ chúng chém giết" [3].
Nhà vua tặng Sonam Gyatso danh diệu bằng tiếng Mông Cổ "Dalai", dịch
âm là "Đạt-lai", dịch nghĩa là "đại hải" (biển lớn) và
xem vị Đạt-lai lạt-ma này là một hoá thân của Quán Thế Âm. Thế nhưng vị Đạt-lai
lạt-ma không quên dòng tu của mình là từ Tông-khách-ba nên truy phong vị sư
trưởng tu viện Tashilhungpo tại Shigatse là Gendun Drub làm Đạt-lai thứ nhất,
vị tu viện trưởng kế thừa là Gendun Gyatso làm vị thứ hai và bản thân mình là
Đạt-lai thứ ba. Kể từ đó sau khi mỗi vị Đạt-lai lạt-ma chết đi, người ta đi
tìm vị tái sinh để đưa lên ngôi kế vị.
Khoảng đến đầu thế kỷ thứ
17, Tây Tạng rơi vào rối ren nội bộ, thế lực yếu dần trong lúc Trung Quốc và
Mông Cổ phát triển quyền lực tới mức cao nhất. May thay sau khi vị Đạt-lai thứ
tư mất năm 1617, người ta sớm tìm ra vị tái sinh. Vị Đạt-lai thứ năm này tên
là Losang Gyatso [4] và
có lẽ là vị vĩ đại nhất trong cả dòng Đạt-lai. Ông vừa là một nhà học giả
uyên thâm vừa là một nhà chính trị và ngoại giao khôn khéo và là một kiến
trúc sư xuất chúng.
Vị Đạt-lai thứ năm chính
là người cho xây dựng điện Potala, công trình này kéo dài từ 1644 đến 1692.
Trong cuối đời, Đạt-lai thứ năm dành hết thì giờ cho việc hành trì thiền định
và để hết quyền bính cho người phụ chính. Đạt-lai thứ năm mất đi khi công
trình xây dựng Potala còn dang dở và bên giường bệnh, vị phụ chính nhận lệnh
của ông sẽ không thông báo việc ông mất cho đến khi Potala hoàn thành. Vị phụ
chính giữ lời, cho người giả dạng Đạt-lai thứ năm trong các cuộc tiếp kiến,
mãi 13 năm sau mới công bố cái chết, đồng thời giới thiệu luôn vị thứ sáu.
Những điều bí mật này chỉ
làm cho phái Cách-lỗ mất uy tín và sau đó vị Đạt-lai thứ sáu cũng không thọ
được lâu, ông bị mưu sát năm 23 tuổi. Trước đó thì tại Trung Quốc, bộ tộc Mãn
Châu diệt nhà Minh, giành thắng lợi và lập nên nhà Thanh. Tuy nhà Thanh trọng
đãi Tây Tạng nhưng có lẽ cũng chính vì quyền lợi thế tục đó mà các vị Đạt-lai
gặp vô số âm mưu sau những vách tường đồ sộ của Potala. Lịch sử Tây Tạng cũng
rối ren và đẫm máu như các triều đình khác ở châu Á. Ta cần biết rằng phái
Cách-lỗ mũ vàng cũng tiến hành các cuộc truy bức chống lại phái Hồng mạo mũ đỏ
và dòng Kamarpa trong nội bộ Tây Tạng, chống lại chính những người con Phật.
Các phe phái của Tây Tạng cũng dựa vào lực lượng nước ngoài như Mông Cổ và
Trung Quốc để làm cảnh nồi da xáo thịt. Đọc lại tiểu sử các vị Đạt-lai, ta thấy
đó là một chuỗi lịch sử đầy bí ẩn với âm mưu tranh giành quyền lực của những
người phụ chính, trong và ngoài nước. Vị Đạt-lai thứ sáu chết lúc 23 tuổi. Vị
thứ bảy bị lưu đày. Vị thứ tám không có thực quyền. Vị thứ chín chết năm lên
chín, còn là một đứa trẻ. Vị thứ 10 chết năm 21 tuổi. Vị thứ 11 chết năm 17
tuổi. Vị thứ 12 chết năm 19 tuổi. Người ta ngờ rằng, từ vị thứ chín đến đến vị
Đạt-lai thứ 12, ai cũng bị chết vì mưu sát cả [5].
Vị thứ 13 ra đời năm 1876, là người xuất sắc nhất chỉ đứng sau vị thứ năm, lập
lại kỷ cương của Lhasa. Trong thời kỳ của ông, các nước châu Âu như Anh, Nga
bắt đầu dòm ngó Tây Tạng, đồng thời Trung Quốc biến động dữ dội. Sau khi nhà
Thanh mất năm 1911, quân đội Trung Quốc rút khỏi Tây Tạng. Đạt-lai thứ 13 từ Ấn
Độ trở về năm 1913, tuyên bố Tây Tạng độc lập. Trong năm đó có một hội nghị tại
Simla Ấn Độ thảo luận và chấp nhận chủ quyền Tây Tạng, nhưng Trung Quốc không
thừa nhận. Năm 1933 vị Đạt-lai thứ 13 mất, bảy năm sau vị thứ 14 lên ngôi, đó
là vị Đạt-lai còn sống đến ngày nay.
Năm 1949 nước Cộng Hòa
nhân dân Trung Quốc được thành lập, năm sau họ đem quân chiếm đóng Tây Tạng.
Năm 1959, vị Đạt-lai thứ 14 bí mật di tản qua Ấn Độ và ngày hôm nay Tây Tạng
là một phần đất của Trung Quốc, được gọi văn vẻ là "khu tự trị".
Như thế là dòng Đạt-lai lạt-ma,
thuộc phái Cách-lỗ, là người lãnh đạo chính trị và tinh thần của Tây Tạng hơn
400 năm qua, kéo dài được 14 đời. Trong thời gian đó, kể từ thế kỷ thứ 17 đến
nay, điện Potala là kiến trúc thiêng liêng nhất Tây Tạng, nơi đặt bảo tháp chứa
di cốt của các vị Đạt-lai và cũng là dinh thự lãnh đạo chính trị.
Thật ra Potala đã được xây
dựng từ thời Tùng-tán Cương-bố, vị Đạt-lai thứ năm chỉ là người xây dựng lên
qui mô ngày nay. Vị vua Tùng-tán Cương bố được xem là một hiện thân của Quán
Thế Âm, ông đã chọn miếng đất thiêng liêng này, nó được xem là hiện thân của
trời Đâu-suất trên trái đất. Vì thế mà nếu Phổ Đà là trú xứ của Quán Thế Âm
ngoài đông hải thì Potala là cung điện của Ngài trên nóc nhà của thế giới.
Điện Potala là ngôi đền lớn
nhất Tây Tạng. Tuy vượt xa các tòa kiến trúc khác nhưng nó dựa lưng một ngọn
núi mang tên là Marpori (hồng sơn) nên tuy ngôi điện hết sức uy nghi nhưng nó
hài hòa với khung cảnh xung quanh. Trước ngôi điện là một quãng trường rất lớn
để từ rất xa người ta có thể nhìn ngắm, cảnh quan thật là xứng đáng với tầm cỡ
của điện. Ngôi điện có bề ngang khoảng 360m, được lợp bằng mái mạ vàng, với
13 tầng cao khoảng 120m so với mặt đường. Tổng diện tích của điện lên tới khoảng
360.000 mét vuông. Ngôi điện màu đỏ mà người Trung Quốc gọi là "hồng
cung" nằm trên cao, ngôi màu trắng màu trắng ở dưới. Ngôi màu đỏ là khu
vực trung tâm của Potala, là nơi thờ tự thiêng liêng nhất của điện.
Trong lúc vô số người Tây
Tạng tay quay bánh xe cầu nguyện, vai mang lễ vật đi vòng quanh điện theo chiều
kim đồng hồ để leo lên thì xe bus chở chúng tôi được phép chạy lên
tới đỉnh. Tôi có chút tiếc nuối và xấu hổ, lẽ ra mình phải đi bộ để tâm lắng
đọng trước khi vào chốn ẩn mật của điện. Nhưng khi nhìn hàng trăm hàng ngàn bậc
cấp và tự thấy hơi thở mình còn gấp, môi mình còn tím, tôi thầm cám ơn ban tổ
chức tour biết sức du khách. Lên tới chỗ xe đậu, tôi mới biết mình
còn phải leo bộ nhiều và sẽ còn đi qua vô số khám thờ, bảo tháp, phòng thiền
định. Không ai biết rõ trong ngôi điện mênh mông này có bao nhiêu gian, có
người nói 750 phòng, có tài liệu ghi 999 phòng.
Vào nội điện, mùi đèn mỡ
trâu làm tôi nhớ Jokhang và bức tượng Đức hạnh cao quí Jowo. Tôi biết rõ rằng
các vị Đạt-lai từng trị vì trong điện Potala này cũng đều đã được đăng quang
tại Jokhang, trước mặt Jowo. Ánh đèn mờ tỏ cho thấy tôi đang đi trong Tàng
kinh các, đó là nơi cất chứa kinh điển. Kinh điển Tây Tạng làm bằng những khổ
giấy hẹp, chúng được để rời không đóng gáy. Trong Potala các kinh điển quí
báu đó đều được bọc bằng lụa đỏ hay vàng, chứa trong các khung gỗ đặt cao, du
khách không rờ tới được. Hệ thống kinh điển của Tây Tạng thật đáng ngạc nhiên
cho một nước có khoảng 5-6 triệu dân, đó là một tập hợp đồ sộ của nhiều tạng
kinh mà chữ Hán cũng chưa chắc có. Vài ngày sau, trong một tu viện khác tôi
có dịp thấy hai người đang in kinh, cách làm thủ công. Một trong hai người đó
là một cậu bé khoảng 12 tuổi, khuôn mặt sáng rực, tay in kinh, miệng đọc thần
chú. Cậu là tái sinh của ai ?
Sau Tàng kinh các, chúng
tôi bắt đầu đi từ phòng này qua phòng khác với vô số tượng. Tượng đầu tiên
tôi thấy trong Potala là A-đề-sa và các vị Đạt-lai và sau đó tôi không còn
ghi chép nổi. Đây là A-đề-sa, vị tu sĩ mà tôi đã nhiều lần "gặp"
trong các câu chuyện do chính mình dịch ? Đây là kẻ lữ hành người Ấn Độ đã từng
tới cả đảo Sumatra của Indonexia ngày xưa, kẻ đã chịu đi Tây Tạng mặc dù biết
trước vì chuyến đi đó mà mình sẽ giảm thọ 12 tuổi. Đây là kẻ mà mỗi lần có gì
thắc mắc là cứ hỏi ý kiến của Quán Thế Âm, cứ như hỏi bạn thân.
Potala phải là một pháo
đài kiên cố, đường đi quanh co không ai nhớ nổi. Tôi bỗng đứng trước các tượng
của 13 vị Đạt-lai lạt-ma. Trong 13 vị đó, như ta đã biết, vị thứ năm là vĩ đại
nhất, "le cinquième", có một người Pháp cất tiếng nói. Tượng của
ông cũng to lớn hơn các tượng khác, công của ông rực rỡ hơn công các vị khác.
Trong ánh sáng của đèn mỡ
trâu chúng tôi đứng trước tám ngôi tháp đựng di cốt của các vị Đạt-lai. Tháp
được mạ vàng và mang nhiều ngọc quí. Tháp của vị thứ năm cao khoảng 15m và được
bọc bởi 3700kg vàng. Vàng bạc châu báu quả là không thiếu tại Potala, đó là một
kho tàng của nghệ thuật tôn giáo và là nơi cất chứa không biết bao nhiêu tượng
vàng. Đến trước một tượng của Di-lặc với cặp mắt xanh biếc, tôi nhớ lại Ung
Hoà Cung tại Bắc Kinh và những gì Ngài nói về tự tính của "các
pháp". Ôi, tất cả "đều không có gì thành tựu cả", đó là cách
nói về Tính Không của Ngài, nhưng đó là nhận thức của Ngài, còn nhận thức của
người thường là khác. Một nơi tập hợp châu báu và quyền lực như Potala phải
đánh thức lòng tham của nhiều người, xưa cũng như nay. Và lòng tham phải gây
đổ máu, tôi tự nhủ khi nhớ tới lịch sử của Potala vài trăm năm trước và mấy
chục năm gần đây. Những chuyện đó vẫn đè nặng nơi tôi, lẽ ra tôi không nên có
khi đi vào chốn ẩn mật này.
Hỡi Liên Hoa Sinh, ngày
xưa Ngài đã hàng phục âm binh sao ngày nay không ra tay với các loại ma quái
tân thời. Tôi hỏi thế khi đứng trước tượng Liên Hoa Sinh, bức tượng mà ai
cũng nhận ra với cặp mắt trợn tròn, môi có râu. Người Tây Tạng ai cũng tin
Ngài chưa hề đi xa, vẫn còn đó để ra tay khi đúng thời đúng lúc. Đạt-lai thứ
14 cho rằng trong đời này của ông, ông sẽ còn về lại đất Tây Tạng. Năm nay
ông cũng đã 65 tuổi, liệu ông có lý?
Chúng tôi được phép leo
lên đến nóc điện, ở đây ta có thể nhìn ra xa. Thật là một cảnh quan hùng vĩ,
xung quanh toàn là mái điện thếp vàng. Chỗ tôi đứng chính là chỗ mà Đạt-lai
thứ 14 ngày xưa, lúc còn một đứa trẻ đứng nhìn xuống dưới mặt đất xa tít thấy
trẻ con cùng tuổi chơi đùa. Ông ước ao được xuống chơi với chúng nhưng không
được, cuối cùng chỉ sắm cái ống nhòm, theo lời tự thuật của ông. Ngày nay chỗ
trẻ con chơi ngày xưa đã trở thành chỗ bán đồ lưu niệm, chỗ đậu xe và tiếc
thay, có không ít trẻ ăn xin ngồi chờ khách. Rời nóc điện tôi đi thăm chỗ ngủ,
phòng làm việc, phòng tiếp khách, phòng thiền định của các vị Đạt-lai. Các
phòng này để nguyên không hề thay đổi kể từ ngày Đạt-lai thứ 14 ra đi. Tôi nhớ
đến ông, nhớ lúc gặp ông tại Bonn. Tôi có cảm tưởng rằng ông thấu hiểu tất cả
tệ hại của một hệ thống tăng lữ dính líu tới quyền lực của dòng Đạt-lai của
mình, ông đã thấy nghiệp lực nặng nề của tổ tiên mình để lại. Song song ông
cũng nhìn thấy hết tham vọng của chính quyền Trung Quốc đối với Tây Tạng, thể
hiện trong những thế kỷ qua cũng như trong thời đại này. Ông biết rằng tình
hình đen tối của ngày hôm nay tại Tây Tạng là kết quả của một chuỗi lịch sử
mà những người lãnh đạo ham quyền lực của Trung Quốc lẫn Tây Tạng đã gây ra.
Có nhiều lần ông nói, "tôi chỉ là một tu sĩ Phật Giáo thông thường".
Qua câu nói đó tôi cảm nhận rằng đó không phải chỉ là sự khiêm cung cần có của
một tăng sĩ mà sự đoạn tuyệt với quá khứ của chế độ tăng lữ sa lầy trong quyền
lực thế gian.
Đi xuống dưới chân điện Potala
tôi ra lại quãng trường trước mặt, nhìn ngắm lại lần cuối. Đồng hồ chỉ buổi tối
mà trời còn sáng như ban ngày. Tôi sực nhớ Tây Tạng thuộc về Trung Quốc, ở
đâu đồng hồ cũng chỉ một giờ, đó là giờ Bắc Kinh. Bắc Kinh và Lhasa cách nhau
dễ cũng bốn múi giờ nhưng Lhasa phải theo Bắc Kinh. Tám giờ tối của Lhasa
nhưng trời còn sáng như bốn giờ chiều. Người Tây Tạng xem ra dễ tính, giờ giấc
đối với họ sao cũng được. Nhưng một dân tộc vài triệu dân mà kinh điển của họ
không thua Trung Quốc thì phải hiểu họ có một nền văn hóa riêng biệt và độc
đáo.
|
Trong những con đường Lhasa
Tôi ít bị nhức đầu nhưng tại
Lhasa, chứng này làm tôi mất ngủ. Thế nhưng tôi sớm biết lý do, nguyên nhân
là do áp suất không khí. Trên độ cao này áp suất không khí thấp, lượng dưỡng
khí loãng làm cho máu huyết mất thăng bằng và đó là lý do nhức đầu. Có một điều
mà tôi không hề ngờ là mặt tôi vốn gầy nay to tròn ra, nó cũng là hệ quả của
áp suất không khí.
Có một người Trung Quốc
trong đoàn du lịch, anh là dược sĩ cho tôi một thứ thuốc "chống độ
cao", nó được hòa tan vào ly nước và uống như uống trà. Tôi thử ngay.
Tôi còn thấy một người Âu mang trên mũi một miếng băng như một vài cầu thủ
bóng đá hay mang, tôi đoán là miếng băng đó "bơm" thêm dưỡng khí
cho mũi. Nói thế nhưng tôi không hiểu hiệu quả các thứ đó ra sao chỉ thấy
mình càng ngày càng bình thường dần. Phải chăng thân thể tôi đã tạo thêm nhiều
hồng cầu để tiếp máu, theo lời một anh bác sĩ. Anh nói nhiều vận động viên muốn
thêm hồng cầu trứơc khi thi đấu phải lên ở vài ngày cỡ độ cao này. Thế nhưng
chứng mất ngủ vẫn còn dù tôi có thử uống bia để dễ ngủ.
Lhasa cũng có nhà máy bia,
đó là điều làm tôi ngạc nhiên. Nhãn hiệu của họ ghi một cách hãnh diện rằng,
đó là nhà máy bia cao nhất thế giới. Tôi thích uống bia local, đó là
cách uống bia bình dân nhưng đúng điệu, đi đâu uống bia xứ đó. Đến Lhasa dĩ
nhiên tôi càng uống bia sản xuất tại chỗ, nước làm bia hẳn là thứ nước trong
vắt và tinh khiết chảy từ Hy-mã lạp sơn ra. Dĩ nhiên là nhà máy bia Lhasa do
người Hán đem lên đây xây dựng nhưng nghề làm bia thật ra cũng là một nghề thủ
công của người Tây Tạng xa xưa. Thứ bia cổ truyền của Tây Tạngï mà tên gọi là
"Chang" làm bằng một loại lúa mạch, thực ra cũng là một thức uống của
giới mật tông, được uống trong lễ ra mắt giữa thầy và trò.
Tôi nhớ đến câu chuyện của
Gampopa [6] ,
học trò của Milarepa, khi gặp thầy đầu tiên. Gampopa mới đầu theo học dòng
Cam-đan của A-đề-sa với giới luật hết sức nghiêm khắc, cấm uống rượu. Về sau
Gampopa thấy không thích hợp với đời sống tu viện, ông ra đi, trở thành du
sĩ. Trên đường du phương Gampopa gặp Milarepa, vị này mời ông uống bia Chang
vì cặp mắt thánh nhân của ông đã thấy Gampopa chính là học trò của mình.
Gampapo từ chối không uống vì lòng còn mang nặng giới luật. Milarepa nhổ nước
bọt vào mặt Gampopa, khinh bỉ thái độ câu chấp. Hành động này lại đúng với một
giấc mơ tiên tri của Gampopa khi đi tìm đạo sư, trong giấc mơ ông bị nhổ nước
bọt vào mặt. Gampopa liền chụp sọ người đựng bia, uống một hơi và sau đó ở lại
bên thầy ba năm học đạo và giác ngộ. Ngày nay tác phẩm Bồ-đề đạo thứ đệ của
Gampopa vẫn còn là sách giáo khoa cho tu sĩ Tây Tạng.
Theo truyền thống bia
Chang, ngày nay người Tây Tạng cũng thích uống bia như người Hán. Nhưng may
thay, bia Lhasa không đựng trong sọ người mà trong chai, chai của họ thường
là loại chai 0,7 lít. Thế nhưng những người Tây Tạng sang trọng không uống
bia đựng trong sọ người, chẳng uống bia chai mà uống bia lon, cho rằng như thế
mới là quí tộc. Thế nên bia lon của loại bia Thanh Đảo kể cả bia lon nước
ngoài cũng lên tới cao nguyên Tây Tạng. Và dĩ nhiên ngày nay người ta uống
bia là để lơ mơ chứ không phải để đi tìm sự giác ngộ như Gampopa nữa. Tôi uống
bia cũng chẳng để tìm sự giác ngộ mà tìm giấc ngủ nhưng giấc ngủ vẫn không đến.
Tuy không ngủ bao nhiêu
nhưng trên cao nguyên này tôi tỉnh táo một cách kỳ lạ. Hình như khí trời
trong và sắc màu lạ lùng ở đây làm đầu óc con người mở rộng, dễ tiếp thu, dễ
cảm nhận. Đó là điều mà Govinda và bà David-Néel đều nói tới. Và điều tôi cảm
nhận được nhất là lòng hiếu khách của người dân Tây Tạng. Mang một bộ mặt của
người Hán, tôi tưởng mình dễ bị người dân Tây Tạng có thái độ khó chịu hay
thù địch. Thực tế không phải thế, người Tây Tạng rất thân thiện với nhau, với
khách nước ngoài, với tất cả mọi người. Khi xe chở khách chạy ngang gặp người
dân địa phương, tôi thấy lúc nào họ cũng hồn nhiên vẫy tay chào hay đứng nhìn
chờ đợi một cử chỉ thân thiện để vội chào đáp lại. Trên cao nguyên bao la với
hàng triệu cây số vuông và với chỉ vài triệu dân, con người quá ít, quá quí,
quá hiếm lúc gặp nhau nên truyền thống của họ là đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau lúc
đi đường. Điều đó còn ghi đậm nét tới ngày hôm nay. Họ không có thái độ coi
nhau như đối thủ mà các vùng với mật độ dân cư cao hay có.
Người Tây Tạng hẳn phải giống
người Mông Cổ hơn người Hán xa. Nét mặt của họ rất đặc trưng, hai gò má cao,
da nâu đen vì ánh mặt trời quá trực tiếp. Thân thể họ cao lớn và mạnh khoẻ, họ
phải là người chuyên đi ngựa trên vùng rẻo cao này. Đặc tính của nggười Tây Tạng
là vừa rất sùng tín vừa rất dũng cảm. Về đời sống xã hội và tâm linh, phải
nói là họ sống hoàn toàn khác chúng ta, khác người Việt người Hán. Đối với họ
sống là để phục vụ đạo pháp, đời sống vật chất chỉ là phương tiện thuần túy để
vươn lên tới những đỉnh cao tâm linh. Quan niệm sống đó không hề chỉ được giới
hạn trong các tầng lớp học thức mà bàng bạc trong toàn xã hội, kể cả trong những
người không biết đọc biết viết.
Vì những lẽ đó mà họ không
sợ cái chết mà cái chết đối với họ chỉ là một giai đoạn trong vòng sinh tử
miên viễn. Thậm chí cái chết còn phải là cơ hội để cho họ bố thí thân thể
mình cho chim muông ăn thịt, đó là lý do của tục "điểu táng" mà tại
tu viện Drepung tôi được thấy một bãi đất dành cho tục lệ này. Nếu đã hy sinh
được thân mình cho chim muông thì họ chẳng tiếc gì phải xả bỏ thân mình cho
niềm tin tôn giáo, đó là động cơ sâu xa của lòng dũng cảm vô bờ của họ. Ngày
nay nhiều sách vở còn nhắc lại những chuyện thực đầy anh dũng của các tu sĩ
và tín đồ nam nữ Tây Tạng khi bảo vệ đất nước và tu viện của họ chống lại
quân đội người Hán. Ngày nay nếu Tây Tạng có một nền hòa bình tạm thời là vì
vị Đạt-lai lạt-ma chủ trương bất bạo động chứ thật ra người Tây Tạng không
ngán ngại một lực lượng nào cả.
Chủ trương của vị Đạt-lai
thật ra không làm vui lòng tất cả người Tây Tạng. Ngồi trên xe đi giữa đường
phố Lhasa, thấy những cảnh tượng bình thường, tôi còn buồn lòng huống hồ gì
người Tây Tạng. Đường Bắc Kinh đông lộ dẫn tôi về trung tâm thành phố chạy
ngang một tòa nhà vĩ đại mang tên China Telecom, nó được lắp bằng kính rực
rỡ, phía trước hai người lính bồng súng đứng yên như tượng. Có người Tây Tạng
nào vào đó để gọi điện, tôi tự hỏi. Nhưng tại sao lại có lệ lính bồng súng đứng
canh, tại chính mẫu quốc tôi không thấy có. Đi thêm một đoạn là "Trung
Quốc ngân hàng", tòa nhà cũng bề thế vĩ đại, cũng lính đứng canh, ai sẽ
vào đó để gửi tiền, lấy tiền?
Người Hán có thói quen là
xây đường rất rộng, quãng trường rất lớn, Bắc Kinh cũng như Thành Đô đều như
thế cả. Tại Lhasa họ cũng xây những đông lộ, tây lộ rất rộng, các nhà mặt tiền
nằm san sát cửa sắt, vách lợp gạch men trắng. Đó là kiểu đô thị của Tứ Xuyên
đem lên Lhasa. Họ xây hàng trăm cửa hàng giống nhau như những giọt nước và
cho người Tây Tạng thuê làm ăn buôn bán. Mỗi bảng hiệu đều phải đề chữ Hán
trân trọng, to lớn ở giữa, phía trên được ghi chữ Tạng. Các bảng hiệu đó lại
giống hệt nhau, chỉ tên gọi và hàng hóa là khác. Và đi ngoài đường, ngày nay
đâu chỉ có người Tây Tạng mà người Hán xem ra đông hơn, ta chỉ cần nhìn áo quần
là biết. Hỏi ra, người Hán có chủ trương di dân đi Tây Tạng, ai lên trên vùng
giá lạnh và khí loãng đó mà định cư sẽ được nhiều thuận lợi của Nhà nước ban
cho.
Nhìn những người Tây Tạng
đi lầm lũi trên phố xá bỗng tôi nhớ thời bắc thuộc của Việt Nam mà mình chỉ
biết trong sách vở. Chắc những người Hán chỉ có một bài duy nhất, đó là sự đồng
hóa dân địa phương bằng chính sách di dân, bằng tiếng nói, bằng văn hóa, bằng
phong tục tập quán. Nhưng không phải chỉ có thế, tôi tự nhủ khi thấy một đoàn
cồng-voa với khoảng trên 30 chiếc xe quân sự bít bùng với những tài xế người
Hán trẻ măng, tay mang găng trắng, xem ra từ đường xa mới đến Lhasa. Lòng tôi
bực dọc vô cớ, lái xe trong mùa hè sao lại mang găng, họ là ai trong đất nước
này mà mặt mày tỏ vẻ lạnh lùng kiêu ngạo ? Những người áo quần màu thẫm vẫn
đi lầm lũi dưới đường. Ôi, đáng thương thay, một nước chậm tiến bị một nước
chậm tiến đô hộ.
Không phải chỉ có ngôn ngữ,ø
văn hóa và súng ống Trung Quốc có mặt tại Tây Tạng mà còn thêm một mãnh lực
khác, đó là tiền bạc, tiền đô-la và nhân dân tệ. Mãnh lực này đã xâm chiếm
toàn thế giới, nó đâu dừng lại trước biên giới nào, dù là biên giới tâm linh
độc đáo của Tây Tạng. Tôi không khỏi đau lòng khi thấy dân Tây Tạng tranh
nhau bán đồ lưu niệm cho người nước ngoài, tài xế tắc-xi dối trá với khách để
thêm được vài đồng "nguyên" [7],
những lao động cấp thấp phục dịch cho người Hán trong các tiệm ăn, khách sạn, tour du
lịch để được chút tiền ít ỏi. Tại Tây Tạng ngày nay người chi tiền là khách
nước ngoài, người nhận tiền bằng ngoại tệ mạnh hay bằng thẻ tín dụng là người
Hán, của rơi rớt dành cho người bản xứ. Đó là công thức kinh tế tài chánh đơn
giản. Hơn mọi yếu tố nào hết, đồng tiền sẽ xói mòn nền văn hoá Tây Tạng, nó
là sức mạnh khó chống lại nhất, liệu lòng sùng tín và sự dũng cảm có khả năng
đương đầu?
Tôi nhớ Patrul
Rinpoche [8],
ông là vị đạo sư Tây Tạng sống gần thời với chúng ta. Ông là du sĩ giác ngộ,
được nhiều người cúng dường tặng phẩm. Chuyện kể, ông xem vàng bạc cũng như đất
đá, từng dùng một miếng bạc cùng hai cục đá kê nồi nấu trà. Một người vô gia
đình và nội tâm giàu có thì quả thật có thể làm như thế. Tôi nhớ Milarepa, thầy
của Gampopa, gia tài chỉ có một chiếc nồi. Ngày nọ nồi bể, ông ca những lời
sau: "Chiếc nồi cũng là thầy, Dạy qui luật vô thường". Hạnh phúc
thay, những người đã thoát khỏi ràng buộc.
|
Tu viện Drepung
Như đã nói, Trisong Detsen
được xem là nhà vua có công du nhập Phật Giáo vào Tây Tạng. Trong thế kỷ thứ
tám vì có nhiều trường phái Phật Giáo khác nhau cùng thịnh hành nên nhà vua
thấy cần phải thống nhất quan điểm rõ ràng. Sau nhiều cuộc tranh luận ông đưa
ra ba chủ trương rõ rệt. Một là, về mặt giới luật, Tây Tạng theo phương pháp
của phái Nhất thiết hữu bộ trong cách đào tạo tăng sĩ. Hai là, về mặt triết học,
Phật Giáo Tây tạng theo quan điểm của phái Trung Quán bắt nguồn từ Long Thụ.
Ba là, về mặt thiền định thì chủ trương theo pháp thiền định của mật tông [9].
Ta cần biết rằng Nhất thiết hữu bộ là một nhánh của Tiểu thừa, phái Trung
Quán là đỉnh cao triết học của Đại thừa và thiền định mật tông bắt nguồn từ
Kim cương thừa nên có thể nói không sai là Phật Giáo Tây Tạng mang tất cả các
nét của ba nguồn giáo pháp Phật Giáo. Đó là thời kỳ truyền giáo lần thứ nhất,
nó chấm dứt khoảng giữa thế kỷ thứ 9 và gây dấu ấn mạnh nhất lên phái Ninh-mã
(Nyingmapa) của Tây Tạng.
Muốn hiểu xã hội Tây Tạng
ta cần hiểu tăng sĩ Tây Tạng vì không có nước nào trên thế giới mà hình ảnh
tăng sĩ đậm nét trong xã hội như trong nước này. Như trên có nói, kể từ
Trisong Detsen, tăng sĩ Tây Tạng được đào tạo dựa trên giới luật của Nhất thiết
hữu bộ, áp dụng trong môi trường địa phương cụ thể của Tây Tạng.
Tu sĩ Tây Tạng có sáu cấp
bực. Mức đầu tiên là cư sĩ, đó là những người tại gia, giữ năm giới luật.
Trong mức đầu này cũng có những người xuất gia phụng sự trong các tu viện,
tương tự như cận sự nam (hay nữ) ở Trung Quốc. Mức thứ hai được gọi là sa-di,
đó những tiểu tăng được thụ 36 giới với số tuổi khoảng bảy tám tuổi. Mức thứ
ba là tỉ-kheo, được thụ giới sớm nhất là 20 tuổi. Tỉ-kheo Tây tạng có đến 150
giới luật phải được tôn trọng. Mức độ thứ tư được gọi bằng tiếng Tây Tạng là Geshe,
đó là học vị có thể dịch là "tiến sĩ Phật học". Muốn trở thành Geshe,
tăng sĩ phải nắm vững năm lĩnh vực. Đó là Luật tạng, A-tì-đạt-ma luận(Abhidharma,
có khi được gọi là Thắng pháp tập yếu luận) , toàn bộ Kinh Bát-nhã ba-la-mật
nhất là Kinh Kim Cương, Trung quán luận và triết lý Tính Không và cuối cùng
là Nhân minh luận, nhất là của Trần-na(Dignana) và Pháp Xứng (Dharmakirti).
Thường thì người ta cần khoảng 12 năm mới lĩnh hội được năm lĩnh vực nói trên
và phải trải qua nhiều kỳ sát hạch vấn đáp. Vị Đạt-lai lạt-ma thứ 14 hiện nay
cũng phải tốt nghiệp Geshe như mọi tăng sĩ cao cấp khác.
Với mức thứ tư, tuy người
tăng sĩ đã được đào tạo rất sâu nhưng ông mới xong ngưỡng cửa của tiểu thừa
và đại thừa. Đó là mức độ cao cấp nhưng kiến thức vẫn còn từ sách vở sinh ra.
Mức thứ năm chính là nơi mà tăng sĩ được đào tạo trong các phép mật tông, bằng
lý thuyết và thực nghiệm. Lúc đó người tăng sĩ được gọi là Gyupa,
"quán đỉnh". Đó là lúc tăng sĩ đi vào truyền thống mật thừa, đi vào
mối quan hệ riêng của thầy-trò. Trong phái Cách-lỗ thì tăng sĩ chỉ đi vào mức
thứ năm sau khi đã thật vững vàng về các giáo pháp của tiểu thừa và đại thừa.
Còn trong các phái khác thì ít nghiêm khắc hơn, có khi tăng sĩ được trực tiếp
đưa vào mật tông mà chưa đi qua các bước nói trên. Các vị Gyupa là
đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Tây Tạng vì đó là những người không được
đào tạo bằng kinh sách mà là những kẻ đã thực chứng và dạy học trò bằng phép
truyền tâm. Nếu họ chết đi mà không kịp trao truyền lại cho hậu thế thì dòng
truyền thừa của họ tuyệt diệt.
Mức thứ sáu là Khenpo,
đó là các vị sư trưởng đứng đầu các tu viện hay các vị đại sư. Các vị sư trưởng
là người cho phép các vị tăng khác quán đỉnh hay thụ giới. Các vị Khenpo đều
phải là những người được Đạt-lai lạt-ma ấn chứng.
Ta hay nghe từ "Rinpoche"
nói về các vị tăng sĩ Tây Tạng. Rinpoche có nguyên nghĩa là
"cao quí" được dành chỉ cho cấp tăng sĩ thứ tư trở lên. Đặc biệt từ
"lạt-ma" lẽ ra chỉ dành để chỉ chung cho các vị từ cấp thứ năm trở
lên nhưng ngày nay các sách vở phương tây sử dụng tùy tiện, cứ mỗi tăng sĩ được
gọi là "lạt-ma".
Trong Phật Giáo Tây Tạng
có thêm một đẳng cấp rất đặc thù, đó là các vị tái sinh Tulku, được xem
như thân tái sinh của một lạt-ma cao trọng đã chết. Người Trung Quốc gọi các
vị này bằng từø "tự tại chuyển thế". Các vị này thường được
"khám phá" trong số tuổi sáu bảy và được thọ giới cũng như học tập
ngay. Thường các vị đó lĩnh hội rất nhanh, chưa tới 30 đã đạt danh hiệu Geshe và
sau đó thường đảm nhiệm vai trò của đời sống cũ, thí dụ trở thành tu viện trưởng
tại những tu viện ngày xưa.
Quanh Lhasa có ba tu viện
lớn nhằm đào tạo tăng sĩ tới cấp bực thứ tư Geshe, đó là Drepung, Ganden
và Sera. Trong cả ba thì Drepung lớn nhất, đó là tu viện có lúc chứa đến
10.000 tăng sĩ. Trong các vị tu học tại Drepung có một vị tên là Losang
Gyatso, về sau trở thành Đạt-lai lạt-ma thứ năm, người lãnh đạo chính trị và
tinh thần của Tây Tạng trong thế kỷ 17. Trong ba tu viện Drepung, Ganden và
Sera, chúng tôi chọn đi Drepung.
Drepung nằm dưới chân một
ngọn núi, cách Lhasa khoảng 10km. Từ xa ta đã thấy đây là một hệ thống những
tòa tu viện rất lớn, với danh từ ngày nay ta có thể gọi là "campus".
Đó là một làng đại học Phật Giáo với hàng chục công trình xây cất.
Drepung được một đệ tử của
Tông-khách-ba tên là Jamyang Choje xây dựng đầu tiên năm 1416. Trong những thế
kỷ sau Drepung được tiếp tục xây dựng để trở thành tập hợp tu viện lớn nhất của
phái Cách-lỗ và cũng của toàn Tây Tạng với hàng chục điện thờ, khám thờ và vô
số tranh tượng. Trong chính điện lớn nhất mà người Tây Tạng gọi là Dukhang,
ta thấy bức tượng Văn-thù, vị bồ tát chủ trí tuệ mà tôi đã được đảnh lễ tại
Ngũ Đài sơn Trung Quốc. Đây là nơi đào tạo khoảng 400 vịGeshe và 50 vị
tái sinh Tulku học tập trí huệ bát nhã của Ngài. Trong thời gian Đạt-lai
lạt-ma thứ năm trị vì, Drepung cũng trở thành trung tâm quyền lực chính trị của
Lhasa.
Trong chính điện Dukhang
này, đây là nơi tập hợp quan trọng nhất của các cuộc hành lễ với hàng ngàn
tăng sĩ, với thanh la não bạt, với những loại kèn đồng rất dài phát ra tiếng
rất trầm. Ta đã biết âm nhạc tế lễ đóng vài trò rất quan trọng trong Phật
Giáo Tây Tạng. Những loại âm thanh đều đại diện cho những yếu tố của pháp giới.
Những tiếng rất trầm hầu như phát ra từ lòng đất nói lên nền tảng vô thủy vô
chung của vạn sự, những tiếng xập xỏa ngắn, sắc và vang dội nhảy múa trên âm
trầm không dứt, chúng đại diện cho thế giới hữu hiện khi có khi không của vạn
pháp. Chính điện này cũng là nơi hàng ngàn người tụng niệm cùng lúc, dưới những
bức tượng vàng vĩ đại, trong tiếng âm thanh của chuông trống, trong tiếng niệm
thần chú của vị chủ lễ.
Tôi đi qua những con đường
lát đá. Đó là những nơi mà ngày xưa tăng sĩ tranh luận về nhân minh học, môn
logic lý luận Phật Giáo hết sức sâu sắc. Đó là nơi mà tăng sĩ phải trả lời
ngay những câu hỏi câu đố được đưa ra song song với một tiếng vỗ tay rất lạ của
người hỏi. Cách vỗ tay đó được xem để đánh thức tâm trí của người được hỏi.
Phái Cách-lỗ là môn phái chịu lý luận nhất trong các môn phái Phật Giáo xưa
nay. Họ cho rằng đã theo đại thừa thì phải biết lý luận để giáo hóa cho những
người muốn học hỏi và cách giáo hóa dễ làm nhất là lý luận logic.
Tôi đến những phòng thờ của
các vị tu viện trưởng. Nơi đây tôi mới biết rõ những gì Govinda đã kể trong
cuốn "Con đường mây trắng" (Govinda,sách đã dẫn) . Đó là những chỗ
ngồi thiền định mà trên đầu là một tấm lụa nhiều màu tượng trưng cho bầu trời.
Dưới bầu trời đó, xung quanh đều là tranh tượng của Phật Bồ tát, các vị tăng
sĩ sống một cuộc đời tôn giáo cả ngày lẫn đêm. Trước mặt họ luôn luôn là tượng
Phật, họ cúng đèn, tượng trưng cho giác ngộ; cúng nước, tượng trưng cho đời sống.
Đây là nơi mà hàng ngàn
người sống cuộc đời phạm hạnh, bồi dưỡng trí huệ, tăng trưởng bồ đề tâm, quán
niệm về cái vô thường của sự sống, về sự miên viễn của cái chết. Những người
đó theo bước của Văn-thù, dùng lưỡi kiếm bén chém màn vô minh để phá vòng
sinh tử. Vô minh là khâu đầu tiên của "mười hai nhân duyên". Nơi
đây tại Tây Tạng, người ta học kỹ những giáo lý tiểu thừa như tứ diệu đế, mười
hai nhân duyên..., đâu phải chỉ có luật tạng. Ôi, đó là những giáo lý tiểu thừa
tưởng như giản đơn nhưng không bao giờ ta hiểu hết. Tiểu thừa hay đại thừa chỉ
có một mục đích duy nhất là xé "miếng da voi của vô minh". Hai trường
phái đó đối với người Tây Tạng chỉ là phương tiện tùy theo căn cơ hành giả.
Nơi đây người ta quí trọng đức Văn-thù, mỗi lần đọc Trung quán luận người ta
cầu đến Văn-thù . Bao nhiêu tăng sĩ Tây Tạng đã lên đường đi bộ đến Ngũ Đài
sơn. Ngài là người giúp tăng sĩ phá vòng vô minh. Phá được vô minh là chấm dứt
cái chết lẫn cái sống, thoát được vòng tử sinh do quỉ sứ đang ôm giữ [10].
Những tăng sĩ đó ngày nay đâu cả?
Ngày nay Drepung chỉ còn
là nơi thăm viếng của khách du lịch. "Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo".
Tôi đi ngẩn ngơ qua những tòa nhà với tường vách dày vài mét nay đã đổ nát,
những tấm cửa gỗ to nặng nay đã tróc sơn đỏ. Giữa những tòa nhà trống vắng,
vài người Tây Tạng đứng hút thuốc nói chuyện phiếm dưới nắng mai, vài chú tiểu
tăng uể oải mở cửa cho chúng tôi được vào những khám thờ đặc biệt. Sự yên lặng
nơi đây xem ra nói lên một điều mà Sangharakshita(Sangharakshita, sách đã dẫn)
đã tiên đoán. Đó là Phật Giáo Tây Tạng không có tương lai, không thể phát triển
được nữa. Chỉ vài thế hệ nữa thôi, dưới sự cai trị của người Hán, Phật Giáo
Tây Tạng sẽ biến mất trên thế giới.
|
"Con trâu điên"
"Con trâu
điên" (The crazy Yak) là tên một quán ăn thuần túy Tây Tạng. Buổi tối
chúng tôi ngồi trong một tiệm ăn tự chọn của người Tây Tạng. Có lẽ tiệm này
chủ yếu dành cho khách du lịch và người nước ngoài, nội cái tên bằng Anh ngữ
cũng nói lên điều đó. Chúng tôi ngồi thở sau khi lên một cầu thang hẹp để đến
một gian phòng lớn theo đầy Thangka [11] .
Không khí loãng trên cao nguyên làm người ta rất mau mệt, nhất là sau khi đi
tham quan các tu viện trên núi. Vì thế không có gì sung sướng hơn buổi chiều
tối được ngồi nghỉ, ăn uống và suy ngẫm những gì mình đã thấy trong ngày.
Chúng tôi ngồi nghỉ trước
khi đến bàn ăn tự chọn xem thử trong đó có những món gì. Chắc là không thể có
thịt trâu Yak, "con trâu điên" chắc chỉ là tên gọi lạ tai. Yak là
sinh vật đặc trưng của Tây Tạng, chẳng thế mà tại một ngã tư lớn của Lhasa có
một tượng đồng rất sinh động của hai con trâu. Người ta không thể làm thịt
trâu, Yak là con vật có ích nhất cho dân Tây Tạng. Đối với họ con trâu là cả
một gia tài.
Trâu Yak không giống trâu
Việt Nam. Trâu Việt Nam đã chậm chạp mà nó còn chậm hơn. Điều khác nhất là
lông nó rất dài, có lẽ để chống lạnh. Trên cao nguyên Tây Tạng tôi không thấy
bò, chỉ trâu Yak lo chuyện đồng áng. Sữa trâu để dùng làm trà bơ, một chất bổ
dưỡng mà tôi có dịp nếm ngay hôm nay. Mỡ trâu dùng để thắp đèn mà mùi của nó
ngai ngái hết sức khó quên. Nhưng trâu cho người cái quan trọng nhất, đó là
phân trâu. Ở đây tôi không nói chuyện tiếu lâm, thật sự phân trâu là thứ quí
nhất, nó là chất đốt chủ yếu. Đi ngang làng mạc Tây Tạng ta thấy mỗi nhà đều
đắp trên tường hay phơi ngoài ngõ những bánh tròn tròn mới nhìn qua tưởng như
bánh chưng. Thế nhưng nó không phải thứ để ăn mà để đốt, đó chính là phân
trâu Yak. Phân trâu Yak khi đốt cho một ngọn lửa không mùi và rất nóng. Trên
một xứ cao nguyên lạnh giá, hiếm gỗ thì phân trâu Yak là nguồn nhiên liệu quí
giá.
Trên tường, đức Phật
A-di-đà trong một bức Thangka thật lớn mỉm cười nhìn chúng tôi đến bàn lấy thức
ăn. Chắc Ngài từ bi chấp nhận kẻ ăn mặn như tôi trong xứ của Phật pháp này.
Quả nhiên như tôi đoán, không có thịt trâu Yak, nếu có tôi cũng chẳng ăn.
Xung quanh tôi có những nhóm du lịch khác, lác đác có kẻ nói tiếng Đức xen lẫn
tiếng Anh và lạ thay, trong số họ có nhiều người ăn chay, họ hỏi nhau món nào
không có thịt. Cuối cùng tất cả chúng tôi đều vui lòng vì các món chay mặn đều
có, tôi sớm tìm ra một món thịt, đó là thịt trừu. Tôi phải ăn thịt để lấy sức
leo núi, phải uống bia để tiêu món thịt, đó là lý luận của những kẻ còn tham
ăn tục uống như tôi. Thế nên dưới nụ cười của đức Phật từ bi, tôi ăn thịt trừu
chăn trên sườn Hy-mã lạp sơn và uống bia Lhasa lấy nước từ những suối nguồn
tinh khiết đó.
Tôi không phải là kẻ duy
nhất ăn thịt trên cao nguyên Tây Tạng này. Nơi đây khí hậu quá lạnh nên không
có bao nhiêu rau cải, rất nhiều người Tây Tạng phải ăn thịt để sống, kể cả
nhiều tăng sĩ. Đã có nhiều cuộc tranh luận về việc ăn thịt hay không ăn thịt
trong giới tăng sĩ, nhưng nói chung chỉ tăng sĩ của phái Cách-lỗ mới tuyệt đối
ăn chay, tăng sĩ mũ đỏ có nhiều người ăn thịt, tăng sĩ miền bắc ăn thịt nhiều
hơn người miền nam. Lý do đơn giản là miền bắc Tây Tạng quá lạnh, thực vật
cũng không mấy thứ sống nổi.
Tôi đã vào trong nhà bếp của
tu viện Drepung xem thử. Ngày nay đó không còn là nơi nấu cho hàng trăm hàng
ngàn người ăn nữa nhưng những chiếc nồi to tướng nhắc tôi đây đã một thời náo
nhiệt. Tôi bỗng nhớ câu chuyện của vị "đầu bếp giác ngộ" [12] và
tự hỏi không biết vị đầu bếp nào đã nấu nướng nơi đây và "năng lực tâm
linh" của người đó còn vương trong căn nhà đầy mồ hóng này hay không. Đầu
bếp của các tu viện không phải là người thường, họ là những lạt-ma không kém
phần cao trọng. Người Tây Tạng cho rằng thức ăn của những đầu bếp giác ngộ mới
mang lại phước lành cho người ăn, tất cả sản phẩm do tay người làm ra, dù là
sản phẩm gì, đều mang dấu ấn tâm linh của người đó. Tôi đọc lại câu chuyện
nói trên và để ý thấy câu "lạt-ma đầu bếp này hàng năm trời đứng dưới thịt
trâu xông khói". Thì ra người ta vẫn ăn thịt trâu Yak. Thế thì tăng sĩ
và cư sĩ đâu còn gì khác nhau?
Quan niệm về đời sống tu
sĩ tại Tây Tạng có nhiều điều khác biệt so với tăng sĩ của các nước khác. Nếu
tại các nước theo Thượng tọa bộ người ta tin rằng chỉ tăng sĩ mới đạt quả
A-la-hán thì đại thừa Phật giáo cho rằng cư sĩ cũng như tăng sĩ đều mang Phật
tính trong tâm, ai cũng có thể đạt giác ngộ. Dù thế, nhưng tại Ấn Độ và Trung
Quốc người ta còn phân biệt cư sĩ, tăng sĩ cũng như giới luật dành cho hai hạng
người đó. Còn tại Tây Tạng sự phân biệt đó không còn rõ nét, có nhiều lạt-ma
sống cuộc đời thế tục, có gia đình nhưng vẫn hành lễ như tu sĩ và được tín đồ
trọng vọng. Nếu tại Ấn Độ vị cư sĩ nổi tiếng nhất là Cấp Cô Độc thì tại Tây Tạng,
người đó là Marpa, "nhà đại phiên dịch".
Theo nhiều tài liệu, Marpa
sinh năm 1012 tại nam Tây Tạng. Từ hồi trẻ ông đã học tiếng Phạn và bán toàn
bộ sản nghiệp để dành tiền đi Ấn Độ. Ngày xưa người Tây Tạng đi Ấn Độ là dấn
thân vào một chuyến phiêu lưu gian khổ, mười người đi bỏ mạng đến bảy tám người.
Lý do là khí hậu Tây Tạng thì lạnh và khô, Ấn Độ thì nóng và ẩm, rất nhiều
người đau ốm dọc đường. Ai đi Ấn Độ trở về đã là một kỳ công được nhiều người
nể trọng.
Marpa đi Ấn Độ tổng cộng
ba lần. Lần đầu ông gặp Naropa, đó là một vị đại thành tựu giả [13] và
học đạo với vị này suốt 16 năm. Naropa là một vị hành giả tiêu biểu của đại
thừa mật giáo của Ấn Độ, là người đồng thời của A-đề-sa và là một trong những
nhân vật quan trọng của viện Phật học Na-lan-đà tại Patna. Ông là người truyền
lại cho Marpa phép Đại Thủ Ấn [14] và
bộ "Du già lục pháp" [15] với
nhiều phép khổ luyện hết sức huyền bí. Marpa đem nhiều kinh sách, đặc biệt là
của đại thừa của thời kỳ cuối, về Tây Tạng. Ông sống một cuộc đời nông phu, lấy
vợ sinh con và đem hết sức mình ra dịch thuật kinh sách. Sau đó ông lại đi Ấn
Độ lần thứ hai, học thêm nhiều phép bí truyền. Về lại Tây Tạng, ông gặp một
người xuất chúng của Tây Tạng và thâu nhận làm học trò. Người đó không ai
khác hơn là Milarepa (người khổ hạnh áo vải). Milarepa bị Marpa hành hạ gần
muốn tự tử chẳng qua là Marpa muốn giải ác nghiệp cho ông. Về sau, Milarepa đắc
đạo và thành lập phái Ca-nhĩ-cư (Kagyupa), một trong bốn tông phái của Phật
Giáo Tây Tạng và cư sĩ Marpa được xem là tổ thứ ba [16] của
phái này. Lần thứ ba lúc tuổi đã cao, Marpa lại đi Ấn Độ một lần nữa vì một
phép bí truyền, đó là giáo pháp "đoạn giáo". Nơi đây ông gặp lại vị
thầy Naropa lần cuối. Người cư sĩ Marpa có nhiều điều giống với tăng sĩ Huyền
Trang, kẻ sống trước ông ba thế kỷ. Hai vị đều là người đi Ấn Độ thỉnh kinh
sách về nước mình và được tôn là "đại dịch sư".
Tôi ngẫm nghĩ điều đó
trong "Con trâu điên" trong lúc có người mang lại một tách trà bơ
cho tôi. Tôi vui mừng được uống thử trà bơ nổi danh mà tất cả các sách về Tây
Tạng đều nhắc tới. Đó là thứ trà mà người ta uống rất nóng và tiếc thay, nó
có mùi ngai ngái của mỡ trâu. Tôi đặt tách trà xuống và thành thực mà nói tôi
thấy bia Lhasa ngon hơn và có lẽ sẽ chỉ uống trà này nếu không có gì để uống
nữa và nhất là nếu cần nó để có chút hơi ấm khi sắp chết cóng vì lạnh. Sau đó
tôi hết sức ngưỡng mộ khi người ta đem bánh Tsampa ra. Đó là thứ
bánh làm bằng bột mì mà các tăng sĩ Tây Tạng hay tự tay làm để cúng dường các
vị nữ thần Không hành nữ [17]. Tsampa,
có ngày ta được nếm thử ngươi, được ăn thứ mà nữ thần cũng ăn, tôi sung sướng
tự nhủ. Thế nhưng, Tsampa quá ngọt và vẫn không tránh được mùi mỡ
trâu, tôi ăn không nổi.
Tôi sắp điên vì mỡ trâu chứ
không có con trâu nào điên cả, đó là kết luận của tôi ngày hôm đó.
|
Trên cao nguyên
Mặc dù nằm trên độ cao
3700m nhưng Lhasa chỉ là một thung lũng hiền hòa. Ngoài thung lũng Yarlung
Tsangpo, Tây Tạng chỉ toàn là núi non hiểm trở. Miền bắc của Tây Tạng giáp giới
với dãy núi Côn Luân, đó là một vùng lạnh lẽo quanh năm, dân Tây Tạng cũng
không ai muốn lên đó. Miền nam Tây Tạng chính là dãy Hy-mã lạp sơn mà cách
Lhasa khoảng chừng 800km đường trường về phía tây nam là đỉnh Everest cao nhất
thế giới với độ cao 8848m.
Như ta biết, cao nguyên
Tây Tạng được sinh ra cách đây khoảng 40 triệu năm, lúc bán đảo Ấn Độ di chuyển
đụng phải đại lục châu Á. Sự va chạm đó không nhẹ nhàng cho lắm, nó đội lên
thành hàng chục ngọn núi cao và đồng thời sinh ra những khe núi sâu khủng khiếp
mà tiếng Anh gọi là "Canyon". Thế nên tại Tây Tạng có sáu ngọn núi
cao trên 8000m, 50 ngọn trên 7000m. Chúng được tuyết trắng quanh năm che phủ,
sườn của chúng chứa đầy băng vạn niên dày hàng chục mét. Dưới chân núi là những
hẻm sâu thăm thẳm và lạ thay trong những hẻm đó có những nơi vô cùng ấm áp,
hoa lá xinh tươi. Dưới chân những ngọn núi đó hồ, có cả hồ nước mặn, mặt nước
của chúng len lỏi vào trong những rảnh sâu của chân núi để sinh ra những bờ hồ
khúc khuỷa với một sắc đẹp vô song.
Tuyết tan trên núi vào những
ngày hè tích tụ từ bao nhiêu triệu năm chảy xuống hồ Manasarova dưới chân
Ngân Sơn để sinh ra con sông Yarlung Tsanpo mà ta đã biết. Con sông này chảy
từ trên cao nguyên với độ cao gần 7000 mét về biển nên ta có thể hình dung nó
vượt qua bao nhiêu hẻm núi sâu để về đồng bằng. Tại phía đông Tây Tạng nó chảy
qua một loạt thác với một đoạn sông chỉ dài có 45km mà mất 3000m độ cao. Đó
là một trong những hẻm núi nổi danh nhất thế giới, tính từ trên đỉnh núi xuống
mặt nước cao trung bình trên 5000m. Từ trên núi nhìn xuống sông mà tưởng như
từ trên máy bay nhìn xuống đất. Cảnh quan của hẻm núi này vượt qua cả hẻm
Colca ở Peru, của sông Colorado của Mỹ.
Xe chúng tôi chạy nhằm hướng
nam, trở lại thung lũng sông Yarlung Tsangpo. Đường này là đường đi sân bay
nhưng cũng chính là trục đường đi Kathmandu. Thế nhưng từ đây đến Kathmandu
còn 850km và đường còn vượt nhiều ngọn đèo của Hy-mã lạp sơn nên nếu có ai đi
thì phải tính mất ba ngày đường. Hôm nay chúng tôi chỉ đến Gyantse và ngày đó
tôi đã biết thế nào là đường núi và sự nhọc nhằn.
Xe chúng tôi đi là một chiếc bus nhỏ
hiệu Toyota. Trên đường đi tôi sớm biết là chiếc xe này không phải là loại xe
thông dụng tại Tây Tạng mà nơi đây người ta hay chở du khách đi bằng loại xe
đường núi với 4500cc phân khối, thùng xe cao và động cơ vận hành cả bốn bánh.
May thay chiếc Toyota đã đi đến nơi mặc dù có khi nó phải lội nước vì đường bị
ngập vì suối tràn.
Không bao lâu sau khi vượt
sông Yarlung Tsangpo chúng tôi lấy một con đường nhỏ đến Gyantse, thành phố lớn
thứ ba của Tây Tạng. Gyantse là thành phố được xây dựng năm 1365, là nơi giao
dịch buôn bán với các nước miền nam như Nepal, Ấn Độ, nơi bán trâu Yak và
lông trừu. Như thế là đường từ Lhasa đi đến Gyantse phải rộng rãi lắm, tôi tự
nghĩ và sau đó thấy mình sai lầm. Đây là con đường nguy hiểm nhất mà đời tôi
đã đi qua, nhưng là con đường tuyệt diệu nhất.
Đó là con đường đi về
Hy-mã lạp sơn nằm ở phía nam. Trước mặt tôi là những ngọn núi tuyết bạc trắng
xóa. Xe càng lúc càng lên cao, đường càng ngày càng khúc khuỷ. Những ngọn núi
khi trước mặt khi bên trái, bên mặt, khi ẩn khi hiện nhưng mỗi lần được thấy
chúng, nỗi kính sợ lại trở về với tôi. Tôi nhớ mười năm về trước, tại Simla
mình được thấy những ngọn này và lòng mình chấn động dữ dội. Đó là buổi bắt đầu,
hôm nay hầu như là những ngày cuối cùng, ai biết được đời mình có cho phép
mình đi du hành nữa, nhất là trên cao nguyên Tây Tạng này. Mười năm qua tôi
đi trọn một vòng hành hương, từ tứ động tâm ở Ấn Độ đến tứ đại danh sơn ở
Trung Quốc để cuối cùng đảnh lễ vị Đức hạnh cao quí tại Jokhang. Đó là một
vòng học hỏi với kinh sách tiểu thừa tại Ấn Độ đến các khái niệm rộng lớn của
đại thừa của Trung Quốc và cuối cùng là những quan niệm kỳ bí của kim cương
thừa tại Tây Tạng.
Những gì tôi được thấy của
mười năm qua bỗng nhiên trở lại khi những ngọn núi đầy tuyết xuất hiện trước
mặt tôi. Tôi quên nỗi bực dọc về những gì đã thấy trên đường phố Lhasa, về sự
hiện diện của lính tráng Trung Quốc. Tôi nhớ lại tại Simla chính mình đã tự
nhủ, núi non đâu phải để con người quản lý. Trung Quốc hay Tây Tạng không có
ai "quản lý" được núi non, những ngọn núi này chỉ là đỉnh của những
băng sơn ẩn mật, hiện ra một chút cho người đời thấy diện mục của mình. Những
ngọn núi hôm nay tôi thấy không phải là những ngọn mà tôi thấy tại Simla vì
chúng cách nhau quá xa, dễ chừng cả ngàn cây số. Nhưng hề gì, tất cả những ngọn
Hy-mã lạp sơn đều cao quí như nhau, đến đây là đi trọn một vòng của đời tôi.
Đường xe chạy không hề là
con đường tráng nhựa như tôi nghĩ, nó chỉ là đường đất. Tôi tự hỏi không biết
mùa đông con đường này sẽ ra sao. Nhưng điều đó không làm tôi lo ngại mà những
con đường đèo này không hề có gì che chắn tại những khúc quanh. Tôi ngồi cạnh
cửa sổ, lạnh người nhìn xuống thấy những hẻm núi sâu hun hút, xe rớt xuống đó
thì khỏi có ai sống sót. Anh lái xe cũng tay mang găng trắng, đó là thói quen
của tài xế tại Trung Quốc, Tây Tạng. Thế nhưng sao không thấy anh treo hình
thần bảo hộ như tài xế Ấn Độ?
Tôi sớm tìm những chuyện
khác mà nhìn để quên cơn sợ. Trên các sườn núi nhiều đàn trâu Yak xuất hiện,
chúng mang trên cổ những vòng vải vàng đỏ và chậm chạp nhai cỏ. Tiếng chuông
treo cổ trâu vang xa trong tiếng động cơ của xe, thế nhưng tôi nhận ra một sự
tĩnh lặng vô cùng trên cao nguyên này. Cái bao la của không gian, màu sắc rực
rỡ của trời đất và sự tĩnh lặng mênh mông này phải là điều kiện tuyệt vời để
con người thiền định và để mở rộng ý thức quán chiếu. Đây là chỗ con người gần
trời hơn, chỗ ý thức vươn tới những tầm cảm nhận cao hơn mà thông thường ta
không đạt tới.
"Khampa", người
hướng dẫn du lịch nói ngắn. Chúng tôi sớm thấy các lá phướn phất phới và những
đụn đá từ từ hiện ra. Đây là đỉnh đèo đầu tiên mà chúng tôi đã vượt qua, đó
là đèo Khampa, nó có cao độ 4794m. Tôi nhảy xuống xe và thấy rõ, sức mình đã
yếu đi thêm vì độ cao. Đỉnh đèo này cao hơn Lhasa khoảng 1100m. Nắng sáng rực
trong không khí trong vắt và gió thổi phất phới những lá phướn. Nhờ nắng nên
gió không làm tôi lạnh. Những lá phướn mang lời kinh đã thổi vào không gian
vô số phước lành, có lẽ đó là lý do mà tài xế không cần treo hình các vị thần
bảo hộ.
Tôi đi thêm vài bước và đứng
sững lại trước một cảnh quan tuyệt diệu. Trước mắt tôi là hồ Yamdrok. Hồ xuất
hiện trước mặt tôi như một lớp ngọc thạch, màu của nó là màu xanh lục sáng turquoise,
nó như màu của lá chuối non sáng rực dưới ánh sáng mặt trời. Tôi đã thấy nhiều
hồ nhưng các nơi đó, màu nước thường xanh dương đậm nhạt tùy chỗ. Còn màu
xanh lục sáng rực này của một hồ nước thì tôi chưa hề thấy. Hồ nằm dưới chân
của ngọn Nojin Kangsa cao 7223m, mặt nước xanh lục của nó mới nhìn có vẻ
không thật vì màu của nó quá kỳ lạ và rực rỡ. Màu nước nổi bật lên, hầu như gần
với mắt hơn còn xung quanh là núi màu xanh thẫm lại chìm xuống, rút ra xa. Cảnh
quan này dường như một bức họa siêu thực hay một bức tranh của trẻ con vẽ với
những màu sắc và đường nét không có thật trong thiên nhiên.
Tôi ném một viên đá vào đụn
đá theo cách chúc lành của người Tây Tạng và lên xe xuống đèo. Sung sướng
thay cho tôi, sau đó xe chạy 50km nữa theo con đường sát theo bờ hồ. Mặt dù
đã mệt nhưng tôi nhất định không nhắm mắt ngủ. Ai nỡ ngủ khi chạy bên cạnh hồ
Yamdrok này. Đường dọc theo bờ hồ cũng là một con đường quanh co, nước hồ len
lỏi vào những góc nhỏ nhất của các chân núi để đi đến đâu ta lại có một cảnh
quan mới về hồ và núi, lại có một bức tranh siêu thực trước mắt.
Hồ Yamdrok là hồ lớn thứ
ba của Tây Tạng, diện tích mặt nước của nó khoảng 638 cây số vuông, nằm ở độ
cao 4441m, được xem là hồ thiêng của Tây Tạng. Hồ lớn nhất là một hồ nằm ở
phía bắc tên là Namtso, nước mặn, nằm ở độ cao 4718m, nằm cao nhất trên thế
giới, đó cũng là một hồ thiêng. Từ Lhasa đến đó chỉ khoảng chừng 150km nhưng
cả đi lẫn về cũng phải mất đến ba ngày. Tôi chưa được đến đó nhưng người ta
nói đó là một trong những nơi để lại ấn tượng sâu nhất khi đi Tây Tạng. Đó là
một chiếc hồ với sự tĩnh lặng "không thể tả xiết", nằm trên cao
nguyên hoang dã mà sát xung quanh bờ là những ngọn núi cao sáu ngàn mét.
Đi dọc bờ hồ Yamdrok được
khoảng 50km chúng tôi đi về hướng tây và lên đèo Karo, vượt núi Nojin Kangsa.
Con đường chạy sát ngọn núi hùng vĩ này đưa chúng tôi lên tới độ cao 5010m. Tới
đỉnh đèo tôi xuống xe và cảm hơi thở buốt giá của ngọn núi. Trên trời, nơi
đây không còn chim chóc bay lượn. Nhìn lên sườn núi, tôi khám phá những tảng
băng vạn niên đã lan tới gần sát đường xe chạy. Vào đúng mùa hè nên một ít
băng tan, sinh ra những dòng thác nhỏ trắng bạc chảy dọc trên sườn núi, nhìn
xa như một dải lụa tinh khiết.
Độ cao này làm tôi khó thở
thực sự. Trong kính chiếu hậu của chiếc xe bus, môi tôi đã tím bầm. Tôi
lê những bước mệt nhọc xung quanh chỗ xe đậu, cố hít hơi thật dài và thấy nao
lòng. Đây là chốn cao nhất trên địa cầu mà tôi đã tới và có lẽ sẽ không bao
giờ trở lại. Xung quanh tôi là nhiều người Tây Tạng đang tìm cách bán đồ lưu
niệm cho khách du lịch, cho thuê trâu Yak để khách cỡi chơi cho biết. Tội
nghiệp thay cho họ, làng của họ ở dưới chân đèo, nhưng dắt bộ trâu lên đỉnh
vì du khách chỉ dừng ở đỉnh đèo. Tôi đi ra xa, chân tránh phân trâu và mắt
tìm vài viên đá. Tôi bỏ được một viên đá của ngọn đèo cao nhất này vào ba-lô.
Một viên khác tôi mang lại đụn đá cầu nguyện ở trên đèo, đổi lấy một viên đã
nằm lâu tại đó. Cuối cùng, tôi mang được về nhà hai viên đá của núi Nojin
Kangsa, trú xứ của vị thần Nojin, đó là kỷ vật của tôi từ Hy-mã lạp sơn.
|
Gyantse, Đô thị tàn tạ
Sau khi qua thêm một
ngọn đèo nữa, đèo Zhimi cao 4370m, chúng tôi đến Gyantse. Ngày trước nó là đô
thị nối giữa Lhasa và Shigatse, ngày nay không còn đóng vai trò quan trọng
sau khi một con đường khác mới được xây, chạy dọc theo thung lũng Yarlung
Tsanpo, nối liền hai đô thị nói trên. Thế nhưng Gyantse là thủ phủ một thời
thịnh trị, số phận của nó liên hệ mật thiết đến phái Tát-ca(Sakyapa). Gyantse
một thời lại là một trung tâm thương mại của Tây Tạng và cũng vì thế mà
Gyantse bị người Anh tiến hành một cuộc xâm lược đổ máu vào năm 1904.
Ngày nay Gyantse là một đô
thị buồn tẻ và đầy bụi bặm. Khách đến đây là để đi thăm tu viện Palkhor và
ngôi đền Kumbum, man-đa-la vĩ đại ba chiều.
Palkhor là một đại tu viện
nằm trên sườn một ngọn đồi mà chạy dọc trên đỉnh đồi là một bức tường thành
chạy dài bao bọc xung quanh. Tôi nhớ đến Vương Xá tại Ấn Độ và biết rằng người
xây dựng Palkhor ngày xưa có ý định biến đây là một đô thị riêng biệt của tu
viện. Quả thật như thế, ngày xưa đây là một tổng thể gồm 16 tu viện. Cách mạng
văn hóa đã đưa những hồng vệ binh trẻ tuổi lên đây và phá hủy hầu hết các
công trình. Ngày nay đến đây du khách khó mà ngờ ngày xưa đây là chỗ tập hợp
của rất nhiều tăng sĩ, và quan trọng nhất đây là chỗ mà ba giáo phái Tây Tạng
cùng nhau tu học. Đã đến lúc tôi phải xem lại lịch sử của bốn giáo phái lớn của
Tây Tạng, đó là Ca-nhĩ-cư, Ninh-mã, Tát-ca và Cách-lỗ.
Như trong một chương trước
đã nhắc tới, giáo phái Ca-nhĩ-cư được Marpa truyền qua Tây Tạng khoảng thế kỷ
thứ 11. Giáo pháp này bắt nguồn từ Phổ Hiền. Phổ Hiền trong Ca-nhĩ-cư không
phải là bồ tát Phổ Hiền trong Phật giáo Trung Quốc mà là hóa thân của Pháp
thân. Phổ Hiền truyền cho Tilopa và Tilopa truyền cho Naropa. Marpa, học trò
của Naropa, lĩnh hội phép Đại thủ ấn và Du-già lục pháp tại vùng đất thiêng
Bihar Ấn Độ. Giáo pháp này chú trọng đến phép truyền tâm, trực tiếp từ đạo sư
đến học trò. Ngày nay phái Ca-nhĩ-cư vẫn còn tồn tại với tên Drukpa-Kagyu và
Drigung-Kagyu.
Phái thứ hai là Ninh-mã
(Nyingmapa), được xem là phái cổ nhất Tây Tạng. Phái này thống nhất truyền thống
tu tập của Liên Hoa Sinh và của các tăng sĩ có tiếng khác như Vimalamitra và
Vairocana. Phái Ninh-mã có những bí pháp quan trọng như Đại Du-già
(Maha-Yoga), A-nậu du-già (Anu-Yoga) và A-tì du-già (Ati-Yoga), Đại cứu kính
(Dzogchen). Hiện nay phép Đại cứu kính được một số lạt-ma truyền bá tại
phương tây.
Phái thứ ba là Tát-ca mà
tên Tây Tạng là Sakya. Sakya nghe ra gần giống với Sakyamuni (Thích-ca mâu
ni) nhưng thực ra không liên quan gì cả. Sakya trong Tạng ngữ có nghĩa
"đất xám", đất chưa được cày bừa canh tác. Phái này được thành lập
từ năm 1073, đó là năm mà đền Sakya nổi tiếng được xây dựng, theo khải thị của
A-đề-sa. Phái này nổi tiếng là nghiên cứu kinh sách nghiêm túc, biện luận xuất
sắc. Người luận giải quan trọng nhất có lẽ là Buton (1290-1364), kẻ đã xếp đặt
hệ thống kinh điển của Tây Tạng lại có thứ tự trong hai đại tạng Kanjur và
Tanjur. Kanjur và Tanjur được tất cả các giáo phái của Tây Tạng thừa nhận là
chính qui và có thẩm quyền chung. Buton lập ra hẳn một bộ phái tên là
Shalupa. Phái Tát-ca lại có thêm một yếu tố nữa là liên hệ đến chính trị và
triều đình Mông Cổ. Như ta đã biết, nhà vua Mông Cổ Hốt Tất Liệt hậu đãi một
vị tăng sĩ Tây Tạng như thần tiên, đó chính là Phát-tư-ba(Phagpa ,1235-1280),
một vị sư trưởng của phái Tát-ca. Hốt Tất Liệt phong cho trường phái Tát-ca
là kẻ nắm quyền Tây Tạng, điều đó xảy ra khoảng cuối thế kỷ thứ 13, đầu 14.
Chế độ tăng lữ có thể được xem bắt đầu từ đây và đó là thời gian mà Gyantse
được xây dựng, nó được xem là thủ phủ của Tây Tạng suốt một thời gian khoảng
80 năm. Tát-ca đóng vai trò quan trọng trong các thế kỷ sau và ảnh hưởng lên
cả Tông-khách-ba, người ra đời năm 1357 và cũng là người sáng lập ra phái thứ
tư, phái Cách-lỗ.
Đại sư Tông-khách-ba được
gọi là "nhà cải cách" vì là người soát xét lại toàn bộ kinh điển và
tổng kết thành quả của mình trong hai bộ luận chính: Bồ-đề đạo thứ đệ (Lamrim
Chenmo) và Chân ngôn đạo thứ đeä (Ngagrim Chenmo). Phái Cách-lỗ do
Tông-khách-ba sáng lập sau này và vì thế mà có tên "tân phái" trong
lúc ba phái kia được gọi là "cựu phái". Tăng sĩ phái Cách-lỗ đội mũ
vàng như Tông-khách-ba, chú trọng đến Luật tạng và giữ giới luật nghiêm minh.
Phép tu quan trọng của Cách-lỗ là cân đối giữa Chỉ và Quán để đạt Định, phát
triển trí huệ và bồ-đề tâm. Như ta biết các vị tăng sĩ trong dòng Đạt-lai và
Ban-thiền đều thuộc phái Cách-lỗ và kể từ cuối thế kỷ thứ 16, các vị Đạt-lai
nắm quyền chính trị trong tay, tương tự như các vị Tát-ca trong cuối thế kỷ
13.
Bốn tông phái nói trên của
Tây Tạng thật ra rất gần nhau về mặt lý thuyết cơ bản, họ tôn trọng và học hỏi
lẫn nhau. Cái khác của họ phần lớn là xuất phát từ những dòng truyền tâm, từ
những quan hệ riêng biệt giữa thầy trò, rất đặc trưng của Kim Cương thừa. Thật
ra tính đa nguyên tôn giáo đã có truyền thống lâu dài tại Tây Tạng. Cụ thể là
khi Hốt Tất Liệt đề nghị với Phát-tư-ba hãy cấm các tông phái khác hoạt động
thì Phát-tư-ba đã từ chối yêu cầu độc đoán đó, cho rằng điều đó không phù hợp
với "Pháp". Bản thân Tông-khách-ba cũng học tập với các vị sư trưởng
của phái Tát-ca. Vị Đạt-lai thứ năm, thuộc dòng Cách-lỗ nhưng rất gần với
phái Ninh-mã. Đó là những biểu hiện sinh động của lòng kính trọng lẫn nhau của
các giáo phái.
Vì thế tại Gyantse, trong
tổng thể Palkhor ta có ba tu viện của Shalupa, bốn của Tát-ca và chín của
Cách-lỗ. Đặc biệt ta tìm thấy chính điện rất lớn dành chung cho tất cả các
môn phái với rất nhiều khám thờ, được xây dựng năm 1418.
Tôi vào chính điện, đi
ngang trước những ngọn đèn mỡ trâu. Trên bàn thờ là từng nhóm bảy chén nước
theo cách cúng dường của người Tây Tạng, được xếp chỉnh tề. Một người phụ nữ
còn trẻ đang châm dầu vào đèn để ánh sáng không bao giờ tắt, đó là loại mỡ
trâu do họ tự mình chọn lựa và đi bộ đường xa đem tới tu viện. Đó là điều duy
nhất mà những người nghèo khổ Tây Tạng có thể cúng dường các bậc giác ngộ.
Lòng ân cần của họ đối với "Pháp" được thể hiện giản đơn như thế
nhưng nó quí hơn hành động của những kẻ bố thí hàng trăm lần nhiều hơn về vật
chất nhưng tâm thiếu tỉnh giác, lòng không rộng mở. Ra khỏi Lhasa, tôi càng mới
thấy rõ nước Tây Tạng rất nghèo, người dân không có gì hơn ngoài một niềm tin
tôn giáo mãnh liệt, một sự tự dâng hiến trọn vẹn. Ở trong mọi tu viện, nơi
đâu tôi cũng thấy những người tự nguyện đi châm dầu cho đèn được sáng mãi,
thay nước cho bàn thờ luôn luôn được thanh tịnh. Tại đô thị Gyantse đang tàn
tạ này, trong tu viện Palkhor đã bị cách mạng văn hóa phá hoại nặng nề này, vẫn
không bao giờ thiếu niềm tin đó.
|
Kumbum, Man-đâla vĩ đại
Gyantse còn có một công
trình mà không nơi nào trong cao nguyên mênh mông Tây Tạng có được, đó là đền
Kumbum, man-đa-la ba chiều vĩ đại. Đền Kumbum nằm bên cạnh Palkhor, có lẽ đây
chính là công trình xây dựng thu hút được một ít du khách đến Gyantse. Liệu họ
có biết ý nghĩa của ngôi đền Kumbum này không?
Đền này được xây dựng năm
1436 gồm có 9 tầng, 108 cửa và 77 khám thờ. Toàn bộ đền có khoảng 100.000
hình tượng Phật, Bồ-tát, hộ pháp..., nên nó được mệnh danh là "đền thập
vạn Phật". Đền được nghệ nhân Tây Tạng và Nepal xây dựng, nhìn từ xa người
ta thấy cặp mắt Phật, vẽ theo kiểu Nepal. Sở dĩ đền này được gọi là man-đa-la
ba chiều vì nó biểu diễn quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo Tây Tạng. Theo
Govinda [18],
các đền thờ Tây Tạng đều có năm phần, tượng trưng cho năm yếu tố xây dựng nên
vũ trụ. Phần dưới của đền hình khối, tượng trưng cho yếu tố "đất",
bền vững, ổn định. Đó là yếu tố của các chất đặc, nặng, là nền móng của mọi sắc
hình. Trên hình khối là hình cầu, có khi hình bán cầu. Hình cầu tượng trưng
cho yếu tố "nước", sự luân chuyển, sự di động. Ngược lại với đất,
nước có tính bất định và trôi chảy. Trên hình cầu là một hình nón cụt. Hình
nón cụt tượng trưng cho "lửa", dáng của nó giống ngọn lửa hướng về
phía trên. Trên hình nón cụt là những dĩa, mặt dĩa ngửa về phía trên, nhìn
ngang giống như hình bán cầu. Những dĩa tròn này tượng trưng cho
"gió" hay không gian. Cuối cùng nằm trên tất cả là một chấm tròn
hình nhọn như lửa tượng trưng cho "thức".
Thức chỉ là một chấm, khác
với bốn yếu tố khác, nó không có kích thước. Thức chứa đựng tất cả mà không bị
hạn chế trong dạng hình nào cả. Thức được biểu diễn bởi một chấm không có
kích thước vì nó là giao điểm giữa tầng mức vật chất với một mức độ khác mà
ta gọi là tâm linh.
Từ xa đền Kumbum cho thấy
nó được xây dựng theo kiến trúc nói trên. Hình khối phía dưới có năm tầng sơn
trắng. Phần hình cầu tượng trưng cho yếu tố nước được xây bằng hình ống tròn
với bốn cửa sổ. Phần trên là mái điện thếp vàng với bốn cặp mắt Phật nhìn ra
bốn phía. Tôi đi vào đền và biết trước mình sẽ không đủ dức tham bái hết 77
khám thờ, mà bản thân mỗi khám thờ lại là một man-đa-la.
Người nước ngoài vào thăm
đền hẳn sẽ lạc lối với hàng chục ngàn tranh tượng Phật, mỗi vị có một chút
khác biệt. Đối với họ chỉ có một vị Phật lịch sử Thích-ca mâu-ni. Phật tử tiểu
thừa hay cả đại thừa, trong số đó có tôi, cũng không dễ hiểu tất cả tranh tượng
ở đây. Thế nhưng nếu ta hiểu rằng, hệ thống "ba thân" - Pháp thân,
Báo thân và Ứng thân - trong Kim cương thừa đóng vai trò quan trọng bậc nhất
trong triết lý về vũ trụ của Phật Giáo Tây Tạng, ta có thể hiểu các tranh tượng
và man-đa-la trong đền Kumbum đều được xếp đặt có thứ tự. Cho nên, bên cạnh
quan niệm "năm yếu tố" trong công trình Kumbum đã nói ở trên, ta cần
hiểu đền này diễn tả thêm ba dạng xuất hiện của Phật tính trong ba thân, Ứng
thân, Báo thân và Pháp thân. Đó là lý do mà các sách vở ghi rằng, đi một vòng
Kumbum từ dưới lên trên là đi một vòng, từ vòng tử sinh luân hồi đến Niết-bàn.
Các tầng dưới cùng của điện
Kumbum diễn tả hình tướng các vị Phật và Bồ-tát trong dạng Ứng Thân, đó là
các vị đã sống thật trên trái đất này như Thích-ca mâu-ni và các đệ tử của
Ngài. Người ta có thể nhận ra điều đó qua áo quần, bình bát, cây bồ-đề...Các
bức bích họa diễn tả đời sống của Ngài cách đây 2500 năm. Kể cả các tiền kiếp
của Phật cũng được xếp vài loại Ứng thân.
Trên những tầng cao hơn là
dạng Báo thân của Phật. Đó là những hình tượng diễn tả các vị giác ngộ trong
một thế giới khác, trong các cõi Tịnh độ. Đó là hình ảnh của Phật trong kinh
Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa với vô số hào quang và bảo vật. Quan trọng
nhất, trong dạng Báo thân, các vị Phật xuất hiện thông qua những "mẫu
hình cơ bản" [19] của
vũ trụ. Đó là năm dạng cơ bản của tâm thức. Vũ trụ quan của Kim cương thừa quan
niệm mọi hiện tượng tâm vật trong thế gian đều được xếp thành năm "họ"
mà đứng đầu năm họ đó là năm vị Ngũ phương Phật. Nơi đây ta gặp hình tướng
năm vị Phật mà đại thừa ít nhắc tới, đó là các vị Đại Nhật, Bất Động, Bảo
Sinh, A-di-đà và Bất Không Thành Tựu. Các dạng này cần được hiểu như năm khía
cạnh của Phật tính, năm dạng này cũng như những màu của ánh sáng mặt trời bị
tách ra khi đi qua một lăng kính. Năm vị Ngũ phương Phật đó vì thế cũng có
năm màu sắc khác nhau. Lý do là màu sắc cũng như các loại hình cơ bản khác
như năm hướng, ngũ uẩn, năm trí, năm yếu tố (nói trong chương trước) đều được
xếp trong các họ đó. Quan niệm về các mẫu hình cơ bản là hết sức sâu sắc và
đóng vai trò quan trọng trong nền tâm lý học hiện đại.
Trên tầng cao hơn của Báo
thân là dạng Pháp thân với các hình tượng các vị A-đề Phật (Adibuddha) hay Bản
sơ Phật. Pháp thân thường được hình dung như một cái gì vô hình vô tướng,
không biến hoại. Thế nhưng đối với Kim cương thừa, Pháp thân có thể hóa hiện
thành các vị A-đề Phật để giáo hóa mà phái Ninh-mã gọi là Phổ Hiền, phái
Cam-đan gọi là Kim cương tát-đỏa (Vajrasattva) , phái Cách-lỗ gọi là Kim
cương trì (Vajradhara) . Trên tầng cao nhất của Kumbum ta thấy một bức tranh
trình bày Kim cương trì.
Đi từ dưới lên trên là đi
xuyên qua tất cả mọi dạng của đời sống, từ thực tại lịch sử trên mặt địa cầu
mà ai cũng thừa nhận, đến các tầng Báo thân mà chỉ có "cặp mắt thiện
nghiệp hi hữu" [20]
mới thấy được và cuối cùng là Pháp thân, thực tại tuyệt đối tối hậu vượt lên
thực tại qui ước, nằm ngoài mọi tri chứng.
Tôi thở nặng nề leo lên những
cấp bậc cuối cùng của Pháp thân, bước ra ngoài bao lơn và đứng trên chóp đỉnh
của Kumbum nhìn ra bốn phía. Gyantse nằm trên độ cao gần 4000m, cao hơn Lhasa
khoảng hơn 300m. Gyantse đã cao mà từ chân đền lên đây ta phải leo 32m nữa.
Khoảng cách đó là đoạn đường vô tận từ đời làm người cho đến Niết-bàn mà ngay
cả đức Thích-ca cũng tu học qua "vô lượng kiếp". Từ trên đỉnh
Kumbum ta lại thấy xung quanh là mênh mông những ngọn núi mà bản thân Gyantse
lại chỉ là thung lũng của sông Nyang Chu. Phía dưới chân tôi là đời làm người
với bụi và cát. Từ trên này tôi có thể thấy xe của du khách đang đậu chờ
chúng tôi và nhiều người Tây Tạng đang vây quanh bán đồ lưu niệm và xin tiền.
Tôi nhìn quanh và chợt thấy mình có lẽ là những người ít ỏi trong đoàn lên tới
đỉnh của Pháp thân, những người khác xem ra không ai muốn leo vì quá nhọc mệt.
Tôi không thể ở lâu trong
dạng Pháp thân. Chờ cho hơi thở trở lại bình thường, tôi lại leo xuống, thế
nhân đang chờ tôi.
|
Shigatse và dòng Ban-thiền Lạt-Ma
Nhìn bản đồ, ta thấy
Gyantse quả thật là ngã tư của nhiều con đường lữ khách. Cách Gyantse khoảng
300km về phía nam là Gangtok, thủ đô nước Sikkim. Từ Gyantse ta chỉ đi về
phía tây thêm 100km là đến Shigatse, đô thị lớn thứ hai của Tây Tạng. Từ
Shigatse mà đi về hướng tây nam thêm khoảng 500km là đến Kathmandu, thủ đô
Nepal. Mấy năm về trước tại Kathmandu tôi đã ngắm đường đi Tây Tạng, nào ngờ
hôm nay tôi đứng trên đất Tây Tạng nhìn về Nepal.
Thế nhưng hướng về miền
tây Tây Tạng, lòng tôi rộn rã không vì gì khác mà chỉ vì Ngân sơn [21],
nó còn cách Gyantse chỗ tôi đang đứng đến hơn 850km, chỗ đó là niềm mơ ước
nhiều năm nay của tôi. Tôi mơ ngày đến Ngân sơn lúc đứng tại cao nguyên Simla
tại Ấn Độ mười năm về trước. Đến Ngân sơn là đến núi Tu-di trên địa cầu. Đến
Ngân sơn là thăm trú xứ của thánh thần, là đến nơi sinh ra các sông thiêng
như sông Hằng của Ấn Độ, như sông Yarlung Tsangpo của Tây Tạng. Nếu đến được
đó tôi sẽ đi thêm khoảng 200km nữa là đến Tsaparang, kinh đô tàn tạ của vương
quốc Guge. Người ta không thể được tất cả, phải chăng phải còn một chỗ chưa đạt
tới để lòng còn mơ ước, tôi tự nhủ.
Đường từ Gyantse tới
Shigatse là một con đường đi qua một cao nguyên xanh tươi nằm trên độ cao
4000m, chạy dọc theo con sông Nyang Chu. Nyang Chu chỉ là một con sông nhỏ,
nước trong xanh. Tây Tạng là xứ thưa dân, xe chạy cứ cả vài chục cây số mới
thấy xuất hiện làng mạc ruộng đồng. Thỉnh thoảng vài tu viện đổ nát hay phế
tích nằm cao trên đỉnh đồi hiện ra như một tiếng gọi trầm mặc vang vọng từ
quá khứ. Đâu phải chỉ vương quốc Guge, tất cả các triều đại của Tây Tạng đều
đang tàn tạ.
Khoảng 20km trước khi đến
Shigatse ta có thể thấy tu viện Shalu. Tu viện này mới đầu được xây năm 1040,
có kiến trúc hỗn hợp của người Hán và Tây Tạng. Ngày nay ta còn thấy mái của
tu viện được lợp bằng một thứ ngói có tráng men xanh của đời nhà Nguyên, đó
loại ngói ta hay thấy tại các chùa của Trung Quốc. Ngói này cũng là loại ngói
tráng men của các cung điện xứ Huế. Dưới mái ngói này của tu viện Shalu thuộc
phái Tát-ca, Buton đã tu học và kết tập kinh điển thành các bộ Kanjur và
Tanjur. Trong tu viện Shalu này Buton cũng đã lấy tên của tu viện mà sáng lập
ra bộ phái Shalupa.
Xe đến Shigatse lúc trời
đã tối. Đây là đô thị lớn thứ hai sau Lhasa và bộ mặt của nó đang dần dần biến
thành một thành phố nhỏ của Trung Quốc với các sạp hàng với cửa cuốn bằng kim
loại. Lại những cơ quan nhà nước với hai người lính bồng súng trước cửa. Cách
đó không xa là các tiệm ăn, trước mỗi tiệm cũng có hai người Hán, nhưng là
hai cô gái đứng trước cửa mời chào chúng tôi.
Shigatse đã được xây dựng
trên một độ cao 3900m khoảng trong thế kỷ thứ 13. Shigatse có một tu viện nổi
tiếng, đó là Tashilhunpo, nó được kiến lập năm 1447. Tu viện này do các đệ tử
của Tông-khách-ba trụ trì. Nó nổi tiếng ở chỗ các sư trưởng đầu tiên của nó
chính là vị Đạt-lai thứ nhất và thứ hai và các vị sư trưởng thừa kế được gọi
là Ban-thiền lạt-ma. Khi vị Đạt-lai thứ năm lên ngôi thì vị thầy của ông tên
là Choki Gyeltshen (1475-1542) được phong làm Ban-thiền đời thứ tư. Vì Đạt-lai
là hiện thân của Quán Thế Âm nên Ban-thiền, thầy của Đạt-lai được xem là hiện
thân của A-di-đà. Các vị Đạt-lai và Ban-thiền được xem là đời đời làm thầy
trò của nhau, vị này ấn chứng cho vị kia khi một vị được khám phá là mới tái
sinh. Potala là cung điện của dòng Đạt-lai và Tashilhunpo là tu viện của dòng
Ban-thiền. Hai dòng đều có trách nhiệm giáo hóa của mình nhưng công việc
chính sự chỉ do các vị Đạt-lai nắm giữ. Thế nhưng trong thế kỷ hai mươi, với
sự có mặt của Trung Quốc, vấn đề không còn đơn giản như thế.
Tôi đến tu viện
Tashilhunpo, từ xa đã thấy mái điện mạ vàng sáng rực. Điện có nhiều công
trình, được bao bọc xung quanh bởi một lớp tường thành mà tín đồ Tây Tạng nào
cũng đi một vòng trước khi bước vào. Toàn thể công trình của điện chiếm một
diện tích 150.000 mét vuông. Điện được xây dựng để thờ Di-lặc, vị Phật tương
lai và vì thế trong chính điện ta thấy ngay bức tượng vĩ đại của Ngài với chiều
cao 27m, đúc toàn bằng đồng. Tôi yêu tượng Di-lặc của Tây Tạng hơn cách trình
bày Ngài của Trung Quốc. Mỗi lần đến đảnh lễ tượng Di-lặc của Tây Tạng tôi đều
nhìn lên để thấy cặp mắt xanh biếc đầy trí tuệ của Ngài. Tôi nhớ Ung Hòa cung
tại Bắc Kinh với bức tượng Di-lặc cao 18m đẽo từ một cây gỗ trầm hương. Nơi
đó Ngài đã nhắc tôi "không có gì được thành tựu hết". Đó là cách
nói của Ngài mà ngày nay ta sẽ nói một cách hiện đại là "không có gì tồn
tại trên cơ sở tự tính cả" [22]. Bức tượng tại Tashilhunpo cao hơn tại Ung Hoà cung, cặp mắt Ngài vẫn xanh
biếc, hình như nhìn ngắm những gì diễn ra tại Shigatse lịch sử này một cách
bí ẩn và hóm hỉnh. Vì rằng những gì xảy ra tại Shigatse cũng chẳng có tự tính,
tất cả đều dựa lên nhau mà thành.
Điều gì đã xảy ra tại
Shigatse và Tashilhungpo? Đã từ lâu Trung Quốc tìm cách chia rẻ hai dòng Đạt-lai
và Ban-thiền. Khoảng năm 1924 Đạt-lai thứ 13 và Ban-thiền thứ 9 có mâu thuẫn
với nhau, kể từ khoảng thời gian đó ta có thể nói Ban-thiền chủ trương thân
Trung Quốc, còn quan điểm của Đạt-lai là duy trì và phục hồi nền độc lập
chính trị của Tây Tạng. Khi Trung Quốc tiến quân vào Tây Tạng và Đạt-lai thứ
14 lưu vong đi Ấn Độ năm 1959 thì sau đó vị Ban-thiền thứ 10 cũng bị giam lỏng
tại Bắc Kinh. Đến năm 1978 Bắc Kinh bỗng nhiên tôn vị Ban-thiền lên làm phó
chủ tịch Quốc hội. Mưu kế đó không mới mẻ cho lắm, chẳng qua là một biện pháp
chính trị để giữ "mặt trận đoàn kết dân tộc". Tháng giêng năm 1989,
Ban-thiền được về lại Shigatse, đến tu viện Tashilhunpo để làm lễ tế tự cho
tháp mới xây của các vị Ban-thiền từ thứ 5 đến thứ 9. Trong buổi lễ đó, bỗng
nhiên Ban-thiền thứ 10 chết, lúc đó ông mới 51 tuổi. Ông ít khi được về lại
Tashilhunpo, nay về lại tu viện của mình sau khi bị giam lỏng và chết ngay tại
lúc tế tự các tiền thân của chính mình. Bí ẩn thay cái chết của ông. Về mặt
chính thức thì ông chết vì bịnh tim, nhưng ai biết được điều gì đã xảy ra.
Ngày nay tại Tashilhunpo
khách có thể đi thăm tháp thờ di cốt hai vị Đạt-lai thứ nhất và thứ hai, tháp
của các vị Ban-thiền thứ 5 đến thứ 9. Và kể từ khoảng 10 năm nay có thêm tháp
của vị Ban-thiền thứ 10 mà hình chụp của ông cho thấy là một người thông thái
và khỏe mạnh. Dưới chân Di-lặc bao nhiêu điều đã xảy ra, hẳn chỉ có Ngài mới
biết rõ. Đối với Di-lặc, cái chết hiển nhiên không phải là sự chấm dứt. Còn đối
với tôi, cái chết bí ẩn của Ban-thiền chỉ lập lại thêm một lần nữa, là Phật
giáo hãy xa rời triều đình và quyền lực, hãy bỏ lại đằng sau "tám bận
tâm thế gian" [23].
Sau khi Ban-thiền thứ 10
chết, dĩ nhiên người ta đi tìm thân tái sinh của ông. Theo nguồn tin chưa
chính xác, vị Đại-lai hiện nay đã xác định một thiếu niên sinh đầu những năm
90 là hậu thân của ông. Thế nhưng không ai tiết lộ thiếu niên này hiện đang ở
đâu vì lý do an ninh. Còn những người lãnh đạo Bắc Kinh cũng tuyên bố đã tìm
ra hậu thân của Ban-thiền thứ 10. Buồn cười thay, họ đâu tin có sự tái sinh
mà phải cất công đi tìm và ngày ngày phải lo cung dưỡng vị đó tại Bắc Kinh.
Ngày nay tại Tashilhunpo hình của thiếu niên đó do Bắc Kinh "ấn chứng"
được thờ như Ban-thiền thứ 11. Hỡi Di-lặc, cái nhìn của Ngài có gì bí ẩn và
hóm hỉnh?
|
Dọc sông Yarlung Tsangpo
Tôi hiểu tâm trạng của
nhiều người Tây Tạng khi họ không muốn rời miền cao nguyên của họ để xuống đồng
bằng. Và tôi cũng thể hiểu tại sao bà Alexandra David-Néel lúc tuổi đã 75 mà
vẫn còn đi Tây Tạng lần thứ ba. Vì lẽ gì mà xứ Tây Tạng quyến rũ con người đến
thế?
Xe chạy dọc theo Yarlung
Tsangpo, từ Shigatse về lại Lhasa. Đây là con đường mới, được gọi là
"new road", tôi đang từ giã hướng tây để trở lại phương đông. Tôi
ngoái nhìn lại lần cuối hướng tây, nơi Ngân sơn đang ngự trị, nơi vương quốc
Guge đang chờ tôi.
Tôi đã biết đoạn sông
Tsangpo miền đông nam Lhasa, nơi mà các nhà vua Tây Tạng đã một thời xây dựng.
Giờ đây tôi sẽ chạy khoảng trên 350km theo Tsangpo và xem con sông này sẽ biến
dạng thế nào trên cao nguyên trùng điệp những đá này. Tôi sẽ không thể đi hết
mấy ngàn cây số dọc Tsangpo được vì con sông này hiểm trở thế nào ta đã biết,
nhưng cũng vì Tây Tạng đất rộng người thưa, người đi trên đường còn không có,
làm gì có thuyền đi trên sông. Thật vậy, tôi không thấy một bóng thuyền nào cả
trên con sông này, kể cả trong những đoạn sông hết sức hiền hòa. Tôi nhớ đến
Trường Giang của Trung Quốc và chợt thấy mình so sánh sai lầm. Người Trung Quốc
đông đến mức họ phải sống trên sông hồ, còn tại Tây Tạng, thiên nhiên quá hào
phóng, đất đai quá bát ngát, con người lẫn dê trừu chỉ là một chấm nhỏ trong
cảnh quan vô tận. Đó là chưa kể thung lũng Yarlung Tsangpo tương đối đông
dân, còn những nơi khác như miền bắc, miền đông Tây Tạng thì sự tĩnh lặng là
âm thanh ngự trị thế giới. Cảnh quan vô tận, màu sắc rực rỡ trong một sự tĩnh
lặng đến nao lòng, không có nơi nào trên thế giới ta có thể tìm thấy sự tương
tự. Đó phải là ấn tượng ai ai cũng có khi đến Tây Tạng.
Có người dừng lại ở những ấn
tượng đó và vội tìm những cảm giác quen thuộc để tâm tư bớt hoảng sợ vì sự xa
lạ. Nhưng cũng có người sớm thấy rằng cảnh quan thiên nhiên bao la đó không
làm ta lo sợ hay bơ vơ mà dường như trời đất đến gần với ta hơn, thân tình
hơn. Đi thêm một bước, cảnh quan, màu sắc và sự tĩnh lặng, đó là con đường dẫn
ta đến một cánh cửa. Con đường đó không hề giản đơn và ngắn ngủi, nó có thể rất
dài và vì ta chưa đến nơi để mở cửa nên không mấy ai biết nó dài bao nhiêu.
Đó là cánh cửa của tâm linh, của ý thức được nâng lên và mở rộng. Tôi đoán
như thế thôi vì mình chưa hề đi được xa. Thế nhưng tôi biết, thiên nhiên rộng
mở làm ý thức ta lan tỏa. Màu sắc rực rỡ và thuần tịnh cho ta sớm biết, màu sắc
chính là những "mẫu hình nguyên thủy", những cánh cửa trực tiếp dẫn
vào sự chứng nghiệm. Sự tĩnh lặng đang ngự trị chỉ kéo ta về với nhận thức rằng
tất cả âm thanh đều là sự nhảy múa vô thường trên nền tảng bất di bất dịch
này.
Thế nên cảnh quan thiên
nhiên tuyệt diệu của Tây Tạng không chỉ làm hứng khởi tầm nghe nhìn của chúng
ta vốn thường bị mây mù, khói đục và tiếng ồn che phủ. Nó tích cực hơn, nó dẫn
đường mở lối cho nhận thức và ý niệm về cái miên viễn đang hiện hình trước mắt
ta. Tâm ta biết rằng cái miên viễn không phải đi tìm đâu xa, nó nằm ngay trước
mắt, nó hiện diện ngay trong lòng, chỉ mắt vướng bụi nên không thấy nó, chỉ
lòng chưa tỉnh nên không nhận ra nó. Nhưng cái miên viễn cũng không phải trần
trụi sờ sờ ra đó để ai cũng có thể ngắm nghía mà muốn tới với nó phải đi hết
đoạn đường phi hữu phi không, phải tự tay mở cánh cửa vô môn, phải nghe được
thứ tiếng không lời, phải vào chốn ẩn mật chỉ dành cho những người biết dâng
hết tâm ý, biết buông rơi chính mình. Cảnh quan Tây Tạng là bước khởi đầu,
không phải là đoạn kết thúc.
Con đường gọi là "new
road" này nhìn trên bản đồ tưởng như xa lộ nhưng thực ra chỉ là một con
đường nhỏ chạy dọc theo thung lũng Yarlung. Xe chạy khi gần khi xa mặt sông.
Có khi xe phải lội nước vì có một con suối nào do băng tan sinh ra, chảy từ
sườn Hy-mã ngang nhiên băng qua đường lộ để xuống sông Yarlung Tsangpo. Có đoạn
thung lũng hẹp lại, đường phải chạy trên sườn núi, dưới là sông. Và cũng có
khi đường chạy trên núi cao và dưới kia là hẻm núi, sông Yarlung Tsangpo bây
giờ nằm xa tít phía dưới như một giải lụa màu ngọc thạch. Dưới kia chính là
những "hiệp", chúng đẹp hơn, sâu hơn, hiểm yếu hơn cả Trường Giang
tam hiệp mà tôi từng biết. Thế nhưng tại sao những hẻm núi này không hề nổi
tiếng? Có lẽ vì con người ít tới đây quá, so gì được với dân Trung Quốc ở
Trường Giang. Những "hiệp" này thật ra là rất đẹp nhưng cảnh quan ở
Tây Tạng ở đâu cũng vô song, đó là lý do chúng không nổi tiếng. Nhưng tại sao
chúng phải nổi tiếng, cảnh quan thiên nhiên đâu phải để con người thừa nhận
và khen tặng. Thiên nhiên quá cao quí và con người bé nhỏ biết bao.
Xe dừng ở một thị trấn nhỏ
tên là Tadruka, chúng tôi xuống ăn trưa. Tadruka làm tôi nhớ những thị trấn
trên quốc lộ số 1 của Việt Nam, nó là chỗ ăn uống dọc đường cho lữ khách. Thị
trấn nằm bên sông Yarlung Tsangpo, phía trên là đường xe chạy, phía dưới là bến
phà qua bên bờ bắc của sông. Chủ quán rõ là một phụ nữ trẻ người Hán, chị có
nước da sáng trắng khác hẳn người Tây Tạng. Chị mừng quýnh khi thấy khách vô
cả loạt và thú thật với chúng tôi là phải chạy đi mua thức ăn. Chúng tôi có
thì giờ, người hướng dẫn đoàn nói. Chồng chị là một người Tây Tạng, anh lo
làm bếp. Chúng tôi tự nhiên vào bếp xem anh nấu nướng. Anh là người Tây Tạng
nhưng lại nấu theo kiểu Trung Quốc, chắc học cách làm bếp của vợ. Chỉ với một
cái nồi đáy tròn mà anh diệt gọn tất cả các món, chay mặn đều có, rau thịt
không thiếu. Từ chiếc nồi đó mà anh đem thức ăn bốc khói ngùn ngụt thẳng lên
bàn, trưa hôm đó chúng tôi có một bữa ăn ngon lành hiếm có. Những người dân
giã chân chất biết bao, người dân Hán hay Tạng có bao giờ chống nhau, họ là
những hình ảnh đẹp của con người sống thân ái và hạnh phúc. Ở đâu cũng thế,
thời nào cũng thế, những xung đột giữa các quốc gia, giữa các bộ tộc, giữa
các giáo phái đều do tham vọng quyền lực của những người lãnh đạo.
Từ tiệm ăn này mà nhìn qua
sông tôi lại thấy thăm thẳm những cao nguyên và núi đá, không có một bóng người,
dưới sông không thấy ai qua phà. Mặc dù tiệm ăn ồn ào tiếng cười nói nhưng sự
tĩnh lặng vẫn trùm khắp, hầu như tiếng ồn vội tắt ngay trong không gian bao
la này.
Không gian bao la và tĩnh
lặng nhưng không hề là sự chết vì màu sắc nơi đây quá sống động. Những màu sắc
rực rỡ này làm ta nghĩ đến màu các vị Phật trong dạng Báo thân. Tôi chợt nhớ
tại Tây Tạng, màu sắc là phương tiện để tạo linh ảnh, là cách để đi vào những
tầng tâm thức ẩn mật. Sắc đỏ là tượng trưng lòng từ bi. Sắc lục tượng trưng
cho sự an lạc, lòng vô úy, sự xả bỏ. Sắc vàng là màu của ánh mặt trời, là sự
tăng trưởng, lớn mạnh, sự già giặn sung mãn. Sắc xanh là màu của tri kiến, của
đại trí, của không gian mênh mông. Những màu sắc thuần tịnh này hầu như nhấc
ta khỏi thế giới của Ứng thân để đi vào Báo thân.
Vì những lẽ đó mà Phật
giáo Tây Tạng hay vận dụng phép tạo linh ảnh. Đối với người Tây Tạng, việc vận
dụng linh ảnh để biết trước những chuyện xảy ra trong tương lai, để biết chuyện
cách xa vạn dặm xem ra bình thường, họ không cho đó là cái gì huyền bí. Cảnh
quan và màu sắc trên cao nguyên này hầu như nằm giữa dạng Ứng thân và Báo
thân, con người sống trên đây hầu như thường xuyên qua lại giữa những tầng
tâm thức.
Cái miên viễn tuyệt diệu
mà người thường như tôi cảm thấy tại Tây Tạng phải chăng là mùi vị đầu của một
cái mà ta nói chữ là "Pháp thân" ? Tôi thì không bao giờ nghĩ mình
sẽ chứng được cái đó, thật ra tôi cũng chưa bao giờ muốn. Thế nhưng nếu người-đồng-bằng
tại Trung Quốc hay Việt Nam hình dung về Pháp thân một cách hết sức xa xôi và
trừu tượng thì xem ra Phật Giáo Tây Tạng nói về nó một cách khá cụ thể. Họ
xem Pháp thân là một điều có thể thực chứng được, có thể "thấy" được
nó, miễn là tu học đúng cách, miễn là có thầy hướng dẫn.
Báo thân và Pháp thân là
những điều quá xa vời đối với Phật tử thông thường. Nhưng tại Tây Tạng, nhiều
người cho rằng các đạo sư có trình độ có thể truyền linh ảnh cho những ai muốn
thấy Báo thân. Còn con người thì trong một đời làm người có thể chứng Pháp
thân. Đó là lý do tại sao Phật Giáo Tây Tạng có nhiều phép tu huyền bí, có
khi xa lạ đối với chúng ta.
Liệu bà Alexandra
David-Néel trở lại Tây Tạng lúc tuổi đã cao để chứng thực điều gì hay không
thì tôi không biết. Nhưng cảm nhận của tôi tại cao nguyên Tây Tạng là hết sức
rõ. Đó là một miền đất có một không hai trên địa cầu, nơi đó con người có đầy
đủ những yếu tố để sống một đời sống viễn ly, để nhìn vào bên trong, để mở rộng
những biên giới của ý thức và để vươn lên một mức độ tâm linh cao hơn. Liệu
những yếu tố đó chỉ do những tính chất địa lý vô song của Tây Tạng sinh ra
hay vì phần đất này nằm trong vòng ảnh hưởng tâm linh vĩ đại của những ngọn
núi ẩn mật, của những dòng sông thiêng liêng, của những vị giác ngộ đã sống
nơi đây, của những con người đang thiền định đâu đó trong khe núi vách rừng,
điều đó tôi không rõ.
Xe đã rời sông Yarlung
Tsangpo để ngược về phía bắc hướng về Lhasa. Tôi sắp rời Tây Tạng để trở về đồng
bằng. Nơi đó sẽ có một bầu khí quyển dễ thở hơn cho tôi nhưng phố phường chật
hẹp, mây mù và tiếng huyên náo của cuộc đời sẽ chờ đón tôi.
|
Giã từ Tây Tạng
Rồi cũng có ngày tôi
rời Lhasa, lên máy bay về lại Tứ Xuyên. Tôi nhớ G.Tucci, nhà Phật học và Tây
Tạng học người YÙ. Ông viết: "Từ Lhasa ra đi không giống như từ giã một
thành phố nào đó. Dễ trở lại một nơi nào bất kỳ, nhưng Lhasa là không thể đạt
tới, hầu như nó nằm ngoài thế giới này. Từ đó ra đi cũng như tan một giấc mơ
mà không biết rằng nó có trở lại không".
Lhasa ngày nay còn mong
manh hơn thế vì nó đang chết dần chết mòn. Những bước chân rầm rập của lính
tráng đang chôn vùi một nền văn minh độc đáo. Và không phải chỉ Lhasa thôi,
Shigatse, Gyantse cũng đang thay đổi, những đô thị khác mà tôi chưa tới được
hẳn cũng dần dần mất đi gia tài văn hóa của mình. Toàn cả nước Tây Tạng đang
từng ngày đáng mất quá khứ của mình, đang trở thành một "khu tự trị"
vô danh.
Ngắm nhìn điện Potala lần
cuối, tôi nhớ lại một lời tiên tri. Lời đó nói rằng vị Đạt-lai lạt-ma thứ 14
hiện nay là vị cuối cùng, sẽ không còn vị tái sinh nữa. Đạt-lai là rường cột
tinh thần của dân Tây Tạng mà nếu vị hiện nay đã trên 65, không còn vị nào
tái sinh nữa thì số phận Tây Tạng coi như an bài. Mà cũng đúng thay, làm sao
có ai lật ngược được tình thế của dân tộc Tây Tạng.
Ngày nay Trung Quốc đang
ngự trị Tây Tạng, họ ra sức xây dựng miền cao nguyên lạnh lẽo này để dễ đồng
hóa. Công bằng mà nói, người Trung Quốc xây đường sá rất giỏi. Tại Trung Quốc,
những nơi hẻo lánh và hầu như chỉ có khách Phật tử hành hương như Ngũ Đài
sơn, Cửu Hoa sơn đều được xây dựng cầu đường hết sức nghiêm túc. Tôi tới đảnh
lễ được những nơi đó là cũng nhờ họ và không quên, xây đường đắp cầu cũng là
một công đức lớn, theo quan điểm đạo Phật. Tại Tây Tạng, Trung Quốc xây dựng
nhiều công trình hạ tầng như đường xá, bệnh viện, trường học..., đó là điều
tôi không thể không nhắc tới.
Điều khách quan hiện nay
là Tây Tạng đã đi qua một hướng mới, người dân không thể trở lại đời sống cũ.
Tôi từng thấy tu sĩ Tây Tạng mang cả điện thoại di động thì làm sao quay lại
bánh xe lịch sử, nếu có ai muốn. Tôi nghĩ rằng nếu Đạt-lai có trở lại Tây Tạng
thì ông cũng không hề muốn dân mình sống một cuộc sống lạc hậu. Và nếu ông trở
về thì liệu ông và những người Tây Tạng theo ông có đủ trình độ chính trị và
kinh tế để đưa một dân tộc đi lên ?
Tôi không muốn lạc lối vào
những giả định vô bổ và cũng chẳng có "giải pháp" nào cho dân Tây Tạng.
Tâm tư của tôi có lẽ cũng giống như những người đã đi Tây Tạng, đó là tiếc
thương một nền văn minh thật sự độc đáo đang suy tàn. Hơn nữa đối với tôi, đó
không phải là một nền văn minh bất kỳ mà nó là kim cương thừa Phật giáo, nó
là bước phát triển tiếp của đạo Phật, sau tiểu thừa Ấn Độ và đại thừa Trung
Quốc. Và nếu đại thừa Trung Quốc thu liễm trong mình cả tiểu thừa Ấn Độ thì
kim cương thừa Tây Tạng dung chứa cả tiểu thừa lẫn đại thừa. Phật Giáo Tây Tạng
nói có lý rằng, tiểu thừa, đại thừa hay kim cương thừa đều là từng bước phát
triển cho mỗi cá thể. Phật giáo Tây Tạng là hiện thân đích thực của Kinh Pháp
Hoa mà Phật thuyết tại đỉnh Linh Thứu, tất cả các "thừa" đều là
phương tiện, là "lấy lá giả vàng" để dẫn độ chúng sinh.
Vì thế mà nền văn minh Tây
Tạng chết đi thì đối với tôi là Phật giáo đang suy tàn trên toàn thế giới. Tại
Ấn Độ như đã nói, Phật giáo đã diệt vong từ thế kỷ thứ 11, 12. Tại Trung Quốc
thời hoàng kim của Thiền Tông cũng bùng lên và tắt lụi cách đây đã nhiều thế
kỷ. Và tại Tây Tạng, có lẽ tôi đồng ý với Sangharakshita [24],
ông cho rằng đạo Phật sẽ diệt vong trong vài thế hệ nữa.
Nhưng, đức Thế Tôn cũng chẳng
đã nói, giáo pháp của Ngài cũng sẽ diệt vong như mọi chuyện trên đời. Cái gì
có sinh, cái đó có diệt, đó là qui luật. Còn cái vô sinh, cái miên viễn mà
trên cao nguyên này mà có lẽ tôi đã nếm chút mùi vị thì đâu cần còn đạo Phật
mới có nó. Nó đâu cần tên gọi, ta có gọi nó là Pháp thân, Phật tính hay Thượng
đế, Đại ngã hay bất cứ từ gì khác cũng được.
Đạo Phật có thể diệt vong
nhưng triết lý nhận thức và hành động của nó vẫn tồn tại, có thể dưới một tên
gọi khác, nó "được khám phá lại một cách mới mẻ" [25].
Nhận thức luận của nó vẫn tồn tại vì triết lý Tính Không của nó là ưu việt để
nói về cái miên viễn đó, không có nhận thức nào hơn. Triết lý hành động của
nó cũng còn tồn tại vì Bồ-tát đạo của Phật giáo là con đường không thể không
đi cho những ai có lương tâm. Vì thế nếu trong tương lai xa, nếu Phật giáo có
diệt vong thực, ta sẽ không ngạc nhiên nếu triết lý nhận thức và hành động đó
vẫn còn lưu truyền, dù người đi trình bày cho nó không hề biết mình là Phật tử,
không hề biết có một nhân vật lịch sử tên gọi là Thích-ca mâu-ni.
Ngày đó, người giảng pháp
Phật không hề mặc áo tu sĩ mà có thể là một nhà vật lý học hay sinh vật học.
Ngày đó người ta sẽ nói về "sắc" và minh họa nó bằng những hạt cơ bản
trong ngành vật lý hay bằng nhiễm sắc thể và Genom trong ngành sinh
vật. Cũng trong những ngày đó người ta sẽ thấy "không" một cách gần
gủi cụ thể như người Tây Tạng thấy Pháp thân và cũng có thể họ sẽ nói "sắc
chính là không, không chính là sắc" [26] .
Lời kinh của Đức Thích-ca
đã làm tôi bớt băn khoăn với tương lai đạo Phật và Tây Tạng. Đó phải là lý do
mà Di-lặc có cái nhìn bí ẩn và hóm hỉnh về những gì xảy ra dưới chân Ngài. Và
tôi nhớ lại, tại Bonn, Đạt-lai thứ 14 cũng cho thấy một đầu óc hài hước tinh
tế. Tất cả các vị đạo sư xưa nay đều nhìn cuộc đời với cặp mắt xanh biếc của
Di-lặc, bí ẩn và hóm hỉnh và hầu như nói, những gì ta đang có rồi cũng sẽ mất
nhưng những gì quí nhất thì vô thủy vô chung không bao giờ rời ta.
Máy bay lướt về hướng
đông, sau lưng tôi là Lhasa, là Ngân sơn, là Yarlung Tsangpo, ngày càng xa.
Tôi đang rời xa man-đa-la Ngân sơn mà tôi chưa được tới, đang xa man-đa-la
Kumbum mà tôi đã từng lên tận đỉnh Pháp thân. Có hề gì, ở đâu cũng có
"nó" nếu ta biết nhận thức, đó là bài học tôi mang về từ Tây Tạng.
Trước mặt tôi là Thành Đô
của tỉnh Tứ Xuyên. Tại nơi đó có một đỉnh núi mà tôi đã tới chiêm bái, đó là
Nga Mi sơn, trú xứ của bồ-tát Phổ Hiền. Tôi bất giác cảm tạ hành nguyện bao
la của Phổ Hiền, sẵn sàng cho bất cứ ai thực hiện nguyện ước của mình. Có thể
nhờ Phổ Hiền mà tôi đã đi được Tây Tạng.
Máy bay hạ cánh ở Thành
Đô, tôi thở một hơi dài nhẹ nhõm. Tiếng ồn ào tràn ngập sân bay và vô số con
người xuôi ngược trên đường. Tôi nhanh chóng về khách sạn. Trong gương soi mặt,
môi tôi đã bớt tím. Từ trong chiếc va-li rơi ra chai dầu gội đầu, bây giờ nó
đã xẹp lép vì áp lực không khí nơi đây quá cao.
Thay
lời kết: Mùi hương trầm
|
Tôi vẫn mơ một ngày
Tết Nguyên đán được về thăm quê, đi lại trên sườn núi Ngự Bình, giữa khí trời
se lạnh và nắng mới lên, tôi sẽ được ngửi mùi hương trầm bay phảng phất trong
gió.
Sau hơn nửa đời người tôi
đã nhận ra một điều là mùi, cái mà ta cảm nhận bằng mũi, là cái để lại
trong lòng sâu đậm nhất, hơn hẳn những gì ta nghe hay thấy. Hình như những cảm
quan càng khó nắm bắt bao nhiêu, chúng càng đậm đà bấy nhiêu mà mùi hương hẳn
phải thuộc vào loại đó. Và đối với tôi, mùi hương là thứ cảm quan theo tôi suốt
gần cả đời!
Hồi còn nhỏ gần nhà tôi có
một bà già bị điên. Hồi trước bà là người làm hương đem bán. Nhiều người kể
bà ta bị điên vì lấy chân chà xát bột hương. Tôi rùng mình ghi nhớ. Về sau
khi lớn lên tôi nghe ai kể, mùi hương trầm là thức ăn của quỉ thần, thắp
hương là mời các vị ấy đến, tôi nghe càng thấy sợ. Lớn lên, được biết rằng nếu
quỉ thần mà có thật thì tâm lý của họ cũng như con người, cũng muốn được mời
mọc tôn kính, tôi hết sự và thấy nơi cây hương là phương tiện tỏ lòng kính mộ.
Chỗ nào có thắp hương là chỗ đó có lòng trọng vọng. "Nguyện đem lòng
thành kính, Gửi theo vầng mây hương".
Hương nhang làm bằng gì
tôi không rõ nhưng nó rất khác nhau, nội màu cây hương đã khác, chưa nói đến
mùi thơm. Hương ở Huế có màu vàng sáng, của nơi khác trong nước màu đậm hơn. Ở
Ấn Độ hương hầu như màu đen. Tại Trung Quốc hương có mùi giống hương Việt
Nam, nhưng lạ thay, cây nào cây nấy to như que củi. Tôi vẫn hâm mộ hương của
người tàu, nghĩ hương họ làm phải rất thanh nhã, từng vòng nhang nằm như một
cái đĩa, xếp từng khoanh tròn. Hay loại hương trong đại lục Trung Quốc ngày
nay đã khác? Tại Lhasa Tây Tạng, hương có màu hơi đỏ nhưng không có chân, đốt
nó lên là cháy từ ngọn đến gốc. Mùi hương thì lại càng khác nhau, có mùi thơm
thoang thoảng thoát tục, có mùi đậm hơn, có mùi khác đầy hương thơm trần tục.
Thế nhưng tôi không dám chê, đâu phải dành cho mình mà phê bình,tôi tự nhủ. Cả
khi gặp những nơi người ta thắp hương quá nhiều, ai cũng than ngộp, tôi cũng
thấy không sao, đây đâu phải chỗ chơi đùa thoải mái, đây là chỗ giao tiếp giữa
thần và vật mà.
Do hay quí trọng hương,
tôi bất mãn khi mới đến Ấn Độ trong những dịp đầu tiên. Nơi đó người ta xem
ra ghiền mùi hương như bên ta có người ghiền dầu gió. Vào ngồi chiếc taxi cũ
kỹ của họ tôi đã thấy ngay cây hương. Có lúc tài xế biết ý, họ dập hương
nhưng mùi hương nặng nề này vẫn còn. Quỉ thần đâu đi taxi, tôi tự nhủ. Thế
nhưng khi thấy họ treo hình các vị thần Ấn Độ giáo, tôi sực nhớ tài xế xe đò
của ta cũng hay thắp hương cầu tai qua nạn khỏi, tôi lại thấy lòng trân trọng,
họ cũng cầu cho mình bình yên đó thôi.
Tôi nhớ bước đường lữ hành
đã đưa mình lên núi Linh Thứu ở Ấn Độ. Nơi đây không chỉ có quỉ thần tầm thường
thôi mà còn các vị đại Bồ-tát đã tụ tập nghe Phật giảng pháp và theo nhiều
người nói thì "hội Linh sơn" này còn đang tiếp diễn, người thường
như tôi không nghe thấy được. Tại buổi chiều đầy gió hôm đó, trên đỉnh núi
không cao hơn núi Ngự Bình bao nhiêu, tôi tiếc sao mình không có cây hương để
tỏ lòng thành kính với chỗ Phật Thích-ca đã từng sống sáu năm, chỗ mà mười ba
thế kỷ trước, Pháp Hiển, Huyền Trang lặn lội từ Trung Quốc đến đây, chỗ mà
các tăng sĩ Việt Nam cũng đã đến tham bái từ thế kỷ thứ tám. May thay vài sị
sư Thái Lan đang có mặt tặng tôi vài cây hương. Hương của họ không khác hương
ta bao nhiêu, hôm đó vầng mây hương bay tạt trong gió chiều, quả nhiên tôi
không nghe thấy được hội Linh sơn, chỉ nhận ra lòng xúc động của mình.
Lần sau đến Ấn Độ tôi đi
thăm Lâm-tì-ni, chỗ Phật sinh, lần này tôi có hương Việt Nam trong ba lô. Đi
vòng quanh đền thờ chỗ sinh Phật ngày nay chỉ còn nền gạch, tôi tìm cách cắm
hương và khám phá ra nền móng với các viên gạch đỏ thẫm đó không hề có một kẽ
hở để nhét chân hương vào. Về mặt xây dựng, các công trình này không phải tầm
thường, tôi tự nhủ, vì thế mà nó còn tồn tại tới ngày nay. Còn về tính chất
thiêng liêng thì chỗ này là thánh địa, quỉ thần tầm thường chắc không dám tới.
Tôi cắm hương trên thân cây gần đó, lòng thấy an lạc.
Vài ngày sau tôi đến vườn
Lộc Uyển, chỗ Phật "chuyển pháp luân". Đây là nơi gần thành phố
Varanasi quốc tế nên du khách rất đông. Một đoàn người Nhật đi chiêm bái đang
tụng kinh nhưng lạ thay họ không thắp hương. Tôi rút hương Việt Nam ra. Kinh
tiếng Việt tôi còn không thuộc nói chi tiếng Nhật nên chỉ biết đứng nghe tiếng
tụng du dương. Tôi đoán họ tụng kinh Vô ngã tướng, kinh mà Phật thuyết
đúng chỗ này. Tiếng tụng kinh tiếng Nhật hòa với khói hương Việt Nam bay
trong nắng sớm.
Đi Trung Quốc có chỗ nào
mà tôi không thắp hương. Từ Vân Cương thạch động miền tây bắc hiểm trở đến Phổ
Đà sơn nằm ngoài hải đảo phía đông nam xa xôi, tất cả đều là những công trình
to lớn của tiền nhân sống trước chúng ta hàng ngàn năm. Từ chùa Linh Aån ở
Hàng Châu đầy người cho đến đỉnh Nga Mi không khí loãng, ở đâu cũng đã có ai
xây dựng những bức tượng từ bi nhìn khói hương bay trong gió. Trên bước đường
đó tôi vái lạy tất cả, từ các vị Phật Bồ-tát cho đến các vị thánh nhân như
Lão Tử trên núi Thanh Thành hay Khổng Tử, vị vạn thế sư biểu. Xúc động biết
bao được thắp hương nơi Lưu Bị từ trần tại thành Bạch Đế hay trong đền Vũ Hầu
tại Tứ Xuyên, nơi thờ Khổng Minh, Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi, những con
người trung liệt cổ kim ít có.
Đến Tây Tạng, tại Jokhang,
tôi lại không có chỗ cắm hương trước tượng "Đức hạnh cao quí", chỉ
biết nhét cả bó vào một hông cửa sắt bên cạnh khám thờ. Tôi không đành đặt
hương trên mặt đất nhơm nhớp mỡ trâu Yak của điện thờ đức Thế Tôn. Quả nhiên
nền đất không sạch, sau khi đảnh lễ Ngài, đầu gối quần tôi có hai vết đen khó
giặt.
Có dịp đi nhiều vùng của đất
nước ta, tìm hiểu nơi chốn và lịch sử, có nơi nào mà tôi không thành kính và
vì thế hầu như chỗ nào tôi cũng thắp hương. Thắp hương ở Chùa Thầy để tỏ lòng
hâm mộ Từ Đạo Hạnh, người trong một đời mà từ bỏ hắc đạo để thành Phật thành
Tiên, nghe giống đời Milarepa của Tây Tạng. Thắp hương ở chùa Tây Sơn để tưởng
nhớ các vị Phật thời chiến tranh cũng phải đi sơ tán. Tại Tam Cốc, thắp nhang
trong một đền nhỏ thờ các nhà vua đời Trần, các nhà vua phi thường của dân tộc
đã để lại cho con cháu một bờ cõi xinh đẹp và một nền văn hóa thâm hậu.
Nhưng không phải chỉ những
danh tài xuất chúng của dân tộc mới đáng kính trọng. Làm nên sự nghiệp đó các
vị cần vô số những con người khuyết danh. Một ngày nọ tôi đi cùng với một người
bạn từ Hà Bắc về Hà Nội, chúng tôi rẽ qua một con đường ít người đi. Người bạn
đến thăm mồ người em vốn là chiến sĩ hy sinh được cải táng trong một nghĩa
trang liệt sĩ nơi đây. Vì cải táng anh không biết chính xác đâu là mồ em
mình. Vì thế chúng tôi thắp hương cho mấy chục cái mồ khuyết danh, không bỏ
sót ai, ai cũng là anh em cả. Đó là một chiều mưa, trong bóng tối, hương đỏ rực
cả một triền núi, mùi thơm lan tỏa mười phương. Tôi nghe người anh ngậm ngùi
kể về em mình và bỗng thấy rằng mùi hương không chỉ chuyển lòng thành kính của
người đến quỉ thần mà đó là chiếc cầu nối làm bằng tình thương và tình thương
mới là cái chủ yếu. Đối với tôi thì chiến sĩ tử trận, dù trong chiến tuyến
nào, họ cũng đều đáng kính trọng cả. Trên cương vị và hoàn cảnh của mình, họ
đã chiến đấu quên mình và anh dũng cho niềm tin và lý tưởng của họ.
Nhưng tại sao chỉ loài người
mới là anh em. Trong những chuyến đi dài, nếu có dịp thì am miếu sơn thần thủy
quái cũng được tôi gửi lời chào hỏi. Lần nọ tại vịnh Hạ Long, đi thuyền thúng
vào một chiếc hồ con, tôi lên bờ vái chào một chiếc miếu hiu quạnh. Lần đó có
hai người nước ngoài đi theo, thấy chúng tôi làm thế họ cũng bắt chước xá
chào thành kính. Quỉ thần nước Nam thấy người Âu tôn kính mình chắc cũng
không khỏi lấy làm thú vị.
Vừa qua đến lại lăng Tự Đức
xứ Huế, tôi thấy gần đó người ta sản xuất và phơi hương đầy ngõ, màu sắc rực
rỡ. Hương được hong từng bó lớn, chân bị buộc chặt, thân xòe ra phơi nắng.
Màu vàng sáng của hương xứ Huế làm ta thoạt nhìn tưởng như những đóa cúc vàng
cực lớn. Tôi hỏi chuyện làm hương phơi hương rồi giả vờ hỏi: "Đây có ai
chà hương bằng chưn không đó?". "Có mà điên", mọi
người trố mắt nhìn tôi, chắc họ rủa thầm.
|
[1] -
Sinh năm 1543, mất năm 1588
[2] - Xem chương "Ung Hoà cung và tiểu truyện Trung Quốc-Tây Tạng" trong phần thứ ba [3] - Trích "Lịch sử Phật giáo thế giới", tập I, Thánh Nghiêm pháp sư (Đài Loan), Nhà xuất bản Hà Nội, 1995 [4] - Sinh năm 1617, mất năm 1682 [5] - Bạn đọc có thể tham khảo thêm cuốn "Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama" (Mười bốn lần tái sinh của Đạt-lai lạt-ma) của K.H.Golzio và P.Bandini, Scherz Verlag, 1997 [6] - Gampopa dịch âm là Đạt-bảo Cáp-giải (1079-1153) [7] - Yuan, đơn vị nhân dân tệ, mỗi đô-la Mỹ trị giá khoảng trên 8 "nguyên" (năm 2000) [8] - Một đạo sư quan trọng của dòng Ninh-mã, sinh 1808, mất 1887 [9] - Xem thêm "Tibetan Buddism" của Sangharakshita, sách đã dẫn [10] - Nội dung của Thangka thường thấy tại Tây Tạng, trong đó vòng tròn "mười hai nhân duyên" nằm trong sự kềm tỏa của quỉ sứ [11] - Tranh vẽ trên giấy hay lụa của Tây Tạng. Nội dung của tranh thường là hình tượng Phật, Bồ Tát, hộ pháp, man-đa-la. [12] - Xem "Sư tử tuyết bờm xanh", sách đã dẫn [13] - Mahasiddha. Chuyện về 84 vị thành tự giả có thể tìm thấy trong "Từ điển Phật Học", nhà xuất bản Thuận Hoá 1999. [14] - Mahamudra, một trong những giáo pháp tối thượng của Kim Cương thừa, được truyền dạy trong phái Ca-nhĩ-cư [15] - "The six Yogas of Naropa", đã được Thích Nữ Trí Hải dịch ra Việt ngữ, California 1997 [16] - Tổ thứ hai là Naropa, sơ tổ là Tilopa, thầy của Naropa [17] - Dakini. Theo mật thừa Ấn Độ và Tây Tạng, Dakini là các vị thần nữ bảo hộ cho hành giả tu tập Mật tông. Thể nhập vào cõi của Dakini là thoát khỏi sinh tử nhưng chưa hoàn toàn giác ngộ [18] - Govinda, Grundlagen tibetischer Mystik (Cơ sở mật tông Tây Tạng), Scherz Verlag 1994 [19] - Trong các sách nghiên cứu phương Tây ta hay gặp từ "Archetype"để chỉ các mẫu hình cơ bản này. Từ này do nhà tâm lý học C.G.Jung nêu lên đầu tiên [20] - Đoạn văn thường thấy trong kinh sách [21] - Kailash, xem chương "Tháng ngày ấp ủ" trong phần thứ nhất [22] - Phạn ngữ: svabhavasiddhi (siddhi: thành tựu), Anh ngữ: inherent existence. [23] - "Bát phong": Được, mất; vinh, nhục; khen, chê; vui, khổ. Thơ Hàn Sơn "Bát phong xuy bất động" (Tám gió thổi chẳng động). [24] - Sách đã dẫn. [25] - Schumann trích lời đức Phật. Xem chương "Từ Linh sơn nhớ về Yên Tử" trong phần hai. [26] - Lời trong Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm Kinh. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét