Chung cư - Trần Văn Tuấn
"... Ta
đâu phải là bóng
Ta là ta
Dẫu không có trăng.
Ta vẫn là ta..."
Hát xong, ông hỏi to: "Trả giá bao nhiêu cho bài hát này?"
"Meo!" Không có tiếng người, chỉ có tiếng con mèo hoang trú ngụ nhà Ba Tỷ lên tiếng. Ông thở dài, bế con mèo lên, hát tiếp: "Trời đất bao la, có trăng, có nước, cần chi mái nhà...".
1. Mèo đến
Ta là ta
Dẫu không có trăng.
Ta vẫn là ta..."
Hát xong, ông hỏi to: "Trả giá bao nhiêu cho bài hát này?"
"Meo!" Không có tiếng người, chỉ có tiếng con mèo hoang trú ngụ nhà Ba Tỷ lên tiếng. Ông thở dài, bế con mèo lên, hát tiếp: "Trời đất bao la, có trăng, có nước, cần chi mái nhà...".
1. Mèo đến
Con mèo hoang từ nơi nào đến
đây, không ai biết. Nó đã mang đến đây nhiều chuyện vui, buồn. Nói đúng ra, những
chuyện đó đã xảy ra ở cái chung cư cao tầng, kiến trúc, thiết kế theo kiểu
khách sạn Mỹ vuông thành sắc cạnh, một cái hộp hình chữ nhật lớn chứa nhiều cái
hộp nhỏ có 63 hộ ở này cùng lúc với sự xuất hiện của con mèo.
Đầu tiên là chuyện mất
điện. Cả một thời gian dài, có đến gần 10 năm sau ngày giải phóng 30-4-1975
chuyện điện ở đây là điều vặt, nhưng cần để ý, gần như xài điện chùa. Sau đó,
việc thu tiền điện được thực hiện khắt khe, người ta cũng không quan tâm lắm,
vì tiền đóng chẳng là bao. Tới khi Sở điện qui định giá điện mới thì số tiền phải
đóng cho từng nhà không còn là chuyện nhỏ nữa. Chung cư chỉ có một đồng hồ. Tiền
điện bổ theo đầu người. Họp tổ dân phố chung cư đã nhất trí như vậy. Thực hiện
gần 2 năm, không ai có ý kiến gì. Nhưng rồi, theo cơ chế thị trường, cư dân
chung cư có sự xáo trộn, người đi, người đến, người bỗng nhiên giàu lên và, chị
Chín Rơm đòi phải tính lại tiền điện, không đồng ý việc chia theo đầu người. Chị
dõng dạc nói: "Người không thể dùng tay bốc điện mà ăn được. Xài điện nhiều
hay ít là do đồ điện trong nhà. Nhà tôi nghèo, đâu có nhiều đồ điện cao cấp như
máy giặt, máy lạnh như nhà khác. Chia điện theo đầu người là không công bằng,
là dìm chết dân nghèo".
Gã Ba Tỷ sinh năm 1972
(năm con chuột) nên được mẹ đặt tên là Tý, thường gọi là Cu Tý. Năm 1982 mẹ
cu Tý chết vì ung thư phổi. Một nhà hàng xóm ở cuối phố đón cu Tý về nuôi, đặt
tên là Ti Ti. Cu Tý không chịu. Nhà này đành chấp nhận thỏa hiệp: tên Ti Ti
chỉ dùng để đối thoại khi có người lạ. Cu Tý không phải hành nghề chạy xuôi
chạy ngược trong chợ để thực hiện những lời sai bảo của các chủ sạp nữa,
không phải thức khuya dậy sớm, ăn cơm nguội nữa. Nhà nuôi cu Tý có kế hoạch
vượt biên và coi cu Tý là một báu vật, một bảo đảm bằng vàng ở bên Hoa Kỳ.
Nhà ấy chăm sóc thằng nhóc con lai Mỹ trắng này rất tử tế. Cu Tý được chủ nhà
dạy tiếng Anh và học thuộc lòng bằng tiếng Anh bản tiểu sử của mình:
"Tôi là cu Tý, tức Ti Ti. Cha tôi là người Mỹ. Mẹ tôi chết. Gia đình ông
Tường Phát nuôi tôi từ nhỏ, chăm sóc tôi chu đáo, coi như con ruột. Tôi rất
cám ơn ông Tường Phát và mong chính phủ Hoa Kỳ đối xử tốt với gia đình
ông".
Cu Tý sớm biết được giá trị
con lai Mỹ của mình, nên đòi hỏi đủ thứ. Gia đình ông Tường Phát cắn răng chịu
đựng. Do lớn lên ở đầu đường, góc chợ, cu Tý nhạy cảm với chuyện làm ăn. Cu
Tý rất có hiếu với mẹ, thề trước mộ mẹ sẽ ở bên mẹ suốt đời. Bởi vậy, trong đầu
thằng nhóc này sớm hình thành kế hoạch làm ăn. Khi ông Tường Phát xuống tàu
vượt biên, cu Tý bỏ trốn. Đến nước ấy, nhà Tường Phát chỉ còn biết hối thúc
tàu chạy nhanh ra khơi...
Cu Tý trở về nhà với một số
vốn không nhỏ, rồi lại tìm mối khác để làm con nuôi. Có thể nói, với nghề con
nuôi ở những năm vị thành niên, đã giúp cho Ba Tỷ nhiều lợi lộc. Ngoài cái vốn
tiền bạc ra, gã còn có vốn tiếng Anh kha khá, đủ để giao dịch trên mọi lĩnh vực.
Gã mang tên Ba Tỷ, trên danh thiếp ghi là Henry Nguyễn BaTy. Trong cơn sốt
mua bán đất, gã chỉ làm trung gian mối lái hưởng phần trăm cả hai đầu, nên phất
lên nhanh chóng và an toàn. Thực ra, tên Tỷ không phải do gã đặt ra, mà do
người làm ăn quen biết và đám bạn bè nhóm taxi du lịch gọi gã. Họ cho là gã
đã giàu bạc tỷ. Gã không hào hứng đón nhận, cũng chẳng lên tiếng chối từ, coi
đó là chuyện không đáng nói. Cái cần để giải thích cho mọi người biết là vị
thứ ba của gã. Gã bảo:
- Mẹ tôi có sinh một chị
gái trước tôi với một người nhạc công nào đó, nhưng không nuôi được, chết
ngay khi sinh. Dầu sao, tôi vẫn coi mình là thứ ba, trên tôi còn có chị ấy.
Ba Tỷ giàu, chỉ phô trương
với thiên hạ có một lần trong năm. ấy là ngày giỗ mẹ. Ngày đó, gã thuê nhà
hàng làm cỗ lớn, cúng bái linh đình, mời cả xóm đến dự. Nhà cũ, gã tu sửa lại
cho chắc chắn, thuê người chăm nom, còn gã đến ở căn phòng ở chung cư. Gã
sang tên lại căn phòng với giá 4 cây, từ một ông cán bộ về hưu. Gã bảo, gã
không thích ở nhà cũ trong xóm vì không có chỗ để xe taxi, lại phải tiếp những
ông khách người Mỹ, những Việt kiều từ Mỹ về.
Những người này tìm đến
nhà gã theo nhiều mối, nhiều ngả khác nhau. Cũng có người vì tò mò, hiếu kỳ,
song đại đa số tìm đến gã vì công việc làm ăn hay áp phe chính trị. Họ mời gã
tham gia tổ chức này, tổ chức nọ hoặc làm đại diện cho công ty, cho hãng nước
ngoài với số tiền lương từ 500 đến 1000 đôla một tháng. Gã từ chối hết, mà từ
chối một cách thô bạo.
Ba Tỷ tâm sự với ông trung
tá pháo binh về hưu làm việc thường trực - giữ xe tháng ở chung cư: "Nhiều
người bảo con dại, con ngu! Xin lỗi, còn lâu mới ngu. Con thừa biết họ muốn
gì ở con. Họ thừa biết kiếm một thằng con lai Mỹ chịu đứng chân ở đây, lại là
một thứ thổ công chuyện gì cũng biết ở thành phố này đâu phải dễ. Chẳng phải
vì họ yêu mến con đâu. Họ yêu cái túi tiền, cái danh vị chính trị chính em của
họ thôi!". Gã dặn đi dặn lại ông thường trực, nếu có ai hỏi gã, cứ nói
gã đi vắng. Gã không tiếp bất cứ ai ở trong nhà, đàn bà con gái cũng vậy. Cần
gì nhắn lại, gã khắc tìm đến.
Ba Tỷ khoái cái còi trên cổ
ông cựu trung tá pháo binh lắm. Mấy lần gã đổi chiếc đồng hồ ômêga trị giá ba
triệu đồng lấy cái còi, đều bị ông từ chối, nói đâylà kỷ vật thời chiến tranh
gã có vẻ nể, sợ ông, không dám bông đùa sàm sỡ như những người khác.
Lúc nào, gặp ai gã cũng cười.
Mắt đen láy, cười he hé hoặc toe toét đều dễ thương, dễ gợi cảm và cũng dễ
làm cho người ta nổi sùng lên.
Như ông sửa xe gắn máy,
Lưu Văn Bi, một con người khắc khổ chìm ngập trong suy tư và buồn thảm kia,
ít nhất mỗi tuần một lần múa "mỏ lết" rất quáng, phun nước miếng
vào mặt gã: "Tại sao mày lại chế nhạo tao? Thằng khốn kia, ngậm miệng lại,
ông ghè vỡ hết cái hàm răng chó dái của mày bây giờ".
Gã vặt tóc, kêu khổ, lại
tru tréo than vãn: "Giời ơi là giời, tôi đâu có cười. Cái miệng tôi nó
thế, cái mặt tôi nó vậy, trông như cười mà đâu có cười".
Chẳng biết gã nói thậy,
hay diễn thế, có người tin, có người không, bảo: "Đểu, điếm ra mặt, đến
thế là cùng". Dù có nổi sùng với gã nhiều lần, thường xuyên nhưng ông Bi
vẫn chơi thân với gã, không bảo gã đểu, khen gã tốt bụng. Mà hình như gã cũng
tốt bụng thật. Như cái việc xin đồng hồ điện cho mấy tầng ở chung cư.
Người ta không thể ngờ rằng
gã chạy xe taxi, cùng một đẳng cấp xã hội với các chàng xích lô nhậu bia hơi,
rượu đế ở lề đường, quanh năm mặc quần cộc, áo vá lại có thể quen nhiều, biết
lắm các giới chức sắc đủ mọi lĩnh vực, các nhà lãnh đạo các cấp đến thế. Những
anh Ba chủ tịch quận, anh Năm, dì Hai giám đốc sở này, ban nọ đều tay bắt mặt
mừng khi gặp gã. Chỉ trong 3 ngày, 7 đồng hồ điện cho 7 tầng của chung cư đã
được gã gọi người đến lắp đặt xong xuôi. Có điện, ai cũng vui mừng hào hứng
không để ý đến số tiền chi riêng cho gã để "chạy điện". Thế nhưng,
người đời thường nói con đau của xót, đồng tiền liền khúc ruột nên cái phấn
khởi có điện cũng nhanh chóng qua đi, còn đọng lại sự tính toán thiệt hơn: đắt
hay rẻ. Nhiều người, trong đó có chị Chín Rơm, ông Bi khẳng định: giá
"cà phê, cà pháo" cho dịch vụ đồng hồ điện vừa rồi là phải chăng và
gã Ba Tỷ không ăn gì, không chấm mút gì ở vụ này cả.
Cô Đoan Trang cong cớn,
mát mẻ:
- Làm sao có chuyện mèo
chê mỡ, Ba tỷ chê tiền?
Chị Chín Rơm từ tốn bảo:
- Chẳng nên đặt điều vi
oan cho người ta. Tôi chẳng ưa gì gã đó. Nhưng trong vụ này tôi thấy gã giúp
vô tư, không vụ lợi.
Bà Tư Rêu dậm chân, vung
tay: Nó không lấy tiền của chị, chị khen tốt là phải rồi. Tôi nói, trong vụ
này nó ăn khẳm, ít nhất là hai chỉ...
Chị Lệ Tuyết thẻ thọt:
- Dì nói quá lời, em thấy
việc đóng góp lệ phí cộng cả lại chỉ có 7 trăm ngàn, là hơn một chỉ.
Ông thường trực khẳng định:
- Tiền cà phê cà pháoc ho
thợ thế là hợp nhẽ rồi. Vụ này thằng Ba Tỷ không ăn gì đâu...
Dầu không nói ra nữa,
nhưng bà Tư Rêu, cô Đoan Trang và một số người khác vẫn hậm hực, nhất quyết
cho rằng Ba Tỷ chẳng ra gì, phe phẩy một cây, chộp giựt, đàng điếm một đống
và họ luôn nói xấu gã ở mọi nơi, mọi chỗ...
Cô Đoan Trang đay nghiến:
"Cái thằng con lai mũi lõ ấy đẹp đẽ gì cho cam. Lại còn vô duyên tàn mạt,
thấy mặt là thấy nhe răng cười. Đàn ông con trai gì phải cương nghị, lạnh
lùng, lúc nào môi cũng mím chặt, mắt nhìn thẳng, nghiêm khắc. Như cái điệp
viên siêu hạng, các siêu nhân ấy, họ đâu có toe toét cười mọi nơi mọi chỗ".
Bà Tư Rêu ra sức nói xấu
gã về cái tội keo kiệt, bủn xỉn. Chẳng là, để cho bà có công ăn việc làm đỡ
ngồi lê đôi mách thiên hạ nên ông con trai mở cho bà tệm "chạp phô mi
ni" ở ngay hành lang. Thỉnh thoảng Ba Tỷ có chạy lên mua ở tiệm bà gói
thuốc ba số 5, vài ba lon bia và lần nào cũng cò kè trả giá tới lui rồi lại dậm
chân than trời kêu mắc. Mà bà bán mắc thật. Gói ba số 5 ở dưới lề đường bán cỡ
10 ngàn, bà chém tới 12 ngàn... Bà giải bày lý lẽ mà như mắng mỏ người ta. Rằng:
"Giờ có giờ tốt, giờ xấu. Làm việc có ca ngày ca đêm. Ca đêm phải hơn
giá ca ngày. Nó mua của tôi lúc 11-12 giờ đêm thì phải chịu giá ấy thôi. Đây
bán thế đấy, thuận mua vừa bán, không mua thì thôi, ai thèm ép. Có mợ thì chợ
cũng đông, mợ đi lấy cồng thì chợ vẫn vui. Nó làm như chỉ có nó mới giàu có,
biết xài tền, còn thiên hạ là đồ bỏ...".
Chị Lệ Tuyết cũng tỏ ra
không ưa gã. Chị thầm thì, diễn bộ dúm dó vì ghê sợ: "Anh ta mới thô lỗ
làm sao, vừa đi vừa ăn nhồm nhoàm, lại còn trố mắt nhìn em... eo ơ! Cái nhìn
mới ghê làm sao. Anh Bảo nhà em không bao giờ nhìn em như thế".
Cô ca sĩ Lệ Hồng công khai
bênh vực gã, cười ré lên nói với chị Lệ Tuyết rằng "Với cái bộ váy áo theo
mốt "Hoa đào chúm chím cười cùng gió xuân" như vậy thì anh ta phải
trố mắt mà nhìn chị thôi. Chẳng phải riêng anh ta, ai cũng nhìn vậy. Chỉ có
chồng chị là khác thôi".
Dù ở kế bên nhau, nhưng
"hai giọt lệ" ở tầng 5 này hoàn toàn khác nhau. Lệ Hồng ghét cay
ghét đắng cái "lối diễn" õng ẹo giả nai của chị Lệ Tuyết, nên hễ có
dịp là châm biếm đả kích. Dĩ nhiên là sự châm chọc sâu sắc và rất kín nhẽ.
Như cái áo bằng vải bóng màu hồng nhạt theo kiểu xường xám Thượng Hải những
năm 30 để lộ ra cặp chân cong queo, đùi đâu chẳng thấy chỉ thấy hai cái đầu gối
to như củ chuối của chị Lệ Tuyết, ai cũng phải lắc đầu, le lưỡi chê cười, thì
Lệ Hồng lại xỏ xiên bảo là cái mốt "hoa đào chúm chím"... chẳng biết
Lệ Tuyết có biết Lệ Hồng xỏ xiên không, vẫn cứ dịu ngọt êm nhẹ như tơ trong lời
nói, bẻ môi uốn lưỡi hết sức cầu kỳ: "Anh Bảo nhà em khác người lắm cơ. ảnh
là kỹ sư có tài, ưa thích những gì tinh tế, độc đáo và gợi cảm. Chị biết
không, cái áo dài ấy, anh Bảo nhà em cắt mẫu cho thợ may hạng nhất ở Chợ Lớn
đấy".
Lệ Tuyết xưng em ngọt xớt
với Lệ Hồng, một người ít hơn mình hàng chục tuổi, khiến Lệ Hồng không còn
tinh tế được nữa, đành phải bốp chát:
- Thôi đi, dì cứ xưng em,
tôi phải mang tội đấy...
Đến mức vậy mà Lệ Tuyết vẫn
lỏn lẻn cười:
- Xin lỗi chị vậy, em quen
miệng rồi...
Gã Ba Tỷ biết chuyện đó,
cười hô hố, bình phẩm: "Quái chiêu! Giỏi! Mẹ ấy mà làm chính trị thì thuộc
hàng đại cao thủ".
Ông Bi bảo: "Cao thủ
gì bà ấy. Một dạng tâm thần. Cả thằng chồng cũng vậy. Lúc nào cũng làm ra vẻ
trí thức, trông mà phát tởm".
Chị Chín Rơm giận dữ nói
thêm: "Lại còn hứng chí hôn nhau ở cầu thang mới khiếp chứ, trông lộn cả
ruột".
Ba Tỷ lỗ mãng đốp luôn:
"Ông bà khắt khe quá đấy. Vợ chồng hôn nhau ở nơi công cộng là một cử chỉ
đẹp, phải mừng cho họ hạnh phúc. Ông bà bị gẫy cánh giữa đường không có hạnh
phúc gia đình nên mới thấy tức tối"...
Ông Bi túm ngực áo Ba Tỷ
thét lên:
- Thằng ranh con chó chết,
mày nói tao ghen tức với thứ dở hơi dở hồn ấy hả?
Chị Chín Rơm nắm tóc Ba Tỷ
giật ngược, rít: "Này, chị nói cho mà biết, chuyện gia đình nhà chị
không phải là cái còi xe taxi nhà mày, muốn bóp lúc nào thì bóp nha! Chị chỉ
gai mắt ngứa miệng thấy cảnh lố bịch thôi, không phải là thứ đố kỵ,
ghen ghét".
Ba Tỷ lại phải dập đầu xin
lỗi hai người, phải mua bia về cho ông Bi nhậu và biếu chị Chín Rơm một lọ nước
hoa ngoại do khách du lịch tặng cho gã.
Nhiều người bảo, cái miệng
lưỡi của Ba Tỷ giống như con dao sắc, lợi cũng nhiều mà hại cũng lắm. Gã ứng
đối nhanh nhẹn hoạt bát, rất khôn khéo, lịch lãm và sâu sắc khi giao tiếp với
người lạ, khách hàng và khi giao dịch công việc. Gã có đủ bài bản, chiêu thức
để buộc người ta phải tin gã, làm theo lời gã và mến yêu gã khi giao dịch làm
ăn hoặc xã giao thông thường. Thế nhưng, trong sinh hoạt hàng ngày với bạn bè
và người quen biết xung quanh, gã lại quá thẳng thắn, bậm trợn khiến mỗi ngày
"vạ miệng" đến hai ba lần. Năm ngoái, gã yêu một cô tiếp viên hàng
không nặng 54 ký, cao 1m6 mặt tròn như trăng rằm, môi trái tim đỏ mọng. Cô
này trong khi làm tiếp viên ở đường bay đi Singapo có bị một gã hành khách lợi
dụng vuốt mông, về kể cho Ba Tỷ nghe. Ba Tỷ hỏi: "Nó sờ thế, em có cảm
giác gì không?".
Cô này điên tiết tát cho
gã một cái nẩy lửa, rồi từ bỏ gã luôn...
Gã đau khổ, ôm má bịt miệng
suốt ba ngày liền, rền rẫm với ông Bi: "Sư phụ ơi, tôi hỏi thế, đâu có
gì sai".
Ông Bi vốn ghét đàn bà, bảo:
"Đàn bà, nó là thế, ai cũng đồng bóng cả!". Sau vụ làm đồng hồ điện
cho chung cư, Ba Tỷ săn đón, theo đuổi một cô ở Sở điện lực. Theo lời mô tả của
gã, cô điện lực này có bộ ngực có thể chặn đứng được cả tên lửa vượt đại châu
và cặp mông đủ sức đè bẹp cả một cổ xe tăng hiện đại.
Gã nói oang oác ngay ở
phòng trực tầng trệt, lại thêm đôi mắt mơ màng nhìn theo một cô gái chân dài
mông tròn mới đi ngang qua, trước mặt đám phụ nữ đang ăn bún bò ở quán lề đường
vào buổi sáng sớm, trước giờ làm việc. Những quý bà, quý cô mập mạp tủm tỉm
cười, không nói gì, còn những bà, những cô ốm nhom, ngực mông chẳng có thì hầm
hầm tức giận ra mặt. Cô Đoan Trang thuộc dạng mình dây, không đến nỗi ốm lắm,
cũng tự ái, bảo: "Đồ vô duyên".
Bà Tư Rêu, người bé tiếng
to, xỉa xói Ba Tỷ: "Anh ăn nói cho có văn hóa, lịch sự. Chỗ đông người
như thế này mà nói chuyện mông, đùi đàn bà. Không biết ngượng mồm sao?"
Có lẽ Ba Tỷ đang cơn hưng
phấn "thắng" miệng không kịp nên lại xổ ra ào ào mớ lý thuyết về
đàn bà, rằng: "Bà này hay nhỉ, nói vậy mà kêu là không có văn hóa ư! Bà
không thấy cuộc thi hoa hậu nào chả có mục số đo ba vòng. Được công nhận là
hoa hậu thì ngực phải to bao nhiêu, mông phải lớn thế nào, chứ từ cổ đến giờ,
tôi chưa thấy hoa hậu nào ngực lép, mông nhỏ cả. Bà không nghe các cụ xưa dạy
rằng chẻ củi xem thớ, lấy vợ xem mông. Lại bảo là "nhất dáng nhì
da". Dáng là dáng người, gồm có mông, đùi, eo, ngực... Mông và đùi, ngực
và da là cái đẹp đặc trưng của đàn bà... Sao gọi là đàn bà được khi không có
ngực, có mông. Đàn bà mà cứ ngay đuỗi như khúc cây, dẹp lép như tấm ván
thì... thôi".
Thấy đôi ắt nẩy lửa của chị
Chín Rơm đang lừ lừ tiến lại, Ba Tỷ chột dạ, hãi hùng, ù té nhảy ba bước ra
xe taxi của mình, chuồn êm. Chị Chín Rơm không phải diện ốm nhom ốm nhách,
nhưng vì chị cao, ngực mông chẳng có nên trông đuồn đuỗn, lừng lững như chiếc
tủ đứng...
Bà Tư Rêu tâm sự với ông
thường trực, lại giống như mắng mỏ ông này:
- Ông thấy chưa, thanh
niên thời nay hư hỏng đến thế đấy. Mới nứt mắt ra đã hau háu chuyện ăn chơi
sa đọa, nhìn phụ nữ chỉ thấy mông, ngực.
Sau một vụ bị sa lầy vào
vòng "tâm sự" suốt nửa ngày, ông pháo binh về hưu đã rút được kinh
nghiệm. Ông ra sức há mồm ngáp dài, khật khừ bảo: "Đêm qua tôi không ngủ
được".
Đúng là đêm qua ông không
ngủ được thật. Con mèo đục lông trắng như tuyết, suốt đêm qua săn lùng mèo
cái, kêu gào thảm thiết, khiến cho ông phải vác gậy xua đuổi. ở gần thì nghe
chói tai, ở xa thì nghe thảm thiết. Ông lại không bắt được nó để quăng ra
ngoài...
Nỗi ám ảnh về một đêm thức
trắng đeo bám ông suốt cả ngày. Cho tới nửa đêm, tới gần 12 giờ khuya, Ba Tỷ
về, ông túm lại, năn nỉ: "Cậu giúp tôi tóm ổ con mèo hoang rồi đem ra chợ
Cầu Mống cho người ta giùm tôi".
Ba Tỷ ngạc nhiên hỏi:
"Nó làm sao?" Ông pháo binh về hưu, dầu đã quen với mọi thứ tiếng nổ,
vẫn đau khổ than: "Nó kêu gào gọi gái khủng khiếp quá, tôi không sao ngủ
được".
Ba Tỷ thắc mắc: "Sao
con không nghe thấy gì" ông thường trực buồn rầu nói: "Tuổi trẻ ngủ
như chết, đâu còn nghe thấy gì nữa. Hồi trước, tôi cũng vậy, giờ già khó ngủ
lắm..."
Ba Tỷ hào hứng nhận lời và
không đầy 20 phút săn đuổi giã đã tóm cổ được con mèo hoang...
Gã than: "Tội nghiệp,
ốm nhom ốm nhách". Ông pháo binh tức giận bảo: "Săn gái tối ngày
không ốm sao được"...
Ba Tỷ cười xa vắng, nói:
"Nó đói ăn, cô đơn..."
Gã đem con mèo hoang về
phòng mình. Ông pháo binh nhắc:
- Nhốt cho kỹ, sáng mai
đem ra chợ Cầu Mống bán lại cho bọn buôn súc vật". Ba Tỷ vuốt ve con
mèo, nói: "Con để nuôi".
Ông pháo binh bảo: "Vậy
phải thiến, để tao kêu thợ đến"...
Ba Tỷ cười, nói: "Sếp
đừng lo. Nó kêu gào tìm bạn chứ đâu phải chỉ là chuyện bậy bạ. Như con đây,
cũng săn gái tối ngày, chỉ muốn có bạn ở bên".
Đêm ấy, đêm sau và những
đêm tiếp theo, chung cư không còn tiếng mèo kêu gào thảm thiết nữa. Con mèo
hoang đã trở thành con mèo của Ba Tỷ và càng ngày càng dễ thương. Bà Tư Rêu
thích con mèo ấy lắm, nhưng chủ nó là Ba Tỷ thì "không dễ thương chút
nào" trong lời nói của bà.
|
3. Hàng xóm
|
Chuyện điện tưởng như đã
yên, sau khi mỗi tầng có một đồng hồ điện. Nhưng, chỉ yên được đúng có một
tháng. Kỳ đóng tiền điện đầu tiên của hệ thống đồng hồ mới đã sinh chuyện đôi
co, cãi lộn nhau về việc phân chia đóng tiền. Trừ tầng 3 gồm nhà chị Chín
Rơm, gã Ba Tỷ và ông Bi ra là không có chuyện thắc mắc ì xèo. Chị Chín Rơm biết
ông Bi và Ba Tỷ đi suốt ngày, xài chẳng bao nhiêu nên tính tiền chia đôi,
mình một nửa, hai người kia một nửa. Ông Bi và Ba Tỷ vui vẻ trả tiền cho chị,
không cần biết chị tính thế nào.
Các tầng khác không thể êm
ấm được như vậy. ở tầng 5, bà Tư Rêu gây lộn với anh Minh. Anh Minh và vợ đều
là cán bộ giảng dạy đại học, thức đêm như vạc. Thêm nữa, vợ anh Minh lại mới
sinh đứa con thứ hai, tã lót nhiều, giặt giũ, là ủi suốt ngày. Lại còn pha sữa,
nấu bột ăn dặm liên tục. Bà Tư Rêu nhất quyết đòi phải tính tiền anh Minh cao
hơn, cho dù con trai bà và anh Minh cùng công tác ở một trường. Anh Khánh,
con trai bà ra sức ngăn cản, bảo: "Mẹ so kè tính toán như vậy thì sống
được với ai!". Nhưng vợ anh Khánh, một nàng dâu khốn khổ bị mẹ chồng xoi
mói, rỉa rói suốt ngày đêm, lại lên tiếng bênh mẹ chồng:
- Mẹ nói vậy là đúng, cái
gì cũng phải cho công bằng.
Anh Khánh là người tốt bụng
nhưng mềm yếu nhu nhược. Anh phân biệt rõ ràng điều đúng sai và luôn làm theo
cái đúng nếu không có sự ngăn trở mạnh mẽ. Anh cũng tự thú nhận trong cuộc đời
anh sự tác động mạnh mẽ nhất là mẹ và vợ. Hai người này có sức mạnh ngang
nhau nên có không ít lần, để ngăn cản xô xát giữa mẹ và vợ anh phải lăn đùng
ngã ngửa giẫy đành đạch như bị kinh phong, hai tay đấm ngực rền rỉ:
- Giết tôi đi! Tôi lạy các
người! Đừng hành hạ tôi nữa!
Bởi vậy, trong trường hợp
này, khi mẹ và vợ đã "đồng tâm nhất trí", dầu biết thế là sai, anh
vẫn phải lặng lẽ rút lui, bỏ đi nhậu cho khuất mắt, để mặc cho hai người muốn
làm gì thì làm. Bà Tư Rêu nhất quyết chỉ đóng có 40 ngàn kém nhà Minh 20
ngàn. Đúng là cao thủ gặp nhau. Không ai chịu ai. Anh Minh có biệt danh là
Trùm sò tân thời, nổi tiếng về tính hà tiện và tính toán chi ly.
Chuyện tưởng như đùa mà có
thật. Hồi năm 1982, anh sắm được chiếc xe honda 50 nhờ một chuyến đi thực tập
ở nước ngoài. Hồi ấy anh còn ở cái phòng rộng bằng ba mảnh chiếu ở dưới cầu
thang trong khuôn viên nhà trường. Mỗi lần đi xe về anh đều bắt con lấy quạt
ra quạt cho mát ổ máy chiếc xe. Sau đó, tự tay anh lau chùi cẩn thận. Anh
Minh vốn ít nói, trưới sau chỉ bảo:
- Đã có thỏa thuận từ đầu
rồi, nguyên tắc là nguyên tắc, không thay đổi được.
Đúng là có sự thỏa thuận từ
đầu. Anh Minh đứng tên làm chủ đồng hồ, có trách nhiệm thu tiền các hộ để
đóng cho sở điện và chia tiền điện bình quân cho mỗi đầu người. Nhà anh Minh
có 5 người (hai vợ chồng, hai đứa con, một ông bố vợ bị điếc) cũng bằng người
nhà bà Tư Rêu nên tiền điện bằng nhau. Bà Tư Rêu gầm rú như động cơ xe máy
tăng hết ga:
- Chẳng có nguyên tắc nào
bất di bất dịch cả. Hoàn cảnh thay đổi, nguyên tắc cũng phải đổi thay.
Bố vợ anh Minh, nguyên là
một cán bộ tòa án, có một thời là chánh án cấp quận, dầu bị nặng tai (điếc) từ
nhiều năm nay, vẫn nghe rõ những lời bà Tư Rêu, nên ông nhảy vô cuộc, phản
bác bằng những lý lẽ của công tố viên:
- Nhưng hoàn cảnh đâu có
gì thay đổi để đổi thay nguyên tắc thỏa thuận.
Bà Tư Rêu áp sát ông già nặng
tai, rít lên:
- Đứa trẻ mới sinh mà
không thay đổi à? Nó là cái gì, hử?"
Chị vợ anh Minh, vốn là bạn
học từ thuở nhỏ với vợ anh Khánh, tính nết ôn hòa, nhã nhặn, khẽ khàng nói với
bà Tư Rêu:
- Cháu mới sinh, có thêm một
nhân khẩu, bằng số nhân khẩu nhà bác, có gì lạ đâu. Xin bác nghĩ lại cho...
Bà Tư Rêu vẫn ào ào, sấn sổ:
- Có gì mà phải nghĩ đi,
nghĩ lại. Cái khác là ở chỗ mới sinh ấy. Người xưa có nói, trẻ mới sinh tiền
ăn thì ít, tiền công thì nhiều. Đêm ngủ phải có đèn cho nó chơi. Phải thường
xuyên quấy sữa, tã lót phải ủi liên tục... Tôi sinh con ba lần, nuôi cháu nội
cháu ngoại từ lúc ẵm ngửa, sao không biết chi phí điện nước cho trẻ. Tôi đồng
ý, nó cũng là một nhân khẩu nhưng là một nhân khẩu đặc biệt, xài nhiều điện.
Hoàn cảnh khác nhau là ở đấy, chị hiểu không.. Người xưa có nói...
Chị Minh chán nản nói:
- Thôi được rồi, con xin
bác... Bác đóng bao nhiều thì tùy bác...
Giọng bà Tư Rêu cao vút
lên nghe chói tai như tiếng xé vải:
- Tôi không phải là loại
người vắt cổ chày ra nước, cứt sắt một đống, xi măng một cây. Tôi không tham
tiền bỏ ngãi. Tôi chỉ đòi hỏi sự công bằng, hợp lý thôi.
Biết bà xỏ xiên nói móc
mình, nhưng Minh vẫn không tự ái, nổi sùng. Anh khật khừng bảo: "Bác
đóng 60 chục ngàn như nhà cháu là hợp lý".
Bà Tư Rêu sừng sộ:
- Tôi chỉ đóng 40 thôi,
anh làm gì được tôi nào?
Minh thản nhiên đáp:
- Nếu vậy tôi phải cắt điện
nhà bác, báo việc này lên phường...
Bà Tư Rêu nhảy loi choi, xỉa
xói vào mặt Minh "Tôi đố anh đấy, tôi thách anh đấy. Thằng nào ba đầu
sáu tay dám cắt điện nhà tôi? Hả..."
Bố vợ Minh nghe tiếng được
tiếng mất, nhưng hiểu ra việc bà hàng xóm đang trấn áp, thách thức con rể.
Ông sấn tới, hiên ngang bảo:
- Tôi đây, thằng ba đầu
sáu tay là tôi đây.
Thấy việc căng thẳng có thể
gây ra chuyện "nặng ký", chị vợ Minh vội lao ra đẩy bố và chồng vô
nhà đóng sập cửa lại, gần như giật lấy tiền trên tay bà Tư, van vỉ:
- Con xin lỗi bác, con nhận...
Có gì sẽ bàn bạc lại thêm.
Bà Tư Rêu kiêu hãnh bảo:
- Vậy là hợp lý, hợp nhẽ rồi,
chẳng có gì phải bàn bạc thêm nữa.
Bà hớn hở ra về. Túm được,
chị Lệ Tuyết đang nghỉ chân vịn cầu thang, thướt tha ẻo lả phe phẩy tờ báo,
bà hào hứng diễn thuyết:
- Chị thấy không, người ta
thay đổi nhanh lắm, mới chỉ là đứng tên làm chủ đồng hồ điện thôi đã tỏ ra
quan liêu cửa quyền. Tôi là tôi đấu tranh tới cùng. Chuyện đâu phải chỉ là mấy
đồng bạc... cái quan trọng là công bằng. Người xưa có nói "Đồng tiền có
gai có ngạnh", ăn không của nhau sao được.
Chị Lệ Tuyết ỏn ẻn:
- Dì nói chí phải.
Bà Tư Rêu hài lòng bảo con
dâu:
- Chị phải cứng cỏi, mạnh
mẽ như tôi, thế mới sống được ở thời buổi kinh tế thị trường này. Mình mà ù ờ,
yếu ớt, thiên hạ sẽ đè đầu cưỡi cổ mình. Người xưa có nói "mềm nắn, rắn
buông".
Vợ Khánh cười tủm tỉm:
- Bà dạy đúng lắm, con nhớ
nằm lòng, chỉ sợ nhà con không nghe theo, cứ chín bỏ làm mười, chuyện lớn coi
nhỏ, chuyện nhỏ coi không có gì. Anh ấy cả nể cả tin lắm. Rồi có ngày bị người
ta lột hết, không có áo mà mặc...
Bà Tư Rêu tỏ ra bồn chồn,
lo lắng, gặng hỏi "cụ thể là sao?"
Vợ Khánh bâng quơ:
- Chưa biết chừng anh ấy lại
đem tiền bù lại cho người ta.
Bà Tư Rêu đập bàn:
- Giỡn hoài!
Xem ra vợ Khánh rất hiểu
tâm tính của chồng. Ngay đêm hôm đó, Khánh lén sang nhà Minh đưa cho Minh 20
ngàn, xin lỗi mọi nhẽ, lại dặn đừng nói chuyện này cho mẹ và vợ anh biết.
Khánh biết rất rõ con người Minh và mẹ mình. Cả hai người này, thà đánh nhau
gẫy tay, lòi xương chứ nhất quyết không chịu thiệt lấy một đồng.
Vợ Minh buồn rầu bảo:
- Trước sau gì bác Tư cũng
phát hiện ra, lúc ấy chuyện càng lớn.
Khánh nói:
- Tôi không nói, cô không
nói, Minh không nói thì ai biết.
Vợ Minh lắc đầu:
- Không ổn đâu! Dù không
ai nói ra nhưng cũng có thể đoán ra và truy hỏi anh.
Khánh khẳng định:
- Tôi nhất quyết không
nói.
Minh bảo:
- Mà cậu có nói cũng chẳng
sao, cậu là chủ gia đình cơ mà.
Vợ Minh gạt ngay:
- Không được, anh thừa biết
anh Khánh làm sao có thể cãi lại mẹ và vợ. Thế nên, cách tốt nhất là có đồng
hồ điện riêng cho từng hộ.
Minh nói ngay:
- Phải đấy, cậu quen thân
với thằng Ba Tỷ, nói nó xin cho cái đồng hồ riêng...
Khánh khen phải, sáng sớm
đã gặp Ba Tỷ, nhờ làm riêng đồng hồ điện. Ba Tỷ quý trọng vốn kiến thức thông
kim bác cổ của Khánh, bảo "Tôi chỉ làm cho anh thôi".
Năm ngày say, nhà Khánh có
đồng hồ điện riêng. Cả chung cư xôn xao, xu hướng ly khai làm đồng hồ riêng nổi
lên mạnh mẽ, ai cũng muốn gặp Ba Tỷ. Gã này nhất quyết không làm hộ ai nữa,
trước sau đều nói:
- Để mang tiếng ăn không,
ăn chặn nữa à! Thằng này là Ba Tỷ, không thèm ăn vặt.
Đa số dân ở tuổi lao động
trong chung cư là cán bộ, viên chức ăn lương nhà nước, thuộc thành phần trí
thức hoặc có họ gần, anh em với trí thức nên không có thời gian rảnh trong giờ
hành chính để lo việc đồng hồ điện. Hồi này, các cơ quan, công sở quản lý thời
gian làm việc khắt khe, không như trước có thể nghỉ cả buổi chẳng sao. Vả lại,
nếu có thời gian nhiều người "máu sĩ" cũng ngán ngại chuyện chờ chực
xin xỏ. Mọi nhà đồng thanh nhất loạt tăng giá dịch vụ cho Ba Tỷ, từ 100 ngàn
lên 200 ngàn cho một cái đồng hồ. Ba Tỷ vẫn dửng dưng từ chối bảo:
- Thằng này không phải thứ
gà què ăn quẩn cối xay.
Chuyện đến tai Minh, một
chuyên gia về ngôn ngữ, rất nhảy cảm về tiền. Hơn năm qua, từ khi rời khỏi
"nhà cầu thang" ở trường, anh ta săn đuổi đồng tiền trên từng cây số!
Việc giảng dạy ở trường không bao nhiêu, anh ta lên lớp qua loa, nhận xét giỏi
cho hết thảy mọi bài vở, rồi phóng xe máy đi chạy sô khắp nơi. Từ việc dạy
cho trung tâm luyện thi đến việc làm thuê Luận án tốt nghiệp cho một số cán bộ
cần có bằng Đại học để lên chức, cho đến chuyện sưu tầm, khảo cứu, dịch thuật
cho các loại báo đặc san, phụ trương nay còn mai mất... Nghĩa là, nếu việc có
giá trị từ 10 ngàn trở lên trong một giờ là anh làm. Con số gần 20 đồng hồ,
tính tiền là gần 4 triệu hết sức hấp dẫn đối với Minh. Anh ta nghĩ ngay tới
ông cán bộ ở Sở điện đang theo học Đại học tại chức, là một học trò rất cởi mở
rộng rãi. Ông này đã có bằng kỹ sư điện máy từ 4 năm trước, nhưng lại rất ham
mê văn chương, báo chí nên lại ghi danh theo học đại học văn hệ tại chức. Ông
ta có vẻ thích lối giảng "không theo giáo án", lắm ví dụ, điển tích
của Minh nên đã hai lần mời Minh đi lai rai ở nhà hàng và lần nào cũng tặng
Minh gói thuốc ba số 5.
Minh đến nhà riêng gặp ông
ta. Đúng là bậc trưởng giả làm sang. Nhà treo nhiều tranh sơn dầu loại ấn tượng,
nom rất quái đản bên cạnh những hòn non bộ, bể cá vàng. Minh khen nhà đẹp,
trang trí có cấp độ văn hóa cao, rồi đề nghị thẳng:
- Anh giúp tôi lo chuyện
18 cái đồng hồ, tôi hứa sẽ làm luận văn tốt nghiệp cho anh...
Ông cán bộ điện ôkê
ngay...
Minh khôn hơn Ba Tỷ, không
đứng ra nhận tiền của các hộ mà giao cho một học trò - Gã đệ tử ruột của mình
làm. Gã đệ tử này đem hồ sơ xin đồng hồ của các hộ đến Sở điện và được ông
cán bộ nọ dẫn tới những nơi cần thiết làm thủ tục. Việc chạy ào ào. Đội quân
mắc điện kế lại tấp nập hoạt động ở chung cư. Chỉ trong vòng hai tuần lễ, tất
cả các nhà đều có đồng hồ điện riêng. Do được dặn dò (và cũng là đe nẹt) những
đồng hồ này là của người trong nhà nên cánh thợ lắp đồng hồ không dám
"bày tỏ" điều gì, vui vẻ nhận điếu thuốc Zet và lời cám ơn của
Minh.
Vụ này, Minh cho gã đệ tử
hai trăm, còn lại bao nhiêu lấy hết. Mới đầu, người trong chung cư tưởng rằng
Minh không ăn gì, chỉ môi giới vì lòng tốt, còn ăn to là tên trung gian miệng
còn hơi sữa (chỉ gã đệ tử không biết tên của Minh) và dân Sở điện. Nhưng rồi
vợ Khánh phát hiện ra "người trung gian" kia là học trò của Minh và
từ đó biết hết mọi chuyện. Miệng lưỡi độc địa của vợ Khánh rêu rao khắp nơi.
Dân chung cư chửi Minh là đồ "đê tiện, ăn chó cả lông". Bà Tư Rêu
ngày nào cũng chửi xéo vợ chồng Minh là thứ lừa đảo. Vợ Minh buồn lắm, đi cứ
cúi gằm mặt. Minh chẳng để ý gì, cứ thản nhiên như không, bảo: "Tôi chẳng
có lỗi gì hết. Thuận mua, vừa bán kia mà".
Nói vậy, nhưng Minh vẫn
cho rằng Khánh chơi xỏ mình. Việc làm của Minh chỉ có Khánh biết, Khánh ra sức
thanh minh, phân bua mình không nói gì cả, mọi việc đều do mụ vợ lắm điều và
bà già lắm chuyện điều tra, nghiên cứu mà ra. Minh không tin, thề không nhìn
mặt Khánh. Vợ Khánh mát mẻ, bóng gió:
- Không nhìn thì thôi, cái
mặt ấy là mặt gì khiến người ta phải cần gặp.
Còn bà Tư Rêu đuổi thẳng cổ
thằng cu Tạo, con trai đầu của Minh khi nó mon men đến gần bé Nga con gái đầu
của Khánh để xem ké truyện tranh ở hành lang:
- Nhà mày giàu nứt đố đổ
vách, cần gì phải xem ké.
Bức tường vô hình đã ngăn
cách hai nhà. Hai đứa nhỏ chẳng được chơi với nhau công khai, cứ phải lén lút
ra dấu xuống lề đường. Người lớn lỡ gặp nhau không cúi mặt xuống, cũng ngoảnh
đi. Khánh và vợ Minh buồn lắm. Không ngờ hai gia đình thân thích với nhau là
thế, nay bỗng trở nên thù ghét xa cách. Khánh và Minh tuy không cùng quê,
nhưng ở những năm học Đại học là hai người bạn thân thiết. Minh cưới vợ trước,
một người bạn cùng học và Khánh lo tổ chức đám cưới cho Minh. Ngày Khánh lấy
vợ, Minh cũng đứng ra tổ chức từ đầu đến cuối. Minh ở "nhà cầu
thang" cực một, Khánh ở nhà vợ cực mười. Hai năm trước, họ cùng dọn đến
đây, với số tiền sang tên giá hữu nghị của hai cán bộ được cấp nhà riêng khi
lên chức. Những ngày đầu hai nhà như một, chung nhau một cái bàn ủi, một hũ
muối, cái dây phơi. Bà Tư Rêu luôn miệng khen Minh biết làm ăn, căn cơ, khen
vợ Minh hiền hậu tháo vát, đảm đang. Sự rạn nứt của hai nhà bắt đầu từ khi
Minh "chạy sô" dạy thêm, không rủ Khánh theo. Thực ra Minh cũng có
mời tuy không mặn mà lắm, rằng: "Nó chẳng đáng bao nhiêu, nhưng có còn
hơn không?". Khánh từ chối thực bụng, rằng: "Tôi còn phải học thêm
nhiều, không muốn phân tán thời gian".
Khánh ham mê học hỏi,
nghiên cứu, không để ý đến đời sống vật chất. Anh âm thầm, bền bỉ học tiếng
Anh, tiếng Nhật và tiếng Hoa. Do "chạy ngoài" nhiều, thu nhập của
Minh tăng lên. Mức sống hai nhà cách biệt. Hũ muối chung không còn nữa. Bàn ủi
của Minh mua về là loại xịn, không thể dùng chung được. Dây phơi cũng chia
đôi. Bà Tư Rêu giận con trai, suốt ngày rền rĩ: "Cứ chúi mũi vào sách vở,
tiền không có, rồi chết rục xương không có nơi chôn cất cho mà xem. Thấy nhà
người ta mà thèm, sao không học cái hay của người ta". Vợ Khánh, một kế
toán có tay nghề cao, biết cách làm ăn, là trụ cột tài chính của cả gia đình,
mát mẻ: "Giờ đây, những người ham mê sự nghiệp cũng phải thuộc lòng câu
châm ngôn mới, đồng tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, sức khỏe của
tuổi già, cái đà của danh vọng. Biết nhiều mà không có tiền thì biết làm
gì...". Bà Tư Rêu đối chọi với con dâu trên từng cây số, riêng điểm này
rất đồng tiền, nhất trí, mắng con trai tiếp: "Chống tai lên, mở mắt ra
mà nghe vợ mày nói. Lời phải là phải nghe".
Khánh ậm ừ với câu nói cửa
miệng quen thuộc: "Được rồi, được rồi, từ từ...". Nói vậy là để cho
yên cửa yên nhà chứ Khánh không hề có suy nghĩ kiếm ra tiền. Dường như anh
không có "tư duy làm ăn". Kiến thức thu lượm về, chất đống trong đầu,
chỉ để một mình mình biết và giải trí. Ngày này sang ngày khác, cuộc sống của
anh vẫn từ từ, lặng lẽ như chiếc đồng hồ treo tường. Sáng 6 giờ dậy, tập thể
dục ở ban công, ăn chén cháo trắng với một trái cà rồi đến trường bằng xe đạp.
ở đó, anh lên lớp, rồi lại chúi mũi vào những cuốn sách dày cộp. Trưa về nhà
lúc 11 giờ 30, ăn hai chén cơm rồi ngủ trưa đến 13 giờ 30. Lại đến trường, ngồi
lỳ trong thư viện cho tới 18 giờ. Buổi tối, Khánh chỉ xem tivi chương trình
thời sự quốc tế. Lại đọc, ghi ghi, chép chép cho tới 23 giờ 30. Dù ra trường
đã lâu, nhưng Khánh vẫn còn giữ thói quen thời còn đi học ở quê, không có đèn
điện, tiết kiện dầu hôi. Anh nằm trên giường tưởng như ngủ, để nhớ và ôn lại
tất cả những gì đã đọc, đã biết trong ngày. Chính vì vậy, cái đầu của anh
không thua gì máy từ điển điện tử. Tuy vậy, Khánh vẫn không hề có ý định đưa
vốn hiểu biết và kiến thức rộng rãi ấy vào thị trường hoặc khuếch trương nó
cho mọi người biết... Mẹ và vợ mắng mỏ, đay nghiến, anh vẫn chỉ nói độc một
câu:
- Từ từ...
Khánh buồn, tâm sự với ông
Chức ở tầng trên, một cán bộ khôn ngoan một đống, mưu mẹo một cây, nói giỏi,
ngoại giao tài, có trình độ Đại học thật sự nhưng đường quan lộc trục trặc gập
ghềnh, đến tuổi về hưu vẫn là một ông Trưởng phòng cấp quận.
Ông Chức cười, bảo bâng
quơ: "Nhà nào cũng vậy thôi, buồn làm chi".
4. Đàn Bầu |
Con mèo của Ba Tỷ đột ngột
trở về, không còn trắng trẻo, bụ bẫm như trước nữa. Nó ốm nhom, đầy những
thương tích, thất thểu thiểu não, yếu ớt kêu meo... meo.
Ba Tỷ chạy xe đêm, không
có nhà. Chị Chín Rơm đi làm đêm ở nhà in về, thấy nó, thương xót mang về nhà
cho ăn. Chắc bị đói lâu ngày nên có đưa lưng chén cơm với chiếc đầu cá tra
kho tương, con mèo ăn nhanh như cọp đói. Ai bảo ăn như mèo? Cứ để đói, mèo và
hổ ăn như nhau.
Chị Chín Rơm nghĩ vậy khi
con mèo đã no ăn, nằm xoài trên nền gạch bông lim dim mắt, đập đuôi vẻ khoan
khoái. Đột nhiên chị nhớ ra, con mèo này là mèo đực. Và thế là chị nổi giận,
co chân đá nó. "Cái giống đàn ông khốn nạn, chơi bời ngoài đường cho đã,
thân tàn ma dại mới mò về nhà. Nằm một đống đấy để người ta hầu hạ. Này, đồ
mèo dịch bẩn thỉu kia, sáng mai tao sẽ vứt ra khỏi nhà. Đây không chứa đựng
thứ bạc tình bạc nghĩa".
Chị lên giường. Hai giờ
sáng. Chị vẫn không ngủ được. Chị căm giận ông bạn hàng xóm Lưu Bi.
Hồi chiều, chị Chín Rơm
mang sang cho ông Bi khúc cá tra, hỏi ông ta về chuyện bà vợ cũ từ Mỹ trở về.
Ông ta cười khan, bảo: "Bà ấy có về hay không về đâu có liên quan gì tới
tôi. Tôi và bà ta đã là người dưng nước lã từ lâu rồi".
Chị Chín Rơm lại hỏi:
"Thế anh có định... nữa hay không?"
Ông Bi chăm chú nhìn chị:
"Định... gì?"
Chị Chín Rơm cúi mặt nói
nhỏ:
- Thì lấy vợ nữa ấy.
Ông Bi cười, ỡm ờ:
- Ai chịu lấy cái thằng
già sửa xe như tôi.
Chị Chín Rơm đỏ mặt, lí
nhí nói:
- Anh nói vậy chứ có người
để ý tới anh đấy...
Giả bộ ngạc nhiên, ông Bi
hỏi:
- Ai vậy?...
Chị Chín Rơm nói nhanh muốn
hụt hơi:
- Thôi, không nói nữa, em
về đây.
Rồi chị chạy về nhà, hổn hển,
uống một hơi hết cả chai nước. Chị để hé cửa, nhưng ông Bi không sang. Chờ
mãi gần tối. Chị lại đi ra, lượn qua nhà ông ta thấy nhiều khách đến chơi.
Nhóm chân nhìn vô, thấy một bà mặc đầm, son phấn lòe loẹt, nói xoe xóe:
"Tôi không thể tưởng tượng anh có thể sống như thế này được..."
Chị Chín Rơm nghi ngờ người
đó là vợ cũ của ông Bi, nhưng không có ai để hỏi cho ra nhẽ. Lại quay về, ruột
gan rối bời, cô con gái của chị đang học bài, lo lắng hỏi:
- Mẹ sao vậy, trúng gió
à?...
Chị vội vã lắc đầu, xách
túi đi làm. Cái xe đạp hàng ngày chị lấy rất dễ, kéo đánh ào là xong, lần này
chị loay hoay mãi, hết vướng cái này lại giằng co cái nọ. Đám khách của ông
Bi lũ lượt kéo xuống. Bà mặc đầm đi cạnh ông Bi cười nói huyên thuyên. Thấy
chị Chín Rơm loay hoay lấy xe, ông Bi nheo mắt cười. Không thể hiểu cái cười ấy
hàm ý gì nữa. Rồi bà nọ nắm tay ông Bi lôi đi. Ông Bi dặn bác thường trực:
- Tôi đi Biên Hòa vài
ngày.
Chị Chín Rơm làm ra vẻ thờ
ơ hỏi bác thường trực:
- Nhà ông Bi đi đâu vậy?
Ông thường trực vui vẻ
nói:
- Ai biết được!
Chị Chín Rơm nuốt nghẹn, hỏi:
- Cái bà mặc đầm kia lạ
quá. Chắc là Việt kiều?
Ông thường trực làm ra vẻ
bí mật, nói nhỏ:
- Vợ cũ của cha Bi đó! Mới
từ Mỹ về. Tặng tôi gói thuốc đây nè. Nghe nói làm ăn phát đạt, giàu lắm. Cái
anh chàng cao lớn đẹp trai là con đầu ông Bi đó. Không ngờ gã có con lớn vậy".
Chị Chín Rơm nuốt nước mắt,
vội vã đạp xe. Chị đi lung tung hết phố này tới phố khác, mấy lần đâm vào xe
lớn. Có người mắng chị là "đồ ngu", "đồ mù"... lại có người
mắng "đồ tâm thần". Đến khi phố vắng, đêm mờ, chị gục mặt khóc.
Khóc một thôi một hồi thấy nhẹ người. "Thôi, coi như không có chuyện
gì". Chị tự nhắc mình. Nhưng nỗi buồn cứ dai dẳng bám riết chị. Chị ngồi
gấp báo ở nhà in như cái máy, lẫn lộn tùm lum. Có người bảo: "Bà này
trúng tà". Chị cười héo hắt xin lỗi...
Mà không đau, không buồn
sao được. Ông trời thật không có mắt. Chị đâu có xấu xí, vụng dại hoặc lỗi lầm
gì mà sao gặp toàn chuyện khổ đau. Năm 1975, chị bán nước mía ở lề đường cưu
mang đùm bọc một gã lính ngụy chạy từ Đà Nẵng vô Sài Gòn. Chị nhận gã làm chồng.
Bởi chị ít học nên sau giải phóng 30-4-1975 ông cậu làm cán bộ to chỉ có thể
xin cho chị làm cấp dưỡng ở cơ quan. Hồi đó, làm "chị nuôi" được
người ta nể trọng lắm. Công việc lại sinh ra nhiều lợi. Gã chồng hờ của chị sống
phây phây cũng nhờ công việc đó. Chị nuôi heo, nuôi gà để nuôi gã hăng hái
làm việc ở cơ quan. Rồi gã được lên chức, từ tổ trưởng lên phó phòng. Chị sinh
một lèo hai đứa con gái.
Gã phủi tay, bảo:
"Tôi công nhận hai đứa là con tôi, nhưng cô không phải là vợ tôi".
Gã lấy vợ khác, một cô nhân viên tài vụ. Chị không thèm kiện cáo lôi thôi. Chập
tối, xông vô nhà, đánh cho gã một trận, gã chịu đòn, không đánh lại.
Ra tới cửa, chị còn quay đầu
lại, nhổ nước miếng, bảo:
- Khôn hồn anh hãy tránh mặt,
đừng để tôi nhìn thấy lần nữa...
Gã nhăn nhở cười:
- Cám ơn!
Mặt dày đến thế là cùng.
Chị không đau khổ vật vã, cười hí hí bảo: "Coi như làm việc thiện".
Chị làm việc suốt ngày
đêm. Ai cũng khen chị giỏi. Một tay nuôi mẹ già, thêm hai con nhỏ, không nhờ
ai trợ cấp giúp đỡ. Chị Chín Rơm không đẹp rực rỡ. Chị có nét duyên đặc biệt
của người phụ nữ vùng quê nghèo khó: vóc dáng cân đối, khỏe mạnh nhanh nhẹn,
chất phát thật thà, thích giúp người ta, rất nhút nhát nhưng lại cục tính...
Cũng có vài ba người đàn
ông nữa lượn lờ hoặc sấn số nhào tới tán tỉnh chị, nhưng thấy tâm địa họ chỉ
muốn có chị, không thương mẹ già, con nhỏ nên đến phút chót chị đuổi cổ ra khỏi
nhà.
Cuộc sống vất vả khiến chị
chẳng còn thời gian hay sức lực để buồn chán, rầu rĩ, chị ăn khỏe, ngủ khỏe,
rất thích giúp người ta nhất là việc làm cỗ bàn, bày tiệc...
Ngày ông Bi mới về chung
cư, thiểu não như gã ăn xin, tài sản đựng không đầy chiếc giỏ lác. Dân chung
cư mỗi người giúp ông một tý, người cho bộ đồ cũ, người tặng cái tấm đắp, cái
chiếu... Riêng chị Chín Rơm giúp ông nhiều nhất. Hầu như toàn bộ vật dụng cho
bữa ăn là của chị, rồi chiếc mùng, chiếc gối, rồi các quạt điện và cả một số
tiền không nhỏ giúp ông mua dụng cụ sửa xe. Những lúc ông đau bệnh, chị lo
thuốc men, ăn uống, giặt giũ.
Người ta bảo chị
"cua" ông Tư Bi. Chị lại cười hi hí, nói: "thì cua đấy, đã
sao". Thực tình những năm trước, chị không hề có tình ý gái trai với ông
ta. Chị thích cứu giúp những người gặp hoạn nạn. Người đàn ông này bị vợ con
lìa bỏ, không nơi nương tựa, đáng tội nghiệp lắm. Chắc ông ta buồn khổ, đau đớn
lắm. Cứ ngồi im lặng, nhìn xa suốt cả tiếng đồng hồ...
Chị an ủi: "Buồn đau
có ích gì. Như tôi đây, tôi còn cực hơn anh nhiều. Vậy mà tôi cho qua. Mẹ tôi
thường bảo: kẻ gieo gió ắt gặp bão, kẻ lừa gạt người ta ắt sẽ bị lừa gạt lại.
Mẹ tôi còn bảo: không giàu ba họ, không khó ba đời; ở hiền gặp lành".
Ông Bi không có nhu cầu
giãi bày tâm sự. Ông cũng ít nói. Suốt ba măm trời ông chỉ nói với chị Chín
Rơm mỗi câu "Cám ơn".
Khuyên giải an ủi, ông
cũng "cám ơn". Mắng ông ở dơ, nhà cửa không quét dọn, ông cũng
"cám ơn". Hỏi thăm đau bệnh ra sao, ông lại "cám ơn". Tức
lộn ruột, chị Chín Rơm thét "Cám ơn cái đầu ông đấy! Người với ngợm, cứ
như gà rù mắc mưa".
Suốt một tuần chị Chín Rơm
không gặp ông. Và, ông Bi cũng không tìm gặp chị giãi bày, vẫn đều đặn sáng
xuống, tối lên nhà, gảy đàn bầu khúc nhạc "Bèo dạt mây trôi". Chị
Chín Rơm không thích loại nhạc không có lời. Nhạc dẫu hay đến mấy mà không có
lời chị cũng coi như không có. Riêng cái khúc đàn bầu ấy thì chị thấy nghe được.
Không biết có phải vì nghe riết rồi thấy hay, hay do cái vẻ "cao nhân đắc
đạo" của người gãy đàn. Chị Chín Rơm thích xem cải lương. Cái tích truyện
Tàu Tô Vũ chăn dê, chị coi đi coi lại nhiều lần, không thấy chán. Cảnh ông Tô
Vũ bên Tàu kéo đàn nhị hát vọng cổ nhớ về cố hương khiến chị sụt sùi, đằm đìa
nước mắt. Cái dàng vẻ ông Bi gảy đàn bầu, sao giống tài tử cải lương đóng vai
Tô Vũ kéo nhị đến thế.
Chị nhớ ông Bi từ đó. Tới
ngày thứ 8, không thấy tiếng đàn bầu của ông Bi, nóng ruột quá, chị chạy
sang, gõ cửa. Ông Bi bị trúng gió, nằm liệt giường. Chị phải cạo gió cho ông
ta, cằn nhằn:
- Người đã yếu, lại tắm nước
lạnh, không chết là may.
Chị thương ông Bi từ đó.
Nhưng không dám nói ra. Cả chung cư này ai cũng biết. Hình như ông Bi cũng có
cảm tình với chị. Thỉnh thoảng ông còn theo chị đi xem cải lương, mặc dù ông
không thể xem nổi lấy mười phút. Ông đi cho chị vui. Đến đấy, ông ngủ gà ngủ
gật. Khi có tiền kha khá, ông đưa cho chị Chín Rơm, nhờ chị giữ hộ.
Ai cũng mong hai người sớm
làm đám cưới. Nhưng, không hiểu sao ông Bi vẫn không hề ngỏ lời với chị Chín
Rơm...
Không nhẽ ông chỉ coi chị
là một người bạn tốt và vẫn thủy chung chờ vợ từ Mỹ trở về.
"Thì đúng thế còn gì
nữa!". Chị Chín Rơm buột miệng nói thành lời, cho mình nghe, lúc gần
sáng.
Không thế, sao lại đi theo
bà ta, lại còn cười toe toét vui mừng hớn hở nữa chứ. Giận đến chết mất thôi.
Nhưng cớ sao lại giận?
Chị Chín Rơm giật mình hoảng
hốt. Chị đâu phải là nhân tình nhân ngãi của ông ta. Suốt bao năm nay, ông ấy
đâu có bờm xôm tán tỉnh chị, ông ấy luôn cư xử đúng đắn, tôn trọng chị. Cớ
sao lại ghen ngược vậy? Thật tức cười...
Và chị cười thật. Đóng chặt
cửa toalét, xả nước lạnh, tắm thỏa thuê và cười cho đã. Chị Chín Rơm bình tâm
trở lại. Nắm cổ con mèo hoang, đặt nó nằm lên ghế sa lông bọc da "Mà
cũng tội nghiệp, đa mang đèo bồng chi cho cực!". Chị tính ngủ tiếp nhưng
có tiếng gõ cửa...
Nhà Trần Đồng ở tầng trên
dọn đi nơi khác ở. Vợ Đồng nhờ chị chuyển đồ giúp. Chị Chín Rơm đi ngay, hăng
hái vác nguyên cả một cái tủ. Nhà Trần Đồng tức "Đồng bóng" dọn đến
chỗ ở mới, nghe nói giống như vila, biệt thự, có vườn chậu kiểng và trong nhà
có cả bồn tắm men sứ màu xanh nước biển... Theo lời vợ "Đồng bóng"
thì đi vì giận lão hàng xóm không biết điều. Nhưng, theo lời nhiều người thì
"Đồng bóng" bán căn hộ này để lấy tiền kinh doanh lớn, và cái quan
trọng là việc bán này có lời. Nghe nói căn hộ của "Đồng bóng" bán với
giá 10 cây vàng, chỉ có giấy sang tay. Vợ Đồng bóng nhất quyết cãi lại chỉ có
6 cây.
Đây là hộ thứ 10 rời khỏi
chung cư. Mới có vài ba năm kinh tế thị trường, chung cư này lại lắm thay đổi.
Hầu hết, người ra đi vì làm ăn phát đạt, giàu có, như nhà "Đồng
bóng". Nhưng cũng có người ra đi vì nghèo khó cùng quẫn, như nhà anh Ba
Thể.
Chị Chín Rơm là một trong
những cư dân đầu tiên sống ở chung cư này. Nơi đây, trước 30-4-1975 là nơi của
người Mỹ. Sau giải phóng là nơi của cán bộ nhân viên cơ quan V... Bây giờ cơ
quan V thả nổi, Sở nhà đất chưa tiếp nhận nên chuyện mua, bán, đi, ở hoàn
toàn tự do, tùy ý, tùy thích...
Chị Chín Rơm dành cả buổi
sáng để giúp nhà "Đồng bóng". Thấy nhà mới của "Đồng
bóng" sang trọng, chị Chín Rơm nghĩ thương đến nẫu ruột vợ con anh Ba Thể...
Anh Ba Thể là công nhân
nhà in. Thời sắp chữ thì anh còn có giá. Đến lúc tất cả các nơi đều dùng vi
tính đánh chữ, kéo nhũ, anh bị đưa ra khỏi phòng chữ, làm việc giữ kho. Việc
này tuy lương ít nhưng còn có chỗ đứng chân để làm thêm những việc khác như cắt
xén, đóng gói... v..
Vợ anh trước cũng là nhân
viên chế bản ảnh đen trắng, nhưng cũng vì tay nghề quá thấp nên cũng bị thải
hồi. Vợ anh thấy món lợi trước mắt nên xin thôi việc, lấy số tiền trợ cấp ra
chợ buôn bán. ở chợ, chị dính vào số đề, chơi hụi. Được gần một năm, bị hai
người giật hụi chạy trốn, chị phải gánh chịu tất cả. Người ta đến nhà xiết nợ,
lấy hết mọi thứ. Du đãng còn hành hung chị. Thương vợ, anh Ba Tể phải bán nhà
đang ở để trả nợ. Vợ và hai con phải ở nhà người quen, ăn ngủ luôn ở hành
lang nhà máy.
Không còn vốn, vợ Ba Thể
không biết làm gì. Lại thương chồng, thương con cực khổ vì mình, chị dấn thân
vào đường làm gái. Bị người quen bắt gặp ở công viên Văn Lang, chị tủi nhục
quá, bỏ nhà đi biệt tích. Anh Ba Thể phải đón hai đứa trẻ về nhà in để nuôi
dưỡng. Xí nghiệp cũng thông cảm để ba cha con sống tạm ở cuối hành lang nhà
kho.
Anh Ba Thể đau yếu luôn, vẫn
gắng sức làm thêm, không để hai đứa trẻ nghỉ học. Anh vẫn còn thương vợ, tìm
kiếm nhiều nơi nhưng không thấy. Có người ngoài Trung vô nói gặp vợ anh ở Đà
Nẵng. Cũng có người nói gặp chị ở Châu Đốc. Không biết thật giả ra sao. Đã gần
năm trời, vẫn biệt vô tăm tích.
Tháng nào chị Chín Rơm
cũng đến thăm cha con anh Thể, lần thì cho ít kẹo, lần cho vải may áo, lần
cho tiền lũ trẻ.
Trưa nay, lẽ ra chị không
lấy tiền công dọn nhà khuân đồ cho vợ chồng "Đồng bóng", nhưng vì
nghĩ đến cha con Ba Thể nên chị nài nỉ: "Cho thêm hai chục nữa đi, để
giúp cha con Ba Thể. Tội nghiệp hai đứa trẻ, bữa đói bữa no vẫn chịu khó theo
học". "Đồng bóng" nổi máu "bốc rồi" đưa luôn
cho chị một trăm ngàn. Chị Chín Rơm tất tả đạp xe đến nhà kho. Ba Thể lại
đau, nằm co quắp, rên hừ hừ. Đứa gái lớn đi học chưa về. Thằng nhỏ đang nấu
cháo, mặt mũi nhọ nhem. Chị Chín Rơm ứa nước mắt, lo giúp chuyện cơm nước cho
Ba Thể. Chị đưa cho Ba Thể một trăm năm mươi ngàn (một trăm là tiền Đồng bóng
trả công, còn năm chục là của chị), để thuốc men, bồi dưỡng.
Ba Thể chống chọi kiên cường
với hoàn cảnh. Anh cười, bảo: "Bệnh bao tử nó thế. Cứ đến giờ ăn là nó
hành tôi. Chị yên tâm về đi. Trời chưa cho tôi chết đâu. Còn đày ải tôi cho tới
lúc đầu bạc, răng long..."
Chị Chín Rơm bùi ngùi ra về.
Chẳng còn nghĩ tới ông Lưu Bi nữa.
Đứa con lớn của chị khoe:
- Mẹ ơi, Bác Bi cho quà.
Chị Chín Rơm nhăn mặt khó
chịu:
- Cái gì?
Cô bé hớn hở mang ra một
trái mít to, nói thêm:
- Bác Bi bảo còn phải đi
công chuyện mấy nơi nữa, ngày mốt mới về. Bác ấy phải dẫn gia đình từ Mỹ về
thăm viếng các nơi. Lại xin phép lập công ty trách nhiệm hữu hạn gì đó nữa.
Sau này bác không ở đây nữa đâu. Bác ấy bảo sẽ kể chuyện cặn kẽ cho mẹ nghe.
Chị Chín Rơm gắt:
- Ơ hay, cái con này, ai
khảo mà mày xưng. Ai mượn mày kể chuyện nhà người ta.
Cô bé ngạc nhiên, cãi:
- Con cứ tưởng mẹ thích
nghe chuyện đó...
Chị Chín Rơm quát lên:
- Câm ngay, thích cái đầu
mày!
Cô bé le lưỡi, nhăn mặt,
làm bộ sợ, rụt rè hỏi:
- Còn quả mít?
Chị Chín Rơm lạnh lùng
nói:
- Mang trả cho người ta.
Cô bé tiếc rẻ:
- Uổng quá!
Chị Chín Rơm lại thét:
- Uổng gì, con ranh! Thứ
đó có mùi nặng lắm. Vứt ra ngoài kia.
Chị Chín lại tắm. Bực mình
là chị lắm. Tắm một hồi, hết bực bội. Chị ăn qua loa bốn chén cơm đầy, uống một
hơi hết nửa chai nước lạnh, đi làm, vừa đi vừa xỉa răng... Chị thương cha con
Ba Thể. Nghĩ lại, thấy bỏ quả mít uổng thật. Cái lão Bi ấy chắc lại đem cho
người khác. Quả mít ấy mang cho lũ trẻ nhà Ba Thể chắc chúng mừng lắm...
Chị Chín Rơm không nghĩ
chuyện ông Bi, cũng quên luôn việc trả con mèo cho Ba Tỷ. Nhưng đến gần sáng,
mơ màng chị lại nghe thấy tiếng đàn bầu "Bèo dạt mây trôi".
Tỉnh dậy, hóa ra con mèo
hoang của Ba Tỷ gừ gừ một cách êm ái bên tai chị. Không biết nó chui vô mùng
nằm bên chị từ bao giờ... Đúng là đồ mèo già hóa cáo, đồ quỷ sứ…
5. Ca sĩ... |
Mẹ Lệ Hồng bị bệnh chết.
Ba lấy vợ khác. Cảnh rổ rá cạp lại, không bày vẽ tiệc tùng, chỉ có chuyện mâm
cơm cúng. Mẹ kế có hai con riêng, e ngại chuyện con ông, con tôi, cứ lần khần
chần chừ không chịu dọn về.
Năm ấy Lệ Hồng 18 tuổi,
đang học lớp 12. Vừa giận vừa thương bố, Lệ Hồng bỏ học, làm văn thư, đánh
máy ở thị xã. Tỉnh lẻ tĩnh lặng. Những chiều mưa hiu hắt, giọng ca của Lệ Hồng
đằm thắm mượt mà ấm lòng những người xung quanh... Ai cũng khen Lệ Hồng hát
hay, gọi là ca sĩ. Rồi Hồng được cử làm cán bộ phụ trách văn nghệ của cơ
quan, chuyên tổ chức hội diễn và đưa đội văn nghệ đi biểu diễn các nơi.
Năm 1980, Lệ Hồng được về
thành phố Hồ Chí Minh biểu diễn. Giọng ca và đôi mắt trữ tình của Hồng đã làm
một ông cán bộ cấp sở si mê. Ông này bị vợ bỏ ba năm trước, sụt sùi kể với Hồng:
- Tôi khổ lắm cô Hồng ơi,
tôi chiều chuộng vợ tôi đủ điều, vậy mà nó vẫn bỏ tôi, đi theo thằng tài xế
xe tải. Nếu cô không thương tôi, chắc tôi chết mất.
Lệ Hồng nghe cũng cảm động,
bồi hồi... Ông ta thề sống thề chết hứa sẽ tạo mọi điều kiện để Hồng nổi danh
ở đất Sài Gòn này. Ông ta cho cô xem quyết định thành lập một Ban nhạc do ông
ta là người lãnh đạo và tuyên bố hùng hồn: "Không phải ai hát hay cũng về
đây được. Tôi trực tiếp duyệt lý lịch và giọng ca. Đây là Ban nhạc đặc biệt..."
Lệ Hồng xiêu lòng. Có người nói "Hát hò ở tỉnh lẻ thì vạn kiếp cũng là
thứ cây nhà lá vườn, chỉ có ở đất đô hội này mới trở thành ca sĩ". Hồng
thấy phải.
Năm đó, ông ấy tuy đã
ngoài 50 nhưng trông bề ngoài còn phong độ lắm, mặt to, tai lớn, bụng và ngực
đều nở nang, bệ vệ, quyền hạn chắc cũng khá, tuy không có xe ôtô riêng nhưng
cần đi đâu, một cái, có xe đưa đón ngay.
Lệ Hồng nhận lời lấy ông
làm chồng. Đám cưới to nhất tỉnh. Pháo nổ liên hồi suốt bữa tiệc đón dâu. Bố
Hồng thôi không buồn bực về chuyện con rể bằng tuổi mình nữa, vui vẻ hả hê,
luôn miệng nói với mọi người: "Anh ấy là thủ trưởng, nhà nước cưới vợ
cho anh ấy đấy".
Chồng Lệ Hồng tưởng vậy
nhưng không phải vậy. Vợ cũ bỏ ông ấy là phải. Mỗi lần gần vợ, ổng phải uống
thuốc hoặc đi châm cứu.
Ngay đêm đầu, Hồng đã thấy
buồn chán rã rời. ổng nhậu xỉn, thuốc không công hiệu, vật vã suốt mấy tiếng
đồng hồ chẳng đi tới đâu. ổng khóc, bảo di chứng sốt rét. Lệ Hồng biết ông ta
nói xạo. Ông chẳng hề đi bưng biền tham gia kháng chiến, chẳng hề biết sốt rét
là gì. Nhờ có ông anh, nên ông ta từ một tay môi giới đồ cổ trở thành cán bộ.
Dầu vậy, Hồng vẫn thương ông. ồng an ủi chồng: "từ từ, rồi đâu vào
đó".
Chồng Hồng có thú vui sưu
tập tem và những đồ vật kỳ lạ. Ông có 23 vật lạ và hai cuốn Album tem. Bây giờ
có Lệ Hồng, ổng khoe với thiên hạ, như khoe đồ vật đắt giá, một con tem quý
hiếm. Ngày nào ổng cũng mời khách đến nhà để chiêm ngưỡng dung nhan và nghe
giọng ca của Lệ Hồng...
Hồng đau khổ, yêu cầu chồng
cho Ban nhạc đi biểu diễn. Cực chẳng đã, ổng đành phải để Hồng cùng Ban nhạc
11 người đi biểu diễn các nơi, với điều kiện đúng 11 giờ 30 tối là phải về
nhà. Lệ Hồng và Ban nhạc có chút ít tiếng tăm. Cô khuây khỏa với niềm ha mê
ca hát. Rồi cô đâm ra ghiền ánh đèn và khán giả. Song, hồi đó Ban nhạc không
kinh doanh, chỉ biểu diễn phục vụ theo đợt. Bởi vậy, những đêm không đi biểu
diễn, Lệ Hồng như người mất hồng, ra ngẩn vào ngơ. Trong ban nhạc có một tay
ghi ta cự phách, bài nào cũng đệm được, đủ khả năng dẫn lối chỉ đường cho ca
sĩ nếu bị "chập mạch" hay lạc giọng... Anh ta tên Thắng họ Nguyễn
cao ốm, đầu tóc bù xù, giọng trầm đục rất quyến rũ.
Thắng xui Lệ Hồng nói với
chồng để Ban nhạc tham gia kinh doanh ở các tụ điểm. Anh ta đắm đuối nhìn Lệ
Hồng, thảng thốt nói: "Vắng em, anh cũng buồn lắm".
Lệ Hồng giận đỏ bừng mặt,
rồi lại thấy ấm lòng ngay sau đó, cũng đỏ bừng mặt. Thuyết phục mãi, ông chồng
già của Hồng mới đồng ý để Ban nhạc tham gia kinh doanh. Nguyễn Thắng được
phân công làm đội trưởng móc nối hợp đồng các nơi. Cơ hội đã đến. Nguyễn Thắng
như cá gặp nước, như chim sổ lồng. Anh có trong tay hợp đồng trọn gói với đủ
30 đêm diễn cho cả Ban. Có tiền cát xê khá, cả đội hào hứng, chạy đi chạy lại
ào ào, vui như hội. Do nhu cầu kinh doanh, Nguyễn Thắng yêu cầu cả ban phải
liên tục học và đàn dựng tiết mục mới. Anh ta dạy Hồng hát nhạc trẻ, hát nhạc
Mỹ, nhạc Pháp.
"Phải biết lắc mông,
lắc bụng chứ" - Anh ta gào lên. Lệ Hồng lúng túng. Anh ta nắm eo, nắm
mông cô lắc qua, lắc lại hướng dẫn. Lệ Hồng lại đỏ gay mặt vì mắc cỡ. Anh ta
thì thầm: "Thế giới sẽ hỗn loạn vì cặp mông của em".
Lệ Hồng mắng: "Đồ quỷ
sứ". Tát nhẹ vào má anh ta, như vuốt vậy. Cô thấy muốn vuốt ve cái đầu
tóc bù xù của anh ta.
Chồng Lệ Hồng uống thuốc
tăng lực. Da mặt hồng lên, bóng láng. Mái tóc lơ thơ cũng bóng láng. Tất cả đều
trơn trụi, lạt lẽo. Lệ Hồng nhớ cái đầu bù xù của Nguyễn Thắng, ứa nước mắt...
Rồi chuyện đến tất phải đến.
Một chiều dông mưa, Nguyễn Thắng cầm tay Lệ Hồng âu yếm: "Anh yêu
em". Vỡ đê hay bùng nổ cũng vậy. Lệ Hồng ôm ghì chàng ghi ta tài hoa hôn
lấy hôn để, tức tưởi: "Em thương anh, em nhớ anh"...
Đêm ấy Lệ Hồng nói với chồng:
"Em không muốn lừa dối anh. Em không muốn ngoại tình".
Chồng Lệ Hồng vuốt tóc, hỏi
khẽ: "Với thằng Thắng ghi ta hả?"
Hồng cúi đầu:
- Phải, em yêu anh ấy.
Ông chồng cười khan:
- Nó có yêu cô không?
Hồng mạnh mẽ đáp:
- Chúng em sẽ hạnh phúc.
Ông chồng nín lặng một
lúc, thở dài bảo:
- Tôi biết chuyện này rồi
sẽ xảy ra thôi. Nhưng tôi quý cô ở điểm thẳng thắn, không quanh co giấu giếm
lừa dối. Bởi vậy tôi khuyên cô hãy cẩn thận với thằng đó. Tôi không tin là nó
yêu cô thật lòng. Nó không muốn cô ly dị với tôi đâu.
Hồng nói: "Anh ấy nhất
định yêu em, em biết". Chồng bảo: "Cô biết về chuyện đời còn ít lắm.
Không tin, mai cô cứ hỏi hắn xem? Tôi dám cá cược với cô, hắn sẽ van xin cô đừng
ly dị với tôi. Tôi biết, hắn là một thằng hèn".
Lệ Hồng giận dữ thét lên:
- Ông không được nói xấu
anh ấy.
Cô ngồi ngoài phòng khách
chờ sáng. Trong phòng ngủ, ông chồng Lệ Hồng chăm chú xem bộ sưu tập tem của
mình. Từng phút trôi qua. Rồi trời cũng sáng...
Chua chát thay! Đúng như
ông chồng đã nói anh chàng ghi ta tài hoa kia rối rít van xin Lệ Hồng đừng ly
dị chồng. Cái giọng trầm ấm áp mượt mà không còn nữa, thay vào đó lại cái giọng
rỉ mòn, khê nồng, ỉ ôi:
"Chúng ta không thể bỏ
ông ấy trong lúc này được. ổng giận, giải tán Ban nhạc, anh sẽ làm gì? Anh cầu
xin em hãy ở lại với ông ấy..."
Lệ Hồng thản thốt nói:
"Nhưng em yêu anh, em muốn chúng ta sống với nhau. Em không muốn tình
yêu của chúng ta phải che đậy, phải lén lút, vụng trộm. Em không muốn là..."
Nguyễn Thắng đẩy Lệ Hồng
ra, gằn giọng: "Cô không muốn điều này thì cũng phải hiểu tôi không muốn
điều kia chứ. Tôi không muốn giải tán Ban nhạc cô hiểu không? Tôi thà rằng
không có cô chứ không muốn trở lại nghề cạo rỉ sắt".
Lệ Hồng choáng váng, sụp đổ.
Chồng Lệ Hồng hỏi:
"Sao, tôi nói đúng chứ!"
Lệ Hồng thở dài đáp:
- Phải!
Ông chồng thong thả nói:
- Âu cũng là một bài học tốt
cho cô.
Lệ Hồng nói:
- Dầu vậy, tôi cũng vẫn ly
dị anh. Đơn tôi viết rồi đây, anh ký đi.
Ông chồng ngạc nhiên, hỏi
"Cô có điên không đấy?"
Lệ Hồng lạnh lùng:
"Chưa bao giờ tôi tỉnh táo như lúc này".
Ông chồng năn nỉ: "Cô
nghĩ tiếp đi, cho chín, cho sâu, rồi hãy quyết định, đừng vì nóng giận nhất
thời".
Lệ Hồng bảo:
- Tôi không giận anh Thắng
đâu. Anh ta đáng thương hại, không đáng giận. Vì sự kính trọng anh nên tôi phải
ly dị. Anh hãy hiểu điều đó.
Chồng Lệ Hồng đi đi, lại lại
vòng quanh nhà bẩy lần rưỡi, lắc đầu, ngao ngán nói:
- Cô đã muốn vậy, tôi cũng
đành chịu thôi. Dù sao tôi cũng cám ơn cô đã thẳng thắn ngay từ đầu. Tôi sẽ
thu xếp cho cô một chỗ để ở và sẽ không giải tán Ban nhạc.
Lệ Hồng lặng lẽ từ biệt chồng.
Nguyễn Thắng săn đón nồng nhiệt:
- Giờ thì anh với em được
tự do rồi, chúng ta sẽ chinh phục thiên hạ...
Gã ghé môi định hôn. Lệ Hồng
đẩy ra, bảo "Thối lắm!".
Lệ Hồng vẫn hát, Nguyễn Thắng
vẫn đàn nhưng không còn nồng nhiệt say đắm như trước nữa.
Để giữ Ban nhạc khỏi tan,
Nguyễn Thắng chọn người khác ăn ý với mình hơn làm ca sĩ chính. Lệ Hồng hát
phụ, những bài hát buồn đi cùng kèn và sáo. Sự thay đổi này có vẻ hợp lý hợp
tình, tạo nên nét phong phú của Ban nhạc, nhưng cũng từ đó đẩy Lệ Hồng xuống
hàng thứ hai. Lệ Hồng buồn da diết. Giọng ca càng buồn hơn.
Một ngày kia, có ông kiến
trúc sư mê giọng hát của Lệ Hồng, tặng hoa và mời đi ăn trưa ở nhà hàng. Ông
kiến trúc sư thông kim bác cổ, có tài hài hước. Trong bữa ăn và cả buổi chiều
đi chơi ở Lái Thiêu, Lệ Hồng cười nhiều lắm. Rồi ông ta cũng nói: "Anh
yêu em".
Lệ Hồng mỉm cười im lặng...
Ông ta bảo sẽ bỏ vợ để cưới Lệ Hồng. Lệ Hồng cũng im lặng, cười và vít cổ ông
ta xuống.
Lệ Hồng có thai với ông kiến
trúc sư. Ông ta thẩn thờ:
- Anh có hai đứa con gái rồi,
nếu em sinh cho anh đứa con trai thì tuyệt vời. Anh sẽ cưới em, bất chấp mọi
thứ.
Lệ Hồng bịt miệng ông ta,
bảo: "Anh đừng nói nữa kẻo em lại ói". Ông ta là một người thông
minh, vội kể chuyện tiếu lâm về một gã học trò nghèo xứ Nghệ mang con cá gỗ đến
nhà hàng xin ít nước mắm để chấm.
Lệ Hồng sinh con gái. Ông
kiến trúc sư hát xẩm: "Nỗi lòng như sợi đàn căng, mỗi khi có nửa vầng
trăng cuối trời, một ngày nào đó trăng ơi, sợi tơ sẽ đứt hết đời nhân gian,
tiếng kêu như xé tâm can, vì sao có những úa tàn trời ơi, thôi đành như thí vậy
thôi, sống dưới trăng suốt một đời không trăng".
Lệ Hồng khen hay, bảo ông
ta chép lại cho mình những câu xẩm đó. Cô chẳng yêu cầu ông ta làm gì cả,
nhưng tháng nào ông ta cũng mang tiền đến, bảo: "Để nuôi con". Ông
ta để tiền lên bàn rồi đi. Lệ Hồng không nói gì. Thỉnh thoảng, vào những tối
trở trời, mây gió xầm xì săn se, Lệ Hồng nắm tay ông ta kéo lại.
Đầu năm 1990, Nguyễn Thắng
bảo Lệ Hồng:
- Ban nhạc cũng phải theo
mốt. Tôi phải lập ban mới.
Lệ Hồng thản nhiên hỏi:
- Mọi người sẽ đi đâu?
Anh ta đáp: "Mạnh ai
nấy chạy. Tôi chỉ đủ sức lo cho cô thôi".
Lệ Hồng bảo: "Anh
không cần phải ân hận".
Anh ta thở dài: "Tôi
không mong cô tha thứ. Tôi chỉ muốn làm việc gì đó giúp cô, thế thôi".
Lệ Hồng không nói gì. Lặng
lẽ trở về nhà. Hát xẩm những câu hát: "Sống dưới trăng suốt một đời
không trăng..."
Cô thà chịu cảnh thất nghiệp,
chạy vạy tìm đủ chỗ để hát, nhất quyết không theo Nguyễn Thắng. Nghe nói ban
nhạc của anh ta nổi như cồn, tiền thu về như nước.
Người đàn ông thứ tư đến với
Lệ Hồng, rón rén, thận trọng:
- Tôi là Bùi Chương, xin
hân hạnh được làm quen với chị...
Lệ Hồng cười nhã nhặn:
- Cám ơn.
Anh chàng Bùi Chương khá
điển trai, cao ráo, lịch sự. Anh ta tự giới thiệu là một nhạc sĩ tài tử, sáng
tác rất nhiều nhưng chưa được phổ biến vì "tính chất riêng tư quá nhiều",
đành phải chấp nhận làm thuê cho các công ty, xí nghiệp, giúp họ tổ chức dàn
dựng, tập luyện chương trình văn nghệ quần chúng đi tham gia hội diễn.
"Làm thuê theo thời vụ mà". Anh ta cười héo hắt. Lại bảo:
"Nhưng dù sao cũng còn gắn với âm nhạc, phải không chị". Lệ Hồng
nói "Phải". Và chấp nhận yêu cầu với anh ta làm hợp đồng ba tháng với
công ty X..., là nhân viên văn phòng để tham gia đội văn nghệ quần chúng của
công ty.
Bùi Chương và Lệ Hồng là một
cặp đi "đánh thuê" cho các nơi. Tiền bạc, tiếng tăm tuy không nhiều
nhưng cũng đủ ăn, đủ vui để sống. Bùi Chương nhút nhát, hay tự ái, lắm sĩ diện
chỉ làm theo ý mình nên bị các ban giám khảo ghét, cho điểm thấp, ít giải.
Các nơi thấy tiền bạc đổ ra, giải thu về quá nhỏ, không bỏ, bèn dãn Bùi
Chương.
Bùi Chương nói với Lệ Hồng:
- Tôi thì chẳng sao, chị mới
là điều tôi lo lắng. Để tôi giúp chị.
Lệ Hồng thấy mến anh chàng
bất đắc chí này, cười hỏi:
- Anh có tể giúp gì được
cho tôi.
Bùi Chương hăng hái:
Lệ Hồng cười ngất. Hát xẩm
"Sống dưới trăng suốt một đời không trăng...". Rồi khóc đỏ cả mắt.
Cứ tưởng Bùi Chương nói
đùa, ai dè chuyện thật. Anh chàng dẫn đến nhà Lệ Hồng một ông lùn, tròn xoe,
da bánh mật có dáng vẻ oai phong nhưng đôi mắt lại lấm lét nhìn ngang, có vẻ
gian xảo. "Đây là ông Phó giám đốc công ty K... ổng mới có 54 tuổi".
- Bùi Chương giới thiệu.
Lệ Hồng không dám đứng lên
bắt tay khách. Xem ra, ông Phó giám đốc này chỉ cao khoảng 1m5, có kiểng chân
cũng chỉ đến cằm Lệ Hồng.
Hồng bảo: "Để tôi phải
cưa chân cho thấp đã". Ông Phó giám đốc nọ "quái chiêu" hơn cô
nghĩ. Ông ta nói: "Cô không đồng ý thì thôi, khỏi phải cưa. Tôi nghĩ tuổi
cô đâu còn ham chuyện "rước đèn" nữa".
Ba ngày sau, Bùi Chương lại
dẫn một ông giám đốc cao lớn đến. Ông này nhìn Lệ Hồng như muốn lột trần cơ
thể của cô. Lệ Hồng khó chịu bảo "Ông chưa hề nhìn thấy đàn bà
sao?"
Ông ta cười hô hố:
"Tôi cần một người như cô".
Lệ Hồng cười lạt:
- Rất tiếc, tôi không cần
ông...
Ông kiến trúc sư mang tiền
tháng đến, khuyên Lệ Hồng "Có lẽ em phải lấy ai đó có tiền". Lệ Hồng
hôn nhẹ lên má ông ta: "Cám ơn!". Cô lại khóc. Rồi gào lên chửi Bùi
Chương là đồ ma cô.
Nhưng Bùi Chương vẫn kiên
trì mai mối cho cô. Đầu năm 1992, anh ta dẫn đến một anh chàng bụ bẩm hồng
hào, giới thiệu là Việt kiều ở Canada về nước lấy vợ. Bùi Chương thì thào tai
Lệ Hồng: "Nó mê giọng hát của chị lắm. Nó chấp nhận tất cả. Làm đám cưới
linh đình rồi đưa chị đi Tây".
Lệ Hồng kéo Bùi Chương ra
ngoài, rít lên: "Tôi đã nói với anh bao nhiêu lần rồi, rằng tôi không cần
sự giúp đỡ của anh".
Bùi Chương cười hì hì phân
bua:
- Nhưng đám này tốt lắm, bỏ
uổng.
Lệ Hồng nghẹn nào, sắp
khóc: "Nếu anh muốn giúp tôi, xin đưa anh ta về và từ nay đừng quấy rầy
tôi nữa'.
Bùi Chương rầu rĩ đưa anh
chàng Việt kiều về. Lệ Hồng không khóc nữa. Cũng chẳng buồn rũ rượi như trước.
Chị đưa con đi Đầm Sen chơi suốt ngày Chủ nhật. Ông kiến trúc sư đến trễ hơn
thường lệ một tuần. Ông ta mệt mỏi, tránh nhìn Lệ Hồng, xin miếng nước uống.
Lệ Hồng hỏi:
- Anh có đau bệnh gì
không?
Ông ta cười méo xẹo:
- Bà vợ của anh bủa vây bịt
bùng, hành hạ anh suốt ngày đêm...
Lệ Hồng vỗ vay ông ta:
- Từ nay trở đi anh khỏi
phải đến đây nữa. Cứ yên tâm, em đủ sức lo cho con.
Lệ Hồng bán nhà. Sang lại
căn phòng ở chung cư. Chị chấp nhận đi hát ở nhà hàng. Nguyễn Thắng tìm đến,
giận dữ:
- Tôi không thể hiểu nổi
cô nữa, cớ sao cô lại đi hát ở nhà hàng. Cô có biết hát ở đó tủi nhục như thế
nào không?
Lệ Hồng lạnh nhạt nói:
- Biết! Thì đã sao?
Nguyễn Thắng ôm ghì lấy Lệ
Hồng hổn hển:
- Tha thứ cho anh. Anh xin
cưới em. Chúng ta sẽ chinh phục thiên hạ. Ba năm rồi, anh vẫn không thể quên
em được. Hãy đi cùng anh. Anh cầu xin em!.
Lệ Hồng mỉm cười, bảo:
"Nước đã đổ xuống đất rồi, không thể vớt lại được nữa".
Đêm đêm Lệ Hồng hát
"Đời tôi cô đơn", "Thiên thai", "Suối mơ",
"Sao em nỡ vội lấy chồng"... quanh các bàn ăn với sự hồn nhiên, cười
cợt, lắc qua lắc lại, đưa đẩy bộ ngực đồ sộ trước mắt khách. Ban ngày chị dán
nhãn băng cátxét cho xí nghiệp băng nhạc. Giá công "bèo" lắm, lại
thất thường nay có, mai không. Nhưng dù sao cũng còn hơn là chẳng có việc gì
làm, lại được nghe thoải mái các băng nhạc mới...
Một lần, trong lúc buồn vẩn
vơ, đọc báo thấy có bài thơ gửi tặng L.H của tác giả Hy Chương, Lệ Hồng chợt
nhớ tới anh chàng Bùi Chương điển trai tao nhã lắm sỉ diện ngày nào. Ngày hôm
sau, lúc nhá nhem tối, Bùi Chương tìm đến. Ba năm không gặp, chàng ta vẫn như
xưa, nhã nhặn, lịch thệp và bảnh bao với chiếc cà vạt màu xanh nước biển. Lệ
Hồng vui vẻ nói đùa: "Sao, lần này anh dẫn đến cho tôi ai vậy. Một ông
Tây hay Tàu, hoặc Hàn Quốc, Nhật Bổn?".
Bùi Chương bẽn lẽn, phân
trần:
- Chỉ có mình tôi thôi.
Tôi tìm chị muốn đứt hơi. Chị trốn kỹ quá. Nếu không thích chồng thì thôi, cần
chi phải đổi nhà.
Lệ Hồng bảo:
- Tôi đổi nhà để kiếm vốn
làm ăn thôi, đâu có trốn anh.
Chàng ta trách Lệ Hồng sao
dại dột đâm đầu vô nhà hàng hát mướn. Anh ta khẳng định giọng ca của Lệ Hồng
vẫn có đầy đủ sức mạnh chinh phục thiên hạ. Anh ta bảo: "Điều quan trọng
là cánh nhà báo. Nhà báo thời nay có quyền lớn lắm. Họ đã "lăng xê"
ai, người đó thành "siêu sao" ngay. Tôi muốn giúp chị trở lại sân
khấu ca nhạc. Tôi đang làm cộng tác viên cho một số báo...
Lệ Hồng cười hỏi:
- Anh lấy bút danh là Hy
Chương chứ gì?
Chàng ta đỏ mặt, lúng
túng:
- Sao chị biết!
Lệ Hồng thấy mến anh ta.
Con người tốt bụng cố chấp này, dầu có bốc đồng, tự ái thất thường nhưng vẫn
luôn tỏ ra lịch thiệp, đứng đắn. Nghe nói trước đây, cô Đoan Trang hàng xóm tầng
trên của Lệ Hồng, mê anh ta lắm. Cô Đoan Trang buôn bán thua lỗ, bỏ chợ trời,
về làm công nhân xưởng in. Ngay lập tức cô được chọn vào đội văn nghệ và được
anh chàng Bùi Chương hướng dẫn hát đơn ca bài "con kênh xanh xanh".
Cô tặng Bùi Chương cả một tá khăn tay thêu hoa. Bùi Chương đem chia hết cho mọi
người. Cô Đoan Trang giận điên lên, bỏ tập văn nghệ lấy chồng ngay lập tức.
Bùi Chương biết Lệ Hồng ở
chung cư này nhờ buổi ăn nhậu ở nhà cô Đoan Trang. Ông chồng cô Đoan Trang
theo lệnh cô vợ trẻ mời bằng được nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ, nhà báo Hy Chương
tức Bùi Chương về ăn tiệc sinh nhật lần thứ 28 của mình. Vui miệng, ông chồng
cô Đoan Trang kể về cô ca sĩ nhà hàng Lệ Hồng. Thế là, suốt buổi tiệc, chàng
Hy Chương kia không để mắt tới nữ chủ nhà, toàn khen cô ca sĩ Lệ Hồng có giọng
hát hay đến mụ mẫm, đến tan nát lòng người...
ở chung cư, khó có thể giữ
bí mật được những chuyện tình cảm. Để tránh mất lòng người hàng xóm, chị Lệ
Tuyết đã kể chuyện "tiệc sinh nhật cô Đoan Trang" cho Lệ Hồng nghe.
Hóa ra là vậy. Cô Đoan
Trang ghét Lệ Hồng là vì chàng Hy Chương kia... Lệ Tuyết thì thầm vào tai Lệ
Hồng: "Chàng ta yêu chị say đắm".
Lệ Hồng bật cười: - Bùi
Chương ấy à? Lệ Tuyết diễn bài lịch thiệp, ý nhị, cười mím chi, lại che miệng...
Lệ Hồng thẫn thờ đôi chút.
Soi gương, cau mày ngẫm nghĩ không biết Bùi Chương có mê mình thật không.
Ngày sau, chị quyết chí ăn kiêng cho đỡ mập. Chiều gần tối, chị hơi bồn chồn,
có ý chờ đợi Bùi Chương. Được ba ngày chị bỏ ăn kiêng, thây kệ mập. Con gái
hát "Đời tôi cô đơn...". Chị giận, tát nó, như tác mình. Rồi khóc!
Tiếng gõ cửa ấy là của Bùi
Chương. Anh ta mang hoa đến tặng Lệ Hồng. Thêm một cái bánh sinh nhật nữa. Lệ
Hồng nhớ ra ngày sinh nhật của mình. Đã 5 năm rồi, chị không tổ chức sinh nhật
cho mình
Lệ Hồng hát: "Đời tôi
cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn"...
Bùi Chương đệm đàn hát
theo: "Đời tôi cô đơn..."
Lệ Hồng cảm xúc thật sự, bảo:
"Vào giọng nhuyễn lắm".
Bùi Chương nuốt nghẹn nói:
"Tôi đã thấy phép tính một cộng một bằng không (1 + 1 = 0) Lệ Hồng ngờ vực:
"Làm gì có chuyện đó". Bùi Chương mạnh mẽ hẳn lên: "Thì đấy, nỗi
cô đơn của tôi cộng thêm cô đơn của Hồng lại thành ra không cô đơn nữa".
Không lẽ anh ta yêu mình
thật!
Lệ Hồng cười bâng quơ, thầm
thì hát xẩm "Một liều ba bảy cũng liều, cầu Ngang cũng vượt, cầu Kiều
cũng qua. Dặm trường thân gái xông pha. Để xem con tạo trêu ta thế
nào...".
6. Công Chức... |
Nay nói về ông Lê Công Chức,
một người tầm thước, lịch lãm, tuy đã ở tuổi 60 nhưng vẫn còn hoạt bát nhanh
nhẹn, sắc sảo, lắm tài vặt. Ông Chức không biết gốc quê mình ở đâu, cha là
ai, mẹ là ai. Ông là đứa trẻ bị bỏ rơi bên đường được một cô đào cải lương muộn
chồng, thất tình đem theo gánh hát. Cô đào bị ho lao chết, gánh hát rã năm Chức
lên 7 tuổi. Một nhà sư đem Chức về nuôi. Chùa ở vùng nghèo, sống nhờ khoai
lang và bí đỏ. Chức bị còi xương, 15 tuổi mà như đứa trẻ lên 10. Nhờ nhà sư dạy
biết đọc, biết viết; biết vùng đất phía Nam không có mùa đông gió bắc, không
có gió Lào nóng bỏng, quanh năm mưa nắng thuận hòa, lúa chất đầy đồng, cá tôm
kín nước; Chức bỏ chùa xuôi Nam. Đời sống lang bạt, nay đây mai đó, làm thuê
làm mướn, tuy có vất vả cực nhọc song có thịt, có cá, có sữa, có đường nên Chức
hết còi xương, lớn phổng hẳn lên. Gặp phải cảnh đánh nhau, lính Pháp càn
quét, bom đạn mịt mù, người sống cõng người chết, người bị thương kêu la, Chức
hãi lắm, nhiều khi cứng lưỡi không kêu được, đái cả ra quần. Chức sợ đói, sợ
bom đạn, sợ bóng tối, sợ rắn, rít gián, chuột... Nghĩa là trăm ngàn thứ sợ.
Nên anh chàng chui sâu vào tỉnh lẻ,
nương náu trong một ngôi trường học toàn bằng chữ Tây, làm nghề lao công. Tuổi
thanh niên, sức dài vai rộng mà làm nghề đó, nom chướng mắt thật, nhưng Chức
chẳng thấy mắc cỡ. Anh chàng lại lén theo học, chữ nọ xọ chữ kia, chắp chắp nối
nối, hiểu sơ sia đôi nghĩa nên cũng có thể coi là biết tiếng Pháp, nửa bồi nửa
thật. Rồi có người bảo Chức: "Đàn ông là phải có sự nghiệp, suốt đời
quét rác à?" Chức buồn bực, tự ái bỏ đi. Lúc ấy, người Nam Bộ tập kết ra
Bắc với tư cách là học sinh trường tỉnh.v.v... Một vài câu tiếng Pháp
thông thường, tên của vài ba thầy giáo là bằng chứng để người ta tin Chức là
người của trường đó.
Đường quan lộc của Chức
phát từ đó do đi nhiều, biết lắm, lại có chút năng khiếu biểu diễn nên Chức
là thành viên của hầu hết các hội đồng hương. Không là đồng hương cố đô Huế
sao được khi anh chàng này nói giọng Huế đặc sệt, biết những ngõ ngách đi vào
chợ Đông Ba... Rồi Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Hà, Thanh Hóa, Quảng
Ngãi, Phú Yên, Sài Gòn, Bến Tre... đều là quê của Chức. Anh chàng được ưu ái,
chăm sóc thân tình nhờ vào cái thế mạnh đồng hương của mọi miền. Những ngày
chiến tranh phá hoại ác liệt của máy bay Mỹ trên đất Bắc, Chức làm trưởng
phòng hành chính một nông trường ở vùng rừng núi giáp ranh giữa Hòa Bình và
Nam Hà. Suốt những năm đó, anh chàng ở lì trong nông trường bộ, một dãy nhà
xây như lợp bằng phên nứa, sát chân núi. Và do vậy, anh chàng chỉ biết có chiến
tranh qua những bộ phim tài liệu do đội chiếu bóng mang tới chiếu cho nông
trường hai tháng một lần và những thông tin qua chiếc đài bán dẫn chạy bằng
pin văn điển "Ô ri ông tông" to như cái hòm của thợ cắt tóc. Tất
nhiên, thỉnh thoảng anh chàng cũng nhìn thấy máy bay Thần sấm, con ma... của
Mỹ bay ngang qua, cùng với tiếng động cơ vang rền vách núi. Những năm tháng
đó, quả là thần tiên đối với trưởng phòng Lê Công Chức. Yên ổn giữa cảnh chiến
tranh, ăn ngon, lại được sờ nắn đàn bà một cách thoải mái. Nông trường hầu thế
là nữ, nam giới chỉ còn lại người có tuổi vợ con đùm đề hoặc những người
thương tật ốm yếu. Thanh niên khỏe mạnh không còn ai ở nông trường. Họ đi bộ
đội, hoặc chuyển ngành nghề ở những nơi khác. Chức trẻ khỏe, đẹp trai, giữa
thế giới đàn bà con gái, quả là chuột sa hủ nếp. Thế nhưng, con chuột ấy chẳng
ăn được gì. Anh chàng sợ bị kiểm điểm, bị kỷ luật. Gì chứ tội hủ hóa thì nhất
quyết bị đưa xuống đội chăn bò hoặc trồng sắn ở tít phía trong núi con quạ.
Chức thuộc lắm châm ngôn, ghi lòng tạc dạ nhiều lời khuyên nhủ, đáng nhớ nhất
và phải "tụng" hàng ngày là lời dạy của một bậc học giả tinh thông
thiên văn, địa lý, thế thái nhân tình ẩn cư ngoài thị trấn Cốc làm nghề cắt
tóc: "Đừng vì một ngụm nước mà bị dòng sông cuốn đi".
Cũng chính vì thế mà suốt
mấy năm trời bị đàn bà con gái vây quanh, Chức chỉ dám chơi trò "bịt mắt
bắt dê", hoặc "tam cúc véo mũi"... Nghĩa là chỉ vuốt ve hôn
hít bên ngoài thôi. Với bọn con gái thì không sao, còn thấy thích như vậy,
nhưng với cánh đàn bà đã từng biết mùi đời thì trò chơi nửa vời của Chức là
điều không thể chấp nhận được. Nhiều lần Chức bị đàn bà rú rít lồng lộn như
máy bay phản lực Mỹ đánh phá trận địa pháo, "Giời ơi là giời... làm đi
chứ, yêu đi chứ" "Quỷ ơi là quỷ, khều bới lên, rồi bỏ chạy à... Lấp
cho đầy đi" "Đồ chết dịch, để bà lăn lóc khốn khổ thế này ư?"
Chức bị mấy trận đòn đàn
bà, trận nào cũng giống như đòn thù, u cục bầm tím, xây xát khắp người. Bị
đòn đau, Chức lại đâm ra hãi cái món đấy. Giới đàn bà kháo nhau thủ trưởng Chức
bị liệt dương chẳng làm được cái khỉ gì hết. Chức bực lắm, giận lắm, nung nấu
ý định lấy vợ. Chức đặt ra 4 tiêu chuẩn: Thứ nhất: lý lịch phải tốt, nghề
nghiệp văn phòng, có chút đỉnh văn hóa. Thứ hai: là phải trắng, mũi phải cao,
miệng phải nhỏ. Thứ ba: không được cao to, ít lông tay. Thứ tư: biết nấu ăn,
may vá.
ở tiêu chuẩn thứ hai và thứ
ba là do Chức cụ thể hóa yêu cầu "vợ hiền, đoan trang có lịch sự".
Có người bảo Chức vợ đẹp là vợ người ta. Rồi lại dạy "đàn ông miệng rộng
thì sang, đàn bà mồm rộng tan hoang cửa nhà". Cũng giống như mọi đàn ông
khác, Chức cũng thích vợ đẹp, nhưng sợ người ta "của" mất, gây ra cảnh
đau lòng. Lại cũng sợ cái miệng rộng đàn bà lắm chuyện, tham ăn, nên Chức chỉ
cần đến mức có một cô vợ da trắng, mũi cao, miệng nhỏ là đủ. Lại có người bảo
"vợ dâm đãng như bom nổ chậm". Chức hoàn toàn tán thành. Gì thứ dâm
đãng là anh chàng không thể kham nổi. Sáu, bảy trận đòn là đủ rồi. Vả lại,
lúc ấy Chức không tin vào tầm vóc đàn ông của mình lắm. Có lần anh chàng bị
người ta lấy guốc đập tét đầu không phải vì sợ bị kỷ luật mà vì bị "cướp
cò súng" khi vừa chạm "mục tiêu". Chẳng riên gì lần đó, vài ba
lần khác, do hưng phấn, anh chàng vừa nhìn thấy... chưa kịp làm gì đã "xả
hết đạn". Chức nghi mình bị bệnh gì đó, nhưng xấu hổ giấu không dám hỏi
thầy thuốc, đi dò hỏi thiên hạ. Năm ấy Chức đã 32 tuổi. Vớ phải tay thợ xây
giang hồ khét tiếng, ba lần bị bệnh lậu, giọng rất điếm đàng, bảo rằng: - Vậy
là hỏng mẹ nó rồi. Lấy vợ nhanh lên cho biết mùi đời kẻo cái súng "mút
cà tông" của cậu biến thành con đỉa trong ao bèo.
Chức hoang mang, lo lắng,
chẳng dám kén chọn nhiều nữa, lấy đại cô giữ kho, văn hóa lớp 4, cao 1m50 nặng
chưa đầy 40 kg, mông lép, ngực lép, da xanh xao, mũi hếch, mắt một mí lại còn
có đuôi, miệng tuy nhỏ nhưng môi lại dày... Thực ra, cô giữ kho thuổng, cuốc,
dao, rựa... này đã để ý thủ trưởng từ lâu, vờn bám nhiều lần nhưng Chức không
thèm để mắt tới. Khi đám đàn bà thông tin cho nhau biết trưởng phòng Chức bị
liệt dương chẳng làm được gì thì cô ta tủm tỉm cười, lỏn lẻn bảo: "Các
chị để cho em".
Một đêm mưa ngâu rả rích.
Trời lạnh se se. Cô thủ kho đến phòng Chức, tặng cho anh chàng một chén rượu
và bàn tay ấm nóng của cô "giương bẫy" lên. Chức sập bẫy, trở thành
chồng.
Có vợ rồi Chức mới vỡ nhẽ
ra nhiều chuyện. Hóa ra Chức chẳng có bệnh tật gì hết và là một đàn ông cực kỳ
sung mãn. Hóa ra đàn bà cao to, ngực lớn, mông lớn có lông tay đâu phải ai
cũng dâm đãng. Không thể nhìn người mà biết, phải "làm việc" mới
rõ...
Sự đời đâu có chìu người.
Khi Chức có đủ khôn ngoan bản lĩnh để tung hoành trong thế giới đàn bà dưới
chân núi con quạ thì thời cơ không còn nữa. Bà vợ thủ kho dao, cuốc... của Chức
lúc nào cũng mang theo ở lưng quần một chiết liềm sắc bén và nhỏ nhẹ răn dạy
Chức: "Anh yên phận làm trưởng phòng, chẳng phải cho mẹ con em, mà là
cho sự toàn vẹn thân thể của anh. Gì chứ cái ấy mà bị cắt thì đau lắm đấy..."
Nói đến chuyện máu chảy là
Chức sợ hãi vãi đái ra quần. Hơn 6 năm, anh chàng sống như bị giam lỏng,
không dám đi đâu. Buồn phiền, Chức vẽ đàn bà khỏa thân cho khuây khỏa. Tài vẽ
của anh chàng có từ đó.
Sau này, nhớ lại chuyện thời
ở nông trường Chức thở dài, tự an ủi: "Thôi thì được cái này thì mất cái
khác. ở đời chẳng có ai là được tất cả?".
Dẫu sao, Chức cũng rút ra
được một bài học kinh nghiệm từ 10 năm nông trường, nhất quyết cho rằng thời
cơ là điều kiện tiên quyết để thành công trong mọi trường hợp. Phải nắm bắt
được cơ hội và nhanh chân lên. Cơ hội đã qua đi, giống như kim rơi đáy biển,
không sao tìm lại được. Sau giải phóng miền Nam, đến tuổi 40 "tri thiên
mệnh", ông Lê Công Chức có một cơ hội thuận lợi. Là một cán bộ miền Nam
tập kết, ông được bổ sung về tỉnh P và ở đây ông được bố trí làm Trưởng phòng
tổ chức của Sở Nông nghiệp. Tỉnh P là tỉnh nông nghiệp nên Sở Nông nghiệp là
sở quan trọng, cán bộ của Sở này có nhiều điều kiện để lên cao. Ông Chức được
tăng bậc lương, từ cán sự 4 lên chuyên viên 1, có nhà riêng ở thị xã. Yên vị
ghế trưởng phòng được 3 năm thì xảy ra chuyện mâu thuẫn gay gắt giữa giám đốc
và phó giám đốc sở. Do cả hai ông này đều kiêu ngạo, phách lối và đầy rẫy những
khuyết điểm nên việc hạ một ông đối với tài năng của ông Chức là điều không
có gì là khó, nếu liên kết với ông ta. Ông tận dụng tối đa cơ hội này, muốn
nhảy vọt một bước nữa, ngồi vào ghế giám đốc Sở.
Bởi theo thỏa thuận với
ông Phó, nếu hạ được giám đốc thì cái ghế đó sẽ thuộc về ông Chức. Ông Phó bảo:
"Tôi đâu có ham hố quyền chức, bởi ghét thằng cha đó nên tôi phải ra
tay. Tôi ủng hộ chú làm giám đốc".
Ông Chức tin vào sự thỏa
thuận đó, nên nhảy vào vòng chiến, sát cánh cùng ông phó, "đánh" bật
ông giám đốc ra khỏi ghế. Đúng là "phúc bất trùng lai" đối với ông
Chức. Hy vọng được giữ chức giám đốc Sở của ông tan thành mây khói. Ông giám
đốc mới tức là ông phó giám đốc cũ lạnh lẽo bảo: "Anh còn trẻ, khỏe, lại
có bằng kỹ sư, chẳng nên ngồi ở phòng tổ chức". Và, do nhu cầu công tác,
người ta điều ông về làm Trưởng phòng nông nghiệp một huyện xa xôi hẻo lánh,
dân thưa, đất hoang hóa nhiều gấp ba lần đất trồng trọt. Có người bảo ông:
"Thủ trưởng "lật kèo" vì cái tham vọng quá lớn của ông".
Lại có người nói: "Thủ trưởng không dùng ông là phải thôi. Chẳng ai dại
gì dùng kẻ phản trắc".
Lê Công Chức ngậm đắng nuốt
cay, rũ áo ra đi, không từ biệt vợ con. ở huyện, ông giống như Bàng Thống làm
tri huyện trong truyện Tam Quốc suốt ngày nhậu, ngủ, rồi gãy đàn ghita phím
lõm cho vơi bớt nỗi buồn phiền. Tài năng âm nhạc của ông lộ ra ở thời điểm
này. Ông bảo là ông giống như trung thần bị gian thần hãm hại đày nơi biên ải,
sáng tác bài vọng cổ "Ngọc trung ẩn thạch". Người trong vùng thích
ông, khen là nghệ sĩ. Ba năm qua đi, con người ông sút cân, khô héo. Rồi có
người cấp trên thấy ông, mến ông đưa về làm việc ở một Tổng công ty lớn. Ông
lại trở về nghề văn phòng như hồi còn ở nông trường ngoài Bắc. Nhưng cái văn
phòng này sang trọng và to lớn bề thế hơn trước nhiều. Rút kinh nghiệm lần
trước, lần này ông chăm lo đồng đều cho cả ban giám đốc, không "đầu
tư" cho cá nhân nào.
Ông rót nước cho giám đốc,
bật hộp quẹt mồi thuốc cho các phó giám đốc, các trưởng phòng, lại cũng mời
thuốc, mồi lửa cho các nhân viên. Người ta khen ông đức độ nhã nhặn, có tính
quần chúng cao. Ông tưởng rằng như thế là lên, có ai ngờ, "được lòng tất
cả, tức là chẳng được lòng ai", ông giám đốc khó chịu, nói xa xôi, bóng
gió về ông: "Xem ra có vẻ giả dối...".
Ông quyết không an phận,
không cam chịu làm chánh văn phòng, nên tìm cách tiến thân bằng con đường
khác. Từ hồi ông làm tổ chức, quan niệm bồi dưỡng cán bộ từ cơ sở, coi cơ sở
là nguồn bổ sung cán bộ vững chắc đã ăn sâu bén rễ trong tâm trí ông.
Có người gợi ý cho ông về
làm trưởng phòng ở một quận trong thành phố. ở đó, ông có nhiều đồng hương, lắm
thuận lợi. Ông chủ tịch quận mến ông ở đức khiêm tốn, nhiều tài vặt. Dân nông
thôn có đánh bạc, chơi số đề cũng là thứ "bạc vặt", "đề
xóm". Người thành phố chơi xổ số, đánh đề, đánh bạc tính từ
"cây" trở lên. Dẫu biết năm ăn năm thua, ông Chức vẫn đánh cửa
"quận".
Ông bền bỉ, nhẫn nại chờ đợi
suốt 5 năm trời vẫn không được cất nhắc lên làm phó chủ tịch, cũng bởi quận ấy
ổn định, lên xuống lớp lang, tuần tự như tiến. Thời gian này ông đọc nhiều
chuyện Tàu, rút ra nhiều bài học du thuyết. Khả năng biện luận, thuyết giáo của
ông đã đạt đến mức độ đưa chuyện viễn vông đến gần với thực tế. Địa bàn quận
quá hẹp đối với tài thông kim bác cổ, biện bác hùng hồn của ông. Một giám đốc
Sở mời ông về làm trợ lý đặc biệt chuyên lo những vấn đề chiến lược lâu dài.
Âu cũng là một cơ hội tốt. Ông hăng hái, tận tâm tận sức chăm lo nhiệm vụ.
Nhưng khốn nỗi, vấn đề dự án, kế hoạch phát triển này nọ không phải là những
chuyện có trong sách vở mà là thực tế làm ăn. Ông chẳng có được một đề án nào
hết, sau hơn một năm nghiên cứu thực tế trong và ngoài nước. Rồi người ta
cũng hiểu tài năng của ông chỉ dừng lại ở điểm "nói rất hay" mà
thôi. Thất vọng, giám đốc Sở nọ để ông ngồi chơi xơi nước suốt hai năm trời.
Tuổi về hưu đã gần đến. Con trai lớn của ông tốt nghiệp đại học, được cử đi
tu nghiệp nước ngoài. Trước khi lên máy bay nó khuyên ông "Ba còn ham hố
quyền lực làm gì nữa. Không còn có lợi nào cho ba đâu".
Ông giận lắm nhưng cố nén,
chỉ cười: "Trương Nghi còn bị đánh đòn, sống dở chết dử, còn tao vẫn
nguyên vẹn từ lưỡi cho tới gót chân".
Ông ít có nhu cầu sống
trong không khí gia đình. Từ ngày về thành phố, có rất nhiều điều kiện để đưa
vợ con vào, song ông không làm. Ba đứa con ông, một tay bà vợ nuôi lớn, dạy dỗ
nên người. Trách nhiệm của ông chỉ về thăm nhà mỗi năm một lần, chừng 3 ngày
là đủ. Vợ ông cũng vứt bỏ cái liềm sắc như hàm răng cá sấu từ lâu rồi. Bà chỉ
yêu cầu ông gửi tiền về hàng tháng. Các con ông cũng ít có tình cảm với bố.
Thấy ông về chúng chào "Bố mới về", rồi đi làm khác, như khách lạ đến
thăm. Ông cũng chẳng thấy vậy mà buồn. Lại còn vui, bảo: "Tốt, bọn mày sớm
biết tự lập".
Cay cú với chuyện thành
danh không đạt, ông quyết tâm đánh ván bài cơ sở lần nữa. Lần này ông trở về
điểm xuất phát đầu tiên, làm trưởng phòng ở một Sở khác. Ông ra sức làm việc,
tận tụy mọi cơ hội để ra mắt lãnh đạo thành phố và trung ương. Có nhiều vị cấp
trên cảm tình với ông. Niềm hy vọng cứ đeo đẳng ông. Cho tới một ngày, ông
trưởng phòng tổ chức Sở nói nhỏ cho ông biết chỉ còn hai năm nữa là ông đến
tuổi về hưu...
Ông Chức tỉnh ra, đờ đẫn.
Ông uống bia, uống rượu nhiều hơn trước. Khi xỉn ông hát và đàn rất hay. Một
bà văn thư góa chồng phải lòng ông, đem ông về nhà chăm sóc khi ông xỉn...
Vậy là, cái tội mà ông cố
tránh lúc trai trẻ, đến gần cuối đời lại mắc phải. Ông ăn ở với bà góa nọ như
vợ chồng, bị con gái bà đập guốc vào mặt, bị cả cơ quan phê bình. Cũng may là
thời buổi thị trường lắm cà phê, bia ôm, nhà trọ khách sạn, lại cũng thoáng về
tâm lý đàn ông đàn bà nên hai người vẫn có đất dung thân.
Người ta bảo 30 không khốn
bằng 40. Bà góa ở tuổi 42, vứt hết quần áo cũ thay bằng váy áo mới, lúc rộng
lúc hẹp, lúc cao lúc thấp, khi rộng cổ, lúc xẻ tà... ăn ít đi, nhớ chuyện tuổi
20 nhiều hơn, lúc nào cũng nôn nóng, bồn chồn, thỉnh thoảng cười một mình,
nói thầm gì đó, rồi lại cáu kỉnh giận dỗi. Người ta bảo ấy là tuổi "dậm
dật tay chân". Ông Chức gần 60, tuy sức khỏe còn tốt nhưng không thể đáp
ứng những nhu cầu "lúc dữ dội như bão táp, khi lãng đãng như mây trời
mùa thu, lúc hừng hực khí thế xung trận, khi sâu lắng suy tư..." của bà.
Sau mộtnăm "già nhân
ngãi, non vợ chồng", bà góa nhẹ nhàng đẩy ông Chức ra khỏi nhà, bảo:
"Ông đi đi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi...".
Ông Chức buồn lắm. Lại cười
khan!
Con gái ông từ ngoài quê
vô, hỏi: "Đám cưới con, bố có về không?"
Ông Chức lưỡng lự:
- Có thể về, có thể không.
Nhưng ông vẫn về vì ngay
ngày hôm đó, ông có quyết định nghỉ hưu.
Vợ ông hỏi:
- Nghỉ hưu ra ngoài này ở
chứ.
Ông cười nói:
- Tôi vẫn còn nhiều việc
phải làm.
Vợ ông lạnh nhạt:
- Tùy ông thôi, nhưng vẫn
phải giữ tiền về cho tôi. Mỗi tháng 500 ngàn.
Ông Chức trở lại thành phố,
sang lại căn phòng ở chung cư này làm nơi ở. Ông sống bằng nghề vẽ bảng hiện,
quảng cáo và thổi kèn đám ma, đánh đàn đám cưới…
7. Nước, nước...
Đầu năm 1994, con mèo hoang
ngày trước do ba Tỷ nuội đột nhiên bỏ nhà đi. Cũng ngày hôm đó máy bơm nước
của chung cư bị cháy môtơ. Những hộ ở tầng 1, tầng 2 không bị ảnh hưởng gì.
Chung cư ở gần tháp nước nên nước vẫn có thể lên tới tầng 2, tuy hơi yếu. Dân từ
tầng 3 trở lên nhốn nháo, kêu than. Ông thường trực cười hì hì, bảo: "Tôi
không ngạc nhiên về chuyện nó cháy, chỉ ngạc nhiên sao nó lại chịu đựng lâu đến
thế". Ông nhắc lại lời cảnh báo 3 tháng trước về chuyện cái máy bơm
"sức cùng lực kiệt rồi", với ban quản lý chung cư. Ban quản lý cũng
báo cáo với cơ quan chủ quản là cơ quan S. Chánh văn phòng cơ quan S tức giận,
nói: "Cái ấy đâu còn là của cơ quan nữa. Người tứ xứ đổ về, chiếm một nửa
chung cư. Chúng tôi sẽ gửi công văn giao cho Sở nhà đất quản lý".
Nên máy bơm nước bị hư, Ban
quản lý không biết kêu ai, dán giấy yết thị ở nhà giữ xe tầng trệt, rằng:
"Mọi gia đình tự lo chuyện nước. Ban quản lý không có trách nhiệm".
Máy bơm nước hỏng buổi sáng, buổi chiều chung cư giống như phiên chợ phố Huyện
ngày mưa dầm. ở cầu thang, người ta lên xuống, chen chúc. Không biết từ đâu,
các loại can nhựa, thùng sắt được ào ạt tuôn ra. Người gánh, kẻ cõng, người
xách, kẻ vác, mồ hôi cùng nước chảy ròng ròng. Cầu thang ướt sũng, lênh láng nước
chảy. Lẫn với bùn đất và rác rưởi từ các nhà tuồn ra, lối đi cầu thang bẩn thỉu,
nhếch nhác. Người ta cười đùa, châm chọc nhau, cằn nhằn than thở, cũng có người
chửi các máy bơm, mắng Ban quản lý chung cư là vô trách nhiệm. Một vài nhà cũng
giống như con mèo của Ba Tỷ, vội vã tản cư đi nơi khác.
Cư dân tầng 1 và 2 tuy không
nói ra, nhưng nhìn nét mặt cũng biết họ hả lòng hả dạ như thế nào. Nói họ không
có lương tâm, sung sướng trước nỗi khổ của người khác là không đúng. Chẳng qua
là vì đã bao năm nay họ phải cắn răng chịu đựng sự thua thiệt của tầng dưới.
Người tầng trên quét nhà hất rác qua ban công xuống đầu họ. Thậm chí họ phải hứng
chịu đủ thứ uế tạp như nước rửa chuồng gà, phân gà, vỏ chuối, vỏ dưa... và cả cứt
trẻ con nữa. Bây giờ thấy kiếp ở tầng trên nai lưng ra gánh nước, họ hả dạ mát
lòng cũng là phải. Được cái này, phải mất cái khác chứ.
Chỉ có bọn trẻ con là sung
sướng ra mặt. Có mất nước mới biết hết mặt trẻ con chung cư. Chúng được huy động
tối đa trong việc tắm rửa ở dưới đất và mang nước lên nhà. Quả là ngày hội của
chúng. Chúng được dịp nô giỡn thoải mái trên đường đi lấy nước. Đứa lớn can lớn,
đứa nhỏ can nhỏ, bồng bế, mang vác thi nhau chạy lên, lại thi nhau chạy xuống,
té ngã oành oạch, cười nói hỉ hả.
Nhưng đấy chỉ là ba ngày đầu.
Đến ngày thứ 4 của tình trạng "ngày lo làm, đêm lo chuyện nước" thì
không ai vui vẻ được nữa. Người tầng 1, tầng 2 cưu mang cho dân tầng 3 tầng 4,
kéo nước bằng ròng rọc qua đầu họ. Trẻ con cũng mệt nhọc lắm rồi. Chúng lên, xuống
uể oải, liên tục nghỉ và chẳng thích đùa giỡn nữa...
Lê Trạng, một cán bộ tài vụ
của cơ quan S (cơ quan chủ quản của chung cư), với dáng vẻ bệ vệ, bụng tu tai lớn,
mặt mũi hồng hào bóng loáng vì nhậu bia, được gọi là "Quan Trạng" là
tổ trưởng tổ dân phố kiêm chức Trưởng Ban quản lý mãn tính (ông giữ chức này từ
năm 25 tuổi nay đã 40), bàn với các "tầng trưởng" (do ông chỉ định) tổ
chức họp tổ dân phố để bàn chuyện sử máy bơm.
Các hộ thấy phải, thống nhất
góp tiền nhờ thợ đến sửa. Máy chạy, được hai ngày, lại hỏng. Người ta chất vấn
"Quan Trạng". Trạng tra hỏi thợ. Thợ bảo: "Máy của các ông có từ
thời Mỹ đổ quân vào Đà Nẵng, 30 năm rồi, hết đát rồi, sửa chỗ nào, hỏng chỗ
khác, sửa thế chó nào được nữa".
Anh Minh bảo: "Thợ nó
nói đúng! Cái đồ đồng nát ấy cho tôi, tôi kêu công an bắt". Đến như trùm
so Minh đã chê, cái máy thật không còn mi li gam giá trị nào hết.
"Quan Trạng" bàn
mua máy bơm mới. Có hộ tán thành. Có hộ ngảng ra, bảo: "Tiền bỏ ra mua thứ
cha chung không ai giữ, rồi lại hư hỏng, lại sửa, lại mua. Không chơi!"
Ông Trần Đồng, thường gọi là
ông "Đồng bóng", một nhân viên tiếp thị, biết tiếng Hoa ở kế bên nhà
"Quan Trạng" lừ lừ thả dây điện, ống nước xuống, gắn vào chiếc máy
bơm xách tay của Trung Quốc, bơm nước lên nhà. Mọi người xúm lại hỏi giá tiền,
nơi bán.
Ngay lập tức, người ta lũ lượt
kéo nhau ra khu chợ Dân Sinh mua máy bơm. Cũng chẳng hiểu sao, mới cách vài tiếng
đồng hồ, các cửa hàng bán máy bơm nước nhỏ đồng loạt lên giá, từ hai trăm ngàn
lên 250000 đồng.
Minh nghi ngờ chuyện lên giá
này có bàn tay tiếp thị của "Đồng bóng". "Quan Trạng" cũng
nghĩ vậy, bóng gió bảo: "Đánh đĩ mười phương cũng phải để một phương lấy
chồng chứ. Ăn trên đầu người cùng xóm là ăn bẩn".
Đồng bóng nghe thấy, chửi đổng:
"Đồ nhà quê, chẳng biết gì về kinh tế thị trường cả, ông không thèm chấp".
Mâu thuẫn nẩy sinh giữa "Quan Trạng" và "Đồng bóng" có từ đấy.
Trong số các hộ ở chung cư, Đồng bóng nhiều con nhất. Có tới 5 đứa sàn sàn như
nhau, năm một hoặc "ba năm đôi". Vợ "Đồng bóng" trước bán
hàng ở Cửa hàng thương nghiệp Quận, do mạng lưới bán lẻ quốc doanh bị hẹp lại,
cửa hàng bị giải thể, nên nghỉ theo chế độ, ra dân, chạy thị. Người đàn bàn mắn
đẻ này, lúc nào cũng phây phây, má đỏ ửng, cười tít mắt, hồn nhiên bảo:
"Người cho đẻ cứ đẻ, đẻ một lèo cho đã". "Đồng bóng" tính nết
thất thường; lúc thì tính toán ranh ma, căn cơ từ thìa nước mắm; khi thì
"bốc rời" ném tiền qua cửa sổ vì những trò mua danh, và anh chàng này
mê vợ cũng hết sức đồng bóng. Thỉnh thoảng người ta thấy anh ta đánh vợ vì tội
"lẳng lơ cười tít mắt", sau đó lại khóc lóc xin lỗi, sụt sùi ca cải
lương thể hiện niềm ân hận khôn nguôi. Nhưng đó không phải là những lý do để
người ta gọi anh là "Đồng bóng". Sự thật thì anh có nghề giả gái lên
đồng hầu bóng thật. Những năm trước, đời sống còn nhiều khó khăn, vợ đẻ đứa thứ
hai, lương nhân viên văn phòng chẳng là bao, Đồng bóng phải ra sức sục sạo tìm
việc làm thêm. Từ việc chạy xích lô đêm, "Đồng bóng" quen biết một
ông "thầy pháp" nổi tiếng vì tài bắt ma, trừ tà và theo lời đồn đại
ông ta có quan hệ thân tình với thế giới âm phủ, gọi Diệm Vương bằng chú, gọi Tề
Thiên Đại Thánh là anh hai, gọi Đức Bồ Tát bằng Bá mẫu...
Thấy Đồng bóng có cầm chẻ,
môi chẻ và giọng nói eo éo, giống đàn bà, lại thương cảnh vất vả cơ hàn, thầy
bèn thu dụng làm đệ tử. "Thầy" cho "Đồng bóng" mượn chiếc
xe Honđa, tối tối chở thầy đi làm ăn. Hồi ấy người ta đi vượt biên khá nhiều
nên dịch vụ làm ăn phát đạt nhất là việc cung cấp thông tin về vượt biên. Những
gia đình có người đi vượt biên bồn chồn lo lắng không yên, phải tìm đến thế giới
thần linh để dò hỏi tin tức. Tùy từng trường hợp, Đồng bóng đóng giả làm
"Đồng cô" hoặc nhập vai "Đồng cậu" để "giao lưu"
với thế giới âm phủ hoặc đóng vai công chúa Thủy tề báo cho thân nhân các gia
đình vượt biên biết người thân của họ tuy có gặp phong ba bão táp song bình an
vô sự Thầy trò "Đồng bóng" thừa hiểu chuyện ăn tiền của thiên hạ bằng
trò lừa gạt này chẳng hề đơn giản chút nào. Phải "cao tay ấn" mới
"ăn" được. Dĩ nhiên, để có điều đó, phải thông hiểu tình hình thời tiết
biển, địa lý thế giới và cả tâm lý khách hàng nữa. Người ta lén lút đến gặp
"thầy" chỉ để củng cố thêm niềm tin, nuôi hy vọng về sự an toàn của
thân nhân họ và rất sợ phạm chạm trán với công an. Thầy trò "Đồng
bóng" biết rõ điều đó nên "Đồng" nhập vai rất chậm. Khách hàng sốt
ruột nơm nớp lo sợ khi thời gian cứ vùn vụt trôi qua mà "Đồng" vẫn cứ
lắc lư lảo đảo trên mặt biển, tìm chưa ra "công chúa thủy tề". Đợi đến
khi khách hàng sốt ruột chịu hết nổi, "Đồng bóng" mới thôi đảo, dõng
dạt thông báo: "Ta đang bận công chuyện, có việc gì vậy, nói mau?"
"Đồng bóng" hỏi rất
kỹ việc vượt biên từ đâu, ngày nào, lúc mấy giờ, đi bằng tàu gì, bao nhiêu người,
về hướng nào... sau đó mới phán rằng: "Ta đã gặp họ ở kinh độ... vĩ độ...
họ đã gặp bão (hoặc cướp biển)... Ta đã sai cá voi cản gió bão (cá mập chặn bọn
cướp) và họ đã an toàn..."
Nếu khách hàng còn tò mò hỏi
nhiều hơn nữa, "Đồng bóng" bảo "Ta chỉ biết sự việc xảy ra"
ở trong vương quốc của ta, còn ở nơi khác ta không thể biết. Hoặc để đuổi khéo
khách hàng, Đồng bóng đổi giọng nam, nói: "Tôi là tướng cá voi, xin thông
báo cho công chúa biết đã đến giờ hồi cung. Vả lại, tôi thấy ở ngoài hẻm có mấy
ông công an đang đi tới".
Coi như là một tuyệt chiêu,
không một khách hàng nào dám tò mò hỏi nhiều nữa.
Thầy trò "Đồng
bóng" kiếm ăn ở dịch vụ này được hơn một năm thì "bể mánh". Thầy
bị đưa ra tổ dân phố kiểm điểm, làm giấy cam kết không hành nghề mê tín dị đoan
lừa gạt thiên hạ nữa. "Đồng bóng" thoát nạn vì được "thầy"
che chở, bảo là người quen đến thăm đàm đạo về tử vi, phong thủy. "Đồng
bóng" giã từ "thầy pháp" với niềm tiếc nuối và cảm động như một
đệ tử trung thành. Ngoài chuyện tiền bạc thu khá, anh ta còn học hỏi được ở ông
thầy rất nhiều điều cho việc làm ăn như biết được tâm lý khách hàng ở từng giới
khác nhau, những nhu cầu thị hiếu, sự biến đổi thói quen v.v... Nhưng cái được
cụ thể nhất do sư phụ truyền lại cho anh ta là những hiểu biết khá sâu về tử
vi, phong thủy, kinh dịch và tiếng Hoa. Thực ra, "Thầy pháp" không phải
là người dạy ta chữ Tàu. Vì mê tử vi, kinh dịch và phong thủy, "Đồng
bóng" bỏ ra ba năm trời theo học chữ Hoa ở một hiệu thuốc Bắc trong Chợ Lớn!
Thật không ngờ, vốn kiến thức
ấy, Đồng bóng có dịp sử dụng ngay. Một công ty Hồng Kông, thuê anh ta làm nhân
viên tiếp thị với mức lương 300 đôla/tháng. "Đồng bóng" có dịp chứng
tỏ năng lực tiếp thị và chào hàng của mình, được chủ tín nhiệm. Ngoài ra, anh
ta còn có thêm việc làm thu nhập tương đối khá , ấy là nghề coi "phong thủy"
(khi động thổ xây dựng hoặc trang trí nội thất) và xem tử vi, tướng mạo giúp
các ông chủ chọn lựa nhân viên. Một số nhà kinh doanh ở Hồng Kông, Đài Loan rất
coi trọng "phong thủy" và "tử vi tướng số" và điều đó sớm
lan sang giới làm ăn người Việt gốc Hoa ở trong nước.
Gần một năm nay, "Đồng
bóng" làm việc bận rộn, suốt ngày đêm. Anh ta sớm có máy nhắn tin, cũng sớm
có điện thoại cầm tay. Đời sống ngày càng sung túc. Đám con của anh ta có máy
vi tính để giải trí. Vợ "Đồng bóng" có sạp riêng ở chợ. Nghe nói, họ
đã mua nhà riêng, mặt tiền hoi nhưng chưa dọn đến ở, để người nước ngoài thuê,
mỗi tháng kiếm vài trăm đô.
"Đồng bóng" giàu
nhưng vẫn tiếc số tiền 120 ngàn mỗi tháng đóng tiền điện. Thế là "Đồng
bóng" giở trò ma giáo, lấy cắp điện. Nhà anh ta ở sát cầu dao điện của cả
tầng 4, có hai mối điện hở. Chẳng mất nhiều công sức, anh ta lấy điện từ cầu
dao, đưa vào nhà mình không qua đồng hồ điện. Dĩ nhiên, để bảo đảm an toàn, mỗi
tháng anh ta chỉ lấp cắp chừng 80 KW, còn lại để cho đồng hồ gánh 80 KW và anh
ta chỉ phải đóng từ 40 đến 60 ngàn. Không hiểu sao trò gian xảo lấy cắp điện của
anh ta bị nhân viên điện lực phát hiện, bắt quả tang hiện trường. Đồng bóng trốn,
để hậu quả cho vợ giải quyết. Vợ "Đồng bóng" than vãn sụt sùi vì cảnh
đông con, nhà nghèo nên "mượn" đỡ điện của nhà nước chứ không hề có ý
"lấy cắp". Nhân viên nhà điện bị chị ta cảm hóa, tỏ vẻ cảm thông, phạt
500 ngàn...
"Đồng bóng" nghi
"Quan Trạng" tố giác việc lấy cắp điện sai con ném rác và phân mèo
sang hành lang nhà Trạng. Thỉnh thoảng, vợ "Đồng bóng" lại chửi với
sang: "Đồ khốn nạn ghen ăn, tức ở. Đồ phản bội, từng ăn cắp như nhau chứ sạch
sẽ thanh cao gì?". Sự thật thì, khi nhà Trạng chưa có đồng hồ điện,
"Đồng bóng" có tương trợ điện lấy cắp sang. Khi có đồng hồ rồi, Trạng
vẫn cứ xài điện lấy cắp, sau đó thấy sợ, thôi không nhận nữa. Vợ Trạng cùng
buôn bán với vợ "Đồng bóng", thỉnh thoảng cạnh khóe rằng: "Giàu
nhờ gian dối, ăn cấp ấy mà".
Vợ chồng "Quan Trạng"
đã thề sống thề chết không báo việc lấy cắp điện của "Đồng bóng",
nhưng vợ chồng "Đồng bóng" không tin, tiếp tục ném cứt, xả rác sang
nhà Trạng. Vợ Trạng giận điên lên nắm tóc vợ "Đồng bóng" đánh ngay ở
cầu thang. Hai người đàn bà kẻ chợ đánh lộn thật khủng khiếp. Chuyện xảy ra vào
lúc 4 giờ chiều, "Quan Trạng" và "Đồng bóng" chưa về. Cũng
nhờ cái còi của ông pháo binh về hưu và sự giúp sức của chị Chín Rơm nên trận kịch
chiến trên không kéo dài, không gây hậu quả, thương tích nghiêm trọng. Hình như
họ vẫn còn biết kiềm chế, không cào mặt và xé quần áo của nhau. Công an đường
phố đến ngay sau đó, bắt "Quan Trạng" và "Đồng bóng" phải
làm cam kết không để sự kiện tương tự diễn ra nữa...
Hai người đàn ông không đánh
nhau nhưng ngay ngày hôm sau một bức tường được dựng lên chia đôi lối đi hai
nhà ra tận cầu thang chính.
Cũng do bức tường này, tình
trạng lũ lụt thường xảy ra ở chung cư. Do bức tường chắn lối, nên hầu hết các ống
dẫn nước lên các tầng lầu phải xếp lớp bò qua lối đi, chịu sự dẫm đạp vô ý hoặc
cố ý và là nơi để bọn chuột đùa giỡn, thử răng...
Không ngày nào ở các tầng
không có cảnh bể hoặc xì ống nước. Sự nghi ngờ, đối phó nhau lần lần lan rộng.
Một ngày kia cô Đoan Trang tự dưng ghét chị Lệ Hồng. Cô Đoàn Trang rất
hay hát, thích hát, thường xuyên có mặt trong các cuộc hội diễn văn nghệ cơ
quan và cam chắc rằng giọng ca của mình "có sức truyền cảm mạnh mẽ"
như báo chí thường khen các ca sĩ tài danh. Một bữa ăn sáng ở lề đường dưới
nhà, cô Đoan Trang tỉ tê tâm sự với chị Lệ Tuyết về giọng ca của mình, liếc xéo
chị Lệ Hồng ăn ở bàn bên, nói trỏng: "Tại tui không muốn thôi, chứ nhiều
nơi mời tôi hát chuyên nghiệp lắm! Tôi mà hát là đứng đắn nghiêm túc chứ không
như những thứ "dỏm" hát thì ít, lắc mông thì nhiều".
Chị Lệ Hồng ngạc nhiên vì lời
nói xỏ xiên của cô Đoan Trang. Chị không hiểu sao cô Đoan Trang lại "chơi
ác" với mình. Chị nghi "mẹ già cưa sừng làm nghé" Lệ Tuyết bơm
to cái chuyện ông chồng già của cô Đoan Trang "boa" cho chị 50 ngàn
vì bài "Thiên Thai" do chị hát. Bữa ấy, nhà hàng có đám thực khách của
ông chồng cô Đoan Trang say xỉn, nghe xong bài Thiên Thai, nhảy bổ lại, nắm tay
chị Lệ Hồng, sụt sùi bảo: "Cô làm tôi nhớ lại mối tình đầu thơ mộng của
tôi". Ông ta nắm tay Lệ Hồng, ra sức ấn số tiền "boa". Lệ Hồng
không chịu, hai người giằng co nhau. Lệ Tuyết phải ra tay can thiệp, uốn éo
nói: "Có đáng là bao, chị nhận cho ông ấy vui...". Lệ Hồng buồn lắm.
Chuyện khách "boa" cho ca sĩ là phổ biến, chẳng có gì phải e ngại và
chị đã tiếp nhận tất cả. Song, ông khách này lại là hàng xóm của mình, đi ra đi
vô gặp mặt nhau, nhận tiền "boa" kỳ lắm. Cực chẳng đã, chị phải nhận,
định bụng bữa nào thuận tiện sẽ trả lại ông ta.
Nỗi nghi hoặc khiến Lệ Hồng
không biết phải nói sao, nuốt cho nhanh, rồi đi. Chị buồn lắm... Thực ra, chuyện
"boa" cho Lệ Hồng, ông chồng đã khai ngay lập tức cho vợ. Cô Đoan
Trang chẳng hề giận về chuyện đó. Cô ghét Lệ Hồng là vì anh Bùi Chương một nhà
thơ, nhà báo, nhạc sĩ "bất đắc dĩ", người yêu cũ của cô ra sức khen
ngợi giọng ca của Lệ Hồng ngay trước mặt cô.
Bởi vậy, khi ống nước nhà cô
Đoan Trang bị bể, nước trào lênh láng, thiên hạ réo chửi, cô Đoan Trang đổ việc
lên đầu chị Lệ Hồng. Hai người cãi nhau om sòm, lôi cả chuyện "nhà
hàng" ra. Ông chồng cô Đoan Trang phải tát vào mặt vợ và lôi tuốt lên nhà.
Sau vụ cãi nhau đó, chị Lệ Hồng
càng buồn hơn. Chị nói với đứa con gái: "Đời ca sĩ khổ lắm con ạ. Sau này
đừng theo nghiệp mẹ...".
Nhưng cô bé 10 tuổi lại
ngang ngạnh cãi lại mẹ: "Chỉ có mẹ là khổ thôi chứ nhiều ca sĩ khác sống
như công chúa, hoàng hậu, giàu sang hết chỗ nói, báo chí ngợi ca liên
miên".
Rồi con bé sửa lại chiếc váy
đầm, nghoẹo cổ làm duyên, lắc lư hát: "Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô
đơn...".
Lệ Hồng kinh hãi nhìn con.
Cơn giận trào lên khiến chị không còn bình tĩnh được nữa. Lần đầu tiên trong đời
chị đánh con. Một cái tát ngoài ý muốn.
- Câm ngay, ai dạy mày bài
hát ấy...
Con bé không khóc, ngạc
nhiên hỏi:
- Sao mẹ lại đánh con. Bài
ca ấy mẹ vẫn ca ở nhà hàng mà. Con hát theo mẹ không được sao...
"Trời hỡi là Trời"
Lệ Hồng nấc nghẹn, ôm mặt khóc nức nở. Con bé an ủi mẹ "Mẹ ơi, mẹ còn có
con. Sau này con sẽ là ca sĩ giàu, mẹ khỏi đi hát nữa. Con nuôi mẹ mà".
Lệ Hồng càng khóc to hơn,
không hay biết có một người đàn ông gõ cửa…
8. Người lạ...
Cuối cùng thì người đàn bà ấy
cũng khóc. Chỉ là hai vệt nước ứa ra và đọng lại ở cánh mũi, giống như hai giọt
sương buổi sớm. Nó làm cho những đường nét màu sắc đanh lẳn khô cằn trên khuôn
mặt mờ đi. Như đồi trọc trong sớm xuân mờ mờ sương phủ.
Người đàn bà ấy dùng ngón
tay trái lau đi hai vệt nước mắt. Ông thường trực giấu đi niềm xúc động, cúi xuống
vờ tìm chiếc thẻ xe nào đó, cao giọng nói như gắt gỏng: "Về nhà lo làm ăn
nuôi con tử tế, đừng đi theo đường cũ, nghe chưa". Chị ta cười héo hắt:
"Không biết thế nào, nhưng con xin ráng sức giữ mình".
Cư dân trong chung cư tiễn
chị ta ra đi, thân ái, chân tình. Ai cũng dặn: - "Đừng làm chuyện bậy nữa".
Bà Tư Rêu cho hai đứa nhỏ 10 ngàn đồng và một gói kẹo me. Ba Tỷ dùng xe taxi của
mình đưa mẹ con chị ta ra ga Sài Gòn. Ba tháng trước, cũng chính Ba Tỷ đưa ba mẹ
con nhà này về chung cư lúc nửa đêm. Ba Tỷ kể:
- Tôi chạy xe tà tà tìm
khách. Trong mưa, tôi thấy hai đứa trẻ vật vã la khóc bên người đàn bà. Dừng xe
lại, tôi đưa ba mẹ con vô hiên trú mưa, thấy đứa bé gái bị sốt, thằng bé trai bị
rách mặt, máu chảy tèm lem, còn chị ta cũng bị đâm chém gì đó, người bê bết
máu. Tôi không còn lòng dạ để hỏi han xem sự thể ra sao, đưa ngay ba mẹ con đến
bệnh viện cấp cứu. ở đó, người ta băng bó cho hai mẹ con, cho một bộ quần áo bảo:
"Thương tích nhẹ thôi, bị mất máu nhiều nên xỉu, không sao đâu, về
đi!". Tôi giận dữ nói: "Người như thế này mà bảo không sao à?
Đợi đến khi người ta chết rồi mới cứu hả?". Người ta gắt: "Người như
thế này, ở đây chỉ có thể làm được như thế. Bảo chị ta đừng đánh lộn nữa. Lần
sao không có chuyện cấp cứu đâu". Chị ta bảo để mẹ con chị ta ở cửa chợ Bến
Thành. Tôi thấy mưa gió mịt mờ, trời đất lạnh lẽo, để ba mẹ con bên vỉa hè
trong tình trạng sống dở chết dở như vầy là có tội, nên tôi đưa về đây...
Ông Thường trực bảo:
"thế là phải" Ba Tỷ đưa ba mẹ con nhà nọ lên phòng của mình, gọi chị
Chín Rơm sang chăm sóc giùm. Chị Chín Rơm không biết chăm sóc người đau ốm thế
nào, chạy lên nhờ chị Đức Hạnh xuống giúp. Chị Đức Hạnh là kỹ sư Hóa, biết ít
nhiều về thuốc men và cũng biết chút ít về bệnh tật.
Chị Đức Hạnh bảo:
- Bà mẹ và thằng con lớn tạm
ổn, nguy hiểm nhất là con bé. Nó sốt cao quá, phải hạ nhiệt nhanh kẻo làm kinh.
Chị Đức Hạnh giao cho Ba Tỷ
lo chuyện nấu cháo trứng, chị Chín Rơm lấy nước đá và mấy miếng chanh. Con bé
được uống thuốc giảm nhiệt, được chườm nước lạnh và những lát chanh chà xát sống lưng, nên bớt nóng dần dần. Cho đến lúc 1 giờ sáng thì ba mẹ con được ăn
cháo và ngủ yên... Nhưng, đến mờ sáng, con bé lại sốt cao trở lại. Người đàn bà
lạ mặt định ôm con chạy đi. Ba Tỷ phải vất vả lắm mới giữ được chị ta. Lại gọi
chị Đức Hạnh xuống. Chị Đức Hạnh sờ trán con nhỏ, kêu to:
Ba Tỷ lại dùng xe taxi của
mình đưa chị Đức Hạnh cùng con bé đến bệnh viện. ở đó, người ta bảo nếu con bé
đến trễ chừng nửa tiếng thì vô phương cứu chữa. Nó bị sốt xuất huyết, bị viêm
phổi nặng. Con nhỏ nằm bệnh viện suốt một tuần, mọi chi phí thuốc men ăn uống
do Ba Tỷ và chị Đức Hạnh lo. Ba mẹ con nhà ấy không có một xu dính túi, không
có gì hết ngoài bộ quần áo mặc trên người, cũng không có một mẩu giấy tờ tùy
thân.
Theo lời chị ta kể và mọi
người đều tin...
Người đàn bà ấy tên là Thơm,
gốc quê ở Quảng Ngãi. Sinh ra và lớn lên bên cạnh ga tàu hỏa, trong hoàn cảnh
nghèo khó của gia đình, cô bé Thơm phải nghỉ học sớm, chạy chợ, nhảy tàu buôn
bán giúp mẹ nuôi các anh ăn học. Người ta bảo giàu con út, khó con út. Thơm thuộc
diện khó. Năm 18 tuổi lấy chồng. Tưởng về làm dâu nhà thợ may thì cuộc sống
nhàn hạ hơn, ai ngờ tiệm may ế ẩm, suốt cả tháng mới có một hai người khách đến
may quần áo trẻ con. Ông chồng thợ may vốn đã yếu ớt, buồn chán vì cảnh thất
nghiệp, sinh ra tật nhậu ruợu, say xỉn tối ngày, trông càng thảm hại, cứ như
tàu lá chuối non bị héo... Rồi tiệm may đóng cửa, máy may, đồ đạc có giá lần lượt
đội nón ra đi. út Thơm lại phải quang gánh ra ga.
Người bán hàng ăn thì đông,
tàu liên vận Bắc Nam, hồi ấy mỗi ngày chỉ có hai chuyến ngược xuôi nên có ráng
hết sức, số tiền lời cũng chỉ đủ nuôi sống hai miệng ăn. Mẹ chồng kêu khổ. Bố
chồng than chán. Còn anh chồng suốt ngày lè nhè: "Uống tiếp đi, uống chết
bỏ..."
ở ga, út Thơm nghe người ta
nói ở sâu trên vùng Thượng có trầm. Giá trầm đắt như vàng. Chỉ cần kiếm được một
ký trầm là giàu to. Chính mắt út Thơm nhìn thấy người ta bán trầm. Chỉ có một
khúc gỗ nhỏ, đổi lại cả một gói tiền lớn. Một đồn hai, hai đồn bốn, tin vùng
Thượng, ở dãy núi con voi có trầm lan nhanh như lửa cháy. Cánh đàn ông lũ lượt
bòng bị, kéo nhau đi tìm trầm. út Thơm sốt ruột giục chồng đi theo người ta.
Anh chồng vốn ăn trắng mặc trơn từ nhỏ, không quen lao động vất vả, nói
sẵng: "Thà chết đói ở nhà còn hơn chui vào chốn ma thiêng, nước độc".
út Thơm ái ngại, không dám nói thêm nữa. Với thân xác ấy, anh ta chết ngay khi
đến cửa rừng chứ đừng nói chuyện tìm trầm.
Người ta bảo con gái 17 bẻ
gãy sừng trâu, con gái hai mươi đánh voi, đánh hổ. Năm ấy, út Thơm tràn trề
sinh lực, lại khát khao thay đổi nhanh hoàn cảnh nghèo khó, nên quyết chí khăn
gói theo cánh đàn ông cùng xóm băng rừng, vượt núi tìm trầm. Nửa tháng trời lăn
lóc chốn rừng hoang núi thẳm chẳng tìm thấy miếng trầm nào, cả bọn lại gặp phải
bọn cướp trầm từ đâu đó tràn tới. Sau khi khám xét tỉ mỉ từng người, thấy không
có trầm, bọn chúng thả cho đi, riêng út Thơm bị chúng giữ lại. Biết bọn cướp muốn
gì ở mình, út Thơm quỳ xuống khóc lóc xin tha. Bọn cướp cười khả ố, bảo "ở
chơi vài đêm, rồi về, có mất mát gì đâu, lại được sướng". Bốn gã đàn ông
đi cùng út Thơm hèn nhát, lén lút bỏ đi. út Thơm hãi quá kêu cứu, lạy van xin họ
ở lại. Họ cũng không quay đầu nhìn lại. Đến nước liều, út Thơm mạnh như cọp
đói, cô nhào tới đánh lộn tụi cướp, mở đường máu chạy trốn. Bọn cướp bị tấn
công bất ngờ, đánh nhau ở thế bị động. út Thơm trốn thoát. út Thơm bị lạc rừng
ba ngày, ba đêm loay hoay tìm lối may còn có vắt cơm đeo sau thắt lưng...
Bốn gã hàng xóm đi tìm trầm
thân tàn ma dại trở về, báo cho nhà chồng út Thơm biết tin cô bị bọn cướp bắt
giữ. Bọn họ còn nói: "Bị năm thằng lực lưỡng như khỉ đột hiếp thì còn gì
là đời". Người chồng yếu ớt bệnh tật của út Thơm tức ói máu, ngất xỉu...
Khi Thơm về, chồng khua gậy
đuổi đi. út Thơm khóc lóc, trần tình phân bua suốt đêm, chồng vẫn không tin, nhất
mực bảo: "Mỡ đến miệng mèo, thoát sao được, đừng nói nữa!" út Thơm lột
quần áo, rít lên: "Anh phải xem, tôi đâu có bị hiếp". Chồng vẫn không
tin, bảo: "Làm sao biết được, cái thứ ấy như ao bèo tấm, xô ra rồi lại tự
vào..." út Thơm giận lắm, tát chồng, mắng: "Đồ khốn nạn, vô tích sự".
Sáng hôm sau, cô tìm đến nhà bốn người cùng đi tìm trầm, đánh lộn với từng người.
Trong buổi sáng, đánh bốn người xong, trở về nhà mẹ đẻ. Bốn gã đàn ông bị Thơm
đánh, thương tích khá nặng, kiện lên chính quyền xã. Thơm không phải tù, chỉ phải
bồi thường tiền thuốc men và bồi dưỡng cho bốn người. Nhà chồng phủi tay, bảo
không có trách nhiệm. Mẹ thương út Thơm, bán hai chỉ vàng trả nợ cho người ta.
út Thơm ly dị chồng, vay vốn, theo người ta buôn chuyến. Cô buôn đường cát, sợi
thuốc lá từ Quảng Ngãi vô Sài Gòn, lấy hàng nhựa gia dụng từ Sài Gòn ra. Được
ba tháng, Thơm quen biết một anh nhân viên phục vụ trên tàu. Hai người thân thiết
với nhau, già nhân ngãi, non vợ chồng. Cuối năm đó, họ làm đám cưới, khi Thơm
đã có thai ba tháng. Thơm vẫn ở nhà mẹ đẻ, không "chạy" tàu nữa, buôn
bán lặt ga.
Tháng 2 năm 1982, Thơm sinh
con trai, đặt tên là Vui, hy vọng cuộc sống từ đây vui vẻ. Nhưng chỉ một năm
sau, bất hạnh lại đổ xuống đầu út Thơm. Chồng Thơm mới mua được chiếc xe Honda,
kéo bạn bè đi nhậu, gọi là lễ rửa xe. Nhậu xỉn, cao hứng, anh ta phóng xe như
bay trên đường lộ. Tai nạn đã xảy ra. Anh bị chết ngay, không lời trối trăn.
25 tuổi, hai đời chồng, Thơm
đau khổ đến khờ dại suốt mấy tháng trời. Kẻ xấu miệng bảo Thơm có số sát phu. Mẹ
Thơm đau buồn ngã bệnh, ốm liệt giường. Các anh trai kéo về nhà, dội nước lạnh
lên người Thơm, hét:
- Mày có tỉnh ra không, lo
làm ăn đi chứ...
Thơm tỉnh lại đột ngột. Cứ
như bị ma nhập vậy. Lại ngược xuôi chạy tàu buôn bán. Các anh của Thơm ở Đà Nẵng,
Quy Nhơn, Nha Trang đều có vợ con đùm đề, không còn phụ giúp mẹ già được nữa. Họ
thư về, trông cậy vào Thơm. Mẹ già yếu, con nhỏ, tiền vào thì ít, tiền ra thì
nhiều, nghe người ta xúi giục, Thơm nhập băng buôn lậu thuốc lá từ biên giới
Campuchia về.
Biết là nguy hiểm, nhưng sức
cám dỗ của tiền lời quá mạnh Thơm vẫn lao theo. Đến chuyến thứ 5 thì bị vây bắt.
Bởi số hàng quá lớn, cả bọn xúi Thơm ngăn cản công an để chúng chạy trốn, sau
này sẽ đền ơn 5 chỉ vàng. Gã trùm băng bảo: "Cô là đàn bà con gái, bọn họ
không gây khó dễ nhiều đâu, cùng lắm là tạm giam vài ba ngày thôi...".
Năm chỉ vàng, số tiền ấy có
thể thay đổi cuộc đời. Buôn bán bằng vốn của mình, lãi bao nhiêu được hưởng cả,
chứ không phải vay nóng "lãi mẹ đẻ lãi con, trả tiền cho người ta như tự
đâm dao vào mình..."
Thơm hăng hái nhận lời, nhào
tới cánh dân quân tự vệ đánh lộn, cản đường để bọn buôn lậu trốn thoát. Thơm bị
bắt. Sự thể nghiêm trọng hơn cô tưởng nhiều. Tòa án kết tội Thơm cố ý hành hung
người thi hành công vụ, bị xử một năm tù, do có con nhỏ nên cho hưởng án treo.
Trong lúc đánh lộn, Thơm cũng bị thương tích đầy mình, phải uống thuốc lá, đắp
cao suốt cả tháng trời... Bọn buôn lậu cùng băng không thèm để ý tới Thơm, coi
như không có gì xảy ra. Hàng mất, tật mang, tiền vay lãi cứ tăng lên từng ngày,
lại bị "tù tại gia", đi đâu cũng phải xin phép công an... Thơm quẫn
chí, nửa đêm xách dao đến nhà tên trùm băng buôn lậu đòi 5 chỉ. Vợ
gã trùm hãi quá mở tủ lấy số tiền 5 chỉ vàng đưa cho Thơm. Thơm mở quán nước ở
ga, sống đạm bạc qua ngày.
Hết hạn tù treo, Thơm lại nhảy
tàu buôn bán. Trên tàu, cô quen với một thợ chạm trổ từ Bắc Ninh vô Sài Gòn làm
ăn. Ông này tên là Thịnh, tuổi ngoài 40, nho nhã trắng trẻo. Ông ta là con nhà
nòi nghề khắc gỗ, khảm trai, một bàn tay vàng. Chủ Vạn Lợi phải cất công từ Sài
Gòn ra đất Bắc rước ông ta vô, trả tiền công rất cao. Ông Thịnh đã có vợ con ở
quê. Ông ta mê Thơm, bảo Thơm đi theo ông ta. Buôn bán cũng chẳng ra làm sao,
Thơm mang con theo ông ta vô Sài Gòn thử thời vận. Xưởng Vạn Lợi sản xuất hàng
gỗ cao cấp xuất khẩu, ưu đãi ông Thịnh hết mức. Chủ còn nhận Thơm làm phụ việc
và cho ở căn nhà xép giáp xưởng thợ. Thơm sống với ông Thịnh như vợ bé, sinh đứa
con gái, đặt tên là Bắc Ninh. Cuộc sống nhàn nhã ổn định được ba năm. Sóng gió
lại ập xuống cuộc đời Thơm. Mẹ chết, Thơm về chịu tang. Các anh trai bán nhà,
bán đất, chia cho Thơm ít tiền. Ma chay xong, các anh bảo:
- Tự lo lấy thân, chớ có dựa
dẫm, trông cậy.
Thơm buồn lắm, quanh quẩn
bên mộ mẹ suốt cả tháng trời. Trong thời gian đó, ông Thịnh sinh tật cờ bạc. Mới
đầu chỉ chơi cho vui, sau trở nên cay cú. Làm được bao nhiêu tiền, ông Thịnh đổ
vào sòng bài. Rồi thì bán mọi thứ trong căn nhà nhỏ hẹp, từ bộ quần áo mới của
con cho đến chiếc xe đạp của Thơm. Ngày nào Thơm cũng đánh ông ta, đánh nặng
tay, thâm tím khắp người, nhưng ông ta vẫn không thay đổi. Chủ Vạn Lợi cũng muốn
giúp Thơm ngăn chặn máu đỏ đen của ông ta, định giữ lại tiền lương đưa cho
Thơm. Ông ta tuyên bố thẳng thừng: "Không trao tận tay tiền lương, ông ta
sẽ không làm, kiện chủ ra tòa". Chủ Vạn Lợi hết cách. Thơm đánh đập ông ta
càng nặng đòn hơn. Có ngày ba trận. Lôi cổ ông ta từ chiếu bạc về, trói lại. Tối
sau, ông ta lại trốn đi, đến nơi khác...
Để giúp ông ta, Thơm quyết định
trói ông ta lại, dẫn lên tàu, đưa về quê giao lại cho bà vợ, bảo: "Chị đừng
để anh ấy đi đâu nữa, xích vào cột nhà ấy...". Không ai biết Thơm là vợ nhỏ
của ông Thịnh.
Ông Thịnh đi rồi, chủ Vạn Lợi
cũng sa thải Thơm, thu hồi căn nhà xép. Lại tay trắng, với hai đứa con còn nhỏ,
Thơm lang thang quanh chợ Bến Thành xin việc làm thuê. Cuộc sống bụi đời bắt đầu
từ đấy. Mấy tháng đầu, Thơm vẫn giữ mình, không chịu làm gái. Chị thuê nhà lá ở
bên Thủ Thiêm, mỗi tháng hai trăm ngàn cho hai đứa nhỏ ở, ban ngày, chị đi làm
thuê, gần nửa đêm mới về. Bé Bắc Ninh ốm, tiền làm thuê không đủ ăn, làm gì có
để mua thuốc. Không còn cách nào khác, Thơm đành chấp nhận "làm công"
cho một nhà chứa. Mụ chủ cho mẹ con chị ở cùng nhà, nhà chứa ở nơi khác. Có
khách, gọi Thơm tới. Không có khách, Thơm phải hầu hạ mụ chủ, lo việc trong
nhà. Đến lần thứ 4 thì việc đổ bể. Gã đàn ông bắt Thơm làm đủ "ngón nghề"
điếm đàng, chị không chịu. Gã đánh, Thơm nổi giận đánh lại. Cuộc ẩu đả dữ dội
làm gẫy giường, bể lu, om sòm cả vùng. Công an đến, bắt Thơm đi cải tạo lao động
6 tháng. Trong thời gian cải tạo, Thơm gửi tiền nhờ mụ chủ nhà chứa trông nom
giùm hai đứa trẻ. Mụ chủ đã lấy tền lại đem bán bé Bắc Ninh cho người khác. Thằng
Vui biết chuyện, liều mạng xông tới cứu em.
Suốt một tuần lễ nó cõng em
đi ăn xin và hỏi thăm nơi mẹ đang cải tạo. Tìm được mẹ, thằng bé 11 tuổi gần
như kiệt sức, xỉu lên xỉu xuống. Trại cho ba mẹ con ở riêng. Hết hạn 6 tháng,
Thơm kiếm một con dao giấu giắt lưng đến nhà mụ chủ chứa. Mụ chủ có năm tên ma
cô dẫn gái bảo vệ. Thơm không hề sợ hãi, một mình đánh năm tên. Cũng vì nôn
nóng, muốn chém mụ chủ nên Thơm bị vấp ngã. Đang ở thế thắng, chị rơi vào thế
thua, đành phải chịu đòn. Cũng may, thấy Thơm gần chết, có người hô công an đến,
cả bọn tháo chạy. Ba mẹ con Thơm cũng bỏ chạy và Thơm đã xỉu bên đường khi chiếc
xe taxi của Ba Tỷ đi tới.
út Thơm nói khi Ba Tỷ hỏi
tên:
- Ai cũng gọi tôi là út hung
bạo, gọi tôi hung bạo là được rồi...
Người trong chung cư tin lời
kể của út Thơm, nhưng có sự phân hóa trong thái độ cư xử. Một nhóm người trong
đó có Ba Tỷ, Chín Rơm, ông thường trực, chị Đức Hạnh, chị Lệ Hồng tỏ ra thương
cảm nhất trí cưu mang giúp đỡ. Một nhóm cực lực phản đối việc chứa chấp loại
gái giang hồ hung bạo. Người lớn tiếng đòi đuổi là bà Tư Rêu và cô Đoan Trang.
Bà Tư Rêu đanh thép tuyên bố: "Người ta nói đánh chết cái nết vẫn còn. Cái
loại người buôn lậu, làm điếm đã bị đi tù, không thể sửa chữa được. Nuôi ong
tay áo còn ít nguy hiểm hơn chứa loại người này".
Chị Đoan Trang phụ họa thêm
bằng sự tưởng tượng dựa trên những cốt truyện phim xã hội đen. "Coi chừng
mụ ta lại là thứ đại ca giang hồ, giả chết bắt quạ đó. Ai dám chắc mụ ta không
làm nội ứng cho kẻ cướp".
Ông thường trực thẳng thắn
nói:
- Tôi bảo đảm cho chị ấy. Nếu
có chuyện gì xảy ra, tôi chịu trách nhiệm.
Bà Tư Rêu cười lạt, bảo:
- Ông chẳng có cái gì để bảo
đảm cả. Có mỗi cái còi trên cổ, đền bù cho ai. Bắt ông đi tù, chỉ tốn thêm tiền...
Nhóm thứ ba không có ý kiến
gì, chỉ bày tỏ nỗi lo lắng vì không biết con người ấy có lấy ác báo thiện
không? Dầu sao, tổ trưởng tổ dân phố kiêm trưởng ban quản lý chung cư Lê Trạng
cũng báo cáo chuyện "tạm trú" của người đàn bà hung bạo này cho phường
biết. Công an đường phố đến gặp út Thơm, xét hỏi cẩn thận. Khi bé Bắc Ninh khỏi
bệnh, út Thơm từ tạ mọi người, định đem con ra chợ Bến Thành kiếm sống.
Không hiểu sao, đến lúc đó,
tất cả mọi người trong chung cư đều đồng tâm nhất trí giữ út Thơm lại để tìm
cách giúp đỡ. Anh công an đường phố nêu ý kiến viết thư yêu cầu các anh trai của
út Thơm phải có trách nhiệm săn sóc mẹ con Thơm. Ông thường trực bảo:
"Không xong đâu! Trông cậy vào trách nhiệm của những người không trách nhiệm
là hỏng! Sẽ như bắt cóc bỏ đĩa thôi"...
Bà Tư Rêu hung hăng nói:
- Vô trách nhiệm thế nào được.
Phải bắt bọn nó làm giấy cam đoan, nếu sai phạm bỏ tù.
Chị Đức Hạnh bàn:
- Có lẽ cũng cần lấy một phần
tối thiểu trách nhiệm của họ, còn bà con ta cũng nên ủng hộ chị ấy ít nhiều để
có vốn làm ăn...
Mọi người thấy phải, đồng
lòng góp tiền, của ít lòng nhiều. út Thơm ở lại chung cư thêm hai ngày nữa để
bé Bắc Ninh khỏe lại. Hàng ngày, chị quét dọn cầu thang từ trên xuống dưới.
Chung cư trở nên sạch sẽ như khách sạn không còn cảnh rác nhà nọ tống sang cửa
nhà kia. Chị dậy từ sáng sớm để dọn rác. Khi mọi nhà thức dậy mở cửa thì rác
hôm qua không còn nữa. Ai cũng hài lòng đồng ý trả tiền công dọn rác cho út
Thơm. Cuối cùng thì anh hai của út Thơm cũng thư vào, báo cho Thơm biết đã kiếm
được việc làm đủ sống cho ba mẹ con ở Quy Nhơn. Thơm giã từ chung cư...
Một điều lạ xảy ra. Bà Tư
Rêu khóc, nước mắt đầm đìa. Bà ôm bé Bắc Ninh trong lòng, gằn giọng nói với út
Thơm:
- Cô phải chăm sóc kỹ cho
con bé. Để nó cực khổ là không xong với tôi... Tội nghiệp cháu tôi...
Ba mẹ con ra ga lúc thành phố
sáng rực ánh đèn.
9. Tình yêu...
Chung cư lại xảy ra chuyện
phân chia phe nhóm. Lần này không đến mức "ly tâm, ly tán" như chuyện
điện nước. Nó là chuyện bất đồng ý kiến, như chuyện "có ma hay không
có ma" hồi hai năm trước.
Nguyên do là việc cô Thúy
con gái đầu của ông Cương từ hôn với anh chàng Việt kiều Văn Bạch, đem lòng yêu
thương cậu An, thằng thợ điện cù lần, con đầu lòng của chị Hai Sắt. Mới nghe
tin này, không một ai tin, bảo: "Làm gì có chuyện đó". Chị Chín Rơm
thở dài, nói "Tội nghiệp thằng An, đừng đùa cợt kiểu ấy với nó". Ông
Lê Công Chức cười, bình phẩm: "Tin cá tháng tư dành cho giới báo chí tư sản
đấy. Thời buổi này làm gì còn có chuyện cổ tích Alađin và cây đèn thần".
Cô Đoan Trang dãi dề:
"Không có ma, làm sao có chuyện đó" ngay cả Lệ Hồng, Lệ Tuyết, hai
"giọt lệ lãng mạn" và nhiều tưởng tượng nhất chung cư, cũng phải lắc
đầu, cười nói: "Không có chuyện ấy đâu". Nói tóm lại người trong
chung cư đọc nhiều sách báo, biết lắm tin giật gân, lạ lùng, biết nhiều chuyện
kỳ quái trên thế giới và trong nước nên có thể tin chuyện người có bàn tay phát
điện nướng chín cá, chuyện cưới nhau dưới đáy biển... nhưng không thể tin chuyện
cô Thúy bỏ Văn Bạch, yêu cậu An.
Thực ra, họ không tin chuyện
đó cũng có cơ sở. Trước hết nói về cô Thúy. Đấy là một cô gái đẹp kiều diễm, có
học thức, tính nết đoan trang, gia giáo đến mức khắt khe. Thúy cao 1m68, các số
đo đạt tiêu chuẩn hoa hậu và nếu như cô không bị cha ngăn cản thì chắc chắn sẽ
đoạt vương miện hoa hậu năm rồi. Thêm nữa, Thúy có vẻ đẹp tao nhã thanh thoát,
rất á Đông. Cô vừa tốt nghiệp Đại học ngoại ngữ, có rất nhiều công ty màu mỡ
béo bở mời chào nhưng cô chưa nhận việc ở đâu, mới chỉ làm hợp đồng vụ việc cho
công ty du lịch. Người ta bảo cô giỏi tiếng Anh, nói như người Luân Đôn chính gốc.
Ông Cương, cha cô, tự hào hãnh diện vì con gái, yêu quý hết mực nhưng cũng khắt
khe hết mức.
Hồi Ba Tỷ mới về chung cư, gặp
Thúy ở cầu thang đã "chết đứng" liền. Anh chàng "trồng cây
si" suốt cả tháng trời, tuyên bố hùng hồn: "Nếu có phải mất hết tài sản
vì Thúy tôi cũng sẵn sàng". Ông Chức cười, hỏi: "Nếu phải chết thì
sao?". Thằng cha láu cá, bẽn lẽn cười, nói: "Chưa nghĩ đến chuyện
đó". Thúy lạnh nhạt nhắn tin cho Ba Tỷ hay: "Có tiền có thể mua tiên
nhưng cũng không chắc đã mua người được đâu, chớ có ảo tưởng"... Ba Tỷ ngậm
đắng nuốt cay lùi xa, tránh mặt Thúy.
Ông Cương là trợ lý Giám đốc
một công ty làm ăn lẹt đẹt, cầm chừng. Ông là người gia giáo, rất sợ phải mang
tai tiếng. Hơn ai hết, ông hiểu rất rõ câu ca thời xưa "Con gái như thể
hàng săng, đắt chẳng dám mừng, ế chẳng dám kêu" và câu nói cửa miệng thời
thị trường "con gái như bom nổ chậm trong nhà". Ông có ý tìm chồng
cho con gái từ khi Thúy còn học Đại học. Rồi ông cũng tìm được Văn Bạch, một
thanh niên Việt kiều ở Pháp, một chuyên gia có tài về nhiều lĩnh vực. Văn Bạch
là con trai một của một gia đình thuộc dòng họ đỗ đạt cao, nổi tiếng trong
vùng, là đồng hương cùng xã với ông Cương. Văn Bạch lớn hơn Thúy 5 tuổi, sinh
ra và lớn lên học thành tài ở Pháp nhưng biết nói và viết chữ Việt không thua
gì sinh viên khoa Văn Đại học Tổng hợp. Dù giàu có, học thức cao, anh ta sống hết
sức giản dị gần gũi với mọi người và am hiểu sâu sắc những tập tục lễ nghi, các
mối quan hệ gia đình xã hội truyền thống Việt Nam. Anh ta đến giúp công ty ông
Cương vì công nghệ mới, được đón tiếp như một hoàng tử. Các cô gái trong công
ty từ kỹ sư, phó tiến sĩ đến các cô nhân viên, công nhân đứng máy thi nhau
trình diện, mong được lọt vào cặp mắt đen sắc sảo và hiền hậu của anh ta. Ông
giám đốc công ty mời anh ta về nhà ăn cơm, mong muốn anh ta để ý đến cô con gái
đang học Đại học của mình. Anh ta tế nhị từ chối: "Cháu mong muốn đóng góp
được nhiều cho đất nước". Ông Cương theo dõi sát mọi hoạt động, lời ăn tiếng
nói của Văn Bạch. Ông có cảm tình với anh ta và nhận đồng hương. Văn Bạch thiết
tha đề nghị ông dẫn về thăm quê. Ông Cương giao việc này cho Thúy, bảo:
"Con gái tôi còn biết nhiều hơn tôi, để nó đưa cậu đi"...
Gặp Thúy, Văn Bạch cũng phải
sững sờ, bối rối. Sau chuyến về thăm quê cha đất tổ, anh ta si mê Thúy hết mức,
chiêu đãi ông Cương hết mực. Tết Nguyên Đán năm rồi, anh ta đưa mẹ từ Pháp sang
làm đám hỏi. Nghe nói, đám hỏi được tổ chức rất cầu kỳ, tốn kém. Lễ cầu hôn trị
giá mấy cây vàng. Và, cũng theo lời đồn đại, sau đám cưới, Văn Bạch sẽ làm ăn
lâu dài ở Việt Nam, lo cho ông Cương căn nhà mới... Mọi người trong chung cư và
ở công ty đến chúc mừng ông Cương. Ai cũng khen cặp Văn Bạch - Thúy đẹp đôi. Lý
do chính để Thúy không nhận việc ở đâu là vì chờ đám cưới xong cô sẽ theo chồng
sang Pháp học thêm tiếng Pháp và sau đó sẽ làm việc cùng một nơi với chồng.
Trai tài gái sắc, nết na hiền
hậu như vậy, đã hứa hôn nhất thiết phải bền chắc, không thể có chuyện người thứ
ba xuất hiện chia cắt họ tổ chức đám cưới, cho dù người ấy là thứ siêu hạng, huống
chi lại là cậu An. An hơn Thúy hai tuổi nhưng trông già dặn, phong trần và khắc
khổ như đàn ông ngoài 30 tuổi. An không phải diện thanh niên cao lớn, cũng
không nhỏ con, không đẹp trai, cũng không xấu... Cậu ta tầm thước, chiều cao chắc
cũng bằng Thúy nhưng vì cậu ta đi dép lê mòn còn Thúy đi giày cao gót nên gặp ở
ngoài đường, Thúy cao hơn. Nhìn chung về mọi điểm, An là người mờ nhạt, trung
bình, không có gì nổi bật, dễ lẫn trong đám đông. Cái điểm đặc biệt của An lại
là tính nết thật thà, chất phác đến mức cù lần.
Làm công cho người ta, lắp đặt
cả một hệ thống điện trong nhà, mất cả một buổi chiều, chủ trả công 10 ngàn đồng
cũng nhận, không đòi thêm lại còn lễ phép "cám ơn"... Gặp bạn gái chỉ
biết hỏi: "đi đâu về", "ăn cơm chưa", "mấy giờ rồi".
Có lần đi làm về, ngồi nghỉ
mệt ở công viên gặp loại gái giang hồ chôm chỉa hỏi mượn chiếc xe đạp tập đi,
An cũng cho mượn. ả tập đi xa dần, xa dần rồi phóng một lèo, mất tăm biệt tích.
An chỉ biết kêu ơ ớ mấy tiếng. Từ đó trở đi cậu ta không ngồi chơi ở công viên
nữa, cũng không vào quán giải khát. Đi đâu, ở sau xe cũng có một bình nước
chín, giống như những người nghèo đạp xe xích lô.
Điểm đặc biệt thứ hai ở An
là một tay thợ lành nghề, sáng dạ. Cậu ta học không nhiều, nhưng chịu khó mày
mò tự tìm hiểu nên thông thạo các loại máy nổ, các loại điện cơ, điện lạnh, điện
gia dụng và cả điện tử. Mọi thứ đồ dùng xài điện trong chung cư nếu bị hư hỏng
đều gọi cậu ta đến sửa chữa. Bất kể đêm hôm khuya sớm, ai gọi "An, sửa dùm
cái này...", cậu ta đều sốt sắng vui vẻ tới liền, không lấy tiền công. Người
trong chung cư ai cũng mến cậu ta, nhưng vẫn chê cười là cù lần...
Chị Hai Sắt, mẹ của An bị
đau bệnh liên miên, phải nghỉ mất sức, về nhà cũng không buôn bán hoặc làm gì để
kiếm tiền, chỉ quanh quẩn việc nhà từ hai năm nay. An là trụ cột, là nguồn sống
của cả gia đình. Ba An cũng là thợ điện, bị bệnh chết năm An đang học lớp 11.
An phải nghỉ học, đi làm thuê ở tiệm sửa xe gắn máy, tối theo lớp học nghề. An
đi nghĩa vụ quân sự, học thêm được nghề điện cơ. Hết nghĩa vụ quân sự, An về
làm việc ở tổ kỹ thuật nhà máy in. Công việc ở đó không nhiều nên An chạy thêm
việc ở ngoài. Xí nghiệp biết hoàn cảnh gia đình An khó khăn nên cũng thông cảm.
An đi làm ở ngoài từ mờ sáng
tới nửa đêm. Năm ngoái cậu ta mua được chiếc xe Honda cũ, giá có 7 chỉ, tự tay
tu bổ sơn xì mạ lại giống như cúp, lắp thêm một chiếc còi xe kêu bính boong,
bính boong rất vui, rất ngộ. Ông già thường trực chung cư rất thích tiếng kêu của
chiếc còi đó nên ông yêu cầu An mỗi lần về khỏi đập cửa, cứ bấm còi, ông khắc
biết.
Dầu vậy, nhưng mọi người
không hề để ý tới An. Cậu ta mờ nhạt như tiếng còi xe của mình. Thiên hạ gặp
thì nhớ, An đi rồi là quên ngay. Gã Ba Tỷ bảo: "Nếu có chuyện cô Thúy mê
thằng An, tôi xin đi bằng tay".
Song, chuyện đó là sự thật.
Ông Cương hết gầm thét đe dọa lại ngọt ngào dụ dỗ thuyết phục, nhưng Thúy vẫn
nhất mực đòi trả lễ đám hỏi, nhất quyết lấy An làm chồng. Cô luôn luôn bình
tĩnh, nhẹ nhàng nói "con thương anh An, anh ấy cũng thương con, chúng con
không thể xa nhau".
Ông Cương gầm lên: "Mày
thương nó từ bao giờ?". Thúy nói: "Con thương ảnh từ lâu rồi, nhưng mới
đây mới biết"...
Ông Cương đập bàn, dậm chân:
"Thế là thế nào?"
Thúy đáp: "Con không biết"
Ông Cương không hiểu, mọi
người cũng không hiểu cớ sao có chuyện ấy. Ngay cả An và Thúy cũng không hiểu
vì sao họ lại thương yêu nhau như vậy.
Thúy kể: Từ nhỏ tôi và An đã
thân thiết nhau. Hai đứa học chung một trường, một lớp. Tôi gọi An là anh hai
và luôn co ảnh là anh hai của mình. An đối với tôi như một đứa em gái. Tôi luôn
hãnh diện với bạn bè vì có An. Học trung học cũng vậy, đi đâu tôi cũng bắt An
đi cùng. Ngày ba An mất tôi cũng đội khăn tăng, đòi đi theo linh cữu. Mẹ An sợ
quá kéo tôi về nhà bảo An khóa trái lại. Cũng bởi nhà có hai bố con, bố đi làm
suốt từ sáng tới tối mịt mới về nên tôi sống bên nhà An nhiều hơn ở nhà mình.
Tôi coi bố mẹ An như người thân ruột thịt. Chuyện đến tai bố tôi, ổng chỉ nói:
"Khóc là được rồi chứ để tang người ta cười cho. Con gái lớn rồi, phải ý tứ
một chút". Ngày An đi bộ đội, tiễn đưa anh như một đứa em gái.
Tuần nào tôi cũng viết thư cho An dặn dò anh đủ điều: nào phải nhớ mắc mùng khi
ngủ, không được thức khuya, ít hút thuốc lá, không ăn quả lạ, phải uống nước
chín, đừng tắm lúc còn ra mồ hôi... và tất nhiên phải nhớ thư về. An không thư
nhiều như tôi, mỗi tháng chỉ có một thư cho tôi và cũng là chung cho cả nhà.
Thư nào cũng chỉ có một trang, lại giống hệt nhau, vẫn là công việc bình thường,
khỏe và lại dặn chung ở nhà phải thế này thế nọ. Tôi buồn lắm, tâm sự với con
nhỏ bạn. Nó bảo: "Mày yêu tay An rồi". Tôi mắng nó là ngu, nói:
"Anh An là anh hai của tao". Tôi còn mai mối nó cho An, An buồn phiền
bảo: "Anh ít học, không xứng với cô ấy".
Tôi cũng hồn nhiên bảo:
"Anh từ chối là phải, con nhỏ ấy phách lối lắm. Nó bảo tiêu chuẩn người
yêu của nó phải thế này, thế nọ, bằng này, cấp kia và nếu là Việt kiều thì càng
tốt"...
An hỏi tôi: "Còn em,
tiêu chuẩn người yêu của em thế nào?". Tôi vẫn hồn nhiên đáp: "Em chẳng
đặt ra tiêu chuẩn nào hết. Người nào em thấy yêu là yêu nhưng vẫn có sự đồng ý
của ba và anh hai".
Thấy An lăn lóc, bươn chải
làm ăn nuôi mẹ và các em, tôi càng thương càng mến trọng anh hơn. Người ta bảo ảnh
cù lần, tôi không thấy điều đó. ảnh là người tốt bụng, cả tin hiếm có. ảnh hiểu
biết nhiều, rất sâu sắc và tinh tế. Tôi tin ảnh như tin ba của tôi.
Có lần An nói: "Em lớn
rồi, không nên thân mật với anh và gia đình anh nữa".
Tôi ngạc nhiên hỏi: "Tại
sao vậy?" An trầm tĩnh bảo: "Anh và em đâu phải là anh em ruột thịt.
Hồi nhỏ thế nào cũng xong, giờ em lớn, phải có người yêu, phải đi lấy chồng.
Thân mật với anh, em sẽ phải mang tiếng".
Tôi cãi: "Em đâu có sợ
mang tiếng, em chỉ sợ anh ghét bỏ em thôi".
An buồn rầu nói: "Anh
không bao giờ ghét bỏ em cả, anh luôn mong điều tốt đến với em. Em là con gái,
phải biết giữ kẽ, ý tứ với mọi người, mọi chuyện". An cố tình tránh xa
tôi. ảnh đi làm về muộn hơn. Nhiều hôm tôi ngóng đợi đến 12 giờ đêm vẫn không
thấy tiếng An gọi cửa. Nhà tôi với nhà An ở kế nhau. Anh nói to điều gì tôi đều
nghe thấy hết. Tôi đem điều đó nói cho mẹ An nghe. Mẹ An thở dài, bảo: "Nó
tránh cháu là phải. Nó biết thân phận của nó không thể làm bạn với cháu được,
nên tránh xa".
Tôi vẫn ngây thơ, giận dữ
nói: "Tại sao lại không xứng với con. ảnh là anh hai của con kia mà".
Mẹ An nói: "Khi cháu có người yêu, cháu sẽ hiểu điều đó".
Tôi không hiểu điều mẹ An
nói. Cũng có lẽ thời gian đó tôi không hề nghĩ đến chuyện có người yêu. Thựa
ra, bạn trai và những người đàn ông theo đuổi tôi thì nhiều vô kể. Tôi biết
mình có sắc đẹp, đi tới đâu cũng có người săn đón tán tỉnh. Nhưng tôi chưa hề để
ý tới ai ngay cả khi ba tôi đưa Văn Bạch về nhà giới thiệu, tôi cũng lơ đãng
chào hỏi. Tôi đưa Văn Bạch về quê chơi với thái độ lịch sự nhã nhặn của một hướng
dẫn viên du lịch. Tôi không hề quan tâm tới tài năng, tài sản và gia đình thân
thế anh ta. Rồi bỗng nhiên Văn Bạch ngỏ lời cầu hôn với tôi. Tôi ngạc nhiên và
sợ hãi.
Ba tôi nói: "Con gái lớn
phải lấy chồng. Con chưa có người yêu, lại không có ý tìm người yêu nên ba phải
chọn cho con. Cậu Văn Bạch là người tốt, có trách nhiệm, đức độ, có thể tin cậy
được. Con sống với anh ấy sẽ có hạnh phúc".
6 giờ sáng, tôi đập cửa dựng
An dậy nói cho ảnh nghe chuyện Văn Bạch cầu hôn. An không hề đắn đo suy nghĩ,
nói ngay: "Anh ấy là người tốt, em nên đồng ý". Tôi tin ở ba tôi, tin
ở An tôi cũng có cảm nhận rõ rệt về đức độ của Văn Bạch. Nhưng, trong lòng tôi luôn
có một điều gì đó bồn chồn, lo lắng không thể cắt nghĩa được. Thấy tôi không có
ý kiến gì nữa, ba tôi đồng ý cho Văn Bạch tổ chức đám hỏi. Đám hỏi xong là đến
đám cưới, là có chồng, xa bố mẹ, nơi ở để theo chồng, rồi sinh con. Những điều
này tôi chưa hề nghĩ tới một cách cụ thể. Bọn bạn gái gọi tôi là: "ngỗng
trắng" cũng không phải là quá. Bấy giờ, sự việc quá ư bất ngờ và mạnh mẽ
khiến tôi bối rối, lúng túng không biết phải làm sao, ba tôi bảo gì tôi theo nấy,
ngớ ngớ ngẩn ngẩn.
Văn Bạch cũng là người tin tế,
lịch sự. Dường như anh ta hiểu rõ tâm sự của tôi, nên bình tĩnh và thân ái nói
với tôi sau đám hỏi: "Thúy cứ bình tâm, mới chỉ là đám hỏi thôi, em còn tự
do suy nghĩ chín chắn và lựa chọn. Chúng ta tiếp tục tìm hiểu nhau. Nếu thấy hợp,
yêu mến nhau mới tổ chức đám cưới".
Anh ta cũng nói với ba tôi để
tôi tự nhiên, không nên ép buộc vội vàng. Tôi thầm cảm ơn Văn Bạch. Nhưng ba
tôi đã không để tôi tự do, tự nhiên như trước. Sau đám hỏi, ông không cho tôi
đi làm nữa, bắt tôi ở nhà. Suốt ngày xem video, ăn cơm, đi dạo và nghe nhạc.
Tôi buồn chán đến rã rời. Văn Bạch về Pháp 6 tháng. Anh ta gởi thư cho tôi hàng
tuần, kèm theo nhiều thứ quà kỷ niệm và ảnh của anh. Tôi không hề nhớ Văn Bạch.
Thư của anh gửi tôi chỉ đọc dòng đầu rồi bỏ vô ngăn kéo. Tôi nhớ An, nhớ day dứt,
khốc liệt. An không chỉ tránh né, mà cự tuyệt gặp tôi. Nhiều đêm, nghe tiếng
anh về, tôi chạy sang tìm anh đều bị anh nghiêm khắc đuổi về, bảo:
"Cô là gái có chồng rồi, phải biết giữ gìn danh dự". Mẹ An cũng nói vậy.
Ba tôi cũng nói thế. Tôi cô đơn hiu hắt đến rã rời, tôi lang thang đi trong mưa
gió mịt mờ. Và, tôi nhận ra sự thật. Tôi yêu An từ lâu rồi. Không một ai có thể
thay thế An được. Trong cơn sốt cao do cảm hàn, tôi đã nói ra điều đó. Cũng
không ngờ lúc ấy có An. An đã đưa tôi đến bệnh viện và chăm sóc tôi. Tôi nắm chặt
tay An nói lại lần nữa: "Em yêu anh". An khóc, giọt nước mắt nóng ấm
của anh rơi trên má tôi. Anh siết chặt tay tôi, thầm thì: "Anh cũng yêu em
lắm, nhưng muộn rồi, đừng nói gì thêm nữa. Số phận buộc chúng ta chỉ đến thế và
có thế thôi".
Tôi gào lên: "Không,
không có số phận nào cả. Không ai có thể chia rẽ anh và em được". An bỏ chạy.
Ba tôi rít lên: "Mày giết tao đi, đứa con hư đốn kia"...
Tôi thương anh vô cùng,
không còn biết thể diện là gì nữa. Đêm nào tôi cũng sang canh cửa chờ anh về.
Ba tôi phải nhốt tôi lại, khóa trái cửa. Tôi dùng dây leo qua cửa sổ tìm An. An
bảo: "Em đừng làm vậy. Em có sao thì ba em và anh làm sao sống nổi. Hãy
bình tĩnh lại, đừng hấp tấp nôn nóng"... Tôi không thể bình tĩnh suy nghĩ
chín chắn được nữa. Tôi không thể sống nếu không có An. Tôi viết thư cho Văn Bạch,
xin hủy bỏ hôn ước và báo cho anh biết tôi yêu An.
Rất nhiều người tìm đến hỏi
An. An kể:
- Tôi công nhận có yêu Thúy.
Tôi yêu Thúy từ lâu, nhưng vì từ nhỏ hai đứa coi nhau như anh em nên tôi không
thể ngỏ lời được. Mặt khác, tôi đủ tỉnh táo để nhận ra rằng, tôi không xứng
đáng với Thúy. Cô ấy tài sắc như thế, biết bao kỹ sư, bác sĩ đeo đuổi, còn tôi
chỉ là một gã thợ điện cù lần. Hơn nữa hoàn cảnh gia đình tôi hết sức khó khăn.
Mẹ đau ốm liên miên, em nhỏ dại đi học. Thúy không thể có hạnh phúc nếu lấy
tôi. Tôi không muốn Thúy phải vất vả, cực nhọc. Có lẽ Thúy bị "khủng hoảng
dậy thì" muộn màng nên bồng bột xốc nổi. Tôi sẽ cố gắng thuyết phục cô ấy,
để cô ấy hiểu ra sự thật...
Chung cư chia nhiều phe nhóm
tranh cãi nhau. Người ủng hộ tình yêu cao đẹp của Thúy - An. Người tích cực vun
đắp cho cuộc hôn nhân "môn đăng hộ đối" Thúy - Văn Bạch. Rất nhiều ý
kiến quan niệm về tình yêu và hôn nhân được đưa ra với chị Đoan Trang ở tầng 7:
"Yêu khác, hôn nhân khác. Có thể không lấy người mình yêu nhưng nhất định
phải lấy người yêu mình".
Ông Công Chức ở tầng 6:
"Tuổi trẻ không thể tránh khỏi sự ngộ nhận hiểu lầm. Họ chưa bị đói khát,
lao đao vất vả vì miếng ăn, chưa hiểu rõ cơ chế xã hội, gia đình, đàn bà, đàn
ông nên cứ ca hát, tụng niệm câu ca "một mái nhà tranh hai trái tim
vàng". Khuyên nhủ chúng chẳng ích gì đâu. Cứ để tự nhiên, lớn lên khắc hiểu".
Chị Lệ Tuyết ở tầng 5:
"Tình yêu không biên giới, không tuổi tác, không vụ lợi, không tính chuyện
giàu nghèo là một tình yêu đẹp hiếm có. Tôi ghen với những ai có được tình yêu ấy".
Bà Tư Rêu ở tầng 4:
"Cái con Thúy dở hơi ấy phải đánh một trận mới tỉnh ra. Nó bị mụ mẫm mê lú
rồi. Cứ để cho nó đói nhăn răng ra mới biết tình yêu là cái giống gì?".
Chị Đức Hạnh ở tầng 3:
"Cậu An và cô Thúy cũng đẹp đôi đấy chứ! Họ yêu nhau, lấy nhau là hợp nhẽ.
Không có bất hạnh nào lớn hơn nỗi bất hạnh phải lấy người mà mình không
yêu".
Chị Chín Rơm ở tầng 2:
"Cô Thúy không thể yêu cậu An được. Yêu nhau cũng phải có sự cân bằng cân
đối chứ. Cô Thúy tài sắc như vậy, chỉ làm khổ cho cậu ta thôi".
Ông thường trực ở tầng trệt:
"Chuyện bọn trẻ yêu nhau khó nói, khó ngăn lắm. Cứ để cho chúng tự nhiên
đi. Cha mẹ chỉ định hướng hạnh phúc cho chúng thôi".
Tự nhiên, nhà ông Cương luôn
luôn có khách. Người ta đến để trò chuyện, bàn luận kế sách giải quyết. Tóc ông
cũng bạc đi nhiều. Ông không la lối Thúy nữa. Ông bảo con: "Ba yêu cầu con
khoan gửi thư hủy bỏ hôn ước cho Văn Bạch. Con về quê nghỉ ngơi 3 tháng, suy
nghĩ cho kỹ rồi quyết định. Lúc đó, ba không ngăn cản con nữa".
An nói: "Em phải nghe
theo lời bác hai. Anh nói lại một lần nữa để em nhớ. Anh luôn là anh hai của
em. Anh phải chăm lo mẹ và các em của anh, không đủ sức chăm lo cho em. Anh
không muốn em phải lam lũ, vất vả. Hãy bình tâm suy nghĩ cho kỹ".
Thúy nghẹn ngào hỏi An:
- Anh nhất quyết cự tuyệt
em?...
An nói nhanh:
- Phải!
Thúy lắc đầu, thầm thì:
- Anh nói dối, anh đừng lừa
gạt mình nữa. Em biết là anh yêu em...
An hắng giọng, run rẩy, lắp
bắp:
- Dối cũng được, thật cũng
được, nhưng anh không thể lấy em...
Nói rồi cậu ta đi ngay. Thúy
gào lên: "Cút đi, đồ hèn nhát. Từ nay trở đi đừng gặp mặt tôi nữa".
Ngày sau, Thúy lên tàu về
quê thôi... Có người bảo Thúy đã gửi thư hủy hôn ước với Văn Bạch rồi, có người
nói chưa...
Dầu sao, cả chung cư cũng hồi
hộp chờ đợi xem kết cục chuyện này như thế nào.
10. Mất cắp...
Ông Thường trực phải đi bệnh
viện điều trị nhiều ngày vì gai cột sống, có khả năng phải mổ. Ngay sau đó,
chung cư gặp "kỳ đại nạn". Đầu tiên là vụ cô Đoan Trang mất xe hon
đa.
Tối chủ nhật hôm ấy trong
chung cư có nhiều nhà tổ chức tiệc: sinh nhật chị Lệ Tuyết, liên hoan mừng con
trai đầy tháng nhà Minh, chị Chín Rơm tổ chức liên hoan mừng con thi đậu đại
học, nhà ông Công Chức có khách đến thăm, nhà anh Trạng có nhậu... Khách đến có
tới hàng trăm người, ai cũng đi xe gắn máy. Nhà giữ xe quá tải, gần hai chục xe
phải để ở lề đường trước nhà. Gần năm nay, khách đến chung cư ngày càng nhiều,
tình trạng nhà xe quá tải là chuyện thường xuyên nhưng luôn được sắp xếp ngăn nắp,
không xảy ra chuyện mất cắp hay hư hỏng. Bởi ông Thường trực rất cẩn thận và rất
nguyên tắc trong việc phân lô ranh giới xe của khách với xe của nhà. Chỗ của
người nhà để xe đã phân định rạch ròi, nếu có trống cũng không cho xe của khách
gửi. Mặt khác, tất cả các khách ra vào chung cư ông đều chặn lại hỏi kỹ tên họ,
ở đâu, thăm ai và ghi sổ từng người. Không một ai có thể qua mặt ông được. Bởi
vậy, đôi khi làm mất lòng khách vốn không quen chờ đợi hay bị hỏi thăm quá kỹ.
Không ít khách bỏ về, mắng vốn chủ nhà về ông thường trực khó tính gàn dở. Một
vài chủ nhà có ý phiền trách ông về chuyện đó, ông thản nhiên bảo:
- Có mắng chửi tôi cũng vậy
thôi, tôi không thể làm qua loa đại khái được. Trăm người tốt thế nào cũng có một
kẻ gian. Tôi làm vậy, cũng là để ngăn chặn kẻ gian, gìn giữ tài sản cho mọi người.
Không ai có thể trách ông được
nữa. Mọi người đều phải công nhận ông làm thế là đúng... Khi ông đi nằm viện,
việc thường trực và giữ xe giao cho anh Bé, nhà ở tầng 4. Anh Bé là công nhân
xây dựng, có tay nghề cao, bị tai nạn lao động khi xây nhà cao tầng. May không
chết, không bị chấn thương sọ não, chỉ bị tật ở chân. Hồi ấy, chưa có bảo hiểm
gì hết, xí nghiệp trợ cấp cho anh số tiền và thu xếp cho anh làm việc hành
chính. Nhưng khi vào cơ chế thị trường, công việc hành chính không nhiều
nữa, anh phải nghỉ việc. Cũng may, do tay nghề của anh cao nên nhiều thầu xây dựng
tư nhân vẫn tìm đến thuê anh làm thợ cả cho việc xây cất. Cũng trong thời gian ấy,
anh biết uống bia, rượu và dần dần trở nên rất thích nhậu nhẹt.
Hai tháng nay do giá xi măng
đột nhiên tăng vọt, các nhà thầu tư nhân cũng như các xí nghiệp nhà nước phải dừng
công trình. Anh Bé cũng phải ngồi nhà chờ đợi. "Nói quen miệng, nhậu quen
thói", anh Bé bỏ nhà đi nhậu suốt. Tiền đã không làm ra, lại đẻo vô vốn
dành dụm, vợ Bé sốt ruột, đến gặp "Quan Trạng" đề nghị cho Bé làm thường
trực chung cư trong thời gian ông cựu Trung tá pháo binh nằm bệnh viện.
Tổ trưởng dân phố "Quan
Trạng" thấy hợp lý, hợp tình nên đồng ý. Anh Bé thấy việc giữ xe cũng kiếm
được khá tiền nên hăng hái nhận lời. Được vài ngày đầu nghiêm túc, chiều chủ nhật
ấy "con sâu rượu bia" quậy phá dữ dội quá, chịu không nổi, anh phải
chạy đi kiếm lít rượu đế và gói đậu phộng hô gọi bạn nhậu tri kỷ kéo về nhà.
Anh vừa nhậu vừa trông coi xe ra vào... Ai để xe ở đâu cũng được, có lấy thẻ trả
tiền cũng được, không cũng chẳng sao... Cứ lao xe vô, tắt máy để đó rồi phóng
thẳng lên cầu thang...
Gần 7 giờ tối, vợ Bé làm về,
thấy chồng và mấy người lạ hoắc cười nói om sòm ngật ngưỡng say xỉn. Hãi quá,
chị vội trực thế, cơm nước phó mặc cho mấy đứa con. Bé nhậu xỉn, ngủ từ lúc 9
giờ tối, mọi việc phó thác cho vợ. 11 giờ rưỡi đêm vợ Bé mới khóa cửa lên nhà
ăn cơm. Bốn giờ sáng lại phải xuống trực cho chồng vì sợ người trong chung cư
đi làm sớm. Chị Đoan Trang xuống nhà lúc 7 giờ sáng, tìm mãi không thấy xe, hô
hoán inh ỏi. Bé nạt: "Đừng có vu khống. Hôm qua chị không mang xe về".
Cô Đoan Trang sấn sổ gạt Bé,
lục bới tìm thẻ xe của mình. Cô tìm thấy chiếc thẻ số 36, hét tướng lên:
- Cái này là cái gì?...
Người trong chung cư xúm lại.
Cả tổ trưởng dân phố Trạng và công an đường phố cũng tới, xác nhận cô Đoan
Trang bị mất xe tại nhà xe do anh Bé trực giữ. Vậy là Bé phải đền. Cái xe cúp
81 của cô Đoan Trang khi mới có giá chừng 2 cây rưỡi, đã đi hơn một năm. Cô
Đoan Trang đòi 2 cây hai. Vợ Bé kêu khóc thảm thiết. Tài sản trong nhà, trừ cái
xác nhà ra, chổi cùn giẻ rách gom hết lại bán đi chưa đầy một cây, lấy đâu mà
trả. "Quan Trạng" đau buồn, bảo: "Cũng có lỗi của tôi... Nếu
không tìm ra kẻ cắp, tôi xin góp 5 chỉ". Mọi người ái ngại, xúm lại xin cô
Đoan Trang bớt cho.
Công an phường, công an Quận
đến xem xét hiện trường, hứa với chung cư sẽ điều tra gấp rút. Cô Đoan Trang giận
Bé dám nói cô vu khống nên kiên quyết đòi bồi thường ngay hai cây hai, không bớt
một xu. Bé nốc hết nửa xị rượu gây gổ: "Đồ giẻ rách cũng đòi lên giá! Đây
không thèm xin xỏ nếu không cho chịu thì cứ đến xiết nợ. Mọi người xúm lại
khuyên can cô Đoan Trang không nên ép người quá. Việc xảy ra như một tai nạn,
Bé không cố ý. Nên thông cảm cho người ta chịu nợ vài ba tháng. Cô Đoan Trang
đành phải đồng ý cho Bé nợ, bắt phải viết giấy cam đoan, có chứng kiến của công
an đường phố và tổ trưởng dân phố.
Ngay ngày hôm đó Bé bỏ nhà
đi. Nói là đi kiếm tiền. Vợ Bé không còn tinh thần, lòng dạ nào lo chuyện giữ
xe nữa. Một ni giữ xe chuyên nghiệp ở nhà kết bên chung cư nhận thầu trực và giữ
xe với yêu cầu tăng tiền xe tháng, từ 10 ngàn lên 15 ngàn cho một xe honda.
Chung cư đành phải chấp nhận. Người này không chỉ tăng giá xe tháng mà còn tăng
cả giá xe khách gửi, từ hai ngàn lên ba ngàn và kéo luôn cả một quầy tạp hóa ở
nhà sang. Xe của người trong chung cư bị ép sát nhau, chồng chất, cái này gác
đè lên cái kia, mỗi lần lấy ra, xếp vào hết sức khó khăn. Nhiều người than vãn,
mong ông cựu sĩ quan pháo binh sớm bình phục trở về.
Lại thêm cái nạn bị nghẹt cầu
dây chuyền. Mới đầu chỉ có một hộ bị nghẹt cầu. Hộ này dùng giẻ, bao cát lấp lại
rồi sơ tán về nhà vợ ở nhờ, chờ cầu thông mới về. Rồi kế đến là hộ trên lầu
cũng bị nghẹt. Thả đến hơn chục con lươn vẫn không thông. Kêu thợ đến, giá cao
quá, chịu không nổi lại bỏ của chạy lấy người. Nhà chị Chín Rơm không bị nghẹt
cầu, lại bị nước dơ từ toa lét phun lên mỗi ngày hai lần. Chị Chín Rơm bịt lại.
Nhà khác lại xì ra. Tầng nào cũng bị. Nước dơ tràn cả ra hành lang. Người ta
không có cách nào khác là ngăn bờ cho nước khỏi tràn vô nhà và ra sức tát nước.
Suốt một tuần lễ chung cư lênh láng nước bẩn. Chung cư lại phải họp, quyết định
sửa hầm cầu toàn diện. Mỗi nhà phải đóng 200 ngàn. Riêng nhà Bé vì còn phải nợ
Đoan Trang nên không phải đóng. Thợ đến sửa, ba ngày sau thì thông hết, không
còn cảnh nghẹt cầu, phu nước nữa.
Bé đi biệt tích, nửa tháng
không thấy về nhà. Vợ Bé sợ quá, tìm kiếm khắp nơi, nghe người ta nói theo đám
thợ xây thất nghiệp lên Tây Nguyên làm ăn. Tây Nguyên rộng mênh mông biết đâu
mà tìm. Vợ Bé trình báo công an. Có người lo xa, bảo: "Không chừng Bé trốn
nợ, bỏ nhà đi luôn, thế là mất chồng". Vợ Bé kêu khóc vật vã. Ai cũng
thương cảm. Công an điều tra vụ mất xe đã tìm ra tên ăn cắp. Hóa ra hắn là một
tay thợ phụ ở Hóc Môn vô nội thành kiếm ăn. Nhà hắn nghèo lắm! Có miếng đất để
trồng trọt, nghe theo lời dụ khị ngon ngọt của cò đất đem bán lấy 3 cây vàng.
Không biết kinh doanh gì, mua chiếc honda ôm chạy một hồi, ế ẩm, bán lại, lỗ mất
hai chỉ. Vợ lại đẻ đứa thứ 4, không làm gì được, số vàng bán đất chẳng mấy hồi
hết sạch. Hắn theo người ta vô nội thành làm phu hồ công nhật mỗi ngày hai chục
ngàn. Có việc còn đỡ, hết việc là hết tiền. Những ngày thất nghiệp hắn có nhậu
với Bé, biết Bé. Bạn nhậu lề đường thôi. Bé không biết hắn, nhưng bạn nhậu
"Nghêu sò ốc hến" tứ hải một nhà mà. Hôm ấy con hắn phải đi bệnh viện.
Tiền thuốc, tiền viện phí mất gần trăm ngàn. Hắn không còn một đồng kẽm, tính
tìm Bé mượn đỡ. Đến chung cư, thấy Bé say xỉn ngật ngưỡng, hò hét om sòm, không
để ý tới ai trong cảnh người ra vô nườm nượp không ai biết ai, xe rải đầy lối,
ngang dọc, tràn cả ra hè phố. Thoạt tiên hắn tới gần, định gọi, song thấy Bé
không nhận ra mình nên nhanh chóng thay đổi ý định. Hắn đang cùng quẫn. Để cứu
một đứa trẻ (là con hắn), hắn phải liều, phải phạm pháp vậy. Chiếc xe Cúp 81 của
cô Đoan Trang vừa về, do không còn chỗ để nên dựng ngay lối đi, rất hớ hênh. Hắn
dắt xe ra ngoài trót lọt. Đến chỗ sửa xe lề đường, hắn kêu bị mất chìa khóa, nhờ
cánh thợ làm khóa. Ngay trong đêm, hắn đem xe ra xa lộ, bán cho một gã cùng
cánh thợ thất nghiệp, quê ở miền Trung. Hắn nói rõ sự thể, chiếc xe ăn cắp
không thể chạy ở thành phố được, phải mang đi. Gã kia trả cho hắn hai chỉ. Nhờ
số tiền đó, hắn lo thuốc men, chăm sóc cho đứa con gái út khỏi bệnh về nhà.
Công an tìm được hắn nhờ đầu mối từ người sửa xe đã làm chiếc khóa tạm và những
người thợ hồ bạn nhậu của Bé...
Kẻ lấy cắp đã tìm ra, nhưng
sự việc vẫn bế tắc, chưa giải quyết được gì. Kẻ cắp khai báo thành khẩn, thản
nhiên bảo: "Nhà tôi đấy, thân tôi đây, các ông muốn làm gì thì làm chứ
không có chuyện đền bù". Nhà hắn còn nghèo đói hơn nhà Bé hàng trăm lần. Một
túp nhà lá. Một gánh trái cây, ổi, cóc, khoaimì. Bốn đứa trẻ bám víu nhau...
Công an không nỡ bắt hắn đi, cảnh cáo hắn, lại phải cho hắn thêm một trăm ngàn
để thuê xe xích lô chạy đỡ...
Công an đường phố bảo vợ Bé:
"Về chiếc xe công an thành phố đang chờ công an Đà Nẵng tìm. Khả năng tìm
ra chỉ mười phần trăm thôi".
Vợ Bé thương chồng, nài nỉ:
- Các anh tìm giùm anh ấy về
cho tôi. Chiếc xe coi như đồ bỏ. Anh ấy bị tật, lại nát rượu thì làm gì ra tiền.
Tôi chịu nợ với người ta rồi. Còn người, còn làm ra tiền. Trăm sự nhờ các anh.
Công an đường phố hứa sẽ
trình lên cấp trên, đề nghị tìm kiếm. Công an quận không có bộ phận lo giải quyết
việc người bỏ nhà ra đi, ậm ừ cho qua chuyện.
Vợ Bé tối nào cũng khóc. Tổ
trưởng dân phố Trạng sốt ruột quá, nhờ Ba Tỷ lo giùm vụ này, bảo: "Mày là
dân đi nhiều, biết lắm, lại có xe ráng lo việc này cho chị ấy. Tốn kém bao
nhiêu tao chịu".
Chị Chín Rơm là người nhiệt
tình ủng hộ ý kiến của tổ trưởng Trạng. Chị thương nhà Bé lắm. Nên ghét cay
ghét đắng cô Đoan Trang. Chị đi vận động quyên góp. Đến nhà ai, chị đều kể tội
cô Đoan Trang là người bạc tình, bạc nghĩa, ác độc dã man... Chị Lệ Hồng phải
nói nhỏ: "Đừng có nói thế! Tôi chẳng ưa gì cô ta nhưng cũng không thể
trách cô ta nặng lời thế được. Chị đi quyên góp, nên chỉ nói đến cảnh khổ nhà
Bé là đủ, đừng nói thêm chuyện cô Đoan Trang ra nữa".
Chị Chín Rơm cãi: "Nó xấu
phải nói là xấu, tôi đâu có sợ...".
Lệ Hồng nói: "Chị phải
nghĩ đến chuyện có người thân cô ta chứ. Nếu thấy chị nói xấu cô ta, người đó
có góp không?".
Chị Chín Rơm cười lớn lên:
- ờ há! Thế mà tôi không
nghĩ ra...
Nhưng chuyện lại đến tai cô
Đoan Trang. Vốn tính nóng, cô Đoan Trang đập cửa nhà chị Chín Rơm, sấn sổ nói:
- Tôi nói cho nhà chị hay. Có
gan thì nói ngay trước mặt tôi, đừng giở trò nói xấu sau lưng, đừng làm bộ nhân
đức nước bọt.
Chị Chín Rơm cũng chẳng phải
là người điềm tĩnh sâu sắc, bị chửi mắng ngay trước nhà mình, chị điên lên tát
tai cô Đoan Trang. Hai người đàn bà đánh nhau. Vừa cào, cấu, tát đá vừa hò hét
chửi bới. Bà Tư Rêu, ông Công Chức phải vất vả lắm mới ngăn đôi được hai người.
Chuyện không đến mức phải báo công an phường. Cô Đoan Trang rít giọng đe dọa
"Tao sẽ xử theo luật giang hồ với mày" chị Chín Rơm nhổ nước miếng,
khinh khỉnh đáp: "Tao chấp cả họ, cả ổ lưu manh nhà mày. Chơi kiểu gì đây
cũng chấp".
Cô Đoan Trang định kéo cả họ
đến để rửa hận thật. Chồng cô phải dọa ly dị cô mới thôi. Tuy vậy, cô vẫn làm
đơn thưa, gửi cả tòa án quận đòi bỏ tù chị Chín Rơm về tội đánh người. Chị Chín
Rơm vẫn đi quyên góp ngang ngạnh tuyên bố: "Cứ để nó kiện tôi sẽ ra hầu
tòa. Tôi sẽ nói điều dơ bẩn của nó trước thiên hạ" nhưng tòa án quận không
xử, chỉ thuyết phục hai người giảng hòa. Hai người không nhìn mặt nhau. Thấy từ
xa đã tránh đường. Chẳng may đụng độ ở cầu thang thì xoay lưng, ngoảnh mặt, chửi
đổng. Tình trạng ấy khiến vợ anh Bé bứt rứt, buồn phiền...
Ngay sau khi nhận đền bù chiếc
xe, vợ Bé phải dốc hết sức để làm việc kiếm tiền. Chị xin làm thêm ca đêm ở xí
nghiệp. Một ngày nghỉ chỉ chừng 5 giờ. Lao lực quá sức thêm nỗi lo lắng, buồn
phiền, chị ngã bệnh. May mà chưa phải lao. Bác sĩ bảo bị suy nhược cơ thể nặng,
thiếu máu, phải tĩnh dưỡng và bồi bổ.
Lại nói về chuyện Ba Tỷ
phóng xe taxi của mình truy tìm tông tích Bé. Rồi gã cũng biết được địa chỉ của
Bé. Đúng là Bé quyết chí trả nợ nên đã theo một chủ thầu khoán lên Tây Nguyên
làm ăn. Vợ Bé yên tâm được một phần khỏe lại đôi chút. Chị Chín Rơm giục Ba Tỷ
lên Buôn Ma Thuột gọi Bé về lo chuyện vợ con. Vợ Bé cũng năn nỉ Ba Tỷ. Ba Tỷ nhận
lời, nói thêm: "Để tôi tìm mối đưa khách lên đó, kết hợp luôn". Tiền
quyên góp của chị Chín Rơm đã được hơn một cây. Ba Tỷ kiếm được mối, báo cho vợ
Bé biết. Vợ Bé viết thư cho chồng, kể rõ chuyện bà con trong chung cư thương
quyên góp gần đủ số tiền trả nợ rồi, cứ yên tâm mà về.
Chẳng biết do tác động ở
đâu, hay do lòng tốt tiềm ẩn, cô Đoan Trang gặp riêng Ba Tỷ, bảo: "Nói cho
lão ấy biết tôi không đòi gấp đâu, cứ từ từ trả dần, mỗi năm một ít cũng được".
Lại dặn thêm: "Đừng nói cho con mụ Chín biết".
Ba Tỷ thề sẽ giữ miệng.
Bé về, thân xác ốm tong teo,
nhếch nhác rách rưới. Hai tháng trời làm như trâu bò, mang về có hơn một trăm
ngàn, nhưng lại phải bán mất chiếc đồng hồ và hai bộ đồ. Coi như công dã tràng.
Vợ Bé khỏe lại, không cần
tiêm chích thuốc bổ nữa. Bé với Trần Đồng tức Đồng bóng trước đây có thời chơi
thân với nhau. Từ khi Đồng bóng giàu lên nhờ làm ăn với người nước ngoài Bé chủ
động lánh mặt, xa cách, Đồng bóng cũng chẳng để ý tới chuyện đó thế là xa nhau.
Nghe tin Bé về Đồng bóng lái xe hơi đến thăm: "Cớ sao không tìm gặp tôi?
Ông coi tôi là loại người nào".
Xem ra Bé cảm động trước
tình nghĩa của dân chung cư, nói nhỏ: "Thiệt tình tôi cũng nhớ tới ông nữa.
Tôi cứ nghĩ người ta giàu lên rồi sẽ sống khác trước".
Đồng bóng cười hờ hờ, bảo:
"Dĩ nhiên là khác trước rồi. Công việc của tôi giờ đây ngập đầu. Ăn nhanh,
đi nhanh, nói nhanh. Không còn tà tà nhâm nhi cà phê sáng với ông như ngày xưa
nữa".
Bé ngạc nhiên, hỏi:
"Giàu mà không nhàn nhã sao?"
Đồng bóng se buồn, nói:
"Nói cho ông hay, người nước ngoài vô ta là để làm ăn. Họ là những nhà
kinh doanh chứ không phải nhà từ thiện. Kiếm được đồng tiền ở nơi họ không phải
dễ dàng đâu, lắm khi phải chảy máu mắt. Tay chủ mới của tôi mới có 30 tuổi,
sang đây ngày đầu, học thuộc lòng ba câu tục ngữ của ta về đồng tiền. Câu cửa
miệng của gã là "Đồng tiền liền khúc ruột" "Đồng tiền đi trước
là đồng tiền khôn" "Tiền nào của nấy" gã tinh quái như quỷ, rất
trịch thượng coi thường người mình.
Bé tỏ vẻ thông cảm, nói:
"Vậy ra cũng cực thiệt" Đồng bóng trở lại dáng bộ láu cá, cười tủm tỉm
nói: "Tôi đã dạy cho gã một bài học rồi. Hôm nọ gã định giở trò cà chớn,
tôi bảo gã: ông cần phải học thuộc bài từ đầu đến cuối! Tục ngữ Việt Nam còn có
câu: "Vỏ quít dày có móng tay nhọn" "giặc đến nhà đàn bà cũng
đánh". Xem ra gã bắt đầu hiểu câu "Đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục".
Đồng bóng không còn là Đồng
bóng chân co chân duỗi nói như pháo nổ liên hồi, bịt miệng người ta để mà nói
tràng giang đại hải nữa. Anh ta ngắt chuyện nửa chừng như cúp máy điện thoại:
- Chuyện cái xe ông để tôi
lo cho: chuyện làm ăn ông tự thu xếp. Cần nghe ngóng, hỏi han nhiều trước khi
quyết định việc gì. Vậy há! Chào...
Vợ Bé từ trong gian bếp tất
tả chạy ra chặn lối Đồng bóng:
- Chuyện cái xe nhà em và bà
con chung cư lo được rồi, bác khỏi bận tâm. Nếu được nhờ bác một chuyện.
Đồng bóng hỏi: "Chuyện
gì?" Vợ Bé nói: "Vì nhà em mà chị Chín Rơm và chị Đoan Trang thù ghét
nhau. Em thấy ray rứt quá. Bác có cách gì hòa giải giúp nhà em chăng".
Đồng bóng cười tủm tỉm:
"Hòa giải bà Chín và bà Đoan Trang à? Chuyện dễ thôi, cứ yên tâm. Để
tôi".
Dù không nói ra nhưng vợ chồng
Bé không tin tưởng ở lời hứa của Đồng bóng. Anh ta đang vội, hứa cho qua chuyện
thôi. Mà dẫu anh ta có thực hiện lời hứa thì việc không thể gọi là dễ được. Vợ
Bé nói chuyện này cho hầu hết mọi người trong chung cư nghe. Mọi người đều nói:
"Khó lắm, không được đâu". Chị Lệ Tuyết thẻ thọt: "Cũng có thể
được, nhưng phải vài năm sau".
Ai cũng biết chị Chín Rơm nổi
tiếng là người cứng rắn, bảo thủ. Chị đã nói không là không, không có chuyện
bàn đi tính lại. Chị đã ghét ai thì ghét luôn cả bạn bè, làng họ người đó. Chị
lại có tính cục. Sùng lên, có thể đánh lộn với cả trăm người bất chấp hậu quả.
Cô Đoan Trang không cục tính, không bảo thủ cố chấp như chị Chín nhưng lại hay
sĩ diện, tự ái một cây. Hai người đã trút giận lên đầu nhau, không còn nể nang
ý tứ gì nữa, đã chửi nhau là đồ "gái già động cỡn" (lời cô Đoan Trang
chửi chị Chín Rơm) và "đồ lưu manh đầu đường xó chợ" (lời chị Chín chửi
cô Đoan Trang) thì coi như không còn gì để nói.
"Gắn gương vỡ còn được,
không thể gắn hai người ấy lại với nhau" gã Ba Tỷ khẳng định như vậy.
Nhưng ông Công Chức lại bảo: "Có thể được, cứ chờ xem". Ông giải
thích: "Đời tôi gặp nhiều hạng người, tôi biết phàm là những người nóng
tính vốn nông nỗi, như mùa hạ vậy, sấm chớp giông gió ào ào một hồi thôi. Họ
không thù dai đâu. Huống chi cả hai đều là người tốt cả". Vì chuyện cũng
chẳng dính dáng tới mọi người nên người trong chung cư cũng chẳng để ý tới mâu
thuẫn giữa chị Chín Rơm và cô Đoan Trang nữa. Nhiều người đã quên. Hai tháng
sau thấy chị Chín Rơm uống cà phê với cô Đoan Trang, cười nói thân mật như chị
em, cũng chẳng có gì là ngạc nhiên cả. Coi như chuyện xưa đã thế, nay là vậy.
Có vài ba người nhớ chuyện cũ, không tiện hỏi chị Chín hay cô Đoan Trang, hỏi
nhỏ Bé: "Họ làm lành rồi à?".
Bé vui vẻ nói: "Thằng
cha Đồng bóng thế mà giỏi. Không ngờ làm ăn với nước ngoài hắn khôn ra hơn tôi
tưởng nhiều lắm".
Không ai biết rõ chuyện Đồng
bóng thuyết phục hòa giải chị Chín Rơm và cô Đoan Trang như thế nào. Có một điều
họ biết chắc là chị Chín Rơm và cô Đoan Trang có đi dự tiệc do Đồng bóng mời ở
một khách sạn sang trọng và ở đấy Đồng bóng giới thiệu với các quan khách: chị
Chín Rơm là chị còn cô Đoan Trang là em. Nghe nói, chị Chín và cô Đoan Trang phải
đóng kịch vai chị, em suốt hai tiếng đồng hồ.
Giờ đây, khi người ta
nói chuyện Bé làm mất xe cô Đoan Trang phải nói tới chuyện chị Chín Rơm và cô
Đoan Trang đóng kịch chị, em thân thích ở bàn tiệc…11. Phát tài
Tin nhà anh Khánh sắp dọn về
nơi ở mới, một ngôi nhà có giá vài chục "cây" vàng là một sự bất ngờ.
"Thời buổi thị trường khiếp thật, mọi cái đều xảy ra như pháo nổ. Đánh
đùng một cái". Có người bình vậy. Người ta bắt đầu nhớ lại xưa nhà Khánh
phất từ lúc nào. Có lẽ "lộc" đến nhà Khánh từ hồi giáp tết Nguyên Đán
vừa qua. Lúc đó, ở Nhật người ta tổ chức một cuộc hội thảo về văn hóa Phương
Đông. Lẽ ra, ông sếp của Khánh sẽ đi dự cuộc hội thảo 7 ngày cả đi lẫn về,
nhưng ngặt nỗi ông chỉ biết tiếng Pháp không biết tiếng Anh hay tiếng Nhật. ở
cuộc hội thảo này không có tiêu chuẩn phiên dịch và họ không dùng tiếng Pháp.
Ông đành phải để Khánh đi thay...
Khánh hãi. Tính anh vốn nhút
nhát, sợ người lạ, sợ chỗ tranh cãi. Thêm nữa, khả năng ứng khẩu tác chiến
trong các cuộc luận bàn của anh rất ư là chậm lụt. Có những lúc bị người ta
"nói này, nói nọ", anh tức lắm nhưng không biết phản ứng ra
sao, cứ im lặng cười trừ. Về nhà, tĩnh tâm một lúc mới thấy ra rất nhiều câu trả
lời "búa bổ". Bà Tư Rêu suốt ngày chửi anh: "Người ta dại chợ
nhưng còn có chỗ khôn nhà, đằng này đã dại chợ, lại còn dại nhà, thật là vô
tích sự".
Vợ anh cũng nhiều lần chì
chiết đay nghiến "Nếu có môn thi tụng kinh gõ mõ chắc anh giành chức vô địch".
Khánh ưa nghĩ sâu xa. Anh sẽ
hết sức minh mẫn và sâu sắc nếu tĩnh tại một mình. Ngay cả trong công việc tay
chân cũng vậy, nếu chỉ để anh làm một mình, việc sẽ chạy đều và anh cũng thấy sảng
khoái. Nhưng nếu có người này tham gia thêm, người kia chỉ dẫn là y như rằng
anh lúng túng, rối trí, loay hoay xoay xở lung tung. Với tính nết như vậy nên
anh có ý từ chối, bảo: "Hội thảo quốc tế chứ đâu phải chuyện chơi. Là đem
chuông đi đánh xứ người, không thể chọn người như tôi được".
Sếp của Khánh phân vân lo lắng.
Ông ta không đi cũng chẳng sao. Nhưng nếu không có ai đi dự, e người ta sẽ
không còn "quan hệ" mật thiết nữa. Cấp trên cũng nhất quyết yêu cầu
phải cử người đi. Vấn đề đối ngoại lúc này là quan trọng. Người ta mời, mình
không đi là điều không hay. Chết nỗi, ngoài Khánh ra, không còn ai trong cơ
quan đủ tiêu chuẩn để đi cả. "Sếp" nhất định phải vận động Khánh, sếp
ra ba "chiêu". "Chiêu" thứ nhất, bảo "Anh ngu thấy mẹ,
người ta đạp lên đầu nhau để giành đi nước ngoài, nhất là đi Tây Âu, đi Nhật.
Anh được cử đi, phải hãnh diện, tự hào chứ?" Khánh nhăn nhó, nói: "Đi
làm việc chứ đâu phải tham quan. Tôi sợ mình chậm lụt vụng dại".
Chiêu thứ hai, sếp bảo:
"Tổ chức cử anh đi, anh từ chối hả?"...
Khánh vẫn kiên quyết:
- Tôi không muốn vì tôi mà cả
cơ quan mang tiếng, biết không hoàn thành nhiệm vụ, từ chối là hợp lý...
Chiêu thứ ba, và cũng là tuyệt
chiêu cuối cùng: Sếp đến nhà báo cho mẹ và vợ Khánh biết, yêu cầu họ "giải
quyết".
Bà Tư Rêu nổi giận phừng phừng,
đập tay dậm chân kêu khổ. "Sếp" sợ bà mẹ Khánh giận quá hỏng việc,
nên vội vã khuyên giải:
- Thím nóng giận như vậy,
càng làm cậu ấy rối trí. Mà đã rối thì dễ dẫn đến chuyện làm ẩu, làm liều. Cậu ấy
làm liều, xách va li ra sân bay thì không nói làm gì. Lỡ ra, cậy ấy bỏ trốn, nhất
quyết không chịu đi thì biết làm sao. Vậy nên, tôi đề nghị thím đem tình, lý ra
để vận động, thuyết phục. Cậu ấy chưa tin tưởng ở mình, thím ráng củng cố niềm
tin cho cậu ấy..."
Bà Tư Rêu thấy ông Sếp này
nói có lý, gật đầu, khen phải. Bà bàn với vợ Khánh cách thức cương nhu hỗn hợp,
vừa đánh vừa xoa. Lại bảo vợ Khánh mua thêm mấy cái chân gà và một chai bia Sài
Gòn...
Vợ Khánh phản đối, bảo:
- Chân gà thì được, chứ bia
là không ổn đâu mẹ! Anh ấy chỉ uống nửa chai là đã lăn quay ra ngủ rồi, còn vận
động thuyết phục cái nỗi gì?
Bà Tư Rêu tự tin lắm. Bà phẩy
tay ra lệnh chị cứ mua về đây, tôi khắc biết phải làm gì. Như thường lệ, 7 giờ
kém 5 phút tối, Khánh về nhà. Thấy trên bàn thờ ông già có nhang cháy đỏ, lại
thấy mẹ tư lự ngồi bó gối trên giường, Khánh ngạc nhiên, nhưng không dám hỏi.
Anh nhớ rất rõ hôm nay mới mồng bảy âm lịch. Mồng một đã qua, ngày Rằm chưa tới,
sao mẹ lại thắp nhang. "Chắc phải có lý do nào đấy, mẹ không bao giờ cúng
thừa" Khánh tin vậy. Nhưng khi ngồi vào mâm cơm, thấy bốn cái chân gà luộc,
món ăn ưa thích của anh, Khánh không nén nổi tò mò, buột miệng hỏi:
- Bữa nay là gì mà mẹ thắp
nhang vậy?...
- Đêm qua ba mày về báo mộng
cho tao biết nhà sắp có lộc, lại còn nói cụ thể là lộc từ nước ngoài về. Tao cứ
nghĩ mãi suốt từ sáng tới giờ, nhà mình đâu có ai là Việt kiều, cũng chẳng có ai
du học hay đi công cán nước ngoài, sao lại có lộc từ nước ngoài về cơ chứ.
Không lẽ ba mày nói dóc xí gạt tao. Tao tính tối nay phải hỏi cho rõ. Vậy mới
thắp nhang "rước" ba mày về...
Khánh thực thà bảo:
- Người ta có cử con đi Nhật
dự hội thảo, nghĩa là đi công tác, nhưng con từ chối rồi. Chuyện mộng mị, mẹ đừng
nghĩ vẩn vơ nữa.
Vợ Khánh rót bia cho chồng,
tủm tỉm cười, hỏi:
- Đi Nhật cơ à? Đi bao lâu
anh?
Khánh lại ngạc nhiên vì cách
cư xử của vợ. Mọi bữa, cô ta đâu có tử tế thế này, cơm xới xong đẩy một phát về
phía Khánh, gắt "Ăn nhanh rồi nhớ lau nhà, rửa chén, giặt giũ xong mới được
ngồi vô bàn viết đấy".
Khánh sợ hãi, nói:
- Thôi, tôi không uống đâu!
Uống rồi tôi không lau nhà, giặt giũ, rửa chén được.
Vợ Khánh cười tươi như hoa,
vỗ lưng chồng:
- Không, bữa nay anh khỏi
làm gì nữa, để em làm hết, anh cứ uống đi"...
Khánh vững tâm, bảo:
- Là cô nói đấy nha...
Uống rồi, Khánh thấy phấn chấn,
lại hỏi vợ:
- Này, cớ sao bữa nay lại
chiêu đãi tôi chân gà và bia vậy?
Vợ Khánh vẫn cười cười, bảo:
- Phải chiều anh chứ. Để anh
giận, ra nước ngoài anh kiếm bà hai sao?
Khánh cười hô hố:
- Cô yên tâm đi, tôi đã từ
chối, nhất quyết không chịu đi rồi.
Bà Tư Rêu chặn tay Khánh,
không cho anh uống bia nữa, giọng bà đanh hẳn, chát chúa:
- Anh nói gì? Từ chối đi Nhật
Bổn à?
Khánh hào hứng đáp:
- Tính con nhút nhát chậm lụt,
con sợ đi ra ngoài làm trò cười cho thiên hạ, nhục lắm.
Vợ Khánh dài giọng chì chiết:
- Anh mà nhút nhát, chậm lụt?
Sao giúp mấy cô xách nước vác xe lại nhanh nhẹn hoạt bát quá vậy?
Khánh cãi:
- Xách nước, vác xe là chuyện
thường thường ai chả làm được. Còn chuyện đi nước ngoài đọc tham luận, tranh
cãi với người ta là chuyện học thức, bản lĩnh.
Bà Tư Rêu lấy đũa đánh vào đầu
Khánh, hỏi:
- Thế bao nhiêu năm nay tôi
nuôi anh ăn học rồi lại nai lưng ra gánh vác phục vụ cho anh nghiên cứu ngày
đêm là công dã tràng à?
Khánh không còn hào hứng nữa,
thấy sợ, rụt rè nói:
- Kìa, sao mẹ lại giận con!
Bà Tư Rêu bỏ mâm cơm leo lên
giường, đập tay xuống chiếu, thét:
- Tôi hỏi anh, bao nhiêu năm
nay anh học hành, nghiên cứu cái gì. Có phải là anh lừa dối tôi và vợ con anh
không?...
Khánh không dám ăn nữa, lúng
túng phân bua:
- Con vẫn học hành, nghiên cứu
chăm chỉ đấy chứ. Tri thức của con luôn tấn tới, ai cũng công nhận điều đó mà.
Bà Tư Rêu nhảy một bước xuống
mâm cơm, đanh thép nói:
- Anh biết là tri thức của
anh tấn tới vậy thì tại sao anh không chịu đi nước ngoài. Học giỏi mà không đi
thì học làm gì? Ngày xưa người ta nói: văn hay chữ tốt không bằng thằng dốt có
bằng. Tôi nói cho anh biết, cái thời buổi bây giờ, không đi nước ngoài là chẳng
là làm nên trò trống gì hết, là trí thức mà không có bằng. Các cụ xưa nói: Đi một
ngày đàng học một sàng khôn. Người ta đã cho anh đi nước ngoài, lại đi một nước
văn minh sang trọng giàu có như Nhật, tức là người ta đã mở cho anh đến với cả
một núi khôn. Biết bao người phải hối lộ, chạy cửa trước gõ cửa sau muốn sái
chân, sưng tay cũng không được. Vậy mà anh lại từ chối! Là cớ làm sao?
Vợ Khánh vội dàn hòa, ngọt
ngào nói với chồng:
- Cái tính nhút nhát sợ người
lạ của anh trước sau cũng phải sửa thôi, chi bằng nhân dịp này, sửa luôn đi
anh. Thời buổi thị trường này, cứ nhút nhát, chậm lụt là bị người ta đạp giẫm
lên đầu lên cổ đấy. Nghe lời mẹ đi anh...
Xem ra chiến thuật vừa đấm vừa
xoa có hiệu quả bước đầu. Khánh tỏ ra lúng túng ngần ngừ:
- Thì tôi cũng biết chậm lụt,
nhút nhát là không nên, là phải sửa... Nhưng sửa ở chỗ nước ngoài e khó quá.
Đây là danh dự quốc gia, đâu có phải là sân tập bóng đá...
Bà Tư Rêu đưa cho Khánh ly
bia, hạ giọng trìu mến bảo con:
- Mày nghĩ sao chứ tao thấy
chuyến đi này là dịp sửa chữa khuyết điểm tốt nhất...
Bà Tư Rêu có một thời làm
cán bộ huyện. ở đó, khi giận dỗi thì gọi nhau bằng anh chị... Trong cuộc họp gọi
là đồng chí. Còn bình thường thân tình thì xưng mày, tao. Với con cái trong nhà
bà cũng giữ cái lệ ấy. Lúc vui vẻ bà gọi "mày, tao", lúc giận lại gọi
"anh, chị và xưng tôi"...
Khánh bối rối, không biết
nói sao, uống hết bia trong ly, mặt bắt đầu đỏ lựng. Vợ Khánh nói tiếp:
- Mẹ nói đúng đấy, nhân dịp
này anh sửa luôn đi. Việc hôm nay chớ để ngày mai mà. Vả lại, theo em thấy, đây
còn là cơ hội tốt nhất để cho anh mở mang kiến thức. Người ta bảo trăm lần nghe
không bằng một lần thấy, trăm lần thấy không bằng một lần cọ xát thực tế. Anh học
tiếng Anh, tiếng Nhật để làm gì, nếu không đem ra để chuyện trò với họ lúc
này...
Bà Tư Rêu lạnh lùng, gằn giọng:
- Học mà không hành thì học
làm gì.
Khánh bực bội, nói:
- Ai chẳng biết điều đó. Nhưng
mà việc này quan trọng lắm...
Bà Tư Rêu đáp luôn:
- Quan trọng hay không là do
mình. Mình cho nó là trọng, thì là trọng. Mình bảo nó là nhẹ, nó sẽ nhẹ. Tao
còn lạ gì những cuộc thảo luận góp ý nữa. Có người nói chẳng ai hiểu gì vẫn được
vỗ tay khen hay. Lại có người chẳng nói gì cả, cũng được khen là sâu sắc.
Khánh gắt (chắc là nhờ men
bia):
- Mẹ nói chuyện phụ nữ phố
huyện, còn đây là vấn đề khoa học quốc tế.
Bà Tư Rêu cười hệch hạc, bỗ
bã nói:
- Này, mày đừng có xem thường
các cuộc thảo luận ở phụ nữ phố huyện. Tao khôn ngoan ra, học thêm được khối điều
từ đấy. Có lần tranh luận với một chị nhà quê về việc đặt vòng tránh thai. Chị
ta chất vấn tao: nếu khi hoạt động mạnh, cái vòng nó bị lệch đi thì làm sao?
Tao còn đang lúng túng chưa biết trả lời thì một bà cười ré lên, bảo "thì
đứng lên, nhảy nhảy mấy cái cho nó cân bằng trở lại".
Rồi bà ta hào hùng kể cho
ông con trai nhút nhát nghe "một ngàn lẻ... một "chuyện" đòn
phép "trong các buổi" tiếp xúc, tranh cãi của mình thời làm cán bộ phụ
nữ huyện. Bà bày tỏ cho Khánh những "ngón nghề" đối phó lại với những
chất vấn, những "tấn công áp đảo" của đối phương. Bà nhấn mạnh:
- Mày phải biết hỏi lại người
ta khi mình "nắm" chưa chắc vấn đề. Hỏi lần một vẫn chưa thông thì hỏi
lần hai, lần ba... hỏi đến khi mình đã có được câu trả lời chắc chắn rồi mới
thôi. Nếu không có khả năng trả lời được nữa thì "đánh trống lảng"
chuyển chuyện khác. Biết tránh né, biết im lặng, biết nói những gì mà mình chưa
biết là điều cần thiết... nhưng điều quan trọng nhất vẫn là phải biết tự tin.
Người xưa có câu: đã tin là có, không tin là không có. Khí thế vào trận quan trọng
lắm. Tin là mình thắng, có thể đã có sáu chục phần trăm chiến thắng. Ra trận với
sự bạc nhược, thiếu tin tưởng là thua đứt rồi. Mày là người học rộng, biết nhiều,
không tin ở mình thì tin ai?
Sự hùng hồn của bà mẹ đã có
tác động tích cực đến Khánh. Anh hăng hái hẳn lên, bảo:
- Được rồi, mẹ khỏi nói nữa,
để con đi.
Khánh thức ba đêm liền soạn
thảo bài phát biểu gần giống như một công trình nghiên cứu văn hóa Việt Nam qua
các phong tục tập quán, nghi thức giao tiếp, quan hệ làng xóm, gia đình... Anh
dịch ra tiếng Nhật, tiếng Anh và đọc đi đọc lại gần như thuộc lòng. Để chắc ăn
thêm, Khánh soạn sẵn một lô các vấn đề cần chú giải, cần mở rộng. Cơ quan không
có tiền cấp cho Khánh. Mọi thứ, từ vé máy bay đi về, ăn ở, tiêu vặt bên Nhật đã
lo đầy đủ. Khánh lại sợ lỡ ra có chuyện gì, không có tiền phòng thân. Bà Tư Rêu
bán đi hai chỉ vàng, dặn đi dặn lại:
- Tiền ở miệng mày mà ra.
Tao lo cho hai chỉ để phòng thân cấp bách. Nếu không có gì thì mua thứ có giá,
đem về bán, kiếm chút lời...
Vợ Khánh cũng đưa cho chồng
100 đôla, bảo:
- Nghe người ta nói ở bên đó
nhiều thứ họ vứt đi cũng còn tốt lắm!... Nếu tiện lấy một ít mang về. Còn trăm
này để mua những thứ quý hiếm.
Khánh đi nước Nhật, với cái
túi vải đựng 200 đôla đeo tòn ten trước ngực. Còn quần áo thì mượn của Sếp. Hơi
ngắn một tí nhưng cũng được, trông sang trọng hẳn lên. Khánh ra sân bay. Bà Tư
Rêu không đưa tiễn, thắp nhang khóc sụt sùi trước bàn thờ khấn cầu tổ tiên, trời
Phật và ông chồng quá cố của bà phù hộ độ trì cho Khánh bình an, đi đến nơi, về
đến chốn. Vợ Khánh cũng không tiễn chồng, vì sợ xui. Chị ta lánh mặt để chồng
đi.
Khánh bần thần, xao xuyến,
lo âu. Đến bữa ăn trên máy bay, người ta hỏi anh bằng tiếng Anh, anh trả lời bằng
tiếng Nhật. Một người Nhật ngồi kế bên tưởng anh là dân Nhật, mừng lắm, bắt
chuyện làm quen. Đến khi biết Khánh là người Việt, ông ta càng thích thú hơn nữa,
bảo:
- Người á Đông có chung một
đặc điểm là thích làm quen, kết bạn trên đường đi.
Khánh công nhận điều đó và
nêu ra hàng loạt những đặc điểm tương đồng của dân á Châu, thí dụ như uống trà...
Ông người Nhật là đệ tử của
Trà Đạo, thấy Khánh bàn về Trà uyên thâm và tinh tế quá, càng nể phục Khánh
hơn, nhất quyết xin làm người hướng dẫn cho Khánh trên đất Nhật. Khánh mừng lắm.
Lần đầu tiên trong đời anh giao tiếp với một người nước ngoài, lại được nể trọng.
ở nhà ai cũng xem thường, khi dễ anh, câu trước câu sau là mắng anh là đồ vô dụng,
là con mọt sách...
Đó chỉ là khúc dạo đầu lạc
quan cho một chuyến viễn du hào hứng của anh trên đất Nhật. Người Nhật nào cũng
thích anh. Một phần vì tình yêu của họ đối với ngôn ngữ dân tộc Nhật. Họ quý mến
và lấy lòng bất kỳ người nước ngoài nào biết tiếng của họ. Song, phần lớn là
tình cảm thực lòng của từng người đối với anh. Người thích anh vì sự am hiểu
văn hóa phương Đông, người lại mến anh về tính thực thà, thẳng thắn và hồn
nhiên... Có người thấy cái túi vải màu xanh nhạt đeo trên ngực của anh, tưởng
là "bùa chú" gì đó, cứ nằng nặc đòi xem. Anh phải thực tình khai rõ sự
thật. Vợ anh sợ bị mất cắp tiền nên bắt anh phải đeo cái túi đó trên ngực và
trong túi chỉ có 200 đôla. Mọi người không tin, đòi xem, anh phải đưa cho họ
"mục kích sở thị". Thấy trong túi chỉ có đúng 200 đôla Mỹ, không có
gì khác và cái túi cũng chỉ là thứ vải bóng bình thường, không có dấu hiệu gì của
tôn giáo hay hóa chất đặc biệt; họ kinh ngạc nhìn anh, rồi phá lên cười, ôm lấy
anh thân tình. Có một học giả lớn tuổi, rơm rớm nước mắt vì xúc động, siết chặt
tay Khánh, bảo:
- Hồi những năm sau đại chiến,
tôi cũng đã từng đi nước ngoài như anh với 200 đôla... Cực khổ không đáng sợ,
cái đáng sợ nhất là không còn niềm tin, không còn ý chí...
Người ta mời anh đi tham
quan, diễn thuyết ở nhiều nơi và trả thù lao cho anh rất hậu hĩ, lại tặng cho
anh nhiều quà.
Anh về nước với một kiện
hàng nặng gần 50 ký mà phía người Nhật lo hết mọi thủ tục hải quan và cước phí
vận chuyển, cùng một số tiền gần 3000 đô.
Gia đình Khánh ăn Tết to. Bà
Tư Rêu không mắng chửi Khánh nữa, lại cũng không gọi "mày - tao" như
trước, mà gọi "ba con Thảo". Vợ Khánh cũng không còn xỏ xiên, đay
nghiến, cạnh khóe chồng nữa. Chị cư xử như một người vợ hiền, hết lòng chăm sóc
cho Khánh. Người ta bảo, ấy là do tác động của đồng tiền. Khánh đã mang về nhiều
tiền và dĩ nhiên phải được cả nhà nể trọng. Mặt khác, sau chuyến đi nước ngoài
về, Khánh có rất nhiều bạn là người nước ngoài. Bạn đồng nghiệp nghiên cứu có,
bạn kinh doanh có, bạn du lịch có...
Sau Tết, hầu như tháng nào
cũng có một vài người nước ngoài đến thăm nhà Khánh. Bà Tư Rêu phải mua gấp một
bộ salông mới. Vợ Khánh phải thay tủ lạnh, bộ ấm trà và tấm riđô ngăn vách mới...
Chẳng phải chỉ ở trong gia
đình, cư dân chung cư cũng tỏ ra nể trọng Khánh hơn trước nhiều. Ông thường trực
trước gọi Khánh là Thầy Khánh, giờ gọi là giáo sư với thái độ kính nể đặc biệt.
Khánh giải thích biết mình chưa phải là giáo sư, nhưng ông cứ gọi, bảo:
"Người nước ngoài đến đây, đều gọi anh là giáo sư, cớ sao tôi không gọi".
Tự nhiên Khánh thấy mình cao
lớn, oai phong hẳn lên. Anh cũng có rất nhiều thay đổi. Đi đứng chậm rãi, mặt
ngẩng cao, nói năng rành mạch ngắn gọn. Rồi một công ty nuớc ngoài mời Khánh
làm cố vấn đối ngoại. Chủ công ty này tìm đến Khánh theo lời giới thiệu nồng
nhiệt trân trọng của một người bạn nước ngoài của Khánh.
Chưa đầy một năm, Khánh đã
có đủ tiền mua nhà mới. Đúng là vận hội may mắn hiếm có. Ai cũng bảo Khánh tốt
số, thánh nhân đãi khù khờ. Chỉ có ông thường trực và gã Ba Tỷ phản đối. Ba Tỷ
đanh thép nói: "Sao lại thánh nhân đãi khù khờ! Nếu ông Khánh không tài
cao học rộng thử hỏi làm sao có chuyến đi nước ngoài, làm sao có danh tiếng.
Các người chỉ thấy cái bề ngoài khù khờ của ông ấy thôi, làm sao thấy được
"vàng mười" trong con người đó. Thời buổi này chớ có há miệng chờ
sung, mong chờ may mắn".
Chị Đức Hạnh, một cư dân mới
về chung cư (sang lại căn hộ của "Đồng bóng" ở tầng 3), một phó tiến
sĩ khoa học làm việc ở Viện nghiên cứu, nói thêm: "Chú Ba Tỷ nói đúng đấy.
Anh Khánh có danh tiếng thì tiền bạc có theo là phải thôi. Như những ca sĩ nổi
danh ấy. Nhưng danh tiếng thời này cũng không bền đâu. Tạo được danh tiếng đã
khó, nuôi được danh tiếng còn khó hơn nhiều".
ấy là lúc sáng, khi mọi người
kéo xuống tầng trệt ăn sáng, uống cà phê ở quán "Lá thu" mới mở. Chị
Đức Hạnh quen thân với Ba Tỷ từ trước và chính Ba Tỷ giới thiệu chị về đây. Gã
còn nhận giúp chị việc đưa cháu Hoa con gái của chị đi học mỗi sáng.
Chị Đức Hạnh có hai nếp gấp
quanh miệng rất có duyên. Nhưng nụ cười của chị, dù có cười hết cỡ vẫn héo hắt,
sầu muộn đến miên man.
12. Hỏi, cưới...
Đầu tiên là ông chồng cô
Đoan Trang mang về một chậu cây kiểng Thiên Tuế. Trông lạ mắt. Mấy tháng nay,
xí nghiệp in của ông không đủ việc làm, phải nghỉ máy thường xuyên. Đang có
nguy cơ giải thể, mạnh ai nấy chạy tìm việc. Cả xí nghiệp chỉ có ông là không
lo lắng gì hết. Ông nói: "Việc đâu tới đó, lo chi. Có dịp nghỉ, cứ nghỉ".
Hàng ngày ông thong dong ngược
xuôi tìm cây kiểng lạ, tu bổ vườn kiểng nhà ông như một vườn thượng uyển. Có
người bảo ông chuẩn bị về hưu non. Dân chung cư không tin chuyện ấy. Con người
lắm mưu nhiều kế, 53 tuổi ly dị vợ già lấy vợ trẻ này dễ gì chấp nhận thú vui
hưởng nhàn. Cũng là lẽ tự nhiên, khi vườn kiểng của nhà ông trở thành nơi tụ tập
thường xuyên mấy ông cán bộ hoặc đã từng là cán bộ nhà nước. ở đấy họ thông
tin, bàn luận đủ chuyện chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học và các chuyện xảy
ra ở chung cư. Trăng thanh gió mát, vườn thượng uyển của ông chồng cô Đoan
Trang ở trên sân thượng quả là nơi thư giãn thần tiên. Nó càng được chú ý hơn với
sự có mặt của chậu Thiên Tuế. Một cái đẹp vừa sang trọng, vừa hoang dã, vừa bí ẩn
vừa rõ ràng, vừa mạnh mẽ vừa tinh tế. Cô Đoan Trang hãnh diện với mọi người vì
chậu Thiên Tuế. Cô thầm thì nói: "Thứ đó hiếm lắm. Từ Mã Lai nhập vô
đó". Nhiều người tin thật, lũ lượt kéo nhau lên xem. Cho đến khi gã Ba Tỷ
đem một cây Thiên Tuế khác về nhà, người ta mới vỡ lẽ thứ cây kiểng đó chẳng phải
là thứ ngoại nhập. Nó có ở xứ ta và ở vườn kiểng giống nào cũng có. Ba Tỷ khoe:
"Thiên Tuế của tôi là loại đặc biệt ở Tây Nguyên, chưa hề lai tạp, còn
nguyên chất núi rừng. Bây giờ người ta chuộng thứ cây nguyên thủy rồi, không ưa
thứ kiểng lai nữa". Cây Thiên Tuế nhà Ba Tỷ cao khoảng 30cm, nhỏ và thấp
hơn Thiên Tuế kiểng nhà cô Đoan Trang, nhưng nom có vẻ hoang dã dữ dằn hơn. Màu
sắc của nó đậm hơn, cạnh lá sắc hơn. Hành lang nhà Ba Tỷ có chậu Thiên Tuế
trông sang trọng và sáng sủa hẳn lên. Ba Tỷ rỉ tai nói với chị Chín Rơm:
"Tôi nghe nói cây này ở trong nhà, tài lộc phát nhanh lắm. Nhưng phải là
Thiên Tuế rừng cơ. Để tôi biếu chị một cây. Nói cho chị hay chỉ có vườn
kiểng Trúc Đào mới có thứ Thiên Tuế rừng đó". Chị Chín Rơm nhận cây
Thiên Tuế của Ba Tỷ suýt khóc vì cảm động. Đi đâu chị cũng khoe Ba Tỷ tốt
bụng, biết lo cho người khác. Chị Chín Rơm trưng cây Thiên Tuế
ở nhà hôm trước, hôm sau ông Lưu Bi mang theo heo quay đến nhà ngỏ lời cầu hôn.
Chị Chín Rơm đờ đẫn mụ mẫm cả người vì hạnh phúc bất ngờ ập đến. Hóa ra ông Lưu
Bi không nối lại tình xưa với bà vợ giàu. Ông chỉ đón tiếp bả theo nghĩa bạn cũ
và vì tình yêu thương con cái. Ông Lưu Bi có chân trong Ban quản trị công ty
trách nhiệm hữu hạn gì đó, làm ăn đang phát đạt. Ông bảo đang tìm mua nhà mới,
cuối năm cưới chị Chín Rơm... Tất nhiên với tính nông nổi "phổi bò",
cái bí mật "Thiên Tuế vô nhà, tài lộc phát đạt" cũng được chị hô hoán
ầm ĩ khắp nơi. Có lẽ cũng là cái cớ để chị khoe sắp lấy chồng giàu.
Những người biết Ba Tỷ đều cười thầm trong bụng. Họ còn lạ gì tính "ba xạo,
cà chớn" của gã "chân đá, tay chộp" ấy. Gã chơi thân với ông chủ
vườn kiểng "Trúc Đào", thường làm mối giá bán sỉ và lẻ cây kiểng cho
ông ta. Đất chật, Thiên Tuế rừng về nhiều, Ba Tỷ nhận giúp ông ta tiêu thụ, ăn
phần trăm trên cây. Những khách hàng đầu tiên Ba Tỷ nhắn tới là cư dân chung
cư. Gã biết người trong chung cư quanh năm suốt tháng mải miết làm việc, ít có
dịp đi đây đi đó nên mới lũ lượt kéo nhau xem cây Thiên Tuế kiểng. Ba Tỷ cũng
biết trước chuyện ông Lưu Bi đến cầu hôn chị Chín Rơm. Không có ai quảng cáo tốt
hơn là miệng lưỡi chị Chín. Ba Tỷ thực thi kế hoạch "bán Thiên Tuế rừng"
một cách hoàn hảo. Dù biết Ba Tỷ làm ăn trong vụ này, nhưng người dân chung cư
chẳng ai để bụng. Ai cũng tỏ ra thông cảm với Ba Tỷ, chia vui với chị Chín Rơm.
Người ta gửi tiền Ba Tỷ mua giùm. Sau một tuần, trong chung cư không nhà nào
không có chậu Thiên Tuế rừng để ở ban công. Cũng bởi cái mốt chơi chậu kiểng
đang phổ biến trong giới trung lưu và giá một cây Thiên Tuế rừng cũng không đến
nỗi quá cao so với các chi tiêu dịch vụ, vặt vãnh khác...
Và, cũng bởi chuyện
"làm ăn" môi giới nhận hoa hồng phần trăm bây giờ là một thứ nghề
nghiệp, có tính phổ biến nên chẳng ai truy hỏi Ba Tỷ xem vụ "Thiên Tuế"
anh ta thu được bao nhiêu. Không ai khảo, nhưng Ba Tỷ nhất nhất khẳng định:
"Vụ này giúp ông Trúc Đào là chính, tiền phần trăm không đủ bữa nhậu".
Người ta cười, bảo:
"Nào có ai nói gì đâu". Có lẽ Ba Tỷ cũng có chút áy náy, nên ráng sức
phân bua thêm: "Thì tôi cũng nói vậy, kẻo có người nghi ngờ này nọ, hoặc
cho tôi là thứ gà què ăn quẩn cối xay". Thực ra, Ba Tỷ nói vậy cũng là một
phản ứng tự vệ. Cái người "có người" trong câu nói của anh ta có địa
chỉ hẳn hoi. ấy là cô Đoan Trang. Cũng bởi người ta không để ý đến Thiên Tuế ở
vườn kiểng nhà cô nữa, lại có ý chê là cũ, cổ và giả tạo. Cô chạy ngược chạy
xuôi nói với mọi người rằng thứ Thiên Tuế kiểng ở nhà cô là loại đặc biệt quý,
giá của nó tới hơn một triệu, còn thứ Thiên Tuế rừng giá bình dân chỉ có từ 10
đến 20 ngàn thôi. Có người tin, có người không tin. Nhưng dù tin hay không họ đều
cười xòa, bảo: "Tuy là rừng, nhưng nó đẹp hơn". Thế nên cô nhất định
phải giận Ba Tỷ. Từ sau vụ đánh lộn với chị Chín Rơm rồi hòa giải, tính tình của
cô Đoan Trang có sự thay đổi chút ít. Dẫu giận, cô cũng không đích danh xỉa xói
Ba Tỷ, chỉ nói bóng gió xa xôi rằng cái gã taxi ấy là kẻ môi giới làm ăn trên đầu
người lao động chân chính, một loại gà què...
Cô cũng tri hô khắp nơi, nói
cái thứ quảng cáo "Thiên Tuế vô nhà, tài lộc phát đạt" là thứ lừa gạt
thô thiển. Người trong chung cư cười xòa, chẳng ai để bụng. Thu nhập khá lên,
công việc bận rộn nên số tiền một hai chục ngàn chẳng còn là một nhân tố phát
sinh sự cấu xé, dằn vặt nữa.
Nhưng rồi, cái niềm tin
"Thiên Tuế vô nhà, tài lộc phát đạt" chưa kịp bén rễ đã bị tàn lụi khi cùng một lúc người ta phát hiện có một vết nứt rạn ở từng trái và hầu
hết các trần nhà tầng lầu đều bị thấm nước. Thậm chí có phòng còn bị lở vôi vữa,
trơ ra khung sắt rỉ. Toa lét nhà ông Công Chức, ông Tư Bi phải căng nilông ngăn
chặn nước dơ. Cơ quan vội vã gửi công văn đến Sở nhà đất. Công ty quản lý nhà cấp
tốc cử cán bộ kỹ thuật đến kiểm tra. Năm người đi xe honda đến, sục sạo khắp mọi
nhà, mọi ngóc ngách, từ tầng trệt trở lên, suốt một buổi sáng. Đến 11 giờ trưa,
ông kỹ sư đội trưởng tuyên bố ở phòng trực: "Nhà phải sửa gấp. Đại tu toàn
bộ". Tổ trưởng Trạng lo lắng hỏi: "Chừng bao nhiêu tiền". Viên kỹ
sư biết nỗi lo lắng của chung cư, nên chỉ nói mơ hồ rằng số tiền sửa chữa là
khá lớn không thể nói ngay được. Trừ những nhà sắp sửa dọn đi như nhà anh
Khánh, ông Tư Bi... và gã Ba Tỷ chạy rong ngoài đường, người trong chung cư
hoang mang, bàn tán. Người thì nói giá sửa vài chục triệu, người bảo vài trăm.
Cơ quan S tuyên bố nhà đã giao cho Sở nhà đất rồi, thu xếp thế nào là tùy Sở.
Nửa tháng sau người của Công
ty quản lý nhà đến thông báo cho bà con chung cư biết dự kiến số tiền đại tu
chung cư. Mọi người đổ mồ hôi hột. Số tiền quá lớn. Theo công bố của Nhà đất với
phương án nhà nước và dân cùng làm thì mỗi nhà phải đóng hơn 10 cây vàng. Sau một
thời gian im lặng, hầu như tất cả mọi người đều thốt lên: "Nó đổ thì cho đổ,
đành chịu thôi".
Nhà đất đưa ra phương án thứ
2: Các hộ dọn đến những nhà mới ở các khu nhà mới xây cất, không phải đóng thêm
gì nữa, để nhà chung cư lại để công ty sửa chữa kinh doanh. Các hộ dọn đi đến 4
địa điểm nhà mới ở 3 khu khác nhau là Tân Bình, Gò Vấp, Bình Thạnh. Nếu không thỏa
thuận được trong việc chia lô, chia nhà thì tổ chức bốc thăm. Các hộ phải làm
giấy cam kết đổi nhà, trong thời hạn hai tháng. Sau hai tháng số
nhà mới phân phối cho nơi khác, việc bố trí nhà mới không còn trong kế hoạch nữa.
Sở nhà đất hết trách nhiệm. Phương án này được một nửa hộ dân trong chung cư chấp
nhận. Song nửa số hộ còn lại nhất quyết bám trụ đến cùng. Thế là dân chung cư một
lần nữa lại chia làm hai phe. Sự tranh cãi càng ngày càng quyết liệt. Phe đồng
ý ra đi gồm những hộ đã có nhà ở ngoài hoặc có kế hoạch mua nhà trong đó có nhà
Bà Tư Rêu, chị Chín Rơm, ông Lưu Bi, chị Lệ Tuyết... Phe nhất định bám trụ tập
trung ở những hộ đông người chưa có điều kiện đổi nhà hoặc những hộ
có mối quan hệ công việc, làm ăn gắn với trung tâm thành phố như nhà anh Minh,
anh Trạng, chị Lệ Hồng, ông Công Chức, cô Đoan Trang...
Chỉ duy nhất có gã Ba Tỷ
không theo phe nào. Gã bảo bán cũng được, không bán cũng không sao. Phe đi nêu
lý do có nhà ở trong từng hộ như vậy là khá rồi, không thể đòi thêm và trước
sau gì chung cư cũng phải xây lại, không thể ở thế này mãi được. Phe không đồng
ý đi lập luận rằng cánh nhà đất muốn lấy chung cư làm khách sạn nên hù dọa đuổi
người, chứ nhà mới bị rạn trần chỉ sửa chữa sơ qua là ổn. Hai phe thuyết phục lẫn
nhau.
Bà Tư Rêu dãi dề tâm sự với
anh Minh. (Kể từ ngày Khánh đi nước ngoài về làm ăn phát đạt, bà đã chủ động
sang nhà Minh xin lỗi, hòa giải và hai nhà không còn giận dỗi nhau nữa).
- Không phải là tôi nghĩ cho
tôi. Anh biết đấy, từ ngày thằng Khánh nhà tôi nhờ ơn trên, lộc mưa làm ăn tấn
tới có đồng ra đồng vào, chuyện nhà cửa sinh sống tôi đâu còn phải lo gì. Tôi
chỉ lo cho nhà anh thôi. Tình trạng ở chung cư phức tạp như thế nào, anh quá biết.
Không một ai muốn ở chung cư cả. Nếu có điều kiện, ai cũng muốn có căn nhà riêng
của mình. Tôi thấy những khu nhà mới xây cho dân giải tỏa rồi. Cũng
là chung cư nhưng riêng biệt, giống như nhà riêng vậy. Chẳng như thứ chung cư
khách sạn này. Dù xa xôi, bé nhỏ thế nào đi nữa cũng là của riêng mình. Vả lại,
tôi nghe nói, trước sau gì đường này cũng phải mở rộng. Thằng Khánh nhà tôi đi
Nhật về bảo đường phố của họ rộng gấp đôi đường phố của ta. Bây giờ chưa có điều
kiện quy hoạch nhưng ít năm nữa cũng phải quy hoạch thôi. Cũng như ngôi nhà
này, xập xệ quá đát rồi, đâu có thể trụ lại lâu được nữa. Nhân dịp này ta tính
trước đi là vừa...
Anh Minh hùng hồn nói lại:
- Con nghĩ khác dì. Con biết
rằng chẳng thể nào thuyết phục dì được. Nhưng con cũng xin nói ra cái lý để dì
suy ngẫm. Con đồng ý với dì ở hai điểm. Thứ nhất là đường phố phải mở rộng.
Nhưng theo các nhà phân tích kinh tế thì với tốc độ phát triển nhanh như hiện
nay, phải ít nhất đến năm 2000 đường phố này mới mở rộng được. Nhưng theo các
nhà phân tích kinh tế thì với tốc độ phát triển nhanh như hiện nay, phải ít nhất
đến năm 2000 đường phố này mới mở rộng được. Đây là khu dân cư lao động chứ
không phải trung tâm buôn bán hay trục lộ giao thông chính. Thứ hai đúng là
ngôi nhà này đã xập xệ quá đát. Nhưng nó thuộc loại chung cư xây dựng năm 1966.
So với những chung cư thời Pháp để lại nó còn vững chắc và đẹp đẽ hơn nhiều.
Dàn sửa chữa nhà cũng như bác sĩ, nhìn đâu cũng thấy bệnh. Con nói thật, chẳng
có nhà chung cư nào ở thành phố này chắc chắn cả. Bói ra ma, quét nhà ra rác.
Như ở ý, có cái tháp nghiêng đến ba thế kỷ nay vẫn không đổ. Ăn nhau là ở cái đất,
cái móng. Đất ở đây cao chắc, móng tốt. Vậy cái vết nứt nhỏ chỉ là chuyện vôi vữa
thôi, không đáng ngại.
Bà Tư Rêu nhăn nhó cười, bảo:
- Tôi thuyết phục anh, anh
thuyết phục lại tôi. Còn nói gì được nữa...
Tình trạng giằng co như vậy
lần lần trôi qua từng ngày. Chỉ còn 5 ngày nữa là hết hạn. Nếu không có câu trả
lời thuận dời đi ở tất cả các hộ, coi như vụ này xù... Mọi nhà cứ ở, chờ đợi biện
pháp mới và hy vọng nhà không bị đổ sập. Phe không đi có vẻ tự tin. Ngoài thiên
tuế ra, họ còn mang về thêm những cây kiểng mới.
Ngày 10-10, Lệ Hồng tổ chức
đám cưới lần thứ hai. Bùi Chương sẽ đến ở với mẹ con chị. Cả chung cư nhộn nhịp,
chăm lo, thăm hỏi, giúp đỡ Lệ Hồng. Đám cưới tổ chức ở nhà hàng. Đón dâu đưa
dâu cùng một tuyến đường. Đến nhà hàng ăn uống chụp ảnh xong thì về chung cư...
lại nhập tiếp. Ba Tỷ nhận phần việc xe hoa, kiêm luôn tài xế. Thực ra gã đâu có
phải thuê mướn gì, chỉ cần gỡ cái biển taxi trên nóc xe, đem dây hoa phủ lên xe
mình, thế là xong.
Đám cưới tổ chức ngày chủ nhật.
Sáng, chung cư dậy sớm hơn lệ thường. Chị Đức Hạnh được giao việc đến bệnh viện
đón ông thường trực ở bệnh viện về. Đúng là nhà có đám. Chung cư ồn ào, đi lại
nhộn nhịp, đủ mọi màu sắc. Cô Đoan Trang mặc váy màu xanh nước biển có nhiều nếp
gấp như đồng phục nữ sinh, nom cô trẻ ra đến 5 - 6 tuổi. Chị Lệ Tuyết không mặc
đầm, hay xường xám nữa, lại mặc bộ đồ bó chẽn bằng vải súp bóng, giống như ca
sĩ nhạc Rốc, nom có vẻ ngổ ngáo dữ tợn hơn. Chị Chín Rơm đòi mặc đầm. Ông Lưu
Bi không cho, ép mặc áo dài màu hoàng yến. Chị Chín Rơm bực bội nói với cô Đoan
Trang: Tao thấy tao mặc đầm là hợp nhất. Thế mà lão Bi bảo mặc thế nom quê mùa
kệch cỡm, tây chẳng ra tây, ta chẳng ra ta, như con bù nhìn rơm. Lão bắt tao mặc
áo dài. Mày coi, tao trước sau như một, không phân biệt ba vòng, mặc áo dài có
khác gì cái cột biết đi...
Chị Đoan Trang cười hi hí bảo:
"Ông xã tương lai của chị nói đúng đấy. Chị nên mặc áo dài màu hoàng yến.
Nhưng phải qua tay em thì mới không thành cây cột điện biết đi...
Chẳng biết cô Đoan Trang phù
phép thế nào, chỉ sau 15 phút, chị Chín Rơm trở thành một người khác hẳn, giống
như một bà chủ phốp pháp đẫy đà, trên ra trên, dưới ra dưới. Ông Lưu Bi nghệt
ra như ngỗng ỉa, nhìn lại vợ sắp cưới một lần nữa. Rồi ông hiểu ra, bật cười ha
hả: "Hay, giả mà đẹp mắt vẫn cứ hay!".
Chị Chín Rơm mắc cỡ đỏ nhừ mặt.
Suốt buổi tiệc chị không dám nói to, không dám cử động mạnh. Chị trở thành một
người đàn bà nhút nhát, ít lời, dịu dàng và đoan trang mẫu mực. Cô Đoan Trang
ngồi kế bên, thương quá, nói thầm:
- Không sao đâu, chị cứ tự
nhiên, mọi thứ đều chắc chắn lắm chị khép nép quá khiến mọi người để ý, soi
mói, dễ lộ...
Lời nói thầm lọt đến tai Ba
Tỷ. Gã bò ra bàn cười rũ rượi. Nhìn thấy cặp mắt nảy lửa của chị Chín, gã vội
vàng giả bộ xỉn lè nhè nói:
- Cứ có bia rượu vào là tôi
cười, tôi cười không phải vì tôi say mà vì vui, vui, nên cười... Cười nhiều sống
nhiều... Ha, ha...
Gã nhảy dựng lên mà cười. Mọi
người cười theo.
Nhưng, không biết vì sao, có
một nguồn tin nào đó từ bàn ông Công Chức phát ra khiến mọi người thôi cười.
Tin đó nói rằng, tháng sau chung cư sẽ bị giải tỏa để mở đường và các hộ được đền
bù theo chính sách chứ không theo giá thỏa thuận...
Anh Minh thở dài, bảo:
- Không ngờ tốc độ phát triển
lại nhanh đến vậy.
Bà Tư Rêu nói sang sảng, từ
bàn này sang bàn khác:
- Nếu vậy, chúng ta về nhà mới
thôi, đi trước một bước là khôn. Trâu chậm uống nước đục. Cái sự đền bù của nhà
nước là rắc rối phức tạp lắm. Có nhiều thứ loại; loại tầng trệt, tầng lầu, tầng
cao, tầng thấp. Rồi lại tính cả diện gia đình chính sách, gia đình
nghèo, người có hộ khẩu thường trú, người tạm trú. Lại còn tính đến chuyện
xuất xứ nữa... Ông em họ tôi ở quận 3 nhận đền bù căn hộ có 3 cây vàng. Không
có hộ khẩu, coi như ở chui, kiện ai...
Hết thảy những người thuộc
phe ở lại đều nghe rõ tiếng nói của bà Tư Rêu. Họ xì xào ngờ vực. Ngay cả cô
dâu đang đi chào từng bàn cũng không thể đứng ngoài cuộc. Lệ Hồng bỏ qua ba bàn
đến thẳng chỗ ông Công Chức, hối hả hỏi: "Tin đó là sao, chú" Ông
Công Chức đã nhiều lần tuyên bố thề bám trụ ở chung cư cho đến chết, thuộc hàng
ngũ đứng đầu phe ở lại, cười cười:
- Tin chính xác đấy. Tay đệ
tử thân tín nhất của tôi ngày trước ở Sở Nhà đất nói cho tôi hay, biểu tôi chuẩn
bị hồ sơ đổi nhà.
Chị Đức Hạnh nghi ngờ, hỏi:
- Chưa biết chừng tay đệ tử
của chú ăn cánh với đám công ty mua nhà tung tin vịt để hù dọa bà con.
Ông Công Chức khẳng định:
- Không có đâu, tay này đáng
tin cậy...
Cô Đoan Trang mát mẻ:
- Liệu có tin bằng gã Ba Tỷ
không. Hàng xóm với nhau còn thế, huống chi...
Chồng cô Đoan Trang mạnh mẽ
bảo:
- Tôi đồng ý với anh Chức.
Chuyện này phải xảy ra thôi. Ta cứ theo bà Tư, đi trước một bước. Đừng để lún
sâu vào vụ đền bù giải tỏa.
Ông già anh Minh hắng giọng
tuyên bố:
- Tôi cũng thấy rõ điều đó.
Đề nghị bà con ta nắm lấy cơ hội này. Ta đi thôi!
Thế là xong! Chẳng còn ai
bàn ra, cãi vô nữa. Tất cả đã nhất trí "chạy làng" trước khi nhà nước
"giải tỏa". Đám cưới chị Lệ Hồng trở thành một cuộc họp nhất trí
thông qua việc đổi nhà. Cuộc vui tiếp tục trở về chung cư.
Ông Lưu Bi đã xỉn, khóc hu
hu, bảo:
- Những lúc khốn khổ hàn vi
tôi được bà con giúp đỡ, chăm sóc. Bây giờ làm ăn được, lại phải xa nhau... Tôi
thương mọi người lắm. Mọi người đừng ruồng bỏ tôi...
Tổ trưởng Trạng phải ra sức
vỗ về ông, hứa bao giờ đám cưới ông, mọi người sẽ đến đầy đủ...
Chị Chín Rơm phải dìu ông về.
Ra khỏi bàn nhậu ở sân thượng, ông còn hét lên:
- Mọi người nhớ phải đến đấy...
Nếu không, tôi sẽ khóc suốt đời...
Ai bảo ông Lưu Bi lạnh lùng,
khắc khổ. Hóa ra cái vẻ ngoài đôi khi lại chỉ là thứ trang trí lừa dối người
khác. Chỉ khi say xỉn, con người mới bộc lộ hết bản chất của mình. Cũng như anh
Minh, ngày thường lặng lẽ kín đáo tỷ mẩn và keo kiệt là thế, xỉn rồi cứ đòi mời
tất cả cánh đàn ông đi "tăng hai", lại còn dám quát lên với vợ khi vợ
hỏi "tăng hai" là gì?
- Là đi bia ôm chứ còn gì nữa.
Cô không ngăn cấm nổi tôi đâu. Tôi có tiền...
Dĩ nhiên chẳng có ai hưởng ứng
cả...
Cuộc vui đến một giờ sáng mới
xong. Ai về nhà nấy. Chỉ còn ông Công Chức. Hồi này, ông ở nhà nhiều hơn đi
làm. Ông không đủ tài, trí và sức lực cạnh tranh với đám trẻ trong nghề vẽ quảng
cáo. Ông đang thâm nhập thị trường vẽ mẫu thời trang. Xem ra, thị trường này
cũng không hợp với ông. Nên ông càng ngày càng buồn phiền, lắm tâm sự. Ông ôm
đàn gảy khúc "Trăng in đáy nước" do ông sáng tác. Một khúc nhạc giống
như tân - cổ giao duyên pha tạp giữa hát xẩm - quan họ - và nhạc mới.
Trăng sáng, gió hờ
Lòng ta đáy nước trông chờ
người ơi
Thương thì nói, không thương
thì thôi
Đừng to tiếng, chớ buông lời
đắng cay
Ta suy
Thế gian không đủ nước
Ta phải lăn xuống hồ
Uống cho đỡ khát
Ta đâu phải là bóng
Ta là ta
Dẫu không có trăng. Ta vẫn
là ta...
Hát xong, ông hỏi to:
- Trả giá bao nhiêu cho bài
hát này?
"Meo!", Không có
tiếng người, chỉ có tiếng con mèo hoang trú ngụ nhà Ba Tỷ lên tiếng.
Ông thở dài, bế con mèo lên,
hát tiếp "Trời đất bao la, có trăng có nước cần chi mái nhà..."
Ông dò dẫm đi xuống cầu
thang. Trời mờ mờ sáng.
Lời nói thêm
"Chuyện chung cư"
có lẽ còn nhiều nữa, bởi đây chỉ là những đoạn kể chuyện về một chung cư trong
số hàng trăm chung cư ở thành phố. Mỗi người đều có cuộc sống riêng, có số phận
khác nhau nên mỗi chung cư đều có những nét riêng. Huống chi cái "chuyện
chung cư" này chưa viết hết tất cả mọi nhà. Như chị Đức Hạnh, một kỹ sư
hóa chất rất giỏi về chuyên môn, đã gần tới tuổi 40 vẫn sống độc thân cùng đứa
con gái. Khi tiếp xúc với chị, ai cũng có nhận xét chị là người phụ nữ khả ái,
dịu dàng và tràn đầy hạnh phúc. Gương mặt tròn, lông mày cánh cung, đôi mắt
tròn sáng và nụ cười cũng tròn vành vạnh như trăng rằm. Nhưng, nhìn dáng đi của
chị tôi không tin chị là người may mắn, sống trong hạnh phúc thường tình. Đàn
bà đi lao đầu về phía trước, mắt nhìn xuôi với những cử động mạnh mẽ, dứt khoát
không thể nhàn nhã được. Niềm tâm sự nhức nhối đau đáu của chị được thể hiện rõ
khi đứng một mình. Tôi thấy chị chờ đèn xanh để băng qua đường. Bất chợt, đôi mắt
chị ngước nhìn lên. Nỗi buồn vời vợi ở đôi mắt ấy còn sâu thẳm, mênh mông hơn cả
khoảng trời xanh phía trước. Tôi chưa kịp làm quen, chị đã ra đi...
Hay như chuyện tình yêu của
cô Thúy và anh chàng An, tôi cũng chưa kịp hỏi xem kết quả thế nào. Và chuyện bệnh
tật của ông cựu sĩ quan pháo binh về hưu nữa...
Giờ đây, mỗi lần đi qua nơi
trước đây là chung cư, tôi thấy như chung cư ấy vẫn còn sừng sững ở đó với màu
vôi tróc lở, đen trắng nhạt nhòa và tiếng mèo kêu, tiếng cười hô hố của gã Ba Tỷ,
tiếng còi của ông thường trực...
12/1995
Trần Văn Tuấn
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét