Thứ Hai, 28 tháng 3, 2016

Thơ phổ nhạc - “Chuyện tình Hoa mai”, “Bướm trắng” - Nguyễn Bính và Anh Bằng

Thơ phổ nhạc - “Chuyện tình Hoa mai”, “Bướm trắng” - Nguyễn Bính và  Anh Bằng

“Chuyện Tình Hoa Mai” (“Người Con Gái Ở Lầu Hoa”), “Bướm Trắng” (Cô Hàng Xóm”) của Thi sĩ Nguyễn Bính và Nhạc sĩ Anh Bằng.

Thi sĩ Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính (1918–1966); là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng. Ông được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc.
Thi sĩ Nguyễn Bính sinh ngày 13-2-1918, tức mồng ba Tết năm Mậu Ngọ tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định).
Cha của ông tên là Nguyễn Đạo Bình, làm nghề dạy học, còn mẹ ông là bà Bùi Thị Miện, con gái một gia đình khá giả. Ông bà sinh được ba người con trai là Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường), Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Trọng Bính.
Bà Miện bị rắn độc cắn rồi mất năm 1918, lúc đó bà mới 24 tuổi. Để lại cho ông Bình ba đứa con thơ, khi đó Nguyễn Mạnh Phác mới sáu tuổi, Nguyễn Ngọc Thụ ba tuổi và Nguyễn Bính mới sinh được ba tháng. Đúng như câu thơ ông viết:
Còn tôi sống sót là may
Mẹ hiền mất sớm trời đày làm thơ

Thi sĩ Nguyễn Bính (1918 – 1966)
Bà cả Giần là chị ruột của mẹ ông, nhà bà lại giàu có, nên bà cùng ông Bùi Trình Khiêm là cậu ruột của ông và là cha của nhà văn Bùi Hạnh Cẩn, đón ba anh em ông về nuôi cho ăn học. Nguyễn Bính làm thơ từ thuở bé, được cậu Khiêm khen hay nên rất được cưng.
Năm 13 tuổi Nguyễn Bính được giải nhất trong cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng với sáng tác:
…Anh đố em này:
Làng ta chưa vợ mấy người?
Chưa chồng mấy ả, em thời biết không
Đố ai đi khắp tây đông,
Làm sao kiếm nổi tấm chồng như chúng anh đây?
Làm sao như rượu mới say,
Như giăng mới mọc, như cây mới trồng?
Làm sao như vợ như chồng?
Làm sao cho thỏa má hồng răng đen
Làm sao cho tỏ hơi đèn?
Làm sao cho bút gần nghiên suốt đời?
Làm sao? anh khen em tài?
Làm sao? em đáp một lời làm sao… ?
Trúc Đường thi đỗ thành crung (đíp-lôm) vào loại giỏi ở Hà Nội, rồi dạy học trong một trường tư thục ở Hà Đông, Trúc Đường bắt đầu viết văn và làm thơ. Ông đón Nguyễn Bính lên và truyền đạt cho Nguyễn Bính văn học Pháp. Cuộc đời của Nguyễn Bính gắn bó với Trúc Đường cả về văn chương và đời sống.
Năm 1932, 1933 Nguyễn Bính có theo người bạn học ở thôn Vân lên Đồng Hỷ, Thái Nguyên dạy học, có lẽ những vần thơ như:
Cỏ đồi ai nhuộm mà xanh
Áo em ai nhuộm mà anh thấy chàm
Da trời ai nhuộm mà lam
Tình ta ai nhuộm ai làm cho phai
Là được Nguyễn Bính viết trong thời gian này.
Bài thơ của ông được đăng báo đầu tiên là bài “Cô Hái Mơ”. Năm 1937 Nguyễn Bính gửi tập thơ “Tâm Hồn Tôi” tới dự thi và đã được giải khuyến khích của nhóm Tự lực văn đoàn. Họa sĩ Nguyệt Hồ nhớ lại:
“Tôi quen Nguyễn Bính từ khi anh chưa có tiếng tăm gì, ngày ngày ôm tập thơ đến làm quen với các tòa soạn báo. Tôi thích thơ anh và đã giới thiệu anh với Lê Tràng Kiều, chủ bút Tiểu thuyết Thứ Năm, đã đăng bài “Cô hái mơ”, bài thơ đầu tiên của anh đăng báo. Tôi khuyên anh gửi thơ dự thi, và anh đã chiếm giải thưởng của Tự Lực Văn Đoàn… chúng tôi thân nhau từ đó, khoảng 1936-1940, quãng đầu đời thơ của anh,…
Từ năm 1940, Nguyễn Bính bắt đầu nổi tiếng với số lượng thơ khá dày, đề tài phong phú, trong đó chủ yếu là thơ tình. Cũng trong năm này Trúc Đường chuyển ra Hà Nội ở và đang viết truyện dài Nhan sắc, Nguyễn Bính tỏ ý muốn đi Huế tìm đề tài sáng tác. Trúc Đường tán thành nhưng không có tiền, ông đã cho Nguyễn Bính chiếc máy ảnh và về quê bán dãy thềm đá xanh (vật báu duy nhất của gia đình) đưa tất cả số tiền cho Nguyễn Bính.
Vào Huế Nguyễn Bính Gửi thơ ra cho Trúc Đường đọc trước, rồi đăng báo sau. Cuối năm 1941, đầu năm 1942, Trúc Đường nhận được nhiều bài thơ của Nguyễn Bính trong đó có: “Xuân tha hương” và “Oan nghiệt”. Sau đó Nguyễn Bính lại trở về Hà Nội, rồi lại đi vào Sài Gòn.
Lần chia tay cuối cùng với Trúc Đường là vào năm 1943, đến năm 1945 tin tức thưa dần. Năm 1946 thì mất liên lạc hẳn. Trong thời gian này Nguyễn Bính đã gặp nhà thơ Đông Hồ, Kiên Giang. Có lúc ông cư ngụ trong nhà Kiên Giang. Đó là thời ông viết những bài ‘Hành Phương Nam’, tặng Kiên Giang, ‘Từ Độ Về Đây’,…”
Thi phẩm “Người Con Gái Ở Lầu Hoa” 
Thi sĩ Nguyễn Bính
Nhà nàng ở gốc cây mai trắng
Trên xóm mai vàng dưới đế kinh
Có một buổi chiều qua lối ấy
Tôi về dệt mãi mộng ba sinh
Tôi rót hồn tôi xuống mắt nàng
Hồn tôi là cả một lời van
Tôi van nàng đấy! Van nàng đấy!
Ai có yêu đương chả vội vàng?
Tôi rót hồn tôi xuống dã nhiều
Hồn tôi còn có được bao nhiêu?
Tôi đi sợ cả lời tôi nói
Sợ cả gần nàng, sợ cả yêu
Nàng có bao giờ nghĩ đến không?
Không, nàng đan áo suốt mùa đông
Mùa xuân qua cửa, tôi qua cửa
Nàng chả nhìn cho, đến não nùng!
Tôi mỉa mai tôi, oán trách tôi
Làm sao tôi lại cứ câm lời?
Thì trăm con gái, nghìn con gái
Nàng cũng là người con gái thôi
Có một nghìn đêm tôi chiêm bao
Ba đêm nay khóc với mưa rào
Ddêm nay mắt đỏ rồi, mưa tạnh
Tôi khóc âm thầm dưới bóng sao
Nàng ở lầu hoa ở đệm bông
Có đêm nào nghĩ đến tôi không?
Không không, chả có đêm nào cả
Chả có đêm nào hé cánh song…

Thi khúc “Chuyện Tình Hoa Mai” 
Nhạc sĩ Anh Bằng
Nhà nàng ở gốc cây mai trắng,
Trên xóm mai vàng dưới đế kinh.
Có một buổi chiều qua nơi ấy,
Tôi về dệt mãi mộng ba sinh.
Tôi rót hồn tôi xuống mắt nàng.
Hồn tôi là cả một lời van.
Tôi van nàng đấy! Van nàng đấy!
Ai đã yêu đương chẳng vội vàng?
Nàng có bao giờ thương nhớ tôi không
Tình tôi tựa tuyết giá mùa đông
Mùa xuân mai nở tôi qua cửa
Nàng đứng nhìn hoa rất lạnh lùng
Một chiều lặng lẽ tôi dạo phố
Qua xóm mai vàng dưới đế kinh
ngỡ ngàng tiếng nàng ru đâu đó
tiếng ru à ơi buồn mông mênh
Cho đến một hôm giữa phố đông
Chợt trông kìa có phải nàng không
Ôm mai trìu mến như hình bóng
Không lẽ hoa mai đã lấy chồng…

Thi phẩm “Cô Hàng Xóm” 
Thi sĩ Nguyễn Bính
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn,
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.
Giá đừng có dậu mùng tơi,
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng…
Có con bướm trắng thường sang bên này.
Bướm ơi ! Bướm hãy vào đây!
Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi…
Tại sao không thấy nàng cười,
Khi hong tơ ướt ra ngoài mái hiên.
Mắt nàng đăm đắm trông lên…
Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi!
Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi,
Tôi buồn tự hỏi: “Hay tôi yêu nàng?”
— Không, từ ân ái lỡ làng,
Tình tôi than lạnh tro tàn làm sao?
Tơ hong nàng chả cất vào,
Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sang.
Mấy hôm nay chẳng thấy nàng,
Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong.
Cái gì như thể nhớ mong?
Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nàng!
Vâng, từ ân ái lỡ làng,
Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa.
Tầm tầm trời cứ đổ mưa,
Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm.
Cô đơn buồn lại thêm buồn,
Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi?
Hôm nay mưa đã tạnh rồi!
Tơ không hong nữa, bướm lười không sang.
Bên hiên vẩn vắng bóng nàng,
Rưng rưng… tôi gục xuống bàn rưng rưng…
Nhớ con bướm trắng lạ lùng!
Nhớ tơ vàng nữa, nhưng không nhớ nàng.
Hỡi ơi! Bướm trắng tơ vàng!
Mau về mà chịu tang nàng đi thôi!
Ðêm qua nàng đã chết rồi,
Nghẹn ngào tôi khóc… Quả tôi yêu nàng.
Hồn trinh còn ở trần gian?
Nhập vào bướm trắng mà sang bên này

Thi khúc “Bướm Trắng” 
Nhạc sĩ Anh Bằng
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,
Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn.
Hai người sống giữa cô đơn,
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có dậu mồng tơi,
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng…
Có con bướm trắng thường sang bên này.
Bướm ơi! Bướm hãy vào đây!
Cho ta hỏi nhỏ câu này chút thôi…
Tại sao không thấy nàng cười,
Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên.
Mắt nàng đăm đắm trông lên…
Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi!
Hôm nay mưa đổ sụt sùi
Tơ không hong nữa bướm lười không sang
Bên hiên vẫn vắng bóng nàng
Rưng rưng tôi gục xuống bàn rưng rưng.
Dưới đây mình có các bài:
NHỮNG NGƯỜI TÌNH TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH
Người Hàng Xóm
Cùng với 7 clips tổng hợp thi khúc “Chuyện Tình Hoa Mai”, “Bướm Trắng” do các ca sĩ trong nước và hải ngoại diễn xướng để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
(Theo Wikipedia)
NHỮNG NGƯỜI TÌNH TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH
(Đào Đức Nhuận)
Nguyễn Bính, nhà thơ nổi tiếng của Phong Trào Thơ Mới từ những năm 1936 đã tự xác nhận tâm hồn mình đối với tình yêu:
Yêu, yêu, yêu mãi thế này
Tôi như một kẻ sa lầy trong yêu
(Lòng Yêu Đương)
Mẹ cha thì nhớ thương mình,
Mình đi thương nhớ người tình xa xôi.

(Thư Gửi Thầy Mẹ)
Chàng tha thiết kêu gọi những “đấng tình lang” hãy cùng chàng làm một việc mà chưa có một người nào trên thế gian nầy dám nghĩ đến:
Ai yêu như tôi yêu Nàng
Họp nhau lại, họp thành làng cho xinh
Chung nhau dựng một tràng đình
Thờ riêng một vị thần linh là Nàng!

(Lòng Yêu Đương)
Và quả thực Nguyễn Bính đã “sa lầy trong yêu” và bao nhiêu là người yêu đã xuất hiện trong thơ của chàng:
Có thể là một người tình chỉ có trong tưởng tượng:
Cô nhân tình bé của tôi ơi
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười…
(Ghen)
Có thể là một cô gái nhà bên kia – “cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn”- yêu trong câm nín, để rồi:
Đêm qua nàng chết thật rồi,
Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng.
(Người Hàng Xóm)
Có thể là một cô gái – “tôi với nàng tuy không biết nhau”- thế nhưng khi nàng từ trần, chàng lại thấy rằng mình đã yêu:
Nước mắt chạy quanh tình thắt lại,
Giờ đây tôi khóc một người về
Giờ đây tôi thấy hồn cay đắng
Như có ai mời chén biệt ly.
(Viếng Hồn Trinh Nữ)
Hay có thể chỉ là một người yêu trong mộng:
Cô chẳng bao giờ biết đến tôi
Mà tôi dan díu mấy đêm rồi
Mấy đêm dan díu người trong mộng
Mộng tỉnh, canh tàn, lệ ướt rơi
(Nhặt Nắng)
Không kể những mối tình thoáng qua, những mối tình của một thời tuổi nhỏ không mấy đậm nét trong cuộc đời tình ái của chàng như kiểu “mối tình” (?) với một cô Nhi bé bỏng ở quê ngoại ngày xưa:
Xa lắm rồi Nhi, muộn lắm rồi
Bẽ bàng lắm lắm nữa Nhi ơi !
Từ ngày Nhi bỏ nơi làng cũ
Mộng ngát duyên lành cũng bỏ tôi !
(Hoa Và Rượu)
thì, mối tình đầu làm ray rứt hồn thơ của Nguyễn Bính nhiều hơn cả, có lẽ là mối tình câm với cô nữ sinh tên Oanh mà chàng thường gọi là “cô Oanh sông Nhuệ”. Vâng, đó là một mối tình câm, mối tình một chiều, mối tình mà chàng chỉ biết thầm yêu trộm nhớ để cuối cùng nhận lấy nỗi tuyệt vọng chua cay:
Tâm hồn tôi là bình rượu nhỏ,
Rót lần, rót mãi xuống nàng Oanh.
Không xua tay nhưng nàng đã vô tình
Hắt ly rượu hồn tôi qua cửa sổ…

(Tâm Hồn Tôi)
Tuy chỉ là một mối tình không được đáp đền một cách xứng đáng, thế nhưng, cũng chính từ mối tình tuyệt vọng đó, Nguyễn Bính đã sáng tác nên tập thơ TÂM HỒN TÔI. Vì không nói được với người mình yêu những gì mình muốn nói, nên Nguyễn Bính đã viết tập văn xuôi NGẬM MIỆNG để giãi bày với người mình yêu mối tình tuyệt vọng của mình.
Rồi thời gian cứ vô tình lặng lẽ trôi qua. Và thời gian cũng xóa đi cho Nguyễn Bính nỗi hận tình chua xót để sau này, khi nhắc đến Oanh, chàng đã nhắc đến tên nàng bằng một nỗi hờ hững đến vô tình:
Nhớ Oanh tôi nhớ cô Oanh
Xa xôi cách trở hỏi tình thắm phai?
Hay:
Nghỉ học cô Oanh lòa một mắt,
Lấy chồng chị Trúc bó hai tay!
Thế rồi, năm 1937, tập thơ Tâm Hồn Tôi của Nguyễn Bính nhận được giải thưởng khuyến khích về Thơ của Tự Lực Văn Đoàn.
Năm 1939, tập thơ Bức Tranh Quê của nữ sĩ Anh Thơ cũng nhận được giải thưởng khuyến khích về Thơ của Tự Lực Văn Đoàn.
Hai thi tài đó đã gặp nhau.
Nguyễn Bính và Anh Thơ có nhiều điểm giống nhau: cùng được học ở trường rất ít, cùng có tài về thơ và dòng thơ của họ cùng mang nhiều hình ảnh quen thuộc của đồng quê xứ Bắc.
Và hai tâm hồn thơ đó đã yêu nhau. Họ yêu nhau tha thiết. Hẳn vậy. Có một bận, nàng từ Bắc Giang về thăm Hà Nội. Họ gặp gỡ nhau. Tâm sự. Rồi nàng trở lại quê. Chàng buồn nhớ không bút nào tả xiết:
Biết lối nào lên tới xứ nàng?
Để người Hà Nội nhớ mang mang
Nàng đi Hà Nội buồn như chết
Hà Nội buồn như một lỡ làng!

(Một Lần)
Rồi những cánh thư tình nồng cháy yêu đương. Rồi những lời thề non hẹn biển. Và có một lần, nàng đã để lại trên má chàng vết son môi của một nụ hôn nồng cháy. Các bạn chàng kể lại rằng chàng đã không rửa mặt nhiều ngày vì chỉ sợ mất đi vết son môi của người yêu thơ mộng:
Có một trai hiền, một gái xinh
Ngang qua, chừng giữa chuyện ân tình
Trai cười: “Bữa ấy mình toan giữ
Mãi dấu môi son trên má mình!”

(Nhớ Người Trong Nắng)
Ấy vậy mà rồi họ phải đành đoạn chia tay. Tại sao? Tại vì chàng nghèo quá! “Nghèo”! Cái lý do sao mà cay nghiệt! Phải “môn đăng, hộ đối”! Do vậy mà nhà nàng không muốn kén khách đông sàng là một chàng thi sĩ kiết xác:
Có gì tiếng cả nhà thanh
Cơm ăn đủ bữa, áo lành đủ thay
Còn tôi sống sót là may
Mẹ hiền mất sớm, giời đày làm thơ.
Con tằm được mấy tiền tơ
Chao ôi, mà ước mà mơ lấy nàng!

(Nhà Tôi)

Thế là nàng đang tâm bẻ một chữ đồng làm đôi! Nguyễn Bính nhớ lại những lời thề non hẹn biển. Có lẽ họ đã thề thốt nặng lời – nhất là nàng:
Ai thề như mới hôm qua
Lấy nhau không được chẳng thà chết đi!
Quên lời thề ước, nàng bước lên xe hoa về nhà chồng. Nàng đã bước qua con tim tan nát của Nguyễn Bính để về “nâng khăn sửa túi” cho một “ông thầy thuốc”! Cái con người hiền lành làm vậy mà trước nỗi tuyệt vọng kinh hoàng đã làm những câu thơ thật chua cay để gởi cho người hơn một lần chàng đã yêu tha thiết và cũng đã được nàng yêu tha thiết:
Những tưởng trăm năm đến chết thèm
Ai ngờ chấm dứt chuyện kiêng khem!
Bài thơ kẹp chặt vào đơn thuốc,
Hũ mực phun đầy cả ống tiêm
Chị sắp lên râu làm chức mẹ
Anh mà xuống nước đóng vai em!
Bấy lâu bịt chặt lầu thơ lại
Nay bức tranh quê đã vén rèm!
Những lời thơ “tai quái” quá! Những ý thơ “ác” quá! Nàng không thể chạy trốn vào đâu được:
Bài thơ kẹp chặt vào đơn thuốc
Hũ mực phun đầy cả ống tiêm!…
Nay bức tranh quê đã vén rèm!
Bức Tranh Quê là tên thi phẩm được giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn của Anh Thơ! Tục chăng? Thanh chăng? Có lẽ vì bài thơ “quái ác” nầy mà sau nầy, khi viết hồi ký về đời mình, nữ sĩ Anh Thơ đã hoàn toàn phủ nhận mối tình đầu của bà với nhà thơ Nguyễn Bính!
Nhưng dù sao thì mối tình nồng thắm cũng nhiều, tuyệt vọng đắng cay cũng lắm đó đã gợi hứng cho Nguyễn Bính hoàn thành thi phẩm HƯƠNG CỐ NHÂN. Và có những điều trong thơ không thể nói hết về mối tình nầy, chàng đã lại phải mượn văn xuôi để giãi bày nguồn tâm sự sâu kín của mình, đó là tập đoản văn HAI NGƯỜI ĐIÊN GIỮA KINH THÀNH HÀ NỘI.
Quả thực, Anh Thơ đã để lại trong cuộc đời tình ái của Nguyễn Bính một vết thương khá đậm nét. Buồn bã và cô đơn, chàng viết:
Em đi dệt mộng cùng người,
Lẻ loi riêng một góc trời riêng anh!

(Rượu Xuân)
Và chàng buông lời hờn tủi nghe não nuột đến nát lòng:
Mấy khoa thi chót thầy ơi
Thầy không thi đỗ để rồi làm quan
Để rồi lắm bạc nhiều vàng
Để cho con được lấy nàng, thầy ơi!

(Nhà Tôi)
Một tiếng nấc nghẹn ngào! Cứ tưởng rằng nỗi bi lụy nầy sẽ làm cho Nguyễn Bính trở thành một gã thất tình miên viễn! Thế nhưng, chẳng bao lâu Nguyễn Bính lại sa lầy trong một cuộc tình mới. Cũng đắm đuối chung tình. Cũng da diết yêu đương. Tên nàng là Nguyễn Thị Tuyên, em gái của nhà văn Nguyễn Đình Lạp, tác giả của tập tiểu thuyết xã hội NGOẠI Ô, do nhà Hàn Thuyên xuất bản năm 1941 tại Hà Nội. Nàng tên là TUYÊN, nhưng Nguyễn Bính đã đặt lại tên cho nàng là TÚ UYÊN, dù chàng thừa biết Tú Uyên – Trần Tú Uyên – là tên của một nhân vật nam trong truyện Nôm BÍCH CÂU KỲ NGỘ. Nhà Tú Uyên ở phố Bạch Mai (mai trắng) gần phố Huế (đế kinh) ở kinh thành Hà Nội, còn Nguyễn Bính cũng ở Hà Nội trên một căn gác mà chàng đặt tên là gác Hoàng Mai (mai vàng). Có một bận chàng thi sĩ đa tình đi ngang qua nhà nàng và rồi chàng thấy tâm hồn mình như chết chìm ở đó:
Nhà nàng ở gốc cây mai trắng
Trên xóm mai vàng dưới đế kinh
Có một buổi chiều qua lối ấy
Tôi về dệt mãi mộng ba sinh…

(Người Con Gái Lầu Hoa)
Chàng thì “dệt mãi mộng ba sinh” cùng nàng, còn Tú Uyên?
Nàng ở lầu hoa, ở đệm bông
Có đêm nào nghĩ đến tôi không?
Không, không, chả có đêm nào cả
Chả có đêm nào hé cửa song…

(Người Con Gái Lầu Hoa)
Có thể là chàng đã đòi hỏi quá nhiều. Cũng có thể chàng đã hờn mát mà nói như thế, chứ thực ra, hai người đã yêu nhau thực, đã từng hẹn hò và từng gặp gỡ như trong thơ của chàng đã trình bày. Trong các mối tình của Nguyễn Bính, có lẽ đây là mối tình đong đầy nước mắt.
Thi nhân vốn là nòi đa cảm. Và Nguyễn Bính được xem là người đa cảm vào bậc nhất trong giới thi nhân:
Em đã dùng khăn chị để lau
Bao nhiêu nước mắt của u sầu!

(Khăn Hồng)
Vắng bóng cô gái hàng xóm cũng có thể làm cho chàng rơi lệ:
Bên hiên vẫn vắng bóng nàng
Rưng rưng tôi gục xuống bàn … rưng rưng!
(Người Hàng Xóm)
Gặp người trong mộng cũng có thể làm cho chàng rơi nước mắt:
Mấy đêm dan díu người trong mộng
Mộng tỉnh, canh tàn, lệ ướt rơi!
(Nhặt Nắng)
Nghĩ về một người con gái chàng yêu mà chưa dám ngỏ lời cũng có thể làm cho chàng khóc:
Có một nghìn đêm tôi chiêm bao
Ba đêm nay khóc với mưa rào
Đêm nay mắt đỏ rồi mưa tạnh
Tôi khóc âm thầm dưới bóng sao
Đó là 4 câu thơ trích trong bài thơ “Người con gái ở lầu hoa”. Và “người con gái ở lầu hoa” đó chính là nàng Tú Uyên! Mối tình với Tú Uyên rồi cũng dở dang:
Nàng Tú Uyên ơi!
Cả mùa mai trắng đã rụng rồi!
“Mai trắng đã rụng” tức là tình yêu của chàng với Tú Uyên, cô gái ở phố Bạch Mai đó đã không thành.
Rồi Tú Uyên bước lên xe hoa về nhà chồng. Nào ai biết được tâm trạng của Tú Uyên khi nàng bước lên xe hoa. Chỉ biết rằng, sau ngày nàng bước chân lên xe hoa, Nguyễn Bính đã làm một bài thơ khóc cho mối tình nầy thật tha thiết, thật não nùng và dĩ nhiên là cũng đầy nước mắt.
Chàng hồi tưởng lại những giây phút họ gặp gỡ và tình tự với nhau:
Lạy Chúa con xin Chúa một giờ
Mười hai – giờ Ngọ, của tình xưa
Chúng con hai đứa Uyên và Bính
Thường hẹn hò nhau những buổi trưa!

(Nguyện Cầu)
Những buổi trưa hẹn hò với bao lời thề non hẹn biển. Có thể là họ đã vẽ ra một tương lai tuyệt vời sống bên nhau cho đến khi đầu bạc răng long. Ấy vậy mà rồi nàng phải bước lên xe hoa về nhà chồng. Cứ theo như Nguyễn Bính, nàng “bất đắc dĩ” mà bước lên xe hoa:
Hắn phải lấy chồng là khổ lắm,
Bởi vì, lạy Chúa, rất chua cay!

(Nguyện Cầu)
Nguyễn Bính đã quả quyết điều nầy, bởi vì, theo chàng, họ đã yêu nhau tha thiết, Bính yêu Uyên tha thiết và Uyên cũng yêu Bính thiết tha. Nàng bước lên xe hoa về nhà chồng mà như bước vào cõi tuyệt vọng đọa đày:
Hắn đã yêu con đến tận cùng
Thế mà tròn thủy chẳng tròn chung
Hôm qua hắn bước lên xe cưới
Khóc lả người đi Chúa biết không?

(Nguyện Cầu)
Trong cuộc sống hôn nhân, cứ theo như Nguyễn Bính, Tú Uyên khổ lắm. Có khổ gì hơn khi nghĩ rằng mình suốt đời phải chung sống với người mà mình chẳng yêu thương! Và Nguyễn Bính cũng thương cho số phận hẩm hiu, chua xót của người mình yêu:
Hai đứa hai nơi khóc một giờ
Bên chồng mà hắn vẫn bơ vơ
Chúa ơi ! Cứu rỗi linh hồn hắn!
Nước mắt con nhòa hết tập thơ!
(Nguyện Cầu)
Giờ đây, mỗi lần nghe tiếng chuông nhà thờ buông đúng vào giờ ngọ– cái giờ nghiệt ngã của kỷ niệm – chàng lại hồi tưởng về người yêu, về những lần hẹn hò thơ mộng đắm đuối của hai linh hồn yêu nhau tha thiết:
Đứng bóng từng dòng chuông ngọ đổ
Từng dòng chuông ngọ đổ chơi vơi
Con nghe chuông đổ rồi con khóc
Cứu rỗi linh hồn con Chúa ơi!

(Nguyện Cầu)
Bính đã thay mặt cho Uyên để cùng chàng kêu gọi đến Chúa tuy họ không phải là những con chiên. Họ là những người ngoại đạo. Nhưng Nguyễn Bính, trong một lúc tuyệt vọng cùng tột, chàng đã phải tin rằng mối tình của chàng và Uyên không đi đến kết cuộc tốt đẹp là do sư sắp đặt của Chúa và họ cố xin một chút bình yên cho tâm hồn khi họ tin như vậy:
Lạy Chúa con xin Chúa thế thôi
Một giờ yêu quý nhất trên đời
Chúng con ngoại đạo tuy ngoại đạo
Cũng lạy mà tin có Chúa Trời!

(Nguyện Cầu)
Lại một lần nữa, Nguyễn Bính cố quên đi mối tình tuyệt vọng nhưng mà làm sao quên được:
Đêm nay ngồi khóc trong trăng lạnh
Trăng đắm chìm đi, gió thở dài
Tôi nhớ đến người – ôi diệu vợi
Ở lầu hoa ấy trong rừng mai
……
Tôi tưởng rồi tôi quên được người
Nhưng mà nản lắm, Tú Uyên ơi!
Tôi vào sâu quá và xa quá,
Đường lụt sương mờ lụt lá rơi…

(Diệu Vợi)
Và mối tình tuyệt vọng với nàng Tú Uyên đã để lại cho chúng ta một thi phẩm với nhiều bài thơ đong đầy nước mắt: NGƯỜI CON GÁI LẦU HOA.
Qua mấy lần tuyệt vọng vì tình, nỗi buồn không kiềm chế được, cộng thêm với nếp sống buông thả của giới nghệ sĩ thời tiền chiến, chàng đắm mình trong xóm yên hoa.
Và,
* nếu kết quả của mối tình giữa chàng với nàng Oanh, với nữ sĩ Anh Thơ, với Tú Uyên là những đứa-con-tinh-thần, những thi phẩm đã tạo nên sự nghiệp thi ca của Nguyễn Bính: Tâm Hồn Tôi, Hương Cố Nhân, Người Con Gái Lầu Hoa –
* thì, mối tình với Dung, tên cô gái trong xóm yên hoa, ngoài kết quả là bài thơ thật thống thiết “Có Bấy Nhiêu Lời Tâm Huyết Ấy” về sau đổi lại thành tên “Oan Nghiệt”, oái oăm thay, lại đưa đến kết quả là một đứa-con-vật-chất, đứa con gái đầu lòng trong kiếp làm đàn ông của Nguyễn Bính.
Đối với Dung, có lúc chàng đã nhắc đến tên nàng bằng một giọng điệu vô cùng khinh bạc, nghe sao mà xa lạ:
Lại chuyện con Dung đẻ tháng ngày!
Thì cũng có khi chàng nhắc đến tên nàng bằng một giọng vô cùng trìu mến:
Người bến Tầm Dương, Dung bé bỏng!
Người ta bảo Dung là một “đào nương”, là một “ca kỹ”. Thế nhưng, dù có là “đào nương” hay “ca kỹ” gì gì đi nữa để gọi là làm đẹp cho cái thân thế cần phải giấu kín của Dung, thì oái oăm thay, chính Nguyễn Bính, người tình của nàng, lại đã khai báo huỵch toẹt cái nghề không mấy tốt đẹp của nàng:
Dung ạ, những đêm màn rũ thấp
Ân tình bên gối khách làng chơi
Em có biết rằng trong giấc lạnh
Con mình mớ ngủ gọi tên ai?

(Oan Nghiệt)

Dung của Nguyễn Bính là như thế đó. Đau thương lắm. Chua cay lắm. Nhục nhằn lắm nữa. Nhưng dù sao thì họ cũng đã yêu nhau. Họ đã sống với nhau theo cái kiểu “già nhân ngãi, non vợ chồng!”. Và cho đến khi Dung bụng mang dạ chửa thì Nguyễn Bính lại nổi máu giang hồ.
Vào năm 1942 chàng bỏ đất Hà Nội ngàn năm văn vật để vào đất Thần kinh thơ mộng có con sông Hương nước chảy lặng lờ, có những con thuyền tình chơi vơi trên sông nước, và có cả những cơn mưa “cứ kéo dài ra đến mấy ngày” buồn ơi là buồn! Ở Huế chưa được bao lâu, vào một ngày cuối Thu, Nguyễn Bính nhận được thư của Dung:
Hôm nay bắt được thư Hà Nội
Cho biết tin Dung đã đẻ rồi
Công chúa, tháng ngâu, ngày nguyệt tận…
(Oan Nghiệt)
Vậy là Dung đã sinh cho chàng một cô con gái vào một ngày cuối tháng bảy âm lịch:
Công chúa – Tháng Ngâu – Ngày nguyệt tận!
Nhận được thư của Dung chàng đã nghĩ miên man đến kiếp sống đau thương của Dung, nghĩ đến tương lai đầy đen tối bất trắc của con gái và nghĩ về hiện trạng bấp bênh của mình mà chua xót thở than :
Đời cha nay ở mai đi đấy
Kiếp mẹ đêm đêm bán khóc, cười…
Tiền cha không đủ hoàn lương mẹ
Thì lấy gì mà nuôi nấng con!
(Oan Nghiệt)
Không ai biết rõ Nguyễn Bính cho bằng chính Nguyễn Bính biết về mình! Chàng biết chắc rằng không cách nào chàng có thể có một mái ấm gia đình để cùng Dung và con gái chung sống với nhau! Nghĩ đến những lời cầu chúc của chàng cho con gái sao mà đắng cay, sao mà chua xót:
Thôi cha cầu chúc cho con gái
Mắt chớ lưu cầu, môi chớ son
Ngu đần xấu xí hay tàn tật,
Yên phận chồng con, yên phận con
Càng tài sắc lắm càng oan nghiệt
Bảy nổi ba chìm với nước non

(Oan Nghiệt)
Và rồi Nguyễn Bính tưởng tượng đến một tương lai “oan nghiệt”, đến một cuộc trùng phùng “oan nghiệt”, đến nỗi bất hạnh “oan nghiệt” của cha con chàng:
Cha lo ngại lắm là con gái,
Chẳng có bao giờ biết mặt cha!
Con mười sáu, bảy xuân đương độ
Cha bốn, năm mươi chửa trót già
Cha buồn tiễn khách hơi thu quạnh
Con thẹn che đèn nép mặt hoa
Chàng chàng, thiếp thiếp vui bằng được
Bố bố, con con chẳng nhận ra
Áo xanh mà ướt vì đêm ấy
Tội nghiệp đời con, xấu hổ cha!

(Oan Nghiệt)
“Cha lo ngại lắm là con gái, chẳng có bao giờ biết mặt cha”! Phải chăng đây là một lời tiên tri “oan nghiệt”? Hay, phải chăng đây là một quyết định “oan nghiệt” của chính Nguyễn Bính? Cái câu hỏi “oan nghiệt”: “Bao giờ tôi biết mặt con tôi?” (Oan Nghiệt) đã bị chính Nguyễn Bính cố tình khước từ “trả lời”! Bởi chưng, hình như đâu vào khoảng cuối năm 1943, Nguyễn Bính cùng hai nhà văn Vũ Trọng Can và Tô Hoài làm một chuyến xuôi Nam, bỏ đất Thần kinh thơ mộng để tìm về Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông. Và chàng quên Dung bé bỏng, quên cả đứa con gái bèo bọt của chàng!
Ở Sài Gòn một thời gian, Tô Hoài và Vũ Trọng Can lại quay về Hà Nội, còn Nguyễn Bính được thi sĩ Đông Hồ và nữ sĩ Mộng Tuyết mời về thăm quê hương Hà Tiên nên thơ của họ. Đó là vào khoảng đầu mùa hạ năm 1944. Chàng được nhà thơ Đông Hồ đãi như một khách quý, dành riêng cho chàng một căn gác mà Đông Hồ đặt tên là “Nam Phong tiểu các” để cho chàng làm nơi sáng tác thơ. Chàng ở lại đây có mấy tháng và cũng đã để lại đây một cuộc tình với người cháu gái của nữ sĩ Mộng Tuyết. Tên nàng là Tú Ngọc.
Trong vườn thấp thoáng bóng ai đi
Cô cháu, Minh hương, tuổi mười bảy
Mũi thẳng, mi cong, tóc mướt dài
Răng đều, môi mọng, ngực tròn mẩy
Gặp nhau, chào nhau, rồi quen nhau
Ngày một ngày hai thành luyến ái.

(Hà Tiên, Người Xóm Rẫy)
Mới gặp nhau, nàng gọi Bính là “chú” vì “chú Bính” là bạn thơ của dì Mộng Tuyết. Thế rồi, ngày một ngày hai cung đàn đổi bậc. Tú Ngọc đã để lại cho Nguyễn Bính bao nhiêu là kỷ niệm êm đềm của một người tình vừa ngây thơ, vừa trong trắng trong những ngày chàng dừng bước giang hồ trên mảnh đất Hà Tiên đầy thơ mộng:
Vườn trăng cầm tay, thương quá đi!
Một ngày không gặp, nhớ biết mấy!
Thơ tôi nàng gối trên đầu giường,
Đêm che ánh đèn đọc vụng mãi.
Khăn tôi xổ chỉ, áo long khuy
Nàng bảo đưa nàng khâu vá lại
Có hôm tôi bệnh nằm li bì
Nàng đến canh chừng siêu thuốc cháy.
Áo len đương mặc, cởi cho tôi
“Hà Tiên gió biển lạnh lắm đấy!”

(Hà Tiên, Người Xóm Rẫy)
Chàng yêu Tú Ngọc biết mấy! Và nàng cũng yêu chàng biết mấy! Chàng ước ao được dệt mộng chung đôi với người yêu bé bỏng:
Tài hoa bảy bước đã thành thơ
Mà vẫn một đôi tay trắng mãi
Lấy đâu có được tám mươi thành
Để đổi cho tròn viên Ngọc ấy?
(Hà Tiên, Người Xóm Rẫy)
Vậy mà rồi giấc mộng cũng không thành! Tội nghiệp cho cô bé “người yêu xóm Rẫy” của Nguyễn Bính! Ngày xưa chàng bị “cô Oanh sông Nhuệ” dày vò! Ngày xưa chàng bị nữ sĩ Anh Thơ hắt hủi! Và giờ đây chính Nguyễn Bính lại hắt hủi, dày vò Tú Ngọc, người yêu bé bỏng của chàng. Nợ giang hồ lại réo gọi. Và Nguyễn Bính lại cất bước ra đi:
Rồi tôi khăn gói lại lên đường
Nàng ra bờ sông đứng khóc mãi
Tàu đi xa mấy dặm sông dài
Ngoảnh lại vẫn còn tay Ngọc vẫy!

(Hà Tiên, Người Xóm Rẫy)
Ôi! bàn tay bé bỏng của người con gái đáng thương ấy làm sao giữ nổi cánh chim giang hồ!
Nguyễn Bính bỏ Hà Tiên dù rằng Đông Hồ và Mộng Tuyết hết lòng mời chàng ở lại để chàng có điều kiện hoàn tất tập truyện dài bằng thơ mà chàng lấy nhan đề là Thạch Sương Bồ.
Nguyễn Bính bỏ xóm Rẫy dù rằng ở đó người yêu bé bỏng Tú Ngọc của chàng đã van vỉ, đã khóc lóc hết nước mắt.
Chàng trở lại Sài Gòn. Đành đoạn. Rồi cuộc chiến tranh Việt Pháp bùng nổ cuối tháng 12 năm 1946. Không còn nghe chàng nhắc đến Tú Ngọc nữa. Không còn nghe chàng nhắc đến mẹ con của “người bến Tầm Dương Dung bé bỏng” nữa. Và hình như chàng cũng không còn điều kiện để nhắc đến những “cô Oanh sông Nhuệ”, những “Anh Thơ”, những “Tú Uyên” của một thời yêu đương lãng mạn nữa. Nhưng dù sao, thì với những cuộc tình hoặc tuyệt vọng, hoặc đau thương đó cũng đã để lại cho chúng ta, những người yêu thơ Nguyễn Bính, những tác phẩm thơ tuyệt diệu: Tâm Hồn Tôi, Hương Cố Nhân, Người Con Gái Lầu Hoa, những bài thơ “Có Bấy Nhiêu Lời Tâm Huyết Ấy” (còn gọi là Oan Nghiệt) và “Hà Tiên, Người Xóm Rẫy” như những viên ngọc quý trong kho tàng văn chương của Dân Tộc.

Đào Đức Nhuận
Người hàng xóm
(Bùi Thanh Tuấn)
Trong các nhà thơ nổi danh từ phong trào Thơ mới (1932-1945) thì Nguyễn Bính là người có nhiều tập thơ được xuất bản nhất và có lẽ, ông cũng là người đã sử dụng thể thơ lục bát nhiều nhất. Lục bát của Nguyễn Bính đạt đến sự bình dị, dân dã như ca dao. Phong cách độc đáo này đã tạo cho Nguyễn Bính một vị trí vững chắc trên thi đàn.
Bài thơ Người hàng xóm được in trong tập thơ Tâm hồn tôi của Nguyễn Bính xuất bản năm 1940, lạ thay, nay đọc lại ta vẫn thấy xúc động… Mời các bạn thơ cùng chia sẻ với lời bình của nhà thơ trẻ Bùi Thanh Tuấn (Nhà thơ Lê Minh Quốc)
NGƯỜI HÀNG XÓM
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có dậu mùng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng
Có con bướm trắng vừa sang bên này…
Bướm ơi, bướm hãy vào đây
Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi
Chả bao giờ thấy nàng cười
Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên
Mắt nàng đăm đắm trông lên
Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi
Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi
Tôi buồn tự hỏi: hay tôi yêu nàng?
Không từ ân ái nhỡ nhàng
Tình tôi than lạnh tro tàn làm sao!
Tơ hong nàng chả cất vào
Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sang
Mấy hôm nay chẳng thấy nàng
Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong
Cái gì như thể nhớ mong
Nhớ nàng? Không, quyết là không nhớ nàng
Vâng, từ ân ái nhỡ nhàng
Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa.
Tầm tầm giời cứ đổ mưa
Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm
Cô đơn buồn lại thêm buồn
Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi?
Hôm nay mưa đã tạnh rồi
Tơ không hong nữa, bướm lười không sang
Bên hiên vẫn vắng bóng nàng
Rưng rưng tôi gục xuống bàn… rưng rưng…
Nhớ con bướm trắng lạ lùng
Nhớ tơ vàng nữa nhưng không nhớ nàng
Hỡi ơi bướm trắng tơ vàng
Mau về mà chịu tang nàng đi thôi
Đêm qua nàng chết thật rồi
Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng
Hồn trinh còn ở trần gian
Nhập vào bướm trắng mà sang bên này.

(NGUYỄN BÍNH 1940 – Theo bản in Nguyễn Bính của NXB Hội Nhà văn 1995)
Bài thơ vừa khép lại, như tấm màn sân khấu vừa kéo xuống, khép lại một vở kịch thơ với chỉ 3 nhân vật “tôi”, “nàng” và chứng nhân là “con bướm trắng”, mà trong đó, chỉ có nhân vật “tôi” độc thoại với chính mình và cũng là người duy nhất còn tồn tại trong một kết thúc nửa thực, nửa mơ.
Hai câu thơ mở đầu quen thuộc đến mức người đời sau dùng nó để làm cách nói ẩn dụ cho một mối tình vừa chớm nở: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn Nếu chỉ dừng lại ở đó thì có gì đáng nói? Dường như có điều gì khác lạ phía sau lời phỏng đoán: Hai người sống giữa cô đơn Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi? Giá đừng có dậu mùng tơi Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.
Dù chỉ là sự tỏ bày, nhưng cái vẻ “rào trước đón sau” ấy rồi cũng đến lúc phải thốt ra lời nói thật. Việc “đổ lỗi” cho dậu mùng tơi không đáng trách mà lại rất duyên và đáng yêu vô cùng! Hình ảnh người hàng xóm – một cô thôn nữ quay tơ nào đấy dễ đến phải xinh đẹp và duyên dáng lắm mới có thể khiến lòng chàng trai ngẩn ngơ đến vậy. Chàng ôm mối tương tư thầm kín vào giấc chiêm bao, và, thay vì tự hỏi lòng, chàng đã bắt gặp nhân vật thứ ba – chứng nhân của mối tình câm lặng: Bướm ơi, bướm hãy vào đây Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi Chả bao giờ thấy nàng cười Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên Mắt nàng đăm đắm trông lên…
Cái khoảnh khắc đôi mắt đăm đắm trông lên mới thi vị làm sao! Một giấc mơ đẹp, oái oăm thay, thường kết thúc ở lúc… đẹp nhất, như một “trêu ngươi” của mộng mị dành cho những kẻ mộng mơ. Câu trả lời bởi thế mà vẫn còn treo lơ lửng, vì thật dễ hiểu: Con bươm bướm trắng đã về bên ấy rồi… Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi Tôi buồn tự hỏi: hay tôi yêu nàng? Một chút xao xuyến, hồ nghi đánh động trái tim lỗi nhịp, để rồi cũng chính chàng trai cả quyết: Không từ ân ái nhỡ nhàng Tình tôi than lạnh tro tàn làm sao! Thì ra, chàng trai không phải chỉ mới yêu lần đầu. Sự thành thật đến tội nghiệp liệu có giúp gì cho trái tim ngỡ đã hóa đá, nhưng thực ra đang muốn yếu lòng thêm lần nữa?
Chàng nhiều lần dặn lòng thôi đừng mộng mơ, đừng nhớ nữa, nhưng càng như thế, tình cảm thầm kín của chàng lại dần hiện rõ hơn. Chàng đã phải lòng cô hàng xóm mất rồi: Cái gì như thể nhớ mong Nhớ nàng? Không, quyết là không nhớ nàng! Không phải lòng sao được khi sự vắng bóng của người con gái bên kia dậu mùng tơi đã khiến chàng thơ thẩn đếm thời gian trên nỗi trông đợi mỏi mòn: Tầm tầm trời cứ đổ mưa Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm Cô đơn buồn lại thêm buồn Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi? Mưa rồi cũng tạnh, nhưng niềm hy vọng gặp lại đã không xảy ra, và, chàng trai đã khóc, khóc như một lời thú nhận: Bên hiên vẫn vắng bóng nàng Rưng rưng tôi gục xuống bàn rưng rưng…
Sự yếu đuối trong tình yêu ở những hoàn cảnh cụ thể, hiểu theo một nghĩa nào đó, là điều cần thiết. Nó xảy đến vào lúc người ta muốn được sống thật với lòng mình. Hơn nữa, trách và ngăn làm sao được những giọt nước mắt kia khi kết cục của giấc mơ, hay của câu chuyện tình lại chẳng thể nào buồn hơn được nữa: Đêm qua nàng chết thật rồi Nghẹn ngào tôi khóc: quả tôi yêu nàng Hồn trinh còn ở trần gian Nhập vào bướm trắng mà sang bên này. Như một niềm xác tín – dẫu muộn – về một tình yêu thầm lặng, những câu thơ cuối cùng là tiếng lòng thổn thức của chàng trai quê, mà cũng chính là nỗi lòng của chính nhà thơ Nguyễn Bính.
Qua nhiều năm tháng, những chuyện tình lãng mạn như thế cứ thưa dần. Hôm nay nhắc lại bài thơ Người hàng xóm, ôn lại những kỷ niệm về nhà thơ Nguyễn Bính để thêm lần nữa, chúng ta tưởng nhớ và tri ân đến một thi sĩ tài hoa đã có nhiều cống hiến cho nền văn học nước nhà.
(Bùi Thanh Tuấn)
Bướm Trắng – Ca sĩ Hương Lan
Bướm Trắng – Ca sĩ Vũ Khanh
Bướm Trắng – Ca sĩ Mạnh Đình
Bướm Trắng – Ca sĩ Giang Tử
Chuyện Tình Hoa Mai – Ca sĩ Đan Nguyên
Chuyện Tình Hoa Mai – Ca sĩ Đỗ Hải Hường
Chuyện Tình Hoa Mai – Ca sĩ Ân Thiên Vỹ
Theo http://dotchuoinon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...