1. Dẫn nhập
1.1. Trong những năm gần đây, việc tiếp cận các
sự kiện văn học trên cơ sở vận dụng phương pháp và thành tựu nghiên cứu của
ngôn ngữ học hiện nay, cụ thể là hướng tiếp cận ngôn ngữ - văn hoá đang thu hút
được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Với hướng tiếp cận này, ý nghĩa
của một sự kiện văn học không chỉ là những thông tin nằm bất động trên văn bản,
mà ở một tầng vỉa sâu xa hơn, nó còn là những yếu tố được lọc qua một lăng kính
tâm lí của mỗi cá nhân cụ thể, gắn liền với các tham số mang tính chất tâm lí
và lịch sử của dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu cấu trúc ngữ nghĩa không thể
tách rời khỏi việc nghiên cứu những hiện tượng, trạng thái tâm lí, cơ chế nhận
thức của con người, cũng như những đặc điểm văn hoá, xã hội của dân tộc, của
thời đại.
Dưới cách tiếp cận ngôn
ngữ - văn hoá, bài viết này sẽ đi sâu phân tích, lí giải sự lan toả ý nghĩa của
từ “hoa” từ tâm ra ngoại vi, cũng như sợi dây gắn kết về ngữ nghĩa từ ngoại vi
hướng về tâm. Lấy dữ liệu là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (bản do Hà Huy Giáp
giới thiệu, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích [4]), chúng tôi hi vọng
có thể phác thảo phần nào cơ chế sản sinh khái niệm, cơ chế sản sinh ý nghĩa
mới của một từ qua tương tác ngữ cảnh, cũng như cơ cấu tổ chức từ vựng trong
ngôn ngữ.
1.2. Nhìn một cách tổng quan, “hoa” trong
“Truyện Kiều” xuất hiện 133 lần với 3 tư cách khác nhau:
Hoa với tư cách là từ nhân danh: con
Hoa, Hoa Nô (4 trường hợp)
Hoa với tư cách là một thực từ với sự hội tụ
đầy đủ hai mặt biểu đạt - được biểu đạt và khả năng hoạt động độc lập: 122
trường hợp.
Trong bài viết này,
chúng tôi phân tích hoạt động của “hoa” với tư cách thứ ba - là một thực từ với
sự hội tụ đầy đủ hai mặt biểu đạt - được biểu đạt và khả năng hoạt động độc
lập, trên cơ sở đó tìm hiểu khả năng liên tưởng nghĩa của từ “hoa” dưới góc độ
ngôn ngữ - văn hoá.
2. Khả năng liên tưởng
nghĩa của từ “hoa” trong “Truyện Kiều”
2.1. Các nghĩa của từ
“hoa” trong “Truyện Kiều” theo Đào Duy Anh
Theo Đào Duy Anh [1],
“hoa” có 5 nghĩa sau trong “Truyện Kiều”:
(1). Cái hoa, nghĩa đen
và nghĩa bóng, thường dùng để tỉ dụ người đẹp, sắc đẹp, tình yêu (146. Hai
Kiều e lệ nép vào dưới hoa).
(2). Cái hoa bị nhân
cách hoá (26. Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh).
(3). Tỉ dụ mặt người đẹp
(104. Lại càng ủ dột nét hoa).
(4). Vật hình dáng giống
cái hoa (3106. Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru)
(5). Tính từ chỉ vật gì
có hoa, có trang sức bằng hoa, hay có vẻ đẹp (171. Kiều từ trở gót trướnghoa).
Sự xếp nhóm các nghĩa
của từ “hoa” của Đào Duy Anh đã bao quát toàn bộ các trường hợp xuất hiện của
nó trong “Truyện Kiều”. Có thể thấy, từ “hoa” trong “Truyện Kiều” chủ yếu được
dùng với hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là cái hoa (dùng theo cả nghĩa đen và nghĩa
bóng, chiếm 74,3%) và nghĩa thứ năm là tính từ chỉ vật có hoa, có trang sức
bằng hoa, hay có vẻ đẹp (chiếm 20,8%). Tuy nhiên, do cách tiếp cận thiên về từ
vựng - ngữ nghĩa của một người làm từ điển, tác giả Đào Duy Anh chỉ nhấn mạnh
đến các ý nghĩa cơ bản được cố định hoá của từ “hoa”, những ý nghĩa giúp cho nó
có chỗ đứng trong hệ thống. Còn các tầng nghĩa biểu trưng, các sắc thái biểu
cảm cũng như sự lan toả ngữ nghĩa tinh tế - cái tạo nên linh hồn ngữ nghĩa của
từ “hoa”, lại chỉ được nhắc đến một cách sơ sài: “thường dùng để tỉ dụ người
đẹp, sắc đẹp, tình yêu” [1; 239]. Vì vậy, chúng tôi đặt ra cho mình
nhiệm vụ là: cần phải soi sáng đặc điểm ngữ nghĩa của từ “hoa” dưới một góc độ
khác, góc độ ngôn ngữ - văn hoá.
Trong phần này, chúng
tôi đi sâu vào khảo sát các biểu tượng ý nghĩa của “hoa” từ bình diện nghĩa
học. Năm 1976, Charles Fillmore đã đưa ra một hướng tiếp cận ngữ nghĩa của các
đơn vị từ vựng và cấu trúc ngữ pháp thông qua khung ngữ nghĩa (semantics
frame) [3]. Khung ngữ nghĩa là một loạt các điều kiện (checklist of conditions)
làm nền tảng cho việc hiểu và miêu tả ngữ nghĩa của một hình thức ngôn ngữ.
Theo ông, nghĩa của các từ được tổ chức trên nền tảng các khung ngữ nghĩa, và
thông qua cấu trúc ngôn ngữ được xây dựng xung quanh một từ, mà từ ấy sẽ chọn
và biểu diễn một số khía cạnh (aspects) hay mặt (facets) của khung ngữ nghĩa
đó. Mối quan hệ giữa một từ và một khung cũng tương tự như mối quan hệ giữa một
nền tảng (base) và hình bóng in trên nền đó (profile) (giống như phần bản phẳng
của miếng phù điêu trên đó nhô ra những chi tiết được chạm khắc), mà Ronald W.
Langacker đã đề cập đến. Ông cho rằng giá trị ngữ nghĩa chỉ có được trong sự
kết hợp của hai tham số trên [3].
Đối với “hoa”, dường như
cũng có một khung ngữ nghĩa xuất hiện. Khung ngữ nghĩa đa mặt (multi-faceted
frame) này là tập hợp của hai tiêu chí: tính chất và chức năng. Các
tiêu chí này sẽ tạo thành phần nền (base) của phù điêu, còn các ý nghĩa biểu
tượng tạo thành phần chạm khắc trên nền phù điêu đó. Như vậy, ý nghĩa biểu
tượng của “hoa” thoát thai từ một ngữ cảnh cụ thể, sẽ chọn và biểu thị một
trong hai tiêu chí trên của khung ngữ nghĩa.
Theo tiêu chí tính chất, ta có tương ứng với 4 tính chất nổi trội của
“hoa” là 4 ý nghĩa tượng trưng của “hoa”: Với tính chất là dấu hiệu của thực
vật đến kì sinh trưởng dồi dào, hoa trước hết là “hiện thân của sự sống”. Với
thuộc tính đẹp điển hình, hoa là biểu tượng của cái đẹp, của trạng thái “thiên
đường mặt đất”. Với tính chất không bền vững, mau nở, nhanh tàn, hoa trở thành
biểu tượng về “phút giây thoáng chốc”. Còn tính chất yếu đuối, phụ thuộc của
hoa lại là cơ sở trao cho hoa một ý nghĩa biểu tượng khác: hoa – “thực thể thụ
động”.
Theo tiêu chí chức năng, ta có một biểu tượng độc đáo: hoa – “bộ phận
cơ thể người phụ nữ”. Với hai chức năng chính của hoa, ta cũng có hai ý nghĩa
biểu tượng thú vị sau: hoa - bộ phận làm đẹp và bộ phận sinh dục của người phụ
nữ.
Sau đây, chúng tôi sẽ đi
sâu phân tích quá trình liên tưởng của từng ý nghĩa biểu trưng, một quá trình
vốn có nguồn gốc tâm lí trong đời sống xã hội và được ghi lại một cách tế nhị,
độc đáo trong ngôn ngữ.
2.2.1. Hoa – hiện thân
của sự sống
Sinh ra từ nước nguyên
thuỷ, hoa hé nở và mở rộng cánh từ từ, như toát lên một làn hương ngợi ca sự
sống mãi mãi thanh xuân. Nảy nở từ đất mẹ, đón sinh khí từ trời, hoa là hợp âm
hoàn chỉnh của Trời và Đất, là sự kết hợp dịu ngọt của Âm và Dương, và cũng là sự
thăng hoa dạt dào của nhựa sống. Do đó, trong biểu tượng văn hoá nhân
loại, hoa có thể được coi làhình mẫu phát triển, là biểu tượng của sự
sống.
Trong “Truyện Kiều”, hoa
gắn liền với mùa xuân, sắc xuân, sức xuân trong trẻo. Trong 122 trường hợp được
khảo sát, có tới 31 trường hợp quy chiếu của hoa là thiên nhiên (chiếm 25.4%).
Hoa thường làm nền cho những cuộc giao lưu thơ mộng, êm dịu:
Ngày xuân con én đưa
thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh rợn chân trời
42. Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh rợn chân trời
42. Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Ở đây, hoa đậu trên cành
lê thanh tú, hoa xuất hiện cùng cánh vỗ nhịp nhàng của đàn chim én, hoa hoà vào
nội cỏ mênh mông một màu tươi sáng. Bao trùm lên tất cả, lắng sâu vào tận bên
trong là một sức sống tươi trẻ, căng nhựa, đầy rạo rực. Trong “Truyện Kiều”,
hoa là hiện thân của sự sống, nhưng đó không phải là một mầm sống cô lập. Sự
sống của hoa còn toát lên từ sợi dây kết nối với các thực thể xung quanh, với
vạn vật rất đỗi quen thân.“Hoa” đi với “nước” (3 lần) (2931. Hoa trôi
nước chảy xuôi dòng), với “bèo” (2 lần) (219. Hoa trôi
bèo dạt đã đành), “lá” (2 lần), (361.Vội vàng lá rụng hoa rơi),
“gió” (2 lần) (1241. Đòi phen gió tựa hoa kề), “cây” (2
lần), v.v. trong những biến thể kết hợp cân xứng, hài hoà. “Hoa” đặt trong
trường liên tưởng đó lại càng được tôn thêm cảm thức thực vật ngập tràn sự
sống.
Hoa là tặng vật đẹp đẽ
mà đất trời ban tặng cho cây cối. Hoa nở trên đá, hoa nảy trên cát, hoa tựa hồ
như một thứ mật ngọt ngào chảy trên mọi miền đất hứa. Sắc màu đó, hương thơm
đó,thuộc tính đẹp đó đã mang lại cho hoa một ý nghĩa biểu
trưng dịu dàng: hoa tượng trưng cho cái đẹp, cái thanh cao của sắc đẹp, tình
yêu, tình nhân, của sự toàn hảo về tinh thần. Hay nói cách khác, hoa là hiện
thân của trạng thái thiên đường trên mặt đất.
2.2.2.1. Thiên đường mà “hoa” gợi nhắc trước hết
bao gồm những gì thanh cao nhất, đẹp đẽ nhất. Trong “Truyện Kiều”, hoa được sử
dụng 24/122 lần <chiếm 19.6%> như một tính từ để chỉ cái cao sang, quyền
quý. Những gì xung quanh Kiều đều nhuốm một màu hoa lệ: trướng hoa,
kiệu hoa, thềm hoa:
171. Kiều từ trở gót
trướng hoa
2145. Kiệu hoa đặt trước
thềm hoa
Hoa đan cài theo bước
chân, hoa nhỏ theo giọt lệ của người thục nữ:
634. Thềm hoa một
bước lệ hoa mấy hàng
Hoa thêu dệt nên lời thề
với người tình chung:
701. Thề hoa chưa
ráo chén vàng
Mỗi tiếng “hoa” gieo vào
câu thơ tựa hồ như một nốt nhạc vang vang xúc cảm. Mảnh hương nguyền còn đó,
phím tơ đàn còn đây, vậy mà lời thề kia đã xa lắm rồi. Một lời thề chưa được
đền đáp trọn vẹn! Đó là lời “thề hoa” bởi đằng sau nó là mối tình thiêng liêng,
là khát vọng hạnh phúc mãnh liệt.
2.2.2.2. Trong thiên đường màu nhiệm của cái đẹp
đó, có lẽ Nguyễn Du dành ưu ái nhất cho cái đẹp của người con gái, của tình
yêu.
“Người ta là hoa đất”,
hơn nữa, người con gái đẹp lại là bông hoa tinh tuý nhất, ngọt ngào nhất trong
vô số các loài hoa của tạo vật. Vì thế, hình ảnh được đem ra so sánh với hoa mà
ta bắt gặp nhiều nhất và cũng là ý nghĩa biểu trưng chủ yếu của từ “hoa” là
hình ảnh người phụ nữ đẹp. Trong 122 trường hợp được khảo sát có tới 49 trường
hợp từ “hoa” quy chiếu đến người con gái đẹp (chiếm 40,2%). Hoa không chỉ làm
nổi bật vẻ đẹp ngoại hình kiều diễm:
21. Hoa cười
ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
mà còn là một thứ “nước
rửa ảnh” làm sáng thêm trí tuệ sắc sảo và tâm hồn nồng nhiệt của người con gái
họ Vương:
497. Hoa hương
càng tỏ thức hồng
Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu
Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu
Thêm vào đó, hoa còn là
biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Trong “Truyện Kiều”, dưới nhiều hình thức khác
nhau, tình yêu kéo dài từ đầu đến cuối, chập trùng, đa sắc đa màu với những
khuôn mặt điển hình bất hủ, từ mối tình đầu e ấp, được dệt bởi mộng và thơ:
379. Cách hoa sẽ
dắng tiếng vàng
380. Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông
380. Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông
đến mối tình cuối được
chắp lại bởi tháng năm nhưng cũng không kém phần ý vị, đậm đà:
Tình nhân gặp lại tình
nhân
3144. Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình
3144. Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình
Chính biểu tượng tình
yêu đã thổi vào hoa cái thần, cái hồn để làm nên những câu thơ tuyệt tác:
Trước sau nào thấy bóng
người
2748. Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
2748. Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Hoa cứ đến mùa hoa nở.
Cứ có gió xuân là nó bước vào cuộc sống hội hè. Hoa cười là cái cử chỉ đẹp nhất
của loài hoa vì nó đang sống hết mình với người bạn xứng đôi – gió xuân. Nhưng
đáng thương thay, cái tươi tắn vô tình của hoa càng khơi gợi sự tàn héo của nỗi
người. Vết thương lòng từ sự va chạm trớ trêu này mà trở nên nhức nhối. Thời
gian quá khứ và hiện tại, không gian của ngày xưa và của hôm nay đã có bao đổi
thay khác biệt. Người xưa cũng đã vắng bóng. Duy nhất không có sự đổi thay là
tình yêu thuỷ chung, mãnh liệt của Kim Trọng.
2.2.2.3. Hoa thường được gán cho thiên tính nữ nên
người ta thường liên tưởng với người con gái đẹp. Nhưng cái tài tình của Nguyễn
Du là ở chỗ trong Truyện Kiều ta còn thấy đối tượng “hoa” ngầm chỉ không phải
thuộc phái đẹp, mà còn có thể thuộc phái “mày râu”:
Nàng rằng khoảng vắng
đêm trường
442. Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa
442. Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa
Thật bất ngờ đối với
người đọc và cơ chế liên tưởng ở đây dường đã đi ra ngoài khung liên tưởng
thông thường [10]. Có thể hình dung ra mô hình liên tưởng như sau:
Hoa → tình yêu, tình cảm
đẹp, cao quý → người yêu, đối tượng có tình cảm đẹp ấy → Kim Trọng, đối tượng
cụ thể.
Vì tình yêu nên phải
đánh đường tìm tình yêu
Vì tình yêu nên phải
đánh đường tìm người yêu
Vì tình yêu nên phải
đánh đường tìm Kim Trọng
Vì Kim Trọng nên phải
đánh đường tìm Kim Trọng
…
Tính chất nên thơ của
câu nói sinh ra từ sự trộn lẫn cố ý đối tượng: người yêu – Kim Trọng với khái
niệm trừu tượng bao trùm lên đối tượng: TÌNH YÊU. Trong khái niệm rộng lớn đó,
người yêu như một điểm nhỏ, nhưng sáng lấp lánh, qua đó phần nào hiểu được tình
yêu [10].
Hành động táo bạo của
Thuý Kiều chỉ có thể được thể hiện rõ nét qua một cơ chế liên tưởng đầy phá
cách. Với việc đặt những lượng nghĩa khác nhau vào cùng một vỏ ngữ âm của một
từ, người nghệ sĩ đã đưa người đọc đến những nhận thức cao hơn, phức tạp hơn, và
phải hoạt động cùng một lúc trên hai, ba trục liên tưởng mới hiểu được thơ.
Như vậy, thiên đường mà
hoa dệt nên có sắc đẹp toàn mãn, có tình yêu thanh khiết, có tất cả những gì
thanh quý nhất, trong sáng nhất. Hay nói cách khác, hoa là biểu tượng toàn hảo
của cái đẹp. Hoa hướng tới một thế giới đẹp đẽ, linh thiêng, một thế giới là
ước mơ, khát vọng muôn đời của nhân loại. Và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã
chạm được đến ước vọng muôn đời đó.
2.2.3. Hoa – phút giây
thoáng chốc
Một thuộc tính nổi bật
khác của hoa là tính không bền vững. Hoa mau nở và nhanh
tàn. Cho nên, hoa còn là biểu tượng cho tính phù du của cuộc đời cũng như đặc
tính thoảng qua của cái đẹp, cho những sáng tạo mong manh, ngắn ngủi, cho một
thế giới biểu hiện vô thường. Hay nói cách khác, hoa tự thân nó đã mang trong mình
ý nghĩa tượng trưng về phút giây thoáng chốc. Trong “Truyện
Kiều”, ý nghĩa tượng trưng này được thể hiện một cách tinh tế và sâu sắc.
Nếu dựa vào tiêu chí [+-
nhất thời] thì tất cả các vị từ kết hợp với từ “hoa” có thể được phân ra thành
hai loại: vị từ tính chất và vị từ trạng thái. Vị từ tính chất là vị từ chỉ
những thuộc tính cố hữu, tương đối ổn định của hoa như: trắng, hồng,
thắm, đoan trang, chung tình. Còn vị từ tình trạng lại chỉ những thuộc tính
nhất thời, không ổn định như: tàn, rơi, rụng, dầm dề, tan tác. Ta
thấy, thuộc tính gắn liền với hoa chủ yếu là những thuộc tính [+nhất thời]
(chiếm 89,8%), gấp hơn 8 lần những thuộc tính [- nhất thời].
Đi sâu vào từng loại vị
từ kết hợp với từ “hoa”, ta thấy xuất hiện với tần số tương đối cao là các vị từ
chỉ báo sự tan vỡ đột ngột, sự ngắn ngủi đầy xót xa: tàn (4
lần), rụng (3 lần), rơi (2 lần),rũ cánh,
lìa cành.
2585. Còn chi nữa, cánh hoa tàn
3035. Nàng rằng: chút
phận hoa rơi
678. Hoa dù
rũ cánh lá còn xanh cây
1325. Thiếp như hoa đã
lìa cành
Thêm vào đó, hoa trong
“Truyện Kiều” luôn gắn liền với nhịp thời gian gấp gáp, hối hả, khẩn trương.
Điều này thể hiện qua sự xuất hiện của một loạt trạng từ chỉ thời gian như: đâu
đã, vừa, mới, chưa, thôi đã kết hợp với vị từ như: vội, vội
vàng, giục giã:
701. Thề hoa chưa
ráo chén vàng
702. Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa
702. Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa
361. Vội vàng lá rụng hoa rơi
3033. Kiệu hoa giục
giã tức thì
Đằng sau mỗi chữ rơi,
rũ, lìa, tàn là một tiếng nấc thảng thốt, là cảm giác lo âu, phiêu
bạt. Nhịp điệu thời gian gấp khúc ấy hay chính là nhịp điệu của một cái gì
chông chênh, không bền vững. Phải chăng cái đẹp chỉ là chút phù du, thoảng qua
như một nghi ngờ?
Ý nghĩa tượng trưng này
của từ “hoa” trong “Truyện Kiều” cũng là ý nghĩa tượng trưng chung của “hoa”
trong văn hoá phương Đông. Ta không khỏi liên tưởng tới ý nghĩa của lẵng hoa
của Lam Thái Hoà, một trong tám vị bát tiên, người khoác một áo cánh xanh, tay
xách một lẵng hoa, để làm nổi bật sự tương phản giữa sự trường sinh bất tử của
riêng ông với cái chốc lát, cái phiêu du của đời người, của sắc đẹp và của
những lạc thú trần gian. Ta cũng không thể không nghĩ tới biểu tượng hoa anh
đào - sakura trong văn hoá Nhật Bản. Hoa anh đào vốn nở đồng loạt, nở rộ thành
từng chùm, từng mảng nhưng khi đạt đến độ viên mãn nhất, hoa bắt đầu rụng xuống
theo những ngọn gió xuân bất chợt. Rụng xuống một cách buồn bã và hùng hồn, hệt
như một bản tình ca buồn. Rực rỡ, ngời sáng nhưng chỉ thoáng qua như một ánh
sao băng rồi vụt tắt, về mặt này sakura trở thành biểu tượng của cái đẹp mong
manh, hư ảo. Ta thấy thấp thoáng trong ý nghĩa biểu tượng này của “hoa” một
chút sắc màu của đạo Lão, đạo Phật vốn coi cuộc đời chỉ là phù du, như bóng câu
qua cửa sổ. Có thể nói biểu tượng này của “hoa” trong “Truyện Kiều” mang đậm
phong cách Á Đông cổ điển.
2.2.4. Hoa - thực thể
thụ động
Nói đến hoa, người ta
không thể không nói đến tính chất yếu đuối, phụ thuộc. Vòng
đời của hoa phụ thuộc vào hơi thở của đất trời. Hoa nở bởi gió và cũng dễ dàng
bị gió cuốn đi. Hoa không thể sinh sôi, nảy nở nếu không được tiếp nhận những
tác động của mưa, nắng và hơi sương. Do đó, một ý nghĩa tượng trưng cũng không
kém phần tiêu biểu của hoa là: hoa là biểu tượng của thực thể thụ
động.
Trong “Truyện Kiều”, hoa
xuất hiện với ý nghĩa là thực thể thụ động theo một tỉ lệ tương đối cao. Nếu
xét về chức vụ cú pháp trong câu, ta thấy hoa chủ yếu đóng vai trò là tân ngữ
(chiếm 48,3%). Còn nếu xét các vai nghĩa mà từ “hoa” biểu thị, ta cũng thấy
chiếm tỉ lệ cao nhất là vai bị thể (42/122 trường hợp, chiếm 34.4%). Khảo sát
các từ chỉ không gian bao bọc xung quanh từ “hoa”, ta càng thấy rõ hơn ý nghĩa
biểu tượng này của “hoa” trong “Truyện Kiều”. “Hoa” được đặt giữa hai mã không
gian tưởng chừng như đối lập nhau: không gian nhỏ hẹp và không gian vũ
trụ.
Khi xét “hoa” ở bối cảnh
gần nhất, ta bắt gặp một loạt từ chỉ không gian nhỏ hẹp: tường, ngõ,
đất, vườn, thuyền lái buôn, v.v.:
1355. Sá chi liễu ngõ hoa tường
820. Cành hoa đem
bán vào thuyền lái buôn
Không gian dành cho hoa
không phải là lầu son gác tía, cũng không phải nhung gấm lụa là – là những
không gian xứng tầm với hoa. Hoa ở đây lại là hoa tường, hoa đất, hoa ngõ, như
một thứ “hoa thải hương thừa”, và còn đau đớn hơn, hoa bị “đem bán vào thuyền
lái buôn”. Chính cái không gian sở hữu cái đẹp lại là nơi vùi dập cái đẹp.
Và khi phóng ra bối cảnh
rộng hơn, ta thấy rợn ngợp một không gian vũ trụ, một cảm thức lưu lạc đậm đặc: “sóng
vỗ giữa dòng”, “ngọn nước mới sa”, “hoa trôi nước chảy”:
2931. Hoa trôi
nước chảy xuôi dòng
Xót thân chìm nổi đau lòng hợp tan
Xót thân chìm nổi đau lòng hợp tan
Buồn trông ngọn nước mới
sa
1050. Hoa trôi man mác biết là về đâu?
1050. Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Trong không gian lưu lạc
đó, mọi mối liên hệ dường bị đứt tung, “hoa” trở nên lênh đênh, vô định, trôi
dạt, lơ lửng. “Hoa trôi bèo dạt” theo Trần Đình Sử là một “mẫu gốc” kết đọng
trong tâm hồn người phương Đông [8; 145] về một không gian bất ổn, phấp phỏng,
đầy dự cảm. Như vậy, bao bọc quanh “hoa” là hai mã không gian tưởng như trái
chiều: một không gian nhỏ bé, khiêm nhường và một không gian bao la, rợn ngợp;
nhưng thực chất lại là sự quyện hoà rất biện chứng. Cái không gian nhỏ hẹp,
khiêm nhường như “ngõ, tường” kia chẳng phải là bằng chứng không lời nói lên
thân phận bèo bọt, đáng thương của “hoa” hay sao? Nhưng đau đớn thay chính cái
thân phận mong manh ấy lại luôn bị xô đẩy trong vòng định mệnh tan hợp, hợp
tan, đầy biến động. Không gian thân phận đặt cạnh không gian số mệnh - một sự
đối lập đầy xót xa. Bao trùm lên cả hai mã không gian đó là một không gian nội
cảm với những mẫu gốc có ý nghĩa nhân sinh phổ quát.
Nếu như trong các phần
trước, khung ngữ nghĩa của từ “hoa” chủ yếu quay xung quanh tiêu chí tính chất
của “hoa” thì đến phần này, chúng tôi nhấn mạnh đến một tiêu chí khác cũng
tương đối đặc trưng, tiêu chí chức năng. Hoa có hai chức năng nổi bật: chức
năng làm đẹp vàchức năng là cơ quan sinh sản của
cây. Trong trường hợp này, khả năng lan toả ngữ nghĩa của hoa đi từ cái hoa tự
nhiên đến bộ phận cơ thể của người phụ nữ. Tương ứng với hai
chức năng trên của hoa, ta cũng có hai ý nghĩa biểu trưng tương đối độc đáo:
hoa tượng trưng cho bộ phận làm đẹp và bộ phận sinh dục của người phụ nữ. Dưới
đây, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích khả năng lan toả ngữ nghĩa của “hoa” của mỗi
trường hợp.
Một ý nghĩa biểu trưng
khá thú vị của “hoa” trong “Truyện Kiều” là: hoa tương ứng với bộ phận làm đẹp
của nữ giới. Hoa là miệng xinh:
21. Hoa cười
ngọc thốt đoan trang
Hoa là mặt đẹp:
104. Lại càng ủ dột nét hoa
Sở dĩ ta có thể rút ra
được ý nghĩa biểu tượng trên là do sự tương tác về hình thức và ngữ nghĩa của
các từ kết hợp với “hoa”. “Hoa” + “cười” - vốn là vị từ điển hình để chỉ miệng
(miệng cười), “hoa” + “nét” – cũng là một từ tiêu biểu để chỉ mặt (nét
mặt). Sự tương tác giữa “hoa” với các từ xung quanh đã đẩy ngữ nghĩa của từ
“hoa” đi từ trường thiên nhiên sang trường bộ phận con người.
Thêm vào đó, trong
“Truyện Kiều”, hoa còn tượng trưng cho bộ phận sinh dục của người phụ nữ. Là sự
sống xuất hiện trên khoảng mênh mông của vùng nước khởi nguyên, kết hợp với mùi
hương nồng nàn mà dịu ngọt, hoa tự thân đã có tính thái âm và nữ tính. Ý nghĩa
tượng trưng này đã được Nguyễn Du cảm nhận thực là sâu sắc:
845. Tiếc thay một đoá trà
mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về
Con ong đã tỏ đường đi lối về
Trà mi là loại hoa nở
vào cuối xuân đầu hạ, nó đẹp bởi sự tinh khiết thuần tuý. Trà mi thường được sử
dụng trong văn thơ để tỉ dụ người con gái đẹp, nhưng để chỉ âm hộ của người phụ
nữ thì ít ai như Nguyễn Du. Ẩn dụ hoa trà mi trong câu thơ Kiều khiến ta liên
tưởng đến ý nghĩa biểu tượng của hoa sen trong văn hoá phương Đông và hoa huệ
tây trong văn hoá phương Tây. Hoa huệ là loài hoa của thần Vệ nữ và do cái nhị,
cái “dáng thẹn”, nó là một biểu tượng của sự sinh sản. Theo Jean Chevalier và
Alain Gheerbranr [6; 459], đó là lí do đã khiến các vị vua nước Pháp lấy hoa
huệ làm biểu tượng của giống nòi phồn thịnh.
Còn hoa sen, có thể nói
“là thứ hoa nhất hạng, nở ở những vùng nước thường tù đọng và bẩn đục, bông sen
toàn mĩ một cách dâm dãng” [6; 810]. Trong tranh hình Ai Cập, hoa sen xuất hiện
trên khoảng mênh mông không rõ sắc màu của những vùng nước nguyên thuỷ, nó xuất
hiện trước tất cả, sau đó tạo hoá và vầng thái dương mới loé ra từ trái tim
rộng mở của nó. Như vậy, hoa sen trước hết là “bộ phận sinh dục, là âm hộ mẫu
gốc, bảo đảm cho các cuộc sinh thành và tái sinh truyền lưu mãi mãi” [6;
810].Trong văn hoá Ấn Độ và Trung Hoa, tầm quan trọng về ý nghĩa biểu tượng của
hoa sen, về mặt trần tục cũng như về mặt linh thiêng đều bắt nguồn từ hình ảnh
cơ bản này.
Từ sự liên tưởng hoa trà
mi với âm hộ của người phụ nữ, Nguyễn Du đã chạm tới một mẫu gốc thiêng liêng
trong văn hoá nhân loại. Đồng thời, với sự gán ghép phạm trù tự nhiên sang phạm
trù con người, phải chăng Nguyễn Du đã cố ý trộn lẫn các đối tượng: hoa - miệng
- mặt – âm hộ. Vẻ đẹp thiên nhiên tựa như thứ nhạc nền để một hoà tấu cất lên,
để ấn tượng về cái đẹp nhân bản trở thành viên mãn. Những trường hợp hoa mang ý
nghĩa biểu tượng này tuy không nhiều nhưng thực sự có giá trị, vì nó là cái
riêng, cái dấu ấn độc đáo của thiên tài Nguyễn Du.
Như vậy, khả năng lan
toả ngữ nghĩa của từ “hoa” xuất phát từ tâm là cái hoa tự nhiên, sau đó lan ra
năm ý nghĩa biểu tượng theo những tiêu chí khác nhau. Ta có thể sơ đồ hoá quá
trình lan toả ngữ nghĩa đó theo mô hình bông hoa năm cánh dưới đây:
Đi vào câu thơ Kiều,
“hoa” không chỉ là cái hoa tự nhiên, mà còn lấp lánh những ý nghĩa biểu tượng
và thấm đượm những tầng nghĩa văn hoá sâu xa. Hoa vốn đi vào tâm thức người
Việt nói riêng và nhân loại nói chung như một biểu tượng bất tử về tình yêu,
tuổi trẻ, về cái đẹp, cái thanh cao. Nhưng vẫn bông hoa ấy, trong câu thơ Kiều,
nó như được tưới thêm màu, được tắm thêm hương để bung nở viên mãn, tròn đầy
những ý nghĩa biểu tượng sâu xa, ý vị. Như vậy là từ cách nhận thức ngữ nghĩa
truyền thống của từ “hoa” qua “Từ điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh, chúng ta
còn có cở sở để nhận thức thêm những tầng nghĩa hàm ẩn, những lớp nghĩa lan toả
đầy thú vị của “hoa” dưới góc độ ngôn ngữ - văn hoá.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1.
Đào
Duy Anh. Từ điển
“Truyện Kiều”. Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000.
2. Trần
Trí Dõi. Ngôn ngữ và sự
phát triển văn hoá xã hội. Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, 2001.
3.
Đinh
Lư Giang. Vài nhận xét về quá trình sản sinh
ngữ nghĩa qua khảo sát khái niệm “đầu” trong tiếng Việt.
4.
Hà
Huy Giáp, Nguyễn Thạch Giang. Truyện Kiều của Nguyễn Du. Nxb Văn hoá – Thông tin,
Hà Nội, 2005.
5.
Cao
Xuân Hạo. Tiếng Việt,
văn Việt, người Việt. Nxb Trẻ, Hà Nội, 2003.
6.
Jean
Chevalier, Alain Gheerbrant. Từ
điển biểu tượng văn hoá thế giới. Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, 1997.
7.
John
Lyons. Ngữ nghĩa học
dẫn luận. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2006.
8.
Trần
Đình Sử. Thi pháp
Truyện Kiều. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.
9.
Lê
Quang Thiêm. Về khuynh
hướng ngữ nghĩa học tri nhận. Tạp chí Ngôn ngữ số 11 – 2006, tr. 6 – 19.
10. Nguyễn
Thu Thuỷ. Tìm hiểu điệp
từ trong Truyện Kiều. Luận văn tốt nghiệp, Khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại
học Tổng hợp, Hà Nội, 1978.
11. Nguyễn
Đức Tồn. Tìm hiểu các
đặc trưng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy người Việt (trong sự đối
chiếu với các dân tộc khác). Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002.
TIẾNG ANH
1. David
Lee. Cognitive
Linguistics: An Introduction. Oxford University Press, 2001.
2.
George
Lakoff. The Contemporary
Theory of Metaphor.
3.
J.
E. Cirlot. A dictionary
of symbols. Dorset Press, New York, 1991.
[1] Tạp
chí Ngôn ngữ, số 11/2007
Phan Thị Huyền Trang
Nguồn Tạp chí Ngôn ngữ, số 11/2007
Nguồn Tạp chí Ngôn ngữ, số 11/2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét